Nghệ
An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung Bộ.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh, nằm cách thủ đô Hà Nội
291 km về phía nam. Wikipedia
Nghệ An chiêu đãi du khách với mọi loại hình du lịch đáp ứng tất cả các
nhu cầu của du khách như du lịch tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch
khám phá, du lịch biển, rừng...
Bình minh trên biển Diễn Châu (Ảnh: Panoramio).
Địa điểm vui chơi
Từ Vinh, ra Bắc 40km bằng đường bộ, bạn sẽ được hòa
mình với thiên nhiên ở khu du lịch sinh thái Sen Vàng hay thả mình ở ba
trong số hàng loạt các bãi biển đẹp, nổi tiếng của Nghệ An là biển Diễn
Thành, biển Diễn Châu, thú vị nhất là Bãi Lữ vừa thơ mộng vừa hoang sơ.
Tại Bãi Lữ, bạn sẽ có hai lựa chọn khác nhau. Nếu túi "hòm hòm", bạn có
thể đăng ký ở resort Bãi Lữ, tận hưởng tất cả các dịch vụ phong phú,
hoặc khám phá kiểu “nhà nghèo” ở bãi biển công cộng.
Bên cạnh các bãi biển tương, bạn có thể thăm thú di
tích như Đền Cuông trên núi Mộ Dạ, nơi Thục phán An Dương Vương tuẫn
tiết, được chôn cất lập đền thờ. Trên núi còn có giếng Ngọc Mỵ Châu; ghé
khu sinh thái Diễn Lâm nơi, vườn bách thú với nhiều động vật hiếm hay
Hồ Xuân Hương rừng thông soi bóng xuống hồ (lưu ý không tắm tại hồ).
Biển Diễn Thành (Ành: Panoramio).
Các danh thắng của hướng Nam từ Vinh bắt đầu bằng bãi
biển Xuân Thành với vẻ đẹp của triền cát thoai thoải, nước trong, những
hàng dương ngút ngàn; Khu di tích đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thâm
nghiêm, bí ẩn. Hành trình ngược sông La kỳ thú để đến với di tích và
lăng mộ Tổng bí thư Trần Phú, ngắm bến Tam Soa thơ mộng, nghe những câu
hát điệu hò bảng lảng trên sông.
Phía đông thành phố Vinh là Cửa Lò, một thị xã sấm uất
và một bãi biển tuyệt đẹp. Nơi bất kỳ du khách thuộc vùng miền nào cũng
muốn một lần đặt chân đến. Tại Cửa Lò, ngoài thú vui tắm biển, thưởng
thức hải sản, thì “đặc sản” câu và thưởng thức mực nhảy cũng lôi cuốn
không kém.
Cách thành phố Vinh 10km về phía Tây, bạn sẽ đến với
quê hương của chủ tịch Hồ Chí Minh, tham quan nơi Bác lớn lên hay thắp
một nén nhang tưởng nhớ ở mộ bà Nguyễn Thị Loan. Ngoài là quê hương Bác,
nơi đây cũng khai sinh ra hàng loạt các nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội
Châu, Lê Hồng Sơn, Tổng bí thư Lê Hồng Phong ...
Biển Cửa Lò (Ảnh: xomnhiepanh)
Bãi Lữ (Ảnh: hvh).
Bên cạnh du lịch lịch sử, cụm du lịch phía Tây của Vinh
cũng chiều lòng du khách với hai điểm du lịch tâm linh là quảng trường
Hồ Chí Minh, đền thờ - lăng mộ Quan Hoàng Mười và du lịch khám phá với
vườn quốc gia Pù Mát, nơi có nhiều động vật quý và những dòng thác hùng
vĩ.
Ngoài ra, nếu có thời gian, bạn đừng quên khám phá hàng
loạt địa danh khác của vùng đất này như chợ vùng biên Nậm Cắn, thác Xao
Va, hang Thẩm Ồm, khu du lịch núi Quyết; Thành cổ Nghệ An, chùa Sư Nữ
(chùa Cần Linh), đền Hồng Sơn, đền Quả Sơn, khu du lịch hồ Cửa Nam, bảo
tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Di chuyển
Tùy theo điểm xuất phát mà bạn có thể chọn 3 thành phố
lớn đại diện cho 3 vùng để làm điểm trung chuyển đến Nghệ An là Hà Nội,
Đà Nẵng và Sài Gòn. Nếu thích, các bạn ở miền Trung và miền Nam có thể
chọn Hà Nội làm điểm xuất phát hay chọn cách mua vé đi Nghệ An tại địa
phương.
Đền Cuông (Ảnh: dulich4phuong).
Quảng trường Hồ Chí Minh.
Bằng phương tiện công cộng
Bạn có thể đến Nghệ An bằng xe khách (mua tại các bến
xe), tàu lửa (mua tại các ga) và máy bay (mua tại các đại lý vé máy
bay). Mỗi phương tiện có lịch trình khác nhau, mức giá khác nhau, điểm
đến khác nhau, bạn nên lên lịch trình, khả năng tài chính trước khi mua
vé. Đến Nghệ An bạn có thể thuê xe ôm, xe máy hay taxi khám phá các
điểm.
Bằng phương tiện cá nhân
Hà Nội cách thành phố Vinh 291km, khoảng cách tương đối
để bạn có thể phượt bằng xe máy hay xe ô tô mà không lo ảnh hưởng đến
sức khỏe, thời gian. Sài Gòn hay Đà Nẵng đều khá xa “vùng đất học”, nên
nếu không có kế hoạch lang thang hàng loạt tỉnh, tốt nhất bạn nên di
chuyển bằng phương tiện công cộng để bảo đảm an toàn cũng như khỏi mệt
mỏi vì chạy xe quá nhiều.
Lưu trú
Khu vực trung tâm Nghệ An gồm các tuyến đường Trần Phú,
Lê Duẩn, Trường Thi… Các bạn có thể căn cứ vào đó hay vào lịch trình cụ
thể của mình để tiện cho việc di chuyển.
Các bạn tham khảo tên của một số nhà nghỉ, khách sạn
như Mường Thanh, Sen Vàng, Đại Dương, Hoa Biển … Lưu ý gọi điện đặt
trước để tránh tình trạng đến Nghệ An mà không có phòng để ở.
Vẻ đẹp đồi núi phía tây Nghệ An (Ảnh: chudu).
Thác Kèn (Ảnh: chudu).
Đặc sản Nghệ An
Đặc sản Nghệ An gồm những món như cháo lươn Vinh, cơm lam, nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn, cam xã Đoài...
Mang gì khi tới Nghệ An?
Bất kỳ trang phục, giày dép bạn thích.
Mang theo vật dụng đi nắng nếu đến vào mùa nắng và dụng cụ đi mưa nếu đến vào màu mưa.
Mang theo kem chống muỗi, thuốc trị côn trùng, thuốc trị các bệnh thông thường.
Mang theo lều, áo khoác, nồi đa dụng nếu có ý định cắm trại.
Giò Me Nam Nghĩa Nam Đàn Nghệ An
Vâng,
“Me” thực ra là con bê (bò con) ngôn từ địa phương thường gọi. Được làm
từ nguyên liệu chính là thịt me (thịt bê), bì me, trứng gà và các loại
gia vị khác. Để có được những miếng giò chất lượng, màu sắc hồng hào,
thơm ngon, người chế biến phải làm rất nhiều công đoạn tỉ mỉ, đòi hỏi sự
khéo léo, kinh nghiệm và đặc biệt là bí quyết riêng của mỗi cơ sở sản
xuất.
Nhà hàng Chính Nhung Quê nội Bác Hồ
Thật
vậy, tọa lạc ở trung tâm khu di tích Kim Liên Nam Đàn, nhà hàng Chính
Nhung sẽ là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách thập phương về thăm quê
hương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với tình cảm chân thành và đầy nghĩa tình
của con người xứ Nghệ, Chính Nhung sẽ mang lại cảm giác mộc mạc, thanh
bình và thân thiện của Làng Sen Quê Bác đến với Qúy khách hàng của mình
Lăng mộ Nguyễn Thiếp -La Sơn Phu Tử
Nguyễn
Thiếp (l723-1804) có tên hiệu La Sơn phu tử. Ông là bậc thầy hiền sĩ
thức thời, danh tiết thanh cao, biết người biết mình, không màng danh
lợi. Ông sinh ngày 25 tháng 8 năm Quý Mão (1723) ở làng Mật Thôn, xã
Nguyệt Úc, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh
Đình Trung Cần và mộ Tống Tất Thắng
Tống
Tất Thắng sinh năm 1487. Ông đậu tiến sĩ (1505) khi vừa tròn 18 tuổi,
là người khai khoa cho vùng đất này dưới thời Lê. Ông làm quan đến chức
binh bộ thượng thư. Sau khi đánh giặc thắng trận trên đường trở về, ông
lâm bệnh nặng và qua đời khi mới 35 tuổi.
Núi Thiên Nhẫn và Thành Lục Niên
Thành
Lục Niên được Lê Lợi xây dựng trên lưng chừng Động Chủ thuộc đỉnh núi
Hoàng Tâm (còn gọi là dãy Lạp Phong hay tiếng địa phương là rú Động Chủ)
thuộc dãy núi Thiên Nhẫn vào cuối năm 1424. Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch
đã từng có bài vịnh về Thiên Nhẫn để nói về cái thế luỹ vững chắc
Chùa Đức Sơn Nam Đàn
Theo
tư liệu thì Chùa Đức Sơn nằm trên vùng đất cổ thuộc thành Vạn An xưa.
Được xây dựng từ thời Trần, ngôi chùa này được coi là một trong những
ngôi chùa cổ nhất xứ Nghệ. Đến năm Tự Đức thứ 25, chùa được trùng tu lại
và có diện mạo như ngày nay.
Mộ Lê Hồng Sơn và đền Tán Sơn
Ngày
19/2/1933, đ/c Lê Hồng Sơn - một trong những đồng chí có tâm huyết với
cách mạng và hết lòng hoạt động vì cách mạng từ những ngày sơ khai bị
thực dân Pháp kết án tử hình tại chính quê hương của đồng chí làng Xuân
Hồ, thi hài của đ/c được nhân dân chôn cất tại Rú Tán. Mãi đến năm 1956,
mộ Lê Hồng Sơn mới được cải táng về nơi xử bắn.
Đình Hoành Sơn Nam Đàn
Hội
tụ tài hoa, tâm huyết và ước nguyện của cư dân Nam Đàn cổ xưa, đình
Hoành Sơn(thuộc xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) được xây dựng
vào tháng Chạp năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23(tức vào tháng
2-1763) và đến cuối năm sau thì hoàn thành.
Đền Nậm Sơn Nam Đàn
Hàng
năm vào ngày rằm tháng giêng tại đền tổ chức các lễ tế thần, rước kiệu,
múa sư tử, múa lân, hát hội và tổ chức tế thần vào ngày giỗ ngài 1/3 và
10/10 (âm lịch). Ngoài ra, các ngày sóc, vọng, nhân dân và khách thập
phương về dự lễ rất đông. Những hoạt động đó đã góp phần lưu giữ bản sắc
của một vùng văn hoá dân gian xứ Nghệ.
Nhà hàng Hải Tuyết - Làng Sen Quê Bác
Nhà
hàng Hải Tuyết tọa lạc bên cạnh Khu di tích Kim Liên Nam Đàn, được xây
dựng và đi vào hoạt động từ năm 2010. Nhà hàng gồm nhà 2 tầng với sức
chứa 500 thực khách phù hợp của các bữa tiệc hội nghị, liên hoan, cho
các cơ quan và các công ty du lịch.
Chùa Đại Tuệ - Nam Đàn Nghệ An
Theo
sách “Đại Nam nhất thống chí” ghi lại thì nguốn nước trên đỉnh núi Đại
Huệ chả ra là một trong sáu nguồn nước thiêng của nước Việt mà từ thời
Minh Thái Tổ (Trung Quốc) thể kỷ thứ 14 hàng năm đều sai sứ thần sang
tận nơi để tế lễ.
Làng nghề tương Nam Đàn
Những
hạt đậu tương loại nhỏ, chỉ được trồng vào mùa xuân trên đất bãi dọc
sông Lam bóc ra phơi được nắng, nước dòng sông Lam múc lên đúng lúc con
nước đang ròng, tinh khiết…, tất cả làm nên những chai tương Nam Đàn
sóng sánh màu cánh gián, với 3 tầng đều nhau: mốc tương, nước tương và
cái tương.
Về quê Bác trẩy hội đền Vua Mai
Trẩy
hội đầu năm, nhiều du khách chọn điểm đến là vùng đất Thánh Nam Đàn quê
Bác. Ngoài khu di tích Kim Liên, huyện Nam Đàn dự kiến sẽ đón trên 2
vạn người tới dự lễ hội kỷ niệm 1.287 năm ngày khởi nghĩa Mai Thúc Loan
(722 - 2009).
Lễ hội Vua Mai xã Vân Diên - huyện Nam Đàn
Cứ
mỗi Xuân về, vào tháng giêng, du khách về với Nam Đàn – một miền quê có
bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa. Tới Nam Đàn là chúng ta đến với
vùng văn hóa đặc sắc có nhiều danh lam thắng cảnh và nhiều di tích lịch
sử, văn hóa cách mạng.
Đền thờ và miếu mộ Mai Hắc Đế
Mai
Thúc Loan (Mai Hắc Đế) thuộc số những người yêu nước đứng lên chống
giặc một cách oanh liệt và có hiệu quả nhất định với việc quét sạch quân
giặc ra khỏi cõi, dựng nên nước Vạn An độc lập ở thế kỉ VIII
Khu lưu niệm Phan Bội Châu
Phan
Bội Châu sinh ngày 26/12/1867 với tên gọi là Phan Văn San, trong một
gia đình nhà nho nghèo. Với khí chất thông minh, lại hiếu học, ông trở
thành một trong tứ hổ Nam Đàn hồi đó, sau thi đậu Giải nguyên (nên còn
gọi là Giải San)
Đình Thanh Đàm - Nam Đàn
Đình
Thanh Đàm thuộc làng Thanh Đàm, xã Nam Tân huyện Nam Đàn (Nghệ An),
cách thành phố Vinh 30 km về phía Tây Nam. Ngôi làng này gần sông Lam.
Đình được xây dựng vào năm 1899 (mùa đông năm Kỷ Hợi) và hoàn thành cuối
năm 1900.
Đền thờ và miếu mộ Mai Hắc Đế
Mai
Thúc Loan (Mai Hắc Đế) thuộc số những người yêu nước đứng lên chống
giặc một cách oanh liệt và có hiệu quả nhất định với việc quét sạch quân
giặc ra khỏi cõi, dựng nên nước Vạn An độc lập ở thế kỉ VIII. Đền thờ
ông được xây cất trên chính mảnh đất ông đã xây dựng căn cứ địa của cuộc
khởi nghĩa - Sa Nam - thuộc thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn với tổng
diện tích không gian hơn 10.000m2, được trùng tu lần cuối vào năm 2004,
theo kết cấu gồm thượng điện, trung điện, hạ điện cùng khuôn viên khang
trang, hoành tráng.
Bãi tắm Cửa Lò
dài trên 10km, có độ dốc thoai thoải, cát trắng phẳng mịn, nước trong
và sạch, không pha lẫn bùn như một số bãi biển khác. Phía trên bãi biển
còn có nhiều khu lâm viên rộng với những rặng phi lao, rặng dừa xanh
tốt. Nước biển ở đây có độ mặn rất cao. Vì thế, Cửa Lò là một trong những bãi tắm lý tưởng ở Việt Nam.
Các hòn đảo xinh đẹp của du lịch Cửa Lò
Đảo Lan Châu
Đảo Lan Châu nằm ngay sát du lịch Cửa Lò, chia bãi tắm Cửa Lò
thành hai khu vực riêng biệt. Những lúc triều dâng, toàn đảo dầm chân
trong nước biển. Dưới chân núi, về phía đông nam có nhiều tảng đá lớn,
hình thù kỳ lạ với nhiều tên gọi khác nhau. Trên đảo, năm 1936, vua Bảo
Đại đã cho xây lâu đài để nghỉ dưỡng. Từ đây, du khách có thể chiêm
ngưỡng toàn cảnh thị xã Cửa Lò và được phóng tầm mắt nhìn ngắm biển khơi
bao la. Tại đây có loài cúc biển đẹp lạ kỳ do chính vua Bảo Đại đem
giống cây từ Pháp về.
Đảo Song Ngư
Cách bờ biển 4km là đảo
Song Ngư như hai con cá khổng lồ che chắn bão to, gió lớn cho bãi biển
Cửa Lò, Cửa Hội, đây là nơi sinh sống của các hệ động thực vật rất phong
phú như: khỉ, dê hoang dã, chim v.v…Xa xa, ngoài khơi chừng 20km là núi
Quỳnh Nhai. Núi cao 218m, sâu 24m so với mặt biển. Quỳnh Nhai gồm Hòn
Lớn và Hòn Con.
Lịch sử ra đời và phát triển của khu du lịch Cửa Lò
Bãi biển Cửa Lò trong
chiều dài lịch sử tự nhiên vốn là một bãi biển dài, đẹp với dải cát
trắng và ánh nắng vàng. Đó cũng là nơi cư trú của các làng chài và nơi
tắm biển, nghỉ ngơi, dạo chơi của cộng đồng dân cư quần tụ còn thưa thớt
cho đến cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên cho đến lúc đó, Cửa Lò vẫn chưa phải
là nơi nghỉ mát, tắm biển thực sự quan trọng của các dân cư đất Việt
nói chung. Bởi lẽ đó chưa phải là nhu cầu bức thiết của cộng đồng cư dân
sinh sống trên địa bàn và dọc mảnh đất Miền trung này. Đến cuối thế kỷ
thứ XIX, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp ở Việt
Nam đã tác động mạnh mẽ đến Nghệ An. Vinh trở thành một trung tâm công
nghiệp, nơi tập trung đông đảo công nhân và cả bộ máy hành chính với đội
ngũ viên chức người Pháp, người Việt. Sự thay đổi xã hội đó và những vị
thế về cảnh quan thiên nhiên là lý do chủ yếu để người Pháp chọn Cửa Lò
làm nơi xây dựng một khu biệt thự nghỉ mát dành riêng cho người Pháp(
khu biệt thự này đã bị phá hủy trong chiến tranh). Cùng với việc công
nghiệp hóa Thành phố Vinh – Bến Thủy, người Pháp cho xây dựng hệ thống
giao thông hoàn chỉnh: Đường Vinh đi Cửa Hội, Cửa Lò và các điểm nghỉ
dưỡng với cách bố trí đảm bảo an toàn và ý nghĩa danh thắng. Bên cạnh
các khu du lịch lần lượt ra đời trong thời gian đó: SaPa (1903), Mẫu Đơn
(1906), Tam Đảo (1904), Ba Vì (1906), Sầm Sơn (1907), Bạch Mã (1906),
Bà Nà (1904)…Ngày 05/06/1907 đã lấy làm ngày ra đời của du lịch Cửa Lò.
Điều này khẳng định các giá trị vốn có và lâu đời của du lịch Cửa Lò để có các giải pháp khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng tour du lịch Cửa Lò nghỉ mát thành đô thị du lịch thật sự theo đúng tiêu chuẩn.
Thị xã Cửa Lò
ra đời năm 1994. Trải qua hơn 100 năm với những thăng trầm của lịch sử,
chỉ chừng 20 năm qua Cửa Lò mới thực sự được đánh thức và đang dần
khẳng định vị thế của mình trên lộ trình phát triển của đất nước nói
chung và của tỉnh Nghệ An nói riêng. Cửa Lò ngày nay đang ngày càng được
thay da đổi thịt bởi sự phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng,
đặc biệt là các dịch vụ du lịch, hệ thống khách sạn cao tầng hiện đại và
nhiều khu vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng. Với cơ sở vật chất hạ tầng
hiện có 212 nhà nghỉ, khách sạn, gần 6000 phòng nghỉ đủ phục vụ cho trên
1.3 vạn khách nghỉ qua đêm. Nhờ thế năm 2007, Cửa Lò đã đón trên 1.3
triệu lượt khách trong đó có 811 ngàn khách lưu trú. Năm 2008 đạt 1,4
triệu lượt người. Tỷ trọng kinh tế du lịch chiếm 64.3%.
Nguồn hải sản ở đây rất phong phú, khoảng trên 200 loại cá, nhiều loại đặc sản như: tôm, mực, cua, rắn biển, cá mú… Đến với du lịch Cửa Lò,
du khách không thể bỏ qua việc thưởng thức các món ẩm thực mang hương
sắc vùng biển Miền Trung này. Đó là các món:nước mắm hạ thổ, mọc cua bể,
các món mực, cá giò 7 món, ghẹ hấp me, cháo nghêu, cháo lươn…Các món ăn
đặc sản này du khách đều có thể thưởng thức ngay tại các nhà hàng
và dân dã hơn nữa là ngay tại bãi biển. Lý thú nhất là món ăn mực nhảy
(một loại mực ống, nhỏ như ngón tay, khi vớt lên bờ vì còn tươi nên trên
lưng có những đốm nháy sáng màu tím), chưa có bãi biển du lịch nào có
món ăn này thoảng sẽ có một chiếc thúng vào và bạn có thể đến xem mua
những giã mực sim, hoặc tôm cá còn tươi rói, nhảy búng lách tách. Sau đó
đưa vào những hàng quán hiếu khách và hấp lên là đã có thể đánh chén
một bữa hải sản đáng nhớ.
Các hoạt động hấp dẫn khác của du lịch biển Cửa Lò
Hàng năm, cứ đến ngày 1
tháng 5, ngày Quốc tế Lao động cũng là ngày mở lễ hội Sông nước Cửa Lò
để khai trương mùa du lịch biển. Lễ hội có nhiều hoạt động văn hóa dân
gian đặc sắc như các trò chơi truyền thống, thi bơi thuyền rất sôi động
và tiết mục bắn pháo hoa. Mùa du lịch kết thúc vào cuối tháng 9.
Từ thị xã Cửa Lò,
du khách cũng có thể tham gia vào một trong các tour du lịch hấp dẫn
khác ở trong và ngoài thị xã như: Kim Liên (Nam Đàn), Quảng trường Hồ
Chí Minh (Thành phố Vinh), rừng nguyên sinh Pù Mát (Con Cuông), Lạc Xao
(Lào) và Thái Lan. Với những giá trị vốn có và cảnh đẹp do thiên nhiên
ban tặng, Cửa Lò có thể phát triển nhiều loại hình du
lịch với sắc thái ý nghĩa riêng. Du lịch sinh thái: Quý khách có thể đến
thăm Đảo Ngư, Đảo Mắt, khu du lịch sinh thái Cửa Hội, Hang Bua, nước khoáng Kim Sơn. Lộ trình du lịch này đã được xây dựng, quý khách có thể đến thăm các điểm du lịch đem lại cho du khách sự thoải mái khi hòa mình vào cảnh quan thiên nhiên Cửa Lò.
Nghệ An hướng tới trở thành trung tâm du lịch vùng Bắc Trung bộ
(28/10/2016 09:34 PM)
Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2015 - 2020
xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Để đạt được mục
tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với ngành du
lịch tỉnh nhà nói riêng là tập trung tạo sản phẩm du lịch thực sự nổi
bật, chất lượng tương xứng với tiềm năng.
Nghệ
An tỉnh quê hương Bác Hồ với Khu di tích Kim Liên - Di tích quốc gia
đặc biệt; có hệ thống bãi tắm biển đẹp mà nổi bật là Cửa Lò; thành phố
Vinh gắn với di tích Phượng Hoàng - Trung Đô, đền vua Quang Trung; dày
dặn hệ thống di tích lịch sử - văn hóa gắn với các lễ hội độc đáo; có
dân ca ví, giặm di sản văn hóa nhân loại; và miền Tây với các khu vực
rừng nguyên sinh, nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, đậm bản sắc văn
hóa các dân tộc thiểu số... được đánh giá là tỉnh có tài nguyên du lịch
tuyệt vời. Hơn nữa, Nghệ An còn là điểm trung chuyển du lịch trong cả
nước với du lịch nước ngoài, đặc biệt là các nước láng giềng Lào,Thái
Lan.
Du lịch sông Giăng vào Vườn Quốc gia Pù Mát - Ảnh S.M
Để
khai thác những tiềm năng, lợi thế về du lịch, thời gian qua Nghệ An đã
có nhiều nỗ lực trong phát triển du lịch, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng.
Đến nay, toàn tỉnh có gần 700 khách sạn và cơ sở lưu trú khác với trên
16.000 phòng, trong đó có 2 khách sạn 5 sao, 5 khách sạn 4 sao, 12 khách
sạn 3 sao…; có hơn 40 đơn vị kinh doanh lữ hành, trong đó có 14 trung
tâm lữ hành quốc tế. Các cơ sở ăn uống, dịch vụ mua sắm cũng phát triển
mạnh, đủ khả năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cho du
khách khi đến Nghệ An.
Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVIII nhiệm kỳ 2015 - 2020
đã xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Mục tiêu cụ
thể, phấn đấu đến năm 2020, lượng khách du lịch lưu trú đạt 5,0 - 5,5
triệu lượt, doanh thu du lịch tăng bình quân 17 -1 8%/năm, GDP du lịch
chiếm 4,5 - 5,0% trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, thu hút và tạo việc làm
cho trên 45.000 lao động…
Trước
những yêu cầu đặt ra ngày càng cao về phát triển du lịch, gắn khai thác
các giá trị riêng có, Nghệ An đã tham gia ký kết hợp tác với 14 tỉnh
Bắc - Nam Trung bộ; khai trương, giới thiệu thêm đường bay quốc tế,
đường bay Vinh - Khánh Hòa; vận động các doanh nghiệp tham gia liên hoan
ẩm thực quốc tế tại Thừa Thiên Huế, phối hợp Trung tâm Xúc tiến du lịch
Đà Nẵng quảng bá du lịch của 2 tỉnh, ký thỏa thuận hợp tác phát triển
du lịch 4 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình và tăng cường
hội thảo, xây dựng sản phẩm du lịch 4 tỉnh Bắc miền Trung...
Cùng
đó, tăng cường kết nối tuyến du lịch Nam Đàn - Vinh - Cửa Lò - Truông
Bồn (Đô Lương); phát triển mạnh du lịch cộng đồng ở miền Tây... Với
những nỗ lực đó, năm 2015 lượng khách lưu trú đạt 3,65 triệu lượt, doanh
thu dịch vụ du lịch đạt 2.680 tỷ đồng, tăng 21%.
Tuy
nhiên, xét về tổng thể, lĩnh vực du lịch của Nghệ An ngoài phát triển
chưa tương xứng tiềm năng, thì chất lượng tăng trưởng thiếu vững chắc.
Hạn chế dễ nhận thấy nhất của du lịch Nghệ An là sản phẩm du lịch chưa
có bước thay đổi mang tính đột phá.
PGS.TS
Trần Đình Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam từng nhận xét: Điều
đáng tiếc là Nghệ An chưa đưa được các điểm du lịch lên tầm đẳng cấp
làm sao để khách du lịch thấy được giá trị riêng, độc đáo, khác biệt mà
lần đầu tiên họ được thưởng thức, hưởng thụ. Như phải xây dựng Kim Liên
quê hương Bác Hồ thành một vùng đất linh thiêng, nơi hội tụ khí thiêng,
điềm lành và sự may mắn, nơi mà tinh thần Hồ Chí Minh, văn hóa Hồ Chí
Minh kết lại để lôi cuốn, để hội tụ nhân loại - như Bác Hồ trước đây đã
từng kéo cả thế giới đến với Việt Nam, làm cho cả thế giới yêu Việt Nam…
Rồi nổi tiếng như bãi biển Cửa Lò, cơ bản cũng chỉ dừng lại ở du lịch
tắm biển, ăn hải sản, đơn điệu và ngắn hạn.
Trước
mắt, tỉnh sẽ tập trung triển khai xây dựng quy hoạch, chiến lược tổng
thể phát triển du lịch Nghệ An đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; quy
hoạch quần thể Khu Di tích lịch sử văn hóa Kim Liên - Nam Đàn thành Khu
du lịch Quốc gia để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; từng bước xây
dựng và triển khai quy hoạch các khu du lịch Đảo Ngư, hồ Vực Mấu, hồ Vệ
Vừng, hồ Tràng Đen, hồ Xuân Dương, hồ Bản Mồng... trong đó chú trọng
công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư.
Ông
Nguyễn Mạnh Cường - Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL cho biết: “Để thực
hiện và cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết, mục tiêu của Du lịch Nghệ An
giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh sẽ đẩy mạnh công tác quảng bá, xúc tiến du
lịch theo chiều sâu, nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả, tăng cường
liên kết hợp tác với các tỉnh, thành để phát triển thương hiệu du lịch
và xây dựng điểm đến du lịch Nghệ An bền vững nhằm giữ vững và phát
triển thị trường khách truyền thống, mở rộng các thị trường trọng điểm,
gia tăng lượng khách quốc tế đến Nghệ An, hướng tới trở thành trung tâm
du lịch vùng Bắc Trung bộ”.
Mai Anh Nguồn: Báo Nghệ An (28/10/2016)
Chủ đề: Ðánh thức tiềm năng du lịch Con Cuông, Nghệ An (Đã xem 3632 lần)
Huyện
Con Cuông (Nghệ An) có Vườn Quốc gia Pù Mát, một tiềm năng lớn về du
lịch sinh thái - văn hóa; có sông Lam với hơn 30 km chảy qua huyện.
Những tiềm năng du lịch của Con Cuông đang rất cần vốn đầu tư và nguồn
nhân lực để khai thác.
Nằm về phía tây-nam của tỉnh Nghệ An, giáp
nước bạn Lào, huyện Con Cuông có diện tích tự nhiên hơn 174.451 ha với
dân số hơn 68.000 người, thuộc bảy dân tộc.
Từ những năm đầu thập
kỷ 70 của thế kỷ trước, các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật hang
Thẳm Ồm (Hang Ốc), để từ đó có kết luận hơn một vạn năm trước, người
nguyên thủy đã sống ở đây. Con Cuông là mảnh đất trù phú, thị trấn Con
Cuông có mặt bằng rộng và đẹp nhất trong các huyện của tỉnh Nghệ An. Thị
trấn có sông Lam chảy qua, có quốc lộ 7A, có núi và rừng nằm trong vùng
đệm vườn quốc gia Pù Mát. Ðây là điểm dừng chân của du khách trong
tuyến Vinh - Kỳ Sơn hay tuyến Hà Nội đi Cửa Khẩu Nậm Cắn.
Trong
tổng diện tích của toàn huyện đã có 128.000 ha rừng nằm trong vườn quốc
gia Pù Mát và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống. Ðây là thảm động thực
vật lớn nhất châu Á, với hơn 1.200 loài thực vật quý hiếm, hàng trăm
loài động vật rừng, trong đó các con vật như: sao la, hổ vằn, voi, mang
lớn Trường Sơn, sói đuôi đỏ... là những động vật quý nằm trong sách đỏ
thế giới, hàng trăm loài cá, loài dơi, loài bướm đẹp. Trong rừng nguyên
sinh còn có nhiều thác nước đẹp như thác Kèm, suối nước Mọc và nhiều
hang động kỳ thú: hang Thẳm Ồm, Thẳm nàng Màn, hang ông Trạng, bia Ma
Nhai, động Ðào Nguyên, nơi có thành cổ Trà Lân lịch sử... cuốn hút du
khách.
Hệ thống sông suối Con Cuông với hơn 20.000 ha
diện tích mặt nước, tạo nguồn thủy sản phong phú trong đó nổi tiếng là
cá mát sông Giăng, cá Lăng sông Cả, cá Lệch Con Cuông là đặc sản ngon có
tiếng vùng Ðông Dương. Từ vị trí địa lý và sơn thủy hữu tình nói trên
đã tạo cho Con Cuông một thế mạnh du lịch sinh thái và nguồn tài nguyên
lớn, phong phú. Về trữ lượng gỗ, rừng Con Cuông có lượng lớn với hàng
trăm triệu mét khối, nhiều loại gỗ quý như: lim, dổi, trắc, sến, táu,
đinh hương, pơ-mu... Hệ thống sông, suối như sông Lam, sông Giăng, khe
Choang, khe Thơi... nguồn xây dựng nhà máy thủy điện cho đất nước nay
mai.
Trong lòng đất Con Cuông có vàng sa khoáng, có mỏ
quặng chì, than ở Ðôn Phục, Chi Khê. Sườn đông dãy Trường Sơn với những
dãy núi đá hàng tỷ tỷ mét khối, một nguồn nguyên liệu phong phú để sản
xuất xi-măng và vật liệu xây dựng. Con Cuông có bảy dân tộc anh em chung
sống hòa thuận.
Sự quần tụ các dân tộc anh em, tạo nên
bức tranh văn hóa đặc trưng, mang đậm bản sắc truyền thống của các dân
tộc bản địa như Thái, Ðan Lai, Khơ Mú... và nét văn hóa rượu cần đặc sắc
"chưa say là chưa vui" với điệu múa lăm vông nhẹ nhàng uyển chuyển của
các cô thôn nữ vùng cao. Tất cả những vốn quý trên đang dần trở thành
hiện thực, nguồn tài nguyên vô giá, điều kiện quan trọng, để xây dựng
Con Cuông thành trung tâm kinh tế - văn hóa của miền tây nam xứ Nghệ.
Tiềm
năng nêu trên là thế mạnh để du lịch Con Cuông có thể xây dựng nên
nhiều loại hình du lịch sinh thái-văn hóa như: tua du lịch khu vườn bộ -
Trung Chính - Thác Kèm; tour thị trấn Con Cuông - Pha Lài; tour du
lịch mạo hiểm Khe Choang - đỉnh Pù Mát; thăm tộc người Ðan Lai, thăm
làng nghề dệt thổ cẩm Yên Thành... Gần đây trong bản đồ quy hoạch, tỉnh
đã có thông báo xây dựng Con Cuông thành thị xã du lịch, kèm theo công
bố quy hoạch khu du lịch Thác Kèm; Pha Lài và đang kêu gọi các nhà đầu
tư trong nước và ngoài nước đến đầu tư xây dựng.
Khi
đánh giá về thành tích trong hơn 20 năm đổi mới, Con Cuông được công
nhận có thành tựu nổi bật là giữ được rừng xanh tốt, độ che phủ rừng đạt
76,5%. Với hơn 3.000 ha đất bằng sản xuất nông nghiệp, Con Cuông đã đưa
giống mới và đầu tư chăm bón tốt, để tự cân đối lương thực tại địa bàn,
tỷ lệ hộ đói, nghèo hằng năm nay giảm mạnh.
Nhưng để mở
ra hướng khai thác tiềm năng du lịch sinh thái từ yếu tố nội lực của
một huyện nghèo, một năm nguồn thu ngân sách trên dưới năm tỷ đồng thì
quả là một khó khăn to lớn.
Du lịch sinh thái vườn quốc
gia Pù Mát; du lịch Thác Kèm và nhiều danh lam, thắng cảnh cùng du lịch
văn hóa truyền thống... tạo nguồn thu bền vững đang rất cần vốn, công
nghệ và cả nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp. Con
Cuông với tiềm năng dồi dào, nhưng muốn đánh thức tiềm năng đó rất cần
sự đầu tư của Nhà nước, khi mà mục tiêu thoát nghèo vào năm 2010 đã cận
kề.
Đến với Vườn quốc gia Pù Mát
Nằm
ở sườn phía Đông của dãy Trường Sơn và trải dài trên ba huyện Con
Cuông, Anh Sơn và Tương Dương của tỉnh Nghệ An, Vườn quốc gia Pù Mát
được thành lập vào năm 2002, có diện tích tự nhiên 194.000 ha, trong đó
vùng bảo tồn 94.000 ha và vùng đệm 100.000 ha. Riêng đỉnh Pù Mát cao
1.841m được xem như chủ sơn cả vùng.
Vườn quốc gia Pù Mát là một
kho tàng về các nguồn gien hoang dã, quý hiếm, là một trong số ít khu
bảo tồn đa dạng sinh học lớn nhất nước ta. Vườn quốc gia này có thảm
thực vật phong phú với 2.494 loài thực vật, thuộc 931 chi, 202 họ, trong
đó có 37 loài trong sách đỏ Việt Nam và 20 loài trong sách đỏ quốc tế.
Các loài thực vật quý hiếm ở đây gồm có pơ-mu, sa-mu và sao Hải Nam.
Trong rừng có đến 220 loài cây dược liệu như hà thủ ô, thổ phục linh,
quế, ba kích, hoài sơn... Các loài cây lấy gỗ như trầm hương, mun, chò,
sao ... và gần 100 loài rau và cây ăn quả.
Hệ động vật cũng rất
phong phú và đa dạng. Bước đầu thống kê được 241 loài thú, thuộc 86 họ,
28 bộ, trong đó có 24 loài thú, 25 loài bò sát, 137 loài chim, 15 loài
lưỡng thê. Có nhiều loài thú quý hiếm như voi, hổ, báo gấm, sơn dương,
voọc, vượn đen, gấu chó... Các loài chim quý như trĩ sao, gà lôi, cao
cát, gà tiêu...
Tại Vườn quốc gia Pù Mát, bạn có dịp thưởng ngoạn
nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Thú vị nhất là dùng thuyền máy
xuôi ngược trên dòng sông Giăng trong xanh để ngắm nhìn phong cảnh thiên
nhiên hữu tình đôi bờ với những rặng núi đá cao vút, những rừng cây cổ
thụ nghiêng mình soi bóng nước. Thỉnh thoảng, du khách còn bắt gặp những
đàn khỉ tinh nghịch, nhảy nhót từ cành cây này sang cành cây khác như
làm xiếc.
Dọc theo bờ nước có những con kỳ nhông, tắc kè nhiều
màu sắc sặc sỡ rượt đuổi nhau. Vào ban mai hay lúc chiều tà, ở đây có
đến hàng trăm loài chim cùng hòa tấu, tạo nên bản nhạc rừng thật vui
tai. Cái thú nhất là xuôi bè trên sông Giăng câu cá, những chú cá còn
tươi rói đem nướng trên lò than hồng. Ăn cá suối nướng nhấm với rượu cần
rồi nằm giữa rừng ngắm trời đất, núi sông.
Tại Vườn quốc gia Pù
Mát, bạn sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của muôn vàn cỏ cây, hoa lá. Từ
những cây cổ thụ có tuổi thọ hàng ngàn năm cho đến những loại cây cỏ,
rêu, địa y và các loại dây leo chằng chịt. Do địa hình đa dạng và phức
tạp, Vườn quốc gia Pù Mát có nhiều cảnh đẹp thật hấp dẫn, là nơi quần tụ
nhiều loài thú quý hiếm và muôn vàn cây cối khác nhau. Có những cây mọc
tận trên đỉnh đá vôi cao chót vót như cây Tuế, có những loài mọc từ
vách đá cheo leo, buông những chùm rễ rậm rạp và lạ mắt, lại có những
loại cây sống nhờ thân cây khác hay quấn chặt lấy cành cây. Những điều
đó gợi cho du khách thú ham thích tìm hiểu những điều kỳ diệu còn ẩn
chứa trong thiên nhiên.
Nếu có ý định tham quan vườn quốc gia
này, du khách nên đi vào ban mai là tốt nhất và nên đi từng nhóm nhỏ để
không gian được yên tĩnh. Hãy cảm nhận rừng bằng đôi tai nhạy cảm và
bằng toàn bộ cơ thể mình. Không chỉ được chiêm ngưỡng những cảnh đẹp
hùng vĩ đầy thơ mộng mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho nơi đây, du
khách còn có dịp tìm hiểu những địa danh liên quan đến sự hình thành và
phát triển của loài người từ thời xa xưa, sự phát triển lịch sử đất
nước, khám phá nét sinh hoạt độc đáo của các dân tộc anh em sống trong
vùng đệm của Vườn quốc gia Pù Mát.
Đã đặt chân đến Pù Mát, chớ bỏ
qua các thắng cảnh nổi tiếng như thác Khe Kèm, hang Ốc, bãi Mỏ Vịt,
hoặc tản bộ trong rừng săng lẻ, rừng cây lùn ... vừa kỳ thú vừa hoang
dã. Cũng chớ bỏ qua những dấu tích lịch sử như: bia Ma Nhai, nơi gần 700
năm trước quân nhà Trần đã lập nên chiến công hiển hách khắc ghi vào đá
ở nơi biên ải trong công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm; hoặc thành Trà
Lân, nơi ghi dấu ấn của cuộc kháng chiến chống quân Minh thế kỷ 15; hay
hang ông Trạng, nơi hơn 600 năm trước, trạng Bùng Phùng Khắc Khoan bị
lưu đày...
Và đến vườn quốc gia Pù Mát, du khách cũng nên thưởng
thức hương vị độc đáo “Cơm Kẻ Qua, cá sông Giăng” cùng với món gà rừng
nướng hay món cá chày nướng kho với măng đắng vừa lạ miệng, lại ngon
cơm.
Ngoài Vườn quốc gia Pù Mát, Nghệ An còn có các Vườn quốc gia
Pù Huống và Pù Hoạt. Nhưng riêng Pù Mát không thôi cũng đủ tiêu biểu
cho cả vùng rừng núi tây Nghệ An và hệ thống núi non Bắc Trường Sơn.
Tháng
11 năm 2007 Vườn quốc gia Pù Mát được tổ chức UNESCO công nhận là khu
dự trữ sinh quyển thế giới, đồng thời Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An cũng
đã phê duyệt quy hoạch chi tiết khu du lịch thác Khe Kèm. Đây là tiền đề
và là điều kiện để Vườn quốc gia Pù Mát phát triển du lịch sinh thái và
là địa điểm lý tưởng để du khách đến tham quan, nghiên cứu và giải trí.
Theo Báo Cần Thơ
Nghệ An có thêm 2 di tích được xếp hạng quốc gia
(Baonghean.vn) - Ngày 28/6,
Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Ngọc Thiện đã ký các Quyết định xếp hạng di
tích quốc gia đối với 07 di tích trên địa bàn các tỉnh: Phú Yên, Hà Nội,
Nghệ An. Dịp này Nghệ An có 2 di tích được xếp hạng.
Hai di tích của Nghệ An được xếp hạng trong dịp này gồm Di tích lịch
sử Đền Mai Bảng, phường Nghi Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An (tại
Quyết định số 2279/QĐ-BVHTTDL) và Di tích lịch sử Đền Diên Cờ, xã Nghi
Trường, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An (tại Quyết định số
2280/QĐ-BVHTTDL).
Di tích đền Mai Bảng.
Di tích đền Diên Cờ - Nghi Trường - Nghi Lộc.
5 di tích còn lại của các huyện Phú Yên và Hà Nội, gồm:
1. Di tích kiến trúc nghệ thuật Lẫm Phú Lâm, phường Phú Lâm, thành phố
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (tại Quyết định số 2274/QĐ-BVHTTDL).
2. Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Tràng, xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội (tại Quyết định số 2275/QĐ-BVHTTDL).
3. Di tích Phủ thờ Nguyễn Ngọc Trì, xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội (tại Quyết định số 2276/QĐ-BVHTTDL).
4. Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Đoàn Xá, gồm Đình Thượng và Đình
Hạ, xã Đồng Tiến, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội (tại Quyết định số
2277/QĐ-BVHTTDL).
5. Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Thấp, xã Hạ Bằng, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội (tại Quyết định số 2278/QĐ-BVHTTDL).
Theo các Quyết định, khu vực bảo vệ di tích được xác định theo biên bản
và bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ. Đồng thời,
UBND các cấp nơi có di tích được xếp hạng, trong phạm vi nhiệm vụ quyền
hạn của mình, thực hiện nghiêm việc quản lý nhà nước đối với di tích
theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
Trong tiếng Nghệ “Truông” là danh từ để chỉ một đoạn đèo dốc chạy giữa hai vách núi hiểm trở. Truông Bồn là một đoạn đèo dốc như thế có chiều dài 5km, độ cao gần 70m trên dãy núi Thung Nưa có đỉnh cao nhất là 450m so với mực nước biển, nằm trên tuyến đường chiến lược 15A hay còn gọi là đường 30- đi qua địa phận xã Mỹ Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Trên tuyến đường chiến lược này – Cung đường độc đạo Truông Bồn có vị
trí chiến lược đặc biệt quan trọng, bởi là nơi kết nối các huyết mạch
giao thông của ta từ hậu phương lớn miền Bắc chi viện sức người, sức của
cho chiến trường miền Nam. Nơi đây, chứng tích hào hùng, bất hủ ghi dấu
những chiến công và sự hy sinh oanh liệt của quân và dân ta trong cuộc
đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ta trong thế kỷ 20. Tiêu biểu là
những chiến công và sự hy sinh oanh liệt ngày 31 tháng 10 năm 1968 của
13 chiến sĩ thanh niên xung phong “Tiểu đội cảm tử” - “Tiểu đội thép” –
“Tiểu đội cọc tiêu sống” Anh hùng thuộc Đại đội Thanh niên xung phong
317, Đội 65, Tổng đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu, nước tỉnh Nghệ
An.
Bởi vị trí địa lý quan trọng nối với địa bàn miền Tây Nghệ An, có địa
hình hiểm trở, với nhiều dãy núi liên kết với nhau nằm dọc hai bên đường
như Núi Voi, núi Mồng Gà, núi Cột Cờ...nên con đường qua Truông luôn
giữ được vẻ kín đáo, an toàn, là nơi có địa thế chiến lược để trú chân,
ẩn náu. Vì thế, từ khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn thế kỷ XV,
Hoàng đế Quang Trung tiến quân ra Bắc năm 1788 đến Phan Đình Phùng, Trần
Tấn, Đặng Như Mai...phất cờ khởi nghĩa Cần Vương cuối thế kỷ XIX đã
từng đi qua hoặc chọn vùng đất này làm căn cứ xây dựng lực lượng. Trong
phong trào cách mạng 1930-1931, Truông Bồn cũng là chỗ dựa vững chắc cho
các hoạt động cách mạng. Tiếp nối truyền thống cha ông, trong những năm
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Truông Bồn càng phát huy mạnh mẽ vai trò
lịch sử và trở thành một địa danh Huyền thoại trong lịch sử chống ngoại
xâm của dân tộc ta thời hiện đại.
Và
với điều kiện địa lý, Nghệ An là “Hậu phương trực tiếp của tiền tuyến,
là cửa ngõ vào Quân Khu IV, là địa bàn triển khai lực lượng khi bước vào
chiến đấu”. Nằm trên vùng tuyến lửa Khu IV, tuyến đường chiến lược 15A,
có chiều dài gần 200km, tiếp nối từ quốc lộ 1A - giáp với tỉnh Thanh
Hóa, đi qua địa bàn các huyện: Quỳnh Lưu, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Đô Lương về
đến huyện Nam Đàn: Một ngả rẽ về bến phà Linh Cảm, tỉnh Hà Tĩnh; một
ngả đi về thành phố Vinh, qua phà Bến Thủy vào Ngã ba Đồng Lộc, tỉnh Hà
Tĩnh. Đây là huyết mạch giao thông quan trọng để vận chuyển nhân tài,
vật lực chi viện cho chiến trường miền Nam khi máy bay Mỹ ném bom đánh
phá, phong tỏa tuyến đường sắt, đường sông, đường biển và quốc lộ 1A đi
qua địa bàn Nghệ An. Trên tuyến đường chiến lược này, Truông Bồn là điểm
nút giao thông đặc biệt quan trọng.
Với tầm nhìn chiến lược, Trung ương Đảng, Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo
xây dựng tuyến đường chiến lược 15A và tranh thủ mọi lực lượng, thời
gian, vận dụng mọi khả năng vận tải đi qua Truông Bồn để chi viện kịp
thời cho chiến trường miền Nam.
Hòng hủy diệt Truông Bồn, cắt đứt mạch máu giao thông của ta, đế quốc
Mỹ đã điên cuồng đánh phá. Từ năm 1964 - 1968 chúng đã trút xuống mảnh
đất anh hùng này 18.936 quả bom các loại và hàng chục ngàn quả tên lửa,
tàn phá 211 thôn, làng dọc tuyến đường, sát hại nhiều người dân xã Mỹ
Sơn, xã Nhân Sơn, huyện Đô Lương; phá hủy hàng trăm xe ô tô và hàng trăm
khẩu pháo của bộ đội ta; hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ bộ đội, thanh niên
xung phong, công nhân ngành giao thông, dân quân tự vệ bị thương; 1.240
cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm chiến đấu và anh dũng hy sinh.
Ngược thời gian trở về những năm tháng chiến tranh khốc liệt ngày ấy:
Đầu năm 1964, sau khi bị thất bại trên các chiến trường miền Nam,
nhất là thất bại sau “Chiến lược chiến tranh đặc biệt”. Để cứu vãn
tình thế, đế quốc Mỹ đã mở rộng “Chiến lược chiến tranh cục bộ” ở
miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc. Mục tiêu chiến lược của
chúng là nhằm cắt đứt sự chi viện của ta từ hậu phương miền Bắc đối
với chiến trường miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc, đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá.
Đầu năm 1967, nhất là năm 1968 sau khi bị thất bại nặng nề liên tiếp
trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ cay cú, điên cuồng ném bom đánh
phá miền Bắc. Chúng gọi là chiến dịch “Sấm rền”. Sau khi đánh phong tỏa
các tuyến đường sắt, đường sông, đường biển và quốc lộ 1A đi qua địa bàn
Nghệ An, chúng đã huy động một lực lượng không quân khổng lồ, với hơn
5.000 lượt máy bay xuất kích từ căn cứ quân sự Utapao (Thái Lan) và đảo
Guam (Philipin) ồ ạt trút bom đạn xuống tuyến đường chiến lược 15A.
Trọng điểm là chúng tập trung đánh phá Truông Bồn. Bởi vậy, trong thời
điểm này có ngày cao điểm máy bay Mỹ đánh phá lên tới 131 lần, Truông
Bồn suốt ngày đêm không ngớt tiếng bom đạn.
Nhưng, bom đạn giặc Mỹ không thể khuất phục được ý chí và quyết tâm sắt
đá của quân và dân ta: “Sống bám cầu, bám đường - chết kiên cường dũng
cảm”, “Tim có thể ngừng đập - nhưng đường không thể tắc”; “Tất cả cho
tiền tuyến - Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” là động lực mạnh mẽ
thôi thúc các lực lượng của quân và dân ta làm nên chiến thắng Truông
Bồn, làm nên một Truông Bồn Huyền thoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước vĩ đại của dân tộc ta. Tiêu biểu là những chiến công và sự hy
sinh oanh liệt ngày 31 tháng 10 năm 1968 của 13 chiến sĩ thanh niên xung
phong “Tiểu đội thép”, “Tiểu đội cảm tử”, “Tiểu đội cọc tiêu sống” Anh
hùng thuộc Đại đội Thanh niên xung phong 317, Đội 65, Tổng đội Thanh
niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An.
Trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt ấy, nhiều đồng chí lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước và các Bộ, ngành Trung ương cùng với lãnh đạo tỉnh
Nghệ An đã về thăm, động viên các lực lượng của quân và dân ta. Đặc
biệt, trong năm 1968, thời điểm địch đánh phá Truông Bồn ác liệt nhất,
nhưng đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng
chí Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên – Tư lệnh Đoàn 559, đồng chí Bộ trưởng
Bộ Giao thông Vận tải Phan Trọng Tuệ và các đồng chí lãnh đạo của Tỉnh
ủy, Uỷ ban Hành chính tỉnh Nghệ An đã về thăm, động viên cán bộ, chiến
sĩ quyết giữ vững mạch máu giao thông Truông Bồn. Có thể nói, chiến
thắng Truông Bồn là đỉnh cao của cuộc chiến tranh nhân dân, là nơi thể
hiện sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng tham gia chiến đấu và phục vụ
chiến đấu, bao gồm:
Binh trạm 1 đơn vị vận tải, Tiểu đoàn công binh D30 Quân khu 4; Đại đội
công binh 27; Tiểu đoàn 76 tên lửa thuộc Trung đoàn tên lửa 278; Tiểu
đoàn 72 tên lửa thuộc Trung đoàn 236; Trung đoàn phòng không 222 Nguyễn
Viết Xuân; Tiểu đoàn pháo 37 ly, pháo 12 ly 7 của bộ đội và dân quân tự
vệ; Trung đoàn 224 và Trung đoàn 232 pháo cao xạ và hơn 1.500 cán bộ,
chiến sĩ của 9 Đại đội Thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước, tỉnh
Nghệ An; cán bộ, chiến sĩ hạt giao thông 10; lực lượng tự vệ bưu điện và
dân quân tự vệ huyện Đô Lương.
Các lực lượng của quân và dân ta đã bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, rà phá
hàng ngàn quả bom nổ chậm các loại, đóng góp trên 2 triệu ngày công, đào
đắp hàng triệu m2 đất đá, đưa 94 ngàn lượt xe quân sự vượt qua “Truông”
an toàn; vận chuyển và giải tỏa hàng triệu tấn hàng, cung cấp hàng chục
triệu cây phi lao, cọc tre và các loại gỗ chống lầy - làm cầu cho xe
qua; huy động 4.500 xe đạp thồ, 4.500 xe ba gác, 4.500 xe đầu bò, 900 xe
cút kít giải phóng hàng vượt qua “Truông” khi bị địch đánh phá phong
tỏa.
Ghi
nhận địa danh Truông Bồn, ghi nhận sự cống hiến và hy sinh oanh liệt
của các chiến sĩ Truông Bồn, tiêu biểu là sự cống hiến và hy sinh oanh
liệt ngày 31 tháng 10 năm 1968 của 13 chiến sĩ Thanh niên xung phong
“Tiểu đội thép”, ngày 12 tháng 01 năm 1996, Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông
tin có Quyết định số 51/QĐ-BT công nhận di tích lịch sử Quốc gia Truông
Bồn. Ngày 23 tháng 9 năm 2008, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam có Quyết định số 1304/QĐ-CTN Phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực
lượng vũ trang nhân dân cho Tập thể 14 chiến sĩ Thanh niên xung phong
Truông Bồn thuộc Đại đội 317, Đội 65, Tổng đội Thanh niên xung phong
chống Mỹ cứu nước, tỉnh Nghệ An – Trong đó, 11 chiến sĩ nữ và 02 chiến
sĩ Nam đã anh dũng hy sinh.
Với
ý nghĩa to lớn đó và được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nhằm xây
dựng Truông Bồn trở thành “Địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống cách mạng
cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, ngày 19 tháng 4 năm 2010 UBND tỉnh
Nghệ An có Quyết định số 1591/QĐ.UBND-CNXD phê duyệt Dự án đầu tư xây
dựng công trình: Bảo tồn, tôn tạo Khu di tích lịch sử Truông Bồn.
Cùng với tỉnh Nghệ An, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Bộ Giao thông
Vận tải và nhiều cơ quan, đơn vị, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước
đã đầu tư, quyên góp, ủng hộ xây dựng, tôn tạo Khu di tích trên diện
tích 217.327m2 với tổng mức đầu tư 365 tỷ đồng. Sở Giao thông Vận tải
Nghệ An là đơn vị được Uỷ ban nhân dân tỉnh Nghệ An giao làm chủ đầu tư.
Công trình được khởi công vào ngày 27 tháng 10 năm 2012.
Trong quá trình Sở Giao thông Vận tải Nghệ An triển khai thực hiện Dự án
là một thử thách rất lớn, bởi bên cạnh trách nhiệm trước tỉnh, là “áp
lực” của sự kỳ vọng của đông đảo nhân dân mong muốn cho Truông Bồn sớm
được hoàn thành, trong khi bước đầu còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là
về nguồn lực. Nhưng được sự quan tâm của Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân tỉnh
Nghệ An, của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, của Bộ Giao thông Vận tải
và của nhiều cơ quan, đơn vị, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước –
cùng với sự nỗ lực rất lớn của Sở Giao thông Vận tải Nghệ An, đến tháng 4
tháng 2014 một số hạng mục chính của công trình đã hoàn thành. Từ thực
tế đó và xét đề nghị của các Sở, ngành, đơn vị liên quan, ngày 16 tháng 4
năm 2014, Uỷ Ban nhân dân tỉnh Nghệ An có Quyết định số 1520/QĐ-UBND
thành lập Ban Quản lý Khu di tích lịch sử Truông Bồn nhằm sớm đáp ứng
được lòng mong muốn của nhân dân về thăm viếng, tri ân các anh hùng liệt
sĩ.
Tháng 7 năm 2015, công trình được hoàn thành. Ngày 7 tháng 8 năm 2015,
Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An phối hợp với Đài Truyền hình Việt Nam tổ
chức lễ khánh thành trong niềm vui của nhân dân khắp mọi miền của Tổ
quốc và của hàng vạn đại biểu và nhân dân về dự lễ khánh thành.
Khu di tích lịch sử Truông Bồn được xây dựng, bảo tồn, tôn tạo, gồm 21 hạng mục chính, như sau:
* Các hạng mục trong khu tưởng niệm và khu lễ hội:
Khu
mộ và nhà che mộ 13 anh hùng liệt sĩ thanh niên xung phong 110m2; nhà
tưởng niệm 1.240 anh hùng, liệt sĩ 290m2; nhà hữu vu 25m2; nhà tả vu
25m2; sân, đường nhà che mộ và nhà tưởng niệm 2.121m2; khu đài tưởng
niệm các liệt sĩ 5.500m2; sân lễ hội 11.277m2.
* Khu trưng bày truyền thống và hồ cảnh quan:
Nhà
trưng bày truyền thống 942m2; sân khu vực nhà truyền thống 6.428m2; hồ
cảnh quan 10.588m2; cầu dẫn trên hồ cảnh quan dài 72m2 – rộng 3,58m.
* Các hạng mục khu đón tiếp khách về thăm viếng:
Nhà điều hành và đón tiếp phía Nam 256m2; nhà bán hàng lưu niệm phía Nam
198m2; nhà dịch vụ tổng hợp phía Nam 237m2; sân khu vực nhà đón tiếp
phía Nam 3.955m2; bãi đậu xe phía Nam 5.300m2; nhà dịch vụ tổng hợp phía
Bắc 237m2; bãi đậu xe phía Bắc 4.996m2.
* Các hạng mục giao thông và công trình khác:
Đường nội bộ từ khu lễ hội đến khu tưởng niệm dài 690m - rộng 5m; hệ
thống đường dạo bộ dài 1.800m - rộng 03m; hệ thống điện chiếu sáng; hệ
thống cây xanh, cây cảnh các loại...
Chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống đã được hồi sinh ngay trên “Tọa độ
chết” năm xưa. Khu di tích lịch sử Quốc gia Truông Bồn hôm nay, biểu
tượng lịch sử của Thanh niên xung phong Việt Nam, nơi hội tụ linh hồn
của 1.240 cán bộ, chiến sĩ đã dũng cảm chiến đấu và anh dũng hy sinh để
bảo vệ huyết mạch giao thông Truông Bồn. Trong đó, ngôi mộ tập thể 13
chiến sĩ thanh niên xung phong “Tiểu đội thép”, “Tiểu đội cảm tử”, “Tiểu
đội cọc tiêu sống” Anh hùng hy sinh tại nơi đây ngày 31 tháng 10 năm
1968, chứng tích hào hùng ghi dấu những chiến công và sự hy sinh oanh
liệt của 13 chiến sĩ thanh niên xung trong lúc đang làm nhiệm vụ nối
liền mạch máu giao thông.
Ở
nơi này, Truông Bồn hôm nay và mai sau, mãi vang vọng những lời ru của
đất mẹ như là lời ru của cả dân tộc để linh hồn các chị, các anh được
yên giấc ngàn thu. Nơi đây ngày ngày luôn ngát thơm hương hoa của các
Đoàn đại biểu và du khách trong và ngoài nước về thăm viếng, tri ân các
chị, các anh, những người anh hùng đã “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”!
Di tích Đền Cờn gồm có hai đền: Đền Cờn Trong và Đền Cờn Ngoài.
Đền Cờn Trong nằm trên gò Diệc, hướng mặt ra dòng Mai Giang thơ mộng, thờ Tứ vị Thánh nương Nam Hải Đại càn quốc gia. Theo thần phả tại đền và một số tài liệu lịch sử như: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam nhất thống chí, Tứ vị Thánh nương Nam Hải Đại càn quốc gia
là bà Thái hậu Dương Nguyệt Quả, 2 công chúa Triệu Nguyệt Khiêu, Triệu
Nguyệt Hương (con vua Tống Độ Tông) và bà nhũ mẫu (Trung Quốc). Năm
Thiệu Bảo thứ nhất (1279), do quân Tống thất bại trong trận chiến Tống -
Nguyên, Vua Tống Đế Bính cùng quan quân nhảy xuống biển tự vẫn. Thái
hậu và 2 công chúa vì thương tiếc nhà Vua cũng nhảy xuống biển tự vẫn
theo, thân xác trôi dạt đến cửa Cờn (Nghệ An). Người dân nơi đây đã vớt
lên chôn cất và thờ tại Đền Cờn.
Theo sách địa lý - phong thổ, ngôi Đền nàycó
thế đứng giống đầu chim phượng hoàng với hai cánh phượng là hai đồi cát
nhô cao giăng dài nằm ngay phía sau đền, hai mắt phượng là giếng Đò,
giếng Đình nằm trên hai ngọn đồi này.
Đền Cờn Trong được xây dựng vào thời Trần,
phát triển quy mô lớn ở thời Lê, trùng tu nhiều ở thời Nguyễn, bởi vậy,
di tích mang đậm phong cách văn hóa cuối Lê đầu Nguyễn. Trải qua thời
gian, ngôi Đền hiện chỉ còn tòa Nghi môn, Chính điện, Trung điện, Hạ
điện và tòa ca vũ.
Qua cổng Đền vào sân,
bước lên 10 bậc đá sẽ tới tòa Nghi môn. Đây là một tòa nhà hình chữ
công bề thế, gồm có hai tầng, 8 mái, liền tiếp sau nó là Chính điện, Trung điện và Hạ điện.
Toà ca vũ với ba gian chính và hai gian phụ cũng to rộng, bề thế, có đề tài trang trí đa dạng.
Quy mô Đền Cờn Trong tuy không lớn, nhưng hội tụ nhiều nét văn hoá đặc sắc, từ vật liệu xây dựng Đền chođến các
đường nét chạm khắc, tạo hình… Tất cả cho thấy trình độ tay nghề điêu
luyện của người xưa. Tại đây còn lưu giữ 142 hiện vật quý giá.Ngoài
các loại bằng sắc, câu đối, đại tự, đồ tế khí: kiệu, tàn lọng, đồ ngà,
đồng..., còn có bia đá 2 mặt cao 1,6m, rộng 1,2m dựng năm 1665, chuông
đồng đúc năm Cảnh Hưng (1752) nặng 300 kg, 28 pho tượng đá và nhiều tượng gỗ thời Lê.
Đền Cờn Ngoài nằm
cách Đền Cờn Trong khoảng 1km, tọa lạc trên dãy núi Hùng Vương, sát cửa
biển Lạch Cờn. Đền gồm 3 tòa bố cục theo kiểu chữ Tam, thờ vua quan nhà
Tống (Trung Quốc): Tống Đế Bính, Trương Thế Kiệt và Lục Tú Phu. Các vị
thần này trước được phối thờ ở Đền Cờn trong, song do quan niệm nho giáo
nam nữ bất đồng cung nên đến thời Lê được xây dựng đền thờ riêng.
Đền Cờn xưa nay nổi
tiếng linh ứng. Năm Hưng Long thứ 19 (1311), Vua Trần Anh Tông thân
chinh đi đánh quân Chiêm Thành, khi đến cửa Cờn, nhà Vua cùng quân lính
dừng lại nghỉ ngơi. Ban đêm nhà Vua mộng thấy nữ thần hiện lên và xin
giúp nhà vua lập công đánh giặc. Sáng hôm sau, nhà Vua cho vời các bô
lão trong vùng đến hỏi mới rõ sự tích. Nhà Vua liền vào đền kính tế. Khi
ra quân, Vua kéo quân đến thẳng thành Chà Bàn đánh thắng lớn. Khi trở
về kinh đô, nhà Vua làm lễ và phong sắc “Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị Thánh Nương”, ban vàng bạc và cho xây dựng mở rộng Đền.
Năm Hồng Đức thứ nhất
(1470), Vua Lê Thánh Tông trên đường mang quân đánh dẹp phương nam cũng
dừng chân tại cửa Cờn và vào Đền làm lễ cầu đào. Do Tứ vị Thánh Nương
hiển linh phù trợ, nhà Vua đã đánh thắng giặc. Sau khi trở về, Vua ban
cấp tiền bạc xây dựng đền và phong sắc “Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ vị
Thánh hương thượng thượng đẳng thần Ngọc bệ hạ”, ghi nhận công đức Thánh
Mẫu giúp nước, giúp dân. Sang thế kỷ 18, vua Quang Trung đã ban sắc
phong với mỹ tự “Hàm hoằng quảng đại” (tức là công lao rộng khắp, to lớn) và “Hàm chương tiết liệt”(nghĩa là nêu gương tiết liệt cho muôn đời).
Từ đó về sau, người dân vùng biển mỗi khi ra khơi, nếu thành tâm vào Đền cầu khấn thì đều được bình an.
Đền Cờn – công trình kiến trúc cổ với nhiều mảng chạm khắc quanh đề tài “Tứ linh, tứ quý”, đã
trở thành trung tâm tín ngưỡng văn hóa nổi tiếng không chỉ của người
dân vùng biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) mà còn là của người dân trên mọi miền
tổ quốc.
Lễ hội đền Cờn diễn
ra từ ngày 19 - 21/1 âm lịch hàng năm là dịp để người dân trong vùng
cũng như du khách thập phương đến Đền chiêm bái và tưởng nhớ công ơn của
Tứ vị Thánh Nương. Với các hoạt động như: chạy ói, diễn trận thủy chiến
giả gắn với truyền thuyết dựng đền, đu tiên, đấu vật, đánh cờ người,
đua thuyền rồng, hát tuồng, chèo, chầu văn..., chắc chắn sẽ đem lại
nhiều điều thú vị cho du khách.
Ngày 29/1/1993, Bộ
Văn hoá - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã có quyết
định số 68/QĐ-BVHTT công nhận Đền Cờn là di tích lịch sử - văn hoá cấp
quốc gia.
15 món ngon khó cưỡng ở Nghệ An
LĐOVăn Hào
Các món ăn của Nghệ An thường được làm từ những nguyên liệu dân dã,
chính vì vậy nó mang hương vị rất đặc trưng mà không đâu có thể y hệt,
nhắc tới mà thèm.
1.Cháo lươn Vinh
Cháo lươn
ở đây không xào thịt lươn đến săn khô như ngoài Hà Nội mà miếng lươn
được để nguyên, nấu chín sẽ mềm, thơm, ngọt, thấm đượm vị cay của hành,
tiêu, muối, ớt và vàng sánh của nghệ. Thường được rắc thêm chút hành tăm
trông rất ngon mắt và khi ăn sẽ rất ngon miệng.
2.Bánh đa đúc hến
Là một
món nhậu quen thuộc của người dân xứ Nghệ mỗi lần tụ tập. Hến dùng kèm
là hến được đãi sạch từ sông Lam, chọn những con to, béo rồi xào cùng
mỡ. Khi ăn người ta bẻ từng miếng bánh đã Đô Lương, biến nó thành chiếc
thìa và nhẩn nha xúc từng con hến cho vào miệng
3. Mực nháy nướng Cửa Lò
Cái tên
mực nháy nướng ở đây dùng để nói đến những con mực “nhảy” lên mặt biển,
sau đó được ngư dân đánh bắt lên bờ, lúc đó còn nguyên độ tươi sẽ được
đưa vào chế biến và thưởng thức ngay lập tức. Mực ở đây tươi ngon, khi
nướng chín sẽ vàng rụm và thơm mùi gia vị tẩm ướp.
4.Bánh bèo Vinh
Bánh bèo
Vinh được làm từ bột lọc, người ta phải nhào bột rất nhiều lần cho kỹ
mới có được một mẻ bánh ngon. Để bánh trông đẹp mắt người ta thường nặn
bánh cho giống cánh bèo. Nhân bánh là tôm non được xào với hành mỡ, đĩa
bánh thường được cho thêm hành khô và một ít rau mùi.
5. Bánh mướt
Thường bị
nhầm lẫn với bánh cuốn ngoài Bắc vì vẻ bề ngoài, thế nhưng bánh mướt
Nghệ An lại có một hương vị rất riêng. Nguyên liệu chính để làm bánh
mướt là gạo tẻ, đem xay nhuyễn thành bột, ngâm trước khi đem lên tráng.
Bánh có thể ăn kèm với thịt nướng, chả lụa, nước chấm bánh có vị chua
ngọt của đường và chanh.
6.Tương Nam Đàn
Tương Nam
Đàn là một trong những đặc sản được du khách tới đây mua về làm quà
nhiều nhất. Phải mất gần hai tháng, qua nhiều công đoạn công phu tỉ mỉ
với những nguyên liệu hoàn toàn lấy từ thiên nhiên như: đậu nành, nếp,
muối không iot và nước. Đậu nành hạt phải đều, chắc mẩy, khi được rang
chín sẽ để nguội, sau đó xay vỡ đôi, vỡ ba chứ không được xay nát, sảy
bỏ vỏ, cho vào nồi nấu hơn 24h rồi múc vào chum ủ trong bảy ngày.
7.Nhút Thanh Chương
Người dân
bản xứ nơi có câu “Nhút Thanh Chương – Tương Nam Đàn” để chỉ chính danh
đặc sản nào đi với miền đất đó. Nhút Thanh Chương được làm từ quả mít
non muối, nộm với thịt ba chỉ luộc thái chỉ. Món Nhút vắt khô, chấm nước
Chẹo (nước tương gồm lạc rang giã nhỏ, thêm ớt, tỏi và đường), ăn kèm
với rau kinh giới rất tuyệt.
8.Bánh đa vừng
Bánh đa
vừng là một đặc sản giòn ngon nổi tiếng. Vì được quyện với rất nhiều
vừng đen nên ăn rất thơm, rất bùi và bổ dưỡng. Mỗi chiếc bánh còn có vị
cay nồng của tiêu và tỏi, gia vị đậm đà rất khó để quên.
9.Khoai xéo
Là một
món ăn dân dã lâu đời, gắn liền với cuộc sống từ những tháng ngày khó
khan nghèo khổ. Sau khi thu hoạch, người ta chọn những củ khoai ngon,
nhiều bột nhất đem rửa sạch, sau đó cắt lát mỏng, phơi khô rồi đem dùng
dần.
Khi chế
biến, người ta đun hạt đậu trắng và hạt đậu phộng cho mềm, sau đó đổ
khoai khô vào đun sôi, có thể cho thêm gạo nếp để tang độ dẻo. Đun cho
tới khi cạn nước, cho thêm đường rồi bắc nồi xuống, sau đó tới công đoạn
quan trọng nhất là xéo khoai. Xéo khoai phải nghệ thuật, phải thật
nhuyễn, thật nát thì hương vị mới quyện đều vào nhau.
10.Mọc cua bể
Mọc cua
bể là món ăn được chế biến khá tỉ mỉ và cầu kì ngay từ khâu gỡ thịt, ướp
gia vị cho đến khi chế biến. Mọc cua bể chính danh phải cắm chân cua đã
luộc chín vào mai giống như cua đang sống. Mùi vị thơm béo của cua
quyện lẫn với hương vị của hành và gia vị đậm đà khiến ai cũng muốn
thưởng thức.
11.Cháo nghêu
Là một
trong những món cháo nổi tiếng khi nhắc đến ẩm thực Nghệ An, đây là món
ăn thực sự thú vị của Cửa Lò. Nghêu được làm sạch, băm nhỏ, phi với mắm
hành thơm ngon. Sau đó được trộn vào cháo, ăn kèm với cả hành lá và hành
khô. Một món ăn thực sự rất bổ dưỡng và thanh nhã.
12.Mực trộn tép bưởi
Mực ở
Nghệ An được chế biến theo rất nhiều cách khác nhau, trong đó mực trộn
tép bưởi là món ăn thú vị nhất. Bưởi nhồi trong mực phải là loại bưởi
ngon, chắc tép, sau khi được tẩm ướp sẽ được cho vào thân trong và nướng
cùng mực tươi.
13.Cháo canh
Với tên
gọi lạ lẫm, chắc chắn du khách sẽ muốn được thưởng thức một lần món cháo
này. Nguyên liệu chính để làm món này là bột mỳ, sau khi nhào thật
nhuyễn sẽ cán thành bột và cắt thành những sợi nhỏ tròn. Nước dùng để
chan được ninh từ xương và sau đó thêm một ít tí tô, hành khô và thịt
bằm trộn đều.
14.Bánh ngào
Gần giống
với bánh trôi, nhưng khác ở chỗ nước dùng để chan sệt sệt và ngọt của
vị mật. Có thể cho thêm chút gừng và vừng để cảm nhận được thêm chút vị
thơm, cay hòa quyện.
15.Cá giò
Cá giò là
một “đặc sản mới nổi” trong những năm gần đây. Cá giò có thể được chế
biến thành 7 món khác nhau vô cùng hấp dẫn như gỏi, cá hấp sả, lẩu,
cháo, vây cá rán hay da cá chiên giòn, chấm với nước mắm tỏi giòn mê ly.
Đặc sản Nghệ An hút hồn thực khách
30/04/2014 00:01 GMT+7
Món ngon của Nghệ An mang chất riêng đặc biệt đến nỗi bất cứ ai có cơ hội được thưởng thức đều nhớ mãi không quên...
Nghệ
An là mảnh đất non nước hữu tình đẹp như bức tranh thủy mặc. Vẻ đẹp kỳ
thú pha lẫn chút nguyên sơ luôn làm say đắm bất cứ ai đã từng đi qua và
dừng chân ghé lại nơi này. Không chỉ có thế, trên mảnh đất hồn hậu, địa
linh nhân kiệt đã sản sinh ra nhiều đặc sản mà ai "lỡ" nếm thử một lần
cũng vương vấn mãi không thôi. Cam xã Đoài
Cam
Xã Đoài là một đặc sản của xã Nghi Diên còn có tên nôm là xã Đoài,
thuộc huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Hương vị thơm ngon của cam Đoài gây nức
lòng người thưởng thức đến nỗi nó đã trở thành một hình ảnh ngọt ngào
của thơ ca.
“Cam xã Đoài mọng nước
Giọt vàng như mật ong
Bổ cam ngoài cửa trước
Hương bay vào nhà trong” (Phạm Tiến Duật)
Cam xã Đoài trở thành
một đặc sản bởi hơn hết nó có vị đặc biệt thơm ngon, vỏ mỏng, rất nhiều
nước. Khi trồng, người dân nơi đây phải lựa kỹ giống, cây giống được
chọn lọc sạch, không sâu bệnh.
Nếu một lần đặt chân đến đây vào
dịp tết Nguyên Đán, bạn sẽ bị choáng ngợp bởi một thứ sắc màu tươi mới,
trùng điệp bởi quả, bởi lá. Hương cam bay lan tỏa ra xung quanh, nửa như
mời gọi nửa muốn níu chân người lữ khách.
Cam
khi mới chín có màu vàng rồi chuyển sang sẫm dần nhưng luôn giữ được vẻ
tươi tắn, ngoài có lớp the mỏng, chỉ cần khẽ xây xát là đã thoát một
mùi thơm ngây ngất. Khi bổ ra, cam có màu vàng óng, nước cam chảy ra
nhìn sánh như những giọt mật ong óng ánh dưới ánh nắng mặt trời. Hơn thế
nữa, khi thả miếng cam vào miệng, tưởng chừng như bao vị ngọt ngào của
đất trời kết tinh trong đó. Nhút Thanh Chương
Có
lẽ, mít xanh là thứ quả gắn với tuổi thơ rong ruổi của rất nhiều người.
Những quả mít non được hái xuống, rồi đem luộc, chấm với muối ớt, mặn
chát, nghẹn trong cổ họng mà bao đứa trẻ vẫn khao khát và thích thú. Còn
với người Thanh Chương xứ Nghệ, việc chế biến mít xanh thành món ăn như
dưa muối lại là nghệ thuật vô cùng độc đáo. Món ăn làm từ mít xanh đó
được gọi là nhút. Nhiều người còn coi nhút chính là một loại "kim chi"
của xứ Nghệ này.
Những quả mít xanh được chế biến thành nhút (Ảnh: Internet)
Nghe
nói, nghề làm nhút ở Thanh Chương có từ lâu đời, là thức ăn dân dã và
phổ biến của mọi gia đình. Nguyên liệu để làm nhút chỉ gồm có mít xanh
và muối trắng và cách làm tương tự như nhiều món dưa muối khác ở Việt
Nam.
Để làm nhút, người ta lựa những quả mít xanh, loại ương ương
càng ngon rồi gọt sạch vỏ ngoài, rửa cho hết nhựa sau đó bỏ vào nong
hoặc nia, dùng dao băm hoặc thái thành từng sợi. Muối được cho vào, trộn
đều rồi bỏ vào cối giã sơ qua, dùng tay vò cho mềm ra. Cuối cùng mít
được cho vào vại sành khoả đều trên bề mặt, đặc một chiếc vỉ lên trên,
chèn đá cho nén xuống, đổ nước muối loãng vào cho ngập vỉ, đậy nắp che
bụi, ủ khoảng 5-6 ngày là dùng được.
Nhút là món ăn hàng ngày giản dị nhưng lại trở thành đặc sản của xứ Nghệ (Ảnh: Internet)
Hàng
ngày trong mỗi bữa cơm, người ta lấy ra bát nhút, hương vị chua chua
giòn giòn, ăn thật thích thú. Nhút ăn với cơm rất hợp, chỉ cần chút nước
mắm làm nước chấm là đủ. Lươn Vinh
Lươn
vốn là loại thủy sản nước ngọt có ở hầu hết đồng ruộng trên đất nước
Việt Nam. Nhưng dưới bàn tay khéo léo cùng văn hóa ẩm thực đặc trưng của
những người con xứ Nghệ, các món ngon từ lươn lần lượt ra đời và dần
trở thành đặc sản, tinh hoa của mảnh đất này.
Để chế biến một món
ăn ngon, khâu sơ chế lươn rất quan trọng. Người chế biến loại bỏ chất
nhớt bằng nhiều kinh nghiệm khác nhau như dùng tro, giấm, nước sôi hoặc
dùng một số lá có độ thô như lá tre để tuốt các chất nhờn trên da lươn.
Tùy theo yêu cầu của món nấu mà có thể để nguyên con, rút xương hay cắt
khúc. Khâu rút xương cũng có 2 phương pháp. Hoặc cắt khứa từ cổ rồi lạng
dần xuống. Hoặc đặt thân lươn lên thớt, dùng chày gỗ dần lên, rồi lộn
ngược bên trong, lạng bỏ phần xương.
Cháo lươn cũng là một đặc sản khó cưỡng.
Sau
khi sơ chế xong, người ta chế biến lần lượt thành những món ăn mà món
nào món nấy đều hút hồn thực khách đến nỗi phải quay lại quán biết bao
nhiêu lần. Chẳng hạn như lươn om (om chuối, om lá ngải cứu, om rau ngổ,
om lá lốt, om nồi đất...), cháo lươn, lươn nướng, súp lươn... Lươn nướng
than hoa là một trong những món ăn được đặc biệt ưa chuông. Mùi thơm
của lươn nướng bay tỏa trong không trung khiến chẳng ai có thể cầm lòng
được.
Súp lươn cũng là món hấp dẫn không kém. Bát súp có lượng
nước trong, ngọt, thơm, những miếng thịt lươn chín còn nguyên dạng,
không nhũn nát, thấm vị và dậy lên hương đặc trưng của lươn quê. Hành
lá, rau răm còn nguyên sắc xanh tươi thắm được cắt nhỏ, thả bồng bềnh
trên mặt nước nóng hổi điểm nhẹ những giọt ớt đỏ. Hơi bay lên kéo theo
mùi hương thơm, cay, nồng khiến chưa ăn miệng đã thấy thèm. Tương Nam Đàn
Nếu
như mảnh đất Hưng Yên nổi tiếng với thứ tương Bần thơm ngon, tinh khiết
thì trên mảnh đất Nam Đàn xứ Nghệ, người ta cũng có quyền tự hào vì đã
làm ra một loại tương hấp dẫn không kém.
Nguyên liệu chính để làm
tương đều là những thứ gần gũi, thân thiết với cuộc sống hàng ngày nhu
đậu nành, nếp hoặc ngô, muối và nước. Nếu vô tình hoặc cố ý cho thêm một
thứ gì vào, chum tương sẽ bị hỏng. Để có được chum tương ngon, đòi hỏi ở
người làm tương sự kỳ công, tỷ mẩn.
Nếu có dịp qua mảnh đất này, bạn hãy mang về cho mình, người thân hoặc bạn bè một chút hương vị tương giản dị này nhé!
Tương
Nam Đàn lại có đủ hai loại: Mặn và ngọt. Tương mặn dùng để ăn hàng
ngày, còn tương ngọt làm vào những chĩnh nhỏ chủ yếu để đãi khách và làm
quà biếu. Nghe nói, tương Nam Đàn được làm bằng thứ đỗ tương xuân hè
trồng trên chính đất Nam Đàn và hưởng khí, đất đai hậu thuận lợi. Có lẽ,
được sản sinh từ mảnh đất phù sa màu mỡ mà đã cho ra đời thứ đậu tương
hảo hạng.
Thế mới hiểu vì sao, ở xứ Nghệ, người ta hay truyền tai
nhau rằng, muốn ăn nhút Thanh Chương thì trước tiên phải tìm được tương
Nam Đàn. Hai thứ ấy kết hợp với nhau thì bữa cơm dù đạm bạc đến mấy vẫn
ngon đến vô cùng.
Người Nam Đàn làm tương (Ảnh: Internet)
Trong
một chai tương Nam Đàn có tới ba tầng khác nhau nếu nhìn từ ngoài vỏ.
Tầng trên cùng là đậu hạt mới chỉ được dập vỡ làm đôi. Tầng giữa là nước
tương có màu Hổ Phách, còn tầng dưới cùng là mốc tương có màu vàng
thẫm. Nếu có dịp qua mảnh đất này, bạn hãy mang về cho mình, người thân
hoặc bạn bè một chút hương vị tương giản dị này nhé! Bánh mướt
Thoạt nhìn, bánh mướt có vẻ giống với bánh cuốn ngoài Bắc nhưng nó lại có hương vị thơm ngon rất riêng.
Bánh
mướt thường dài như ngón tay trỏ của người lớn, cuộn tròn, mềm, mịn,
trắng trong. Bánh chỉ được làm bằng bột gạo tẻ - gạo được ngâm nước rất
lâu sau đó được vớt ra xay nhuyễn và được ủ trong nhiều giờ liền. Bánh
được làm vào những buổi sáng sớm tinh mơ. Người làm bánh phải thức dậy
từ khi 2 - 3 giờ sáng để nổi nửa tráng bánh thì mới kịp bán cho khách.
Khi thưởng thức, chỉ cần chén nước mắm vắt chanh, đường vừa đủ, ớt cắt lát mỏng thế là có thể ăn đến no.
Bánh mướt thường dài như ngón tay trỏ của người lớn, cuộn tròn, mềm, mịn, trắng trong (Ảnh: Internet)
Chính
người dân nơi đây cũng chẳng rõ bánh mướt có từ khi nào, chỉ biết rằng
món ăn dân dã mà ngon đến lạ thường này vẫn luôn được người ta yêu mến
từ thủa bé cho đến lúc trưởng thành hay già đi.
Bánh mướt vẫn luôn giữ được hồn quê dân dã (Ảnh: Internet)
Dẫu
rằng chiếc bánh mướt theo thời gian đã được người ta cách điệu đi đôi
phần như dùng máy để xay bột, dùng thịt heo, mộc nhĩ để làm thêm nhân...
nhưng bánh mướt vẫn còn giữ được hồn quê dân dã đến kỳ lạ! Bánh bèo Vinh
Nếu
như bánh bèo Huế được làm từ bột gạo thì bánh bèo xứ Nghệ được làm từ
bột lọc. Người ta phải nhào bột nhiều lần cho kỹ thì mới có thể có một
mẻ bánh ngon. Để bánh trông đẹp hơn, người bán hàng thường nặn bánh cho
giống cánh bèo.
Những
con tôm làm nhân bánh không cần to quá nhưng phải được làm sạch chân,
râu rồi phi thơm cùng hành mỡ. Được biết, tôm xào càng kỹ thì càng ngấm
gia vị và khi ăn thì mới thấy thơm, thấy bùi.
Đĩa bánh bèo thường
phải cho thêm hành khô và một ít rau mùi thì mới hoàn chỉnh. Với những
ai thích ăn cay thì có thể cho thêm tương ớt chưng. Bỏ miếng bánh bèo
vào miệng sẽ thấy được vị dai dai của bột lọc, vị bùi bùi của tôm thịt,
vị giòn giòn của hành khô. Món bánh bèo Vình mới chỉ xuất hiện cách đây
hơn chục năm nhưng nó đã trở thành một món ăn ngon, nổi tiếng của mảnh
đất này. Mực nháy nướng Cửa Lò
Món mực nháy
nướng (“Mực nháy” có nơi còn gọi là mực nhảy, tên gọi này dùng để chỉ
những con mực được ngư dân vừa bắt lên khỏi nước biển còn nguyên độ tươi
và được đưa vào chế biến và thưởng thức ngay tại chỗ khi còn tươi
nguyên) ở Cửa Lò từ lâu đã hấp dẫn du khách khi đến xứ biển. Mực ở đây
tươi ngon, khi mới câu lên có màu trắng trong. Sau khi sơ chế, người ta
cho những con mực tươi mới ấy lên bếp than hoa rực hồng rồi nướng. Trung
tâm sách Kỷ lục Việt Nam đã từng công bố 10 đặc sản hải sản Việt Nam
trong hành trình tìm kiếm, quảng bá đặc sản và ẩm thực Việt Nam lần thứ
1/2012 trong đó có mực nháy.
Hương thơm lừng của món mực nháy nướng quyến rũ bất cứ ai thưởng thức (Ảnh: Internet)
Hãy
cứ thử tưởng tượng, sau khi đắm mình trong làn nước biển xanh mát, bao
la, tận hưởng những cơn gió mặn mòi của biển rồi nằm dài trên chiếc ghế ở
một quán ven đường, hít hà mùi thơm của mực nướng, từ từ nhâm nhi những
miếng mực giòn giòn chấm với gia vị, thậm chí chỉ cần tương ớt thôi đã
là quá tuyệt. Cuộc sống dường như lắng lại để con người tận hưởng hết
những tinh hoa của biển cả, chỉ có gió và sóng cứ ồn ào, xô mãi không
thôi.
Ngoài ra, ở Nghệ An còn có nhiều món ăn ngon như mọc cua bể,
ghẹ hấp me, cá giò bảy món, cháo nghêu (Cửa Lò), bánh ngào... Mỗi món
ăn đều tạo nên đặc trưng riêng của mảnh đất này. (Theo Eva.vn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét