Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013
BI HÀI KỊCH
Tòa xử ông tội tù
Cúi đầu, ông ôm mặt
Lại quay vào ngục thất
Chốn một ngày ngàn thu
Thời trước ông đi tù
Vì tự do độc lập
Mong ấm no hạnh phúc
Mưu ích nước lợi dân
Thời nay ông đi tù
Vì nhũng tham đục khoét
Muốn ăn trên ngồi trốc
Mưu mạt nước hại dân
Ừ nhỉ, chỉ bước chân
Tuyệt vời thành lố bịch!*
Vở bi hài thô kệch
Trên sân khấu cuộc đời!...
Trần Hạnh Thu
Ghi chú: *Napôlêông, thiên tài quân sự người Pháp của thế giới từng nói: "Từ chỗ tuyệt vời đến chỗ lố bịch, chỉ là một bước chân!"
ĐỌC THÊM (ĐC sưu tầm trên NET):
ĐỌC THÊM (ĐC sưu tầm trên NET):
Phong trào đấu tranh của HSSV trong kháng chiến chống Mỹ | | |
Ngày
9/1/1950, hàng triệu con tim đã hướng về đám tang của cậu học sinh trường
Petrus Ký là Trần Văn Ơn – cậu học sinh 15 tuổi quê ở Bến Tre vì cố gắng giúp
các bạn “vượt rào” trốn khỏi sự truy bắt của thực dân Pháp và bọn tay sai, đã
mãi mãi nằm xuống trên con đường vươn tới “công bằng và tự do”. Tiếp gót theo
các đàn anh đàn chị, giờ đây, thế hệ Hồ Chí Minh lại tiếp tục ghi thêm những
cái tên vẻ vang của tuổi trẻ học đường trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước như Quách Thị Trang, Võ Thị Thắng, Lê Văn Ngọc, Lê Quang Vinh, Nguyễn Thái
Bình… Tùy theo hoàn cảnh và tình hình chiến cuộc, mỗi người đã tự chọn cho mình
một thứ vũ khí đấu tranh, một cách thể hiện phẩm chất và bản lĩnh của “con Lạc
cháu Hồng”, người thì với “nụ cười quyết thắng” tin tưởng và ngày mai, ngày đất
nước được độc lập, tự do; người thì hăng hái xông lên đấu tranh trực diện với
quân thù; người thì lấy máu đỏ viết lên những dòng thơ đanh thép; người thì bị
tù đày, chịu mọi cực hình nhưng vẫn bất khuất, kiên cường, tấm lòng “sáng tựa
sao Khuê”.
Đã
hơn 60 năm trôi qua, bụi thời gian đã làm xóa mờ tất cả nhưng vẫn hình ảnh ấy,
vẫn ngọn lửa ấy đã truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ con tim này đến
muôn triệu con tim khác. Giờ đây, đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất, vẫn
truyền thống đấu tranh hào hùng, bất khuất đó đã chuyển thành lòng yêu nước
thời bình, thổi bùng lên sức sống mới góp phần cùng nhân dân cả nước xây dựng
Việt Nam ngày càng giàu đẹp và phồn vinh.
Nhân
kỷ niệm 62 năm Ngày Học sinh – Sinh viên Việt Nam, ôn lại “Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Sài Gòn – Gia Định trong
những năm kháng chiến chống Mỹ” sẽ giúp chúng ta sống lại những năm tháng
hào hùng của tuổi trẻ học đường – những người đã góp một phần không nhỏ vào
thắng lợi chung của cả dân tộc. Từ đó rút ra những bài học bổ ích phục vụ cho
công cuộc đổi mới hiện nay.
Với
chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hiệp định Geneve được ký kết (20/7/1954)
lập lại hòa bình ở xứ Đông Đương, công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất toàn
vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Riêng với Việt Nam, hiệp
định quy định ngày tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, chia thành hai miền
Nam, Bắc lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Với âm mưu ngăn chặn “làn sóng đỏ” tràn
xuống Đông Nam Á, đế quốc Mỹ tiến hành can thiệp, xâm lược và bành trướng chủ
nghĩa thực dân mới ở miền Nam bằng hàng loạt chính sách cai trị phản động trên
tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội.
Giáo
dục là một trong năm hoạt động chủ yếu của cuộc xâm lược thực dân kiểu mới của
đế quốc Mỹ: kinh tế tài chính, quân sự, tình báo, giáo điệp, tư tưởng, văn hóa,
giáo dục. Những hoạt động trên đều có tác động lẫn nhau và đều có ảnh hưởng đến
chính sách giáo dục thực dân kiểu mới.
Đối
với Mỹ - Ngụy, nhà trường không chỉ là nơi đào tạo người phục vụ cho guồng máy
chiến tranh mà còn là nơi lý tưởng nhất để tập trung thanh thiếu niên để bắt
lính, đôn quân, gắn giáo dục với các hoạt động tâm lý chiến. Chúng tổ chức “cây
mùa Xuân chiến sỹ”, “Hội người yêu của lính”, bắt nữ sinh viết thư động viên
những quân nhân ở chiến trường, thậm chí trong sách giáo khoa bậc tiểu học đã có
hình ảnh người “lính cộng hòa”, chính quyền Sài Gòn ban hành các sắc luật động
viên, tổ chức huấn luyện quân sự học đường, đánh rớt hàng loạt học sinh, sinh
viên để bắt lính, tạo cho thanh niên tâm lý xem đi lính như là một “nghĩa vụ”.
Phong trào đấu tranh của học
sinh sinh viên Sài Gòn – Gia Định trong những năm “chiến tranh đơn phương” (1954
– 1960)
Sau
Hiệp định Geneve, tình hình các trường học ở Sài Gòn – Gia Định có những biến
động lớn: số lượng học sinh – sinh viên tăng lên ồ ạt do hòa bình lập lại và sự
di cư dân số từ Bắc vào Nam; số trường học tăng lên do việc xây thêm trường mới
và cũng có một số trường từ Hà Nội chuyển vào.
Để
thích nghi tình hình trên, sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam ra đời (20/12/1960) đã đề ra chương trình đấu tranh: “bài trừ văn hóa và giáo dục nô dịch, cao bồi theo kiểu Mỹ, xây dựng một
nền văn hóa giáo dục dân tộc tiến bộ, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”;
thành lập các Tiểu ban Giáo dục nhằm đào tạo, bổ túc cho nhân dân và cán bộ;
tuyên truyền lối giáo dục mới tiến bộ và dân chủ, phát động phong trào đấu
tranh đòi chuyển ngữ Việt và các quyền dân sinh, dân chủ khác.
Cuộc
biểu dương lực lượng đầu tiên vào ngày 1/8/1954 của hơn 50.000 công nhân lao
động, học sinh sinh viên và giáo chức ở chợ Cầu Muối hoan nghênh Hiệp định
Geneve và đòi Mỹ - Diệm thả tù binh, tù chính trị.
Ngày1/5/1955,
Nghiệp đoàn Giáo dục Tư thục Việt Nam tổ
chức cuộc biểu tình kéo dài từ đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) đến chợ Bến
Thành. Ngày 20/7/1955, kỷ
niệm một năm ngày ký Hiệp định Geneve, nhân dân lao động, học sinh – sinh viên…
xuống đường yêu cầu nhà cầm quyền thi hành hiệp định, tổng tuyển cử thống nhất
đất nước. Cuộc đấu tranh ngày 1/5/1957 của công nhân lao động cùng với học sinh
– sinh viên với hơn 278.000 người tham gia, xuống đường chống Mỹ - Diệm với
khẩu hiệu “Thống nhất nước nhà bằng
phương pháp hòa bình”, “Tăng lương
cho công nhân viên chức”, “Giải quyết
nạn thất nghiệp”.
Tháng
11/1957, học sinh các trường Cán sự Y tế, Phan Bội Châu, Đức Trí, Petrus Ký… tổ
chức mittinh, kiến nghị đòi hủy bỏ Nghị định 451/GD, đòi ban hành tự do, dân
chủ trong các trường học, đòi giải quyết nạn thiếu trường và chống chính sách
đánh hỏng thi để bắt lính… với khí thế cách mạng ngút trời buộc chúng phải
nhượng bộ, thực hiện những yêu sách mà cuộc biểu tình đã đưa ra.
Tháng
2/1958, học sinh – sinh viên Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn đấu tranh với ba khẩu
hiệu: Dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở bậc đại học; Giải quyết nạn thiếu trường
thiếu lớp, nâng cao đời sống giáo chức, trợ cấp cho học sinh nghèo, nâng cao
ngân sách giáo dục; Sửa đổi nội dung chương trình giảng dạy sao cho phù hợp với
một nền giáo dục dân tộc, độc lập, tiến hành cải cách dân chủ trong nhà trường.
Vào
ngày 9 tháng 1 hàng năm, học sinh đeo băng tang, từng lớp, từng nhóm ôn lại truyền
thống đấu tranh của các anh chị học sinh trước đó. Nhiều lớp đã dành một phút
mặc niệm để tưởng nhớ đến tấm gương hy sinh anh dũng của Trần Văn Ơn, không ai
rủ ai – họ đã viếng thăm mộ của anh trong sự trang nghiêm và tôn kính.
Học sinh – sinh viên trong các
phong trào cứu trợ: tháng 5/1955, trong cuộc đấu súng giữa lính
Bình Xuyên và lính Diệm đã làm chết hơn 4.000 dân thường, làm 11.000 người khác
bị thương, đốt cháy 27.860 ngôi nhà, làm cho hơn 20 vạn người rơi vào cảnh màn
trời chiếu đất. Đứng trước tình hình đó, Đảng chỉ đạo thành lập phong trào cứu
tế bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, đòi địch phải đền bù thiệt hại.
Phong trào nhanh chóng phát triển trong các khu, xóm, xí nghiệp, trường học…
với sự tham gia đông đảo học sinh – sinh viên, do GS. Lê Văn Thả làm trưởng “Ban cứu trợ nạn nhân chiến cuộc”. Phong
trào kết thúc bằng một cuộc mittinh lớn và chuyển thành biểu tình đòi hiệp
thương thống nhất đất nước.
Phong trào đấu tranh của học
sinh – sinh viên Sài Gòn – Gia Định trong những năm chống chiến lược “chiến
tranh đặc biệt” 1961 – 1965
Tình
hình chung của phong trào học sinh – sinh viên từ năm 1961 đã có những bước
chuyển biến quan trọng. Ngày 26/3/1961, Đội
Vũ trang quyết tử học sinh – sinh viên được thành lập, do đồng chí Lê Hồng Tư
phụ trách. Đội đã đánh trận đầu tiên bằng một trai lựu đạn ném vào xe chở
chuyên viên không quân cao cấp của Mỹ là William Thomas ở ngã tư Ngô Thời Nhiệm
và Trương Minh Giảng – gây tiếng vang lớn.
Cuối
năm 1962 đầu năm 1963, Mỹ - Diệm khủng bố lực lượng giáo chức, học sinh – sinh
viên, nhiều đồng chí cán bộ, nhiều anh chị em học sinh – sinh viên bị chúng bắt
như Huỳnh Ngọc Anh, Lê Văn Thới, Nguyễn Văn Hợi… điều này gây nhiều bất bình
trong giới giáo chức cũng như học sinh – sinh viên Sài Gòn nói riêng và cả nước
nói chung.
Năm
sau, kế hoạch Stalây – Taylor bình định miền Nam trong vòng 18 tháng của Mỹ -
Diệm bị thất bại, để trả thù, chúng lao vào cuộc đàn áp Phật giáo nhưng đã gặp
sự chống trả rất quyết liệt của giới Phật tử và sự ủng hộ của đồng bào cả nước.
Hưởng ứng chủ trương của “Ủy ban Thanh niên Học sinh – Sinh viên chống độc tài
phát xít” theo sự chỉ đạo của “Ủy ban Chỉ đạo Liên trường Công tư Sài Gòn – Gia
Định” đông đảo học sinh – sinh viên khắp các trường ở Sài Hòn tổ chức bãi khóa,
xuống đường cùng với các tầng lớp nhân dân khác phản đối đàn áp tôn giáo.
Ngày
7/7/1963, các cuộc bãi khóa đã nổ ra ở các trường trung học: Gia Long, Petrus
Ký, Trưng Vương, Võ Trường Toản, Chu Văn An, Marie Curie… để chống đàn áp Phật
giáo và sinh viên, đòi thả những người bị bắt trước đó. Diệm đã cho cảnh sát
tấn công vào các trường, bắt 2.400 học sinh, trong đó có 600 nữ sinh.
Nhằm
răn đe học sinh – sinh viên không dính líu đến việc chính trị, Diệm cho quân
lính nổ súng tấn công vào các trường đại học trên địa bàn Sài Gòn – Gia Định,
sau đó, chúng lại tấn công vào các trường trung học, ngày 24/8/1963, học sinh –
sinh viên phối hợp với công nhân thành phố tổ chức đình công, bãi khóa,
mittinh, biểu tình khắp các nơi trong thành phố: trên trục đường Hai Bà Trưng,
trước Sở thú, trước Nha Giám tiểu học, ở trường Diên Hồng, Gia Long… Mỹ - Diệm
kéo quân đến đàn áp cuộc biểu tình nhưng phong trào vẫn tiếp tục lan rộng. Hôm
sau, ngày 25/8/1963, hơn 5.000 học sinh – sinh viên Sài Gòn – Gia Định biểu
tình trước chợ Bến Thành, địch đã sát hại Quách Thị Trang – nữ sinh trường
Trường Sơn – và đám tang của chị đã nhanh chóng biến thành cuộc biểu tình thị
uy của đông đảo nhân dân thành phố.
Ngày7/6/1964, học
sinh – sinh viên đập nát tượng Tổng thống Mỹ Kennedy – dựng ở Quảng trường Hòa
Bình. Ngày 2/8/1964, 4.000
học sinh – sinh viên mở cuộc hội thảo vạch trần bộ mặt độc tài phát xít và vây
dinh Nguyễn Khánh. Ngày 23/8/1964, sau
khi hội thảo ở trường Đại học Y khoa, học sinh – sinh viên tay trong tay kéo
nhau đến Đài phát thanh phản đối bài viết xuyên tạc phong trào đấu tranh của
học sinh – sinh viên. Ngày 24/8, trên 400 học sinh – sinh viên họp tại trường
Đại học Luật kéo đến Bộ Thông tin đòi tự do báo chí và loan tin đấu tranh của
học sinh – sinh viên đi khắp các tỉnh, thành trong cả nước.
Hàng
vạn học sinh các trường: Hồng Lạc, Văn Lang, Cao Thắng… bãi khóa, chiếm trường
làm ổ chiến đấu. Các đoàn biểu tình đã đốt xe Mỹ, dùng gạch đá, gậy gộc chiến
đấu với cảnh sát dã chiến. Đồng bào cùng học sinh – sinh viên lăn ống cống, lấy
xe cũ lăn ra đường làm chướng ngại vật ngăn chặn đoàn xe Mỹ. Trần Văn Hương ra
lệnh đàn áp dã man, học sinh các trường khác kéo đến giải vây, chuyển thành
cuộc biểu tình kéo đến đường Trần Quốc Toản xô xát với cảnh sát dã chiến, học
sinh Lê Văn Ngọc bị bắn chết (25/11/1964). Ba ngày sau, 20.000 học sinh nhiều
trường bãi khóa xuống đường, địch bắn chết học sinh Loan ở trường Gia Long.
Ngày 29/11/1964, trên
10.000 người với rừng biểu ngữ tố cáo ngụy quyền xuất hiện trong đám tang của
Lê Văn Ngọc, địch không dám đàn áp ở nội thành.
Nhân
ngày truyền thống 9/1, kỷ niệm 15 năm ngày Trần Văn Ơn hy sinh và 4 năm ngày
thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng miền Nam Việt Nam và Hội Liên
hiệp Học sinh – Isnh viên Giải phóng, Tổng đoàn Học sinh tổ chức lễ kỷ niệm và
ôn lại truyền thống đấu tranh đầy vẻ vang và tự hào của học sinh – sinh viên
trong những năm qua, đấu tranh buộc Bộ Giáo dục ngụy phải thừa nhận ngày kỷ
niệm đó.
Với
truyền thống “Bầu ơi thương lấy bí cùng”
học sinh – sinh viên Sài Gòn – Gia Định còn tham gia vào các cuộc lạc quyên cứu
trợ đồng bào bị lũ lụt ở miền Trung năm 1964 và miền Tây Nam Bộ năm 1965, cử
các đoàn đại biểu đem quần áo, thuốc men, lương thực đến các nơi bị nạn phân
phối, thăm hỏi, an ủi và động viên, giúp đỡ đồng bào dựng lại nhà cửa, dọn dẹp
vệ sinh. Những hoạt động xã hội ấy có tác dụng hun đúc lòng yêu nước, tinh thần
đoàn kết, tương thân tương ái, tinh thần mình vì mọi người trong cuộc sống.
Học sinh – sinh viên Sài Gòn –
Gia Dinh góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ 1965
– 1968
Bị
thất bại nặng nề trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” và để cứu nguy cho bọn
tay sai và duy trì ách thống trị thực dân, ngày 25/7/1965, Johnson ký sắc lệnh
tăng số quân Mỹ và quân các nước chư hầu: Nam Triều Tiên, Thái Lan, Úc,
Philippin, Tân Tây Lan vào chiến trường miền Nam nhằm leo thang chiến tranh kết
hợp tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân ở Bắc Việt Nam.
Với
sự xuất hiện của đội quân Mỹ và chư hầu “nếp sống ngoại lai” cũng từ đó nảy
sinh, hiện tượng xì ke, ma túy, nạn cao bồi, gái điếm… phát triển mạnh mẽ từ
ngày quân viễn chinh Mỹ đổ vào miền Nam. Về giáo dục thì Mỹ cử các đoàn cố vấn
giáo dục sang Sài Gòn nhằm cải cách nội dung giáo dục theo phương hướng của Mỹ,
tìm cách đưa những người thân Mỹ vào nắm giữ các trường đại học, ngoài ra,
chúng còn đẩy mạnh việc bắt lính và quân sự hóa học đường.
Đối
với phong trào thanh niên, học sinh – sinh viên, Khu ủy Sài Gòn – Gia Định chủ
trương dồn sức hoạt động công khai, nửa công khai chống đế quốc Mỹ và chính
quyền tay sai, đẩy mạnh phong trào hòa bình và phong trào dân tộc tự quyết. Khu
ủy Sài Gòn – Gia Định vạch rõ nhiệm vụ cho học sinh – sinh viên phải tập trung
vào ba nhiệm vụ: 1. Giương cao ngọn cờ đấu tranh chính trị công khai, tập hợp
đông đảo quần chúng; 2. Đi sâu vào các phường, khóm, xí nghiệp, trường học…
phát động quần chúng đứng lên giành chính quyền; 3. Thành lập các đội vũ trang
trừng trị bọn phản động, ác ôn, phá kềm kẹp, bảo vệ thành quả cách mạng.
Phong trào đấu tranh đòi chuyển
ngữ Việt và sinh viên tự trị ở bậc đại học: với khẩu hiệu “dân tộc
việt học tiếng Việt”, 500 sinh viên thuộc Đại học Y khoa hội thảo phản đối chủ
trương dạy bằng tiếng ngoại quốc. Phong trào được sự hướng ứng của nhiều sinh
viên các trường đại học khác trên địa bàn thành phố như: Đại học Sư phạm, Đại
học Khoa học, Đại học Nông Lâm súc. Khoảng giữa năm 1967, các trường đại học ở
Sài Gòn – Gia Định đã đưa tiếng Việt làm ngôn ngữ chính trong việc giảng dạy.
Tháng
8/1967, Đại hội Sinh viên Sài Gòn đòi tự trị ở bậc đại học ra mắt với khoảng
2.500 sinh viên và nhiều nhà giáo, ký giả, nhà văn đến dự. Đại hội bầu Ban chấp
hành Trung ương và ra tuyên ngôn chủ trương một nền đại học tiến bộ, chống việc
can thiệp của ngụy quyền vào các trường đại học. Mục đích nhằm thống nhất hành
động trong sinh viên, chống lại mọi hình thức can thiệp của ngụy quyền vào các
khuôn viên đại học, hỗ trợ cho phong trào đòi chuyển ngữ Việt ở bậc đại học và
các phong trào khác.
Đấu tranh chống bắt lính và
quân sự hóa học đường: sinh viên các trường Đại học Sư phạm, Đại học
Khoa học Sài Gòn tổ chức hội thảo phản đối luật động viên số 04/67 của Nguyễn
Văn Thiệu – gọi đó là một sắc lệnh tàn nhẫn. Sau đợt Tổng tiến công và nổi dậy
xuân Mậu Thân, Mỹ - ngụy ban hành luật tổng động viên số 3/68 nhằm thành lập
“Sư đoàn sinh viên bảo vệ thủ đô” buộc sinh viên hàng ngày phải đi tập luyện và
canh gác. Là một tầng lớp nhạy bén với thời cuộc, sinh viên thành lập ngay “Ủy
ban chống quân sự hóa học đường” – không nghe lời huấn luyện viên, kêu gọi sinh
viên quay súng lại bắn vào chúng, nổ pháo gây rối loạn, làm mất trật tự trong
các buổi tập. Trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng và sinh viên các
trường, địch buộc phải giải tán sư đoàn này nhưng bắt sinh viên một tuần tập
quân sự một ngày.
Học sinh – sinh viên với phong
trào văn nghệ (hay “tiếng hát những người đi tới”): Trong
điều kiện đất nước bị ngoại lai xâm lấn thì những phong trào văn nghệ dân tộc
có tác dụng không nhỏ trong việc truyền đạt tinh thần yêu nước vào tâm khảm của
mỗi người. Phong trào văn nghệ dân tộc phát triển sâu rộng trong các trường phổ
thông và đại học. Với những làn điệu dân ca, nhạc cụ và trang phục truyền thống
của dân tộc đã trở thành sức mạnh tinh thần để chống lại những ca khúc, những
vũ điệu “cháy bỏng, khêu gợi, thác loạn” của ngoại bang. Các buổi trình diễn
văn nghệ dân tộc của “Đoàn Văn nghệ sinh viên Sài Gòn” toát lên sức chiến đấu
với ngọn lửa yêu nước, thương dân nồng nàn, thu hút đông đảo mọi tầng lớp, giai
cấp trong xã hội, không những có tiếng vang trong chốn học đường mà còn được dư
luận quần chúng ủng hộ rộng rãi. Phong trào văn nghệ quần chúng vừa đáp ứng nhu
cầu vui chơi giải trí của thanh thiếu niên, học sinh sinh viên, vừa phục vụ
công tác tập hợp quần chúng để thông báo cho nhau những tin tức, thời sự và
diễn biến tình hình chiến cuộc của đất nước.
Phong
trào báo chí, thơ ca đấu tranh của học sinh sinh viên có những bước phát triển
mới. Nhiều trường học ra nội san như tờ “Nhân
bản” của trường Đại học Sư phạm, “Sinh
viên” của Tổng Hội Sinh viên Sài Gòn, “Suối
thép”, “Lửa thiêng”… với những
bài thơ sử ca, những tập thơ và kịch thơ như “Ải Chi Lăng”, “Gò Đống Đa”, “Hội
nghị Diên Hồng”, “Đêm Mê Linh”, “Tiếng hát những người đi tới”, “Hát từ đồng
hoang”, “Mặt trời Hồng”, “Tiếng gọi Lam Sơn”… những khúc nhạc yêu nước: Lên
đàng, Du kích sông Thao, Khúc khải hoàn… đã góp phần đấu tranh khơi dậy lòng
yêu nước, ngăn chặn, đẩy lùi những làn sóng văn hóa thực dân mới và nói lên
tiếng nói chính thực của học sinh – sinh viên.
Góp phần vào thắng lợi chung
của dân tộc: mục tiêu chống Mỹ và đòi lật đổ Thiệu _ Kỳ đã
trở thành nội dung nổi bật của phong trào đấu tranh chính trị ở đô thị trong
giai đoạn này. Ngày 31/3/1966, học sinh – sinh viên tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng
Vương và đem hình nộm Thiệu – Kỳ ra pháp trường cát ở chợ Bến Thành thiêu nhân
ngày Quốc tế Lao động 1/5/1966 bất chấp lực lượng cảnh sát, mật vụ và cả quân
Mỹ bố trí dày đặt, trên các nẻo đường hàng vạn nhân dân thành phố gồm công
nhân, học sinh – sinh viên, giáo chức, nông dân ngoại thành đã xuống đường tuần
hành với khẩu hiệu “người Mỹ không can thiệp vào công việc nội bộ của người
Việt Nam”, “chấm dứt rải chất độc tàn phá nông thôn”, “phản đối đàn áp biểu
tình”… và hô vang các khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Mỹ”, “quân Mỹ cút đi”… cũng
trong tháng 6/1966, Liên viện Đại học Sài Gòn – Vạn Hạnh – Cần Thơ – D(à Lạt
công bố thư gởi đồng bào, gởi Tổng thống Mỹ Johnson, gởi Thư ký Liên Hiệp Quốc
U Than đòi hòa bình, đòi Mỹ rút quân ra khỏi lãnh thổ Việt Nam “Mỹ là nguồn gốc
mọi tai họa của nhân dân Việt Nam”, tổ chức đêm văn nghệ mừng Tết Quang Trung
của 21 phân khoa đại học và 53 trường trung học.
Nhân Lễ
Phật đản, ngày 5/5/1966 tại Viện Hóa đạo, học sinh – sinh viên cắm băng giấy
trên xe Mỹ và đốt cháy, để lại dòng chữ “Đây là kết quả 13 năm viện trợ của
Mỹ”, khẩu hiệu đòi “Thiệu – Kỳ phải từ chức” đã trở thành khẩu hiệu hành động
qua các cuộc đấu tranh xuống đường. Cuộc đấu tranh chống bầu cử gian lận ngày
3/9/1967 có sự thống nhất hành động của sinh viên các trường đại học ở Sài Gòn,
Vạn Hạnh, Cần Thơ qua sự chỉ đạo của Hội đồng Sinh viên Liên Viện, học sinh
thành lập “Lực lượng học sinh chống bầu cử gian lận”, gọi cuộc bầu cử hôm đó là
“một trò hề được dựng lên bởi bàn tay của Mỹ” và kêu gọi mọi người phủ nhận kết
quả của cuộc bầu cử.
Học sinh – sinh viên tham gia
trong đợt Mậu Thân 1968: trong những ngày cuối năm 1967, học sinh
– sinh viên trong vòng 5 ngày đánh hàng chục trận ở nội cũng như ngoại thành.
Ngoài ra, còn tuyên truyền xung phong, phát loa kêu gọi thanh niên không đi
lính ngụy, đọc thư chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rải truyền đơn, biểu diễn
ráp lựu đạn, cắm cờ Mặt trận trên nóc các trường đại học.
Đêm
30/1/1968, khi tiếng súng của quân Giải phóng vang dội trên khắp các chiến
trường miền Nam, ngay lập tực thanh niên, học sinh sinh vie6nc ầm súng sát cánh
cùng quân Giải phóng chiến đấu trừng trị kẻ thù chung, giành giật từng ngôi
nhà, từng góc phố với địch. Học sinh sinh viên cùng với các thầy cô của mình
phát loa đi vào các xóm lao động để tuyên truyền vũ trang, vận động đồng bào
ủng hộ Mặt trận Giải phóng, ủng hộ bộ đội Cụ Hồ, kêu gọi cảnh sát và lính ngụy
quay về với gia đình, với nhân dân. Kết thúc đợt tấn công lần 1, học sinh –
sinh viên thành lập “Ủy ban Cứu trợ nạn nhân trong chiến tranh” tập hợp được
500 người tham gia đến các trường Chu Văn An, Mạc Đỉnh Chi… Mậu Thân bước vào
đợt 2, học sinh – sinh viên vẫn tiếp tục hăng hái trên các mặt trận chiến đấu,
cùng tham gia vào các phong trào như diệt ác ôn, rải truyền đơn, treo cờ, gài
mìn giả…
Thắng
lợi trong đợt Mậu Thân đã chứng minh: quân và dân ta có khả năng chiến thắng đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai; tạo ra một sự tương quan lực lượng có lợi cho ta,
khiến đế quốc Mỹ từ đỉnh cao của chiến lược “chiến tranh cục bộ” phải từng bước
xuống thang chiến tranh và chuyển sang một chiến lược khác – chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh”.
Phong trào văn nghệ, viết báo
công khai: phong trào văn nghệ, báo chí của giáo chức, học sinh –
sinh viên với nhiều ca khúc, nhiều vở kịch, tập thơ mang nội dung yêu nước,
giàu tính nhân văn và cách mạng, phản ánh nguyện vọng tha thiết của nhân dân,
mong muốn hòa bình, mơ ước một “thế giới không có chiến tranh”. Phong trào “Hát
cho đồng bào tôi nghe” kết hợp với những đêm văn nghệ đậm đà tính dân tộc,
những cuộc triển lãm tội ác của đế quốc Mỹ, những tuần lễ “mặc áo dài Việt
Nam”, những buổi thuyết giảng về nền văn hóa dân tộc… đã gây được những cảm xúc
lớn, đưa luồng sinh khí mới tác động mạnh mẽ và kêu gọi tinh thần dân tộc, lòng
yêu nước trong công chúng.
Đấu tranh chống bắt lính, quân
sự hóa và bình định học đường: “sư đoàn sinh viên bảo vệ thủ
đô” bị giải tán nhưng ngụy quyền bắt sinh viên mỗi tuần phải đi tập quân sự một
ngày, do đó hầu hết các phân khoa đại học thành lập Ủy ban đấu tranh chống quân
sự hóa học đường. Sinh viên các trường đại học đấu tranh với nhiều hình thức
như tổ chức mittinh, kiến nghị, phá hoại các phòng tập quân sự hay cử đại diện
đến đấu tranh trực diện với ngụy quyền, nêu cao các khẩu hiệu “Chương trình
huấn luyện quân sự học đường là âm mưu khát máu của đế quốc Mỹ”, đòi “Mỹ cút,
Thiệu nhào, quân sự học đường hẹp”. Trước làn sóng đấu tranh của các tầng lớp
nhân dân và học sinh – sinh viên, Thiệu buộc phải nhượng bộ, hoãn lệnh động
viên cho đến khi sinh viên ra trường.
Học sinh – sinh viên tham gia
trong các hoạt động vũ trang bảo vệ thành phố: nhiều học sinh – sinh
viên tham gia trong các đội vũ trang của Thành đoàn đánh Mỹ ở bất cứ nơi đâu và
bước đầu đã đem về những thành tích rất đáng tự hào như trong Đông Xuân 1968 –
1969 và Xuân Hè 1969, cùng phối hợp với Thành đoàn đã đánh sập cư xá Mỹ ở đường
Nguyễn Minh Chiếu, gài mìn tự động tại bùng binh chợ Bến Thành, đánh trạm biến
thế điện và nhiều trạm xăng địch, đánh cư xá Mỹ ở đường Chi Lăng, đánh lầu 3 cư
xá của lính đánh thuê Thái Lan… Tổng kết hoạt động vũ trang trong đợt này, học
sinh – sinh viên và lực lượng thanh niên đã đánh 4 đợt, mỗi đợt khoảng 50 vụ,
diệt 300 tên Mỹ, Hàn Quốc, Thái Lan và bọn ngụy quân.
Nếu
tính từ tháng 12/1970 đến tháng 10/1971, học sinh – sinh viên cùng với đồng bào
thành phố đã đốt cháy 136 chiếc xe, đánh chết và làm bị thương 17 tên Mỹ, 6
lính Nam Triều Tiên, 8 cảnh sát dã chiến ngụy, đốt cháy 1 thư viện Mỹ, thậm chí
còn tấn công và đốt cháy cổng trước của dinh đại sứ Mỹ Bunker.
Học sinh – sinh viên trong
chiến dịch Hồ Chí Minh: trước ngày Tổng tiến công và nổi dậy,
Thành đoàn thành lập 5 chi bộ dự bị và 5 chi đoàn, mỗi chi đoàn chỉ đạo một
trung đội tự vệ gồm đông đảo thanh niên, công nhân lao động, học sinh – sinh
viên ở Bàn Cờ, Vườn Chuối, Phú Nhuận, Bảy Hiền, Tân Sơn Nhất… với mục đích là
dẫn đường cho những cánh quân chủ lực vào thành phố.
Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi, lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, chính
phủ Dương Văn Minh đầu hàng không điều kiện trước sự chứng kiến của hàng triệu
bộ đội Cụ Hồ và đông đảo đồng bào thành phố. Trong những ngày tiếp quản, học
sinh – sinh viên cùng với đông đảo nhân dân lao động thành phố cùng nhau làm
nhiệm vụ điều hành trật tự lưu thông và làm tổng vệ sinh trong nội thành, nhờ
thế mà tình trạng cướp bóc, hỗn loạn không xảy ra như những thành thị khác ở
miền Nam. Còn ở nhiều trường thì các ban giám hiệu cùng với học sinh tham gia
quản lý trường lớp sạch sẽ, không bị hư hao mất mát.
Ngày30/4/1975, đánh
dấu một bước ngoặc rất lớn trong lịch sử dân tộc. Với một nước đất không rộng
người không đông nhưng đã chiến đấu và chiến thắng một kẻ thù “sen đầm quốc tế”
đó là đế quốc Mỹ. Từ đây, Tổ quốc Việt Nam bước
sang một giai đoạn mới, giai đoạn cùng cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Phong
trào đấu tranh dân chủ của giáo chức, học sinh – sinh viên đã góp phần làm thất
bại âm mưu thâm độc của Mỹ trong việc áp đặt nền giáo dục thực dân mới phản
động vào miền Nam Việt Nam.
Từ
ngày miền Nam được
hoàn toàn giải phóng đến nay, Thành phố Hồ Chí Minh đã có những bước chuyển
mình đột phá trong việc phát triển kinh tế cũng như trong lĩnh vực giáo dục văn
hóa. Từ “những pháo đài bất khả chiến bại” trong thời kỳ kháng Mỹ, nay đã trở
thành nơi nuôi dưỡng bao ước mơ, những “chồi xanh”, những thiên tài của thế hệ
Hồ Chí Minh – người chủ tương lai của đất nước.
Hơn
ba mươi năm sau chiến tranh, những đau khổ, mất mát, hy sinh đã dần lùi vào quá
khứ nhưng những con đường, những góc phố, những hàng ca6h, những mái trường…
như vẫn còn in đậm nét trong chiến tích hào hùng của dân tộc – trong đó có một
phần đóng góp không nhỏ của học sinh – sinh viên. Thế hệ trẻ với quyết tâm xây
dựng đất nước ngày càng phát triển và giàu đẹp hơn. Để đạt được điều đó, đòi
hỏi tuổi trẻ chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết, trao dồi
kinh nghiệm, không ngừng học tập phấn đấu tiến lên, phải xây dựng một con người
mới – con người xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn
Duy Trường – GV Khoa LLCT
“Triệu phú” Việt chống tham nhũng... mất danh hiệu anh hùng?
(Kienthuc.net.vn) - Báo chí từng gọi ông Phạm Duy Thiệu (Tứ Liên, Tây
Hồ, Hà Nội) là vua bãi nổi, triệu phú sông Hồng và anh hùng chống tham
nhũng...
Một mình bắn rơi 10 máy bay
Trước khi gặp ông, tôi không nghĩ một
người có thể sống với nhiều mảnh đạn đến thế trong người: 5 mảnh ở tay, 2
mảnh ở đầu, 1 mảnh ở tim và 1 mảnh ở phổi. Những mảnh đạn đã nằm sâu
trong xương, ăn vào động mạch, vào cơ tim, đã trở thành một phần của cơ
thể, không thể lấy ra được. Với ông, được sống để trở về đã là điều may
mắn lắm rồi.
Trong đời binh nghiệp của ông, trận
đánh rạng sáng ngày 6/11/1967 là trận nhớ đời. Địch quyết diệt đơn vị
phòng không nên tiểu đoàn phải rút toàn bộ, chỉ để lại 1 trung đội. Ông
Thiệu ở trung đội 3, là trung đội thép nên được lệnh ở lại cao điểm 69
Bàn Thùng, thuộc thôn Ba, xã Sơn Long, tỉnh Quảng Nam. 6h sáng, vừa lắp
xong súng thì địch cho pháo bắn lên. Trong vòng 15 - 20 phút cả quả đồi
không còn cành cây ngọn cỏ, tất cả biến thành đất đá đỏ. Rồi sau đó máy
bay địch đổ quân. Ông Thiệu tính, phải để cho nó đổ quân rồi mới bắn máy
bay vì nếu bắn trước thì địch sẽ giã pháo xuống là chết. Vì vậy, sau
khi bắn hết một loạt đạn vào đám lính bộ binh, ông mới quay sang bắn máy
bay. Một tốp 3 chiếc bốc cháy.
Địch phát hiện ra trận địa của ta,
chúng cho máy bay dãn ra để pháo bắn tiếp. Ngớt pháo lại tiếp tục đổ
quân vào trong xóm làng, lúc này ông Thiệu quay tròn súng để bắn. Thêm 2
chiếc máy bay nữa bị cháy. Bắn đến lúc súng đỏ nòng phải thay nòng mới
và bắn cháy thêm 1 máy bay phản lực nữa thì hết đạn. Trước khi rút, ông
còn kịp tháo bộ khoá nòng cho vào ba lô theo đúng quy định ở chiến
trường. Đi được mấy bước thì bị trúng đạn. Ông nằm gục, người rách bươm,
mắt nhắm nghiền, tai vẫn nghe tiếng máy bay trên đầu, trong ngực cứ có
tiếng khò khè. Ông vẫn tỉnh táo để kẹp chiếc áo may ô vào vết thương ở
ngực. Hình ảnh cuối cùng ông trong trí nhớ ông lúc đó là bố mẹ và người
vợ mới cưới được 3 ngày trước khi nhập ngũ. May ông được đồng đội ở
trung đoàn 31 bộ binh cứu. Ở trong hang 3 ngày thì được đưa sang Bệnh
viện CK17 bên kia sông Thu Bồn, lúc đó ông mới biết là mình còn sống.
Trên người ông có 19 vết thương.
Sau 2 tháng, ông được đưa ra Viện 108. Điều trị 6 tháng thì được ra viện nhưng sức khoẻ bị thương tổn tới 71%.
Ông Phạm Duy Thiệu ra thăm lại bãi sông Hồng. |
Đến "vua" bãi nổi
Sau khi trở về, ông Thiệu được đi học ở
Đại học Giao thông, nhưng do vết thương tái phát, người yếu quá, chỉ có
40kg, không học được nữa, nên năm 1970 ông trở về tìm kế mưu sinh. Đầu
tiên làm nghề cắt tóc, chữa xe đạp, làm đậu phụ, đóng gạch... Làm đủ
nghề mà chả đủ nuôi 5 đứa con. Đứng nhìn bãi nổi giữa sông Hồng mênh
mông toàn lau sậy, ông quyết định ra đó dựng lều khai hoang. Cái hình
ảnh người đàn ông đứng trước túp lều dựng bằng những cây sậy ngoài bãi,
giữa mênh mông đất trời, tay nâng những quả bí đỏ sao mà đẹp đến thế,
hiên ngang đến thế. Đó cũng chính là người năm 1980 đã thu vớt cho Nhà
nước 120 cây gỗ bị cuốn trôi trong bão lũ. Cũng chính là người đã cứu
sống 6 người bị đắm thuyền trên sông Hồng năm 1988.
Ông tâm sự, cũng chả nghĩ thành vua,
thành triệu phú gì cả đâu, chỉ vì nghèo quá phải nghĩ cách mà thoát
nghèo thôi. Lúc đầu là trồng ngô, bẫy chuột, nuôi lợn rồi thả cá, nuôi
bò, sau thì trồng cây thuốc... Đúng là trời không phụ lòng người. Khi
cây ngưu tất được trồng đại trà ông được xếp hạng có thu nhập cao. Không
chỉ làm giàu riêng mình, ông còn giúp nhiều người cùng làm... Ngày
27/7/1992, ông được đi báo cáo toàn quốc về thương binh làm kinh tế
giỏi. Năm 1996, ông lại được mời dự Hội nghị điển hình giỏi kháng chiến,
giỏi kiến quốc. Năm 1993, sau khi ở bên bãi 5 năm, ông quyết định cho
đất để người khác làm, còn mình về đi học, đến năm 1997 thì có bằng Đại
học Luật.
Nhưng với ông Thiệu, thành công lớn
nhất của cuộc đời là gia đình hoà thuận, là người vợ hiền luôn ủng hộ
mọi việc làm của chồng, là 5 người con đều thành đạt, trong đó có 4
người tốt nghiệp đại học. Ông bảo điều đó quá là vĩ đại với một anh
thương binh phải vật lộn với cuộc đời chỉ với hai bàn tay trắng như ông.
Và bên người vợ hiền đã từng cùng ông chia ngọt sẻ bùi. |
Mất danh hiệu anh hùng vì...
Ngay từ năm 1970, ông đã nhìn thấy
những dấu hiệu tham nhũng: Cán bộ xã bán đất chùa, bán chuông đồng, đất
phần trăm.... Ông đã viết lá đơn kiện bằng 1 bài thơ dài. 3 tháng sau
đoàn kiểm tra về và 9 tháng sau có kết luận: Bí thư, Chủ tịch, Trưởng
công an xã, Chủ nhiệm đều bị khai trừ ra khỏi Đảng vì vi phạm nghiêm
trọng về quản lý đất đai. Đến năm 1995, lại một bộ tứ nữa bị khai trừ
khỏi Đảng và phải ra hầu toà.
Giờ kể lại thì đơn giản thế, nhưng đấu
tranh với người lãnh đạo địa phương khó lắm, gian khổ lắm và cũng phải
đổ cả máu nữa. Tôi đã được xem bộ phim của Đài Truyền hình Việt Nam làm
về ông, nhìn thấy những vết chém trên đầu trên cổ ông, thấy sao mà dã
man đến thế. Bên cạnh những vết thương do bom đạn Mỹ gây ra, những vết
thương mới này còn đau gấp vạn lần.
Đã có những lúc vì ốm đau, mệt mỏi quá
ông đã tạm nghỉ, nhưng mới đây thôi, ông lại tiếp tục viết đơn kiện,
tiếp tục cái công việc gian khổ, nguy hiểm đó. Ông bảo, có nguy hiểm thế
chứ nguy hiểm nữa ông vẫn phải làm. Bởi cứ nghĩ đến hình ảnh Bác Hồ vác
cái gậy treo cái áo ấy là không đừng được. Các cụ phải chịu gian khổ
như thế để giành được độc lập để đến bây giờ họ sướng thế mà lại vi phạm
pháp luật nghiêm trọng hay sao. Rồi nghĩ đến đồng đội đã hy sinh. Đơn
vị ông lúc đi có 660 người, mà nay chỉ còn vẻn vẹn 38 người trở về. Còn
cả triệu triệu người lính đã ngã xuống. Chính vì thế, phải đấu tranh,
không thể để mất nước được.
Chỉ có một điều sâu kín nhất trong
lòng khiến ông buồn, đó là vì những nhận xét không đúng sự thật của địa
phương mà ông đã lỡ mất danh hiệu anh hùng. Năm 1995, căn cứ vào Chỉ thị
35/CT-TW của Ban Bí thư và Thông tư số 465/QP-TT của Bộ Quốc phòng về
việc xét khen thưởng thành tích trong chống Mỹ cho những người còn sót,
Quân khu 5 đã gửi 2 công văn đề nghị phong Anh hùng các lực lượng vũ
trang cho 2 người là ông Phạm Duy Thiều và ông Vũ Xuân Đài. Mọi hồ sơ,
thủ tục đã hoàn tất, đã xác định 22/12/1995 là nhận được quyết định. Đến
20/12, ông Đài gọi điện báo nhận được quyết định phong anh hùng rồi,
còn ông thì không thấy gì. Cũng không biết vì sao, vướng ở đâu.
Từ bấy đến nay đã hơn 17 năm, đơn từ
gửi đi đã nhiều, công văn, chỉ thị cũng nhận được lắm, chỉ có điều vẫn
không có kết luận gì. Vậy mà gần đây có người còn mang việc công nhận
danh hiệu anh hùng ra để mặc cả với ông!
Với ông, có lẽ cái danh hiệu không có
gì quan trọng, bởi tất cả những gì đáng làm, những gì có thể làm thì ông
đã làm cả rồi. Chỉ có điều với những người đã sống, chiến đấu và lao
động cạnh ông, những người biết câu chuyện của ông, thì việc một con
người xứng đáng như thế không được phong anh hùng, liệu họ có còn tin,
còn dám đấu tranh vì một sự công bằng nữa hay không? Đó mới là điều đáng
để chúng ta phải suy ngẫm.Với thành tích bắn rơi 10 máy bay Mỹ, bắn bị thương 4 cái, ông Phạm Duy Thiệu đã được tặng 2 Huân chương chiến công giải phóng hạng hai và ba, Huân chương kháng chiến hạng nhì, Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng ba cùng những danh hiệu Dũng sĩ diệt máy bay và dũng sĩ diệt Mỹ.
"Độc chiêu" tham nhũng của quan tham Hòa Thân
(Nguoiduatin) Hòa Thân là viên quan đại thần được hoàng đế Càn Long, triều đại nhà Thanh (Trung Quốc) sủng ái bậc nhất. Sự sủng ái đặc biệt của Càn Long cộng với năng lực bản thân, Hòa Thân sau đó đã được thăng các chức hàm quan trọng như: Đại học sĩ, Quân cơ đại thần, Cửu môn đề đốc.
Đồng hành với những chức hàm trọng yếu đó, Hòa Thân còn khét tiếng
bởi danh xưng "đệ nhất quan tham" cùng những độc chiêu tham nhũng ghê
gớm.
Mua quan bán tước
Hòa Thân xuất thân là một công tử Mãn Châu. Khi mới gia nhập triều đình, Hòa Thân giữ chức vị Thị vệ. Tuy còn trẻ nhưng Hòa Thân đã sớm có năng lực làm việc cũng như các đóng góp cho triều đình, vì thế Hòa Thân được Càn Long rất tín nhiệm, trọng dụng. Theo như lời đồn đại, Càn Long có một ấn tượng rất đặc biệt với vẻ ngoài của Hòa Thân. Vẻ ngoài ấy hao hao giống với một người tì thiếp đã bị thất sủng và qua đời do lỗi của Càn Long khi ông còn nhỏ. Vì vậy Càn Long luôn có một sự ưu ái đặc biệt với Hòa Thân, thường bỏ qua các sai sót và nuông chiều ông ta.
Chân dung Hòa Thân
Khi là viên đại thần đứng đầu các bộ như Bộ Hộ, Phủ Nội vụ - nơi có quyền hạn phụ trách các vấn đề điều phối lương thực, vũ trang trong quân đội, Hòa Thân đã luôn đánh tiếng để các quan lại dưới quyền hối lộ khi muốn thăng quan tiến chức. Không những thế, bất kỳ việc chi tiêu nào cho triều đình muốn được thông qua nhanh chóng, giới quan lại đều phải "qua cửa" Hòa Thân thì mọi việc mới được diễn ra thông suốt.
Ngoài việc ăn hối lộ và ăn chặn tiền bạc của triều đình, tài sản của Hòa Thân còn được nhân lên hàng ngày nhờ việc mua quan bán tước. Được hoàng đế Càn Long sủng ái và lần lượt giữ những ngôi vị cao nhất trong hàng ngũ đại thần, Hòa Thân luôn nắm trong tay danh sách quan lại trong toàn quốc. Những ai muốn thăng chức nhanh hoặc muốn mua một chức vị quan nào đó dù nhỏ hay to cũng đều phải qua tay Hòa Thân. Có những viên quan liêm khiết không muốn thăng tiến bằng con đường hối lộ thì sẽ bị Hòa Thân gây khó dễ. Trong 24 năm đương quyền, Hòa Thân đã đút túi khoảng 40 triệu lạng bạc với riêng việc mua quan bán tước này.
Theo quy định của triều đình nhà Thanh, các quan lại không được tham gia vào việc kinh doanh và thu lợi nhuận từ những dịch vụ như cầm đồ, buôn bán... Tuy nhiên, điều này đã không làm khó được kẻ ham tiền và ưa lũng đoạn như Hòa Thân. Trong khi đương chức, viên quan này đã tự mình mở hàng loạt những ngành nghề kinh doanh hái ra tiền như cửa hàng lương thực, cửa hàng buôn bán vũ khí, nhà hàng, quán rượu, ngân hàng. Trong chốn thương trường, Hòa Thân luôn tỏ ra là một người ngang ngược, ngạo mạn, trắng trợn chụp giật. Ngay trong xử lý mối quan hệ xã hội, y cũng mượn oai, trịch thượng hiếp đáp kẻ khác. Trong lĩnh vực kinh doanh, dựa vào thân thế cùng với quyền lực của mình, Hòa Thân đã thâu tóm hầu hết những cửa hàng buôn bán cùng nhiều mặt hàng tại kinh thành và nhiều tỉnh lớn khác tại Trung Quốc vào thời điểm đó. Tất cả chuỗi cửa hàng của Hòa Thân tại kinh thành đều có những kẻ có máu mặt cầm đầu và sẵn sàng trừ khử những đối thủ không thích nằm dưới trướng của đại thần họ Hòa.
Không chỉ dừng lại ở đó, để kiếm thêm tiền bạc vào túi của mình, Hòa Thân còn nghĩ ra mọi biện pháp để vơ vét tài sản từ quốc khố. Vì quá sủng ái Hòa Thân, vào năm 1788 trong 3000 vạn lạng bạc tiền thu thuế, Càn Long đã để Hòa Thân tự do chi phí cho mọi hoạt động của triều đình. Trong lần này, với tài biến hóa sổ sách kế toán, Hòa Thân đã đút túi không dưới vài vạn lạng.
Sử sách Trung Quốc còn ghi lại rằng vào cuối đời Càn Long, trong các cống phẩm và vật dụng các tỉnh cống nạp triều đình thì chỉ có 12% được đưa vào ngân khố. Còn 88% còn lại "bị hút" về phủ Hòa Thân. Theo ước tính vào những năm đó, số châu báu quý hiếm trong phủ của viên đại thần họ Hòa này còn lớn gấp 3 đến 4 lần so với triều đình. Có những viên ngọc hoặc trân châu quý hiếm đến nỗi, đến hoàng đế còn chưa được nhìn thấy thì trong tay Hòa Thân lại có … vài viên. Vậy nên, thời đó dân gian đã lưu truyền câu nói nổi tiếng: "Cái Càn Long có Hòa Thân có, cái Càn Long không có chưa chắc Hòa Thân không có".
Không hối lộ nhiều không gặp mặt
Một điều đặc biệt nữa trong cách thức nhận hối lộ của Hòa Thân chính là ở "đẳng cấp": Không hối lộ nhiều không gặp mặt. Không phải ai Hòa Thân cũng tiếp, vì thế muốn gặp được vị đại thần này, các quan lại cũng phải đưa ra một mức giá hợp lý.
Hình ảnh nhân vật "đệ nhất quan tham" Hòa Thân (bên trái) được tái hiện qua phim ảnh Trung Quốc
Chuyện kể rằng, có vị quan tuần phủ trong dịp ngao du đến kinh đô đã nghe người nói đến cái tên Hòa Thân. Vì muốn được thăng chức sau nhiều năm phải giữ chân tèm nhèm trong tỉnh, vị này đã mang số tiền 5000 lạng bạc để làm lộ phí. Kết quả là viên quan này chỉ được một tên hầu trong phủ họ Hòa ra tiếp kiến. Trong buổi gặp gỡ này, tên hầu đã đánh tiếng rằng muốn gặp được Hòa Thân ít nhất phải mang 20 vạn lạng, còn dưới mức đó thì đừng bao giờ bước chân tới phủ.
Cũng có viên quan biết được sở thích sưu tập ngọc trai của Hòa Thân nên đã nghĩ ra một cách để được tiếp kiến vị quan tham này. Viên quan trên đã mua rất nhiều ngọc trai cao cấp về rồi sai người bọc vàng xung quanh nhằm tăng giá trị quà tặng. Kết quả là trong lần đầu bước chân vào phủ họ Hòa, viên quan này đã được đích thân Hòa Thân đón tiếp.
"Núi" tài sản không cứu nổi mạng sống
Trong những năm tháng trên đỉnh cao của quyền lực, số của cải mà Hòa Thân đã tham ô, nhận hối lộ thì không cóỏ bất kỳ một vị quan tham nhũng nào trong lịch sử Trung Quốc cổ đại và hiện đại vượt qua được. Lòng tham vô đáy của Hòa Thân tựa nạn đại dịch hoành hành khắp nơi khiến quan bé, quan lớn, quan thấp, quan cao đều bị "lây nhiễm" và ra sức tham nhũng.
Những vụ tham ô của Hòa Thân dần hé mở khi vua Càn Long thoái vị vào tháng 1/1796. Trong 24 năm từ khi Hòa Thân bắt đầu được hoàng đế Càn Long để mắt và sủng ái, vị đại thần này đã thâu tóm, vơ vét được một số tài sản lớn tới khó tin. Sự giàu sang của ông ta được thể hiện qua số tài sản bị tịch thu khi hoàng đế Gia Khánh lên ngôi gồm có: Những dinh thự, đất đai có tổng cộng 3.000 phòng, 8.000 mẫu (32 km2) đất; 42 ngân hàng; 75 hiệu cầm đồ. Ngoài ra, còn có: 60.000 lạng vàng bọc đồng, 100 thỏi vàng lớn nguyên chất (1.000 lạng mỗi thỏi), 56.600 thỏi bạc cỡ vừa (100 lạng mỗi thỏi), 9 triệu thỏi bạc nhỏ (10 lạng mỗi thỏi), 58.000 cân tiền ngoại, 1.500.000 đồng tiền xu, 600 cân nhân sâm Cát Lâm thượng hạng, 1.200 miếng ngọc bội, 230 chuỗi ngọc trai (mỗi viên ngọc trai có cỡ gần tương đương quả anh đào lớn), 10 viên ngọc trai lớn (cỡ tương đương quả mơ), 10 viên hồng ngọc, 40 viên ngọc bích lớn, 40 bàn đựng bộ đồ ăn bằng bạc (10 bộ mỗi bàn), 40 bàn đựng bộ đồ ăn bằng vàng (10 bộ mỗi bàn), 11 tảng san hô (mỗi tảng cao hơn 1m), 14.300 xấp lụa tốt, 20.000 tấm len lông cừu loại tốt, 550 tấm da cáo, 850 tấm da gấu, 56.000 tấm da cừu và da gia súc độ dày khác nhau, 7.000 bộ quần áo tốt (mặc trong cả bốn mùa), 361.000 bình bằng đồng và thiếc, 100.000 đồ sứ được làm bởi các nghệ nhân có tiếng, 24 giường bằng vàng ròng có trang trí tinh xảo (mỗi giường có cẩn 8 loại đá quý khác nhau), 460 đồng hồ tốt của châu âu cùng với 606 gia nhân, 600 tì thiếp trong phủ...
Tổng cộng gia sản của Hòa Thân ước lượng vào khoảng 1.100 triệu lạng bạc, nhiều lời đồn cho rằng nó còn tương đương số tiền mà quốc khố nhà Thanh phải mất 15 năm mới thu được. Tuy nhiên, sau khi hoàng đế Càn Long băng hà chỉ có 15 ngày, Hòa Thân đã phải phụng chỉ tự thắt cổ chết trong ngục thất, kết thúc cuộc đời khét tiếng gian tham của mình.
Thủy Bình (Theo Hoàn cầu)
Mua quan bán tước
Hòa Thân xuất thân là một công tử Mãn Châu. Khi mới gia nhập triều đình, Hòa Thân giữ chức vị Thị vệ. Tuy còn trẻ nhưng Hòa Thân đã sớm có năng lực làm việc cũng như các đóng góp cho triều đình, vì thế Hòa Thân được Càn Long rất tín nhiệm, trọng dụng. Theo như lời đồn đại, Càn Long có một ấn tượng rất đặc biệt với vẻ ngoài của Hòa Thân. Vẻ ngoài ấy hao hao giống với một người tì thiếp đã bị thất sủng và qua đời do lỗi của Càn Long khi ông còn nhỏ. Vì vậy Càn Long luôn có một sự ưu ái đặc biệt với Hòa Thân, thường bỏ qua các sai sót và nuông chiều ông ta.
Chân dung Hòa Thân
Khi là viên đại thần đứng đầu các bộ như Bộ Hộ, Phủ Nội vụ - nơi có quyền hạn phụ trách các vấn đề điều phối lương thực, vũ trang trong quân đội, Hòa Thân đã luôn đánh tiếng để các quan lại dưới quyền hối lộ khi muốn thăng quan tiến chức. Không những thế, bất kỳ việc chi tiêu nào cho triều đình muốn được thông qua nhanh chóng, giới quan lại đều phải "qua cửa" Hòa Thân thì mọi việc mới được diễn ra thông suốt.
Ngoài việc ăn hối lộ và ăn chặn tiền bạc của triều đình, tài sản của Hòa Thân còn được nhân lên hàng ngày nhờ việc mua quan bán tước. Được hoàng đế Càn Long sủng ái và lần lượt giữ những ngôi vị cao nhất trong hàng ngũ đại thần, Hòa Thân luôn nắm trong tay danh sách quan lại trong toàn quốc. Những ai muốn thăng chức nhanh hoặc muốn mua một chức vị quan nào đó dù nhỏ hay to cũng đều phải qua tay Hòa Thân. Có những viên quan liêm khiết không muốn thăng tiến bằng con đường hối lộ thì sẽ bị Hòa Thân gây khó dễ. Trong 24 năm đương quyền, Hòa Thân đã đút túi khoảng 40 triệu lạng bạc với riêng việc mua quan bán tước này.
Theo quy định của triều đình nhà Thanh, các quan lại không được tham gia vào việc kinh doanh và thu lợi nhuận từ những dịch vụ như cầm đồ, buôn bán... Tuy nhiên, điều này đã không làm khó được kẻ ham tiền và ưa lũng đoạn như Hòa Thân. Trong khi đương chức, viên quan này đã tự mình mở hàng loạt những ngành nghề kinh doanh hái ra tiền như cửa hàng lương thực, cửa hàng buôn bán vũ khí, nhà hàng, quán rượu, ngân hàng. Trong chốn thương trường, Hòa Thân luôn tỏ ra là một người ngang ngược, ngạo mạn, trắng trợn chụp giật. Ngay trong xử lý mối quan hệ xã hội, y cũng mượn oai, trịch thượng hiếp đáp kẻ khác. Trong lĩnh vực kinh doanh, dựa vào thân thế cùng với quyền lực của mình, Hòa Thân đã thâu tóm hầu hết những cửa hàng buôn bán cùng nhiều mặt hàng tại kinh thành và nhiều tỉnh lớn khác tại Trung Quốc vào thời điểm đó. Tất cả chuỗi cửa hàng của Hòa Thân tại kinh thành đều có những kẻ có máu mặt cầm đầu và sẵn sàng trừ khử những đối thủ không thích nằm dưới trướng của đại thần họ Hòa.
Không chỉ dừng lại ở đó, để kiếm thêm tiền bạc vào túi của mình, Hòa Thân còn nghĩ ra mọi biện pháp để vơ vét tài sản từ quốc khố. Vì quá sủng ái Hòa Thân, vào năm 1788 trong 3000 vạn lạng bạc tiền thu thuế, Càn Long đã để Hòa Thân tự do chi phí cho mọi hoạt động của triều đình. Trong lần này, với tài biến hóa sổ sách kế toán, Hòa Thân đã đút túi không dưới vài vạn lạng.
Sử sách Trung Quốc còn ghi lại rằng vào cuối đời Càn Long, trong các cống phẩm và vật dụng các tỉnh cống nạp triều đình thì chỉ có 12% được đưa vào ngân khố. Còn 88% còn lại "bị hút" về phủ Hòa Thân. Theo ước tính vào những năm đó, số châu báu quý hiếm trong phủ của viên đại thần họ Hòa này còn lớn gấp 3 đến 4 lần so với triều đình. Có những viên ngọc hoặc trân châu quý hiếm đến nỗi, đến hoàng đế còn chưa được nhìn thấy thì trong tay Hòa Thân lại có … vài viên. Vậy nên, thời đó dân gian đã lưu truyền câu nói nổi tiếng: "Cái Càn Long có Hòa Thân có, cái Càn Long không có chưa chắc Hòa Thân không có".
Không hối lộ nhiều không gặp mặt
Một điều đặc biệt nữa trong cách thức nhận hối lộ của Hòa Thân chính là ở "đẳng cấp": Không hối lộ nhiều không gặp mặt. Không phải ai Hòa Thân cũng tiếp, vì thế muốn gặp được vị đại thần này, các quan lại cũng phải đưa ra một mức giá hợp lý.
Hình ảnh nhân vật "đệ nhất quan tham" Hòa Thân (bên trái) được tái hiện qua phim ảnh Trung Quốc
Chuyện kể rằng, có vị quan tuần phủ trong dịp ngao du đến kinh đô đã nghe người nói đến cái tên Hòa Thân. Vì muốn được thăng chức sau nhiều năm phải giữ chân tèm nhèm trong tỉnh, vị này đã mang số tiền 5000 lạng bạc để làm lộ phí. Kết quả là viên quan này chỉ được một tên hầu trong phủ họ Hòa ra tiếp kiến. Trong buổi gặp gỡ này, tên hầu đã đánh tiếng rằng muốn gặp được Hòa Thân ít nhất phải mang 20 vạn lạng, còn dưới mức đó thì đừng bao giờ bước chân tới phủ.
Cũng có viên quan biết được sở thích sưu tập ngọc trai của Hòa Thân nên đã nghĩ ra một cách để được tiếp kiến vị quan tham này. Viên quan trên đã mua rất nhiều ngọc trai cao cấp về rồi sai người bọc vàng xung quanh nhằm tăng giá trị quà tặng. Kết quả là trong lần đầu bước chân vào phủ họ Hòa, viên quan này đã được đích thân Hòa Thân đón tiếp.
"Núi" tài sản không cứu nổi mạng sống
Trong những năm tháng trên đỉnh cao của quyền lực, số của cải mà Hòa Thân đã tham ô, nhận hối lộ thì không cóỏ bất kỳ một vị quan tham nhũng nào trong lịch sử Trung Quốc cổ đại và hiện đại vượt qua được. Lòng tham vô đáy của Hòa Thân tựa nạn đại dịch hoành hành khắp nơi khiến quan bé, quan lớn, quan thấp, quan cao đều bị "lây nhiễm" và ra sức tham nhũng.
Những vụ tham ô của Hòa Thân dần hé mở khi vua Càn Long thoái vị vào tháng 1/1796. Trong 24 năm từ khi Hòa Thân bắt đầu được hoàng đế Càn Long để mắt và sủng ái, vị đại thần này đã thâu tóm, vơ vét được một số tài sản lớn tới khó tin. Sự giàu sang của ông ta được thể hiện qua số tài sản bị tịch thu khi hoàng đế Gia Khánh lên ngôi gồm có: Những dinh thự, đất đai có tổng cộng 3.000 phòng, 8.000 mẫu (32 km2) đất; 42 ngân hàng; 75 hiệu cầm đồ. Ngoài ra, còn có: 60.000 lạng vàng bọc đồng, 100 thỏi vàng lớn nguyên chất (1.000 lạng mỗi thỏi), 56.600 thỏi bạc cỡ vừa (100 lạng mỗi thỏi), 9 triệu thỏi bạc nhỏ (10 lạng mỗi thỏi), 58.000 cân tiền ngoại, 1.500.000 đồng tiền xu, 600 cân nhân sâm Cát Lâm thượng hạng, 1.200 miếng ngọc bội, 230 chuỗi ngọc trai (mỗi viên ngọc trai có cỡ gần tương đương quả anh đào lớn), 10 viên ngọc trai lớn (cỡ tương đương quả mơ), 10 viên hồng ngọc, 40 viên ngọc bích lớn, 40 bàn đựng bộ đồ ăn bằng bạc (10 bộ mỗi bàn), 40 bàn đựng bộ đồ ăn bằng vàng (10 bộ mỗi bàn), 11 tảng san hô (mỗi tảng cao hơn 1m), 14.300 xấp lụa tốt, 20.000 tấm len lông cừu loại tốt, 550 tấm da cáo, 850 tấm da gấu, 56.000 tấm da cừu và da gia súc độ dày khác nhau, 7.000 bộ quần áo tốt (mặc trong cả bốn mùa), 361.000 bình bằng đồng và thiếc, 100.000 đồ sứ được làm bởi các nghệ nhân có tiếng, 24 giường bằng vàng ròng có trang trí tinh xảo (mỗi giường có cẩn 8 loại đá quý khác nhau), 460 đồng hồ tốt của châu âu cùng với 606 gia nhân, 600 tì thiếp trong phủ...
Tổng cộng gia sản của Hòa Thân ước lượng vào khoảng 1.100 triệu lạng bạc, nhiều lời đồn cho rằng nó còn tương đương số tiền mà quốc khố nhà Thanh phải mất 15 năm mới thu được. Tuy nhiên, sau khi hoàng đế Càn Long băng hà chỉ có 15 ngày, Hòa Thân đã phải phụng chỉ tự thắt cổ chết trong ngục thất, kết thúc cuộc đời khét tiếng gian tham của mình.
Thủy Bình (Theo Hoàn cầu)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét