Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017
CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/e (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)
Vũ khí cổ đại P5
Võ thuật Trung Quốc - 18 loại binh khí lạnh thời cổ đại
Vũ khí hủy diệt hàng loạt thời cổ đại
So sánh giữa vũ khí hủy diệt trong sử thi Ấn Độ (India) và vũ khí hạt
nhân hiện đại, người ta phát hiện nhiều nét tương đồng. Liệu các loại vĩ
khí này có phải chỉ là trí tưởng tượng phong phú của người cổ đại
không?
Sử thi Mahabharata (1000 - 500 Trước Công Nguyên) là tác phẩm sử thi
lớn nhất của Ấn Ðộ, tập trung vào các cuộc xung đột quân sự, lý thuyết
chiến tranh, và vũ khí huyền bí. Nó giải quyết mâu thuẫn và xung đột
bằng cách sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Chiến tranh hạt nhân thời cổ đại
Nếu nhìn vào Mahabharata, ta bắt gặp những câu như sau:
“Gurkha, bay nhanh và mạnh, ném một viên đạn duy nhất với quyền năng vũ trụ.
Cột lửa khói dựng, sáng như vạn mặt trời, vút lên với tất cả sự lộng lẫy.
Một tiếng sấm gầm, đốt toàn bộ cuộc chiến giữa Vrishnis và Andhakas thành tro bụi.
Xác chết bị cháy đến mức không thể nhận dạng.
Tóc và móng tay rời ra, gốm vỡ tan, những con chim trắng bệch…
Sau một vài giờ, tất cả lương thực bị nhiễm độc…
Ðể thoát khỏi ngọn lửa, người lính ném mình vào lòng suối, kỳ cọ thân thể và vũ khí”.
Nếu loại vũ khí hủy diệt này có thật, chúng ta không phải là thế hệ tiên tiến nhất.
Bạn vẫn còn nghi ngờ? Hãy đi sâu vào cuộc chiến tranh hạt nhân cổ đại này:
“Ðó là một vũ khí mạnh mẽ. Nó có thể phá hủy trái đất ngay lập tức.
Một âm thanh kinh hoàng bùng nổ trong khói và lửa. Nó gieo rắc cái chết…”
(Sử thi Ramayana)
“Những tia lửa dày đặc tỏa ra như một vòi sen lớn, bắn khắp nơi, bao trùm kẻ thù…
Bóng tối u ám nhanh chóng giải quyết đội quân của Pandava.
Phương hướng của la bàn hỗn loạn trong bóng tối.
Gió khốc liệt thổi, tắm không gian trong bụi đất và sỏi đá.
Con chim cất giọng khàn điên cuồng… mọi thứ bị xáo trộn.
Mặt đất rung chuyển, bị đốt cháy bởi nhiệt độ tàn khốc của loại vũ khí này.
Những con voi bốc cháy, điên cuồng chạy tán loạn …
Trên một diện tích rộng lớn, động vật vỡ nát trên mặt đất và chết.
Các mũi tên lửa rơi xuống như mưa, liên tục và quyết liệt.”
(Sử thi Mahabharata)
“Khi ngày mai đến, Samva tạo ra tia sét, thiêu đốt toàn bộ con người trong chuộc chiến của Vrishnis và Andhakas thành tro bụi... Thực tế được báo cáo cho nhà vua. Ðau đớn bởi hậu quả khôn lường, hoàng đế nghiền sắt thành bột mịn, rải xuống biển.”
(Sử thi Mahabharata)
Chiến tranh hạt nhân thời cổ đại
Nếu nhìn vào Mahabharata, ta bắt gặp những câu như sau:
“Gurkha, bay nhanh và mạnh, ném một viên đạn duy nhất với quyền năng vũ trụ.
Cột lửa khói dựng, sáng như vạn mặt trời, vút lên với tất cả sự lộng lẫy.
Một tiếng sấm gầm, đốt toàn bộ cuộc chiến giữa Vrishnis và Andhakas thành tro bụi.
Xác chết bị cháy đến mức không thể nhận dạng.
Tóc và móng tay rời ra, gốm vỡ tan, những con chim trắng bệch…
Sau một vài giờ, tất cả lương thực bị nhiễm độc…
Ðể thoát khỏi ngọn lửa, người lính ném mình vào lòng suối, kỳ cọ thân thể và vũ khí”.
Nếu loại vũ khí hủy diệt này có thật, chúng ta không phải là thế hệ tiên tiến nhất.
Bạn vẫn còn nghi ngờ? Hãy đi sâu vào cuộc chiến tranh hạt nhân cổ đại này:
“Ðó là một vũ khí mạnh mẽ. Nó có thể phá hủy trái đất ngay lập tức.
Một âm thanh kinh hoàng bùng nổ trong khói và lửa. Nó gieo rắc cái chết…”
(Sử thi Ramayana)
“Những tia lửa dày đặc tỏa ra như một vòi sen lớn, bắn khắp nơi, bao trùm kẻ thù…
Bóng tối u ám nhanh chóng giải quyết đội quân của Pandava.
Phương hướng của la bàn hỗn loạn trong bóng tối.
Gió khốc liệt thổi, tắm không gian trong bụi đất và sỏi đá.
Con chim cất giọng khàn điên cuồng… mọi thứ bị xáo trộn.
Mặt đất rung chuyển, bị đốt cháy bởi nhiệt độ tàn khốc của loại vũ khí này.
Những con voi bốc cháy, điên cuồng chạy tán loạn …
Trên một diện tích rộng lớn, động vật vỡ nát trên mặt đất và chết.
Các mũi tên lửa rơi xuống như mưa, liên tục và quyết liệt.”
(Sử thi Mahabharata)
“Khi ngày mai đến, Samva tạo ra tia sét, thiêu đốt toàn bộ con người trong chuộc chiến của Vrishnis và Andhakas thành tro bụi... Thực tế được báo cáo cho nhà vua. Ðau đớn bởi hậu quả khôn lường, hoàng đế nghiền sắt thành bột mịn, rải xuống biển.”
(Sử thi Mahabharata)
Mahabharata
Rải bột sắt xuống biển là cách thức tốt nhất. Nước là lá chắn hiệu quả đối với bức xạ hạt nhân. Phần ba của sử thi Mahabharata cũng đề cập đến việc Vrishnis (hậu duệ của Yadu, con trai của Yayati) chọn chỗ ở gần biển. Ðiều này liệu có liên quan gì đó đến chuyện tránh bức xạ hạt nhân?
“Hỏa hoạn, ngọn lửa nghiêng về bên trái. Ðôi khi, chúng lóe lên tia lửa huy hoàng màu xanh và màu đỏ. Bầu trời dường như bị bao phủ bởi một thân hình người không đầu. Trong nhà bếp, thực phẩm lúc nhúc vô số các loại sâu bọ.”
(Sử thi Mahabharata)
Có thể, những câu văn này ám chỉ việc thực phẩm bị nhiễm độc.
Từ những phát hiện trên, thật khó để không nghi ngờ cuộc chiến trong Mahabharata là chiến tranh hạt nhân. Phải chăng, từ xa xưa, người Ấn Ðộ đã biết đến sự tồn tại của nguyên tử và năng lượng nguyên tử?
Nỗi lo sợ ám ảnh lịch sử
Luôn có một nỗi sợ hãi khủng khiếp trong quá khứ xa xôi. Các đế quốc, cả các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đây, có chung một nỗi lo sợ. Họ sợ nền văn hóa của mình sẽ bị xóa sổ hoàn toàn vì một loại vũ khí thần thánh nào đấy.
Sử thi của Ấn Ðộ vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên, toàn bộ hồ sơ lịch sử của Nam Mỹ đã biến mất. Sợ hãi và các yếu tố khác xóa bỏ gần như tất cả lịch sử của con người 5.000 năm trước.
Nhìn rộng hơn vào kiến thức cổ đại, chúng ta có những phát hiện không ngờ. Trong văn bản cổ Agastrya Samhita của Ấn Ðộ, có hướng dẫn chế tạo pin điện chính xác. Theo truyền thuyết của Ý (Italia), Saint Benedict (448 - 548 Sau Công Nguyên, một vị thánh Cơ Ðốc Giáo (Khristos) nâng được một tảng đá nặng bảy người không khiêng nổi nhờ lực hấp dẫn.
Hoàng đế Thành Thang, Nhà Thương, Trung Quốc (lên ngôi năm 1766 Trước Công nguyên), từng ra lệnh chế tạo một cỗ xe bay và gặt hái thành công (?). Tuy nhiên, cỗ xe bay này bị phá hủy bởi sắc lệnh của triều đình. Nghe nói Vua Thành Thang sợ bí mật chế tạo có thể rơi vào tay kẻ xấu.
Thần Krishna và vũ khí hủy diệt hàng loạt Cakra
Arjuna
Thần Krishna trong Mahabharata được gọi là Ðấng Toàn Năng.
“Krish” có nghĩa là “vị trí” và “Na” có nghĩa là “cao” hoặc là “cao
nhất”. Thần Krishna ngự trên hành tinh thứ 20, Krishnaloka. Ông là người
có vị trí cao nhất trong các vị thần.Krishna dạy cho Arjuna nghệ thuật tự vệ và cách an định tinh thần (Yoga). Tuy nhiên, ở đây, chúng ta không bàn về mối quan hệ giữa các vị thần và con người. Cái được chú ý là vũ khí hủy diệt mà Thần Krishna trao cho Arjuna, Cakra (còn có tên khác là Sudal Sana). Nó là sức mạnh đảm bảo chân lý được thực thi.
Cakra có tính năng phá hoại mạnh nhất. Khi nó phát nổ sẽ tạo ra một cột sáng cực nóng, đốt cháy cả bầu trời.
Trong lúc chiến tranh hỗn loạn, một anh em họ của Arjuna khởi động vũ khí hủy diệt có tên gọi là Barma Satara. Nó được cho là loại vũ khí có năng lượng cực mạnh.
Làm thế nào anh em họ của Arjuna khởi động Barma Satara? Sử thi không ghi lại. Còn Arjuna cần phải có sự đồng ý và hướng dẫn của Thần Krishna mới có thể khởi động Cakra.
Sự phát nổ của Barma Satara tạo ra lớp lớp các tia lửa nóng trên bầu trời. Arjuna phải cầu xin Thần Krishna cho phép bảo vệ Trái Ðất khỏi sức nóng khổng lồ. Dưới sự hướng dẫn của Thần Krishna, Arjuna làm chệch hướng làn sóng nhiệt lên trời. Làn sóng nhiệt khổng lồ tản rộng trong bán kính hàng chục km và cao mười dặm.
Các cấp độ của Cakra
Theo Thần Krishna, Cakra được chia thành ba cấp độ.
Cấp cao nhất là Sudal Sana, chưa từng được sử dụng. Nó là vũ khí bí mật độc quyền của Thần Krishna, có khả năng phá hủy hàng chục hành tinh một lúc.
Cấp thứ hai là Barma Satara. Nó được chia thành bảy cấp khác nhau. Barma Satara được sử dụng trong chiến tranh thành Kuruthesa là Barma Satara cấp năm.
Mức độ phá hoại của bốn cấp đầu không được nhắc tới.
Barma Satara cấp sáu tương đương với sự tàn phá của bom nguyên tử Mỹ ném xuống Hiroshima, Nhật Bản.
Barma Satara cấp bảy được sử dụng với mục đích bảo vệ, rắc thuốc lên toàn thế giới.
Cấp thứ ba của Cakra được chia thành 11 mức khác nhau.
Kinh thánh tiếng Phạn (tiếng Ấn Ðộ cổ) đề cập nhiều đến việc các vị thần sử dụng vũ khí có sức mạnh hủy diệt tương tự như năng lượng hạt nhân. Tuy nhiên, chúng không được sử dụng như các vật liệu trần thế. Lợi thế của các loại vũ khí thần thánh này là nguồn năng lượng cực lớn. Nó được các thần sử dụng để kiểm soát, điều khiển nhân loại.
Người Ấn Ðộ cổ đại tin sấm sét là một phần nhỏ của Barma Satara, có thể xua đuổi ma quỷ và ngăn chặn mưa.
Thần chú Chakra
Ngoài Cakra, chúng ta nên quan tâm đến một vũ khí khác có sức mạnh tương đương trong Mahabharata. Ðó là Chakra.
Chakra là cách tấn công được kích hoạt thông qua thần chú, chỉ có thể phát huy công dụng nhờ vào thần chú.
Tiến trình bùng phát năng lượng hạt nhân cổ đại bằng thần chú được miêu tả như sau. Thứ nhất, đọc thần chú. Thứ hai, các thành phần của trái đất bị thay đổi, sóng nhiệt và tia sáng khổng lồ bắn vào không khí. Thứ ba, đám mây quang và nhiệt tập trung, hình thành một lớp dày trên bầu khí quyển của trái đất. Thứ tư, tia lửa tỏa ra từ đám mây quang, đâm vào trái đất, dẫn đến sự hủy diệt lớn. Thứ năm, tia lử kết hợp với gió và không khí, tạo ra đám cháy khổng lồ.
Thần chú Chakra phản công đuợc chia làm ba giai đoạn. Thứ nhất, đọc phần chú. Thứ hai, các tia lửa bị chặn lại giữa không trung. Cuối cùng, tia lửa và nhiệt tan biến hết.
Trong Mahabharata, Arjuna sử dụng thần chú Chakra để ngăn chặn tia lửa và làn sóng nhiệt thâm nhập vào Trái Ðất.
Blog.world-mysteries.com/TPO
Những vũ khí gây ám ảnh nhất của giới Ninja huyền thoại
Nếu là fan bự của Naruto thì chắc chắn bạn đã từng ít nhất nhìn thấy chúng 1 lần.
Ninja là một trong những biểu tượng văn hóa, lịch sử của đất nước Mặt Trời mọc. Trong lịch sử, Ninja chính là những sát thủ làm việc cho các lãnh chúa với lòng trung thành tuyệt đối.
Xuất hiện tại Nhật Bản
dưới triều hoàng đế Heian (794-1185), đây là thời kỳ chiến tranh dữ dội
của các lãnh chúa Nhật, do đó cần có một lực lượng trung thành để bảo
vệ và ám sát kẻ thù,
Với lịch sử tồn tại hàng trăm năm, dưới thời triều đại dòng họ Ashikaga (1333-1568), Ninja phát triển cực thịnh. Với trang phục đặc trưng màu đen, bịt mặt… cùng những kỹ năng “xuất quỷ nhập thần”, Ninja càng trở nên bí ẩn và đáng sợ.
Sự đáng sợ ấy còn xuất phát từ những vũ khí
siêu lợi hại khiến kẻ thù bị ám ảnh, hãy cùng điểm qua những vũ khí sát
thương trong hơn 200 loại vũ khí đáng sợ nhất mà các Ninja đã sử dụng:
1. Manriki Gusari
Manriki Gusari là một sợi xích vạn năng thay cho gươm do tổ sư Masaki, khi còn làm đội trưởng ngự lâm quân, phát minh ra.
Với chiều dài khoảng 70cm – 90cm và hai đầu
có vật nặng, kích thước nhỏ nên đây là vũ khí ưa thích luôn được mang
trong người của các Ninja vì dễ giấu.
Sự vạn năng của sợi xích là nó có thể thay
gươm, roi, bắt người đang chạy bằng cách quăng vào chân, thít cổ, khóa
tay chân… với độ sát thương rất cao mà lại vô cùng linh hoạt.
2. Kama (Liêm)
Đây là loại vũ khí ra đời từ chính hoàn
cảnh lịch sử thống trị hà khắc của chính quyền Nhật, khi cấm ngặt vũ khí
hòng dập tắt ý đồ phản kháng của nhân dân, họ không ngờ rằng chính
liềm, công cụ lao động của người dân để có thóc lúa giao nộp lại thành 1
vũ khí đáng sợ.
Kama tạo nên cánh tay dài nguy hiểm
khi tấn công, với lưỡi sắc nhọn và sử dụng đa dạng, những đòn tấn công
của Kama thiên biến vạn hóa làm đối thủ không biết đâu mà lường.
Không chỉ dùng để tấn công hay phòng thủ,
Kama còn như là một cái móc để phóng lên vị trí cao như hàng rào, tường
thành rồi đu lên để đột nhập.
3. Neko – te
Đây là vũ khí chủ yếu của các Ninja nữ, khi
sử dụng chính móng tay để giết kẻ thù. Vũ khí này giống như một cái bao
tay với các móng kim loại nhọn để có thể đeo vào tay làm vũ khí.
Trong tiếng Nhật, neko nghĩa là “con mèo”,
còn “te” là “bàn tay”. Nó giống như móng vuốt của loài mèo có thể thu
phóng tự nhiên. Vì tính gọn nhẹ, dễ cất giấu nên đây là vũ khí ưa thích
của các Ninja nữ.
4. Kakute
Có hình dáng như một chiếc nhẫn, gắn với 3
đỉnh nhọn, kakute được đeo ở ngón cái và giữa hay trỏ, điều đáng sợ của
nó là sự gọn nhẹ và sát thương nguy hiểm vì có thể tẩm độc.
Đối thủ sẽ bị bất ngờ vì bị tấn công bằng
loại vũ khí không ngờ này, chúng còn có thể giúp các Ninja đeo bám trên
tường, khống chế kẻ thù ở khoảng cách gần hay tấn công bằng những cú tạt
chết người.
5. Kusari-gama
Khá giống kama, đây cũng là vũ khí xuất
phát từ nông cụ, một đầu là lưỡi hái để cắt cỏ được nối với một quả chùy
bằng một đoạn dây xích sắt.
Vũ khí này thường được dùng để tấn công đối thủ bằng cách quăng ném vào phần đầu, mặt, ống chân và cổ tay của đối thủ.
Không những thế chúng còn vô hiệu hóa đối
thủ bằng cách quấn chặt cơ thể kẻ thù, nhược điểm của nó là thời gian
thu hồi rất lâu nên nếu cú ném đầu tiên mà đối thủ tránh được, Ninja sẽ
rơi vào bất lợi và có thể bị nguy hiểm.
Do đó sử dụng vũ khí này phải có tâm lý “nhất kích tất sát” (Giết kẻ thù chỉ trong một lần).
6. Shuriken và Kunai
Shuriken và Kunai là vũ khí giúp các Ninja
tấn công từ khoảng cách xa bằng cách ném, do đó Ninja phải luyện tập độ
chính xác và lực ném bằng kỹ thuật phóng điêu luyện.
Về hình dạng, Shuriken có hình tròn có
ngạnh hoặc hình đa giác nhọn, còn Kunai có dạng thẳng như dao. Đây cũng
là vũ khí phổ biến trong giới Ninja vì sự gọn nhẹ, bất ngờ và tính sát
thương hiệu quả của chúng.
Theo Ttvn
Tại sao kiếm lại lợi hại hơn cả đao lẫn thương?
Kiếm là thứ vũ khí từng được vô số cao thủ giang hồ sử dụng và nó cũng được mệnh danh là vua của mọi loại binh khí. Vậy vì sao kiếm lại có vị trí cao như thế?
Kiếm là một loại vũ khí được rèn từ kim loại tốt như sắt, thép, hợp kim. Nó được mài cho sắc bén dùng để đâm, chém. Kiếm được sử dụng trong nhiều cuộc chiến trên khắp thế giới từ thời thượng cổ cho tới thế chiến II.
Đao là binh khí có cán bằng gỗ cứng (hoặc kim loại), lưỡi đao càng về phía trước càng to bản, được vát hơi cong dần về phía mũi. Còn thương là vũ khí dài, cán làm bằng gỗ cứng, ở đầu có mũi kim loại hình thoi nhọn.
Đao và thương đều hữu ích trong chiến đấu. Nhưng hai thứ vũ khí này thường dài, nặng và cồng kềnh, rất kén người dùng. Và nếu so sánh với kiếm thì chúng ta có thể kết luận: “kiếm là thứ vũ khí lợi hại hơn cả”.
Trong các trận chiến, người chiến binh dù võ công cao cường đến đâu mà không có vũ khí hữu dụng bên mình thì khó có thể đánh bại được kẻ thù.
Ngược lại, khi có 1 thanh kiếm bên người, họ có thể dễ dàng tận dụng các mũi nhọn và lưỡi kiếm một cách hiệu quả.
Đao và thương thì khác, với ngoại hình cồng kềnh rất kén người sử dụng nên trong các trận chiến hiệu quả không được bằng kiếm.
Khi tham chiến, với một kiếm sĩ mạnh, cuộc chiến diễn ra một cách nhanh chóng và để lại cho nạn nhân những vết thương chí mạng. Kẻ thua cuộc có khả năng “ra đi” rất cao bởi các vết thương sâu hoắm gây mất máu nghiêm trọng.
Nếu có dịp xem các phim hoặc hình ảnh liên quan tới Samurai, chúng ta không thể quên loại vũ khí luôn được các võ sĩ mang theo bên mình.
Đó là thanh kiếm Katana – vũ khí nổi bật nhất của các Samurai với hình dáng cong và chiều dài ít nhất 60 cm, là loại kiếm chỉ có một lưỡi cực kỳ sắc bén.
Katana sắc đến nỗi có thể cắt đôi một người thành 2 nửa chỉ với một nhát kiếm duy nhất và đối với thanh kiếm này thì “sắt với bùn… cũng như nhau”.
Điển hình là kiếm sĩ Miyamoto Musashi có khả năng sử dụng song kiếm (mỗi tay một thanh kiếm, sử dụng cả hai đồng thời và liên tục).
Ông được đánh giá là “đệ nhất kiếm sĩ trong thiên hạ” của Nhật Bản thời tiền Tokugawa. Ông trải qua cuộc đời của một kiếm sĩ samurai mà chưa từng thất bại trước bất cứ đối thủ nào.
Những Vũ Khí Sở Trường Của Người Việt Thời Tiền Sử
Phan Quỳnh
Khảo sát folklore, dân tộc học, truyền thuyết dân gian. Thương, dáo, lao, có hình dạng tương tự và cùng với tên nỏ, cung, rìu, v.v. ... là những vũ khí đã đđược xử dụng thường xuyên của người Việt thời thượng cổ. Để được đầy đủ hơn cho công việc tìm hiểu nguồn gốc bản địa của những vũ khí truyền thống này, chúng ta không thể bỏ qua lãnh vực khảo cổ và những tài liệu ở các lãnh vực thuộc khoa học xã hội và nhân văn khác.
Khảo cổ học thời thượng cổ Việt Nam đã được phân ra những giai đoạn có khung niên đại (dựa theo sách Lịch Sử Việt Nam tập I) như sau :
-Thời đại đồ đá cũ : khoảng 300 ngàn năm về trước (di tích ở núi Đọ và văn hóa Sơn Vi hậu kỳ thời đá cũ ).
-Thời đại đồ đá giữa : 10 ngàn năm trước nay (văn hóa Hòa Bình, nghề nông đã xuất hiện).
-Thời đại đồ đá mới : 5 ngàn năm trước nay : văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Bầu Chó, văn hóa Hạ Long.
-Thời đại đồ đồng thau :
4 ngàn năm trước nay (văn hóa Phùng Nguyên).
3 ngàn năm – 2.5 ngàn năm : Văn Hóa Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ. (1)
1)- Ngay từ thời đại đồ đá cũ, người Việt cổ đã biết dùng đá làm những công cụ chặt, nạo, rìu tay, ghè đẽo thô sơ tìm thấy núi Đọ (Thanh Hóa) cách nay ba trăm ngàn năm hay những công cụ bằng đá cuội ở vùng đồi núi Vĩnh Phúc Yên, Phú-thọ, (văn hóa Sơn Vi), cách nay trên dưới ba chục ngàn năm, hậu kỳ đồ đá cũ.
Truyền thống kỹ thuật và văn hóa đá cuội Việt Nam được tiếp nối với hai nền văn hóa Hòa-bình (thuộc thời đại đá giữa) và văn hóa Bắc-sơn (thuộc buổi đầu thời đại đá mới).
a/. Bên cạnh kỹ thuật ghè đẽo, người Việt cổ đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu Bắc-sơn (rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng thời đại đồ đá mới. một số lưỡi dáo hay thương hoặc lao và mũi tên đá. Văn hóa Bắc-sơn là một trong những văn hoá có rìu mài sớm ởtrên thế giới. Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim, giáo sư Nhân Chủng Học trường đại học Hawaii, nhận xét:
"Tôi cho rằng những công cụ bằng đá dẽo có cạnh sắc tìm thấy ởphía bắc Úc châu và được định tuổi bằng Carbon 14 là hai chục ngàn năm trước Tây lịch đều thuộc nguồn gốc Hòa Bình ".
(I suggest that the earliest dated edgeground stone tools, found in northern Australiaand dated by carbon 14 at about 20,000 B.C. , are of Hoabinhian origin ).(2).
b/. Trình độ phát triển vũ khí ở thời đại đồ đá tại Việt Nam nhìn chung, ngoại trừ rìu đá, vẫn còn ít ỏi về kiểu loại, và sự thô sơ của kỹ thuật cùng tính năng của nó. Những vũ khí này dù kỹ thuật chế tác có đạt tới bước phát triển cuối cùng của kỹ nghệ đồ đá, thì cũng vẫn bị chất liệu đá hạn chế khá nhiều độ sắc nhọn, hướng cải tiến và diện xử dụng.
c/. Tuy nhiên, cần ghi nhận ởđây điểm quan trọng là : một sởtrường, một thiên hướng, một thị hiếu nữa, trong việc chọn lựa, sáng tạo và xử dụng vũ khí của tiền nhân người Việt đã được khẳng định ởthời đại đồ đá để rồi sau sẽ được nhân bội lên trong việc trực tiếp kế thừa và phát triển mạnh mẽ ở những thời đại đồ đồng, đồ sắt sau này, góp phần tạo nên những vũ khí truyền thống. Đó là sở trường, thiên hướng, thị hiếu dùng cung nỏ tên, rìu búa và dáo lao (thương) làm vũ khí chủ đạo.
Và chính vì thế mà chúng ta có thể thấy thêm một đặc điểm thứ hai của tình trạng vũ khí ở bước này là : chưa có sự phân hóa, chuyển hóa rạch rõi và phổ biến giữa vũ khí và công cụ. Cây rìu, cung tên, ngọn dáo, ở thời kỳ này, lúc là công cụ để chặt bổ, săn bắn, lúc là vũ khí để đâm phóng, đánh bổ, hoặc vừa là công cụ vừa là vũ khí. Trong tình trạng này cũng chung cho cả những khí vật bằng chất liệu mà lòng đất không thể gìn giữ tới nay cho chúng ta hình dáng của nó, nhưng theo qui luật chung, hiển nhiên cũng tồn tại ở bước này. Đó là những gậy, búa, mũi nhọn, lao ... bằng tre, bằng gỗ, v.v...
a/. Tài liệu khảo cổ học thời đại đồ đồng thau thuộc văn hoá Đông-sơn (Thanh Hóa, Bắc Việt) cho thấy rằng trong khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Tây lịch, vũ khí của tổ tiên người Việt đã phát triển lên một mức và có một vai trò quan trọng đáng kể. Sự tăng tiến về số lượng và sự phong phú về kiểu dạng khai quật được phản ảnh rõ ràng sự phát triển của vũ khí ở bước này. Bên cạnh những vũ khí chủ đạo, kế thừa và phát triển trực tiếp từ những vũ khí thời đồ đá, là cung nỏ tên, lao dáo và rìu búa, (những vũ khí này chẳng những còn để lại những bằng cứ là vật chất, mà còn để lại đầy đủ bằng hình ảnh qua những nét chạm khắc trên các trống đồng, thạp đồng) còn nở rộ một loạt dáng kiểu vũ khí khác nhau khá phong phú. Có thể nói những thành phần vũ khí cơ bản của bộ binh trước khi có hỏa khí, đều đã thấy xuất hiện ở giai đoạn này. Đó là các loại vũ khí tấn công tầm xa như cung nỏ và lao, đánh tầm gần như thương, dáo, mác, rìu búa, dao găm, đoản kiếm, qua, và vũ khí phòng ngự như hộ tâm phiến, khiên, mộc, v.v....
Nguyên liệu mới của những vũ khí này là một điều kiện rất cơ bản làm nẩy sinh một loại thuộc tính ưu việt của vũ khí. Đồng thau cùng với trình độ hiểu biết cao về kỹ thuật đúc cho phép sản xuất hàng loạt (Trường hợp điển hình là kho đầu mũi tên đồng ở thành Cổ-Loa, kinh đô của nhà nước Âu Lạc, khỏang mười ngàn mũi tên), tăng cường độ sắc nhọn của vũ khí và nhất là tạo điều kiện cho cho sự gia công cải tiến vũ khí, phát huy nhiều tính năng và tác dụng của vũ khí (đầu mũi tên đồng có hơn một chục loại, lao, dáo, dao găm, rìu chiến cũng có nhiều dáng vẻ khác nhau, có thể vừa đâm vừa chém và mũi tên bắn ra không lấy lại được, ...).
b/. Kết quả của những bài tính toán học và thực nghiệm cho thấy rằng với sức nặng của đầu mũi tên đồng Cổ Loa, thì phải có một chuôi tên dài từ 80 phân đến một mét mới có thể bắn tên đi ở tình trạng tốt nhất (độ dài này tính theo tỷ trọng của tre). Một chiếc tên như thế cho phép giả thiết rằng, ngòai cây cung là phương tiện phóng tên chắc chắn, còn có thể có cả hình thức nỏ máy để phóng tên nữa (3). (Một số hình ảnh chạm khắc trên trống đồng, những tài liệu dân tộc học và truyền thuyết vùng Cổ Loa cũng phù hợp với điều giả thiết này.) Sách Việt Kiệu Thư chép Man động xưa ở nước Nam Việt thời Tần rất mạnh, về phép dùng nỏ thì lại càng giỏi lắm, mỗi phát tên bằng đồng xuyên qua hơn chục người (4).
Những tài liệu ở một ngôi mộ Việt Khê thời đồ đồng cũng cung cấp những số liệu chính xác về những cây dáo, cây lao, thương : cán có độ dài lên tới hai mét ba mươi bẩy phân, đường kính cán tương đối nhỏ, khoảng một phân rưỡi, nhưng bù lại, được lựa chọn từ loại cây có thớ dọc, dẻo dai, có độ bền cao và được cạp thêm một khoảng gần sát luỡi bằng mây sợi chẻ mỏng. Cán dáo còn được sơn bóng đẹp với nước sơn ta từng khoanh màu vàng và màu đen xen kẽ.
Như vậy, ba vũ khí chủ đạo của người Việt cổ là : mũi tên, dáo lao hay thương và lưỡi rìu, và có nguồn gốc bản địa, sản xuất ngay tại chỗ. Giáo sư Wilhelm G. Solheim đã viết :
- Quan niệm cổ điển về thời tiền sử cho rằng kỹ thuật vùng Đông Nam Á là kết quả của những làn sóng di dân từ phương Bắc mang tới. Ngược lại, tôi cho rằng vào thời đại đầu đồ đá mới , nền văn hóa Bắc Trung Hoa gọi là Ngưỡng Thiều là một phần của nền văn hoá Hòa Bình đã tỏa lên Bắc Trung Hoa vào khoảng sáu hay bẩy ngàn năm trước Tây lịch.
- Tôi cho rằng nền văn hóa mà sau này được gọi là văn hóa Long Sơn vẫn thường được coi là phát triển từ Ngưỡng Thiều • Bắc Trung Hoa rồi lan ra miền Đông và Đông Nam, thì trái lại thực ra đã khai sinh • Nam Trung Hoa và di chuyển lên phía Bắc. Cả hai nền văn hóa này đều bắt nguồn từ gốc văn hóa Hòa Bình.
( The traditional reconstraction of Southeast Asian prehistory has had migrations from the noerth bringing important developments in technology to Southeast Asia. I suggest instead that the first neolithic (that is, late Stone Age) culture of North China, known as Yangshao, developd out of a Hoabinhian subculture that moved north from northern Southeast Asia about the sixth or seventh millennium B.C.
- I suggest that the late so-called Lungshan culture, which supposeedly grew from the Yangshao in North Chinaand then exploded in South Chinaand moved northward. Both of these cultures developed out of a Hoabinhian base.)(5)
1)- Mặt khác, tên gọi Nam-Á (Austroasiatic) là thuật ngữ nhân chủng học và ngôn ngữ học bao gồm khu vực Đông Nam Á và Châu Á Hải Đảo kể cả phía Nam Trung Hoa mà một phần chủng tộc này được cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt (Điền Việt, Dương Việt, U Việt, Mân Việt, Đông Việt, Lạc Việt,...) sinh sống từ khu vực phía Nam sông Dương Tử đổ xuống phía nam, họp thành những khối cư dân lớn có những tiếng nói thuộc ngữ hệ Mon-Khmer, Việt-Mường và Malayo-Polynesian, những dân tộc thời tiền sử chủ yếu sống nông nghiệp, săn bắn đánh cá, dùng thuyền bè di chuyển trên sông rạch, biển cả, ăn mắm (chưa biết ăn xì dầu), ở nhà sàn, nhà mái cong, xâm vẽ mình, mặc: áo chui đầu (poncho), sà-rông, váy , v.v...
Cái thúng mà thủng hai đầu,
Bên ta thì có bên Tầu thì không.
khác với nhóm dân tộc thời tiền sử chủ yếu sống du mục, chăn nuôi với đồng cỏ mông mênh phía Bắc và Tây Bắc, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
2)- Khi xưa tiếng Hán đang còn đóng khung ở vùng phía bắc sông Hoàng Hà, sông Vị Hà thì nó chưa thể có nhiều những từ nêu lên tên gọi của những sản vật mà chỉ phương nam mới có, do đó có sự vay mượn, ảnh hưởng qua lại các thuật ngữ vùng Nam Á. Những danh từ chỉ thực vật như cảm lãm (trám), phù lưu (trầu), ba la mật (mít) v.v... chắc chắn là những danh từ vay mượn các ngôn ngữ vùng nhiệt đới. Để chỉ sông, phía bắc, người Hán gọi là Hà, nhưng từ sông Dương Tử trở về nam lại gọi là Giang. Theo các nhà địa danh học : Giang là một từ người Hán vay mượn, thanh phù công ( ) đứng cạnh bộ chấm thủy ( ) trong chữ giang ( ) rất dễ dàng gợi cho ta nghĩ đến Kion (Miến), Kon (Katu), Karan (Mơ-nông), Krong (Chàm), Không ( Mường), Hông (Khả), Krông (Bà Na), Khung (Thái), Sôngal (Mã Lai), cũng như nghĩ đến Sông trong tiếng Việt (Việt Miên Lào có chung con sông là Mê-kông).
Có khi chiều ảnh hưởng chỉ đi theo một dường thẳng đơn giản, từ bên này sang bên kia, nhưng cũng nhiều khi mũi tên có thể đi đường vòng từ A sang B, rồi lại từ B quay trở lại A. Đó là trường hợp của nỏ, thứ vũ khí phương Namta gọi là Ná. (So sánh với Na của người Mường, người Chức, Nả của người La-Ha (Mưng La) , Hna của người Bà Na, Na của người Ê Đê, dọc Trường Sơn, Mnaá của người Sơ Đăng, Sa Na của người Kơ-ho, Snao của người Raglai, Na của người Mạ Nam Tây-nguyên, Hnaá của người Gia Rai, S-Na của người Miên, Sơ-Na của người Srê, hay Sna của người Chàm Phan Rang, Phan Rí , Ná của người Thái Trắng, Pna của người Mã Lai , v.v. ...), có nhiều cơ sở để có thể khẳng định chính từ tên gọi loại vũ khí này mà được nhập vào vốn từ vựng của người Trung Hoa, sản sinh ra tiếng Hán có cách đọc Hán Việt cổ là Nổ hay Hán Việt hiện nay là Nõ, (chữ Nõ [ ] tổng hợp của thanh phù Nô [ ] (như Nô Bộc) đứng trên chữ Cung tượng hình [ ] rồi lại quay trở về Việt Nam được đọc theo Nôm là Nỏ. Nỏ là một phát minh của người phương nam (6).
Sách Lĩnh Nam Chích Quái chép truyện Triệu Đà sai con là Trọng Thủy đánh cắp nỏ thần phương nam của An Dương Vuơng Thục Phán.
Cái Rìu của tổ tiên chúng ta cũng có một sự tích lý thú, được đặt thành tên dân tộc: Về ý nghĩa của tộc danh Việt, lâu nay một số người dựa trên dạng chữ Hán hiện đại [ ] có chứa bộ tẩu [ ] của chữ này để giải thích rằng Việt nghĩa là chạy, vượt. Thực ra chữ Việt trong Hán tự đã trải qua nhiều cách viết rất khác nhau, đây là tên gọi có từ lâu đời (họ Việt-thường, chủng Bách Việt được nhắc đến trong sử Bắc từ rất sớm).
Theo Bình Nguyên Lộc (7), việt vốn là tên gọi một loại công cụ kiêm vũ khí rất đặc thù của người Việt cổ : cái rìu. Như chúng ta đã biết, khảo cổ học đã tìm được ở khắp nơi trong địa bàn cư trú của người Việt cổ rất nhiều loại rìu với các nguyên liệu khác nhau (đá, đồng, sắt) như rìu đá có tay cầm, rìu đồng hình tứ giác, rìu đồng lưỡi xéo. Trong ngôn ngữ Nam-Á cổ đại, rìu hay dìu có lẽ đã được phát âm là dịt hoặc một âm gì đó tương tự (các truyền thuyết Mường gọi vua Việt là Bua Dịt hay Dịt Dàng). Khi tiếp xúc với người phương Nam, tổ tiên người Hán, với tính cách du mục vốn có, đã rất chú ý đến loại công cụ có thể được dùng như vũ khí này, coi nó là đặc trưng quan trọng của ngưòi phương Nam nên đã gọi họ là bọn Rìu : Dịt được phiên âm qua tiếng Hán cổ, rồi từ tiếng Hán lại phiên âm trở lại theo cách đọc Hán-Việt thành Việt. Chính cái vật chất là cái rìu lưõi xéo có cán (xem hình) đã là nguyên mẫu để tổ tiên người Trung Hoa, khi tiếp xúc với phương Nam, đã mô phỏng theo đó mà tạo nên chữ Việt nguyên thủy (xem hình). Còn trong tiếng Việt, chữ dịt nguyên thủy ở bản địa đã trải qua nhiều biến đổi ngữ âm để có được bộ mặt của chữ rìu hiện nay cùng với cả một họ các từ gần nghĩa : rìu , rèn, rào, dao , rựa , ... Bên cạnh đó, cho đến gần đây vẫn có một chữ việt với tư cách danh từ chung có nghĩa là rìu ; nó xuất hiện trong kết hợp phủ việt (phủ = búa, việt = rìu), tương tự giống trường hợp chữ Ná người Hán mượn rồi trở về ta là chữ Nỏ.
Đến thời Khổng Tử, chữ Việt [ ], theo giáo sư Lương Kim Định của Đại Học Văn Khoa Saigon (8), vẫn còn giữ được ký hiệu [ ] tượng hình cho cái rìu ; ngoài ra, nó còn được bổ xung thêm một nét đặc trưng quan trọng nữa là bộ mễ [ ] để chỉ dân trồng lúa. Ngay cả chữ Việt hiện thời [ ] cũng còn giữ được dâu vết của cái rìu đó qua sự hiện diện của bộ thích. Theo Vệ Tu Hiền trong Ngô Việt thích danh thuyết thì chữ (Việt, tên dân tộc) chính là chữ (Việt) chỉ cái búa rìu vậy (9).
Chú thích
(1) Uỷ Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, LỊCH SỬVIỆT NAM tập I, Hà Nội, nhà xb KHXH, 1971, trang 87.
(2) Wilhelm G. Solheim , New Light on a Forgotten Past, National Geographic, Vol. 139, No. 3 , March 1971, page 339.
(3) Hùng Vương Dựng Nước , tập 4, Hà Nội, nxb KHXH, 1974, trang 292-299.
(4) Dẫn theo Trần Quốc Vượng-Hà Văn Tấn, Lịch Sử Chế Độ Phong Kiến Việt Nam. Tập 1, Hà Nội, Giáo Dục, 1960, trang 26.
(5) Wilhelm G. Solheim, đã dẫn, trang 339.
(6) Phan Quỳnh, Non Bộ Trong Lịch Sử Việt Nam, Đặc san VOVINAM Việt Võ Đạo, Đại Hội Thế Giới tháng 8 năm 2000 tại California USA, trang 58- 72.
(7) Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam , Saigon, Bách Bộc xb, 1971, Xuân Thu in lại tại Hoa Kỳ, trang 154-157, 784-787.
(8) Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên, Saigon, An Tiêm xb, 1970, trang 60-61, 82.
(9) Trần Ngọc Thêm, Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam, nxb TPHCM, 1996, trang 66.
-
SoLuuHuong Bảo Quốc Công Thần Đệ Ngũ Đẳng
Cung Nỏ
Vũ Khí Sở Trường Của Người Việt
Phần 2: Phần Mở Rộng
Cung nỏ Bách Việt - Võ công Hoa Sơn
Qua Khảo Cổ và Cổ tích.*
I/ Ở phía nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, dọc theo hai dòng sông Minh Giang và Tả Giang (1) là những vách đá của dẫy Hoa Sơn dài hàng trăm cây số còn lưu lại nhiều bích họa được thực hiện từ thời xa xưa ghi lại sinh hoạt , kể cả chiến tranh và võ thuật thời thượng cổ của một dân tộc thiểu số miền nam Trung Quốc, dân tộc Choang. Hiện người ta còn đếm được khoảng trên 50 bức bích họa lớn nhỏ khác nhau trên nền tranh vách đá thẳng đứng bên các dòng sông uốn khúc tại đây ; có bức dài tới 130 mét, cao 40 mét ghi vẽ chạm khắc trên mặt đá khoảng 3000 người và vật với những tư thế luyện võ và chiến đấu tay không hay sử dụng binh khí của tổ tiên người Choang ở Hoa Nam. Nổi tiếng nhất là tấm bích họa ở gần thành Ninh Minh, Hoa Sơn.
Sách Ninh Minh Châu Chí ghi : Núi Hoa Sơn cách thành 50 dặm, trong vách đá đứng dựng có những hình người màu đỏ, tất cả đều trần truồng, hoặc to hoặc nhỏ, hoặc cầm giáo gậy hoặc cưỡi ngựa; trước khi có loạn, sắc màu sáng sủa, loạn qua rồi màu sắc ảm đạm. Men theo bờ sông, một con đường giữa hai bờ sông, trên vách đã hình vẽ như thế có nhiều.
Nói về những hình võ trên vách đá Hoa Sơn, sách Võ Thuật Thần Kỳ của Trịnh Cần và Điền Vân Thanh viết : Tranh vách đá Hoa Sơn vẽ người đường nét đơn giản, chắc khỏe, động tác chiêu thức rõ ràng, phát lực tràn trề. Thần thái thì oai võ, phần lớn đứng mã bộ và thế tấn nửa mã bộ, linh hoạt ẩn hiện, sinh động như thật.
Vật phẩm trong tranh vách đá ở Hoa Sơn cũng tạo hình sống động, kết cấu nghiêm ngặt, có trống đồng, đao có vòng ở đầu (hoàn thủ đao), trường thương, phiêu ném (thủ phiêu) mã tấu, kiếm, nỏ núi (sơn nỗ), tên tre v.v... đủ nói lên tình hình phát triển võ thuật của dân tộc Choang Quảng Tây thời ấy đã hừng hực, khí giới dùng trong võ thuật cũng phức tạp, đa dạng.
Ngoài những thứ kể trên ra, trong nhóm tượng ở Ninh Minh Hoa Sơn có một con vật bốn chân tướng mạo như chó sói một tay cầm phi đà (quả cân ném, một kiểu lưu tinh chùy), lưng đeo bảo kiếm, hai chân gập gối dạng ra khuỵu xuống, ưỡn ngực, đè hông thành tấn mã bộ vững vàng trầm chắc. Xem ra có lẽ đó là vật tổ của dân Choang có võ công thật phi phàm. (2)
Võ công trên vách đá Hoa Sơn của dân tộc Choang đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho tác giả Kim Dung tạo dựng những tình tiết độc đáo trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng sau này.
Choang là một sắc tộc thiểu số ở Trung Quốc có số nhân khẩu lớn nhất, 23 triệu người theo thống kê năm 1982, trong đó khoảng 22 triệu người sinh sống tập trung tại Quảng Tây, số còn lại sống rải rác tại các miền Vân Nam, Quế Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, v.v. . . thuộc miền nam Trung Quốc.
Cũng như dân tộc Việt Nam, dân tộc Choang là một chi phái của Bách Việt xa xưa mà cổ thư thường đề cập về dân tộc này với những tên khác nhau, ở Trung Quốc cũng như tại Việt Nam, như Bộc, Ấu, Việt, Mai, Liêu, Choang, Đặng, Ô-hử, Tổn Tử, , Sản Lý, Bách Bộc, Cửu Khốn, v.v. . . (3). Đến thời nhà Minh, người Trung Quốc gọi tên dân tộc Choang là người Lang. Tên gọi Choang hay Trang là từ có âm Zhuang thời nhà Tống. Người Choang cũng sinh sống nhiều tại các tỉnh Cao Bằng , Lạng Sơn của Việt Nam, và theo Hoàng Xuân Hãn, được ta phân biệt các sắc dân ấy bằng tên họ như họ Hoàng, họ Vi, họ Nùng, họ Chu, họ Giáp (4), v.v. . .
Ở Vân Nam(TQ), người Choang còn được gọi là người Băng Long (ngày xưa người Hán gọi họ là Bộc nhân). Người Choang Vân Nam xưa nay tính dũng cảm, thích võ. Họ gọi võ thuật do tổ tiên truyền lại là tả quyền vì khi tỉ thí võ công, trái đấm tay trái là trái đấm mãnh liệt cuối cùng quyết định thắng bại (tả quyền định thắng bại), họ dùng bài võ cổ truyền linh hoạt và đa biến để nghênh chiến đối phương, nhè lúc đối thủ không phòng bị cuối cùng dùng tay trái ra tuyệt chiêu mà đắc thắng chắc chắn. (5).
Theo sách Kinh Thư, một cổ sử do Khổng Tử san định, tổ tiên người Choang (Vi, Bộc) được xem là một trong những nhóm Bách Việt đã hợp tác với Chu Võ Vương tạo một liên minh quân sự để tiêu diệt vua Trụ thành lập nhà Tây Chu (1134-770 trước tây lịch). Trong sách Thượng Thư do Nhượng Tống dịch và chú giải có đoạn ghi : Vua (Chu Vũ Vương) nói : Hỡi các chúa các nước bạn ta! Hỡi các quan coi việc ! Nào Tư Đồ, Tư Mã, Tư Không, Á Lữ, Sư Thị, Thiên Phu Trưởng ! Cùng người các xứ Dung, Thục Khương, Mao, Vi, Lô, Bành, Bộc ! Giơ mác lên ! Dựng đứng ngọn giáo ! Ta thề đây !(6).
Ngày nay, những người Choang ở Quảng Tây tự xưng tên dân tộc mình với khoảng 20 tên gọi khác nhau, thông dụng nhất là Bố Choang, Bố Thổ, Bố Ỷ, Bố Bản, Bố Việt, v.v. . . với ý nghĩa là dân bản địa ở đây. Từ BỐ hay PO, BẾ, . . . làm chúng ta liên tưởng trực tiếp đến ngôn ngữ có nguồn gốc Nam Á . Ví dụ các dân tộc ở Việt Nam, Chăm có tên gọi như Bố Cái Đại Vương (Việt), Po Romé, Po Nagar (Chăm), hay Poropudua (Indonesia), . . . hoặc tên họ như Bố Thuận, Bế Khắc Thiệu, Bố Xuân Hội(7) . . .
Dân tộc Choang Quảng Tây có tiếng nói riêng, thuộc ngữ tộc Choang-Đồng, ngữ chi Tày-Nùng, và dĩ nhiên, trong sự giao lưu đồng hóa của người Hán, ngôn ngữ Choang cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngữ hệ Hán-Tạng. Giống như phương cách cấu tạo chữ Nôm của Việt Nam, dân tộc Choang đã sử dụng chữ Hán, cách nay cả ngàn năm, để tạo thành chữ riêng của họ, gọi là Thổ Tục Tự để ký âm tiếng nói địa phương của họ, cho đến ngày nay ca khúc dân gian và sách bùa chú vẫn còn sử dụng thứ chữ nầy để ghi chép. Có điều là dân tộc nầy có quá nhiều phương ngữ nên cách viết và ghi chép không thống nhất nhau cho nên chỉ được dùng trong một phạm vi rất hạn hẹp. Ngày nay họ bắt đầu dùng mẫu tự Latin để ký âm tiếng nói của họ.
Theo di tích khai quật được, dân tộc nầy còn có một lịch sử cổ xa xưa hơn nữa. Thí dụ: Thời Đồ đá cũ có thi hài của giống người "Liễu giang" mang đầy đủ nét đặc trưng của dân tộc Choang ngày nay. Thời Đồ đá mới tại di chỉ Ngoạ Bì Nham ở thành phố Quế lâm, có đào thấy xương cốt của một giống người tương tự như tướng mạo người Choang hiện tại. Chứng cớ nầy cho thấy 50 ngàn năm trước đây dân tộc Choang đã có mặt và sinh sống trong vùng này.
Do sự áp bức và cai trị đồng hóa của người Hán, người Choang đã nhiều lần nổi dậy chống đối suốt quá trình lịch sử cho đến cuối thế kỷ 19.
Hậu Hán Thư ghi : Đời Linh-đế, năm thứ ba hiệu Kiến-ninh (năm 170 sau Công nguyên), viên thái thú Uất-lâm là Cốc Vĩnh đã xâm chiếm đất đai Ô-hử (Quảng Tây), đặt thành 7 huyện, cư dân gồm hơn 10 vạn người. Thế là dân Ô-hử bắt đầu bị chính quyền Đông Hán áp bức, bóc lột . . . Năm 178, (Quang Hòa thứ nhất) tháng giêng, nhân dân Hợp-phố Giao-chỉ, Ô-hử, đã nổi dậy, lôi kéo theo cả hàng vạn nhân dân hai quận Cửu Châu, Nhật Nam, khắp nơi nổi dậy đánh chiếm các quận huyện (Hậu Hán Thư q.8, 6a - q.116, 8b) (8).
Sách Lịch Sử Chế Độ Phong Kiến Việt Nam ghi thêm : Tình hình ở Nam Trung quốc còn là gần như không khi nào dược yên luôn trong ba ngày huống chi tình hình ở Giao châu vì vậy mâu thuẫn giữa nhân dân và bọn thống trị phong kiến thực dân lại càng thêm sâu sắc. Khởi nghĩa của nhân dân mỗi khi có cơ hội thuận tiện liền nổ ra ngay (9) .
Tân Đường Thư (q.80, 11a) cho biết năm 819 người Man Hoàng động (thuộc tộc Choang -TG) lại nổi loạn . . .
Sử cũ ghi những cuộc khởi nghĩa mà người Hán gọi là giặc như giặc Hoàng Cân thời Đông Hán, giặc Hoàng Sào thời nhà Đường, giặc Nùng Chí Cao thời Tống, giặc Hồng Tú Toàn thời Mãn Thanh, . . đều là những cuộc quật khởi của người Choang chống người Hán cai trị . Hoàng Cân cũng nhừ Hồng Tú Toàn đã lập đạo Thái Bình. Theo sử gia Phan Khoang , Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn, thời Thanh đã thu phục được 16 tỉnh ở Hoa Nam lập thành nhà nước độc lập kéo dài 15 năm (1850-1864) đóng đô ở Nam Kinh (Thiên Kinh) (10).
Ở Việt Nam thời Lê Sơ tại tỉnh Cao Bằng có một sự kiện lịch sử liên quan tới cung nỏ của người Choang được ghi trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí : Đời Lê Thuận Thiên, đầu mục thiên thần là Bế Khắc Thiệu nghe tin thổ tù Nông Đắc Thái được thần cho cung tên bằng đồng, hễ bắn phát nào là tin, không phát nào là không trúng, bèn cho người mời Đắc Thái đến, cho làm Võ Kính Tướng quân, rồi đánh thuốc độc giết đi, chiếm lấy cung tên. Khắc Thiệu tự cho là được quỉ thần giúp sức, bèn có ý hùng cứ. Lê Thái Tổ tự làm tướng đi đánh, Khắc Thiệu giương cung bắn, không thấy ứng nghiệm, nên bị Lê Thái tổ bắt được (11)
Chúng ta chưa đủ điều kiện để thăm dò, khảo sát những vách đá dọc theo bờ các sông Mãng, sông Hiến, sông Cổn , sông Huề chảy qua tỉnh Cao Bằng, nơi sinh tụ đông đảo người Choang ở Việt Nam, để kiếm tìm, phát hiện di tích của tổ tiên người Choang và biết đâu ta củng có thể tìm được di sản võ công của họ như đã thấy tại Hoa Sơn miền nam Trung quốc.
II/ Người Choang, ngoài mặt nhân chủng học, về phong tục học, có nhiều điểm khác người Hán nhưng lại giống người Việt phương nam, ví dụ tục nhuộm răng đen, xâm mình, . . . , hoặc những chuyện kể dân gian. Dưới đây chỉ nêu ra một vài chuyện liên quan tới cung nỏ, như Thần Tiễn Thủ Hậu Nghệ, Thần Cung Bảo Kiếm.
1/ Thần Tiễn Thủ Hậu Nghệ
(Lược trích từ Lịch Sử Trung Quốc Năm Ngàn Năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương, do Trần Ngọc Thuận dịch)
Hậu Nghệ, thủ lãnh người Man Di (ngôn từ miệt thị của người Hán gọi người Bách Việt phương nam), là tay thiện xạ thường bắn trăm phát trúng cả trăm. Thần thoại kể rằng, thời cổ trên không có tới mười mặt trời, mặt đất nóng như thiêu, làm cháy hết hoa mầu. Mọi người xin Hậu Nghệ nghĩ cách giải quyết. Hậu Nghệ giương cung bắn liền mấy phát, làm chín mặt trời rụng xuống, chỉ để lại một mặt trời như ngày nay. Vì vậy, khí hậu trái đất trở nên ôn hòa, không còn khô hạn nữa. Lại nói thời cổ trên các dòng sông có nhiều thủy quái, thường gây nên sóng gió, tạo thành thủy tai, làm ngập hết hoa mầu, nhấn chìm người và gia súc. Hậu Nghệ lại dùng cung tên, bắn giết hết quái vật, mang lại cho dân tộc cuộc sống yên bình.
Những thần thoại đó chứng tỏ tài bắn cung của Hậu Nghệ rất cao cường, được mọi người công nhận.
2/ Thần cung Bảo kiếm
(Trích dịch từ quyển Trang Tộc Dân gian Cố sự Tuyển, do Thượng hải Văn nghệ Xuất bản xã ấn hành, Thượng hải, 1984. Trang 131 - 138. Người dịch: dchph)
Thời xưa, Vua Nam việt Triệu Đà được Hoàng đế Trung hoa gởi tặng cho một thanh bảo kiếm, bèn dùng châu báu ngọc ngà chạm lên trên và còn khắc bốn chữ "Hoà Tập Bách Việt", đêm đến thanh kiếm phát quang chói loà, đúng là một bảo vật. Nhà vua lại mang thanh bảo kiếm nầy gởi tặng lại Nước Tây Ấu, vua nước Tây Ấu lại sai hoàng tử mang đến tặng cho Nước Lạc Việt. Mục đích của họ là mong muốn có sự giao hảo than thiện với nhau để giữ vững lâu dài nền hoà bình đang có.
Hoàng tử nước Tây Ấu mang thanh bảo kiếm đến nước Lạc Việt. Tới ngày khi chàng đã đến bên bờ tường kinh thành nước Lạc Việt thì chàng nghe thấy tiếng cuời nói huyên náo vọng ra từ nội thành. Vị hoàng tử bèn leo ngồi lên trên bờ tường quan sát thì thấy vị công chúa của Vua Lạc Việt đang luyện bắn cung, bắn đâu trúng đó nên đã gây nên tiếng reo hò vang dậy.
Trong những năm gần đây nước Lạc Việt gặp nạn bị một thuỷ quái quấy phá, làm nước biển nhiều khi vô cớ tràn dâng ngập lụt, cuốn trôi vô số nhà cửa hoa màu và gia súc, dân chúng mất cửa mất nhà, ly tán khổ sở. Vua Lạc Việt chẳng biết làm sao nên mời thầy pháp lại làm bùa làm phép. Con thuỷ quái bỗng từ dưới nước phóng lên nói rằng trừ phi Vua Lạc Việt gã công chúa cho nó nếu không thì nó sẽ dấy binh tiêu diệt nước Lạc Việt. Vua Lạc Việt không biết phải làm cách nào đành phải hứa gã công chúa cho nó, nhưng ngài lại yêu cầu con thuỷ quái phải đích thân đến cung đình cầu hôn. Nhưng đến ngày con thuỷ quái tới cung đình cầu hôn mọi người ai nấy đều thấy con yêu tinh hiện nguyên hình: đầu rắn, thấp lùn, lưng mang vỏ rùa. Nàng công chúa trông thấy, lòng ngập tràn oán hận, không một chút do dự rút kiếm ra chém "phựt" một cái bay đứt cổ con yêu tinh và nó ngã lăn ra chết.
Người ta đồn đại là con yêu quái nầy có nanh vuốt rất linh, nếu nanh vuốt nầy vẫn còn, chẳng bao lâu thì con yêu quái nầy sẽ hồi sinh trở lại nguyên hình. Do đó, công chúa bèn chặt đứt bốn chân con yêu ra, thẻo nanh vuốt nầy ra, dung làm báng nỏ. Từ đó về sau, tài nghệ thiện xạ của nàng công chúa ngày càng khởi sắc, bắn đâu trúng đấy. Nhờ thế tiếng vang lan khắp mọi nơi, ai ai cũng đều biết nàng công chúa có một cây nỏ thần, và rất nhiều bộ lạc lớn nhỏ khắp nơi về quy phục nước Lạc Việt. Chính cũng vì thế, công chúa lạ càng trở nên kiêu hãnh, mỗi lần nàng tập luyện bắn cung, chỉ cho người xem hoan hô khen chứ không cho phê phán ồn ào.
Hôm đó, khi nàng đang luyện bắn cung tên trong vườn thành nội, cái đích một cành liễu cột lũng lẵng một xâu lá trầu, và nàng nhất quyết sẽ bắn trúng cành liễu và sẽ làm cái xâu lá trầu rơi xuống đất.
Hoàng tử nước Tây Ấu đang ngồi trên bờ tường đang ngắm nhìn nàng công chúa bắn nỏ. Chàng chỉ thoáng thấy nàng công chúa giơ cây nỏ lên, kéo dây rồi bung ra, mũi tên phóng vụt đến cành liễu, đường tên bay không hề bị xê dịch đâm phụp đúng vào cành liễu có treo xâu lá trầu. Hoàng tử bất giác vỗ tay hoan hô ầm ĩ.
Chính vì thế làm nàng công chúa nổi giận lên tự hỏi không biết ai cho phép người nầy nhìn trộm nàng bắn nỏ? To gan thật! Nàng một tay vừa cài tên giương nỏ, mắt vừa quay qua liếc nhìn về phía bờ tường thì trông thấy một chàng trai ngồi đó đang giương đôi mắt nhìn ngắm nàng. Công chúa giận quá, nàng buông dây cung, mũi tên liền bật ra hướng về tầm ngực của chàng trai phóng vụt đến. Chỉ trong chớp nhoáng, chỉ thấy chàng trai ung dung rút thanh kiếm ra chờ mũi tên bay tới rồi gạt ngang một cái, mũi tên chợt trông giống như một chú chim xìu cánh rơi ngay xuống đất.
Nàng công chúa liền giương nỏ bắn liền ba phát, chàng hoàng tử đều vung kiếm gạt phắt hết ba mũi tên. Nàng công chúa cảm thấy kỳ lạ, nhận ra thanh kiếm của hoàng tử có thần lực, bèn kêu chàng trai mang đến nàng xem nhưng chàng trù trừ không lại. Công chúa hỏi chàng trai từ đâu đến? Tới kinh thành làm gì? Chàng trai trả lời cho biết mình là hoàng tử nước Tây Ấu, đến kinh đô nước Lạc Việt là để giao hảo đôi bên. Chàng yêu cầu công chúa dẫn chàng đi gặp Vua Lạc Việt.
Công chúa nghĩ thầm nếu để hoàng tử mang bảo kiếm vào gặp phụ vương rũi chàng ta rút kiếm ra chém vua cha thì chắc nước chết, nàng liền đưa ra hai điều kiện: một là chàng hoàng tử không được mang thanh kiếm trên người đến diện kiến nhà vua, chàng phải trao thanh kiếm cho nàng giữ; hai là nếu chàng nhất định phải đeo kiếm thì chàng phải chịu bị trói cột lại mới được gặp vua cha. Chàng Hoàng tử đồng ý chịu để cho nàng trói lại, không chịu để kiếm rời thân.
Thế là hoàng tử chịu trói lại để đi đến gặp Vua Lạc Việt. Khi gặp nhà vua, hoàng tử bèn dâng tặng vị vua nầy thanh kiếm có khắc bốn chữ "Hoà Tập Bách Việt", nói là chàng thay mặt cho phụ vương đến giao hảo hoà bình với Vua Lạc Việt.
Vua Lạc Việt thấy hoàng tử khôi ngô tuấn tú, phẩm đức đều tốt, có ý muốn nhận chàng làm phò mã, nhưng lại e ngại công chúa lại không chịu nên nha vua bèn hỏi ý kiến cô công chúa. Thực ra trong thâm tâm nàng công chúa đã sinh ra lòng ái mộ, nhận thấy việc hoàng tử chịu trói để được diện kiến vua cha chứ không chịu trao gửi thanh kiếm cho nàng giữ là hành vi bất khuất anh hào. Nghe thấy vua cha hỏi ý kiến mình, nàng bất chợt không khỏi thẹn ửng má đào, nàng nói:
- Tuỳ ý phụ vương định đoạt!
Sau khi hoàng tử cùng công chúa kết hôn, hai người thương yêu nhau thắm thiết, như trâu với cau.
Chẳng bao lâu sau, hoàng tử nhận được tin Vua Tây Ấu lâm trọng bịnh, chàng bèn từ biệt Vua Lạc Việt và công chúa để về nước thăm vua cha. Nàng công chúa sợ đường xá xa xôi trắc trở, nàng bèn lấy thanh kiếm "Bảo Tập Bách Việt" trao cho hoàng tử đeo vào người. Hai người quyến luyến không nở rời nhau. Sau khi hoàng tử về nước rồi, công chúa cảm thấy cung thất lạnh lẽo làm sao, trong lòng trở nên sầu muộn, nàng đâm ra biếng lười luyện võ, cung nỏ cũng không buồn rớ tới. Có lúc nàng chợt tưởng có bóng dáng hoàng tử thấp thoáng ngoài sân, nhưng sao nàng đợi mãi mà chẳng thấy chàng đẩy cửa bước vào. Nàng ra mở tung song cửa sổ, nhưng nàng chỉ thấy một chú quạ kêu "yaya" rồi bay mất.
Vào một buổi sáng nọ, khi công chúa mới vừa mở cửa phòng đột nhiên trông thấy một người xông vào phòng. Nhìn kỷ lại thì ra là hoàng tử. Công chúa rất là vui mừng, chẳng kịp hỏi chàng từ đâu về là đã đưa chàng vào phòng. Cái anh chàng hoàng tử nầy mới bước vào phòng là lập tức đưa mắt ngó ngay về hướng nơi có treo chiếc nỏ thần, mắt ngó láo liên. Công chúa cảm thấy kỳ quặc liền nói:
- Mới có đi xa mấy ngày, bộ chàng không nhận ra chỗ ở nữa à?
Chàng hoàng tử nói:
- Sao trên kia lắm bụI bặm vậy?
Công chúa nói:
- Từ ngày chàng về nước đến giờ, thiếp cô đơn một mình, nào còn tâm trí gì đâu để tập luyện bắn cung nỏ?
Hoàng tử lấy ngay cung nỏ xuống. Công chúa nhận thấy cử chỉ này có điều dị thường liền chạy tới ngăn cản. Hoàng tử nói:
- Uy danh của công chúa dựa hết vào chiếc nỏ thần nầy. Giả như không có chiếc nỏ nầy, mình nghĩ là uy danh của nàng không lừng lẫy như bây giờ. Do đó mình yêu chiếc nỏ nầy chính là vì yêu công chúa đấy!
Vừa nói chàng vừa giương cung bắn tên ra ngoài khung cửa sổ, nhưng chỉ thấy khi mũi tên vừa lìa ra khỏi nỏ là bay trệch hướng đi, bay chẳng bao xa là rơi rớt ngay xuống đất.
Công chúa nói:
- Chiếc nỏ nầy nhờ có chiếc móng của con yêu quái dùng làm cò, không có nó là bắn không trúng đích đâu. Vợ chồng ăn ở vớI nhau bấy lâu nay, bộ chàng không còn nhớ việc nầy nữa chăng?
Hoàng tử nói:
- Đâu phải quên, tại công chúa quên đưa cho mình cái móng của yêu tinh. Xin công chúa lấy ra cho mình xem nào, sẵn tiện luyện tập bắp tay một chút xem nào!
Công chúa tưởng thật bèn thò trong người lấy chiếc móng yêu tinh ra trao cho hoàng tử, cùng lúc nàng chợt nhận ra hoàng tử không đeo thanh bảo kiểm trên người, nàng liền hỏi:
- Hoàng tử, sao chàng không mang thanh bảo kiếm về lại?
Chàng hoàng tử nầy chợt nhiên cuống quýt lên, nói:
- Tại mình nhớ công chúa quá, một mình lén phụ vương trở về đây. Bây giờ để mình quay về lại lấy thanh kiếm.
Vừa nói xong, tay cầm chiếc nỏ thần và chiếc móng yêu tinh ngã nhào xuống đất, đột nhiên hoàng tử biến thành con quạ kêu "yaya" rồi bay mất.
Tin nầy truyền tới tai vua Lạc Việt, ngài liền cho triệu tập quần thần lại thương nghị. Quần thần đều cho rằng đây là vận xấu của vua nước Tây Âu, làm mất chiếc nỏ thần, chắc chắn thế nào cũng mang quân chinh phạt nước Lạc Việt, thế thủ chi bằng thế công, hãy cho dấy binh tấn công nước Tây Âu trước.
Lúc bấy giờ, vua Tây Âu mới vừa mất, cả nước mới cử hành đám táng, hoàng tử nước nầy còn để tang, nghe nói vua nước Lạc Việt dấy quân sang đánh, cảm thấy mình khó lòng ứng chiến, bèn tính chuyện đơn thân độc mã đi hội kiến vua nước Lạc Việt để hỏI ra cho rõ ngọn ngành. Do đó hoàng tử không thay áo giáp, đeo trên mình thanh bảo kiếm "Hoà Tập Bách Việt", phóng mình lên ngựa phi mã chạy ra biên ải.
Khi hoàng tử đến nơi biên ải thì chao ơi! Binh mã của vua Lạc Việt đã bố trí tràn đầy khắp nơi đen nghịt dày đặc. Mặt sông nước nơi binh lính họ lội qua, sủi bọt đen ngòm, tôm cá chết nổi lềnh bềnh khắp nơi. Binh lính tràn qua rừng núi đá là mọi thứ như đều đỗ ngã hết xuống, cỏ cây điêu tàn.
Một mình hoàng tử thì làm sao chống cự lại được muôn vạn binh mã nước Lạc Việt, đành phải nhắm ngay doanh trại vàng to lớn, chàng đoán đó là nơi vua Lạc Việt hay là công chúa trú nghỉ.
Chàng hoàng tử nầy xem ra cũng rất lợi hại, thân một mình một ngựa, xông tới hàng rào doanh trại, làm đỗ gãy sụp nát hết dãy hàng rào. Vua Lạc Việt đang ngồi trên mình ngựa trông thấy binh mã của mình hỗn loạn, bèn hạ lệnh cho hằng ngàn cung thủ giương cung tên nhắm về phía hoàng tử mà bắn.
Hoàng tử mình đeo thanh bảo kiếm, chỉ thoáng thấy chàng rút ra hoa kiếm là hằng ngàn mũi tên rơi rụng như mưa, thân mình chàng thì chẳng chút hề hấn gì.
Vua Lạc Việt trông thấy đâm ra hoảng kinh, mắng công chúa:
- Xem thằng chồng phụ bạc của mầy kia, nếu mầy không giết chết nó, đừng có về đây nữa gặp tao.
Nàng công chúa vừa xấu hổ vừa tức giận, vội vã cầm thương lên ngựa, nhắm ngực hoàng tử đâm tới. Hoàng tử vội vã né đông tránh tây, mấy lần lấy kiếm hất mũi giáo của công chúa ra, chàng nói:
- Công chúa sao lại phẩn nộ thế nầy? Bỗng nhiên mang quân xâm lấn bờ cõi, nay còn chính tay mình muốn giết chết chồng?
Công chúa nói:
- Nhà ngươi còn dám nói! Phụ vương có làm điều gì sai trái đốI với ngươi? Ta đây có làm gì quấy đốI với nhà ngươi đâu mà nhà ngươi đánh cắp chiếc nỏ thần quốc bảo, lạI còn chuẩn bị dấy binh xâm lấn nước ta. Cái con người vô tâm bộI bạc như nhà ngươi không giết chết cho rồi thì lấy gì để tạ lỗi nước nhà của ta đây, hả?
Hoàng tử nghe công chúa nói vậy bèn cảm thấy chưng hửng ra không biết biện bạch đối đáp thế nào. Nàng công chúa tưởng hoàng tử nhìn nhận chuyện nầy, liền thừa cơ phóng giáo đâm tới, ngờ đâu trên thân mình hoàng tử nhờ có đeo thanh bảo kiếm "Hoà Tập Bách Việt", thanh kiếm nầy tự động hoá giải mọi thứ cứu hoàng tử khỏi trúng thương. Kẻn kẻn hai tiếng, ngọn giáo của công chúa bị cản lại và còn làm ngọn giáo gãy rụng đứt lìa.
Hoàng tử phóng người nhảy xuống ngựa, quỳ ngay trướcmặt công chúa, hai tay nâng thanh bảo kiếm "Hoà Tập Bách Việt", khóc lóc mà nói:
- Nghĩ đến tình nghĩa phu thê bấy lâu nay, không làm điều gì sai trái cả. Chẳng qua phụ thân lâm trọng bịnh đành phải quay về nước, định thân phụ hết bệnh là trở về đoàn tụ với công chúa, nào ngờ đâu thân phụ băng hà.
Giờ đây cả nước để tang, rôi lại thấy nước của nàng dấy binh sang đánh, mình đây vì sinh linh bá tánh, liều mình một thân một ngựa ra lâm trận. Nàng nếu quả muốn giết mình thì rất dễ thôi, chỉ tiếc là nàng bị trúng mưu kẻ gian. Làm gì có chuyện đánh cắp nỏ thần? Giờ đây để chứng tỏ tấm lòng của mình, xin dâng thanh bảo kiếm nầy, nàng muốn giết mình thì cứ xuống tay!"
Nói xong, hoàng tử hai tay nâng thanh kiếm lên.
Công chúa tiếp nhận thanh kiếm, nhớ lại cảnh tượng hoàng tử mưu mô đánh cắp chiếc nỏ thần, quả thục nàng cảm thấy cử chỉ của kẻ đó với vị hoàng tử nầy không giống nhau, nhưng công chúa lại e sợ để tình cảm lấn áp lại bị mắc mưu thêm lần nữa. Đang trong lúc công chúa còn trù trừ do dự bất quyết, vị vua Lạc Việt đúng lúc ấy đang ở đằng sau nổI trận lôi đình, ngài ra lệnh:
- Tất cả nghe đây, ta hô lên đến tiếng thứ ba nếu mà công chúa vẫn chưa chịu xuống tay giết chết thằng chó chết đó, có nghĩa là công chúa vẫn còn bị nó mê hoặc, quân bay cứ xả tên bắn chết cả hai đứa nó cho ta. Nếu mà ta hô đến tiếng thứ hai mà công chúa giết chết thằng giặc đó rồi thì chúng bay hãy thu hồi cung tên lại, quân bay có nghe chưa?
Lệnh vua đã ban xuống, quân sĩ cả đoàn bao vây vị hoàng tử và nàng công chúa lại, giương cung nỏ nhắm hai người, chuẩn bị buông tên.
Hoàng tử nói:
- Công chúa, xin hãy giết mình đi! Nàng khỏi bị vạ lây.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét