Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2017
CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/g (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)
Vũ khí cổ đại P7
Vũ khí khủng khiếp thời cổ đại
Hai trận hải chiến lớn và khủng khiếp nhất lịch sử cổ đại
Hoa Hướng Dương |
Trận Salamis và Xích Bích là 2 trận hải chiến khủng khiếp nhất thời cổ đại ở phương Tây và phương Đông.
Hãy cùng khám phá những trận hải chiến lớn đáng chú ý nhất trong lịch sử:1. Trận Salamis - Ba Tư xâm lược Hy Lạp
Trận Salamis
Ba Tư muốn chiếm cả Hy Lạp
Vua Darius I của Ba Tư là người tàn bạo và muốn dùng vũ lực chế ngự với những nước chống đối cứng đầu như Hy Lạp.
Vua Ba Tư hung bạo muốn bành trướng thế lực
Quân Ba Tư vượt trội
Tuy nhiên, tại Athena, các sứ giả của Ba Tư đã bị xử tử, còn tại Sparta họ đã bị đá xuống giếng. Điều đó có nghĩa là xứ Sparta đã sẵn sàng cho một cuộc chiến với Ba Tư
Thời gian địa điểm
Địa điểm diên ra trận hải chiến
Trận đánh đánh dấu đỉnh điểm của cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của Đế quốc Ba Tư vừa mới bắt đầu vào mùa xuân năm đó.
Trận hải chiến lớn này có ý nghĩa lớn với lịch sử Hy Lạp Cổ đại
Người Athena cũng đã bắt đầu ráo riết chuẩn bị chiến tranh với người Ba Tư
Những phe ủng hộ hai xứ này bắt đầu kết hợp lại dưới sự lãnh đạo của Athena và Sparta.
Một hội nghị của các thành bang đã được tổ chức tại Corinth vào cuối mùa thu năm 481 TCN và một Liên minh các thang bang Hy Lạp đã được thành lập.
Trận đánh quyết định cuối cùng
Bị trúng kế của Themistocles, hải quân Ba Tư đã tiến vào eo biển Salamis
Trong điều kiện chật chội ở một eo biển hẹp, hạm đội khổng lồ của Ba Tư đánh mất hết tác dụng, các tàu đánh mật sự cơ động và trở nên vô tổ chức.
Ý nghĩa
Chiến thắng Ba Tư sẽ làm đảo lộn sự phát triển của thế giới Hy Lạp cổ đại
Điều này đã khiến họ tuyên bố rằng Salamis là một trong những trận đánh quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
2. Xích Bích Đại Chiến
Xích Bích Đại Chiến
Từ cuối thế kỷ 2, triều đình nhà Đông Hán suy yếu, vua cuối cùng nhà Đông Hán là Hán Hiến Đế tuy ngồi trên ngai vàng tới 31 năm nhưng thực chất không có quyền lực mà đều do thừa tướng Tào Tháo thâu tóm.
Lưu Bị phải nương tựa Lưu Biểu
Lưu Biểu (Lúc này Lưu Bị đang nương nhờ tại đây) và Tôn Quyền.
Thời gian địa điểm
Trận đánh diễn ra vào mùa Đông năm Kiến An thứ 13
Phần lớn các học giả cho rằng Xích Bích nằm ở đâu đó trên bờ nam Trường Giang giữa Tây Nam Vũ Hán ngày nay và Đông Bắc Ba Khâu (nay là thành phố Nhạc Dương)
Diễn biến chính
a. Đánh Lưu Biểu thuận lợi
Quân Tào Tháo áp đảo về lực lượng
Bước đầu chiến dịch bình định phía Nam của Tào Tháo trở nên dễ dàng khi Lưu Biểu trở nên đau ốm còn quân đội Kinh Châu dưới quyền ông ta thì mệt mỏi sau những xung đột với lực lượng của Tôn Quyền.
Tham vọng bình nam của Tào Tháo
Tào đạt được mục tiêu đầu tiên chiếm Kinh Châu đồng thời tăng cường được một lực lượng thủy quân mạnh và giàu kinh nghiệm chiến đấu ở Kinh Châu.
Liên minh Lưu- Tôn
b. Đánh Tôn Quyền - Xích Bích Đại Chiến
Xích Bích 1: Quân Tào rút chạy về Ô Lâm
Trận đánh đầu tiên
Quân Tào gặp bất lợi
Quân Tào không thể giành được lợi thế trong những trận giao tranh nhỏ ban đầu và buộc phải lui về đóng quân ở Ô Lâm.
Xích Bích 2: Khổ Nhục Kế
Để
giảm sự tròng trành của thuyền chiến (làm quân Tào vốn không quen với
thủy chiến thường xuyên rơi vào trạng thái say sóng), Tào Tháo ra lệnh
dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau.
Khi đội "hàng binh" của Hoàng Cái đến giữa sông thì các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và chúng theo gió Đông Nam lao thẳng vào hạm đội của Tào.
Trong
điều kiện gió lớn và bị xích vào nhau, các thuyền chiến của Tào Tháo
nhanh chóng bắt lửa khiến một số lớn binh mã chết cháy trên thuyền hoặc
chết đuối dưới sông.
Xích Bích 3: Quân Tào đại bại
Hỏa chiến
Liên quân Lưu- Tôn truy quét bại binh Tào Tháo
Trận hải chiến là một trận đánh lớn cuối thời Đông Hán có tính chất quyết định đến cục diện chia ba thời Tam Quốc.
Khổng Minh du thuyết là câu chuyện nổi tiếng trong Tam Quốc Chí của La Quán Trung.
theo Trí Thức Trẻ
Những bí ẩn về bãi cọc Bạch Đằng huyền thoại
07:02 | 11/02/2017
|
Bạch Đằng giang là nơi
diễn ra 3 trận đánh lớn trong lịch sử dân tộc vào các năm 938, 981,
1288. Mỗi trận đánh đều tạo bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc. Có một điểm chung trong các trận thủy chiến trên
sông Bạch Đằng là các danh tướng Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo đều
sử dụng chiến thuật đóng cọc ngầm dưới đáy sông khiến cho chiến thuyền
của địch mắc cạn. Dòng chảy thời gian hơn 700 năm đã che phủ nhiều bí ẩn
quanh trận thủy chiến oanh liệt này.
Một dòng sông huyền thoại
Vượt quãng đường dài 150km tới thị xã
Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh, nơi Bạch Đằng giang hòa vào Biển Đông, chúng
tôi bắt đầu hành trình lần tìm lại dấu vết trận thủy chiến oanh liệt,
của quân dân nhà Trần cách nay 728 năm. Dòng chảy thời gian, cùng bao
thăng trầm của thời cuộc, đã làm cảnh vật nơi đây đổi thay rất nhiều so
với sử xưa từng ghi chép.
Điều đặc biệt khiến tôi ấn tượng nhất
tại đây là việc mỗi người dân đều như một “pho sử sống”, qua những ký ức
tổ tiên mình truyền đời để lại. Không chỉ các nhà nghiên cứu lịch sử,
cán bộ bảo tàng địa phương, mà cả cụ già giữ đền, cô hàng nước, anh xe
ôm… đều có thể đưa những người muốn tham quan đến được những bãi trận
địa năm xưa... Tôi tranh thủ ghé thăm đền Trần Hưng Đạo để được thắp nén
hương trước tượng thờ vị danh tướng. Người địa phương đều tin rằng ông
linh thiêng lắm, còn tôi thầm xin ông dẫn đường cho mình trở lại đúng
nơi chiến trường vệ quốc năm xưa. Đền Trần nằm ngay bên bờ sông Bạch
Đằng và con sông lịch sử được các nhánh sông lớn nhỏ hợp thành, trước
khi đổ ra Biển Đông.
Đền thờ Trần Hưng Đạo tại Khu Di tích Bạch Đằng |
Sông Bạch Đằng chảy qua hai huyện Thủy
Nguyên (Hải Phòng) và Yên Hưng nay là thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh) đổ
ra cửa biển Nam Triệu. Sông Bạch Đằng, còn gọi là sông Vân Cừ, dòng chảy
mênh mông, sóng vỗ tung bọt trắng xóa. Trong “Dư địa chí”, Nguyễn Trãi
đã mô tả: “Sông Vân Cừ rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non
cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây cối lấp bờ,
thật là nơi hiểm yếu”. Tên Vân Cừ được giải thích bởi khi nước triều lên
có gió bắc thổi hoặc nước triều xuống có gió nam thổi, dòng sông cuộn
lên những con sóng lớn bạc đầu như mây trắng. Ngoài ra, sông Bạch Đằng
còn gọi là sông Rừng, với bến đò Rừng, bến phà Rừng nối đôi bờ Quảng
Ninh - Hải Phòng. Người Yên Hưng trước đây từng lưu truyền câu “Con ơi, nhớ lấy lời cha/ Nước lên, gió bấc chớ qua sông Rừng” để nói lên sự hiểm yếu của sông.
Ngày nay, sau gần 8 thế kỷ kể từ trận
chiến bãi cọc Bạch Đằng năm 1288, địa lý dòng sông đã có nhiều thay đổi
lớn. Theo sử sách ghi lại, cửa biển ngày đó so với bây giờ cách nhau
hàng chục kilômét do phù sa bồi đắp. Chắc nơi đây vào những tháng năm
của thế kỷ bão táp thời nhà Trần, là cửa sông sóng vỗ lưng trời như bờm
ngựa tung trắng xóa? Cảnh vật xưa nay thay đổi nhiều như vậy mà lòng
sông vẫn rộng ngút cả tầm mắt. Gió nắng quét những tia nắng mỏng màu kim
sa làm sáng cả mặt gương sông!
Bí ẩn bãi cọc Bạch Đằng giang
Từ ngã tư thị trấn Quảng Yên, đi về
hướng phà Rừng khoảng 2km, rẽ trái khoảng 500m là tới Bãi cọc Yên Giang
(còn gọi là Bãi cọc Bạch Đằng). Bãi cọc này hiện nằm trong khu Đầm Gụ
(các cụ cao niên trong làng giải nghĩa, “gụ” có nghĩa là nhử), thuộc
phường Yên Giang. Tới nơi, tôi may mắn được gặp cụ Đào Xuân Tự - Tổ
trưởng Ban Quản lý khu di tích Chiến thắng Bạch Đằng và được nghe kể sự
tích của tên gọi Đầm Gụ. Theo cụ Tự, có lẽ cái tên Đầm Gụ xuất phát từ
chiến thuật đánh giặc của Hưng Đạo Vương - Trần Quốc Tuấn là: Đầu tiên,
đánh chặn kìm hãm sức mạnh của địch, sau đó khiêu chiến và nhử địch vào
đúng vị trí và thời điểm trận địa cọc phát huy tác dụng.
Bước vào trong khu di tích, hình ảnh đầu
tiên tôi nhìn thấy là một tấm bia đá trang nghiêm rộng khoảng 1m, cao
2m. Phía trên cùng ghi dòng chữ: Di tích quốc gia đặc biệt: Di tích lịch
sử Bạch Đằng (Bãi cọc Bạch Đằng năm 1288). Phía dưới là phần mô tả:
“Dựa vào địa thế sông Bạch Đằng (thế kỷ thứ XIII), Trần Hưng Đạo đã cho
đóng những bãi cọc ở vị trí hợp lý, kết hợp với các dải đá ngầm tạo
thành một phòng tuyến chặn đường rút chạy của giặc Nguyên Mông…”.
Bia đá giới thiệu Khu Di tích Bạch Đằng |
Bên cạnh tấm bia là một hồ nước rộng khoảng 15m2,
được xây kè đá xung quanh. Lòng hồ nhô lên nhiều cọc gỗ có đường kính
t15-33cm, cắm theo hình chữ chi, cách nhau 0,9-1,1m, nghiêng theo hướng
ngược dòng sông. Mặc dù phần đầu cọc nhô lên đã bị chìm trong nước,
nhưng tôi vẫn nhìn khá rõ. Toàn bộ khu vực xung quanh là ao đầm nuôi
thủy sản và trồng lúa nước.
Từ câu thơ của Nguyễn Trãi: “Lớp lớp bờ
lau kiếm nát chồng”, cùng với những gì đã ghi lại trong sử sách, có thể
chắc chắn một điều rằng, những trận thủy chiến vĩ đại, đông đến hàng
ngàn chiến thuyền và hàng vạn quân binh, ở cả hai chiến tuyến nối tiếp
nhau, từ thời Ngô Quyền đến Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo ở Bạch Đằng sẽ còn
sót lại những di vật liên quan như: tàu thuyền, binh khí, vật dụng… ở
dưới đáy sông, biển. Tuy nhiên, do thời gian đã quá lâu vật đổi sao dời
cùng nhiều lý do khách quan đã làm ngành khảo cổ tới tận nay vẫn chưa
thể giải mã trọn vẹn được chiến tích của tiền nhân.
Khoảng năm 1953-1954, bí ẩn của bãi cọc
Bạch Đằng bắt đầu hé mở khi người dân địa phương ở xã Yên Giang, huyện
Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, phát hiện một số cọc gỗ lộ lên mặt đất, ở bãi
đầm cách ngã ba sông Chanh và sông Bạch Đằng khoảng 400m về phía đông.
Vị trí này cách trung tâm thị trấn Quảng Yên lúc ấy 2km về phía tây.
Người dân thấy có cọc gỗ lim còn tốt, đào đem về nhà sử dụng. Khoảng 200
cọc gỗ đã được nhổ lên trong 50 hố đất đào. Dần dà chuyện này được báo
lên chính quyền, ngay lập tức đã được Nhà nước quan tâm sát sao. Đến
ngày 26-11-1958, Vụ Bảo tồn - Bảo tàng với những tên tuổi như: Hoàng
Minh Giám, Đào Duy Anh, Nguyễn Lân... đã đến tận nơi ghi nhận thông tin
từ người dân địa phương và tiến hành đào khảo sát. Hai nhà sử học và
khảo cổ Diệp Đình Hoa, Phan Đại Doãn ghi lại trong báo cáo rằng: “Từ sau
đợt khai quật này, chiến thắng Bạch Đằng và nhất là trận địa cọc mới
được tìm hiểu một cách đầy đủ và cẩn thận... nhằm tìm hiểu sâu hơn,
truyền thống dân tộc và khoa học quân sự nước nhà”.
Các nhà khảo cổ đã sàng lọc được một số
bãi cọc, ở vùng thượng lưu sông Bạch Đằng, có thể không phải từ các trận
chiến lịch sử. Đó là hai dải cọc được phát hiện ven sông Giá, một chi
lưu của sông Bạch Đằng. Hầu hết cọc đều nhỏ, đường kính chỉ khoảng
6-10cm, thậm chí có cả cọc tre, được cắm san sát nhau ở khoảng cách
4-5cm. Ngoài ra, một số vùng khác cũng có các dải cọc tương tự. Ở chợ Đá
Bia, họ còn tìm thấy các hàng cọc chạy dọc ven đê, với nhiều loại cây
gỗ có đường kính 4-20cm. Một vài ý kiến ban đầu cho rằng, đây là những
bãi cọc phụ, hỗ trợ cho các bãi cọc chính, trong trận chiến Bạch Đằng.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến sau đó đã nghi ngờ giả thuyết này. Họ cho rằng,
đó có thể chỉ là các dải cọc kè chân đê, đã được gia cố theo thời gian.
Cụ Đào Xuân Tự kể: “Ngày xưa, ở vùng cửa sông này, quân dân nhà Trần, không chỉ giao chiến với
Cụ Đào Xuân Từ |
giặc Nguyên Mông dưới nước, mà còn có cả
nhiều trận đánh kết hợp trên bộ. Bãi chiến địa trải rộng từ địa hình
sông nước, đến bãi bồi, sơn cước. Các công trình khảo cổ nghiên cứu từ
năm 1958 đến nay, mới chỉ hé lộ được phần nào bí ẩn của tổ tiên”.
Tôi thắc mắc với cụ Tự: Tại sao nhiều
bãi cọc được tìm thấy, lại nằm rải rác trên bãi đầm, mà không thuộc lòng
sông Bạch Đằng? Cụ Đào Xuân Tự giải thích:“ Theo lời của những nhà khảo
cổ mà tôi được nghe, thì sông Bạch Đằng xưa, khi chưa có đê bao, bao
gồm cả một vùng rộng lớn, hiểm trở gồm sông Chanh, các dòng chảy băng
qua đảo Hà Nam, sông Rút và cả sông Bạch Đằng hiện nay. Luồng lạch phức
tạp, với nhiều bãi đá ngầm, bãi nổi, cùng mực thủy triều rất mạnh. Vì
vậy mà Hưng Đạo Vương đã nghiên cứu rất kỹ các yếu tố tự nhiên này, bố
trí cắm cọc, dẫn dụ đoàn chiến thuyền Nguyên Mông, vào đúng vị trí thuận
lợi nhất, để quyết chiến khi triều xuống”.
Cụ Đào Xuân Tự chỉ tay vào mấy đầu cọc
gỗ chồi lên mặt đất thao thao bất tuyệt: Đây chỉ là một vài chiếc cọc,
trong nhiều bãi cọc mà người xưa đã cắm làm trận địa, giăng bẫy quân
thù. Thế trận rất phức tạp, chằng chịt, không chỉ như hình dung đơn
giản, là cắm cọc ngang sông, để chặn tàu giặc. Từ năm 1958, nhóm khảo cổ
đầu tiên, ngoài sàng lọc được những bãi cọc dân sinh, cũng tìm thấy
nhiều trận địa cọc quân sự. Ở bãi đầm xã Yên Giang, bên tả ngạn sông
Chanh, cách ngã ba sông Bạch Đằng và sông Chanh khoảng 414m, họ đã phát
hiện bãi cọc dài 118m, rộng 20m. Các nhà khảo cổ cứ đào xuống bãi nào là
tìm thấy cọc trong diện tích bãi ấy. Địa chất tự nhiên rất rõ ràng với
đất phù sa cổ. Hầu hết cọc đều là gỗ lim bền cứng, được ưa dùng ở miền
Bắc. Một số ít là gỗ táu còn nguyên cả vỏ. Các nhà khảo cổ đo chiều dài
của chiếc cọc, ở hố đào thứ nhất dài 1,75m, cọc ở hố thứ hai dài 2,65m
với đường kính 31cm. Ở hố đào thứ ba, họ còn tìm thấy cây cọc dài 2,8m.
Tất cả, đều được đẽo nhọn một đầu, để cắm sâu xuống đất 0,5-1m, với thế
hơi nghiêng về hướng sông Bạch Đằng.
Theo những tài liệu đã được 2 nhà khảo
cổ Phan Đại Doãn và Diệp Đình Hoa công bố từ những năm 70 của thế kỷ
trước, có thể khẳng định những di tích lịch sử tại Khu di tích Bạch Đằng
chắc chắn có liên quan đến trận đánh của Trần Hưng Đạo. Tuy nhiên, đây
mới chỉ là một bộ phận nhỏ của bãi chiến trường oanh liệt, đã tiêu diệt
toàn bộ cánh thủy quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, ngày 8-3 năm Mậu Tý
(1288).
Tiền nhân đã đóng cọc như thế nào?
Kết quả sau các đợt khảo cổ năm 1976,
1984 các nhà khảo cổ đã tìm thấy hai loại vồ đóng cọc lớn nhỏ khác nhau.
Vồ nhỏ dài 1,2-1,3m, rộng 0,2m, đẽo đầu to đầu nhỏ, mặt gỗ đóng vào cọc
được vát phẳng để không bị trượt. Loại vồ lớn hơn có chiều ngang 0,25m
và dài 1,5m, đủ trọng lượng để người xưa đóng được cọc xuống đáy sông.
Các nhà khảo cổ nghiên cứu, người xưa có thể đã biết sử dụng kỹ thuật
ròng rọc như chiếc búa máy, để kéo chiếc vồ này lên cao và thả dộng
xuống đầu cọc. Một đầu vồ vát nhỏ, là để họ cầm điều chỉnh cho vồ đóng
chính xác vị trí. Ngoài ra, các nghiên cứu khác cũng cho thấy, còn có kỹ
thuật đóng cọc đơn giản, bằng cách cầm cọc dộng lắc xuống đáy sông. Đây
là kỹ thuật đóng cọc vào đất bùn không cứng lắm, mà dân gian đã có
nhiều kinh nghiệm truyền đời.
Bãi cọc ở Cánh đồng Vạn Muối |
Trải qua một thời gian dài, số cọc hiện
còn khoảng 300 cọc là gỗ lim, táu, sến, đường kính 15-33cm. Tháng
11-2005, Viện Khảo cổ học Việt Nam và Sở Văn hóa Thông tin (nay là Sở
Văn hóa - Thể thao và Du lịch) đã phối hợp nghiên cứu khảo cổ thám sát
quy mô, mật độ, tầng văn hóa của bãi cọc. Ở đây, các cọc được cắm theo
hình chữ chi, cách nhau 0,6-1,1m và nghiêng theo hướng ngược dòng sông,
số cọc hiện còn khoảng 600-1.000 cọc là gỗ lim, táu, sến, đường kính cọc
10-30cm. Bãi cọc Đồng Má Ngựa thuộc thôn Hưng Học, phường Nam Hòa được
phát hiện vào năm 2009 do nhân dân đào ao nuôi cá làm phát lộ cọc. Bãi
cọc được cắm ngang một nhánh của dòng sông Kênh cổ nối chi lưu sông Rút
và sông Chanh có chiều dài khoảng 70m theo hướng Đông - Tây, chiều rộng
khoảng 30m theo hướng Bắc - Nam, mật độ cọc phân bố không đều. Do bị
nước và các tác nhân bào mòn, số cọc hiện còn nằm sâu trong lòng đất,
dài 0,5-1m, đường kính cọc 20-22cm...
Việc đóng cọc bằng kỹ thuật “dộng lắc”
kết hợp với kinh nghiệm của nhân dân địa phương được sử dụng trong vùng
nước sâu chứa nhiều bùn cát, với những cọc lớn, thường được cắm đứng
(bãi cọc Yên Giang, các cọc cắm giữa dòng ở bãi cọc Đồng Má Ngựa). Những
kỹ thuật đóng cọc khác được sử dụng ở các bãi bồi, trong khi đó, cọc ở
các bãi lầy, ven bờ có nhiều kích cỡ khác nhau, tận dụng từ nhiều nguồn,
được cắm thành cụm dích dắc, theo nhiều hướng có tác dụng ngăn chặn
thuyền nhỏ và đặc biệt là quân bộ. Các bãi cọc có thể đã được bố trí ở
tất cả các đường nước trong khu vực đảo Hà Nam và Yên Giang xen giữa
những doi đất cao và gò đá tạo nên thế trận nhiều lớp.
Những chuyên gia cho rằng, việc bố trí
các cánh quân bộ, thuyền nhỏ ở ven sông Bạch Đằng và những khu vực gò
cao giữa các bãi cọc này, được đoán định từ các địa danh và di tích như:
Gò Tàu Chìm, đình Trung Bản, đền Trung Cốc, đình Đền Công, Trại An
Hưng... cùng với các lực lượng tiếp ứng chủ lực, chứng tỏ sự chuẩn bị
rất công phu và tài tình cho một trận đánh mang tính chất tiêu diệt.
Đi ngược sông Bạch Đằng lên phía thượng
lưu, tôi cố gắng hình dung lại chiến tích thần kỳ năm xưa của Hưng Đạo
vương. Hơn nữa, tôi còn được người dân dọc theo thủy lộ này kể cho nghe,
rất nhiều chuyện truyền đời về các miếu, đền, gia phả, thần phả… mà mỗi
câu chuyện đều liên quan đến các trận đánh dọc bờ sông này. Khẳng định
một điều rằng, sự góp sức máu xương của các đội dân binh là vô cùng to
lớn trong những chiến tích lẫy lừng này.
Người dân địa phương vẫn khắc ghi câu
chuyện về một bà bán hàng nước ven sông Bạch Đằng được phong làm vua Bà
và được người dân dựng miếu thờ ngay trong khuôn viên khu di tích lịch
sử này. Theo văn bia dựng trước cửa miếu thờ vua Bà, nơi đây xưa kia là
bến đò Rừng, tương truyền dưới gốc cây quếch trên bến đò có bà bán hàng
nước phục vụ khách qua sông. Khoảng đầu năm 1288, Trần Hưng Đạo đã đến
bến đò này nghiên cứu địa hình, chuẩn bị thế trận tiêu diệt đạo thủy
binh quân Nguyên Mông.
Vì bán hàng nước trên bờ sông đã lâu,
nên có thể nói không ai hiểu khúc sông này hơn vua Bà. Chính vua Bà đã
cung cấp nhưng thông tin vô cùng quý giá cho Hưng Đạo Vương về thời gian
con nước lên xuống và địa thế dòng sông, giúp quân ta bố trí được trận
địa cọc và chọn thời điểm quyết chiến một cách chuẩn xác nhất.
Sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử, Hưng
Đạo Vương đã trở lại bến đò tìm bà để tạ ơn nhưng không thấy, chỉ thấy
đống mối đùn lên rất to nơi trước kia bà ngồi bán hàng nước. Cảm kích
trước công ơn của bà, Trần Hưng Đạo đã tâu với vua Trần Nhân Tông phong
bà làm vua Bà và cho lập miếu thờ tại nơi bà bán hàng bên gốc cây quếch.
Kể từ đó tới nay, dù đã hơn 700 năm
nhưng cây quếch - nơi bà bán hàng nước khi xưa vẫn còn xanh tốt, xum xuê
tỏa bóng xuống sân miếu vua Bà. Nghe những người dân quanh đây kể, miếu
thờ vua Bà rất linh thiêng nên người dân thường tìm đến để cầu cho quốc
thái dân an.
Cẩm Tú
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét