Thứ Tư, 22 tháng 2, 2017
CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/l (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)
10 loại vũ khí mạnh nhất trong võ thuật
Thứ Vũ Khí Từ Thời Cổ Đại Tới Nay Vẫn Chưa Có Đối Thủ
Vũ khí cổ đại P11
Siêu chiến binh giáp sắt - nỗi kinh hoàng thời La Mã cổ đại
- 45
Được coi là "cỗ xe
tăng" thời cổ đại, mạnh mẽ không gì có thể ngăn cản được và là nỗi ác
mộng của 10.000 người La Mã sống sót sau thảm kịch tại Carrhae.
Trong ngôn ngữ cổ đại, từ “Cataphract”
được người La Mã và Hy Lạp sử dụng để mô tả những kỵ binh siêu nặng
trên chiến trường. Nhưng bạn có từng hỏi, tại sao họ lại được gọi là kỵ
binh siêu nặng?
Mọi người đều biết rằng, kỵ binh được chia làm 2 loại: kỵ binh nặng và kỵ binh nhẹ. "Nặng" và "nhẹ" là khái niệm dùng để chỉ lượng trang bị mà một kỵ binh mang theo, đó có thể là áo giáp, vũ khí, mũ mão, áo choàng sắt cho ngựa.
Nhưng với riêng các Cataphract, lượng
trang bị mà họ mang nhiều hơn quá mức so với một kỵ binh nặng thông
thường. Vì thế, người ta gọi Cataphract là lớp kỵ binh siêu nặng.
Một bức vẽ mô tả lại Cataphract.
Các kỵ binh Cataphract là kiệt tác thời cổ đại
Khái niệm về kỵ binh nặng đã có từ rất
lâu, những ghi chép cổ nhất cho thấy kỵ binh nặng đã xuất hiện từ thế kỷ
thứ 6 TCN tại khu vực Kwarezm, vùng đất thuộc châu Á gần biển Aral ngày
nay.
Kỵ binh nặng dần thay thế chiến xa
(chariot) và trở thành phần tử chủ lực trong quân đội của người
Assyrian, người Achaemenid và Macedonia của Alexander Đại đế.
Khái niệm “kỵ binh nặng” thời đó dần trở nên thông dụng, đóng vai trò vô cùng quan trọng trong chiến thuật thời cổ đại lúc bấy giờ.
Từ Cataphract (tiếng Latin cataphractus, tiếng Hy Lạp kataphractoi) bắt đầu xuất hiện để chỉ những kỵ binh “nặng” nhất.
Nếu như các kỵ binh Hetairoi (kỵ binh
dưới thời Alexander Đại đế) thường được trang bị áo giáp ngực thì
Cataphract lại vận giáp kín người bao gồm: mặt nạ, bọc tay, bọc chân và
toàn bộ những phần cơ thể còn lại. Chưa kể có vậy, ngay cả những chú
ngựa cũng được bọc trong những bộ giáp dày và nặng nề.
Bản thân từ Cataphract trong tiếng Hy
Lạp không có nghĩa mô tả lượng áo giáp khổng lồ mà một chiến binh phải
mang theo tuy nhiên sau này, nó đã dần biến thể theo chính danh từ mà nó
mô tả. Đến bây giờ trong tiếng Anh, Cataphract vừa có thể là tính từ
(bọc kín trong giáp sắt) vừa có thể là danh từ (siêu giáp trọng kỵ).
Các học giả cổ sau này đều viết về Cataphract như thể đó là một tuyệt tác của thế giới cổ đại. Sallust (86 - 34TCN) nói “Bộ mặt của kỵ binh Cataphract chính là sắt” trong khi Ammianus Marcellinus (mất năm 350) lại cho rằng: "Những vòng tròn thép bọc vòng quanh cơ thể sẽ hoàn toàn che kín dù là bó cơ nhỏ nhất của chiến binh”.
Ammanius ca ngợi các kỵ binh Cataphract như là "những bức tượng được làm dưới bàn tay Praxiteles" (nhà điêu khắc thiên tài thời cổ đại) và khiến đối thủ của họ phải tỏ ra e dè ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Hoàng đế La Mã Aurelian khi lần đầu nhìn thấy các kỵ binh của Đế chế Palmyrene trong trận Emesa năm 270 đã phải thốt lên: “Họ quá tự tin vào những bộ giáp nhưng quả thực chúng thật sự chắc chắn và an toàn”. Nhiều tài liệu cho biết, dưới những lớp giáp sắt, các kỵ binh còn mặc thêm giáp làm bằng da thú hoặc hợp kim đồng.
Kỵ binh Cataphract của đế chế Parthia và người Armenia.
Làm sao một con người cũng như một chú
ngựa có thể mang trên mình một khối lượng giáp khổng lồ như vậy mà không
thấy mệt? Dĩ nhiên là họ sẽ rất nhanh mệt nhưng theo sử gia Heliodorus,
các kỵ binh Cataphract đều được tuyển chọn kỹ càng - đó phải là những
người có ngoại hình cùng kích thước cơ thể vượt trội.
Cả những chiến mã cũng phải trải qua vòng tuyển chọn gắt gao. Sử sách ghi lại rằng, chỉ có giống ngựa Nisean là thích hợp để làm vật cưỡi cho các kỵ binh Cataphract.
Đây là giống ngựa có nguồn gốc từ vùng
cao nguyên Nisean (Iran ngày nay), sở hữu kích thước và sức mạnh vượt xa
các giống ngựa bình thường.
Độ hung hăng, bền bỉ của ngựa Nisean vượt xa các giống ngựa bình thường.
Người La Mã từng vô cùng ấn tượng trước
sức khỏe phi thường và độ lì lợm của giống ngựa này khi chạm trán với Đế
quốc Parthia. Người ta tin rằng Bucephalus - con vật cưỡi huyền thoại
của Alexander Đại đế chính là một chú ngựa Nisean.
Giống ngựa Nisean thời đó quý và quan
trọng đến mức thường xuyên trở thành đề tài chính gây ra các cuộc chiến
tranh giữa nhiều quốc gia quanh khu vực Iran ngày nay.
Không chỉ sở hữu bộ giáp sắt thể hiện sự
mạnh mẽ, các Cataphract còn là bậc thầy trong việc sử dụng nhiều loại
vũ khí khác nhau, bao gồm cung tên, chùy, giáo, gươm… Tuy nhiên vũ khí
thông dụng nhất của họ là một ngọn thương dài 3,6-4m có tên gọi là Kontos.
Các Cataphract cầm Kontos bằng 2 tay.
Các Cataphract thời kỳ đầu không sử dụng khiên vì lý do họ phải cầm Kontos bằng 2 tay. Với tốc độ của ngựa cùng trọng lượng siêu “khủng”, các Cataphract lao tới đối phương xuyên thủng hàng phòng ngự bằng trường thương Kontos.
Theo sử gia Plutarch, ngọn thương của
các Cataphract có thể đâm xuyên 2 người mặc giáp cùng lúc. Đó quả là một
cỗ xe ủi đúng nghĩa trên chiến trường cổ đại.
Tuy nhiên không có gì là hoàn hảo và các Cataphract cũng vậy. Bên cạnh “chi phí bảo dưỡng” cực đắt cho bộ giáp, sự nặng nề của chúng khiến cho việc xoay trở vô cùng khó khăn. Do vậy, kỵ binh Cataphract chậm chạp hơn nhiều lần so với các kỵ binh khác.
Khi các Cataphract lao tới, không gì có thể cản nổi họ.
Đặc biệt là vào thời cổ đại, khi bàn đạp
trên ngựa chưa được phát minh, việc điều khiển được những chú ngựa
Nisean siêu khỏe càng trở nên khó khăn hơn.
Sử sách không ghi nhiều về những thất
bại của Cataphract nhưng chúng ta cũng có thể hình dung ra, nếu bị ngã
ngựa thì các Cataphract chưa chắc đã đứng dậy nổi. Sử gia Heliodorus mô
tả Cataphract không ngựa giống như những thanh gỗ nằm dưới đất vậy.
Trở thành nỗi khiếp sợ của người La Mã
Được trang bị tới "tận chân răng" như vậy nhưng trong thời kỳ đầu, những ghi chép về Cataphract cho thấy họ toàn… thua chứ ít khi nào thắng.
Bởi một lẽ chưa một danh tướng nào biết sử dụng Cataphract cho đến tận trận Carrhae giữa Cộng hòa La Mã và Đế chế Parthia.
Trước trận này, Cataphract xuất hiện lần
đầu trong trận Panion năm 200TCN (Cataphract của đế chế Seleucid đối
đầu với vương quốc Ptolemaic) và trong trận Magnesia năm 188 TCN khi đế
chế Seleucid chiến tranh với Cộng hòa La Mã.
Tại Magnesia, Vua Seleucid, Antiochus the Great đã mang tới 3.000 Cataphract cùng 1.000 kỵ binh cận vệ Agema vào chiến trường.
Tuy nhiên Seleucid thảm bại trong trận
này mặc dù đông đảo hơn. Ở cánh trái, Cataphract thua tan nát trước các
kỵ binh được trang bị nhẹ hơn nhiều của người La Mã do có bộ binh hỗ
trợ.
Ở cánh phải, Cataphract thành công khi
đẩy lùi được quân La Mã, tuy nhiên khi cánh trái và trung quân đã vỡ nát
thì thành công này không được ai nhớ đến.
Phải đến năm 53 TCN, người ta mới biết
đến sức mạnh kinh hồn của các Cataphract. Khoảng 1.000 Cataphract và
9.000 xạ kỵ của Đế chế Parthia dưới sự chỉ huy thiên tài của Surena đánh
tan 40.000 quân La Mã của Marcus Linus Crassus (một trong tam hùng La
Mã thời đó, bên cạnh Pompey Magnus và Gaius Julius Caesar) mà chỉ thiệt
hại có vỏn vẹn hơn… 100 người.
Các kỵ binh Cataphract của Parthia - nỗi khiếp sợ của người La Mã. Người Parthia từng là chư hầu của đế chế Seleucid trước khi tự giành lấy độc lập vào năm 250 TCN.
Sau này khi Đế chế Seleucid tan vỡ,
người Parthia nhanh chóng giành lấy vị thế bá chủ phương Đông và tự lập
ra quân đội gồm đa phần là kỵ binh, trong đó có các Cataphract.
La Mã đánh bại đế chế Seleucid sở hữu 3.000 Cataphract năm 188.
Crassus đã từng gặp Cataphract, đã từng
gặp xạ kỵ Parthia nhưng đều chiến thắng dễ dàng mà không phải đổ một
giọt mồ hôi. Vì thế chẳng mấy ai tin tưởng lượng quân ít ỏi của Surena
có thể ngăn bước tiến của La Mã.
Quay trở lại trận Carrhae, trong trận
này, Surena đã sử dụng chiến thuật luân phiên vô cùng sáng tạo: 9.000 xạ
kỵ chỉ chạy vòng quanh và bắn tên vào quân La Mã, bắt buộc bộ binh La
Mã phải lui về xếp đội hình mai rùa (testudo) để chống lại.
Và khi họ đã xếp thành công testudo thì
các Cataphract mới vào cuộc. Sự nặng nề của những cỗ xe tăng người -
ngựa và sức mạnh kinh hồn của ngọn trường thương Kontos đã phát huy tác
dụng. Người La Mã khi thu về đội hình testudo thì không thể làm gì khi
những cỗ xe ủi Parthia này lao vào người.
Vì thế, từng người từng người trong số
các chiến binh La Mã trở thành mồi ngon cho Kontos. Những người sống sót
sau này khi kể lại vẫn còn run rẩy nhớ lại tiếng rầm rập của vó ngựa
Cataphract lúc đến gần. Họ không biết họ sẽ chết lúc nào…
Khi bộ binh La Mã trở lại đội hình bình
thường để chặn bước tiến của các Cataphract thì đó cũng là lúc Surena
phất cờ báo hiệu rút lui, để 9.000 xạ kỵ tiếp tục rót mưa tên vào quân
La Mã.
Trận Carrhae năm 53 TCN, nơi La Mã thảm bại.
Cứ như thế, khi quân La Mã xếp testudo, Cataphract sẽ lao vào còn khi họ xếp đội hình thông thường, xạ kỵ sẽ tiếp tục bắn.
Cuộc chiến kéo dài từ sáng đến tận chiều tối và gần như chỉ có một mình quân Parthia đánh và La Mã phải oằn mình hứng chịu.
Surena thông minh tới mức chuẩn bị sẵn
5.000 con lạc đà mang tên để cho các xạ kỵ thoải mái bắn mà không cần
phải nghĩ nhiều. Crassus sau khi nhìn thấy 5.000 con lạc đà ở đằng xa đã
gần như thất vọng tột cùng và chỉ huy các kỵ binh người Gaul vào trận.
Những kỵ binh này vốn rất tinh nhuệ,
từng chiến đấu bên cạnh Caesar tại Alesia năm nào. Tuy nhiên đây là lần
đầu tiên họ phải giao chiến với những kẻ bọc giáp toàn thân như
Cataphract.
Kết quả đã rõ, những ngọn giáo, lưỡi
gươm của các kỵ binh Gaul không thể đả thương Cataphract. Hoàn toàn vô
vọng trong cả tấn công lẫn phòng thủ, quân đội La Mã của Crassus mất gần
hết, thiệt mạng tới 20.000 người, bị bắt sống 10.000 và chỉ còn 10.000
quân chạy thoát.
Lúc này người ta mới nhận ra người chỉ
huy có tác dụng quan trọng như thế nào. Surena được tôn vinh như anh
hùng và đó cũng chính là nguyên nhân khiến ông bị xử tử vì nghi ngờ phản
bội ngay sau đó.
Vào năm 39 Hoàng tử Pacorus mang quân
tấn công người La Mã và lần này, lực lượng Cataphract còn đông hơn
trước. Tuy nhiên chiến dịch đã trở thành một thảm họa khi La Mã chiếm
được cao điểm và Pacorus ra lệnh cho Cataphract phải tấn công lên… trên
đồi.
Trường thương Kontos - nỗi ám ảnh của những người La Mã sau trận Carrhae.
Bắt những kỵ binh nặng hơn cả tê giác
phải leo lên ngược dốc như vậy quả thực là ác mộng. Hệ quả là Pacorus bị
giết khi giao tranh và quân Parthia thất bại thảm hại. Đồng thời điều
đó cũng chứng minh được rằng, Cataphract phải không thể dùng làm lực
lượng chính trong quân đội.
Cataphract có thể gây nên sự kinh hoàng,
làm rối loạn đội hình đối phương và gây sát thương cực mạnh nhưng chỉ
khi có sự hỗ trợ của các đơn vị quân khác.
Sự du nhập của Cataphract vào các nước, kể cả... Việt Nam
Người La Mã không coi kỵ binh Macedonia,
truyền nhân của Alexander Đại đế ra gì nhưng họ lại luôn e dè sức mạnh
của các Cataphract. Vào thế kỷ II, người La Mã đưa Cataphract vào trong
quân đội như một phần không thể thiếu.
Đế chế Byzantine (Đông La Mã) xây dựng lực lượng Cataphract mang tên Athanatoi
lên tới 10.000 người vào những năm đỉnh cao. Cataphract trên chiến
trường vẫn luôn giữ được oai phong cùng sự mạnh mẽ và đóng một vai trò
vô cùng quan trọng trong nền quân sự của tất cả các nước thời Trung cổ,
chỉ là biến thể đi mà thôi.
Trận Carrhae đánh dấu vị thế siêu cường của Đế chế Parthia thời đó và sự uy mãnh của các Cataphract.
Ví dụ ở Thổ Nhĩ Kỳ dưới triều đại của đế
chế Ottoman, các Sipahi - lực lượng kỵ binh của Ottoman sau này đa phần
được trang bị y như những Cataphract.
Điều đó có thể lý giải do quãng thời
gian dài chiến tranh với Đế quốc Byzantine đã khiến người Ottoman ấn
tượng với những Cataphract và dần dần chuyển hóa chúng vào quân đội của
mình.
Nhưng nhiều tư liệu khác lại cho rằng sự
du nhập của Cataphract chủ yếu đến từ những nước nằm ở phía Đông, khu
vực đế chế Ba Tư cổ đại, nơi sinh ra các Cataphract. Điều minh chứng rõ
ràng nhất là sau khi Mông Kha dẫn 20 vạn quân Mông Cổ xâm lăng xứ sở Hồi
giáo, quân Mông Cổ bắt đầu sử dụng các loại kỵ binh siêu nặng, bọc giáp
toàn thân giống như các Cataphract.
Kỵ binh Gendarmes có thể coi là truyền nhân của Cataphract.
Sự phát triển của kỵ binh siêu nặng
Cataphract còn xuất hiện ở cả… Việt Nam. Cho đến giờ chưa có một sử sách
nào ghi lại tầm ảnh hưởng của Cataphract ở Iran lên Đại Việt cổ tuy
nhiên Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi rằng: “Ngày 27 năm Quang Hưng
thứ 14 (1591), hai bên quân Trịnh và quân Mạc đối mặt với nhau, lại chọn
400 thiết kỵ xông lên trợ chiến…
Ba ngày sau, Trịnh Tùng cho quân
tiến đánh Thăng Long, nhằm tiêu diệt hoàn toàn quân Mạc, sai Nguyễn Hữu
Liêu đem 5.000 quân tinh nhuệ và voi khỏe cùng ngựa bọc sắt, đến giờ
Dần, thẳng tiến đến đóng ở câu Cao tại góc Tây Bắc thành Thăng Long…”.
Bức ảnh mô tả lại một kỵ binh bọc sắt của Đại Việt, tuy nhiên chỉ mang tính tham khảo và hình tượng. (Ảnh: empoleon92 trên Devianart).
Do sau này, bàn đạp ngựa đã du nhập vào
Việt Nam nên việc sử dụng vũ khí trên lưng ngựa trở nên thoải mái hơn
nhiều, không nhất thiết phải sử dụng trường thương bằng cả 2 tay như
trước nữa.
Không ai biết từ khi nào Cataphract dần
biến mất khỏi chiến trường. Chỉ biết rằng với sự phát triển của súng ống
và đại bác, những bộ giáp cực nặng như thế trở thành gánh nặng thì
người ta đã thay thế các Cataphract bằng những kỵ binh “nhẹ” hơn. Sau
này các đội kỵ binh thường chỉ mặc áo giáp ngực, có tên gọi là Cuirassier.
Dẫu vậy, sự tồn tại của Cataphract suốt
ít nhất 22 thế kỷ (từ thế kỷ thứ VI TCN đến thế kỷ thứ XVI khi thuốc
súng phát triển mạnh mẽ) đã đánh dấu vị trí lịch sử không thể lu mờ.
Những hình vẽ, những bức phù điêu về
Cataphract vẫn luôn gợi cho người xem sự tò mò về một thời chiến tranh
đẫm máu trong lịch sử, nơi mà ngọn trường thương Kontos đã trở thành nỗi
ác mộng với nền quân sự siêu việt nhất thế giới thời đó - người La Mã.
Cập nhật: 15/09/2014
Theo Mask, Champsdebataille, Elfinspell, Iranchamb
Tiết lộ đáng kinh ngạc về quân đội La Mã
Những người lính trong quân đội La Mã được đào tạo trở thành những chiến
binh thiện chiến và tuân thủ những quy định nghiêm ngặt.
Tâm Anh (theo LV)
Theo các ghi chép lịch sử, trước năm 107 TCN, công dân muốn gia nhập quân đội La Mã phải
có tài sản trị giá 3.500 sertertius cũng như phải có khả năng nộp thuế
và tự mua vũ khí. Quy định này được đặt ra để giảm chi phí quốc phòng
đồng thời giúp người lính có động lực bảo vệ tài sản của mình.
Sau năm 107 TCN, quy định trên được xóa bỏ. Theo đó, nhiều đối tượng có thể gia nhập quân đội La Mã thời cổ đại hơn như người vô gia cư, người thất nghiệp, người nghèo...
Vào
thời kỳ đầu, quân đội La Mã thường tiến hành một cuộc chiến tranh vào
thời điểm giữa lúc gieo hạt và thu hoạch bởi nền kinh tế Rome chủ yếu
dựa vào nông nghiệp. Nếu chiến tranh diễn ra vào mùa đông sẽ đòi hỏi chi
phí lớn. Do vậy, nếu chiến tranh không thể kết thúc vào mùa hè thì quân
đội La Mã sẽ chờ qua mùa đông mới tiếp tục tiến hành cuộc chiến còn
dang dở đó.
Cách thức tổ chức
quân đoàn La Mãbao gồm: 10 cohors và mỗi cohors chia thành 6 centuria. Trong đó, mỗi centuria gồm 10 contubernium có 8 binh lính – tương đương với số binh sĩ trong tiểu đội ngày nay.
quân đoàn La Mãbao gồm: 10 cohors và mỗi cohors chia thành 6 centuria. Trong đó, mỗi centuria gồm 10 contubernium có 8 binh lính – tương đương với số binh sĩ trong tiểu đội ngày nay.
Xét
theo biên chế đầy đủ, mỗi quân đoàn La Mã sau cải cách Marius năm 107
gồm khoảng 5.000 binh lính, trong đó có lực lượng equites legionis (tức
kỵ binh lê dương) gồm khoảng 120 người.
Những
kỵ binh lê dương thường phục vụ trong quân đội La Mã trong 20 năm. Cũng
giống như những binh sĩ khác phục vụ trong quân đội 20 năm, kỵ binh lê
dương cũng được trả lương, được chia phần thưởng như tiền, đất đai hoặc
có cơ hội thăng tiến khi quân đội giành chiến thắng tùy vào chiến công
của mình. Thậm chí, họ còn được hưởng lương hưu sau 20 năm chinh chiến,
phục vụ tổ quốc.
Sau
25 năm phục vụ trong quân ngũ, những người không phải là công dân La Mã
sẽ nhận được phần thưởng chính là trở thành công dân của đế chế hùng
mạnh này. Điều đó đồng nghĩa với việc họ sẽ có nhiều đặc quyền hơn.
Vào thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, quân đội La Mã có hơn 1 triệu binh sĩ.
Trung
bình, mỗi binh sĩ La Mã phải mang theo quân tư trang, vũ khí nặng
khoảng hơn 40 kg và trung bình hành quân khoảng 32 km/ngày.
Binh sĩ La Mã sử dụng rất nhiều loại vũ khí khác nhau như: dao găm, lao pilum, kiếm ngắn gladius, cây thương, cung tên...
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét