TRẦN TẾ XƯƠNG
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương(陳濟昌), tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định). Ông mất ngày 29 tháng 1 năm 1907.
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn
Người ta vẫn tin hai câu thơ này là của Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương.
Hoàn cảnh lịch sử
Trời sinh ta ở trên đời biết chi?
Biết chăng cũng chẳng biết gì:
Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu
Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi !
Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.
Họ Phạm làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương có nhiều người đỗ đạt. Tú Xương nhắc Chẳng những Lương Đường có thủ khoa là nhắc đến làng quê của vợ ông. Gia đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố mẹ thì dời sang sinh sống ở Nam Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây. Cuộc kết hôn giữa ông Tú với bà là từ hoàn cảnh gần gũi đó. Bà sinh cho ông được 8 người con, trong đó có 6 trai và 2 gái. Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Công việc kiếm sống cho gia đình của bà là buôn bán nhỏ (tiểu thương). Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.
Khi mất ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu của ông nội và bố để lại. Gia đình ông Tú chuyển đến nhà số 280 cùng phố mà sau này địa phương đã xếp hạng là di tích lưu niệm Tú Xương chính là do mẹ vợ nhà thơ (bà Hai Sửu) chia cho con gái.
Lúc đầu chỉ là các bài sưu tầm đăng giải rắc trên tạp chí Nam Phong (các năm 1918, 1919, 1920, 1926). Tiếp đến sách "Văn đàn bảo gián (quyển 3)" của Trần Trung Viên, Nam Ký thư quán Hà Nội 1926, giới thiệu 79 tác phẩm, trong đó phần lớn đã được đăng ở Nam Phong. Từ đó ,lần lượt xuất hiện những sách chuyên đề về Tú Xương. Có 2 văn bản chữ nôm hiện còn lưu giữ ở thư viện Hán - Nôm đó là Vị thành giai cú tập biên (ký hiệu AB.194) ghi rõ "Nam Định Vị Xuyên tú tài Phượng Tường Trần Cao Xương Tử Thịnh trước tập" và Quốc văn tùy ký (ký hiệu AB.383). Có 10 lần xuất bản bằng chữ quốc ngữ với những văn bản sau:
Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến
sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình,
trong đó trữ tình là gốc. Với Tú Xương , vẫn chưa thấy chắc chắn có bài
thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại cổ điển: thơ luật Đường: thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy.
Vịnh khoa thi Hương
Ông cò
Phường nhơ
Văn tế sống vợ
Trần Tế Xương
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương(陳濟昌), tự Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh. Tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định (sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện nay là phố Minh Khai, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định). Ông mất ngày 29 tháng 1 năm 1907.
- Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Thơ văn của Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của Tú Xương đến nay đã hơn 100 năm nát với cỏ cây. Nhưng sự nghiệp văn chương của ông thì vẫn như một chàng trai xinh đẹp, sung sức, bất chấp mọi thử thách thời gian.
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn
Người ta vẫn tin hai câu thơ này là của Nguyễn Khuyến viếng Tú Xương.
- Trần Tế Xương sinh ra vào ngày 5 - 9 - 1870 (tức 10 - 8 AL) tại số nhà 247 phố Hàng Nâu thành phố Nam Định với tên húy là Trần Duy Uyên. Ông thuộc dòng dõi nho gia, vốn là họ Phạm, đổi thành họ Trần là bởi vào đời Nhà Trần lập công lớn được phong quốc tính (vua cho đổi theo họ nhà vua). Ông nội Trần Tế Xương tên là Trần Duy Năng. Thân sinh của Trần Tế Xương là cụ Trần Duy Nhuận cũng là một nhà nho, thi nhiều khoa không đậu, sau làm Tự thừa ở dinh đốc học Nam Định, sinh được 9 người con, 6 trai, 3 gái, Tú Xương là con trưởng. Trong tất cả các tài liệu nói về Tú Xương đều không thấy có ảnh, nhưng dáng hình cụ Tú được người bạn học là hạc phong Lương Ngọc Tùng viết trong bài thơ "Nhớ rõ hình dung ..."
- Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Hồi mới lên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho bé Uyên một câu đối: "Đình tiền ngũ sắc hoa" (trước sân có hoa năm sắc), Uyên liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối: "Lung trung bách thanh điểu" (trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài "đời thằng bé lại luẩn quẩn như chim nhốt trong lồng ". Ông học chữ Hán cụ kép làng Thành Thị, tên là Trần Chấn Thái, ngồi bảo học ở thành Nam.
- Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Trước lúc ông ra đời 3 năm thì 6 tỉnh nam kỳ mất trọn cho Pháp. Tú Xương lên 3 thì Bắc Kỳ trong đó có Nam Định bị tấn công lần thứ nhất. Tú Xương 12 tuổi, Bắc Kỳ, Nam Định bị tấn công lần thứ 2 và mất nốt. Hiệp ước Harmand 1883 rồi hiệp ước Patenôtre 1884 thừa nhận quyền thống trị của Pháp trên đất Việt Nam. các phong trào kháng chiến chống Pháp diễn ra sôi nổi nhưng lần lượt thất bại. Tú Xương sinh ra và lớn lên trong bối cảnh sục sôi và bi thương đó.
- Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.
- Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Các tài liệu khác chép nhầm là khoa Ất Dậu (1885)
Cuộc sống sự nghiệp
- Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho "dài lưng tốn vải" như trong bài Hỏi ông trời của ông:
Trời sinh ta ở trên đời biết chi?
Biết chăng cũng chẳng biết gì:
Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu
Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi
- Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông: Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh
Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành
- Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Đó là các khoa: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906). Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cắu lên:
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi !
Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.
- Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Đúng năm ông đậu tú tài (1894) thì ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu (nay là phố Minh Khai) bị cháy. Cụ Nhuận làm lại xây bằng gạch Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu, câu thơ đó là Tú Xương nhắc đến sự kiện này, nhưng rồi ngôi nhà đó lại bị bà Hai An chiếm đoạt. Tú Xương đã phải than:Nhà cửa giao canh nợ phải bồi. Nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó được in đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền.
Gia đình
Họ Phạm làng Lương Đường, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương có nhiều người đỗ đạt. Tú Xương nhắc Chẳng những Lương Đường có thủ khoa là nhắc đến làng quê của vợ ông. Gia đình bà Phạm Thị Mẫn đến đời bố mẹ thì dời sang sinh sống ở Nam Định. Bà Mẫn sinh trưởng tại đây. Cuộc kết hôn giữa ông Tú với bà là từ hoàn cảnh gần gũi đó. Bà sinh cho ông được 8 người con, trong đó có 6 trai và 2 gái. Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Công việc kiếm sống cho gia đình của bà là buôn bán nhỏ (tiểu thương). Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn.
Khi mất ngôi nhà số 247 phố Hàng Nâu của ông nội và bố để lại. Gia đình ông Tú chuyển đến nhà số 280 cùng phố mà sau này địa phương đã xếp hạng là di tích lưu niệm Tú Xương chính là do mẹ vợ nhà thơ (bà Hai Sửu) chia cho con gái.
Về văn bản tác phẩm
Tình hình văn bản tác phẩm của Tú Xương hết sức phức tạp. Không có di cảo. Không có những công trình đáng tin cậy tập hợp tác phẩm khi tác giả còn sống hoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc lên cho vợ con, bạn bè nghe, rồi tùy ý truyền khẩu. Thành Nam thủa ấy còn có nhiều người hay thơ và thơ hay, cùng nỗi niềm và khuynh hướng với Tú Xương như Trần Tích Phiên, Phạm Ứng Thuần, Trần Tử Chi, Vũ Công Tự ...Thơ họ cũng được phổ biến không ít. Lại 3 năm một lần thi hương, sĩ tử cả Bắc Kỳ tụ hội về đây, thơ hay được lan truyền càng rộng rãi. Vì thế thơ Tú Xương càng dễ bị lẫn lộn.Lúc đầu chỉ là các bài sưu tầm đăng giải rắc trên tạp chí Nam Phong (các năm 1918, 1919, 1920, 1926). Tiếp đến sách "Văn đàn bảo gián (quyển 3)" của Trần Trung Viên, Nam Ký thư quán Hà Nội 1926, giới thiệu 79 tác phẩm, trong đó phần lớn đã được đăng ở Nam Phong. Từ đó ,lần lượt xuất hiện những sách chuyên đề về Tú Xương. Có 2 văn bản chữ nôm hiện còn lưu giữ ở thư viện Hán - Nôm đó là Vị thành giai cú tập biên (ký hiệu AB.194) ghi rõ "Nam Định Vị Xuyên tú tài Phượng Tường Trần Cao Xương Tử Thịnh trước tập" và Quốc văn tùy ký (ký hiệu AB.383). Có 10 lần xuất bản bằng chữ quốc ngữ với những văn bản sau:
- 1 Vị Xuyên thi văn tập của Sở Cuồng (tức Lê Dư), Nam Kỳ thư quán 1931 (sau có tái bản), giới thiệu 174 tác phẩm gồm thơ, phú, câu đối. Mà sau này các sách khác thừa hưởng kết quả. Nhưng chép nhầm tên ông là Trần Kế Xương.
- 2 Trông giòng sông Vị (Văn chương và thân thế Trần Tế Xương) của Trần Thanh Mại; Trần Thanh Địch 1935 lần thứ nhất ở Huế sau tái bản nhiều lần.
- 3 Tú Xương thi tập, do nhà sách Phúc Chí, 95 Hàng Bồ, Hà Nội 1950, giới thiệu 75 bài thơ phú
- 4 Thân thế và thơ văn Tú Xương của Vũ Đăng Văn, Nhà xuất bản Cây Thông, Hà Nội 1951. Đính chính tên nhà thơ là Trần Tế Xương (không phải Kế) và giới thiệu 181 tác phẩm.
- 5 Văn thơ Trần Tế Xương Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 1957. Giới thiệu chính thức 125 bài và đưa 55 bài vào phần tồn nghi.
- 6 Đấu tranh chống hai quan niệm sai lầm về Tú Xương, nhà xuất bản Nghiên cứu cục xuất bản, Bộ văn hóa Hà Nội 1957 của Trần Thanh Mại nhân dịp lần thứ 50 ngày giỗ Tú Xương.
- 7 Tú Xương con người và nhà thơ của Trần Thanh Mại, Trần Tuấn Lộ, nhà xuất bản Văn hóa 1961 Giới thiệu 193 bài chính thức, 17 bài tồn nghi.
- 8 Thơ Trần Tế Xương , Ty văn hóa Nam Hà, 1970. Bài tiểu luận của Xuân Diệu in lần đầu tiên ở đây, có nhiều phát hiện lý thú. Còn tác phẩm chỉ tuyển chọn chẵn 100 bài. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ.
- 9 Thơ văn Trần Tế Xương, nhà xuất bản Văn học, 1970 có sự tham gia của Nguyễn Công Hoan chọn 151 tác phẩm và 22 bài tồn nghi.
- 10 Thơ văn Trần Tế Xương , Nhà xuất bản Giáo Dục, Hà Nội 1984. Cuốn này sao gần như hoàn toàn cuốn 9.
- Chỉ có cuốn Tú Xương tác phẩm giai thoại của nhóm Nguyễn Văn Huyền (chủ biên), Đỗ Huy Vinh, Mai Anh Tuấn và người giới thiệu giáo sư: Nguyễn Đình Chú, Hội văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh - 1986 là một công trình nghiên cứu kỹ lưỡng và công phu. Loại ra các tác phẩm không phải của tác giả, so sánh, đối chiếu các bản đã in ở những lần xuất bản trước, chọn ra 134 bài là của Tú Xương và loại ra 68 bài (có chú dẫn nguyên nhân loại ra cho từng bài một). Bài viết này lấy tư liệu chủ yếu ở cuốn sách đó.
- Sau này nhất là thời mở cửa việc xuất bản tràn lan không được kiểm định kỹ đã lấy tư liệu ở các nguồn khác nhau kể trên, điều đó cũng giải thích tại sao các Blog lại đưa ra các tư liệu khác nhau về Tú Xương.
Về đánh giá tác phẩm
- Nguyễn Công Hoan suy tôn Tú Xương là bậc thần thơ thánh chữ
- Xuân Diệu xếp hạng Tú Xương thứ 5 sau ba thi hào dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương) và Đoàn Thị Điểm
- Tản Đà khi còn sống "trong những thi sĩ tiền bối, phục nhất Tú Xương" (Xuân Diệu kể vậy). Tản Đà tự nhận trong đời thơ của mình "mới địch nổi Tú Xương một lần thôi bằng chữ vèo trong bài thơ Cảm thu, Tiễn thu của ông:Vèo trông lá rụng đầy sân. Nguyễn công Hoan cũng kể vậy.
- Nguyễn Tuân biểu dương Tú Xương là: một người thơ, một nhà thơ vốn nhiều công đức trong cuộc trường kỳ xây dựng tiếng nói văn học của dân tộc Việt Nam
- Với Tú Xương, còn là hiện tượng hiếm trong lịch sử tác gia Việt Nam: Tú Xương Có "môn Phái", "môn đệ". Tên của ông là Trần Tế Xương. Có lúc đổi thành Trần Cao Xương. Nhưng đây là chữ xương với nghĩa "thịnh vượng" (còn có nghĩa là đẹp, thẳng). Sách xưa có chữ "Đức giả xương" (người có đức, thịnh vậy). Không phải là xương theo nghĩa xương thịt. Nhưng người đời sau, mấy vị chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "xuyên tạc", gắn cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương (thịt) lên bậc tổ sư, còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20 bỗng nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc và thêm "chi phái": Tú Poanh, Đồ Phồn cũng là dòng tú, cử, đồ với nhau cả. Vinh dự thay cho vị tổ sư Tú Xương !
Vịnh khoa thi Hương
Ông cò
Phường nhơ
- Đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quan tâm và đón nhận. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài, mọi việc ở nhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân.
-
-
- Quanh năm buôn bán ở mom sông,
- Nuôi đủ năm con với một chồng.
- Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
- Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
- Một duyên hai nợ âu đành phận,
- Năm nắng mười mưa dám quản công.
- Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
- Có chồng hờ hững cũng như không.
-
Văn tế sống vợ
-
-
- Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ
- Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ
- Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn?
- Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một nỗi hay gàn hay dở!
- Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười
- Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
- Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai
- Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ
- Ông tu tác cửa cao nhà rộng, toan để cho dâu
- Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
-
-
-
- Thế mà:
- Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở
- Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.
- Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen?
- Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ?
- Thôi thôi
- Chết quách yên mồ
- Sống càng nặng nợ
- Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ, ngày khác sẽ hay
- Duyên trăm năm ông Nguyệt xe tơ, kiếp này đã lỡ
- Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển, Bồng Hồ
- Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ
-
- Trần Tế Xương là cây Đại bút, chữ nghĩa giản dị nhưng điêu luyện,
thần tình, đôi khi tục nhưng không thô, phá cách nhưng đầy dụng ý, không
chút non nớt tầm thường đúng như Xuân Diệu viết về ông: Ông nghè ông thám vô mây khói
- Đứng lại văn chương một tú tài
_____________________________________________ THÊM MỘT SỐ BÀI THƠ CỦA TÚ XƯƠNG
1-Ba Thứ Lăng Nhăng ...
Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta.Chừa được thứ nào hay thứ ấy,Có chăng chừa rượu với chừa trà !2-Bắt Được Đồng Tiền
Ðầu năm ra cửa được đồng tiềnNào có cầu đâu, được tự nhiênÝ hẳn nhà nho sang vận đỏHay là con tạo thử người đen ?Muốn đem trả nợ đòi nhà lạiHay để làm lương giúp nước liềnCủa cải vua ta đâu sẵn thếChữ đề Tự Ðức hãy còn nguyên.
3-Chúc Tết
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.Phen này ông quyết đi buôn cốiThiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu:Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu ?Phen này, ắt hẳn gà ăn bạcĐồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang:Đứa thì mua tước; đứa mua quan.Phen này ông quyết đi buôn lọng,Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.Phố phường chật hẹp, người đông đúcBồng bế nhau lên nó ở non.
Bắt chước ai ta chúc mấy lờiChúc cho khắp hết ở trong đờiVua, quan, sĩ, thứ, người muôn nướcSao được cho ra cái giống người.4-Bỡn Tri Phủ Xuân Trường
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên,Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến,Ông chỉ quen phê một chữ tiền5-Buồn Thi Hỏng
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.Một việc văn chương thôi cũng nhảmTrăm năm thân thế có ra gì !Được gần trường ốc vùng Nam ĐịnhThua mãi anh em cánh Bắc Kỳ.Rõ thực nôm hay mà chữ tốtTám khoa chưa khỏi phạm trường qui6-Cái Khó
Cái khó theo nhau mãi thế thôi - Có ai, hay chỉ một mình tôi
- Bạc đâu ra miệng mà mong được
- Tiền chửa vào tay đã hết rồi
- Van nợ lắm khi tràn nước mắt
- Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi
- Biết rày, thuở bé đi làm quách
- Chẳng ký, không thông cũng cậu bồi.
- Đứng lại văn chương một tú tài
-
7-Cảm Tết
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu.Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩyTrà sen mượn hỏi, giá còn kiêu.Bánh chưng sắp gói e nồm chảyGiò lụa toan làm sợ nắng thiu.Thôi thế thì thôi đành tết khác,Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo.Biết ai là dại, biết ai khônKhôn nghề cờ bạc là khôn dạiDại chốn văn chương, ấy dại khônNày kẻ nên khôn đều có dạiLàm người có dại mới nên khônCái khôn ai cũng khôn là thếMới biết trần gian kẻ dại khôn.Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồnBối rối tình duyên cơn gió thoảngNhạt phèo quang cảnh bóng trăng suôngKhăn khăn, áo áo, thêm rầy chuyệnBút bút, nghiên nghiên khéo giở tuồngNgủ quách sự đời thây kẻ thứcBên chùa chú trọc đã hồi chuông.Đêm sao đêm mãi thế ru màLạnh lùng bốn bể, ba phần tuyếtXao xác năm canh một tiếng gàChim chóc hãy còn nương cửa tổBướm ong chưa thấy lượn vườn hoa.Nào ai là kẻ tìm ta đóĐốt đuốc lên soi kẻo lẫn nhà.Trời sinh ta ở trên đời làm chiBiết chăng cũng chẳng biết gìBiết ngồi nhà hát, biết đi ả đầuBiết thuốc lá, biết trà tàuCao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.Một lúc lên ngay sáu bảy ôngSát quỷ ông dùng thanh kiếm gỗRa oai bà giắt cái khăn hồngCô giương tay ấn tan tành núiCậu chỉ ngọn cờ cạn núi sôngÐồng giỏi, sao đồng không giúp nướcHay là đồng sợ súng thần công?Cha thằng nào có tiếc không choHọ đày đọa mãi dân cày cuốcAi xét soi cho cảnh học tròMong được cơm no cùng áo ấmGặp toàn nắng lửa với gió mưaMiếng ăn đến miệng là thưa kiệnLúa rũ chân đê chửa được vò.Cùng nhau dan díu mấy đêm ngàyNăm canh to nhỏ tình dơi chuột,Sáu khắc mơ màng chuyện gió mây.Êm ái cung đàn chen tiếng hát,La đà kẻ tỉnh dắt người say.Thú vui chơi mãi mà không chán,Vô tận kho trời hết lại vaỵHổ với anh em chúng bạn quen.Thuở trước chơi bời còn quyến luyến,Bây giờ đi lại dám mon men !Giàu sang, âu yếm, tình quen thuộc,Bần tiện, thờ ơ, dạ bạc đen.Ví khiến trong tay tiền bạc cóNói dơi nói chuột, chán người khen.
-
Nhận xét
Đăng nhận xét