Cúng cơm cho người đã mất trong gia
đình
Đa phần
người Việt ở vùng Tây Nam Bộ (không tính
những người theo các tôn giáo), sẽ cúng tuần,
làm đám giỗ cho người chết. Cúng tuần (gọi
là làm tuần), thường là cúng 49 ngày, 81
ngày, 100 ngày, một năm, hai năm, … tính từ
ngày người thân qua đời.
Thời gian
mãn tang cũng rất phong phú, theo đúng sách
vở (dân gian truyền thế nhưng chẳng ai biết
cụ thể sách nào), thì ba năm mới mãn tang,
nhưng trên thực tế không có mấy nhà để lâu
như vậy. Thường là sau một năm, lâu hơn thì
hai năm, còn ngắn có khi làm tuần trăm ngày
người ta tổ chức làm tuần mãn tang. Họ quan
niệm rằng còn trong vòng tang chế thì khó
làm ăn. Con cháu đông đúc khó khăn nhiều mặt,
thôi thì xả tang cho xong!
Anh chết ba
năm sống lại một giờ,
Để xem người ngọc phụng thờ ra sao ?
Để xem người ngọc phụng thờ ra sao ?
Sau khi mãn
tang, đến ngày, tháng người quá cố mất, con
cháu sẽ tiến hành làm đám giỗ (có chỗ gọi là
cúng cơm), từ tư liệu thực tế điền dã, chúng
tôi miêu tả là các công đoạn cũng như ý
nghĩa của ngày lễ này trong phong tục dân
gian Tây Nam Bộ
a. Đầu tiên
là việc chưng, dọn bàn thờ
Chúng tôi được nghe các bậc trưởng thượng kể rằng, ngày trước, khi còn người nhắm mắt xuôi tay trên chiếc giường cây hay chiếc chõng tre, thì sau khi khâm liệm chôn cất người quá cố cái gường ấy được dùng để thờ, với tâm thức nhớ người đã nằm ngủ ở đó.
Chúng tôi được nghe các bậc trưởng thượng kể rằng, ngày trước, khi còn người nhắm mắt xuôi tay trên chiếc giường cây hay chiếc chõng tre, thì sau khi khâm liệm chôn cất người quá cố cái gường ấy được dùng để thờ, với tâm thức nhớ người đã nằm ngủ ở đó.
Phía trước
giường thờ đặt một tấm ván kê cao hơn, một
cái bàn hay nhà nghèo thì dùng cái ghế nhổ
mạ để lư hương gọi là bàn thờ. Dần dần cái
giường ấy được thay thế với cái bàn thấp,
đặt sát vách, khi làm đám giỗ, thức ăn chưng
bày trên đó. Khi văn hóa Phương Tây vào Việt
Nam, nghề mộc ở miền Tây Nam Bộ cũng phát
triển, thợ mộc bắt chước cái “tủ” của Pháp,
theo mô thức thời vua Louis XVI, bề đứng cao
hơn bề ngang, bốn phía bít bùng với vách ván.
Mặt trước kín, không mở ra, cửa bố trí hai
bên hông. Hai bờ của tủ, ở mặt trước từ trên
xuống dưới, thường chạm những hạt chuỗi màu
bạc khít nhau, và dùng nó để thờ phụng. gọi
là tủ thờ. Người ở vào cái tuổi thất thập cổ
lai hi thường đóng tủ thờ bằng cây gỏ, cây
trắc hoặc cẩm lại, để lại đến đời cháu nội,
cháu cố tủ thờ mình vẫn còn tốt và cứng.
Trên tủ,
thường là tranh thờ, viết bằng chữ Hán, với
đôi câu đối:
Tổ công phụ
đức thiên niên thạnh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh
Ở giữa tranh
là hai chữ Từ Đường, hoặc Cửu huyền thất tổ.
Bàn thờ, bày biện một số “vật”:
Chiếc lư,
nhà giàu đúc bằng đồng chạm trổ lân, phụng,
nhà nghèo dùng lư bằng sành, thậm chí một
phần chiếc lon nhựa, trong đổ ít cát, hoặc
gạo để cắm nhang, gọi nôm na là “lư hương”.
Phía sau lư hương đặt di ảnh người khuất (trước
đây là hình vẽ, sau này khi công nghệ phát
triển thì ảnh chụp, rọi, tráng, …), nếu có
hai hay ba bốn người quá cố thì có chừng ấy
lư hương, cũng có trường hợp người mất không
có ảnh, nhưng lư hương thì không thể thiếu.
Đi về lập
miễu thờ vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Kế di ảnh,
ngày xưa để cái “thần chủ” đầu lớn, đầu nhỏ,
chữ khắc trên miếng gỗ, như kiểu lý lịch,
thường nêu lên chức tước, của người khuất
mặt. Nay, tục này không còn!
Phía trước,
ở hai góc đặt hai chân đèn có thể bằng đồng
hoặc tiện bằng gỗ quý, chính giữa có ba cái
chung nhỏ để châm trà, rượu, cây đèn chong
cóc đốt bằng dầu, bình cắm hoa, … Nếu bàn
thờ người mới mất chưa xả tang thì cây đèn
này luôn cháy, có nhà kỹ hơn, nặng tình với
người quá cố thì thắp nhang liên tục. Khi đã
mãn tang thì đèn và nhang chỉ đốt vào ban
đêm (tàn một lượt nhang thì thôi, đèn để đến
sáng hôm sau).
Ngó lên
nhang tắt, đèn mờ,
Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ lạnh tanh
Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ lạnh tanh
Trên bàn thờ
cũng có khi người ta chưng thêm dĩa trái cây
coi như mời người khuất mặt … thưởng thức
của ngon vật quý!
Đến ngày đám
giỗ, người thờ cúng phải dọn dẹp cho sạch
bụi, chân đèn, lư hương được đánh lại cho
sáng bóng. Chân nhang ở lư hương được rút bỏ
chỉ chừa lại ba cây, để bắt đầu “một năm mới”
cho người đã khuất.
Ngoài ra
trên bàn thờ ngày giỗ còn được chưng thêm
trái cây, bánh tét, bánh ít, bánh bò, hay
các họp bánh, mứt, …
b. Chuẩn bị
các món cúng giỗ trong ngày tiên thường
Gần tới đám, gia chủ chuẩn bị trước nửa tháng, mười ngày, từ việc chọn lựa nếp, rọc lá chuối, chẻ lát làm lạt để gói bánh, chuẩn bị củi khô để đun nấu, … Đến trước ngày giỗ chính một hoặc hai ngày, bà con, dòng họ hay người cùng xóm đến giúp. Đàn bà, con gái thì gói bánh tét, bánh ít, (trong lễ cúng tuần phải có thêm bánh cấp, bánh cúng (gói như bánh tét, nhỏ hơn lại không nhưn, chỉ đơn thuần là nếp, bánh này sau đó được cho thầy chùa mang về, vì thế có câu ca: Lấy chống thầy chùa ăn bánh hỏng nhưn!), hoặc đổ bánh bò, bánh da lợn. Đây cũng là dịp để các bà các chị vừa trổ tài khéo léo của mình vừa dạy cho các cháu gái sau này biết nấu nướng bánh trái,
Gần tới đám, gia chủ chuẩn bị trước nửa tháng, mười ngày, từ việc chọn lựa nếp, rọc lá chuối, chẻ lát làm lạt để gói bánh, chuẩn bị củi khô để đun nấu, … Đến trước ngày giỗ chính một hoặc hai ngày, bà con, dòng họ hay người cùng xóm đến giúp. Đàn bà, con gái thì gói bánh tét, bánh ít, (trong lễ cúng tuần phải có thêm bánh cấp, bánh cúng (gói như bánh tét, nhỏ hơn lại không nhưn, chỉ đơn thuần là nếp, bánh này sau đó được cho thầy chùa mang về, vì thế có câu ca: Lấy chống thầy chùa ăn bánh hỏng nhưn!), hoặc đổ bánh bò, bánh da lợn. Đây cũng là dịp để các bà các chị vừa trổ tài khéo léo của mình vừa dạy cho các cháu gái sau này biết nấu nướng bánh trái,
Đàn ông thì
tát mương, dở chà bắt cá, nếu là nhà giàu có
làm heo, làm chó…
Cồng cộc bắt
cá dưới bàu
Cha mẹ mày giàu, mầy giỗ đầu heo
Cha mẹ mày giàu, mầy giỗ đầu heo
Đám cúng lớn
hay nhỏ có khi còn do mối quan hệ giữa người
đã khuất với người đứng ra cúng giỗ
Thờ chàng
đĩa muối đĩa rau,
Thờ cha kính mẹ mâm cao cỗ đầy
Thờ cha kính mẹ mâm cao cỗ đầy
Con cháu,
láng giềng đến xem chủ nhà cần gì thì phụ
giúp, tiếp xách nước bắt lò, che thêm tấm
bạt lấy bóng mát để tiếp khách, hay mượn
thêm bàn, ghế, chén tô…
Đến chiều
gia chủ nấu cơm cúng bình thường, tàn nhang,
mọi người thường ngồi lại lai rai vài ba xị
đế hoặc chơi vài ván cờ tướng, đàn ca vài ba
bài bản tài tử ca ngợi công ơn sinh thành
dưỡng dục, … Đến khuya thì ai về nhà nấy.
c. Ngày giỗ
chính
Tờ mờ sáng hôm sau, con cháu người mất cũng như những người hàng xóm chung quanh trên tay xách con gà con vịt, người thì bọc bánh hộp trà, có khi là cá lóc, tôm càng, …, hoặc lít rượu đế mang đến cùng phụ giúp gia chủ lo lễ cúng. Đồ mang cúng thường là đồ họ trồng, tỉa hoặc kiếm bắt được. Họ tự làm, tự kiếm, chứ ít khi mua, có vậy mới thành tâm với người đã khuất, …
Tờ mờ sáng hôm sau, con cháu người mất cũng như những người hàng xóm chung quanh trên tay xách con gà con vịt, người thì bọc bánh hộp trà, có khi là cá lóc, tôm càng, …, hoặc lít rượu đế mang đến cùng phụ giúp gia chủ lo lễ cúng. Đồ mang cúng thường là đồ họ trồng, tỉa hoặc kiếm bắt được. Họ tự làm, tự kiếm, chứ ít khi mua, có vậy mới thành tâm với người đã khuất, …
Con cháu đi
làm ăn xa không về kịp hay gặp bất trắc gì
đấy mà vắng mặt, thì hãy nhớ câu:
+ Chữ rằng:
vấn tổ tầm tông,
Cháu con nỡ bỏ cha ông sao đành.
Cháu con nỡ bỏ cha ông sao đành.
+ Anh đi ghe
cá cao cờ,
Ai nuôi cha mẹ, ai thờ tổ tiên?
Ai nuôi cha mẹ, ai thờ tổ tiên?
+ Công danh
hai chữ tờ mờ,
Lấy gì khuya sớm phụng thờ tổ tiên.
Lấy gì khuya sớm phụng thờ tổ tiên.
Mọi người
đến lúc một đông, người nào việc nấy người
làm gà, vịt, người nấu nước châm trà, người
lo bánh mức, …
Các bậc cao
niên thường uống trà đàm đạo chuyện nhân
tình thế thái, anh em dòng họ lâu ngày gặp
nhau vừa hỏi thăm sức khoẻ, công việc đồng
áng,… vừa là dịp để con cháu họ hàng nhận
mặt, nhớ mặt bà con,… Có gia đình đông vui
hơn cả trăm con cháu dâu rễ, chít chắt, … Có
lẽ chỉ có ngày giỗ ông bà họ mới tề tựu đông
như vậy.
Đến khoảng 9
– 11 giờ khi nấu nướng chiên xào xong xuôi
thì bày lên cúng. Ngoài mâm cúng chính bày
biện tươm tất trên bàn thờ người khuất. Bao
giờ cũng có thêm các mâm khác: đó là mâm
cúng tổ tiên (dành cho người đã khuất cao
hơn người được cúng), mâm cúng đất đai, và
mâm bày ngoài sân cúng âm binh cô hồn. Xin
nói thêm về mâm cúng này, thức ăn có thể
không bằng các mâm khác nhưng bao giờ cũng
có, bởi người ta quan niệm, ông, bà mình có
con cháu cúng giỗ, thì còn bao nhiêu hồn oan,
trôi sông lạc chợ, hồn của kẻ “sảy cối sa
cây” không nơi nương tựa. Quả là một nét đẹp
rất nhân hậu của người hiện tiền dành cho
người khuất mặt ngay cả những đối tượng mà
họ chưa hề quen biết. Các mâm cơm này không
có lư hương, nhang được cắm trên một khúc
thân cây chuối, một đoạn bụp dừa nước, …
Mâm cúng
thường không thể thiếu cơm (vì vậy còn được
gọi là cúng cơm), thịt heo kho nước dừa tươi,
thịt xào đậu đũa, tép xào khóm, khổ qua hầm
dồn thịt, gà vịt nấu cà ry và nhất là phải
có cù lao (một loại lẩu), …Đám lớn thì có
thịt heo không thì gà vịt, cá tôm cũng được.
Riêng thịt chó chỉ làm để bà con anh em
“nhậu chơi” chứ không cúng trên bàn thờ.
Khi mâm cỗ
bày biện xong thì người chủ gia đình, hoặc
con trai lớn cúng vái mời người đã khuất về
ăn uống.
Công cha đức
mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân.
Thức khuya dậy sớm cho cần,
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ hai thân.
Thức khuya dậy sớm cho cần,
Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con
Trong khi ấy,
con cháu người đã khuất thắp ngang và quỳ
lạy 4 lạy trước bàn thờ để tỏ lòng nhớ ơn và
tưởng niệm.
+ Con lạy
cha hai lạy một quỳ,
Lạy mẹ bốn lạy, thầm thì vái van.
Lạy mẹ bốn lạy, thầm thì vái van.
+ Mai đà hạc
lánh hình di
Tây phương đất Phật, mẹ đi không về!
Tây phương đất Phật, mẹ đi không về!
Nhang cháy
dần đến hơn nửa cây thì người ta cúng ít
rượu trắng (không cúng bằng rượu thuốc!) và
ít trà rồi “lui nhang”.
Mâm cỗ bày
ra con cháu anh em quầy quần ăn uống. Một
lần nữa tình thâm nghĩa trọng được trân
trọng nâng niu qua bữa cơm ấy. Họ nhấp với
nhau một vài chung rượu, kể lại công đức của
người mất hoặc cũng có khi đàm đạo tiếp
chuyện mùa màng, chuyện đời sống … Cũng tại
đây, người này giới thiệu, người kia để ý
cách chọn dâu, kén rể. Không ít cuộc hôn
nhân thành hình sau những đám giỗ như vậy.
Quả là, trong cái mất đã hiển hiện niềm tin,
sự sống. Kết thúc là chung trà với bánh ngọt,
trái cây mà mọi người mang đến được đem
xuống cùng ăn. Người về, được gia chủ tận
tình gửi cho các cháu ở nhà bánh tét, thịt
kho, ….
Họ coi nhân
ngày giỗ vừa cúng người chết vừa là để trả
ơn những người hàng xóm hay anh em đã giúp
đỡ mình trong cuộc sống.
Đến chiều,
chủ nhà còn bày cúng mâm chiều. Thường thì
mâm cúng này chỉ là mâm cơm gia đình, chỉ có
anh em dòng họ thân tín hay người ở xa chưa
về kịp mới chứng kiến và dùng bữa sau đó.
Kết thúc mâm cúng chiều, chủ nhà còn đốt
tượng trưng một số ít quần áo giấy tiền âm
phủ để người chết dùng cho năm tới, …
Ngày giỗ
chính thức chấm dứt ở đây.
Đám giỗ cứ
truyền cúng như vậy cho đến đời cháu thứ ba
thứ tư không còn nhớ ngày nữa thì thôi. Cháu
ở đời càng xa so với người chết thì cúng
càng nhỏ có khi chỉ là mâm cơm thêm món ăn
hơn thường ngày, hay cúng nồi chè, nồi cháo
là đủ, một hai năm sau nữa … bỏ luôn! Và
cũng từ đấy chấm dứt hẳn một đời người!
Trần Minh ThươngNguồn:vanchuongviet.org
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Nxb Tổng hợp Đồng Tháp, 1990
2. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
3. Trần Minh Thương, Vài nét về lễ cúng giỗ của người Việt ở Sóc Trăng, Tạp chí Nguồn sáng Dân gian, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, số 3, 2007.
4. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo Dục, H. 2006
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét