Thứ Hai, 12 tháng 12, 2016

Ban nhạc The Supremes

(ĐC sưu tầm trên NET)

The Supremes

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
The Supremes
Nghệ danh The Primettes; Diana Ross & The Supremes
Nguyên quán Detroit, Michigan, United States
Thể loại R&B, doo-wop, pop, soul, disco, Motown
Năm hoạt động 1959–1977
Hãng đĩa Lupine, Motown
Hợp tác với The Temptations, Four Tops
Cựu thành viên
Florence Ballard
Mary Wilson
Diana Ross
Betty McGlown
Barbara Martin
Cindy Birdsong
Jean Terrell
Lynda Laurence
Scherrie Payne
Susaye Greene
The Supremes là một nhóm hát nữ của Mỹ, một trong những nhóm nghệ sĩ chủ đạo của Motown Records trong suốt thập niên 1960. Được thành lập với tên gọi ban đầu The Primettes tại Detroit, Michigan năm 1959, những nhạc phẩm của The Supremes thuộc các thể loại doo-wop, pop, soul, nhạc kịch Broadwaydisco. Họ là những nghệ sĩ thành công nhất về thương mại trong đội ngũ Motown, với tổng cộng 12 đĩa đơn giành được vị trí quán quân tại Billboard Hot 100  Hầu hết những hit này được viết và sản xuất bởi nhóm sản xuất và sáng tác chính của Motown, Holland-Dozier-Holland. Vào thời điểm giữa những năm 1960, The Supremes đã cạnh tranh với The Beatles về độ nổi tiếng trên toàn thế giới  và thành công của họ cũng góp phần mở đường cho những thành công chủ đạo cho những nhạc sĩ R&B và soul sau này .
Những thành viên đầu tiên là Florence Ballard, Mary Wilson, Diana RossBetty McGlown, tất cả đều xuất thân từ khu nhà trợ cấp Brewster-Douglass ở Detroit , đã sáng lập nhóm The Primettes như một nhóm nhạc chị em của The Primes (với Paul WilliamsEddie Kendricks, người sau đó đã thành lập nhóm The Temptations)  Barbara Martin thay thế McGlown vào năm 1960, sau đó một năm, nhóm nhạc gia nhập Motown và trở thành The Supremes. Martin rời khỏi nhóm vào đầu năm 1962, và Ross, Ballard cùng Wilson đã trở thành một tam ca.
Trong suốt giữa thập niên 1960, The Supremes đã nhận được thành công lớn với Ross trong vai trò ca sĩ hát chính. Năm 1967, chủ tịch hãng Motown, Berry Gordy đã đổi tên nhóm thành Diana Ross & The Supremes và thay thế Ballard bởi Cindy Birdsong. Ross rời khỏi nhóm và bắt đầu sự nghiệp solo năm 1970, thay thế là Jean Terrell, và lúc đó nhóm đã quay trở lại tên gọi cũ The Supremes. Năm 1972, đội ngũ The Supremes đã thay đổi liên tục, Lynda Laurence, Scherrie PayneSusaye Greene tất cả đều đã từng là thành viên Supremes trong giữa thập niên 1970. The Supremes tan rã năm 1977 sau 18 năm hoạt động.

Những bài hát ngẫu nhiên trở thành ca khúc Noel


Những bài hát ngẫu nhiên trở thành ca khúc Noel
Đại lộ Champs Elysées được thắp sáng nhân mùa lễ Noel AFP /Thomas Samson

Hàng năm tại Pháp, cứ mỗi độ Giáng Sinh về, các kênh truyền hình lại chiếu loạt phim truyện kể lại cuộc đời của Sissi, với thần tượng màn bạc Romy Schneider trong vai nữ hoàng nước Áo. Năm nay, loạt phim này được chiếu trên đài NT1 của Pháp.

Bộ phim Nữ hoàng Sissi chẳng có liên gì tới mùa lễ Noel, nhưng vì từ vài thập niên qua, loạt phim này cứ được chiếu đi chiếu lại vào cuối tháng 12, cho nên mỗi khi hình ảnh của nữ hoàng nước Áo lại xuất hiện trên màn ảnh nhỏ, người Pháp vẫn biết mùa Giáng Sinh đã về với mọi nhà.
Còn tại Mỹ, có một bộ phim luôn được chiếu vào mùa Giáng Sinh từ gần 70 năm qua, đó là tác phẩm It’s a Wonderful Life (La vie est belle / Cuộc đời vẫn đẹp) của đạo diễn Frank Capra, với nam tài tử James Stewart trong vai chính. Bộ phim được cho ra mắt khán giả Mỹ vào dịp Noel, và nội dung cốt truyện cũng chọn Giáng Sinh làm bối cảnh.
Ý nghĩa cuộc sống, món quà đẹp nhất
Tuy không ăn khách vào thời điểm phát hành nhân ngày lễ cuối năm 1946, nhưng tác phẩm này lại được Viện phim ảnh Mỹ (American Fim Institute) xếp vào hàng đầu trong số các tác phẩm xuất sắc nhất mọi thời đại. Bộ phim dựa theo truyện ngắn The Greatest Gift của tác giả Philip Van Doren Stern, theo đó món quà đẹp nhất trên đời chính là cái ý nghĩa mà ta tìm cho cuộc sống.
Bộ phim It’s a Wonderful Life chọn bối cảnh cũng như được phát hành vào Noel cho nên đã trở thành biểu tượng gắn liền với Giáng Sinh. Điều đó cũng rất dễ hiểu. Ngược lại, bộ phim nữ hoàng Sissi cả nội dung lẫn hình thức chẳng có ăn nhập gì với Noel nhưng lại trở nên gần gũi, thế thì mới là chuyện lạ. Nhìn kỹ lại, có khá nhiều trường hợp phim ảnh, sách truyện hay bài hát ban đầu chẳng có liên quan, nhưng với thời gian lại mang đầy không khí, sắc màu Noel.
Có thể phân biệt ngay nhạc phẩm Jingle Bells ban đầu không phải là một ca khúc Noel, bài này trong nguyên tác có tên là "One Horse Open Sleigh", tiếng chuông có nhắc đến trong bài hát là quả chuông treo trên cổ ngựa, chứ không phải là tiếng chuông cỗ xe tuần lộc. Trong khi đó, bài Jingle Bell Rock dù có nhịp điệu rất sôi động lại là một ca khúc 100% viết theo chủ đề Giáng Sinh.
Từ Jingle Bells đến Only You
Một trong những trường hợp tiêu biểu nhất của bài hát ngẫu nhiên trở thành ca khúc Noel là nhạc phẩm Only You mà Kylie Minogue phát hành trên tập nhạc Christmas của cô. "Only You" là một tình khúc mà tác giả Vince Clarke sáng tác từ thời anh còn là thành viên của ban nhạc người Anh Depeche Mode. Mãi đến năm 1982, anh mới cho ghi âm bài này trong nhóm Yazoo với giọng ca của Alison Moyet. Từ lối diễn đạt đầy chất soul của Alison Moyet cho tới cách hoà âm bằng đàn phím điện tử, Only You hoàn toàn không có sắc thái Noel.
Trong những phiên bản ghi âm sau này, kể cả trong nguyên tác tiếng Anh hay phiên bản phóng tác sang tiếng Tây Ban Nha, mới bắt đầu xuất hiện những lối phối khí với bộ đàn dây cộng với tiếng chuông ngân, trong video ca nhạc chỉ cần quay thêm vài cảnh tuyết rơi trắng xóa, bầu trời lung linh sao sáng, ngọn nến hồng thắp sáng giữa đêm thâu là đủ để tạo ra khung cảnh mùa Noel.
Rất nhiều bài hát ban đầu không có màu sắc Noel, thế nhưng khi được phát hành vào dịp lễ cuối năm thường tranh thủ thời cơ để tiện bán hàng, để dễ ‘’câu khách’’ hơn. Trường hợp của một số bài hát của nhóm East Seventeen hay của Melanie Thornton, nhất là khi các bài hát này được các hãng nước ngọt chọn làm nhạc hiệu quảng cáo. Trong trường hợp bài Only You của Kylie Minogue, diva người Úc cùng với James Corden biến bài hát này thành một ca khúc Giáng Sinh.
Giai điệu hạnh phúc
Tương tự như hai ca khúc Jingle Bells và Only You, nhiều bản nhạc khác đều là những bài hát tình cờ trở thành ca khúc Giáng Sinh : chẳng hạn như bài My Favorite Things của Julie Andrews. Được trích từ vở ca nhạc kịch The Sound of Music (La Mélodie du Bonheur / Giai điệu hạnh phúc) phát hành vào năm 1959, bài hát không có một chữ nhắc tới mùa đông hay Noel mà lại nhắc tới mùa xuân và những hạt mưa rơi cho tươi thắm nụ hồng.
Đến khi, Julie Andrews ghi âm bài này cho bộ phim ca nhạc cùng tên rồi biểu diễn bài hát trên đài truyền hình nhân dịp lễ cuối năm, bỗng nhiên nhạc phẩm này lại được khoác lên thêm lớp áo Giáng Sinh. Sau Julie Andrews, đến phiên nhiều giọng ca nổi tiếng khác như nhóm The Supremes, Barbra Streisand, Andy Williams, Brian Setzer, Luther Vandross hay Kelly Clarkson đưa vào trong các tuyển tập Noel của họ trong nửa thế kỷ gần đây.
Khi nhắc tới Giáng Sinh, hình ảnh của ông già Noel cưỡi xe tuần lộc thường được gắn liền với mùa đông. Hình ảnh đó xuất phát từ các nước Âu Mỹ ở vùng bắc bán cầu, nơi thường đổ tuyết vào mùa đông nhưng khi lan truyền sang các nước khác dù là xứ nóng hay hải đảo miền nhiệt đới thì ông già Noel vẫn mặc cùng bộ trang phục màu đỏ, bộ râu trắng xóa đội mủ len dù trời có nóng cách mấy.
Winter Wonderland không phải là xứ ông già Noel
Có lẽ cũng vì thế mà nhiều người cứ tưởng lầm rằng các ca khúc như Let It Snow hay Winter Wonderland đều là ca khúc Noel. Nhưng thật ra đều không phải vậy. Bài Winter Wonderland (Mùa đông diệu kỳ) được tác giả Dick Smith viết vào năm 1934 trong lúc ông đang lâm bệnh nặng, bài hát không hề nhắc tới Noel mà chỉ gợi lại thời thơ ấu của chính tác giả. Chính cũng vì thế mà trong Winter Wonderland, cái xứ sở kỳ diệu không phải là quê hương của ông già Noel, như nhiều người lầm tưởng.
Chính những kỷ niệm tuổi thơ ấy mới tạo ra một ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn của một người đàn ông bạo bệnh ở tuổi về già. Bài hát này lần đầu tiên do ban nhạc hoà tấu The Richard Himber Orchestra trình diễn và sau đó là đến phiên ca sĩ Guy Lombardo ghi âm. Do cả hai phiên bản được phát hành vào mùa Giáng Sinh, cho nên ngay từ đầu, bài hát này đã được quảng cáo như một ca khúc Noel.
Let It Snow được viết vào mùa hè
Trường hợp của Let It Snow lại càng tiêu biểu hơn. Hai tác giả người Mỹ Sammy Cahn và Jule Styne sáng tác bài này vào mùa hè năm 1945, tức cách đây đúng 70 năm. Mùa hè năm ấy, trời California nóng kinh khủng, cơn nóng bất thường buộc người dân thành phố Los Angeles phải tiết kiệm nước sinh hoạt, không được tưới cây trong vườn hay rửa xe ngoài đường, như thường lệ.
Ngay giữa nắng hè oi bức, hai tác giả Sammy Cahn và Jule Styne mới ước gì trời đổ mưa nhiều cho thật mát. Họ mơ về những chuyến đi chơi xa tới các vùng núi phủ đầy băng tuyết. Ý tưởng của bài Let It Snow xuất phát từ đó. Bản nhạc được phát hành vào mùa Lễ Tạ Ơn Thanksgiving và ăn khách trong nhiều tháng liên tục cho tới tận mùa Valentine giữa tháng Hai.
Từ những năm 1950 trở đi, bài hát Let It Snow luôn được phát vào dịp lễ Giáng Sinh, mãi tới đầu những năm 1960, nhờ vào giọng ca trầm ấm đặc quánh chất whisky của Dean Martin, ca khúc Let It Snow đương nhiên đi vào bộ vựng tập của những bài hát Noel "kinh điển".
Nỗ lực sáng tác ca khúc Noel mới
Vào giữa những năm 1980 ban nhạc pop người Anh Frankie Goes To Hollywood ghi âm nhạc phẩm The Power of Love mà ban đầu không phải là ca khúc Noel, nhưng do phát hành vào dịp lễ cuối năm cho nên video clip minh họa bài hát mới quay cảnh ba vì vua đi theo vầng sao sáng đến tận hang Bêlem.
Chính sự thành công của bài hát này đã thúc đẩy George Michael, thành viên của ban nhạc Wham viết bài Last Christmast, chọn Noel làm bối cảnh để nói về một chuyện tình buồn. Làng nhạc pop Anh Mỹ đã có nhiều nỗ lực sáng tác ca khúc Giáng Sinh mới, nhưng ít có bài hát phổ thông nào ăn khách bằng ba ca khúc ăn khách hàng đầu, và được phát đi phát lại khi mùa Noel lại về.
Ba ca khúc đó vẫn là The Power of Love của Frankie Goes To Hollywood, Last Christmas của Wham và nhất là bài All I Want for Christmas is You của diva người Mỹ Mariah Carey. Nỗ lực sáng tác ca khúc Noel mới cũng được thấy rõ trên tập nhạc Christmas của Kylie Minogue.
Thường thì ca khúc Noel cần có những nhịp điệu tươi tắn, trẻ trung, yêu đời, Kylie lại đưa nhạc Giáng Sinh ra sàn nhảy, cây thông gắn đầy dây kim tuyến thuở nào nhường chỗ lại cho quả cầu bạc lung linh tỏa sáng muôn ánh đèn màu.

Nhóm nhạc nữ quyền lực nhất trong ngành công nghiệp âm nhạc

Spice Girls, Pussycat Dolls, TLC,... là những mảng màu không thể thiếu để bức tranh của nền công nghiệp âm nhạc tràn đầy sức sống.

Spice Girls

Những cô gái quyền lực Spice Girls ra mắt năm 1994 với ca khúc Wannabe. Nhóm gồm 5 thành viên Mel C, Emma Bunton, Mel B, Victoria Beckham và Geri Halliwell. Thập niên 90, Spice Girls là cái tên quyền lực trong làng nhạc và đến nay, nhóm vẫn sở hữu danh hiệu nhóm nhạc có số lượng đĩa bán nhiều nhất trong lịch sử ngành công nghiệp âm nhạc.
Haliwell rời nhóm năn 1998 và nhóm tái hợp trong tuor diễn thế giới năm 2007. Mới đây, năm cô gái của Spice Girls cũng có màn biểu diễn ấn tượng trong đêm bế mạc Olympic London năm 2012.
Destiny's Child

Nhóm nhạc R&B lừng danh Destiny's Child xuất hiện vào những năm cuối thập niên 90, với các ca khúc gây sốt như Say My Name, No, No, No,…
Thành viên ban đầu của nhóm gồm Beyonce Knowles và Kelly Rowland, sau vài lần thay đổi nhân sự, cuối cùng nhóm ổn định với 3 người với sự gia nhập của Michelle Williams. Mặc dù không chính thức tan vỡ, nhưng kể từ năm 2005 nhóm không có bất cứ một sản phẩm âm nhạc chung nào.
Dixie Chicks

Ban nhạc của dòng nhạc đồng quê Dixie Chicks gồm 3 thành viên đến từ Texas. Nhóm được nhớ đến với những hit đình đám như Wide Open Spaces và There's Your Trouble.
Mặc dù, nhóm đã cùng nhau giành được 13 giải Grammy, nhưng lại không kiếm soát được những phát ngôn bốc đồng của Natalie Maines. Giọng ca chính của Dixie Chicks đã công khai chỉ trích Tổng thống George W. Bush và cuộc chiến tranh Iraq năm 2003.
TLC

TLClà ban nhạc thành công của thập niên 90 với các hit như Waterfalls, No Scrubs,…Bộ ba T-Boz, Left-Eye và Chilli đã phát hành 4 album phòng thu và đều đạt được danh hiệu đĩa bạch kim.
Cho đến nay TLC vẫn chiếm giữ vị trí số 2 trong danh sách những ban nhạc nữ có số lượng đĩa bán chạy nhất và là nhóm nhạc R&B có đĩa bạn chạy nhất trong lịch sử.
Pointer Sisters

Với các hit dẫn đầu các bảng xếp hạng như Jump (For My Love) và I'm So Excited, Pointer Sisters đã trở thành nhóm nhạc nổi tiếng nhất thập niên 70 và 80.
Âm nhạc của nhóm gồm nhiều thể loại, R&B, jazz, đồng quê và disco. Các ca khúc của nhóm không chỉ được yêu thích ở Mỹ mà còn dần đầu nhiều bảng xếp hạng ở UK và Australia.
Pussycat Dolls

Pussycat Dolls là nhóm nhạc nổi tiếng của dòng nhạc dance-pop. Sáu cô gái của Pussycat Dolls không chỉ nổi tiếng vũ điệu nỏng bỏng mà còn được giới phê bình đánh giá cao về giọng hát.
Các ca khúc nổi tiếng của nhóm như Don't Cha và When I Grow Up vẫn được yêu thích cho đến tận lúc này.
The Supremes

Thập kỷ 60 là giai đoạn hoàng kim của nhóm nhạc The Supremes. Bốn cô gái đã trở thành hiện tượng của làng nhạc trong giai đoạn đó. Dưới sự dẫn dắt của hãng thu âm Motown, The Supremes đã đạt được những thành công vang dội và làm thay đổi bộ mặt nền công nghiệp âm nhạc.
Không chỉ nổi tiếng ở Mỹ,The Supremes còn là nhóm nhạc được yêu nước ở nhiều quốc gia trên thế giới. Các single như Stop! In the Name of Love, You Keep Me Hangin' On và You Can't Hurry Love đã đưa nhóm trở thành huyền thoại của làng nhạc.
The Shirelles

The Shirelles được thành lập năm 1958 tại New Jersey, bốn cô bạn cùng lớp đã cùng nhau ra mắt các single Soldier Boy, Will You Still Love Me Tomorrow, Dedicated To The One I Love và cái tên The Shirelles đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của các tín đồ âm nhạc.
Mặc dù, một ban nhạc da màu phải chịu những kỳ thị nhất định trong xã hội, nhưng các cô gái của The Shirelles đã vượt qua và đạt được những thành công mà trước đó mọi người không hề nghĩ đến.
Girls Aloud

Girls Aloud được thành lập từ một cuộc thi tìm kiếm tài năng của Anh. Âm nhạc của nhóm được giới phê bình đánh giá cao khi nhóm có những sáng tạo thú vị với dòng nhạc pop chính thống. Cái tên Girls Aloud nhắc chúng ta nhớ đến thành tích đáng nể của nhóm.
Các cô gái của Girls Aloud có đến 10 trong số 20 single phát hành chiếm vị trí số 1 trên bảng xếp hạng của Anh.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét