Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2018

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 143 (Hoàng Cơ Minh)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
HOÀNG CƠ MINH - Chuẩn Tướng Sài Gòn Cũ, Chủ tịch ĐẢNG VIỆT TÂN Đã Bỏ Lại Mạng Trên Đất Lào Ra Sao
Hoàng Cơ Minh sinh ngày 20 tháng 6 năm 1935 trong một gia đình khoa bảng và khá giả có đông anh chị em tại Làng Vẽ, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Tp Hà Nội). Thời niên thiếu, Y là học sinh các trường theo giáo trình Pháp: Trung học Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội. Tốt nghiệp Tú tài toàn phần (Part II). Sau này trong quân ngũ, Y ghi danh học tiếp trường Đại học Luật khoa Sài Gòn và tốt nghiệp 2 chứng chỉ Cử nhân luật.

Tướng Hoàng Cơ Minh Và Những Ngày Cuối Việt Nam Cộng Hòa

CCN - TTVN, Chicago

Cuối tháng 3 năm 1975, chiếc Tuần-dương-hạm (WHEC) Trần Nhật Duật HQ-3 trong tấm hình trên đây đã được lệnh của Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, đưa Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Tư Lệnh Hải Quân vùng II duyên hải, từ Cam Ranh ra Qui Nhơn để đích thân điều binh trực tiếp tại chiến trường.


Đồng thời, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang đã chỉ thị Phó Đề Đốc Diệp Quang Thủy, Tham-mưu-trưởng kiêm Tư Lệnh Phó Hải Quân, ra Cam Ranh để giải quyết những ứ đọng tại đó.

HQ-3 đã trở thành Soái-hạm. Tại Qui Nhơn, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (cựu Tư Lệnh Hải Quân vùng I duyên hải, được Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang chỉ thị vào chức vụ Tư Lệnh các lực lượng Hải Quân yểm trợ chiến trường Qui Nhơn) từ Cơ-xưởng-hạm Vĩnh Long HQ-802 sang HQ-3 và hầu hết các đơn vị trưởng Hải Quân đều ở trên HQ-3.

Ngày 31 tháng 3/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đích thân chỉ thị Hải Quân "bốc" Sư đoàn 22 Bộ Binh, thuộc quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, tại vịnh phía ngoài hải cảng Qui Nhơn. Hải Quân Trung Tá Lê Thuần Phong, Chỉ-huy-trưởng Hải-đội II Chuyển-vận được chỉ định sang Hải-vận-hạm Ninh Giang HQ-403 thực hiện cuộc đón quân của Sư đoàn 22 Bộ Binh. HQ-403 vừa ủi bãi thì tiếng đạn B40 nổ vang rền và nước bắn tung toé trước mũi chiến hạm. Vì chỉ là một Hải-vận-hạm, không được trang bị súng lớn, nên HQ-403 báo ngay về HQ-3 và lui ra khỏi tầm đạn, lềnh bềnh chờ lệnh. Trong khi HQ-403 chưa thể vào vịnh được thì Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh ra lệnh cho Hải-vận-hạm Hát Giang HQ-400 ủi bãi Trường Sư Phạm Qui Nhơn để đón vài đơn vị khác của Sư đoàn 22 Bộ Binh. Từ trong bờ, Việt Cộng bắn ra chiến hạm dữ dội khiến HQ-400 không thể nào ủi bãi được. Cuối cùng các đơn vị thuộc Sư đoàn 22 Bộ Binh phải bơi ra. Trong số này, có Thiếu Tướng Phan Đình Niệm, Tư Lệnh Sư đoàn 22 Bộ Binh.

Đêm 31 tháng 3/1975, sau khi được báo cáo là Thiếu Tướng Phan Đình Niệm đang ở trên HQ-400 và tinh thần ông hơi bất an, Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn II, chỉ thị Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, đang là Tư Lệnh Hải Quân vùng II duyên hải, thay thế Thiếu Tướng Phan Đình Niệm ở chức vụ Tư Lệnh Chiến trường Bình Định.

Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh
Thời gian này, nhiều Tuần-duyên-hạm (PGM) tuần tiểu vùng Sông Cầu báo cáo về Trung tâm hành quân Hải Quân Sài Gòn là xe tăng Việt Cộng và từng đoàn "Molotova" chạy trên quốc lộ, nhưng vì PGM chỉ được trang bị súng 40 ly mà thôi nên không bắn tới được. Sau khi Trung tâm hành quân Hải Quân xin Không Quân yểm trợ nhưng không được, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang đã chỉ thị các chiến hạm với trọng pháo có tầm bắn xa, bắn sập các cầu trên quốc lộ số 1 từ Qui Nhơn đến đèo Cả. Hải Quân Đại Tá Đỗ Kiểm, Tham-mưu-phó hành quân, trình lên Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham-mưu-trưởng Liên-quân, một giải pháp đặt tuyến vòng đai phòng thủ Qui Nhơn.

Trung Tướng Đồng Văn Khuyên đồng ý giải pháp do Hải Quân đề nghị và giao Hải Quân trách nhiệm điều động và chỉ huy. Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang đề nghị Bộ Tổng-tham-mưu: Nếu muốn giao nhiệm vụ đó cho Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh thì nên đặt Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh vào chức vụ Tổng Trấn Qui Nhơn để Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh có toàn quyền sử dụng lực lượng Bộ Binh và các đơn vị khác hiện diện trong vùng. 11 giờ đêm 1 tháng 4/1975, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên gọi Trung tâm hành quân Hải Quân và cho biết Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký Nghị định chỉ định Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh làm Tổng Trấn Qui Nhơn trong nhiệm vụ phối trí các lực lượng, đổ quân vào tái chiếm Qui Nhơn. 2 giờ sáng ngày 2 tháng 4/1975, Hải Quân Đại Tá Đỗ Kiểm liên lạc và trình với Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh về quyết định của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.

Sáng ngày 2 tháng 4/1975, sau khi lực lượng Hải Quân tại Qui Nhơn dồn hết vào gần bờ, Tư Lệnh Hải Quân vùng II duyên hải, kiêm Tư Lệnh Chiến trường Bình Định, kiêm Tổng Trấn Qui Nhơn Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, cùng vài đơn vị nhỏ của Bộ Binh và một số sĩ quan Hải Quân đổ bộ lên Qui Nhơn thăm dò tình hình. Lúc này Thiếu Tướng Phan Đình Niệm đã rời vùng trách nhiệm theo HQ-400 về Vũng Tàu.

Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đích thân liên lạc vô tuyến với các đơn vị của Sư đoàn 22 Bộ Binh chưa di tản nhưng không thể liên lạc được. Sự phối trí giữa Địa Phương Quân và Biệt Động Quân tăng phái cũng không thực hiện được. Chiều 2 tháng 4/1975, toán quân đổ bộ trở lại chiến hạm. Kế hoạch lập chiến tuyến ở Qui Nhơn bị bức tử khi vừa mới tượng hình... Trên đường trở về Bộ-chỉ-huy Hải Quân vùng II duyên hải đóng ở Cam Ranh, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh chỉ thị Hộ-tống-hạm (PCE) Đống Đa HQ-07 bắn yểm trợ vùng Phú Yên. Cũng chính Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh trực tiếp điều động tất cả các lực lượng Hải Quân trong vùng và liên lạc với các đơn vị bạn trên bờ để thực hiện các cuộc đón quân dọc theo miền duyên hải... Về đến Cam Ranh, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh dùng trực thăng thị sát diễn tiến các cuộc "đổ" và "bốc" quân...

Trong ngày 2 tháng 4 năm 1975, HQ-3 đã đưa Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh từ Cam Ranh vào phòng tuyến Phan Rang sau khi ông đã ra lệnh thiêu hủy kho dụng cụ điện tử do Hoa Kỳ để lại. Chiều ngày 3 tháng 4/1975, gần Duyên-đoàn 27 ở Ninh Chữ, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh từ HQ-3 chuyển sang Tuần-dương-hạm Trần Quang Khải HQ-2.

Ngày 15 tháng 4/1975, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh cùng Hạm-trưởng HQ-2 là Hải Quân Trung Tá Đinh Mạnh Hùng (trùng cả tên lẫn họ với Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng, phụ tá Tư lệnh Hải Quân hành quân lưu-động-sông) đáp trực thăng vào phi trường Phan Rang tham dự buổi họp với Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Sư đoàn trưởng Sư đoàn VI Không Quân, và vài sĩ quan cấp tá. Sau buổi họp bị gián đoạn, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh được một trực thăng đưa ra Tuần-dương-hạm Trần Nhật Duật HQ-3, Hải Quân Trung Tá Đinh Mạnh Hùng đi từ phi trường Phan Rang đến Duyên-đoàn 27 ở Ninh Chữ và đáp Yabuta trở lại Tuần-dương-hạm Trần Quang Khải HQ-2.

Ngày 16 tháng 4/1975, Dương-vận-hạm Nha Trang HQ-505 (chở tám trăm tấn đạn 105 ly và 155 ly từ thành Tuy Hạ ra tiếp tế Phan Rang) và Hải-vận-hạm Hậu Giang HQ-406 (chở hai đại đội Cảnh sát Dã chiến từ Cát Lỡ ra tăng cường cho mặt trận Phan Rang) đến hải phận Phan Rang. Lúc hai chiến hạm tiến vào bãi biển Phan Rang thì được lệnh của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh không cho ủi bãi. Hai vị Hạm-trưởng báo cáo về Sài Gòn rồi lềnh bềnh cách bờ khoảng hai hải-lý, chờ lệnh.

Tối 16 tháng 4/1975, tình hình Phan Rang sôi động. HQ-3 đổi vị thế. HQ-505 và HQ-406 được lệnh lui ra xa. Sáng ngày 17 tháng 4, 1975, hai chiếc T54 nằm ngay bãi biển Phan Rang và nòng súng chĩa thẳng ra các chiến hạm. HQ-406 được lệnh chở Cảnh sát Dã chiến về lại Cát Lỡ. HQ-505 lềnh bềnh chờ lệnh. Sau đó không lâu, HQ-505 được lệnh rời vịnh Phan Rang và HQ-3 đưa Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh về Sài Gòn...

Nguồn: trích từ bài viết của Điệp Mỹ Linh trong cuốn tài liệu Hải Quân VNCH Ra Khơi, 1975, xuất bản năm 1990, tái bản 2011.

---- oOo ----

Tiểu Sử Chủ Tịch Hoàng Cơ Minh


Chiến hữu Hoàng Cơ Minh sinh tại Hà Nội năm 1935, trong một gia đình văn học.

Thưở thiếu thời, trong những năm ở Tiểu và Trung học, ông còn theo học hàng tuần lớp chữ Nho do Việt Nam Văn Hóa Hiệp Hội tổ chức, ban giảng huấn gồm những bậc khoa bảng thời đó như quý Cụ Bảng Nhỡn Nguyễn Can Mộng và các Cụ Cử Ngô Thúc Địch, Trần Lê Nhân và Cụ Từ Long Lê Đại.

Tại trường trung học Chu Văn An, ông là một học sinh xuất sắc, đồng thời tham gia tích cực vào các sinh hoạt thể thao của Nhà Trường.

Sau khi tốt nghiệp trung học, ông theo học trường Đại Học Khoa Học thuộc Viện Đại Học Hà Nội. Chẳng bao lâu thì xẩy ra việc chia đôi đất nước bởi hiệp định Geneve, ông đã theo làn sóng của 1 triệu đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam, cùng với đoàn sinh viên Đại học Hà Nội vào trung tuần tháng 8 năm 1954.

Năm 1955 ông quyết định rời bỏ đèn sách, tình nguyện nhập học trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang.

Ra trường với cấp bậc Thiếu Úy, ông được phục vụ tại các Hải Đoàn Xung Phong, hoạt động tại các kinh rạch Tiền Giang và đã tham dự chiến dịch Rừng Sát tấn công vào sào huyệt của loạn quân Bình Xuyên.

Cũng trong thời gian này vì can thiệp cho một số chiến hữu thuộc quyền, mà ông cho là đã bị bắt giữ trái phép, đời binh nghiệp của ông tưởng đã gẫy đổ với gần hai tháng tù tại nhà giam Chí Hòa.

Thời gian bị khó khăn với pháp đình cũng là cơ hội để ông làm quen với nhiều tù nhân chính trị danh tiếng hồi đó như Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân đồng thời có thì giờ và nhu cầu nghiên cứu tài liệu về Luật. Khi được phóng thích, ông trở về quân ngũ, đồng thời ghi danh theo học tại Đại Học Luật khoa Sài Gòn, và tốt nghiệp năm 1959.

Năm 1959, ông qua Hoa Kỳ tu nghiệp hai năm tại trường Hải quân U.S. Naval Post Graduate School tại Monterey, California.

Năm 1961, ông mang cấp bậc Hải quân Đại Úy và phục vụ trên các chiến hạm với các chức vụ Hạm Phó, rồi Hạm Trưởng các Giang Pháo hạm và Hộ Tống hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.

Sau một thời gian phục vụ trên các chiến hạm ngoài biển, ông được thuyên chuyển về trường Hải Quân Nha Trang với chức vụ Chỉ Huy Phó.

Năm 1964 ông được chỉ định làm Tùy Viên Hải Quân, rồi Tùy Viên Quân Lực tại Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Đại Hàn. Mang cấp bậc Thiếu Tá và làm công việc của một sĩ quan cấp Tướng, 2 năm phục vụ tại Đại Hàn của ông đã là thời gian làm việc không ngơi nghỉ, vì đây cũng là thời gian có sự tham dự ồ ạt của các quân đội đồng minh tại Việt Nam, trong đó phải kể 2 Sư đoàn Thanh Long và Bạch Hổ của Đại Hàn.

Sau 2 năm phục vụ tại Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Đại Hàn, ngày rời nhiệm sở, ông đã nhận lãnh phần an ủi tinh thần thật lớn. Ông là người Việt Nam đầu tiên và là người ngoại quốc thứ 14 nhận lãnh huy chương cao quý nhất của Quốc hội và Tổng Thống Đại Hàn, dành cho những người ngoại quốc mà hầu hết là các nguyên thủ quốc gia.

Sau khi hết nhiệm kỳ 2 năm tại Đại Hàn, ông được Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hoà cho lựa chọn 2 quốc gia để tiếp tục nhiệm vụ Tùy Viên. Hai quốc gia đó là Trung Hoa Quốc Gia và Tây Đức, song ông đã từ chối và xin trở về phục vụ trong đại gia đình Hải Quân.

Về nước ông được cử làm Trưởng Phòng Chiến Tranh Chính Trị tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân với cấp bậc Trung Tá.

Thời gian phục vụ tại Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Đại Hàn và thời gian làm Trưởng Phòng Chiến Tranh Chính Trị Quân Chủng Hải Quân đã đưa tới cho ông những nhận định chính trị, những quan niệm tích cực về xây dựng đất nước. Ông đã cùng một số bạn trẻ gồm cả thành phần quân đội lẫn dân sự lập ra một tổ chức chính trị sinh hoạt kín có tên là "Lực Lượng Quần Chúng Việt Nam Tự Giải Phóng". Hai trong số các cộng sự viên của ông vào hồi đó là BS Nguyễn Đan Quế, hiện đang là nhân vật đối kháng nổi danh trong nước và Giáo sư Hoàng Cơ Định, một cán bộ lãnh đạo của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam.

Năm 1969, khi chiến trường khắp nơi sôi động, ông đã được đề cử làm Tư Lệnh Phó, rồi Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ với cấp bậc Đại Tá. Lực Lượng Thủy Bộ thuộc quân chủng Hải Quân là lực lượng Tổng Trừ Bị với bộ Tư Lệnh đóng tại Cần Thơ, có nhiệm vụ chính yếu là yểm trợ chiến trường miền Tây, mở các cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị Bộ Binh, xử dụng lực lượng cơ hữu gồm những chiến đĩnh, khinh tốc đỉnh đánh thẳng vào mật khu địch tại vùng U Minh, Cà Mâu.

Năm 1973, ông rời Lực Lượng Thủy Bộ, nhận lãnh trách vụ Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải với Bộ tư Lệnh đóng tại bán đảo Cam Ranh, tiếp nhận những căn cứ Hải Quân do Hoa Kỳ bàn giao lại và lãnh trọng trách bảo vệ một phần hải phận Việt Nam.

Năm 1974 ông được vinh thăng Phó Đề Đốc Hải Quân, là một trong những Tướng Lãnh trẻ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và là sỹ quan đầu tiên lên hàng Tướng Lãnh trong khóa Sỹ quan Hải Quân năm 1955.

Vào những ngày đen tối nhất của lịch sử, trước ngày di tản, ông đã lần lượt được chỉ định làm Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn II, Tư Lệnh Mặt Trận Phú Yên Bình Định, Tư Lệnh Mặt Trận Phan Rang Phan Thiết (người thay thế ông trước khi Phan Rang thất thủ là Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, nguyên Tư Lệnh Quân Đoàn IV).

Trong những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, trước thực trạng của đất nước, ông đã cố gắng vận động những Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ thân hữu, trong mục đích bỏ phiếu trao trách nhiệm điều động đất nước cho Quân Lực, thay vì cho Dương Văn Minh, vì ông nhận thấy lúc đó chỉ có Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là niềm tin chót để cứu vãn tình hình và cương quyết chống Cộng. Tuy nhiên kết quả đã không như ý muốn và hậu quả thì chúng ta đều biết.

Những ngày đầu tỵ nạn trên đất Mỹ, ông đã được dành cho một số quyền lợi viết Quân Sử hay đi thuyết trình, ông đã từ chối những trợ giúp cá nhân đó để làm một nghề thật tầm thường, nghề thợ sơn. Với nghề này, mỗi năm ông chỉ cần làm việc trong vòng 6, 7 tháng, thời gian còn lại ông dùng để đi từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, Từ Hoa Kỳ sang Nhật Bản, sang Gia Nã Đại để liên lạc, móc nối, tổ chức những người tâm huyết mang quyết tâm giải phóng tổ quốc. Ông đã thành lập Lực Lượng Quân Nhân Việt Nam Hải Ngoại, sau đổi thành Lực Lượng Quân Dân Việt Nam Hải Ngoại, trước khi giải thể để hình thành Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam. Trong vai trò lãnh đạo Mặt Trận, ông đã cùng các chiến hữu tiên phong trở về lập Khu Chiến để mưu cầu giải phóng đất nước, một trách nhiệm mà đất nước và dân tộc đã dành cho ông: Trách nhiệm của một công dân Việt Nam. Ông cũng là chủ tịch sáng lập Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng.

Chiến hữu chủ tịch Hoàng Cơ Minh

Việt tân” là tổ chức như thế nào?

“Việt tân” là tổ chức như thế nào?
Thời gian qua, trên các phương tiện truyền thông đại chúng, mạng xã hội chúng ta đều nghe nhắc tới tổ chức “Việt tân” như một tổ chức có hoạt động chống Nhà nước mạnh mẽ nhất của những người Việt tại hải ngoại ra đi sau sự kiện năm 1975; đặc biệt sau khi Cổng thông tin điện tử Bộ Công an đưa tổ chức này vào danh sách tổ chức khủng bố; vậy “Việt tân” là gì? Cùng thử tìm hiểu cái tên đang “hot” này xem như thế nào?Trên đây là quan điểm cá nhân của tôi, trên cơ sở nhận định đánh giá dựa trên những tài liệu có thật, đã được công bố, kiểm chứng, không nhằm tô hồng hay bôi đen cái tổ chức này để tránh bị cho là Dư luận viên ăn lương 3 củ của Nhà nước. Trước tiên, hãy cùng tìm hiểu quá trình phát triển của tổ chức này…
          Từ “Mặt trận quốc gia giải phóng Việt Nam” đến tổ chức khủng bố
Tìm kiếm ngay trên trang bách khoa thư mở Wikipedia, chúng ta có thể tìm thấy nhiều tài liệu về “Việt tân” (tên đầy đủ là “Việt Nam canh tân cách mạng đảng” – Vietnam Reform Revolutionary Party, VRRP), tiền thân của nó là “Mặt trận quốc gia giải phóng Việt Nam”, được thành lập năm 1981do Hoàng Cơ Minh, nguyên Chuẩn tướng, Phó Đô đốc hải quân chính quyền “Việt Nam cộng hòa” đứng đầu; hoạt động nhằm mục đích nhằm hoạt động vũ trang lật đổ Chính quyền Việt Nam.
Ngay sau khi thành lập, để thực hiện việc lật đổ chế độ Cộng sản ở Việt Nam, năm 1981, Hoàng Cơ Minh đã đến tỉnh Udon, Thái Lan (khu vực biên giới Thái Lan – Lào); từ năm 1983 – 1985, Hoàng Cơ Minh vào các trại tị nạn người Việt trên đất Thái Lan để tuyển chọn khoảng 200 người đưa về căn cứ để tổ chức huấn luyện và thành lập 04 Quyết đoàn mang bí số từ 7684-7687; từ 1985 -1987, Hoàng Cơ Minh đã thực hiện các chuyến đưa người về Việt Nam mang bí danh “Đông tiến 1”, “Đông tiến 2”, “Đông tiến 3” nhằm xâm nhập về Việt Nam lập căn cứ để từ đó hoạt động vũ trang lật đổ chính quyềnViệt Nam nhưng đều bị ngăn chặn; ngày 27/8/1985, trong một trận đánh với bộ đội Lào, Việt Nam trên đường di chuyển từ Lào về Việt Nam, Hoàng Cơ Minh đã bị thương và tự sát. Việc Hoàng Cơ Minh chết nên toán quân tan rã, một số chạy về Thái Lan, một số bị bắt. Tháng 12/1987, Tòa án nhân dân Tối cáo đã mở phiên tòa xét xử vụ án “Hoàng Cơ Minh và đồng bọn” tại Thành phố Hồ Chí Minh, sự kiện này đã đánh dấu sự kết thúc của một giai đoạn hoạt động của “Việt tân”.
Trong những năm 1980, để có kinh phí hoạt động “Việt tân” và các tổ chức tiền thân của nó đã tổ chức quyên góp, cưỡng ép được mộtsố lượng lớn tiền, vàng trong số người Việt hải ngoại tại Mỹ và các nước Tây Âu và thu được con số rất lớn lên đến hàng chục triệu đô la nhưng việc sử dụng số tiền đó bị một số nhà báo nghi ngờ gian lận, trong đó có nhà báo Nguyễn Đạm Phong, chủ bút tờ báo “Tự do”, người mà trong phóng sự “Khủng bố ở Little Sài gòn” (Phóng sứ điều tra do Frontline và ProPublica năm 2015) đã chứng minh là bị Biệt đội mang bí danh K9 của “Việt tân” ám sát. Ngoài, Đạm Phong còn có 04 Nhà báo khác cũng chung tình cảnh tương tự khi phơi bày những sự thật về việc sử dụng số tiến quyên góp không minh bạch của “Việt tân” và sự dối trá của cái gọi là “mật khu”. Con trai nhà báo Nguyễn Đạm Phong, ông Nguyễn Thanh Tú cho biết:“Sau khi nghi ngờ về các hoạt động của “Việt tân”, ông Nguyễn Thanh Tú đã bay sang Thái Lan để tìm hiểu thông tin về các “mật khu” có tời 10.000 kháng chiến quân của ông Hoàng Cơ Minh nhưng sự thật thật bất ngờ những căn cứ đó ở Thái Lan chứ không phải Việt Nam như những gì “Việt tân” tuyên bố và cũng chẳng có 10.000 kháng chiến quân mà chỉ có mấy trăm người trong đó có cả những người Lào, người Thái cùng chụp ảnh, quay phim cùng để quảng cáo; bố tôi tìm được sự việc này bay về để chuẩn bị cho ra một số báo để vạch trần những việc đó, biết như vậy “Việt tân” đã cử người gặp bố tôi hăm dọa, thủ tiêu…”.

bca-thong-bao-viet-tan-la-to-chuc-khung-bo






Nói về việc không minh bạch trong việc sử dụng những khoản tiền quyên góp được, ông Nguyễn Ngọc Lập, người nổi tiếng là người có lập trường chống Cộng đã phát biểu trên phố Bonsa Tv cho biết, “Việt tân” sử dụng phần lớn số tiền quyên góp đươc để mở chuỗi các nhà hàng phở Bò, hoặc kinh doanh tài chính, địa ốc để thu lợi… và cũng chính từ những mâu thuẫn trong việc sử dụng số tiền “Việt tân” đã sảy ra mâu thuẫn chia tách thành 02 phe Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu của để đánh lại lẫn nhau.
Năm 2004, “Mặt trận quốc gia giải phóng Việt Nam” tuyên bố ngừng hoạt động để chuyển sang một hình thức hoạt độngđược cho thích hợp với tình hình mới thể hiện qua các hoạt động của “Việt tân”, thường gắn với các khẩu hiệu đòi “dân chủ”, “nhân quyền”, “lật đổ chế độ Cộng sản”… Trên trang mạng chính thức “Việt tân” đã đề ra chủ trương “Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng chủ trương tiến hành cuộc cách mạng bằng chính sức mạnh và trí tuệ của dân tộc Viêt Nam để chấm dứt ách độc tài cộng sản hầu có điều kiện tiến hành công cuộc canh tân đất nuớc. Chủ trương này được thực hiện với hai nỗ lực Chấm Dứt Độc Tài và Canh Tân Đất nước”.

tay-chay-viet-tan
Sự kiện gần đây nhất liên quan đến tổ chức “Việt tân” là việc ông Nguyễn Đạm Phong đã chứng minh, có thể khởi kiện việc “Việt tân” hoạt động bất hợp pháp tại Mỹ suốt hơn 30 năm qua (nguồn Blogg Nguyễn Đạm Phong) và ngày 07/10/2016, Bộ Công an Việt Nam đã đang tải chính thức trên Cổng thông tin của mình đã liệt “Việt tân” vào danh sách các tổ chức khủng bố với những cáo buộc như: “tiếp tục tuyển mộ, huấn luyện, chỉ đạo thành viên xâm nhập về Việt Nam kích động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn, thủ tiêu, bắt cóc con tin; đưa người ra nước ngoài đào tạo, huấn luyện, tổ chức các khóa đào tạo trực tuyến về phương thức, hoạt động khủng bố, phá hoại; tán phát lên mạng Internet hướng dẫn cách chế tạo bom xăng để phục vụ hoạt động khủng bố, phá hoại, ám sát…”. Ngay lập tức Bộ ngoại giao Hoa kỳ đã lên tiếng bác bỏ “Việt tân” không phải là một tổ chức khủng bố theo pháp luật Hoa Kỳ.
Hiện nay, những người lãnh đạo của “Việt tân” gồm: Đỗ Hoàng Điềm (“Chủ tịch Đảng”), Lý Thái Hùng (“Tổng Bí Thư”), Hoàng Tứ Duy (“Phát ngôn viên”) và các Ủy viên trung ương khác đều mang quốc tịch Mỹ và các nước Tây Âu.
Vậy “Việt tân” là tổ chức như thế nào?
Trên đây, tôi đã cố gắng tóm tắt những thông tin tổng quát nhất trên tổ chức “Việt tân” từ năm 1980 đến nay, những thông tin này không hiếm hoi gì, các bạn có thể tìm kiếm trên Wikipedia, Youtube… giúp các bạn phần nào hình dung về tổ chức “Việt tân”,còn từ đây tôi xin đặt ra những câu hỏi để các bạn cùng trả lời “Việt tân là gì” và cũng là phần suy nghĩ cá nhân của tôi:
1.“Việt tân” – một tổ chức hoạt động bất hợp pháp trên đất Mỹ, hoạt động với nhiều khuất tất, dối trá và sẵn sàng thủ tiêu tất cả những người là đồng bào của mình nếu dám đem những sự thất ấy phơi bày những ra ánh sáng; luôn cho rằng mình đấu tranh vì “dân chủ”, “nhân quyền” nhưng thường xuyên kêu gọi, kích động biểu tình, bạo loạn lật đổ vậy đó có phải một tổ chức mafia hay khủng bố?
  1. Tại sao một tổ chức bất hợp pháp như thế ngay sau khi Bộ Công an Việt Nam vừa đưa vào danh sách khủng bố thì Bộ ngoại giao Hòa kỳ đã phản ứng ngày lập tức rằng “Việt tân không phải tổ chức khủng bố theo pháp luật Hoa Kỳ” và bảo vệ cho những hoạt động của nó trên đất Mỹ? Điều đó làm tôi nhớ lại, khi dựng Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền ở miền Nam thì Mỹ gọi Diệm là anh hùng dân tộc, là người mang tự do dân chủ cho Việt Nam nhưng sau khi Diệm có ý định độc lập hơn so với Mỹ, hay nói thẳng ra là không chịu nghe lời từ Mỹ thì Mỹ cho rằng chế độ của Diệm là độc tài, gia đình trị, thậm chí là bật đèn xanh cho số sỹ quan “Việt Nam Cộng hòa” sát hại Ngô Đình Diệm, điều đó cho thấy khủng bố hay không khủng bố,dân chủ hay không dân chủ, nhân quyền hay không nhân quyền,hợp pháp hay không hợp chỉđược coi như một chiêu bài để biện minh cho những hành động chính trị, nó như thế nào thì chỉ cần xem thái độ có theo Mỹ hay không mà thôi?
3.Các yếu nhân của “Việt tân” để là những người mang quốc tịch nước ngoài như Mỹ và các nước phương Tây vậy những ông Tây ấy vì sao luôn kêu gọi hoạt động lật đổ chính quyền ở Việt Nam và những ông Tây ấy hoạt động vì dân tộc Việt Nam hay vì lợi ích của người Mỹ và phương Tây? Hay thử một ví dụ, nếu những ông Tây ấy có thể về lãnh đạo đất nước thì Việt Nam này sẽ được dẫn dắt, lãnh đạo bởi những người Mỹ, Tây Âu hay sao? Một tổ chức luôn cho rằng mình có thực lực, có trí tuệ, muốn lật đổ Đảng Cộng sản và lãnh đạo đất nước thì thử hỏihơn 30 năm qua cái tổ chức ấy đã là được gì?nó giỏi dang thế sao không thể đoàn kếtViệt Nam hải ngoại vànhững con người ấy nếu lãnh đạo cái đất nước này sẽ ra sao?
4.Đất nước ta, trong mấy chục năm qua đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc làm tụt lùi lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, hơn ai hết chúng ta hiểu rằng chúng ta cần hòa bình, để ổn định, để phát triển haynhững khẩu hiệu “dân chủ”, “nhân quyền” giả hiệu do những “ông Tây”, những “anh hùng bàn phím” kêu gọiđể trước hết những người tin theo lời chúng thì trước hết bị Cơ quan An ninh xử lý rồi đến khi nhận ra mình chỉ là những viên đá lót đường cho những ý đồ chính trị của những kẻ mà dẫu cái đất nước này có ra sao thì chúng cũng chẳng mất gì vì chúng là người Mỹ, người Châu Âu và cái đất nước này sẽ lại loạn lạc thêm một lần nữa?
Đến đây, tôi xin tạm kết bài viết của mình, bằng những câu hỏi, chắc hẳn mỗi bạn đọc sẽ có những nhận định riêng, câu trả lời riêng của mình; còn tôi chỉ muốn đưa ra một lời khuyên hãy tỉnh táo và cân nhắc những hành động của mình vì một Việt Nam đoàn kết và vì một Việt Nam phát triển.

Sự chống phá của Tổ chức khủng bố Việt Tân là không thể chối cãi

Dã tâm chống phá nhà nước của tổ chức khủng bố Việt Tân đã thể hiện rõ ngay từ khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt động.”
Lai lịch tổ chức khủng bố Việt Tân
Tháng 10/2016, Bộ Công an Việt Nam đã công bố thông tin về tổ chức khủng bố Việt Tân.
Theo đó, Việt Tân có tên đầy đủ là “Việt Nam canh tân cách mạng đảng”, trụ sở chính đặt tại: 2530 Berryessa Rd #234 San Jose CA 95132 – 2903, Mỹ. Văn phòng 2 tại Bangkok, Thái Lan.
Cơ quan tuyên truyền của Việt Tân gồm báo “Kháng chiến”; đài “Việt Nam kháng chiến”, “Chân trời mới”.
bai-1-da-tam-chong-pha-nha-nuoc-cua-to-chuc-khung-bo-viet-tan-0821489
Đối tượng cầm đầu, chỉ huy tổ chức khủng bố Việt Tân được Bộ Công an xác định là Đỗ Hoàng Điềm.
Đối tượng cầm đầu, chỉ huy được Bộ Công an xác định là Đỗ Hoàng Điềm, sinh năm 1963, quốc tịch Mỹ – Chủ tịch Việt Tân. Bên cạnh y là Lý Thái Hùng, sinh năm 1953, quốc tịch Mỹ – Tổng bí thư Việt Tân.
Tìm về lai lịch của tổ chức khủng bố Việt Tân khiến nhiều người không khỏi ngỡ ngàng.
Năm 1981, Hoàng Cơ Minh, nguyên chuẩn tướng, Phó Đô đốc hải quân chính quyền Sài Gòn cũ thành lập Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam (Mặt trận) nhằm chống Việt Nam bằng các hoạt động vũ trang, khủng bố.
Sang năm 1982, Hoàng Cơ Minh lập “Việt Nam canh tân cách mạng đảng”, là cơ quan đầu não, chỉ huy mọi hoạt động của “Mặt trận”. Các thành viên “Mặt trận” đồng thời cũng là thành viên của Việt Tân.
Sau khi thành lập, Việt Tân đã tuyển mộ, huấn luyện cho thành viên cách thức sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tiến hành các hoạt động khủng bố, phá hoại, bắt cóc, thủ tiêu con tin…
Những hoạt động bắt cóc, thủ tiêu con tin một cách bẩn thỉu, đầy ghê rợn sẽ được chúng tôi làm rõ ở các bài tiếp theo. Thậm chí, ngay trong nội bộ Việt Tân cũng có người đứng ra để tố cáo những hành động đáng ghê tởm của tổ chức này.
Sau khi thành lập cái gọi là “Mặt trận”, Hoàng Cơ Minh chủ trương thực hiện ba đợt Đông tiến: Đông tiến I (1985 – 1986), Đông tiến II (1987), Đông tiến III (1989), đưa các toán vũ trang với 246 đối tượng từ Thái Lan xâm nhập qua Lào, Campuchia về Việt Nam để lập mật cứ, tiến hành hoạt động bạo loạn, khủng bố.
Tuy nhiên, ý đồ xâm nhập về phá hoại quê hương chưa kịp thực hiện, những toán phiến quân đã bị Bộ đội biên phòng Việt Nam và quân đội bạn ở biên giới phát hiện và tóm gọn.
Trước những tổn thất liên tiếp, Hoàng Cơ Minh đã dốc toàn lực lượng do đích thân y chỉ huy, xâm nhập vào Việt Nam để mong cứu vãn “uy tín” nhưng cũng như những toán quân trước, vừa lội qua dòng sông Mekong xâm nhập vào đất Việt, lực lượng phiến quân của Hoàng Cơ Minh đã bị Bộ đội biên phòng Việt Nam đánh tan tác.
Trong lần xâm nhập ấy, một số phiến quân Việt Tân bị bắt sống, Hoàng Cơ Minh và nhiều quân lính bỏ mạng ở ven biên giới Việt Nam. Thế là ý đồ mang vũ khí về đánh phá quê mẹ của Việt Tân đã bị nhấn chìm. Dã tâm phá hoại đất nước của Hoàng Cơ Minh đã bị đập tan ngay khi mới bắt đầu.
Ở nước ngoài, Việt Tân thành lập “Đội sát thủ K9” do các thành viên cốt cán cầm đầu, chuyên tiến hành khủng bố, thủ tiêu những nhà báo gốc Việt đưa tin vạch mặt hoạt động lừa đảo kiều bào của Hoàng Cơ Minh và đồng bọn.
Trong đó, có ông Dương Trọng Lâm, chủ bút báo “Cái đình làng” tại San Fransisco và ông Nguyễn Đạm Phong, người sáng lập báo “Tự do” tại Houston… là những người đã bị tổ chức Việt Tân sát hại một cách dã man bằng các chiêu trò bẩn thỉu.
Sau này, chính những người liên quan đã tiết lộ những sự thật đáng ghê sợ do Việt Tân gây ra khiến nhiều người càng hiểu thêm bản chất xấu xa của chính tổ chức khủng bố này.
Ăn cướp lòng tin người Việt ở hải ngoại
Năm 2004, Việt Tân chính thức hoạt động công khai ở hải ngoại. Tuy nhiên, khi tìm hiểu nguồn tài chính cho tổ chức này hoạt động, nhiều người không khỏi ngỡ ngàng và phát hiện ra bộ mặt xảo trá của tổ chức khủng bố Việt Tân.
Nguồn tài chính của đám tàn quân dưới sự dẫn dắt của Hoàng Cơ Minh lấy từ việc làm “giả chiến khu” để lừa gạt bà con ở hải ngoại quyên góp.
Theo thông tin từ mấy kẻ đầu não Việt Tân, chỉ trong khoảng hai năm, số tiền người Việt ở hải ngoại chắt bóp gửi cho Việt Tân lên tới vài chục triệu USD.
Đáng ghê tởm hơn, từ một tổ chức khủng bố, Việt Tân đã tự tô vẽ, thổi phồng lên thành “đảng phái chính trị”, rồi liên tục ru ngủ bằng đủ trò lừa dối trắng trợn.
Tổ chức Việt Tân bỏ tiền mua chuộc, khống chế truyền thông, lập các trang mạng, trang web để lèo lái thông tin trong và ngoài nước.
Chúng dùng tập đoàn con cháu, họ hàng để “gia đình trị” và đè bẹp sức ảnh hưởng từ các tổ chức khác đang ngo ngoe muốn cạnh tranh với Việt Tân.
Điều nguy hiểm hơn là tổ chức khủng bố Việt Tân đã tập trung nguồn lực, tài chính để nuôi dưỡng hàng trăm người chỉ làm công việc duy nhất là sống trên các diễn đàn, các trang mạng ảo để thực hiện chiêu trò đánh bóng, quảng bá cho Việt Tân.
Những thủ đoạn, mưu kế, kiếm chác trên mồ hôi, xương máu của người Việt tại hải ngoại của Việt Tân khiến xung đột trong tổ chức khủng bố này hình thành, âm ỉ và đã lên đến đỉnh điểm khi Trần Xuân Ninh và Hoàng Cơ Định công khai, trực tiếp bóc trần bản chất của nhau vào năm 2006.
Đó là khi trong Việt Tân nổi lên phe cánh của Trần Xuân Ninh và người này công khai chỉ đích danh Hoàng Cơ Định phản bội “truyền thống, bản sắc của Việt Tân thuở ban đầu”…
Sau khi Hoàng Cơ Minh chết tại Lào, cái gọi là “Mặt trận” giải tán, rồi Việt Tân thay thế. Dù không ra mặt nhưng Hoàng Cơ Định chính là người nắm quỹ tài chính, điều hành hoạt động của Việt Tân từ đó đến nay.
Người phát ngôn chính thức của Việt Tân là Hoàng Tứ Duy. Hoàng Tứ Duy là con trai của Hoàng Cơ Định.
“Chủ tịch tổ chức khủng bố Việt Tân” là Đỗ Hoàng Điềm. Cha Đỗ Hoàng Điềm là Đỗ Thúc Vịnh, mẹ của Điềm là Hoàng Thị An, chị ruột của Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Định.
Đây là nguyên nhân giải thích việc phe cánh Trần Xuân Ninh mặc dù trực tiếp, công khai đứng ra chỉ trích, thậm chí chỉ đích danh Hoàng Cơ Định là kẻ phản bội song đã bị chìm xuồng nhanh chóng.
Các vị trí chủ chốt của Việt Tân nằm gọn trong tay dòng họ Hoàng Cơ và không khác gì tổ chức “gia đình trị” thao túng.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng lý do Trần Xuân Ninh “phản” là do chia chác không đều.
Giữa thập niên 1980, bà con ở hải ngoại đóng góp cho Việt Tân hơn 20 triệu USD, đến nay là hơn 100 triệu USD.
Tuy nhiên, Hoàng Cơ Định và dòng họ Hoàng Cơ dùng số tiền này để kinh doanh, không bao giờ minh bạch hóa nguồn đóng góp.
Ngay cả vây cánh thân cận mà Hoàng Cơ Định cũng không chia chác lợi nhuận cho đồng đều dẫn đến mâu thuẫn, xích mích.
Bộ mặt xảo trá của Việt Tân được chính Phạm Thành, một cựu Phó ban Đông tiến tố cáo. Phạm Thành tuyên bố Việt Tân thực chất là “một bọn ăn cướp”, ăn cướp lòng tin và tàn phá cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại.
Số tiền khổng lồ thu được vì công cuộc chung, nhưng nằm trong tài khoản ngân hàng của một cá nhân, gia đình người cầm đầu, không công khai nguồn thu chi, không có bất cứ giấy tờ, tài liệu cụ thể chứng minh thì làm sao công luận biết được chi thu nhằm mục đích gì, cho ai, bao nhiêu.
Bản chất của Hoàng Cơ Định và dòng họ Hoàng Cơ được ngụy trang dưới lớp áo “đấu tranh” và sau đó cũng bị phanh phui, đấu tố.
Tuy nhiên, những ai có ý định phanh phui bộ mặt thật của Việt Tân đều bị “Nhóm sát thủ K9” của Việt Tân thanh toán.
Ghê sợ nhất là hai cây bút Đạm Phong và Lê Triết công khai viết bài đả kích, vạch trần bộ mặt thật của Việt Tân là bịp bợm, lừa đảo, sau đó bị giết thảm.
Tổ chức khủng bố Việt Tân đang sống bằng các chiêu trò trí trá, đồng tiền được sử dụng nuôi đội ngũ thành viên chỉ chăm chú công việc tô vẽ cho Việt Tân và chống phá đất nước.
Chúng đã và đang sống bằng đồng tiền mồ hôi nước mắt của một số người ở hải ngoại, hoặc còn đeo đẳng mối hận thù với quê hương, hoặc vì mơ hồ mà tin theo luận điệu tuyên truyền của Việt Tân.
Vỏ bọc của tổ chức khủng bố Việt Tân được dựng lên bằng nền móng của sự dối trá, lừa đảo, cùng vô số thủ đoạn bẩn thỉu, đen tối nên ngày tàn của tổ chức khủng bố này cũng đang đến gần.
Công Lý (Báo VTC NEWS)

NHỮNG SỰ THẬT VỀ CÁI CHẾT CỦA HOÀNG CƠ MINH (HCM)



LTS.- Có những sự kiện trong lịch sử của nhân loại nói chung, hay của một dân tộc nói riêng, đã khắc sâu vào tâm khảm của con người từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tại Việt Nam, cho tới nay không người nào khi kể tới bao hành động lừa bịp, khủng bố dã man, tàn ác đối với người dân Việt của tập đoàn cai trị Hồ chí Minh cùng cái đảng Cộng-sản của chúng, thêm vào việc tự nguyện làm tay sai cho Nga, Tàu, để lần lượt cắt nhượng, dâng biếu ngoại bang từ lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo, tài nguyên thiên nhiên lẫn nhân lực, thì mọi người đều đã nhận chân ra được: Chúng là lũ Việt-gian! Chúng là lũ tội đồ của dân tộc.

Trớ trêu thay, trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng-sản tại hải ngoại, hiện nay vẫn còn những bè đảng cũng mạo nhận là người "Quốc-gia", "chống cộng", nhưng hành động của chúng lại làm tay sai cho Việt-gian cộng-sản, tức là làm lợi cho tập đoàn việt-gian cộng-sản đang cai trị gần chín chục triệu người dân Việt trong nước để kéo cả nước xuống tình trạng suy đồi mọi mặt như hiện nay! Thêm vào đó, hiểm họa nô lệ giặc Bắc phương cũng gần kề!
Nhận thấy bài viết: "Những sự thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh" dưới đây, của tác giả Nguyễn Toàn đến nay vẫn còn giá trị thời sự; bài viết nói về sự thật của "Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam", viết tắt là "Mặt Trận" và hiện nay là cái đảng Việt Tân. Đảng Việt Tân đã được đoàn viên "Mặt Trận" cho ra đời ngày 19/9/2004, tại Berlin, Đức quốc.
 - Hoàng Cơ Minh đã chết như thế nào?
- Các tướng Thái khai thác “dịch vụ kháng chiến” ra sao?
- Ai chủ trương Khủng Bố người làm báo?
- Nhóm Nguyễn Đồng Sơn và những mưu đồ mới.
 Nguyễn Toàn -  Trước khi nói đến cái chết của ông Hoàng Cơ Minh, thiết tưởng cần phải lội ngược lại thời gian, khi “Mặt Trận” được thành lập, và những hoạt động của nó, để từ đó đưa đến cái chết tăm tối của người đứng đầu tổ chức từng được xảo thuật tuyên truyền của “Mặt trận” đưa lên cao như một vị anh hùng dân tộc.
 Từ Thu Tiền Ở Hải Ngoại, Đến “Chiến Khu Quốc Nội”
 Thật ra, vào năm 1982, khi hai ông Hoàng Cơ Minh và Phạm Văn Liễu dựng ra “Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam” (MTQGTNGPVN), thì nhóm này chỉ đưa được có 8 (tám) người về Thái Lan. Nhưng, nhờ biết cướp thời cơ lúc tinh thần người Việt lưu vong đang lên cao, và nhất là nhờ những xảo thuật tuyên truyền lừa bịp như mấy phút phim video “Đông Tiến” dàn cảnh ở Thái Lan, “Mặt Trận” đã đưa “uy tín” của “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh” và phe nhóm lên rất cao.
 Trong khi “chiến khu quốc nội” chỉ có trên phim video, thì tại hải ngoại, “Phong Trào Yểm Trợ Kháng Chiến” do ông Phạm Ngọc Lũy chủ xướng tha hồ thu góp tiền bạc, các “cán bộ lãnh đạo Mặt Trận” trở thành những “quan lớn phục quốc” và hách dịch. Đoàn viên “Mặt Trận” thì vênh váo, làm như là sắp giải phóng được đất nước tới nơi và sắp đè đầu, cưỡi cổ thiên hạ. Đây là giai đoạn cực thịnh của nhóm Minh-Liễu, vì đã thành công trong việc đánh lừa được đa số người Việt tỵ nạn, khiến một số ít người phát giác được trò lừa bịp của “Mặt Trận” có nói lên cũng không mấy ai tin, mà còn bị chụp mũ là Việt cộng, hoặc bị khủng bố…
 Năm 1983, ông Hoàng Cơ Minh từ “chiến khu quốc nội” về Hoa Kỳ với chiếc khăn rằn quàng cổ để mở “Đại Hội Chính Nghĩa”, tuyên bố là đã “thống hợp được 36 (ba mươi sáu) tổ chức kháng chiến gồm 10,000 (mười ngàn) tay súng ở quốc nội”, nhưng sự thật “chiến khu” này chỉ là một mảnh rừng ở Buntharit, thuộc tỉnh Uborn, được viên tướng Thái Sút-Sai, Tư lệnh đơn vị 309 Tình báo làm ngơ cho sử dụng với số tiền “trà nước” lúc đầu khoảng 2,000/ 3,000 đô la Mỹ, và phải đóng “hụi chết” hàng tháng từ  một tới ba ngàn Mỹ kim, chưa kể quà cáp biếu xén các bà tướng, bà tá “nước bạn”.
 “Chiến khu” này, chính là nơi đã được nhóm Minh-Liễu dùng để khai sinh “MTQGTNGPVN” vào ngày 8.3.1982, công bố “Cương lĩnh chính trị” kêu gọi “người người nổi dậy, nhà nhà thành công chiến đấu chống lại bạo quyền cộng sản”. Tuy trình diễn rình rang và hô hào đao to búa lớn như vậy, nhưng thực ra như trên đã nói, cán bộ nòng cốt của “Mặt Trận” tại “chiến khu” không quá 8 (tám) người (trong đó, có Hoàng Cơ Minh, Lê H., Nguyễn kim H., Nguyễn Trọng H. Lạc), còn các “kháng chiến quân” xuất hiện trong video hầu hết là… thuê của Thái Lan!
 Tàn Ác và Sắt Máu
 Tuy số cán bộ của “Mặt Trận” tại “chiến khu” đếm không đủ mười đầu ngón tay, nhưng Hoàng Cơ Minh đã phong tướng… không quân cho tả hữu. Cựu Trung tá Nhảy dù Lê H., bí danh Đặng Quốc Hiền, được phong “Tướng Tư lệnh Lực lượng Kháng chiến”, cựu Đại tá Dương Văn Tư (gia nhập “Mặt Trận” từ trại tỵ nạn Thái Lan) được phong “Tướng Tư lệnh Chiến khu (ở Uborn), ông cựu Trung úy Phòng 7 Bộ Tham Mưu Nguyễn Trọng H., bí danh Huy, được thăng “Đại tá Tư lệnh phó Lực lượng Vũ trang. Huy có một Album hình ảnh “Lễ Tuyên Bố Cương Lĩnh Mặt Trận” và sinh hoạt ở “chiến khu” đem vào các trại tỵ nạn để tuyên truyền và tuyển mộ quân.
 Trong thời gian 1982-1983, có hai người Việt làm việc cho Tòa Đại Sứ Mỹ ở Bangkok là các ông V. và N., đã giúp nhóm Hoàng Cơ Minh rất nhiều. Tuy nhiên, sau một thời gian sôi nổi lúc đầu, những người có mặt tại Thái Lan đã thấy rõ hơn ai hết chân tướng của phe nhóm Hoàng Cơ Minh, nên ai có thể xa lánh dược, thì xa lánh, ai bị “kẹt” thì bất bình và bất mãn. Để trấn áp các sự phản kháng và ngăn chận “đào ngũ” Hoàng Cơ Minh đã cho thi hành kỷ luật thép, và hơn thế nữa, đã dùng sự tàn ác sắt máu đối với những người bất tuân phục. Không kể một số thanh niên vô danh theo “Mặt Trận” từ các trại tỵ nạn, sau đó, đã bị thủ tiêu vì định bỏ “chiến khu”, còn những cái chết bí ẩn của một số người được dư luận biết đến. Được nói tới nhiều nhất là cái chết của Kỹ sư Ngô Chí (Trí) Dũng, một thanh niên trí thức đầy nhiệt huyết đã bỏ đời sống êm ấm tiện nghi ở Nhật Bản đi theo “Mặt Trận”, người đóng góp rất nhiều cho “Mặt Trận” và cũng là người đã nuôi dưỡng “Chủ tịch Hoàng Cơ Minh” lúc còn bôn ba… ăn nhờ ở đậu tại Nhật. Ông Dũng đã tới sống tại “chiến khu” và rồi không biết chuyện gì đã xẩy ra, mà sau đó, ông Dũng bị giết chết hết sức bất ngờ, xác được vùi ở một khu rừng chồi tại Buntharit. Một người khác là bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều, một cựu sĩ quan trợ y trong QLVNCH được “Mặt Trận” tuyển mộ tại trại tỵ nạn, và thăng chức bác sĩ. Ông Nhiều đã bị “Mặt Trận” xử tử. Chưa kể Đại tá Dương Văn Tư chết vì bệnh hoạn và thiếu dinh dưỡng, ít nhất cũng có ba người bị thủ tiêu tại “chiến khu” trong một thời gian ngắn.
 Cái chết của Hoàng Cơ Minh
 Vào năm 1985, khi tại Hoa Kỳ, cánh Phạm Văn Liễu, Trần Minh Công tách ra khỏi “Mặt Trận” và những mánh lới lừa bịp nhằm moi tiền đồng bào được chính các thủ phạm vạch áo cho người xem lưng, thì cũng là lúc tại Thái Lan, nhà cầm quyền nước này làm khó dễ, trục xuất toàn bộ nhóm Hoàng Cơ Minh về Mỹ (trong đó có Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Kim H. Nguyễn Trọng H…). Thật ra, Hoàng Cơ Minh không mấy khi có mặt tại Thái Lan. Thỉnh thoảng Hoàng Cơ Minh có qua Thái Lan, nhưng thường ở căn nhà tại khu Sảm-Sẻn, được gọi là “Hậu trạm”, chứ ít khi ông ta xuất hiện tại “chiến khu”.
Khi xảy ra vụ các “chiến hữu” chia ra hai phe bôi mặt đá nhau vì ăn chia không đồng đều và “Mặt Trận” đang trên đà tan rã thì Hoàng Cơ Minh ở luôn tại San Jose, Bắc California, thỉnh thoảng tới họp với các “xứ bộ” còn trung thành để làm ra vẻ “Mặt Trận” vẫn còn mạnh lắm. Ông ta mặc đồ lớn, chứ không còn mặc áo bà ba, cuốn khăn rằn ở cổ nữa!
Trong khi đó, “chiến khu quốc nội” tại Thái Lan lâm cảnh rắn không đầu, và bị “đuổi nhà” nên tự động tan rã, và còn một ít người vì lý do này hay lý do khác phải sống chết với “Mặt Trận” thì di chuyển lên vùng Udon.
Gần cuối năm 1987, sau khi tạm “củng cố hàng ngũ” còn lại ở quốc ngoại, Hoàng Cơ Minh lại vận động đút lót để được trở lại “quốc nội Thái Lan” nhưng vừa đặt chân đến đất Thái, ông ta đã nhận được lệnh của viên tướng Svet, Tư lệnh vùng biên giới, bắt phải đổi căn cứ lên miền Bắc Thái. Hoàng Cơ Minh không còn cách nào khác hơn là phải tuân lệnh viên tướng Thái này, một lần nữa phải di chuyển căn cứ từ Udon lên Bắc Thái với dự định lập căn cứ mới tại khu Bukdahan, sát biên giới Thái-Lào. Chính trong cuộc di hành này, mà Hoàng Cơ Minh đã bị một số “kháng chiến quân” bắn chết. Bốn người trong số “kháng chiến quân” từng bị Hoàng Cơ Minh bỏ rơi ở Thái Lan từ năm 1985,  với sự xúi dục của tên Lưu Tuấn Hùng đã bất ngờ rút súng bắn sả vào Hoàng Cơ Minh trong lúc đang đi dọc đường. Cần mở một dấu ngoặc ở đây để nói thêm về Lưu Tuấn Hùng. Y là một tên gián điệp Việt cộng dưới quyền điều khiển của Trung tá  công an Việt Cộng “Việt Dũng” thuộc “Sở công an TP Hồ chí Minh”, được gửi đi vượt biên với ý đồ trường kỳ mai phục hoạt động trong các lực lượng chống cộng ở hải ngoại. Năm 1983, Lưu Tuấn Hùng được cựu Trung tá Nguyễn văn H. người từ trại tỵ nạn Sikiew ra làm việc cho cơ quan tình báo Hoa Kỳ ở Aranya Prathet đưa ra khỏi trại để điều tra và định dùng y xâm nhập Việt Nam, nhưng rồi kế hoạch không được thực hiện. Hùng được trả về trại Sikiew. (Ông NVH hiện cư ngụ ở Virginia. Vài tháng sau, người ta thấy Nguyễn Kim H. và Nguyễn Trọng H. đến trại tiếp xúc với Lưu Tuấn Hùng và kết nạp y làm “Đại diện Mặt Trận” tại Sikiew. Hắn đã mua chuộc được sự tín nhiệm của Hoàng Cơ Minh và được ông này sử dụng làm “tùy viên”.
Chính Lưu Tuấn Hùng đã xúi dục bốn người khác giết chết Hoàng Cơ Minh để đoạt hai ký lô vàng mà ông này mang theo định để đút lót các viên chức Thái trong việc lập lại “chiến khu” mới.
Sau khi Hoàng Cơ Minh “chết”, nhóm người đi theo ông ta (độ 60 người) sợ bị Thái Lan bắt trừng trị, nên không còn con đường nào khác hơn là tạm thời vượt sông Mekong kéo nhau sang Nam Lào, không may lọt vào ổ phục kích của Lào Cộng, bị sát hại một số, còn một số bị bắt làm tù binh Việt Nam, trong số này có cả Lưu Tuấn Hùng. Bởi vậy, người biết chuyện không hề ngạc nhiên khi được tin  “Tòa án nhân dân TP Hồ chí Minh” chỉ xử Lưu Tuấn Hùng tù treo! Một chế độ cộng sản sắt máu không bao giờ xử án treo kẻ đã vượt biên trốn ra khỏi nước, gia nhập lực lượng kháng chiến và trở về chống phá chúng bằng vũ khí. Trừ khi kẻ ấy là người của chúng cài vào. Chi tiết về cái chết của Hoàng Cơ Minh đã được một số sĩ quan cao cấp Thái, trong đó, có Đại tá Thamasak  thuộc Lực Lượng Đặc Nhiệm 80 ở vùng biên giới Prachinburi, xác nhận với kẻ viết bài này.
Nhóm Nguyễn Đồng Sơn và những mưu đồ mới:
Sau khi Hoàng Cơ Minh chết, MTQGTHGPVN không dám công bố tin tức này, vì sợ “Mặt Trận” tan rã và hơn nữa sợ nội bộ sẽ xâu xé nhau để giành giựt tiền bạc vì nhờ số tiền bịp bợm quyên góp được của đồng bào khắp nơi trong mấy năm, “Mặt Trận” đã sử dụng để kinh tài dưới nhiều hình thức như:
Hệ thống Phở Hòa, hệ thống Phở Bằng, hệ thống tàu đánh cá, hệ thống xuất nhập cảng hàng Á châu (nhất là thực phẩm), tiệm bida, mua nhà cho thuê… sau nhiều năm đã sinh lợi rất nhiều.
Vào tháng 5.1988 vừa qua, Nguyễn K.H., bí danh Nguyễn Kim, “Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hải Ngoại MTQGTNGPVN” đã cùng N.X.N, bí danh Nguyễn Đồng Sơn, trở lại Thái Lan (nhờ móc nối với một sĩ quan cấp tướng của Thái, đút lót tiền nhiều để xin được đỡ đầu) để vận động lập lại “chiến khu quốc nội mới” và sẽ tiếp tục xin phép vào các trại biên giới (các trại đang bị Thái chèn ép bắt giam và đòi trả về Việt Nam) để tuyển mộ người (những người trong các trại này đang sống trong tình trạng tuyệt vọng, dễ bị quyến dụ đi theo).
Với sự đút lót và vận động của Sơn-Kim, viên sĩ quan cấp tướng của Thái Lan đang định thúc ép nhóm “kháng chiến” của Thái Quang Trung phải sáp nhập với nhóm của Sơn-Kim để thành lập lại trại Bukdahan. Sau khi đã có trại mới, có một ít quân, họ sẽ xúi dục những người này bịa ra câu chuyện chiến đấu ác liệt với cộng sản và nhân đó, sẽ công bố cái chết của Hoàng Cơ Minh. Họ cũng đã chuẩn bị đưa phó Đề Đốc Hải quân Đinh M.H. lên làm “Chủ tịch Mặt Trận.
Tông tích Nguyễn Đồng Sơn không còn lạ gì đối với các tổ chức chống cộng ở hải ngoại, cũng như với cơ quan an ninh Thái Lan. Y là cháu ruột của  Nguyễn Xuân Cúc, bí danh Mười Cúc, tức Nguyễn Văn Linh, đang là chúa trùm đảng cộng sản Việt Nam.
Trước 30.4.1975, Nguyễn Đồng Sơn cùng cánh với Nguyễn văn Hảo. Sau khi cộng sản chiếm đoạt miền Nam, Nguyễn Đồng Sơn cũng đã cùng Hảo giúp cho Việt cộng tiếp thu của cải và “quản lý” kinh tế miền Nam, sau đó, cả hai được Việt cộng cho rời Việt Nam sang Pháp theo đường chính thức. Năm 1983, Nguyễn Đồng sơn đã sang Hoa Kỳ tìm cách xâm nhập “Mặt Trận” và mua được lòng tin cậy của mấy anh em Hoàng Cơ Minh.
Nhóm Thái Quang Trung (con của cụ Thái Văn Kiểm) tuy có nhận sự trợ giúp của Tầu Cộng, nhưng các “kháng chiến quân” sống tại căn cứ Bukdahan cũng rất thiếu thốn cực khổ, và không có tiền mặt để đút lót cho tướng, tá Thái Lan, nên có thể phải nhập với “Mặt Trận” của Sơn-Kim để có thêm phương tiện và nhân sự hầu làm vừa lòng các tướng tá Thái Lan, để được yên, bằng cách canh chừng biên giới và xâm nhập lãnh thổ Đông Dương thâu thập tin tức tình báo cho Thái. Nếu dự định này thành tựu thì sau Hoàng Cơ Minh, “Mặt Trận” của Kim-Sơn sẽ trình diễn một màn lừa bịp thứ hai.
Tiếp tục Khủng bố
Từ ngày “Mặt Trận” ra đời đã xảy ra nhiều vụ Khủng Bố nhắm vào các phần tử Quốc Gia, đặc biệt là những người cầm bút, trong giới người Việt lưu vong tại Mỹ. Từ đe dọa, đến ám sát, đốt nhà… Những người bị Khủng bố đều có chung một “tội” là không chịu hùa theo đồng lõa với những trò lừa bịp của “Mặt Trận”, nên dù không tìm ra thủ phạm, dư luận vẫn biết ai đã chủ mưu những vụ này.
Một hôm vào trung tuần tháng 5.1988, nhân dịp Sơn và Kim đến Bangkok, nhờ tình cờ nghe được câu chuyện trao đổi giữa hai đoàn viên “Mặt Trận”, kẻ viết bài này càng tin thêm là dư luận đã không sai lầm.
Hôm ấy, kẻ viết bài này đang ngồi trong một Snack bar ở đường Sukhumvit, Bangkok, một nơi dành cho người ngoại quốc du hí, thì gặp hai người Á châu có đeo huy hiệu “Mặt Trận” trên ve áo vest. Người viết tảng lờ như không biết họ là người Việt Nam, ngồi tán tiếng Thái với cô cashier, trong khi vẫn lắng nghe và để ý dò xét hai người này. Một trong hai người dè dặt đưa mắt nhìn người viết rồi nói gì đó với bạn đồng hành. Sau đó, một người giả bộ cầm điếu thuốc lá sang hỏi người viết xin mồi lửa bằng tiếng Việt. Người viết cũng phải đóng kịch bằng cách ngẩn tò te như không hiểu hắn nói gì và hỏi lại bằng một tràng tiếng Thái:
- Tôi không hiểu ông nói gì? Tôi là người Thái. Bộ ông là người Nhật hả? Tôi không biết tiếng Nhật.
Y cười, nói với tôi bằng tiếng Anh:
- Ồ xin lỗi ông, tôi nghĩ ông là người Nhật như chúng tôi.

Từ đó, hai người không e ngại tôi nữa. Họ thản nhiên nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt nho nhỏ. Trong bar, ngoại trừ tôi và hai người đó là Á châu cùng với cô cashier duyên dáng người Thái, còn khách toàn là Tây phương; vì vậy, hai người này không phải e dè gì cả. Nhưng họ không biết một điều tối hệ trọng là ở Bangkok có rất nhiều gián điệp của nhiều quốc gia Tây phương và của cả cộng sản nữa, và rất nhiều người biết tiếng Việt, nghe, viết, nói cả tiếng Việt rất giỏi. Có nhiều người nếu không gặp mặt, nhìn họ nói mà chỉ nghe qua vách thì sẽ nghĩ là hai người Việt đang nói chuyện với nhau.
Sau khi nói những chuyện tầm phào, bá vơ, chuyện chơi bời du hí ở các động sang trọng của thủ đô Bangkok, nơi rất nổi tiếng về các món ăn chơi ở vùng Đông Nam Á, hai người vừa uống bia Singha (loại bia đen của Thái rất nặng), vừa trò chuyện. Một người hỏi:
- Tại sao không làm luôn thằng Nguyễn Thanh Hoàng của tờ Văn Nghệ Tiền Phong cho rồi?
- Tại sao phải làm thằng Nguyễn Thanh Hoàng?
- Tên này liên tiếp chửi bới, bôi nhọ và lật tẩy Mặt Trận. Nếu không “dứt” thì sẽ tai hại rất nhiều, vì y nắm được rất nhiều tài liệu về hoạt động của Mặt Trận.
- Vậy sao mình không dứt bọn nó cho rồi.
- Bây giờ chưa được. Vì bứt dây động rừng ông biết không? Biết đâu bọn nó đã nhờ cảnh sát bảo vệ, mình cựa quậy bây giờ là nát xương…
Kháng Chiến Phục Quốc Hay Giữ Dưa?
Như trên đã trình bày, chính sách Thái Lan từ trước tới nay đối với các tổ chức kháng chiến chống cộng sản Việt Nam, là mở cửa cho bất cứ người nào có khả năng về nhân sự, tài chánh, và tổ chức để gây dựng một “chiến khu” ở vùng biên giới Thái-Miên hoặc Thái-Lào. Áp dụng chính sách này, Thái Lan có hai điều lợi: Thứ nhất, là họ có một đơn vị biên phòng ngăn cản Việt cộng mà không phải trả lương. Thứ hai, là họ có thể sử dụng những lực lượng kháng chiến Việt-Miên-Lào để trả giá với Việt cộng. Nếu Việt cộng tấn công mạnh sang đất Thái, họ sẽ có cớ để mặc cả bằng cách dọa dẫm sẽ yểm trợ các lực lượng kháng chiến của cả ba nước Đông Dương mạnh hơn… Dù sao thì người Thái vẫn có lợi, đó là chưa kể đến cái lợi về tài chánh do lực lượng có căn cứ ở biên giới Thái phải yểm trợ cho kháng chiến của mình qua tay của người Thái. Kháng chiến đã trở thành một dịch vụ sinh lợi cho các vị tướng lãnh Thái, Tư lệnh các đơn vị được phép yểm trợ cho từng tổ chức kháng chiến. Thí dụ: đơn vị 309 tình Báo Biên Giới trực thuộc Bộ tư Lệnh quân Đội Hoàng gia Thái Lan đỡ đầu cho “Mặt Trận” của Hoàng Cơ Minh. Họ đã che chở cho nhóm Hoàng Cơ Minh và trực tiếp chỉ huy những người lãnh đạo lực lượng Hoàng Cơ Minh. Tư lệnh của đơn vị 309 Tình Báo là tướng Sút-Sai, một người đã được hưởng khá nhiều tiền của nhóm Hoàng Cơ Minh qua trương mục ở Ngân Hàng Quân Đội. Ngoài số tiền “thuê” mảnh đất rừng ở Buntharit, tỉnh Uborn, phải đóng lần đầu cho vị tướng này (khoảng từ 20,000 đến 30,000 dollas); hàng tháng “Mặt Trận” lại phải đóng “hụi chết” cho các vị tướng Thái, khi thì 1000 đô la, khi 2-3000 vô kể. Ngoài ra còn phải quà cáp biếu xén bà tướng, và các vị Đại tá, Trung tá… Đơn vị 315 Tình Báo Biên Giới Thái là cha đỡ đầu cho nhóm kháng chiến của ông Lê Quốc Túy.
Những đơn vị kháng chiến trở thành những tiền đồn cho Thái Lan và tùy theo các đơn vị Thái đỡ đầu, các lực lượng kháng chiến Việt Nam còn phải làm công tác tình báo, trinh sát vào nội địa Lào, Miên để thu thập tin tức tình báo. Vì thế, khi nhìn hình ảnh các kháng chiến quân người Việt Nam, người ta thấy mặc quân phục Thái, đội mũ của lực lượng biên phòng Thái, nhiều người đã tưởng rằng đây là đơn vị của Thái Lan, và không ai nghĩ rằng đó là những người bị giới hạn cư ngụ trong những vùng đèo heo hút gió, không có quyền đi ra khỏi khu vực trú đóng. Thỉnh thoảng mới có một, hai người được người Thái chở vào các thị xã để mua bán, hoặc liên lạc với “hậu trạm” đặt tại Bangkok.
Lực lượng kháng chiến nào cũng có “hậu trạm” đặt tại Bangkok. Khi thì đặt tại nhà một vị tướng Thái, có số điện thoại để liên lạc viễn liên về Hoa Kỳ và các “hậu trạm' này đều thuê hộp thư ở bưu điện để liên lạc với các tổ chức yểm trợ tại Hoa Kỳ hoặc các nước khác.
Cũng có khi thì “hậu trạm” được các sĩ quan Thái của đơn vị đỡ đầu thuê cho ở một căn nhà bên ngoài thuộc khu an toàn, và thường là nhà của các sĩ quan cao cấp Thái để bảo đảm an toàn; tất nhiên cũng có đầy đủ tiện nghi và phương tiện để liên lạc đi các nơi. Trung bình giá một căn cứ (là một cánh rừng thuộc các tỉnh Đông Bắc Thái Lan giáp ranh giới Miên, Lào), các lực lượng kháng chiến Việt Nam trả cho các vị tướng Thái vào khoảng 20,000 đến 30,000 Mỹ kim… mỗi tháng, lại phải đóng tiền “thuê rừng” cho vị tướng vào khoảng 2,000 đến 3,000 dollars. Số tiền này hoàn toàn vào túi riêng của vị tướng. Khi vui thì họ cho ở, phật ý thì họ đuổi.
Trên thực tế, chính quyền Thái chưa bao giờ chính thức yểm trợ các tổ chức kháng chiến Việt Nam, các nhân vật lãnh đạo các tổ chức kháng chiến chỉ được sự che chở ngầm của quân đội Thái và các tướng chỉ huy đơn vị đỡ đầu. Vì vậy, tình trạng của các đơn vị kháng chiến rất mong manh, nhất là anh em từ các trại tỵ nạn nhập vào. Họ bị sống bơ vơ trong các căn nhà lá nằm cheo leo trong những rừng núi hoang vu mà tình trạng tiện nghi rất là thiếu thốn, sinh hoạt hàng ngày cũng vô cùng eo hẹp. Đối với một số những cán bộ lãnh đạo đã có quốc tịch ở các quốc gia tạm dung như Pháp, Úc… thì tình trạng khá hơn, vì khi ông tướng Thái không bằng lòng vì một lý do nào đó (như nộp tiền hàng tháng trễ), thì họ chỉ trục xuất các cán bộ lãnh đạo này ra khỏi nước Thái; còn những người ở các trại tỵ nạn ra thì đi cũng không xong, mà ở cũng không chẳng được, tình trạng này thật là vô cùng bi đát. Người nào liều lĩnh trốn đi một cách bất hợp pháp, nếu người Thái bắt được sẽ bị đánh đập dã man, nếu không thì lọt vào tay cộng sản. Đằng nào cũng… chết!!!
Mấy năm nay, các tổ chức kháng chiến có căn cứ ở Thái Lan cứ quanh quẩn dậm chân ở biên giới Đông Dương, vừa nuôi béo các ông tướng, bà tướng Thái Lan bằng những đồng tiền thu góp của đồng bào ta ở hải ngoại, vừa đóng vai trò “giữ dưa” canh đất không lương cho “nước bạn”.
Đây là chiếc thùng không đáy sẽ khiến cho chúng ta lao tâm khổ trí, hao tài, tổn sức vì nó. Nhưng nếu bỏ đi thì cũng không đành lòng, vì còn đâu cơ hội mong manh giải phóng quê hương? Và niềm tin mù mờ kia sẽ lụi tàn theo năm tháng và quên lãng với thời gian; rồi những cám dỗ xa hoa của đời sống tiện nghi ở nước tạm dung sẽ làm chúng ta không còn thiết tha với chuyện đấu tranh gian khổ. Một khi ngọn lửa đấu tranh đã thực sự lụi tàn, chỉ còn là những tro than lạnh lẽo, thì làm sao chúng ta có thể khơi lại cho bùng cháy dữ dội để thiêu đốt bọn quỷ dữ cộng sản Việt Nam.
Tệ hơn nữa, có những nhóm người bất lương với các ý đồ đen tối, đã lợi dụng những “chiến khu” ở Thái Lan, để lừa bịp đồng bào, vơ vét tiền bạc của những người dễ tin - Khủng Bố những ai dám nói thật, biến kháng chiến thành trò hề, và đẩy lùi giấc mơ phục quốc ngày một thêm xa!!!

Nguyễn Toàn
  
Nguyễn Thanh Tú: Phỏng vấn trực tiếp Đảng viên mặt trận Hoàng Cơ Minh, Việt Tân
  
Tướng cướp và tội phạm Hoàng Cơ Minh!!! -- Thí Mạng, Giữ Tiếng để Lấy miếng
  
Sự thật kinh hoàng về Mặt trận Hoàng Cơ Minh - Tiền thân của Tổ chức khủng bố Việt Tân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét