Thứ Tư, 28 tháng 12, 2016

MỌI MIỀN ĐẤT NƯỚC 41 (Nghệ An)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Kết quả hình ảnh cho Nghệ AnBản đồ của Nghệ An




Nghệ An
Tỉnh của Việt Nam
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh, nằm cách thủ đô Hà Nội 291 km về phía nam. Wikipedia
Diện tích: 6.367 mi²
Dân số: 3,037 triệu (2014)



Những điểm đến thú vị ở Nghệ An


Nghệ An chiêu đãi du khách với mọi loại hình du lịch đáp ứng tất cả các nhu cầu của du khách như du lịch tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch khám phá, du lịch biển, rừng...

Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 1
Bình minh trên biển Diễn Châu (Ảnh: Panoramio).
Địa điểm vui chơi
Từ Vinh, ra Bắc 40km bằng đường bộ, bạn sẽ được hòa mình với thiên nhiên ở khu du lịch sinh thái Sen Vàng hay thả mình ở ba trong số hàng loạt các bãi biển đẹp, nổi tiếng của Nghệ An là biển Diễn Thành, biển Diễn Châu, thú vị nhất là Bãi Lữ vừa thơ mộng vừa hoang sơ. Tại Bãi Lữ, bạn sẽ có hai lựa chọn khác nhau. Nếu túi "hòm hòm", bạn có thể đăng ký ở resort Bãi Lữ, tận hưởng tất cả các dịch vụ phong phú, hoặc khám phá kiểu “nhà nghèo” ở bãi biển công cộng.
Bên cạnh các bãi biển tương, bạn có thể thăm thú di tích như Đền Cuông trên núi Mộ Dạ, nơi Thục phán An Dương Vương tuẫn tiết, được chôn cất lập đền thờ. Trên núi còn có giếng Ngọc Mỵ Châu; ghé khu sinh thái Diễn Lâm nơi, vườn bách thú với nhiều động vật hiếm hay Hồ Xuân Hương rừng thông soi bóng xuống hồ (lưu ý không tắm tại hồ).
Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 2
Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 3
 Biển Diễn Thành (Ành: Panoramio).
Các danh thắng của hướng Nam từ Vinh bắt đầu bằng bãi biển Xuân Thành với vẻ đẹp của triền cát thoai thoải, nước trong, những hàng dương ngút ngàn; Khu di tích đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thâm nghiêm, bí ẩn. Hành trình ngược sông La kỳ thú để đến với di tích và lăng mộ Tổng bí thư Trần Phú, ngắm bến Tam Soa thơ mộng, nghe những câu hát điệu hò bảng lảng trên sông.
Phía đông thành phố Vinh là Cửa Lò, một thị xã sấm uất và một bãi biển tuyệt đẹp. Nơi bất kỳ du khách thuộc vùng miền nào cũng muốn một lần đặt chân đến. Tại Cửa Lò, ngoài thú vui tắm biển, thưởng thức hải sản, thì “đặc sản” câu và thưởng thức mực nhảy cũng lôi cuốn không kém.
Cách thành phố Vinh 10km về phía Tây, bạn sẽ đến với quê hương của chủ tịch Hồ Chí Minh, tham quan nơi Bác lớn lên hay thắp một nén nhang tưởng nhớ ở mộ bà Nguyễn Thị Loan. Ngoài là quê hương Bác, nơi đây cũng khai sinh ra hàng loạt các nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu, Lê Hồng Sơn, Tổng bí thư Lê Hồng Phong ...
Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 4
 Biển Cửa Lò (Ảnh: xomnhiepanh)
Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 5
 Bãi Lữ (Ảnh: hvh).
Bên cạnh du lịch lịch sử, cụm du lịch phía Tây của Vinh cũng chiều lòng du khách với hai điểm du lịch tâm linh là quảng trường Hồ Chí Minh, đền thờ - lăng mộ Quan Hoàng Mười và du lịch khám phá với vườn quốc gia Pù Mát, nơi có nhiều động vật quý và những dòng thác hùng vĩ.
Ngoài ra, nếu có thời gian, bạn đừng quên khám phá hàng loạt địa danh khác của vùng đất này như chợ vùng biên Nậm Cắn, thác Xao Va, hang Thẩm Ồm, khu du lịch núi Quyết; Thành cổ Nghệ An, chùa Sư Nữ (chùa Cần Linh), đền Hồng Sơn, đền Quả Sơn, khu du lịch hồ Cửa Nam, bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Di chuyển
Tùy theo điểm xuất phát mà bạn có thể chọn 3 thành phố lớn đại diện cho 3 vùng để làm điểm trung chuyển đến Nghệ An là Hà Nội, Đà Nẵng và Sài Gòn. Nếu thích, các bạn ở miền Trung và miền Nam có thể chọn Hà Nội làm điểm xuất phát hay chọn cách mua vé đi Nghệ An tại địa phương.
Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 6
 Đền Cuông (Ảnh: dulich4phuong).
Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 7
 Quảng trường Hồ Chí Minh.
Bằng phương tiện công cộng
Bạn có thể đến Nghệ An bằng xe khách (mua tại các bến xe), tàu lửa (mua tại các ga) và máy bay (mua tại các đại lý vé máy bay). Mỗi phương tiện có lịch trình khác nhau, mức giá khác nhau, điểm đến khác nhau, bạn nên lên lịch trình, khả năng tài chính trước khi mua vé. Đến Nghệ An bạn có thể thuê xe ôm, xe máy hay taxi khám phá các điểm.
Bằng phương tiện cá nhân
Hà Nội cách thành phố Vinh 291km, khoảng cách tương đối để bạn có thể phượt bằng xe máy hay xe ô tô mà không lo ảnh hưởng đến sức khỏe, thời gian. Sài Gòn hay Đà Nẵng đều khá xa “vùng đất học”, nên nếu không có kế hoạch lang thang hàng loạt tỉnh, tốt nhất bạn nên di chuyển bằng phương tiện công cộng để bảo đảm an toàn cũng như khỏi mệt mỏi vì chạy xe quá nhiều.
Lưu trú
Khu vực trung tâm Nghệ An gồm các tuyến đường Trần Phú, Lê Duẩn, Trường Thi… Các bạn có thể căn cứ vào đó hay vào lịch trình cụ thể của mình để tiện cho việc di chuyển.
Các bạn tham khảo tên của một số nhà nghỉ, khách sạn như Mường Thanh, Sen Vàng, Đại Dương, Hoa Biển … Lưu ý gọi điện đặt trước để tránh tình trạng đến Nghệ An mà không có phòng để ở.
Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 8
 Vẻ đẹp đồi núi phía tây Nghệ An (Ảnh: chudu).
Nhung diem den thu vi o Nghe An hinh anh 9
 Thác Kèn (Ảnh: chudu).
Đặc sản Nghệ An
Đặc sản Nghệ An gồm những món như cháo lươn Vinh, cơm lam, nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn, cam xã Đoài...
Mang gì khi tới Nghệ An?
Bất kỳ trang phục, giày dép bạn thích.
Mang theo vật dụng đi nắng nếu đến vào mùa nắng và dụng cụ đi mưa nếu đến vào màu mưa.
Mang theo kem chống muỗi, thuốc trị côn trùng, thuốc trị các bệnh thông thường.
Mang theo lều, áo khoác, nồi đa dụng nếu có ý định cắm trại.
Các cung đường thường gặp
Hà Nội – Nghệ An – Thanh Hóa
Hà Nội – Nghệ An – Thanh Hóa – Hà Tĩnh
Huỳnh Hằng
Theo Infonet
Huỳnh Hằng
Theo Infonet
DU LỊCH HUYỆN NAM ĐÀN




Giò Me Nam Nghĩa Nam Đàn Nghệ An
Vâng, “Me” thực ra là con bê (bò con) ngôn từ địa phương thường gọi. Được làm từ nguyên liệu chính là thịt me (thịt bê), bì me, trứng gà và các loại gia vị khác. Để có được những miếng giò chất lượng, màu sắc hồng hào, thơm ngon, người chế biến phải làm rất nhiều công đoạn tỉ mỉ, đòi hỏi sự khéo léo, kinh nghiệm và đặc biệt là bí quyết riêng của mỗi cơ sở sản xuất.

Nhà hàng Chính Nhung Quê nội Bác Hồ
Thật vậy, tọa lạc ở trung tâm khu di tích Kim Liên Nam Đàn, nhà hàng Chính Nhung sẽ là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách thập phương về thăm quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với tình cảm chân thành và đầy nghĩa tình của con người xứ Nghệ, Chính Nhung sẽ mang lại cảm giác mộc mạc, thanh bình và thân thiện của Làng Sen Quê Bác đến với Qúy khách hàng của mình

Lăng mộ Nguyễn Thiếp -La Sơn Phu Tử
Nguyễn Thiếp (l723-1804) có tên hiệu La Sơn phu tử. Ông là bậc thầy hiền sĩ thức thời, danh tiết thanh cao, biết người biết mình, không màng danh lợi. Ông sinh ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão (1723) ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Úc, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh

Đình Trung Cần và mộ Tống Tất Thắng
Tống Tất Thắng sinh năm 1487. Ông đậu tiến sĩ (1505) khi vừa tròn 18 tuổi, là người khai khoa cho vùng đất này dưới thời Lê. Ông làm quan đến chức binh bộ thượng thư. Sau khi đánh giặc thắng trận trên đường trở về, ông lâm bệnh nặng và qua đời khi mới 35 tuổi.

Núi Thiên Nhẫn và Thành Lục Niên
Thành Lục Niên được Lê Lợi xây dựng trên lưng chừng Động Chủ thuộc đỉnh núi Hoàng Tâm (còn gọi là dãy Lạp Phong hay tiếng địa phương là rú Động Chủ) thuộc dãy núi Thiên Nhẫn vào cuối năm 1424. Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch đã từng có bài vịnh về Thiên Nhẫn để nói về cái thế luỹ vững chắc

Chùa Đức Sơn Nam Đàn
Theo tư liệu thì Chùa Đức Sơn nằm trên vùng đất cổ thuộc thành Vạn An xưa. Được xây dựng từ thời Trần, ngôi chùa này được coi là một trong những ngôi chùa cổ nhất xứ Nghệ. Đến năm Tự Đức thứ 25, chùa được trùng tu lại và có diện mạo như ngày nay.

Mộ Lê Hồng Sơn và đền Tán Sơn
Ngày 19/2/1933, đ/c Lê Hồng Sơn - một trong những đồng chí có tâm huyết với cách mạng và hết lòng hoạt động vì cách mạng từ những ngày sơ khai bị thực dân Pháp kết án tử hình tại chính quê hương của đồng chí làng Xuân Hồ, thi hài của đ/c được nhân dân chôn cất tại Rú Tán. Mãi đến năm 1956, mộ Lê Hồng Sơn mới được cải táng về nơi xử bắn.

Đình Hoành Sơn Nam Đàn
Hội tụ tài hoa, tâm huyết và ước nguyện của cư dân Nam Đàn cổ xưa, đình Hoành Sơn(thuộc xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) được xây dựng vào tháng Chạp năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23(tức vào tháng 2-1763) và đến cuối năm sau thì hoàn thành.

Đền Nậm Sơn Nam Đàn
Hàng năm vào ngày rằm tháng giêng tại đền tổ chức các lễ tế thần, rước kiệu, múa sư tử, múa lân, hát hội và tổ chức tế thần vào ngày giỗ ngài 1/3 và 10/10 (âm lịch). Ngoài ra, các ngày sóc, vọng, nhân dân và khách thập phương về dự lễ rất đông. Những hoạt động đó đã góp phần lưu giữ bản sắc của một vùng văn hoá dân gian xứ Nghệ.

Nhà hàng Hải Tuyết - Làng Sen Quê Bác
Nhà hàng Hải Tuyết tọa lạc bên cạnh Khu di tích Kim Liên Nam Đàn, được xây dựng và đi vào hoạt động từ năm 2010. Nhà hàng gồm nhà 2 tầng với sức chứa 500 thực khách phù hợp của các bữa tiệc hội nghị, liên hoan, cho các cơ quan và các công ty du lịch.

Chùa Đại Tuệ - Nam Đàn Nghệ An
Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi lại thì nguốn nước trên đỉnh núi Đại Huệ chả ra là một trong sáu nguồn nước thiêng của nước Việt mà từ thời Minh Thái Tổ (Trung Quốc) thể kỷ thứ 14 hàng năm đều sai sứ thần sang tận nơi để tế lễ.

Tương Nam Đàn
Tương Nam Đàn

Làng nghề tương Nam Đàn
Những hạt đậu tương loại nhỏ, chỉ được trồng vào mùa xuân trên đất bãi dọc sông Lam bóc ra phơi được nắng, nước dòng sông Lam múc lên đúng lúc con nước đang ròng, tinh khiết…, tất cả làm nên những chai tương Nam Đàn sóng sánh màu cánh gián, với 3 tầng đều nhau: mốc tương, nước tương và cái tương.

Về quê Bác trẩy hội đền Vua Mai
Trẩy hội đầu năm, nhiều du khách chọn điểm đến là vùng đất Thánh Nam Đàn quê Bác. Ngoài khu di tích Kim Liên, huyện Nam Đàn dự kiến sẽ đón trên 2 vạn người tới dự lễ hội kỷ niệm 1.287 năm ngày khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722 - 2009).

Lễ hội Vua Mai xã Vân Diên - huyện Nam Đàn
Cứ mỗi Xuân về, vào tháng giêng, du khách về với Nam Đàn – một miền quê có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa. Tới Nam Đàn là chúng ta đến với vùng văn hóa đặc sắc có nhiều danh lam thắng cảnh và nhiều di tích lịch sử, văn hóa cách mạng.


Đền thờ và miếu mộ Mai Hắc Đế
Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) thuộc số những người yêu nước đứng lên chống giặc một cách oanh liệt và có hiệu quả nhất định với việc quét sạch quân giặc ra khỏi cõi, dựng nên nước Vạn An độc lập ở thế kỉ VIII


Khu lưu niệm Phan Bội Châu
Phan Bội Châu sinh ngày 26/12/1867 với tên gọi là Phan Văn San, trong một gia đình nhà nho nghèo. Với khí chất thông minh, lại hiếu học, ông trở thành một trong tứ hổ Nam Đàn hồi đó, sau thi đậu Giải nguyên (nên còn gọi là Giải San)

Đình Thanh Đàm - Nam Đàn
Đình Thanh Đàm thuộc làng Thanh Đàm, xã Nam Tân huyện Nam Đàn (Nghệ An), cách thành phố Vinh 30 km về phía Tây Nam. Ngôi làng này gần sông Lam. Đình được xây dựng vào năm 1899 (mùa đông năm Kỷ Hợi) và hoàn thành cuối năm 1900.

Đền thờ và miếu mộ Mai Hắc Đế
Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế) thuộc số những người yêu nước đứng lên chống giặc một cách oanh liệt và có hiệu quả nhất định với việc quét sạch quân giặc ra khỏi cõi, dựng nên nước Vạn An độc lập ở thế kỉ VIII. Đền thờ ông được xây cất trên chính mảnh đất ông đã xây dựng căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa - Sa Nam - thuộc thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn với tổng diện tích không gian hơn 10.000m2, được trùng tu lần cuối vào năm 2004, theo kết cấu gồm thượng điện, trung điện, hạ điện cùng khuôn viên khang trang, hoành tráng.

Bãi tắm Cửa Lò dài trên 10km, có độ dốc thoai thoải, cát trắng phẳng mịn, nước trong và sạch, không pha lẫn bùn như một số bãi biển khác. Phía trên bãi biển còn có nhiều khu lâm viên rộng với những rặng phi lao, rặng dừa xanh tốt. Nước biển ở đây có độ mặn rất cao. Vì thế, Cửa Lò là một trong những bãi tắm lý tưởng ở Việt Nam.

Các hòn đảo xinh đẹp của du lịch Cửa Lò

Đảo Lan Châu

Đảo Lan Châu nằm ngay sát du lịch Cửa Lò, chia bãi tắm Cửa Lò thành hai khu vực riêng biệt. Những lúc triều dâng, toàn đảo dầm chân trong nước biển. Dưới chân núi, về phía đông nam có nhiều tảng đá lớn, hình thù kỳ lạ với nhiều tên gọi khác nhau. Trên đảo, năm 1936, vua Bảo Đại đã cho xây lâu đài để nghỉ dưỡng. Từ đây, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh thị xã Cửa Lò và được phóng tầm mắt nhìn ngắm biển khơi bao la. Tại đây có loài cúc biển đẹp lạ kỳ do chính vua Bảo Đại đem giống cây từ Pháp về.
Hoàng hôn trên bãi biển Cửa Lò

Đảo Song Ngư

Cách bờ biển 4km là đảo Song Ngư như hai con cá khổng lồ che chắn bão to, gió lớn cho bãi biển Cửa Lò, Cửa Hội, đây là nơi sinh sống của các hệ động thực vật rất phong phú như: khỉ, dê hoang dã, chim v.v…Xa xa, ngoài khơi chừng 20km là núi Quỳnh Nhai. Núi cao 218m, sâu 24m so với mặt biển. Quỳnh Nhai gồm Hòn Lớn và Hòn Con.

Lịch sử ra đời và phát triển của khu du lịch Cửa Lò

Bãi biển Cửa Lò trong chiều dài lịch sử tự nhiên vốn là một bãi biển dài, đẹp với dải cát trắng và ánh nắng vàng. Đó cũng là nơi cư trú của các làng chài và nơi tắm biển, nghỉ ngơi, dạo chơi của cộng đồng dân cư quần tụ còn thưa thớt cho đến cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên cho đến lúc đó, Cửa Lò vẫn chưa phải là nơi nghỉ mát, tắm biển thực sự quan trọng của các dân cư đất Việt nói chung. Bởi lẽ đó chưa phải là nhu cầu bức thiết của cộng đồng cư dân sinh sống trên địa bàn và dọc mảnh đất Miền trung này. Đến cuối thế kỷ thứ XIX, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp ở Việt Nam đã tác động mạnh mẽ đến Nghệ An. Vinh trở thành một trung tâm công nghiệp, nơi tập trung đông đảo công nhân và cả bộ máy hành chính với đội ngũ viên chức người Pháp, người Việt. Sự thay đổi xã hội đó và những vị thế về cảnh quan thiên nhiên là lý do chủ yếu để người Pháp chọn Cửa Lò làm nơi xây dựng một khu biệt thự nghỉ mát dành riêng cho người Pháp( khu biệt thự này đã bị phá hủy trong chiến tranh). Cùng với việc công nghiệp hóa Thành phố Vinh – Bến Thủy, người Pháp cho xây dựng hệ thống giao thông hoàn chỉnh: Đường Vinh đi Cửa Hội, Cửa Lò và các điểm nghỉ dưỡng với cách bố trí đảm bảo an toàn và ý nghĩa danh thắng. Bên cạnh các khu du lịch lần lượt ra đời trong thời gian đó: SaPa (1903), Mẫu Đơn (1906), Tam Đảo (1904), Ba Vì (1906), Sầm Sơn (1907), Bạch Mã (1906), Bà Nà (1904)…Ngày 05/06/1907 đã lấy làm ngày ra đời của du lịch Cửa Lò. Điều này khẳng định các giá trị vốn có và lâu đời của du lịch Cửa Lò để có các giải pháp khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng tour du lịch Cửa Lò nghỉ mát thành đô thị du lịch thật sự theo đúng tiêu chuẩn.
Hoàng hôn trên bãi biển Cửa Lò
Thị xã Cửa Lò ra đời năm 1994. Trải qua hơn 100 năm với những thăng trầm của lịch sử, chỉ chừng 20 năm qua Cửa Lò mới thực sự được đánh thức và đang dần khẳng định vị thế của mình trên lộ trình phát triển của đất nước nói chung và của tỉnh Nghệ An nói riêng. Cửa Lò ngày nay đang ngày càng được thay da đổi thịt bởi sự phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là các dịch vụ du lịch, hệ thống khách sạn cao tầng hiện đại và nhiều khu vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng. Với cơ sở vật chất hạ tầng hiện có 212 nhà nghỉ, khách sạn, gần 6000 phòng nghỉ đủ phục vụ cho trên 1.3 vạn khách nghỉ qua đêm. Nhờ thế năm 2007, Cửa Lò đã đón trên 1.3 triệu lượt khách trong đó có 811 ngàn khách lưu trú. Năm 2008 đạt 1,4 triệu lượt người. Tỷ trọng kinh tế du lịch chiếm 64.3%.

Du lịch Cửa Lò từ Hà Nội thưởng thức hải sản tươi ngon

Nguồn hải sản ở đây rất phong phú, khoảng trên 200 loại cá, nhiều loại đặc sản như: tôm, mực, cua, rắn biển, cá mú… Đến với du lịch Cửa Lò, du khách không thể bỏ qua việc thưởng thức các món ẩm thực mang hương sắc vùng biển Miền Trung này. Đó là các món:nước mắm hạ thổ, mọc cua bể, các món mực, cá giò 7 món, ghẹ hấp me, cháo nghêu, cháo lươn…Các món ăn đặc sản này du khách đều  có  thể  thưởng  thức ngay tại các nhà hàng và dân dã hơn nữa là ngay tại bãi biển. Lý thú nhất là món ăn mực nhảy (một loại mực ống, nhỏ như ngón tay, khi vớt lên bờ vì còn tươi nên trên lưng có những đốm nháy sáng màu tím), chưa có bãi biển du lịch nào có món ăn này thoảng sẽ có một chiếc thúng vào và bạn có thể đến xem mua những giã mực sim, hoặc tôm cá còn tươi rói, nhảy búng lách tách. Sau đó đưa vào những hàng quán hiếu khách và hấp lên là đã có thể đánh chén một bữa hải sản đáng nhớ.

Các hoạt động hấp dẫn khác của du lịch biển Cửa Lò

Hàng năm, cứ đến ngày 1 tháng 5, ngày Quốc tế Lao động cũng là ngày mở lễ hội Sông nước Cửa Lò để khai trương mùa du lịch biển. Lễ hội có nhiều hoạt động văn hóa dân gian đặc sắc như các trò chơi truyền thống, thi bơi thuyền rất sôi động và tiết mục bắn pháo hoa. Mùa du lịch kết thúc vào cuối tháng 9.
Từ thị xã Cửa Lò, du khách cũng có thể tham gia vào một trong các tour du lịch hấp dẫn khác ở trong và ngoài thị xã như: Kim Liên (Nam Đàn), Quảng trường Hồ Chí Minh (Thành phố Vinh), rừng nguyên sinh Pù Mát (Con Cuông), Lạc Xao (Lào) và Thái Lan. Với những giá trị vốn có và cảnh đẹp do thiên nhiên ban tặng, Cửa Lò có thể phát triển nhiều loại hình du lịch với sắc thái ý nghĩa riêng. Du lịch sinh thái: Quý khách có thể đến thăm Đảo Ngư, Đảo Mắt, khu du lịch sinh thái Cửa Hội, Hang Bua, nước khoáng Kim Sơn. Lộ trình du lịch này đã được xây dựng, quý khách có thể đến thăm các điểm du lịch đem lại cho du khách sự thoải mái khi hòa mình vào cảnh quan thiên nhiên Cửa Lò.

Nghệ An hướng tới trở thành trung tâm du lịch vùng Bắc Trung bộ (28/10/2016 09:34 PM)

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2015 - 2020 xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Để đạt được mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với ngành du lịch tỉnh nhà nói riêng là tập trung tạo sản phẩm du lịch thực sự nổi bật, chất lượng tương xứng với tiềm năng.

 Nghệ An tỉnh quê hương Bác Hồ với Khu di tích Kim Liên - Di tích quốc gia đặc biệt; có hệ thống bãi tắm biển đẹp mà nổi bật là Cửa Lò; thành phố Vinh gắn với di tích Phượng Hoàng - Trung Đô, đền vua Quang Trung; dày dặn hệ thống di tích lịch sử - văn hóa gắn với các lễ hội độc đáo; có dân ca ví, giặm di sản văn hóa nhân loại; và miền Tây với các khu vực rừng nguyên sinh, nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, đậm bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số... được đánh giá là tỉnh có tài nguyên du lịch tuyệt vời. Hơn nữa, Nghệ An còn là điểm trung chuyển du lịch trong cả nước với du lịch nước ngoài, đặc biệt là các nước láng giềng Lào,Thái Lan.
Du lịch sông Giăng vào Vườn Quốc gia Pù Mát - Ảnh S.M
Để khai thác những tiềm năng, lợi thế về du lịch, thời gian qua Nghệ An đã có nhiều nỗ lực trong phát triển du lịch, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng. Đến nay, toàn tỉnh có gần 700 khách sạn và cơ sở lưu trú khác với trên 16.000 phòng, trong đó có 2 khách sạn 5 sao, 5 khách sạn 4 sao, 12 khách sạn 3 sao…; có hơn 40 đơn vị kinh doanh lữ hành, trong đó có 14 trung tâm lữ hành quốc tế. Các cơ sở ăn uống, dịch vụ mua sắm cũng phát triển mạnh, đủ khả năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cho du khách khi đến Nghệ An. 
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Mục tiêu cụ thể, phấn đấu đến năm 2020, lượng khách du lịch lưu trú đạt 5,0 - 5,5 triệu lượt, doanh thu du lịch tăng bình quân 17 -1 8%/năm, GDP du lịch chiếm 4,5 - 5,0% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, thu hút và tạo việc làm cho trên 45.000 lao động… 
Trước những yêu cầu đặt ra ngày càng cao về phát triển du lịch, gắn khai thác các giá trị riêng có, Nghệ An đã tham gia ký kết hợp tác với 14 tỉnh Bắc - Nam Trung bộ; khai trương, giới thiệu thêm đường bay quốc tế, đường bay Vinh - Khánh Hòa; vận động các doanh nghiệp tham gia liên hoan ẩm thực quốc tế tại Thừa Thiên Huế, phối hợp Trung tâm Xúc tiến du lịch Đà Nẵng quảng bá du lịch của 2 tỉnh, ký thỏa thuận hợp tác phát triển du lịch 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và tăng cường hội thảo, xây dựng sản phẩm du lịch 4 tỉnh Bắc miền Trung...
Cùng đó, tăng cường kết nối tuyến du lịch Nam Đàn - Vinh - Cửa Lò - Truông Bồn (Đô Lương); phát triển mạnh du lịch cộng đồng ở miền Tây... Với những nỗ lực đó, năm 2015 lượng khách lưu trú đạt 3,65 triệu lượt, doanh thu dịch vụ du lịch đạt 2.680 tỷ đồng, tăng 21%. 
Tuy nhiên, xét về tổng thể, lĩnh vực du lịch của Nghệ An ngoài phát triển chưa tương xứng tiềm năng, thì chất lượng tăng trưởng thiếu vững chắc. Hạn chế dễ nhận thấy nhất của du lịch Nghệ An là sản phẩm du lịch chưa có bước thay đổi mang tính đột phá.
PGS.TS Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam từng nhận xét: Điều đáng tiếc là Nghệ An chưa đưa được các điểm du lịch lên tầm đẳng cấp làm sao để khách du lịch thấy được giá trị riêng, độc đáo, khác biệt mà lần đầu tiên họ được thưởng thức, hưởng thụ. Như phải xây dựng Kim Liên quê hương Bác Hồ thành một vùng đất linh thiêng, nơi hội tụ khí thiêng, điềm lành và sự may mắn, nơi mà tinh thần Hồ Chí Minh, văn hóa Hồ Chí Minh kết lại để lôi cuốn, để hội tụ nhân loại - như Bác Hồ trước đây đã từng kéo cả thế giới đến với Việt Nam, làm cho cả thế giới yêu Việt Nam… Rồi nổi tiếng như bãi biển Cửa Lò, cơ bản cũng chỉ dừng lại ở du lịch tắm biển, ăn hải sản, đơn điệu và ngắn hạn.
Trước mắt, tỉnh sẽ tập trung triển khai xây dựng quy hoạch, chiến lược tổng thể phát triển du lịch Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; quy hoạch quần thể Khu Di tích lịch sử văn hóa Kim Liên - Nam Đàn thành Khu du lịch Quốc gia để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; từng bước xây dựng và triển khai quy hoạch các khu du lịch Đảo Ngư, hồ Vực Mấu, hồ Vệ Vừng, hồ Tràng Đen, hồ Xuân Dương, hồ Bản Mồng... trong đó chú trọng công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư.
Ông Nguyễn Mạnh Cường - Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL cho biết: “Để thực hiện và cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết, mục tiêu của Du lịch Nghệ An giai đoạn  2016 - 2020, tỉnh sẽ đẩy mạnh công tác quảng bá, xúc tiến du lịch theo chiều sâu, nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả, tăng cường liên kết hợp tác với các tỉnh, thành để phát triển thương hiệu du lịch và xây dựng điểm đến du lịch Nghệ An bền vững nhằm giữ vững và phát triển thị trường khách truyền thống, mở rộng các thị trường trọng điểm, gia tăng lượng khách quốc tế đến Nghệ An, hướng tới trở thành trung tâm du lịch vùng Bắc Trung bộ”.
Mai Anh
Nguồn: Báo Nghệ An (28/10/2016)

Chủ đề:  Ðánh thức tiềm năng du lịch Con Cuông, Nghệ An  (Đã xem 3632 lần)

Nguồn: Báo Nhân Dân
Huyện Con Cuông (Nghệ An) có Vườn Quốc gia Pù Mát, một tiềm năng lớn về du lịch sinh thái - văn hóa; có sông Lam với hơn 30 km chảy qua huyện. Những tiềm năng du lịch của Con Cuông đang rất cần vốn đầu tư và nguồn nhân lực để khai thác.

Nằm về phía tây-nam của tỉnh Nghệ An, giáp nước bạn Lào, huyện Con Cuông có diện tích tự nhiên hơn 174.451 ha với dân số hơn 68.000 người, thuộc bảy dân tộc.

Từ những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước, các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật hang Thẳm Ồm (Hang Ốc), để từ đó có kết luận hơn một vạn năm trước, người nguyên thủy đã sống ở đây. Con Cuông là mảnh đất trù phú, thị trấn Con Cuông có mặt bằng rộng và đẹp nhất trong các huyện của tỉnh Nghệ An. Thị trấn có sông Lam chảy qua, có quốc lộ 7A, có núi và rừng nằm trong vùng đệm vườn quốc gia Pù Mát. Ðây là điểm dừng chân của du khách trong tuyến Vinh - Kỳ Sơn hay tuyến Hà Nội đi Cửa Khẩu Nậm Cắn.



Trong tổng diện tích của toàn huyện đã có 128.000 ha rừng nằm trong vườn quốc gia Pù Mát và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống. Ðây là thảm động thực vật lớn nhất châu Á, với hơn 1.200 loài thực vật quý hiếm, hàng trăm loài động vật rừng, trong đó các con vật như: sao la, hổ vằn, voi, mang lớn Trường Sơn, sói  đuôi đỏ... là những động vật quý nằm trong sách đỏ thế giới, hàng trăm loài cá, loài dơi, loài bướm đẹp. Trong rừng nguyên sinh còn có nhiều thác nước đẹp như thác Kèm, suối nước Mọc và nhiều hang động kỳ thú: hang Thẳm Ồm, Thẳm nàng Màn, hang ông Trạng, bia Ma Nhai, động Ðào Nguyên, nơi có thành cổ Trà Lân lịch sử... cuốn hút du khách.



Hệ thống sông suối Con Cuông với hơn 20.000 ha diện tích mặt nước, tạo nguồn thủy sản phong phú trong đó nổi tiếng là cá mát sông Giăng, cá Lăng sông Cả, cá Lệch Con Cuông là đặc sản ngon có tiếng vùng Ðông Dương. Từ vị trí địa lý và sơn thủy hữu tình nói trên đã tạo cho Con Cuông một thế mạnh du lịch sinh thái và nguồn tài nguyên lớn, phong phú. Về trữ lượng gỗ, rừng Con Cuông có lượng lớn với hàng trăm triệu mét khối, nhiều loại gỗ quý như: lim, dổi, trắc, sến, táu, đinh hương, pơ-mu... Hệ thống sông, suối như sông Lam, sông Giăng, khe Choang, khe Thơi... nguồn xây dựng nhà máy thủy điện cho đất nước nay mai.



Trong lòng đất Con Cuông có vàng sa khoáng, có mỏ quặng chì, than ở Ðôn Phục, Chi Khê. Sườn đông dãy Trường Sơn với những dãy núi đá hàng tỷ tỷ mét khối, một nguồn nguyên liệu phong phú để sản xuất xi-măng và vật liệu xây dựng. Con Cuông có bảy dân tộc anh em chung sống hòa thuận.



Sự quần tụ các dân tộc anh em, tạo nên bức tranh văn hóa đặc trưng, mang đậm bản sắc truyền thống của các dân tộc bản địa như Thái, Ðan Lai, Khơ Mú... và nét văn hóa rượu cần đặc sắc "chưa say là chưa vui" với điệu múa lăm vông nhẹ nhàng uyển chuyển của các cô thôn nữ vùng cao. Tất cả những vốn quý trên đang dần trở thành hiện thực, nguồn tài nguyên vô giá, điều kiện  quan trọng, để xây dựng Con Cuông thành trung tâm kinh tế - văn hóa của miền tây nam xứ Nghệ.



Tiềm năng nêu trên là thế mạnh để du lịch Con Cuông có thể xây dựng nên nhiều loại hình du lịch sinh thái-văn hóa như: tua du lịch khu vườn bộ - Trung Chính - Thác Kèm; tour thị trấn Con Cuông - Pha Lài; tour du lịch  mạo hiểm Khe Choang - đỉnh Pù Mát; thăm tộc người Ðan Lai, thăm làng nghề dệt thổ cẩm Yên Thành... Gần đây trong bản đồ quy hoạch, tỉnh đã có thông báo xây dựng Con Cuông thành thị xã du lịch, kèm theo công bố quy hoạch khu du lịch Thác Kèm; Pha Lài và đang kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước đến đầu tư xây dựng.



Khi đánh giá về thành tích trong hơn 20 năm đổi mới, Con Cuông được công nhận có thành tựu nổi bật là giữ được rừng xanh tốt, độ che phủ rừng đạt 76,5%. Với hơn 3.000 ha đất bằng sản xuất nông nghiệp, Con Cuông đã đưa giống mới và đầu tư chăm bón tốt, để tự cân đối lương thực tại địa bàn, tỷ lệ hộ đói, nghèo hằng năm nay giảm mạnh.



Nhưng để mở ra hướng khai thác tiềm năng du lịch sinh thái từ yếu tố nội lực của một huyện nghèo, một năm nguồn thu ngân sách trên dưới năm tỷ đồng thì quả là một khó khăn to lớn.



Du lịch sinh thái vườn quốc gia Pù Mát; du lịch Thác Kèm và nhiều danh lam, thắng cảnh cùng du lịch văn hóa truyền thống... tạo nguồn thu bền vững đang rất cần vốn, công nghệ và cả nguồn nhân lực được  đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Con Cuông với tiềm năng dồi dào, nhưng muốn đánh thức  tiềm năng đó rất cần sự đầu tư của Nhà nước, khi mà mục tiêu thoát nghèo vào năm 2010 đã cận kề.
 
Đến với Vườn quốc gia Pù Mát

Nằm ở sườn phía Đông của dãy Trường Sơn và trải dài trên ba huyện Con Cuông, Anh Sơn và Tương Dương của tỉnh Nghệ An, Vườn quốc gia Pù Mát được thành lập vào năm 2002, có diện tích tự nhiên 194.000 ha, trong đó vùng bảo tồn 94.000 ha và vùng đệm 100.000 ha. Riêng đỉnh Pù Mát cao 1.841m được xem như chủ sơn cả vùng.

Vườn quốc gia Pù Mát là một kho tàng về các nguồn gien hoang dã, quý hiếm, là một trong số ít khu bảo tồn đa dạng sinh học lớn nhất nước ta. Vườn quốc gia này có thảm thực vật phong phú với 2.494 loài thực vật, thuộc 931 chi, 202 họ, trong đó có 37 loài trong sách đỏ Việt Nam và 20 loài trong sách đỏ quốc tế. Các loài thực vật quý hiếm ở đây gồm có pơ-mu, sa-mu và sao Hải Nam. Trong rừng có đến 220 loài cây dược liệu như hà thủ ô, thổ phục linh, quế, ba kích, hoài sơn... Các loài cây lấy gỗ như trầm hương, mun, chò, sao ... và gần 100 loài rau và cây ăn quả.

Hệ động vật cũng rất phong phú và đa dạng. Bước đầu thống kê được 241 loài thú, thuộc 86 họ, 28 bộ, trong đó có 24 loài thú, 25 loài bò sát, 137 loài chim, 15 loài lưỡng thê. Có nhiều loài thú quý hiếm như voi, hổ, báo gấm, sơn dương, voọc, vượn đen, gấu chó... Các loài chim quý như trĩ sao, gà lôi, cao cát, gà tiêu...

Tại Vườn quốc gia Pù Mát, bạn có dịp thưởng ngoạn nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Thú vị nhất là dùng thuyền máy xuôi ngược trên dòng sông Giăng trong xanh để ngắm nhìn phong cảnh thiên nhiên hữu tình đôi bờ với những rặng núi đá cao vút, những rừng cây cổ thụ nghiêng mình soi bóng nước. Thỉnh thoảng, du khách còn bắt gặp những đàn khỉ tinh nghịch, nhảy nhót từ cành cây này sang cành cây khác như làm xiếc.

Dọc theo bờ nước có những con kỳ nhông, tắc kè nhiều màu sắc sặc sỡ rượt đuổi nhau. Vào ban mai hay lúc chiều tà, ở đây có đến hàng trăm loài chim cùng hòa tấu, tạo nên bản nhạc rừng thật vui tai. Cái thú nhất là xuôi bè trên sông Giăng câu cá, những chú cá còn tươi rói đem nướng trên lò than hồng. Ăn cá suối nướng nhấm với rượu cần rồi nằm giữa rừng ngắm trời đất, núi sông.

Tại Vườn quốc gia Pù Mát, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của muôn vàn cỏ cây, hoa lá. Từ những cây cổ thụ có tuổi thọ hàng ngàn năm cho đến những loại cây cỏ, rêu, địa y và các loại dây leo chằng chịt. Do địa hình đa dạng và phức tạp, Vườn quốc gia Pù Mát có nhiều cảnh đẹp thật hấp dẫn, là nơi quần tụ nhiều loài thú quý hiếm và muôn vàn cây cối khác nhau. Có những cây mọc tận trên đỉnh đá vôi cao chót vót như cây Tuế, có những loài mọc từ vách đá cheo leo, buông những chùm rễ rậm rạp và lạ mắt, lại có những loại cây sống nhờ thân cây khác hay quấn chặt lấy cành cây. Những điều đó gợi cho du khách thú ham thích tìm hiểu những điều kỳ diệu còn ẩn chứa trong thiên nhiên.

Nếu có ý định tham quan vườn quốc gia này, du khách nên đi vào ban mai là tốt nhất và nên đi từng nhóm nhỏ để không gian được yên tĩnh. Hãy cảm nhận rừng bằng đôi tai nhạy cảm và bằng toàn bộ cơ thể mình. Không chỉ được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp hùng vĩ đầy thơ mộng mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho nơi đây, du khách còn có dịp tìm hiểu những địa danh liên quan đến sự hình thành và phát triển của loài người từ thời xa xưa, sự phát triển lịch sử đất nước, khám phá nét sinh hoạt độc đáo của các dân tộc anh em sống trong vùng đệm của Vườn quốc gia Pù Mát.

Đã đặt chân đến Pù Mát, chớ bỏ qua các thắng cảnh nổi tiếng như thác Khe Kèm, hang Ốc, bãi Mỏ Vịt, hoặc tản bộ trong rừng săng lẻ, rừng cây lùn ... vừa kỳ thú vừa hoang dã. Cũng chớ bỏ qua những dấu tích lịch sử như: bia Ma Nhai, nơi gần 700 năm trước quân nhà Trần đã lập nên chiến công hiển hách khắc ghi vào đá ở nơi biên ải trong công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm; hoặc thành Trà Lân, nơi ghi dấu ấn của cuộc kháng chiến chống quân Minh thế kỷ 15; hay hang ông Trạng, nơi hơn 600 năm trước, trạng Bùng Phùng Khắc Khoan bị lưu đày...

Và đến vườn quốc gia Pù Mát, du khách cũng nên thưởng thức hương vị độc đáo “Cơm Kẻ Qua, cá sông Giăng” cùng với món gà rừng nướng hay món cá chày nướng kho với măng đắng vừa lạ miệng, lại ngon cơm.

Ngoài Vườn quốc gia Pù Mát, Nghệ An còn có các Vườn quốc gia Pù Huống và Pù Hoạt. Nhưng riêng Pù Mát không thôi cũng đủ tiêu biểu cho cả vùng rừng núi tây Nghệ An và hệ thống núi non Bắc Trường Sơn.

Tháng 11 năm 2007 Vườn quốc gia Pù Mát được tổ chức UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, đồng thời Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An cũng đã phê duyệt quy hoạch chi tiết khu du lịch thác Khe Kèm. Đây là tiền đề và là điều kiện để Vườn quốc gia Pù Mát phát triển du lịch sinh thái và là địa điểm lý tưởng để du khách đến tham quan, nghiên cứu và giải trí.

Theo Báo Cần Thơ

Nghệ An có thêm 2 di tích được xếp hạng quốc gia

(Baonghean.vn) - Ngày 28/6, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Ngọc Thiện đã ký các Quyết định xếp hạng di tích quốc gia đối với 07 di tích trên địa bàn các tỉnh: Phú Yên, Hà Nội, Nghệ An. Dịp này Nghệ An có 2 di tích được xếp hạng.

Hai di tích của Nghệ An được xếp hạng trong dịp này gồm Di tích lịch sử Đền Mai Bảng, phường Nghi Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An (tại Quyết định số 2279/QĐ-BVHTTDL) và Di tích lịch sử Đền Diên Cờ, xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An (tại Quyết định số 2280/QĐ-BVHTTDL).
Di tích đền Mai Bảng -
Di tích đền Mai Bảng.
Di tích đền Diên Cờ - Nghi Trường - Nghi Lộc.
Di tích đền Diên Cờ - Nghi Trường - Nghi Lộc.
5 di tích còn lại của các huyện Phú Yên và Hà Nội, gồm:

1. Di tích kiến trúc nghệ thuật Lẫm Phú Lâm, phường Phú Lâm, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (tại Quyết định số 2274/QĐ-BVHTTDL).

2. Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Tràng, xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội (tại Quyết định số 2275/QĐ-BVHTTDL).

3. Di tích Phủ thờ Nguyễn Ngọc Trì, xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội (tại Quyết định số 2276/QĐ-BVHTTDL).

4. Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Đoàn Xá, gồm Đình Thượng và Đình Hạ, xã Đồng Tiến, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội (tại Quyết định số 2277/QĐ-BVHTTDL).

5. Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Thấp, xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội (tại Quyết định số 2278/QĐ-BVHTTDL).

Theo các Quyết định, khu vực bảo vệ di tích được xác định theo biên bản và bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ. Đồng thời, UBND các cấp nơi có di tích được xếp hạng, trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình, thực hiện nghiêm việc quản lý nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
Thanh Thủy
(tổng hợp)

TRUÔNG BỒN - ĐỊA DANH HUYỀN THOẠI
        Trong tiếng Ngh “Truông” là danh t đ ch mt đon đèo dc chy gia hai vách núi him tr. Truông Bn là mt đon đèo dc như thế có chiu dài 5km, đ cao gn 70m trên dãy núi Thung Nưa có đnh cao nht là 450m so vi mc nước bin, nm trên tuyến đường chiến lược 15A hay còn gi là đường 30- đi qua đa phn xã M Sơn, huyn Đô Lương, tnh Ngh An.
      Trên tuyến đường chiến lược này – Cung đường độc đạo Truông Bồn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, bởi là nơi kết nối các huyết mạch giao thông của ta từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam. Nơi đây, chứng tích hào hùng, bất hủ ghi dấu những chiến công và sự hy sinh oanh liệt của quân và dân ta trong cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ 20. Tiêu biểu là những chiến công và sự hy sinh oanh liệt ngày 31 tháng 10 năm 1968 của 13 chiến sĩ thanh niên xung phong “Tiểu đội cảm tử” - “Tiểu đội thép” – “Tiểu đội cọc tiêu sống” Anh hùng thuộc Đại đội Thanh niên xung phong 317, Đội 65, Tổng đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu, nước tỉnh Nghệ An.
       Bởi vị trí địa lý quan trọng nối với địa bàn miền Tây Nghệ An, có địa hình hiểm trở, với nhiều dãy núi liên kết với nhau nằm dọc hai bên đường như Núi Voi, núi Mồng Gà, núi Cột Cờ...nên con đường qua Truông luôn giữ được vẻ kín đáo, an toàn, là nơi có địa thế chiến lược để trú chân, ẩn náu. Vì thế, từ khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ XV, Hoàng đế Quang Trung tiến quân ra Bắc năm 1788 đến Phan Đình Phùng, Trần Tấn, Đặng Như Mai...phất cờ khởi nghĩa Cần Vương cuối thế kỷ XIX đã từng đi qua hoặc chọn vùng đất này làm căn cứ xây dựng lực lượng. Trong phong trào cách mạng 1930-1931, Truông Bồn cũng là chỗ dựa vững chắc cho các hoạt động cách mạng. Tiếp nối truyền thống cha ông, trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Truông Bồn càng phát huy mạnh mẽ vai trò lịch sử và trở thành một địa danh Huyền thoại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta thời hiện đại.
       Và với điều kiện địa lý, Nghệ An là “Hậu phương trực tiếp của tiền tuyến, là cửa ngõ vào Quân Khu IV, là địa bàn triển khai lực lượng khi bước vào chiến đấu”. Nằm trên vùng tuyến lửa Khu IV, tuyến đường chiến lược 15A, có chiều dài gần 200km, tiếp nối từ quốc lộ 1A - giáp với tỉnh Thanh Hóa, đi qua địa bàn các huyện: Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Đô Lương về đến huyện Nam Đàn: Một ngả rẽ về bến phà Linh Cảm, tỉnh Hà Tĩnh; một ngả đi về thành phố Vinh, qua phà Bến Thủy vào Ngã ba Đồng Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là huyết mạch giao thông quan trọng để vận chuyển nhân tài, vật lực chi viện cho chiến trường miền Nam khi máy bay Mỹ ném bom đánh phá, phong tỏa tuyến đường sắt, đường sông, đường biển và quốc lộ 1A đi qua địa bàn Nghệ An. Trên tuyến đường chiến lược này, Truông Bồn là điểm nút giao thông đặc biệt quan trọng.
       Với tầm nhìn chiến lược, Trung ương Đảng, Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo xây dựng tuyến đường chiến lược 15A và tranh thủ mọi lực lượng, thời gian, vận dụng mọi khả năng vận tải đi qua Truông Bồn để chi viện kịp thời cho chiến trường miền Nam.
       Hòng hủy diệt Truông Bồn, cắt đứt mạch máu giao thông của ta, đế quốc Mỹ đã điên cuồng đánh phá. Từ năm 1964 - 1968 chúng đã trút xuống mảnh đất anh hùng này 18.936 quả bom các loại và hàng chục ngàn quả tên lửa, tàn phá 211 thôn, làng dọc tuyến đường, sát hại nhiều người dân xã Mỹ Sơn, xã Nhân Sơn, huyện Đô Lương; phá hủy hàng trăm xe ô tô và hàng trăm khẩu pháo của bộ đội ta; hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân ngành giao thông, dân quân tự vệ bị thương; 1.240 cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm chiến đấu và anh dũng hy sinh.
       Ngược thời gian trở về những năm tháng chiến tranh khốc liệt ngày ấy: Đầu năm 1964, sau khi bị thất bại  trên các chiến trường miền Nam, nhất là thất bại sau “Chiến lược chiến tranh đặc biệt”. Để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ đã mở rộng “Chiến lược chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc. Mục tiêu chiến lược của chúng là nhằm cắt đứt sự chi viện của ta từ hậu phương miền Bắc đối với chiến trường miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá.
       Đầu năm 1967, nhất là năm 1968 sau khi bị thất bại nặng nề liên tiếp trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ cay cú, điên cuồng ném bom đánh phá miền Bắc. Chúng gọi là chiến dịch “Sấm rền”. Sau khi đánh phong tỏa các tuyến đường sắt, đường sông, đường biển và quốc lộ 1A đi qua địa bàn Nghệ An, chúng đã huy động một lực lượng không quân khổng lồ, với hơn 5.000 lượt máy bay xuất kích từ căn cứ quân sự Utapao (Thái Lan) và đảo Guam (Philipin) ồ ạt trút bom đạn xuống tuyến đường chiến lược 15A. Trọng điểm là chúng tập trung đánh phá Truông Bồn. Bởi vậy, trong thời điểm này có ngày cao điểm máy bay Mỹ đánh phá lên tới 131 lần, Truông Bồn suốt ngày đêm không ngớt tiếng bom đạn.
       Nhưng, bom đạn giặc Mỹ không thể khuất phục được ý chí và quyết tâm sắt đá của quân và dân ta: “Sống bám cầu, bám đường - chết kiên cường dũng cảm”, “Tim có thể ngừng đập - nhưng đường không thể tắc”; “Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” là động lực mạnh mẽ thôi thúc các lực lượng của quân và dân ta làm nên chiến thắng Truông Bồn, làm nên một Truông Bồn Huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Tiêu biểu là những chiến công và sự hy sinh oanh liệt ngày 31 tháng 10 năm 1968 của 13 chiến sĩ thanh niên xung phong “Tiểu đội thép”, “Tiểu đội cảm tử”, “Tiểu đội cọc tiêu sống” Anh hùng thuộc Đại đội Thanh niên xung phong 317, Đội 65, Tổng đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An.
       Trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt ấy, nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các Bộ, ngành Trung ương cùng với lãnh đạo tỉnh Nghệ An đã về thăm, động viên các lực lượng của quân và dân ta. Đặc biệt, trong năm 1968, thời điểm địch đánh phá Truông Bồn ác liệt nhất, nhưng đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên – Tư lệnh Đoàn 559, đồng chí Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Phan Trọng Tuệ và các đồng chí lãnh đạo của Tỉnh ủy, Uỷ ban Hành chính tỉnh Nghệ An đã về thăm, động viên cán bộ, chiến sĩ quyết giữ vững mạch máu giao thông Truông Bồn. Có thể nói, chiến thắng Truông Bồn là đỉnh cao của cuộc chiến tranh nhân dân, là nơi thể hiện sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu, bao gồm:
       Binh trạm 1 đơn vị vận tải, Tiểu đoàn công binh D30 Quân khu 4; Đại đội công binh 27; Tiểu đoàn 76 tên lửa thuộc Trung đoàn tên lửa 278; Tiểu đoàn 72 tên lửa thuộc Trung đoàn 236; Trung đoàn phòng không 222 Nguyễn Viết Xuân; Tiểu đoàn pháo 37 ly, pháo 12 ly 7 của bộ đội và dân quân tự vệ; Trung đoàn 224 và Trung đoàn 232 pháo cao xạ và hơn 1.500 cán bộ, chiến sĩ của 9 Đại đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An; cán bộ, chiến sĩ hạt giao thông 10; lực lượng tự vệ bưu điện và dân quân tự vệ huyện Đô Lương.
       Các lực lượng của quân và dân ta đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, rà phá hàng ngàn quả bom nổ chậm các loại, đóng góp trên 2 triệu ngày công, đào đắp hàng triệu m2 đất đá, đưa 94 ngàn lượt xe quân sự vượt qua “Truông” an toàn; vận chuyển và giải tỏa hàng triệu tấn hàng, cung cấp hàng chục triệu cây phi lao, cọc tre và các loại gỗ chống lầy - làm cầu cho xe qua; huy động 4.500 xe đạp thồ, 4.500 xe ba gác, 4.500 xe đầu bò, 900 xe cút kít giải phóng hàng vượt qua “Truông” khi bị địch đánh phá phong tỏa.
      Ghi nhận địa danh Truông Bồn, ghi nhận sự cống hiến và hy sinh oanh liệt của các chiến sĩ Truông Bồn, tiêu biểu là sự cống hiến và hy sinh oanh liệt ngày 31 tháng 10 năm 1968 của 13 chiến sĩ Thanh niên xung phong “Tiểu đội thép”, ngày 12 tháng 01 năm 1996, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin có Quyết định số 51/QĐ-BT công nhận di tích lịch sử Quốc gia Truông Bồn. Ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có Quyết định số 1304/QĐ-CTN Phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho Tập thể 14 chiến sĩ Thanh niên xung phong Truông Bồn thuộc Đại đội 317, Đội 65, Tổng đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An – Trong đó, 11 chiến sĩ nữ và 02 chiến sĩ Nam đã anh dũng hy sinh.
      Với ý nghĩa to lớn đó và được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhằm xây dựng Truông Bồn trở thành “Địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, ngày 19 tháng 4 năm 2010 UBND tỉnh Nghệ An có Quyết định số 1591/QĐ.UBND-CNXD phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Bảo tồn, tôn tạo Khu di tích lịch sử Truông Bồn. Cùng với tỉnh Nghệ An, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Bộ Giao thông Vận tải và nhiều cơ quan, đơn vị, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước đã đầu tư, quyên góp, ủng hộ xây dựng, tôn tạo Khu di tích trên diện tích 217.327m2 với tổng mức đầu tư 365 tỷ đồng. Sở Giao thông Vận tải Nghệ An là đơn vị được Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An giao làm chủ đầu tư. Công trình được khởi công vào ngày 27 tháng 10 năm 2012. 
      Trong quá trình Sở Giao thông Vận tải Nghệ An triển khai thực hiện Dự án là một thử thách rất lớn, bởi bên cạnh trách nhiệm trước tỉnh, là “áp lực” của sự kỳ vọng của đông đảo nhân dân mong muốn cho Truông Bồn sớm được hoàn thành, trong khi bước đầu còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là về nguồn lực. Nhưng được sự quan tâm của Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An, của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, của Bộ Giao thông Vận tải và của nhiều cơ quan, đơn vị, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước – cùng với sự nỗ lực rất lớn của Sở Giao thông Vận tải Nghệ An, đến tháng 4 tháng 2014 một số hạng mục chính của công trình đã hoàn thành. Từ thực tế đó và xét đề nghị của các Sở, ngành, đơn vị liên quan, ngày 16 tháng 4 năm 2014, Uỷ Ban nhân dân tỉnh Nghệ An có Quyết định số 1520/QĐ-UBND thành lập Ban Quản lý Khu di tích lịch sử Truông Bồn nhằm sớm đáp ứng được lòng mong muốn của nhân dân về thăm viếng, tri ân các anh hùng liệt sĩ.
       Tháng 7 năm 2015, công trình được hoàn thành. Ngày 7 tháng 8 năm 2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức lễ khánh thành trong niềm vui của nhân dân khắp mọi miền của Tổ quốc và của hàng vạn đại biểu và nhân dân về dự lễ khánh thành.
         Khu di tích lịch sử Truông Bồn được xây dựng, bảo tồn, tôn tạo, gồm 21 hạng mục chính, như sau:
      * Các hng mc trong khu tưởng nim và khu l hi:
      Khu mộ và nhà che mộ 13 anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong 110m2; nhà tưởng niệm 1.240 anh hùng, liệt sĩ 290m2; nhà hữu vu 25m2; nhà tả vu 25m2; sân, đường nhà che mộ và nhà tưởng niệm 2.121m2; khu đài tưởng niệm các liệt sĩ 5.500m2; sân lễ hội 11.277m2.
       * Khu trưng bày truyn thng và h cnh quan:
      Nhà trưng bày truyền thống 942m2; sân khu vực nhà truyền thống 6.428m2; hồ cảnh quan 10.588m2; cầu dẫn trên hồ cảnh quan dài 72m2 – rộng 3,58m.
       * Các hng mc khu đón tiếp khách v thăm viếng:
        Nhà điều hành và đón tiếp phía Nam 256m2; nhà bán hàng lưu niệm phía Nam 198m2; nhà dịch vụ tổng hợp phía Nam 237m2; sân khu vực nhà đón tiếp phía Nam 3.955m2; bãi đậu xe phía Nam 5.300m2; nhà dịch vụ tổng hợp phía Bắc 237m2; bãi đậu xe phía Bắc 4.996m2.  
        * Các hng mc giao thông và công trình khác:
        Đường nội bộ từ khu lễ hội đến khu tưởng niệm dài 690m - rộng 5m; hệ thống đường dạo bộ dài 1.800m - rộng 03m; hệ thống điện chiếu sáng; hệ thống cây xanh, cây cảnh các loại...
        Chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống đã được hồi sinh ngay trên “Tọa độ chết” năm xưa. Khu di tích lịch sử Quốc gia Truông Bồn hôm nay, biểu tượng lịch sử của Thanh niên xung phong Việt Nam, nơi hội tụ linh hồn của 1.240 cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm chiến đấu và anh dũng hy sinh để bảo vệ huyết mạch giao thông Truông Bồn. Trong đó, ngôi mộ tập thể 13 chiến sĩ thanh niên xung phong “Tiểu đội thép”, “Tiểu đội cảm tử”, “Tiểu đội cọc tiêu sống” Anh hùng  hy sinh tại nơi đây ngày 31 tháng 10 năm 1968, chứng tích hào hùng ghi dấu những chiến công và sự hy sinh oanh liệt của 13 chiến sĩ thanh niên xung trong lúc đang làm nhiệm vụ nối liền mạch máu giao thông.
        Ở nơi này, Truông Bồn hôm nay và mai sau, mãi vang vọng những lời ru của đất mẹ như là lời ru của cả dân tộc để linh hồn các chị, các anh được yên giấc ngàn thu. Nơi đây ngày ngày luôn ngát thơm hương hoa của các Đoàn đại biểu và du khách trong và ngoài nước về thăm viếng, tri ân các chị, các anh, những người anh hùng đã “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”!
CHU VĨNH HIP – GIÁM ĐC BAN QUN LÝ
KHU DI TÍCH LỊCH SỬ TRUÔNG BỒN


 

Di tích Đền Cờn gồm có hai đền: Đền Cờn Trong và Đền Cờn Ngoài.
Đền Cờn Trong nằm trên gò Diệc, hướng mặt ra dòng Mai Giang thơ mộng, thờ Tứ vị Thánh nương Nam Hải Đại càn quốc gia. Theo thần phả tại đền và một số tài liệu lịch sử như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Tứ vị Thánh nương Nam Hải Đại càn quốc gia là bà Thái hậu Dương Nguyệt Quả, 2 công chúa Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu Nguyệt Hương (con vua Tống Độ Tông) và bà nhũ mẫu (Trung Quốc). Năm Thiệu Bảo thứ nhất (1279), do quân Tống thất bại trong trận chiến Tống - Nguyên, Vua Tống Đế Bính cùng quan quân nhảy xuống biển tự vẫn. Thái hậu và 2 công chúa vì thương tiếc nhà Vua cũng nhảy xuống biển tự vẫn theo, thân xác trôi dạt đến cửa Cờn (Nghệ An). Người dân nơi đây đã vớt lên chôn cất và thờ tại Đền Cờn.
Theo sách địa lý - phong thổ, ngôi Đền này  có thế đứng giống đầu chim phượng hoàng với hai cánh phượng là hai đồi cát nhô cao giăng dài nằm ngay phía sau đền, hai mắt phượng là giếng Đò, giếng Đình nằm trên hai ngọn đồi này.
Đền Cờn Trong được xây dựng vào thời Trần, phát triển quy mô lớn ở thời Lê, trùng tu nhiều ở thời Nguyễn, bởi vậy, di tích mang đậm phong cách văn hóa cuối Lê đầu Nguyễn. Trải qua thời gian, ngôi Đền hiện chỉ còn tòa Nghi môn, Chính điện, Trung điện, Hạ điện và tòa ca vũ.
Qua cổng Đền vào sân, bước lên 10 bậc đá sẽ tới tòa Nghi môn. Đây là một tòa nhà hình chữ công bề thế, gồm có hai tầng, 8 mái, liền tiếp sau nó là Chính điện, Trung điện và Hạ điện.
Toà ca vũ với ba gian chính và hai gian phụ cũng to rộng, bề thế, có đề tài trang trí đa dạng.
Quy mô Đền Cờn Trong tuy không lớn, nhưng hội tụ nhiều nét văn hoá đặc sắc, từ vật liệu xây dựng Đền cho đến các đường nét chạm khắc, tạo hình… Tất cả cho thấy trình độ tay nghề điêu luyện của người xưa. Tại đây còn lưu giữ 142 hiện vật quý giá. Ngoài các loại bằng sắc, câu đối, đại tự, đồ tế khí: kiệu, tàn lọng, đồ ngà, đồng..., còn có bia đá 2 mặt cao 1,6m, rộng 1,2m dựng năm 1665, chuông đồng đúc năm Cảnh Hưng (1752) nặng 300 kg, 28 pho tượng đá và nhiều tượng gỗ thời Lê.
Đền Cờn Ngoài nằm cách Đền Cờn Trong khoảng 1km, tọa lạc trên dãy núi Hùng Vương, sát cửa biển Lạch Cờn. Đền gồm 3 tòa bố cục theo kiểu chữ Tam, thờ vua quan nhà Tống (Trung Quốc): Tống Đế Bính, Trương Thế Kiệt và Lục Tú Phu. Các vị thần này trước được phối thờ ở Đền Cờn trong, song do quan niệm nho giáo nam nữ bất đồng cung nên đến thời Lê được xây dựng đền thờ riêng.
Đền Cờn xưa nay nổi tiếng linh ứng. Năm Hưng Long thứ 19 (1311), Vua Trần Anh Tông thân chinh đi đánh quân Chiêm Thành, khi đến cửa Cờn, nhà Vua cùng quân lính dừng lại nghỉ ngơi. Ban đêm nhà Vua mộng thấy nữ thần hiện lên và xin giúp nhà vua lập công đánh giặc. Sáng hôm sau, nhà Vua cho vời các bô lão trong vùng đến hỏi mới rõ sự tích. Nhà Vua liền vào đền kính tế. Khi ra quân, Vua kéo quân đến thẳng thành Chà Bàn đánh thắng lớn. Khi trở về kinh đô, nhà Vua làm lễ và phong sắc “Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh Nương”, ban vàng bạc và cho xây dựng mở rộng Đền.
Năm Hồng Đức thứ nhất (1470), Vua Lê Thánh Tông trên đường mang quân đánh dẹp phương nam cũng dừng chân tại cửa Cờn và vào Đền làm lễ cầu đào. Do Tứ vị Thánh Nương hiển linh phù trợ, nhà Vua đã đánh thắng giặc. Sau khi trở về, Vua ban cấp tiền bạc xây dựng đền và phong sắc “Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh hương thượng thượng đẳng thần Ngọc bệ hạ”, ghi nhận công đức Thánh Mẫu giúp nước, giúp dân. Sang thế kỷ 18, vua Quang Trung đã ban sắc phong với mỹ tự “Hàm hoằng quảng đại” (tức là công lao rộng khắp, to lớn) và “Hàm chương tiết liệt”(nghĩa là nêu gương tiết liệt cho muôn đời).
Từ đó về sau, người dân vùng biển mỗi khi ra khơi, nếu thành tâm vào Đền cầu khấn thì đều được bình an.
Đền Cờn – công trình kiến trúc cổ với nhiều mảng chạm khắc quanh đề tài “Tứ linh, tứ quý”, đã trở thành trung tâm tín ngưỡng văn hóa nổi tiếng không chỉ của người dân vùng biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) mà còn là của người dân trên mọi miền tổ quốc.
Lễ hội đền Cờn diễn ra từ ngày 19 - 21/1 âm lịch hàng năm là dịp để người dân trong vùng cũng như du khách thập phương đến Đền chiêm bái và tưởng nhớ công ơn của Tứ vị Thánh Nương. Với các hoạt động như: chạy ói, diễn trận thủy chiến giả gắn với truyền thuyết dựng đền, đu tiên, đấu vật, đánh cờ người, đua thuyền rồng, hát tuồng, chèo, chầu văn..., chắc chắn sẽ đem lại nhiều điều thú vị cho du khách.
Ngày 29/1/1993, Bộ Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã có quyết định số 68/QĐ-BVHTT công nhận Đền Cờn là di tích lịch sử - văn hoá cấp quốc gia.

15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An

LĐO Văn Hào
Các món ăn của Nghệ An thường được làm từ những nguyên liệu dân dã, chính vì vậy nó mang hương vị rất đặc trưng mà không đâu có thể y hệt, nhắc tới mà thèm.
1.Cháo lươn Vinh
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 1
Cháo lươn ở đây không xào thịt lươn đến săn khô như ngoài Hà Nội mà miếng lươn được để nguyên, nấu chín sẽ mềm, thơm, ngọt, thấm đượm vị cay của hành, tiêu, muối, ớt và vàng sánh của nghệ. Thường được rắc thêm chút hành tăm trông rất ngon mắt và khi ăn sẽ rất ngon miệng.
2.Bánh đa đúc hến
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 2
Là một món nhậu quen thuộc của người dân xứ Nghệ mỗi lần tụ tập. Hến dùng kèm là hến được đãi sạch từ sông Lam, chọn những con to, béo rồi xào cùng mỡ. Khi ăn người ta bẻ từng miếng bánh đã Đô Lương, biến nó thành chiếc thìa và nhẩn nha xúc từng con hến cho vào miệng
3. Mực nháy nướng Cửa Lò
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 3
Cái tên mực nháy nướng ở đây dùng để nói đến những con mực “nhảy” lên mặt biển, sau đó được ngư dân đánh bắt lên bờ, lúc đó còn nguyên độ tươi sẽ được đưa vào chế biến và thưởng thức ngay lập tức. Mực ở đây tươi ngon, khi nướng chín sẽ vàng rụm và thơm mùi gia vị tẩm ướp.
4.Bánh bèo Vinh
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 4
Bánh bèo Vinh được làm từ bột lọc, người ta phải nhào bột rất nhiều lần cho kỹ mới có được một mẻ bánh ngon. Để bánh trông đẹp mắt người ta thường nặn bánh cho giống cánh bèo. Nhân bánh là tôm non được xào với hành mỡ, đĩa bánh thường được cho thêm hành khô và một ít rau mùi.
5. Bánh mướt
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 5
Thường bị nhầm lẫn với bánh cuốn ngoài Bắc vì vẻ bề ngoài, thế nhưng bánh mướt Nghệ An lại có một hương vị rất riêng. Nguyên liệu chính để làm bánh mướt là gạo tẻ, đem xay nhuyễn thành bột, ngâm trước khi đem lên tráng. Bánh có thể ăn kèm với thịt nướng, chả lụa, nước chấm bánh có vị chua ngọt của đường và chanh.
6.Tương Nam Đàn
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 6
Tương Nam Đàn là một trong những đặc sản được du khách tới đây mua về làm quà nhiều nhất. Phải mất gần hai tháng, qua nhiều công đoạn công phu tỉ mỉ với những nguyên liệu hoàn toàn lấy từ thiên nhiên như: đậu nành, nếp, muối không iot và nước. Đậu nành hạt phải đều, chắc mẩy, khi được rang chín sẽ để nguội, sau đó xay vỡ đôi, vỡ ba chứ không được xay nát, sảy bỏ vỏ, cho vào nồi nấu hơn 24h rồi múc vào chum ủ trong bảy ngày.
7.Nhút Thanh Chương
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 7
Người dân bản xứ nơi có câu “Nhút Thanh Chương – Tương Nam Đàn” để chỉ chính danh đặc sản nào đi với miền đất đó. Nhút Thanh Chương được làm từ quả mít non muối, nộm với thịt ba chỉ luộc thái chỉ. Món Nhút vắt khô, chấm nước Chẹo (nước tương gồm lạc rang giã nhỏ, thêm ớt, tỏi và đường), ăn kèm với rau kinh giới rất tuyệt.
8.Bánh đa vừng
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 8
Bánh đa vừng là một đặc sản giòn ngon nổi tiếng. Vì được quyện với rất nhiều vừng đen nên ăn rất thơm, rất bùi và bổ dưỡng. Mỗi chiếc bánh còn có vị cay nồng của tiêu và tỏi, gia vị đậm đà rất khó để quên.
9.Khoai xéo
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 9
Là một món ăn dân dã lâu đời, gắn liền với cuộc sống từ những tháng ngày khó khan nghèo khổ. Sau khi thu hoạch, người ta chọn những củ khoai ngon, nhiều bột nhất đem rửa sạch, sau đó cắt lát mỏng, phơi khô rồi đem dùng dần.
Khi chế biến, người ta đun hạt đậu trắng và hạt đậu phộng cho mềm, sau đó đổ khoai khô vào đun sôi, có thể cho thêm gạo nếp để tang độ dẻo. Đun cho tới khi cạn nước, cho thêm đường rồi bắc nồi xuống, sau đó tới công đoạn quan trọng nhất là xéo khoai. Xéo khoai phải nghệ thuật, phải thật nhuyễn, thật nát thì hương vị mới quyện đều vào nhau.
10.Mọc cua bể
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 10
Mọc cua bể là món ăn được chế biến khá tỉ mỉ và cầu kì ngay từ khâu gỡ thịt, ướp gia vị cho đến khi chế biến. Mọc cua bể chính danh phải cắm chân cua đã luộc chín vào mai giống như cua đang sống. Mùi vị thơm béo của cua quyện lẫn với hương vị của hành và gia vị đậm đà khiến ai cũng muốn thưởng thức.
11.Cháo nghêu
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 11
Là một trong những món cháo nổi tiếng khi nhắc đến ẩm thực Nghệ An, đây là món ăn thực sự thú vị của Cửa Lò. Nghêu được làm sạch, băm nhỏ, phi với mắm hành thơm ngon. Sau đó được trộn vào cháo, ăn kèm với cả hành lá và hành khô. Một món ăn thực sự rất bổ dưỡng và thanh nhã.
12.Mực trộn tép bưởi
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 12
Mực ở Nghệ An được chế biến theo rất nhiều cách khác nhau, trong đó mực trộn tép bưởi là món ăn thú vị nhất. Bưởi nhồi trong mực phải là loại bưởi ngon, chắc tép, sau khi được tẩm ướp sẽ được cho vào thân trong và nướng cùng mực tươi.
13.Cháo canh
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 13
Với tên gọi lạ lẫm, chắc chắn du khách sẽ muốn được thưởng thức một lần món cháo này. Nguyên liệu chính để làm món này là bột mỳ, sau khi nhào thật nhuyễn sẽ cán thành bột và cắt thành những sợi nhỏ tròn. Nước dùng để chan được ninh từ xương và sau đó thêm một ít tí tô, hành khô và thịt bằm trộn đều.
14.Bánh ngào
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 14
Gần giống với bánh trôi, nhưng khác ở chỗ nước dùng để chan sệt sệt và ngọt của vị mật. Có thể cho thêm chút gừng và vừng để cảm nhận được thêm chút vị thơm, cay hòa quyện.
15.Cá giò
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An ảnh 15
Cá giò là một “đặc sản mới nổi” trong những năm gần đây. Cá giò có thể được chế biến thành 7 món khác nhau vô cùng hấp dẫn như gỏi, cá hấp sả, lẩu, cháo, vây cá rán hay da cá chiên giòn, chấm với nước mắm tỏi giòn mê ly.

Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách

Món ngon của Nghệ An mang chất riêng đặc biệt đến nỗi bất cứ ai có cơ hội được thưởng thức đều nhớ mãi không quên...
Nghệ An là mảnh đất non nước hữu tình đẹp như bức tranh thủy mặc. Vẻ đẹp kỳ thú pha lẫn chút nguyên sơ luôn làm say đắm bất cứ ai đã từng đi qua và dừng chân ghé lại nơi này. Không chỉ có thế, trên mảnh đất hồn hậu, địa linh nhân kiệt đã sản sinh ra nhiều đặc sản mà ai "lỡ" nếm thử một lần cũng vương vấn mãi không thôi.
Cam xã Đoài
Cam Xã Đoài là một đặc sản của xã Nghi Diên còn có tên nôm là xã Đoài, thuộc huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Hương vị thơm ngon của cam Đoài gây nức lòng người thưởng thức đến nỗi nó đã trở thành một hình ảnh ngọt ngào của thơ ca.
“Cam xã Đoài mọng nước
Giọt vàng như mật ong
Bổ cam ngoài cửa trước
Hương bay vào nhà trong” (Phạm Tiến Duật)
Cam xã Đoài trở thành một đặc sản bởi hơn hết nó có vị đặc biệt thơm ngon, vỏ mỏng, rất nhiều nước. Khi trồng, người dân nơi đây phải lựa kỹ giống, cây giống được chọn lọc sạch, không sâu bệnh.
Nếu một lần đặt chân đến đây vào dịp tết Nguyên Đán, bạn sẽ bị choáng ngợp bởi một thứ sắc màu tươi mới, trùng điệp bởi quả, bởi lá. Hương cam bay lan tỏa ra xung quanh, nửa như mời gọi nửa muốn níu chân người lữ khách.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Cam xã Đoài mọng nước, hương thơm ngọt ngào (Ảnh: Internet)
Cam khi mới chín có màu vàng rồi chuyển sang sẫm dần nhưng luôn giữ được vẻ tươi tắn, ngoài có lớp the mỏng, chỉ cần khẽ xây xát là đã thoát một mùi thơm ngây ngất. Khi bổ ra, cam có màu vàng óng, nước cam chảy ra nhìn sánh như những giọt mật ong óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Hơn thế nữa, khi thả miếng cam vào miệng, tưởng chừng như bao vị ngọt ngào của đất trời kết tinh trong đó.
Nhút Thanh Chương
Có lẽ, mít xanh là thứ quả gắn với tuổi thơ rong ruổi của rất nhiều người. Những quả mít non được hái xuống, rồi đem luộc, chấm với muối ớt, mặn chát, nghẹn trong cổ họng mà bao đứa trẻ vẫn khao khát và thích thú. Còn với người Thanh Chương xứ Nghệ, việc chế biến mít xanh thành món ăn như dưa muối lại là nghệ thuật vô cùng độc đáo. Món ăn làm từ mít xanh đó được gọi là nhút. Nhiều người còn coi nhút chính là một loại "kim chi" của xứ Nghệ này.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Những quả mít xanh được chế biến thành nhút (Ảnh: Internet)
Nghe nói, nghề làm nhút ở Thanh Chương có từ lâu đời, là thức ăn dân dã và phổ biến của mọi gia đình. Nguyên liệu để làm nhút chỉ gồm có mít xanh và muối trắng và cách làm tương tự như nhiều món dưa muối khác ở Việt Nam.
Để làm nhút, người ta lựa những quả mít xanh, loại ương ương càng ngon rồi gọt sạch vỏ ngoài, rửa cho hết nhựa sau đó bỏ vào nong hoặc nia, dùng dao băm hoặc thái thành từng sợi. Muối được cho vào, trộn đều rồi bỏ vào cối giã sơ qua, dùng tay vò cho mềm ra. Cuối cùng mít được cho vào vại sành khoả đều trên bề mặt, đặc một chiếc vỉ lên trên, chèn đá cho nén xuống, đổ nước muối loãng vào cho ngập vỉ, đậy nắp che bụi, ủ khoảng 5-6 ngày là dùng được.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Nhút là món ăn hàng ngày giản dị nhưng lại trở thành đặc sản của xứ Nghệ (Ảnh: Internet)
Hàng ngày trong mỗi bữa cơm, người ta lấy ra bát nhút, hương vị chua chua giòn giòn, ăn thật thích thú. Nhút ăn với cơm rất hợp, chỉ cần chút nước mắm làm nước chấm là đủ.
Lươn Vinh
Lươn vốn là loại thủy sản nước ngọt có ở hầu hết đồng ruộng trên đất nước Việt Nam. Nhưng dưới bàn tay khéo léo cùng văn hóa ẩm thực đặc trưng của những người con xứ Nghệ, các món ngon từ lươn lần lượt ra đời và dần trở thành đặc sản, tinh hoa của mảnh đất này.
Để chế biến một món ăn ngon, khâu sơ chế lươn rất quan trọng. Người chế biến loại bỏ chất nhớt bằng nhiều kinh nghiệm khác nhau như dùng tro, giấm, nước sôi hoặc dùng một số lá có độ thô như lá tre để tuốt các chất nhờn trên da lươn. Tùy theo yêu cầu của món nấu mà có thể để nguyên con, rút xương hay cắt khúc. Khâu rút xương cũng có 2 phương pháp. Hoặc cắt khứa từ cổ rồi lạng dần xuống. Hoặc đặt thân lươn lên thớt, dùng chày gỗ dần lên, rồi lộn ngược bên trong, lạng bỏ phần xương.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Cháo lươn cũng là một đặc sản khó cưỡng.
Sau khi sơ chế xong, người ta chế biến lần lượt thành những món ăn mà món nào món nấy đều hút hồn thực khách đến nỗi phải quay lại quán biết bao nhiêu lần. Chẳng hạn như lươn om (om chuối, om lá ngải cứu, om rau ngổ, om lá lốt, om nồi đất...), cháo lươn, lươn nướng, súp lươn... Lươn nướng than hoa là một trong những món ăn được đặc biệt ưa chuông. Mùi thơm của lươn nướng bay tỏa trong không trung khiến chẳng ai có thể cầm lòng được.
Súp lươn cũng là món hấp dẫn không kém. Bát súp có lượng nước trong, ngọt, thơm, những miếng thịt lươn chín còn nguyên dạng, không nhũn nát, thấm vị và dậy lên hương đặc trưng của lươn quê. Hành lá, rau răm còn nguyên sắc xanh tươi thắm được cắt nhỏ, thả bồng bềnh trên mặt nước nóng hổi điểm nhẹ những giọt ớt đỏ. Hơi bay lên kéo theo mùi hương thơm, cay, nồng khiến chưa ăn miệng đã thấy thèm.
Tương Nam Đàn
Nếu như mảnh đất Hưng Yên nổi tiếng với thứ tương Bần thơm ngon, tinh khiết thì trên mảnh đất Nam Đàn xứ Nghệ, người ta cũng có quyền tự hào vì đã làm ra một loại tương hấp dẫn không kém.
Nguyên liệu chính để làm tương đều là những thứ gần gũi, thân thiết với cuộc sống hàng ngày nhu đậu nành, nếp hoặc ngô, muối và nước. Nếu vô tình hoặc cố ý cho thêm một thứ gì vào, chum tương sẽ bị hỏng. Để có được chum tương ngon, đòi hỏi ở người làm tương sự kỳ công, tỷ mẩn.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Nếu có dịp qua mảnh đất này, bạn hãy mang về cho mình, người thân hoặc bạn bè một chút hương vị tương giản dị này nhé!
Tương Nam Đàn lại có đủ hai loại: Mặn và ngọt. Tương mặn dùng để ăn hàng ngày, còn tương ngọt làm vào những chĩnh nhỏ chủ yếu để đãi khách và làm quà biếu. Nghe nói, tương Nam Đàn được làm bằng thứ đỗ tương xuân hè trồng trên chính đất Nam Đàn và hưởng khí, đất đai hậu thuận lợi. Có lẽ, được sản sinh từ mảnh đất phù sa màu mỡ mà đã cho ra đời thứ đậu tương hảo hạng.
Thế mới hiểu vì sao, ở xứ Nghệ, người ta hay truyền tai nhau rằng, muốn ăn nhút Thanh Chương thì trước tiên phải tìm được tương Nam Đàn. Hai thứ ấy kết hợp với nhau thì bữa cơm dù đạm bạc đến mấy vẫn ngon đến vô cùng.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Người Nam Đàn làm tương (Ảnh: Internet)
Trong một chai tương Nam Đàn có tới ba tầng khác nhau nếu nhìn từ ngoài vỏ. Tầng trên cùng là đậu hạt mới chỉ được dập vỡ làm đôi. Tầng giữa là nước tương có màu Hổ Phách, còn tầng dưới cùng là mốc tương có màu vàng thẫm. Nếu có dịp qua mảnh đất này, bạn hãy mang về cho mình, người thân hoặc bạn bè một chút hương vị tương giản dị này nhé!
Bánh mướt
Thoạt nhìn, bánh mướt có vẻ giống với bánh cuốn ngoài Bắc nhưng nó lại có hương vị thơm ngon rất riêng.
Bánh mướt thường dài như ngón tay trỏ của người lớn, cuộn tròn, mềm, mịn, trắng trong. Bánh chỉ được làm bằng bột gạo tẻ - gạo được ngâm nước rất lâu sau đó được vớt ra xay nhuyễn và được ủ trong nhiều giờ liền. Bánh được làm vào những buổi sáng sớm tinh mơ. Người làm bánh phải thức dậy từ khi 2 - 3 giờ sáng để nổi nửa tráng bánh thì mới kịp bán cho khách.
Khi thưởng thức, chỉ cần chén nước mắm vắt chanh, đường vừa đủ, ớt cắt lát mỏng thế là có thể ăn đến no.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Bánh mướt thường dài như ngón tay trỏ của người lớn, cuộn tròn, mềm, mịn, trắng trong (Ảnh: Internet)
Chính người dân nơi đây cũng chẳng rõ bánh mướt có từ khi nào, chỉ biết rằng món ăn dân dã mà ngon đến lạ thường này vẫn luôn được người ta yêu mến từ thủa bé cho đến lúc trưởng thành hay già đi.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Bánh mướt vẫn luôn giữ được hồn quê dân dã (Ảnh: Internet)
Dẫu rằng chiếc bánh mướt theo thời gian đã được người ta cách điệu đi đôi phần như dùng máy để xay bột, dùng thịt heo, mộc nhĩ để làm thêm nhân... nhưng bánh mướt vẫn còn giữ được hồn quê dân dã đến kỳ lạ!
Bánh bèo Vinh
Nếu như bánh bèo Huế được làm từ bột gạo thì bánh bèo xứ Nghệ được làm từ bột lọc. Người ta phải nhào bột nhiều lần cho kỹ thì mới có thể có một mẻ bánh ngon. Để bánh trông đẹp hơn, người bán hàng thường nặn bánh cho giống cánh bèo.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Những con tôm làm nhân bánh không cần to quá nhưng phải được làm sạch chân, râu rồi phi thơm cùng hành mỡ. Được biết, tôm xào càng kỹ thì càng ngấm gia vị và khi ăn thì mới thấy thơm, thấy bùi.
Đĩa bánh bèo thường phải cho thêm hành khô và một ít rau mùi thì mới hoàn chỉnh. Với những ai thích ăn cay thì có thể cho thêm tương ớt chưng. Bỏ miếng bánh bèo vào miệng sẽ thấy được vị dai dai của bột lọc, vị bùi bùi của tôm thịt, vị giòn giòn của hành khô. Món bánh bèo Vình mới chỉ xuất hiện cách đây hơn chục năm nhưng nó đã trở thành một món ăn ngon, nổi tiếng của mảnh đất này.
Mực nháy nướng Cửa Lò
Món mực nháy nướng (“Mực nháy” có nơi còn gọi là mực nhảy, tên gọi này dùng để chỉ những con mực được ngư dân vừa bắt lên khỏi nước biển còn nguyên độ tươi và được đưa vào chế biến và thưởng thức ngay tại chỗ khi còn tươi nguyên) ở Cửa Lò từ lâu đã hấp dẫn du khách khi đến xứ biển. Mực ở đây tươi ngon, khi mới câu lên có màu trắng trong. Sau khi sơ chế, người ta cho những con mực tươi mới ấy lên bếp than hoa rực hồng rồi nướng. Trung tâm sách Kỷ lục Việt Nam đã từng công bố 10 đặc sản hải sản Việt Nam trong hành trình tìm kiếm, quảng bá đặc sản và ẩm thực Việt Nam lần thứ 1/2012 trong đó có mực nháy.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
Hương thơm lừng của món mực nháy nướng quyến rũ bất cứ ai thưởng thức (Ảnh: Internet)
Hãy cứ thử tưởng tượng, sau khi đắm mình trong làn nước biển xanh mát, bao la, tận hưởng những cơn gió mặn mòi của biển rồi nằm dài trên chiếc ghế ở một quán ven đường, hít hà mùi thơm của mực nướng, từ từ nhâm nhi những miếng mực giòn giòn chấm với gia vị, thậm chí chỉ cần tương ớt thôi đã là quá tuyệt. Cuộc sống dường như lắng lại để con người tận hưởng hết những tinh hoa của biển cả, chỉ có gió và sóng cứ ồn ào, xô mãi không thôi.
Ngoài ra, ở Nghệ An còn có nhiều món ăn ngon như mọc cua bể, ghẹ hấp me, cá giò bảy món, cháo nghêu (Cửa Lò), bánh ngào... Mỗi món ăn đều tạo nên đặc trưng riêng của mảnh đất này.
(Theo Eva.vn)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét