Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

KÝ ỨC CHÓI LỌI 50/d

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                                     Huyền thoại TÀU KHÔNG SỐ - Tập 7+8

Gặp người 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số

Chúng tôi gặp lại người cựu binh Vũ Trung Tính - người từng 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số năm xưa, giờ mái tóc đã bạc trắng - và được nghe câu chuyện kể về những hành trình đã đi vào huyền thoại.
Ngắm sao trời dò đường đi...

Năm nay đã gần 70 tuổi, ông Vũ Trung Tính sống cùng con cháu tại xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Cũng như bao cựu binh khác, những ngày kỷ niệm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển, ông Tính luôn bận rộn với những chuyến đi thăm hỏi đồng đội hay gặp gỡ giao lưu.

Hình ảnh Gặp người 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số số 1
Ông Vũ Trung Tính 


Sinh ra và lớn lên ở vùng quê miền biển huyện Tĩnh Gia, lớn lên bên biển nhưng ông Tính cứ lên tàu là bị say sóng. Nhưng càng lớn, cái bản chất “ăn sóng nói gió” lại càng trỗi dậy mạnh mẽ. Năm 1960, lúc đó mới 16 tuổi, ông Tính đã “vô địch” bơi lội cấp huyện và được cử tham gia giải bơi lội cấp tỉnh.
Năm 17, ông thi và trúng tuyển vào trường Trung cấp Hàng hải tại Hải Phòng. Đến tháng 2/1964, Quân chủng Hải quân tuyển lính mới. Do có tài bơi lội nên ông đã trúng tuyển vào Quân chủng lính thủy. Chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết nhập ngũ và được đi huấn luyện tân binh ở Trung đoàn 170 đóng tại Quảng Ninh.
Từ tháng 4/1964, ông Tính được điều về Lữ đoàn 125 làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.
Suốt cuộc đời ông không bao giờ quên cái ngày đầu tiên lên tàu lênh đênh trên biển cả. Những lính mới như ông sau khi nhập Lữ đoàn 125 được đưa ra khu vực Long Châu cách Bạch Long Vĩ khoảng 46 hải lý, cách đất liền 20 hải lý để tập với sóng nước biển khơi. Đây là vùng biển thường xuyên có sóng cuộn cao lên rồi đổ ầm xuống rất nguy hiểm. Tuy ngày nhỏ cứ hễ lên tàu là ông say sóng, nhưng với sức trẻ và lòng yêu nước, ông đã xuất sắc vượt qua cuộc “thử lửa”.
Rồi ông được điều về phụ trách Hàng hải số 1 trên tàu 42. Nhiệm vụ của ông là làm kế hoạch đi biển, tác nghiệp hải đồ, xử lý la bàn, máy đo thiên văn, thử sóng... Tóm lại ông làm nhiệm vụ dẫn đường, chọn đường đi sao cho ngắn nhất, tránh không bị địch phát hiện và cập bến với thời gian nhanh nhất, tiết kiệm, an toàn nhất, tàu không va phải đá ngầm...
“Tất cả những người tham gia hoạt động trên đoàn tàu không số đều xác định có thể có ngày đi mà không có ngày về. Khi lên tàu, toàn bộ mọi thứ thuộc về tài sản cá nhân, tài liệu bí mật thuộc ngành cơ yếu và hàng hải đều phải để lại trên đất liền, tránh hiểm họa nếu bị địch phát hiện đánh phá sẽ thu thập được thông tin”, ông Tính nhớ lại.
Suốt từ tháng 6/1964 đến năm 1970, ông Tính đã cùng đơn vị vận chuyển an toàn 18 chuyến hàng vào Cà Mau an toàn, trong đó có chuyến đi mở đường sau sự kiện Vũng Rô.
Bao nhiêu năm lênh đênh trên biển, đối mặt với không biết bao nhiêu hiểm nguy và kẻ thù, đã có biết bao nhiêu kỷ niệm đi qua cuộc đời người lính trên những chuyến tàu không số. Giờ đây, khi ngồi nhớ lại, ấn tượng nhất đối với ông là chuyến tàu mở đường sau sự kiện Vũng Rô.
Những kỷ niệm sâu sắc như đang ùa về trong tâm trí người cựu binh Vũ Trung Tính. Đầu năm 1965, tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển của ta bị lộ. Tháng 2/1965, khi chuyến tàu không số vào đến Cà Mau thì bị địch đánh phá.

Hình ảnh Gặp người 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số số 2
Ông Tính thời còn trai trẻ


Địch tìm đủ mọi cách để bắt bằng được tàu của ta. Chúng bố trí Hải quân Ngụy trông coi vòng trong với khoảng cách 12 hải lý tính từ đất liền ra. Bên ngoài là Hạm đội 7 kiểm soát, trên đầu là máy bay tuần tiễu, dọc theo bờ biển địch bố trí các trạm ra đa đối hải. Trước sự rà soát chặt của địch, nhiều chuyến hàng trên đoàn tàu không số đã không thể cấp bến, lực lượng hy sinh hao tổn. Từ tháng 2 - 8/1965, không có một chuyến hàng nào về đến đích an toàn.
Trước nhiệm vụ cấp bách, Lữ đoàn 125 đã rà soát lại lực lượng, thành lập đội quân tinh nhuệ mới trên tàu 42. Công tác chuẩn bị cho tàu 42 ra khơi sau sự kiện Vũng Rô mất 3 tháng trời. Theo đó trong trường hợp nếu bị địch phục kích khi đang trên đường hoạt động thì người này có thể đảm nhiệm vị trí của người khác nếu xảy ra hi sinh. Quyết không để đạn dược, vũ khí rơi vào tay địch, sẵn sàng hy sinh để giữ bí mật cho con đường trong giai đoạn mới.
Trên chuyến tàu tái mở đường, ông Tính tiếp tục đảm nhận vai trò Hàng hải số 1. Đêm 15/10/1965, tàu 42 rời bến Hải Phòng, những chiến sĩ đã cải trang con tàu thành tàu đánh cá của ngư dân vùng biển Đông Nam Á, sơn màu ngọc bích.
Ông đã vạch ra kế hoạch là phải đi xa bờ và hoàn toàn phải dùng hàng hải thiên văn, tức phải ngắm sao, mặt trời, mặt trăng để định hình đường đi. Tàu 42 ra đến vị trí vòng qua một hòn đảo thì bị địch phát hiện. Ngay lập tức con tàu rơi vào tình thế phục kích, trên trời là máy bay trinh sát do thám, dưới biển là khu trục hạm đội bám sát hông tàu suốt 5 ngày đêm. Có lúc máy bay địch rà sát mặt biển soi mói nhưng do con tàu được cải trang một cách hoàn hảo nên địch đã thất bại không xác định được.

Hình ảnh Gặp người 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số số 3
Ông Tính đã có 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số


Theo kế hoạch, tàu được lệnh vào cửa Bồ Đề, Cà Mau nhưng vì địch vây ráp quá chặt không vào được nên tiếp tục lênh đênh trên biển tiếp 4 ngày, sang tận Philippin vừa tránh địch vừa làm nhiệm vụ do thám. 4 ngày sau nữa mới nhận được lệnh vào bến phụ Rạch Kiến Vàng ở Cà Mau, kịp thời cung cấp 60 tấn hàng hóa, đạn dược cho chiến trường miền Nam, trong đó có 4 quả thủy lôi. Sau chuyến đi khai phá thành công tuyến đường mới này, tàu 42 được Quốc hội, Chính phủ tuyên dương phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.
Kỷ niệm về đồng đội
Trong những ngày này, cả nước đang hướng đến kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển. Những người con anh dũng năm xưa, giờ đây người còn, người mất. Và có lẽ sẽ khó để nói lên hết được những cống hiến, hi sinh thầm lặng của những người đã hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho tổ quốc.
Trong cuộc đời người lính thủy, không ai là không biết về Anh hùng Bông Văn Dĩa và ông Tính cũng vậy. Năm 1961 ông Dĩa được Trung ương bố trí giao nhiệm vụ tổ chức thăm dò tuyến đường biển từ miền Bắc vào Cà Mau để chở vũ khí phục vụ cho miền Nam đánh giặc.
Qua 2 chuyến đi thăm dò, ngày 14/9/1962, Bông Văn Dĩa trực tiếp chỉ huy chở chuyến hàng đầu tiên mang theo 28 tấn vũ khí từ miền Bắc và cập bến Vàm Lũng, Cà Mau vào ngày 20/9/1962 an toàn. Bông Văn Dĩa trở thành người chiến sĩ đầu tiên mở đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
Cả 18 lần cùng đoàn tàu không số hoạt động trên biển, ông Tính đều hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Sau khi trở về, ông Tính tiếp tục đi học tại Liên Xô rồi về công tác tại Bộ tham mưu Hải quân, tham gia chiến dịch rà phá thủy lôi, đi làm chuyên gia ở Campuchia…

Hình ảnh Gặp người 18 lần lênh đênh trên những chuyến tàu không số số 4
Ông Tính chụp hình kỷ niệm cùng các đồng đội


Người lính thủy năm xưa giờ đã nghỉ hưu về sống tại địa phương và ông vẫn tiếp tục cống hiến công sức của mình cho xã hội. Nhiều năm liền, ông làm Bí thư Đảng ủy xã Hải Ninh. Hiện ông là Trưởng ban liên lạc truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển tại Thanh Hóa.
“Tôi may mắn hơn nhiều đồng đội khác đã phải nằm lại nơi chiến trường cũng như những đồng đội trong cuộc sống hiện tại. Hầu hết số họ trở về sau chiến tranh đều gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Chúng tôi đang nỗ lực vận động để những người lính năm xưa có được sự quan tâm thiết thực hơn nữa của Đảng và Nhà nước, phần nào vơi đi khó khăn trong cuộc sống đời thường”, giọng ông trầm xuống như để tưởng nhớ đến những đồng đội đã hy sinh nơi chiến trường.

Duy Tuyên
Nguồn : Dân Trí

Tiết lộ những dòng nhật ký về đoàn tàu không số


Nhằm sớm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, năm 1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 với tên gọi “Đoàn tàu không số”.

Từ đây, đường Hồ Chí Minh trên biển được hình thành, con đường vận chuyển vũ khí quan trọng lúc bấy giờ cho hai miền Bắc – Nam.

Bà Bảy Thu tức cụ Nguyễn Thị Lan (SN 1933, hiện ngụ Kiên Giang), vợ của anh hùng Bùi Thanh Lửa, thuộc tiểu đoàn 962 (H52), trung đoàn 2, Quân khu 9 kể lại: “Từng một thời luôn bên đồng đội trên đoàn tàu không số, những ngày tháng vào Nam ra Bắc không ngại khó khăn gian khổ, sau những chiến công hiển hách, tôi đều dành thời gian ghi lại vào nhật ký, lưu giữ cẩn thận đến ngày hôm nay. Và chỉ đọc vào những lúc nhớ đến đồng đội, những đồng chí đã quyết hy sinh để bảo vệ Tổ quốc”.
Hình ảnh Tiết lộ những dòng nhật ký về đoàn tàu không số số 1
Tàu không số chiến đấu 450 ngày đêm trên tuyến lửa vòng cung Cần Thơ (ảnh do bà Lan cung cấp).
Lúc 14 tuổi, bà Bảy Thu đã tham gia kháng chiến, hoạt động bí mật và chưa có một lần về phép, từng tham gia công tác thanh niên ở huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Đến năm 1961, đồng chí Sáu Toàn được rút về Trung ương nhằm chi viện cho việc vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam và ngược lại. Lúc đó, đồng chí Sáu Toàn giữ chức Bí thư huyện Cái Nước. Ông đã dẫn dắt bà Bảy Thu đi cùng và giao cho bà phụ trách về y tế, kiểm tra sức khỏe, thuốc men cho đồng đội trên con tàu không số.

Sau đó, đồng chí Phan Văn Nhờ (tức Tư Mau, SN 1926) được giao nhiệm vụ làm Trưởng đoàn cùng các đồng chí Mười Thượng, Sáu Mập lên đường ra Bắc bằng đường sông nhằm thăm dò, nối liên lạc.

Ra đến Đà Nẵng, các đồng chí này bị địch vây và bắt đưa lên đảo Hoàng Sa giam giữ suốt mấy tháng liền. Nhiều ngày bị địch tra khảo, các đồng chí khai là dân đi buôn, thấy con tàu chẳng có một số hiệu cũng như không khai thác được bất kỳ thông tin nào từ các đồng chí nên địch thả tự do.

Các đồng chí tiếp tục cuộc hành trình ra Bắc vào Nam, len qua vòng vây dày đặc của tàu chiến và máy bay địch, vượt ba bốn trăm ngàn hải lý để vận tải, chi viện vũ khí cho miền Nam suốt hàng năm trời.
Hình ảnh Tiết lộ những dòng nhật ký về đoàn tàu không số số 2
Bà Nguyễn Thị Lan (tức Bảy Thu) lật lại cuốn sổ nhật ký, hiện bà sống tại Kiên Giang.
Đêm 16/10/1962, con tàu không số đầu tiên mang tên Phương Đông 1 do đồng chí Bông Văn Dĩa làm chính trị viên chở 30 tấn vũ khí cập bến Vàm Lung an toàn.

Để xây dựng các cụm, bến ở Cà Mau từ Kênh 5 đi ngược lên sông Gành Hào phải di dời khoảng 1.000 hộ dân trong thời gian sớm nhất, nhằm nhường đất lại cho Đoàn 962 làm nơi chứa vũ khí. Nơi đây rừng đước bạt ngàn, sông rạch chằng chịt rất thuận lợi cho việc cất giấu vũ khí.

Với tàu 165 và đồng đội, chỉ để lại hai bức điện về Sở chỉ huy trong đêm 29/2 và rạng sáng ngày 1/3 năm Mậu Thân. Bức điện thứ nhất để lại trong đêm 29/2 “Chuyến tàu vào gặp máy bay trinh sát đi qua tàu”. Bức điện thứ hai do đồng chí Nguyễn Ngọc Sương để lại lúc 1 giờ ngày 1/3 “Chúng tôi gặp tám tàu địch bao vây, quyết cảm tử”. Đó là những bức điện cuối cùng nhắn lại sau khi con tàu tự hủy, 18 đồng chí trên tàu đã hy sinh nhằm giữ bảo mật cho đồng đội.

Theo những dòng nhật ký của bà Bảy Thu, mỗi khi nước lớn thường có bốn năm chiếc tàu không số lại cập bến, đa phần các con tàu không số đều có trọng tải khoảng 70 tấn.

Lương thực chính cho các đồng chí trên tàu là món thịt luộc trộn cùng với nước mắm. Sau khi tải vũ khí chi viện cho miền Nam thì các con tàu không số lại tiếp tục hành trình trở ra Bắc.

Lượt về các tàu không số này do “hết hàng” nên cứ nổi cao trên mặt nước, sợ địch phát hiện nên các đồng chí đã mưu trí cưa gỗ đước (một loại gỗ chỉ có ở vùng biển miền Nam) chất đầy trên các tàu và khẫm sâu xuống nước để địch khỏi phát hiện.
Hình ảnh Tiết lộ những dòng nhật ký về đoàn tàu không số số 3
Những dòng ký ức được bà Bảy Thu ghi nhận thực tế vào năm 1962, khi đang cùng đồng đội trên đoàn tàu không số.
Quan trọng hơn, khi các tàu không số này trở về Bắc thì tất cả gỗ đước phải được bí mật phi tang bởi ở miền Bắc chẳng có loại gỗ đước như trên. Hoạt động của các đồng chí trên tàu không số phải tuyệt đối giữ đúng nguyên tắc: “Nếu ai đã có vợ, có chồng thì đúng 5 năm mới được ký lệnh về phép một lần”. Mỗi tàu không số đều được lắp đặt sẵn chất nổ, mìn tự phá hủy nếu chẳng may gặp sự cố.

Bà Bảy Thu nhớ rất rõ chiếc tàu không số cập bến tại Rạch Gốc (mũi Cà Mau) bị mắc cạn nhưng tất cả bộ đội của ta đã hóa trang hoàn toàn giống y như Hải quân địch. Trên bầu trời lúc này có hàng chục máy bay địch cứ “đảo” liên tục.

Bất ngờ, có máy bay địch tiếp cận hỏi: “Có cần chi viện không, tàu số mấy”? Do tất cả mọi số hiệu của tàu địch được các đồng chí của ta thuộc nằm lòng nên trả lời rất nhanh, chính xác, tự tin, thế là mọi việc đảm bảo an toàn, cùng với sự tích cực của người dân và đồng đội nên chỉ phút chốc tất cả số vũ khí được bảo mật đưa vào kho, mặc cho địch bắn pháo sáng suốt cả đêm để truy tìm khi chúng biết mình đã mắc lừa.

Đồng chí Tư Mau (tức là Phan Văn Nhờ) nhiều lần chuyển vũ khí trót lọt nên luôn là tầm ngấm của địch, được Trung ương chuyển công tác về hoạt động nội thành và vào vai một Tư sản ở Sài Gòn tại nhà số 20/27, đường Âu Dương Lân, quận 8, TP.HCM. Ông sinh năm 1926 và đã mất ngày 5/2/1991.

Lúc này, đ/c Tư Mau có diện mạo rất dễ để bị địch nhận diện, người thấp, mũi tẹt, chân mày thưa, đặc biệt là đầu hói, rất ít tóc nên Trung ương đã đưa đồng chí sang tận Liên Xô để cải trang lại gương mặt. Sau khi Tư Mau được nâng mũi, xăm mày, cấy tóc và trở lại Sài Gòn tiếp tục hoạt động trong lòng địch.

Hàng ngày đ/c Tư Mau nhận thu mua tôm, cua, cá từ các tỉnh, đa phần những chiếc ghe này đều được thiết kế đóng hai đáy, phía trên chứa thủy sản, đáy phía dưới chỉ chứa toàn vũ khí. Để giúp cho việc “kinh doanh” thuận lợi nên đồng chí Tư Mau giao lưu và quen hết với Nha cảnh sát Sài Gòn.

Người luôn kề cận bên Tư Mau là đồng chí Quách Thị Hiểm (tên kháng chiến của bà là Quách Thị Ánh Tuyết, SN 1952), vợ của đồng chí Hồ Thanh Bình, SN 1951 (đồng chí Bình là con của Anh hùng quân đội Hồ Đức Thắng và ông Thắng mất năm 2005).
Hình ảnh Tiết lộ những dòng nhật ký về đoàn tàu không số số 4
Vợ ông Tư Mau là bà Nguyễn Thị Tư (SN 1926), đang bên con cháu, hiện sống tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Đ/c Ánh Tuyết làm người giúp việc cho đ/c Tư Mau, nhưng nhiệm vụ chính là trực tiếp làm giao liên từ cơ sở, căn cứ báo lại cho đ/c Tư Mau và đ/c Lê Đức Anh. Từ năm 1972 đến tháng 12/1973 thì bị địch bắt do bị lộ.

Dù đ/c Tuyết bị tra tấn, đánh đập chết đi rồi sống lại, có lúc không nghĩ mình còn sống, nhưng đồng chí quyết không khai nửa lời. Ngay thời điểm đ/c Tuyết bị địch bắt thì đ/c Tư Mau đã đưa đ/c Lê Đức Anh ra Hà Nội công tác, thoát khỏi sự bao vây của Nha cảnh sát.

Đến ngày 30/04/1975, đ/c Tuyết được tự do và trở về căn nhà cũ ở quận 8,  được đồng chí Tư Mau đưa đi điều trị vết thương.

Chia tay Cựu chiến binh Bảy Thu cùng các đồng đội khác, chúng tôi vẫn luôn ghi nhớ câu nói tự hào của bà trong những ngày tham gia kháng chiến trên đoàn tàu không số: “Người không đông, đất không rộng nhưng dân tộc ta đã đánh tan nhiều Đế quốc lớn mạnh xâm lược. Thể hiện khí phách anh hùng, ghi lại những trang sử vẻ vang của dân tộc ta”.

<>Công Hà

Nguồn : Pháp luật VN

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét