Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013
BÀI VIẾT HAY 24
(ĐC sưu tầm trên NET)
Sơn Nam – vạt Lục Bình Nam bộ
Nhân ngày giỗ nhà văn Sơn Nam lần thứ 5: ( 13/8/2008 – 13/8/2013) và nhân đọc lại “Hương Rừng Cà Mau” của nhà văn Sơn Nam)
Trần Mạnh Hảo
Không
hiểu sao, mỗi lần nhớ đến nhà văn Sơn Nam, tôi lại hình dung đến những
vạt hoa lục bình trên các kênh rạch, sông ngòi của miền Nam. Lục bình,
loài hoa vừa đi vừa nở, như một bài thơ tôi viết thuở nào, là một
thứ hoa quá bình thường, thậm chí quá tầm thường, do trời trồng, cứ
phiêu dạt, cứ lang bạt kỳ hồ như mây bay gió thổi, như số phận và tâm
hồn của người nghệ sĩ. Lục bình vừa đi vừa sống, vừa đi vừa nở hoa, vừa
đi vừa sinh sôi và tan rã. Nương trên sông nước, có lúc loài hoa xê dịch
này chạy như bay về phía chân trời, chạy như đang bị nghìn thượng nguồn
lũ lụt đuổi bắt, chạy như đang trôi tuột về phía hư vô, về phía không
còn gì, để bấu víu và tồn tại…
Quả
thực, Sơn Nam là loài lục bình chuyên đi bộ, trôi bộ trên những vỉa hè
của Sài thành. Ông cứ tưng tửng như thế mà đi vào lòng người, mà đi vào
văn học. Học theo phép trôi nổi, vô bờ bến của hoa lục bình, chừng như
Sơn Nam cứ tưng tửng suốt hơn bảy mươi năm mà đi bộ trên những vỉa hè
bụi bậm quanh co của con người. Đốm lục bình trên cạn này có cảm giác
như trôi không nghỉ, vừa đi vừa ngậm cái sâu kèn bốc khói, thảng hoặc
cười ruồi một cái rất bí hiểm, hoặc gật đầu chào một bóng mây, quờ tay
lên khoảng không như tính vịn vào sự hụt hẫng của bước chân phận số.
Trên dòng đời trôi dạt, cuộn xoáy về vô định ấy, trong hoang sơ im lặng
chợt trổ ra bông lục bình, đột ngột như tiếng khóc oa oa sơ sinh của
mang mang thiên cổ, có lúc lại đầy đặn, ấm áp tươi vui như tiếng cười
của trời đất. Nhìn lên trời, đám mây tưng tửng kia chợt như một dề lục
bình của cao xanh, trôi đi muôn đời bí hiểm mà sao chưa học được phép nở
hoa của bông lục bình hoang dã.
Gió
kia thổi tưng tửng lên miệt vườn và Sơn Nam cứ thế mà đi tưng tửng đến
mọi người. Ông có cái dáng cổ quái như người đã ở miệt vườn từ mấy trăm
năm, từ độ ông bà mình đầu tiên mở đất Nam Bộ. Ông giống như một tùy
phái của Thoại Ngọc Hầu vừa thu nạp dân binh đi mở kinh Vinh Tế về, lội
bộ qua vài ba trăm năm đến với chúng ta như lội qua vài ba công ruộng.
Sơn Nam đã ở đô thành gần này hơn nửa thế kỷ mà cái dáng của ông vẫn như
là dáng của dân miệt vườn chay. Ông chưa hề bị nhiễm chất thị thành,
hệt như ông già Nam Bộ này vừa theo mùa nước nổi bắt được mấy xâu chuột,
kêu bạn bè kiếm vài chùm bông điên điển về nướng chuột nhậu chơi. Ông
có cái dáng dân chài lưới của U Minh thượng, U Minh hạ hơn là cái dáng
của dân làm văn, viết sử.
Sơn
Nam là nhà văn của nông thôn, mà là nông thôn Nam Bộ, một nông thôn
thuần phác mà dữ dằn, chịu chơi mà nghĩa khí, nhân hậu mà ngang tàng.
Cái miệt vườn trong văn chương của Sơn Nam là một miệt vườn xưa, nơi con
người và cá sấu còn tranh giành nhau từng tấc đất, nơi cọp ngồi lù lù
giữa buổi chợ chiều, nơi mũi lao thường biết cách dẫn đường con người
bằng cách phóng đi như tên bắn về phía hoang vu, tăm tối và nỗi sợ trước
một thiên nhiên được cấu tạo bằng nỗi niềm của người xa xứ.
Ông
chính hiệu là nhà văn của buổi đầu mở đất, của những người bị phát
vãng, bị lưu đầy từ miền Trung, miền Bắc vào, của dân trốn nợ, của kẻ
thất tình quá mà bỏ xứ, của những anh hùng Lương Sơn Bạc, muốn tìm tự do
nơi xứ cọp hơn là phải sống tù túng, sợ hãi trong sự áp bức của cõi
người toàn quan ôn, chúa ác. Sơn Nam là một nhà Nam Bộ học, một cuốn từ
điển của thời đầu mở đất Đồng Nai. Ông tiếp tục truyền thống văn chương
của những Nguyễn Đình Chiểu, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hồ Biểu
Chánh, Đông Hồ… Văn ông giản dị chừng nào, mộc mạc chừng nào lại sâu sắc
mà hàm súc chừng ấy. Đọc ông, tôi cứ nhớ đến Tuốchghênhiép, một nhà văn
phong tục của Nga ở thế kỷ mười chín với “bút ký người đi săn”
nổi tiếng trên thế giới. Tuốchghênhiép là một biên niên sử của nông thôn
Nga thời Sa hoàng, với những trang trại và những cỗ xe tam mã, những
mệnh phụ phu nhân và những mối tình phù phiếm gió bay, những nông nô và
số phận tẩm toàn nước mắt, những cánh rừng tai ga hư thực và những hươu
nai chỉ lấy sự chạy làm vũ khí. Cũng như Tuốcghênhiép, Sơn Nam là một
nhà văn phong tục của miền Nam, của những huyền thoại thời kỳ khai điền
lập ấp.
Văn
của Sơn Nam không ào ào như gió chướng, lại không trong veo như nước
cất trong phòng thí nghiệm, mà nó là thứ chất lỏng hồng hào có tên là
phù sa, chỉ cần vốc lên đã thấy mỡ màu cả bàn tay. Dưới ngòi bút của
ông, những mảnh vụn bình thường nhất của thiên nhiên, những góc khuất
nhất của hồn người chợt như được khoác lên một thứ ánh sáng mới, được
bước ra sân khấu của ngôn từ với vẻ mặt trang trọng và cảm động. Những
cảnh, những đời, những tâm sự của ông dù với tính cách hảo hớn, hào hùng
nhất, sảng khoái và chịu chơi nhất bao giờ cũng pha một giọng kể trầm
buồn, u hoài, xa vắng. Nói cho cùng, Sơn Nam là nhà văn của nỗi buồn con
người. Hình như nỗi buồn đau mới có khả năng tạo ra cái đẹp của nghệ
thuật ? Thế giới nguy hiểm hơn, dễ đổ vỡ hơn nếu chỉ tồn tại bằng tiếng
cười, bằng sự hoan lạc. Những câu chuyện mà Sơn Nam kể cho chúng ta
thường pha chất dân gian, pha chút tiếu lâm nguyên thủy miệt vườn, đôi
khi cái cười đi qua còn lưu lại nước mắt. Làm cho người đọc cảm động,
còn tác giả tuồng như vẫn tỉnh queo, vẫn lầm lũi đi tìm những mảnh đời
khác, những câu chuyện khác, gom nhặt chất liệu như đi mót lúa.
Sơn
Nam dáng dấp nhỏ con như núi của phương Nam nhưng rắn rỏi, gân guốc.
Gương mặt ông khắc khổ, hun hút như được chạm khắc bởi nỗi niềm tù túng
của lịch sử có nét hao hao gương mặt của tượng đá Phù Nam. Đôi mắt ông
nhìn tôi vừa xuyên suốt, vừa u u minh minh, vừa sáng quắc vừa lờ đờ, hệt
như là đôi mắt của quá khứ. Ông cười lành như cái cười của nghé, của
bê. Đôi lúc đang ngồi cười nói, ông chợt im lặng như quên mất tiếng nói,
thậm chí như thể ông đã để quên hai lỗ tai ở nhà. Và chợt thấy ông cười
ruồi như cười với người trong mơ. Đôi khi ông thất thường như mưa nắng,
song ông vẫn là người bình dị, chưa một lần tỏ ra kênh kiệu ta đây. Ông
có khả năng chơi thượng vàng hạ cám. Lớp trẻ quý mến ông ở tấm lòng
thành thật, cởi mở và chịu chơi, thậm chí lẹt xẹt, hề hề.
Thỉnh
thoảng gặp ông, tôi lại thấy nhà văn Sơn Nam của chúng ta già đi một
tí. Duy giọng nói ông còn hào sảng, tiếng cười hì hì của ông sao mà trẻ
thơ dường vậy. Con người càng già đi, tâm hồn càng trở về thời thơ ấu.
Với những tập truyện ngắn bút ký xuất sắc, với những tập biên khảo uyên
thâm, với những phát hiện mới mẻ về chân dung tinh thần của người Nam
Bộ, Sơn Nam quả rất xứng đáng với ý nghĩa của tên tuổi mình.
Dòng
sông đuổi bắt chân trời, chẳng có gì trên đời có gan bám theo dòng sông
về vô tận ngoài chấm lục bình kia. Lục bình như một biểu tượng sâu xa
của kiếp người, vẫn trổ hoa trong mưa gió. Như một đóa lục bình văn học,
tâm hồn Sơn Nam đang trôi trên những trang văn về phía chân trời của
cuộc sống.
1926 - 2008) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nổi tiếng.
Thuở nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, rồi học trung học tại Cần Thơ. Năm 1945, ông tham gia Thanh niên Tiền phong, giành lấy chính quyền ở địa phương, rồi lần lượt tham gia công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc tỉnh, phòng Chính trị Quân khu, phòng Văn nghệ Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Bút danh Sơn Nam ra đời trong thời gian này, để tưởng nhớ người phụ nữ Khmer đã cho ông bú mớm thời thơ ấu (Sơn là một họ lớn của người Khmer, Nam là để nhắc nhớ mình là người phương Nam) . Sau Hiệp định Genève 1954, ông về lại Rạch Giá.
Năm 1955, ông lên Sài Gòn cộng tác với các báo: Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống...
Năm 1960-1961, bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam ở nhà lao Phú Lợi (Thủ Dầu Một, Bình Dương) . Ra tù, ông tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ. Sau 1975, ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà văn Sơn Nam đã viết nên nhiều tác phẩm dấu ấn, ông được nhiều người gọi yêu là "ông già Nam Bộ", "ông già Ba Tri", “ông già đi bộ’, "pho từ điển sống về miền Nam" hay là "nhà Nam Bộ học". Toàn bộ các sáng tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản quyền. Ông qua đời ngày 13 tháng 08 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Sơn Nam (nhà văn)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
1926 - 2008) là một nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam nổi tiếng.
Tiểu sử
Ông tên thật là Phạm Minh Tài sinh ngày 11 tháng 12 năm 1926, tại làng Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá (nay thuộc tỉnh Xã Đông Thái, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang). Do sự nhầm lẫn của nhân viên hộ tịch, tên khai sinh của ông bị viết sai thành Phạm Minh Tày.Thuở nhỏ ông học tiểu học tại quê nhà, rồi học trung học tại Cần Thơ. Năm 1945, ông tham gia Thanh niên Tiền phong, giành lấy chính quyền ở địa phương, rồi lần lượt tham gia công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc tỉnh, phòng Chính trị Quân khu, phòng Văn nghệ Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Bút danh Sơn Nam ra đời trong thời gian này, để tưởng nhớ người phụ nữ Khmer đã cho ông bú mớm thời thơ ấu (Sơn là một họ lớn của người Khmer, Nam là để nhắc nhớ mình là người phương Nam) . Sau Hiệp định Genève 1954, ông về lại Rạch Giá.
Năm 1955, ông lên Sài Gòn cộng tác với các báo: Nhân loại, Công Lý, Ánh sáng, Tiếng chuông, Lẽ sống...
Năm 1960-1961, bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam ở nhà lao Phú Lợi (Thủ Dầu Một, Bình Dương) . Ra tù, ông tiếp tục làm báo, viết văn và khảo cứu về Nam Bộ. Sau 1975, ông tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Nhà văn Sơn Nam đã viết nên nhiều tác phẩm dấu ấn, ông được nhiều người gọi yêu là "ông già Nam Bộ", "ông già Ba Tri", “ông già đi bộ’, "pho từ điển sống về miền Nam" hay là "nhà Nam Bộ học". Toàn bộ các sáng tác của ông được Nhà xuất bản Trẻ tại thành phố Hồ Chí Minh mua bản quyền. Ông qua đời ngày 13 tháng 08 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm
- Chuyện xưa tình cũ (1958)
- Tìm hiểu đất Hậu Giang (nghiên cứu, 1959)
- Hương rừng Cà Mau (1962)
- Chim quyên xuống đất (1963)
- Hình bóng cũ (1964)
- Vạch một chân trời (1968)
- Gốc cây - Cục đá & Ngôi sao (1969)
- Lịch sử khẩn hoang miền Nam
- Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam
- Danh thắng Miền Nam
- Theo chân người tình & một mảnh tình riêng
- Từ U Minh đến Cần Thơ – Ở chiến khu 9 – 20 năm giữa lòng đô thị – Bình An
- Tìm hiểu đất Hậu Giang & lịch sử đất An Giang
- Xóm Bàu Láng
Ghi nhận công lao
“ | Sơn Nam là một tâm hồn lạc lõng trong thế giới buyn-đinh và Mercedes, trong thế giới triết hiện sinh, tranh trừu tượng và nhạc tuýt. Nhưng đó là một tâm hồn đẹp không biết bao nhiêu, đẹp cái vẻ đẹp của lọ sứ Cảnh Đức Trấn ở Giang Tây (có khác lọ hoa Ý Đại Lợi ngày nay), và ít được người đời thưởng thức hơn là họ đã thưởng thức một tiểu thuyết gia chuyên viết về chuyện tình chẳng hạn. Nhưng phải nhìn nhận rằng, cái đẹp Sơn Nam bất hủ... | ” |
“ | Không chỉ cống hiến trong văn chương, ông (Sơn Nam) còn được xem là người có công khai phá, khảo cứu và sưu tầm văn hóa mảnh đất Nam Bộ. Vì vậy, không phải hiển nhiên mà người ta trân trọng gọi ông là "nhà Nam Bộ học" hay ông già Ba Tri... | ” |
“ | Sơn Nam là một trong số những nhà văn từng sống ở đô thị miền Nam nhưng tác phẩm vẫn được in liền mạch sau giải phóng, điều đó không phải dễ. Trước hết, tác phẩm của Sơn Nam không thuộc dạng a dua. Sống dưới chế độ ấy mà tránh được lối viết ấy quả là rất cao tay. Có lần người viết bài này hỏi vậy, Sơn Nam cười nhẹ, cũng chẳng giỏi giang gì đâu mà tôi chủ yếu viết về phong tục, về lịch sử khai khẩn đất đai Nam Bộ, và nếu là truyện thì đi vào tầng lớp nông dân, dân nghèo thành thị. Hơn nửa thế kỷ gắn bó với nghiệp sáng tác, những trang viết của ông không đơn thuần là sự giải trí cho độc giả mà còn là những khảo cứu, khám phá về mảnh đất phương Nam. Là người Nam Bộ chính gốc nên nhà văn Sơn Nam là người am hiểu quá trình hình thành dải đất này. Những sáng tác của ông mang hơi thở của thiên nhiên, của văn hóa và con người Nam Bộ được thể hiện qua giọng văn giản dị, mộc mạc... |
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét