Thứ Tư, 18 tháng 4, 2018

KÝ ỨC CHÓI LỌI 91/k

(ĐC sưu tầm trên NET)
                                       Hồi ký: Trung đoàn Một thời chiến trận 28 + 29 + 30

Chiến thắng Thượng Đức: Bước phát triển vượt bậc về khả năng tác chiến

VOV.VN - Chiến thắng Thượng Đức đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc về trình độ và khả năng tác chiến của quân đội ta.
Trong những ngày đất nước chuẩn bị kỉ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, về thăm xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam nơi đã diễn ra trận chiến Thượng Đức, chúng tôi đến thăm người chỉ huy quân đội địa phương năm xưa. Ông là Nguyễn Trung Chính, nguyên Huyện đội trưởng huyện Đại Lộc. Một trong những người trực tiếp chỉ huy quân đội địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực của ta, chiến đấu giành lại cứ điểm Thượng Đức.
chien thang thuong duc, buoc phat trien vuot bac ve kha nang tac chien hinh 1 Bộ đội tiếp quản chi khu Thượng Đức. Ảnh tư liệu
Chi khu quân sự-quận lỵ Thượng Đức nằm trên tuyến đường Quốc lộ 14, gần sông Vu Gia, có vị trí vô cùng quan trọng nên được quân đội Ngụy Sài Gòn xây dựng thành “cánh cửa thép” nhằm bảo vệ khu liên hợp quân sự Đà Nẵng. Điểm mạnh nhất và khó đánh thắng nhất của Chi khu quân sự Thượng Đức chính là hệ thống hầm ngầm dưới mặt đất.
Rút kinh nghiệm từ những lần đánh trước đó và vận dụng phương thức tác chiến hiệp đồng binh chủng theo phương châm “Đánh chắc, tiến chắc”, quân đội ta cũng được chuẩn bị kĩ lưỡng cả về tinh thần và quân lực nên khi đã ở vào thế thượng phong thì thắng lợi gần như chắc chắn.
Qua 10 ngày đêm chiến đấu liên tục, đúng 8h30 sáng ngày 7/8/1974, lá cờ giải phóng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Đà đã tung bay trên căn cứ Thượng Đức, hơn 13.000 dân tại khu vực được giải phóng.
Để có chiến thắng lừng lẫy mang tầm vóc chiến lược ở Thượng Đức, 921 cán bộ, chiến sĩ quân giải phóng đã anh dũng hy sinh và hơn 2.000 cán bộ, chiến sĩ bị thương.
Chiến thắng Thượng Đức đã cho thấy bước tiến bộ vượt bậc về trình độ và khả năng tác chiến của quân đội ta, từ đó Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương có thể dần khẳng định “quân chủ lực Sài Gòn không thể đương đầu với quân chủ lực của ta, khả năng đánh thắng toàn bộ quân địch đang trở thành hiện thực trước mắt”, là cơ sở mở ra các chiến dịch lớn…giải phóng hoàn toàn miền Nam, thồng nhất đất nước./.
Mời quý độc giả cùng theo dõi:
Hoàng Yến-Hoàng Tùng/Truyền hình Quốc hội

Di tích chiến thắng Thượng Đức (7-8-1974)
Căn cứ Thượng Đức nằm trên thôn Hà Tân thuộc xã Đai Lãnh, nơi ngã ba sông Con gặp sông Vu Gia, cạnh tỉnh lộ 609, cách thành phố Đà Nẵng 45km. Phía tây dựa vào dãy Trường Sơn, nam và đông bắc được bao bọc bởi sông, theo đánh giá của địch, đây là một "căn cứ bất khả xâm phạm"(!).
Tượng đài chiến thắng Thượng Đức
Do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, Thượng Đức trở thành mục tiêu cần phải tiêu diệt để mở đường tiến xuống miền đồng bằng Đại Lộc, Hòa Vang, Điện Bàn, uy hiếp sân bay Đà Nẵng.

Cuối tháng 5-1974, thiếu tướng Lê Công Phê - sư đoàn trưởng Sư đoàn 304 thuộc Quân đoàn 2 đang ở Quảng Trị- nhận được lệnh hành quân vào chiến trường khu V theo đường rừng dài 400km. Đến nơi, lại nhận được lệnh của Tư lệnh Quân khu V Chu Huy Mân:”Chiến dịch này phải thắng cả quân sự lẫn chính trị. Quân sự là diệt gọn địch. Chính trị là giải phóng hơn một vạn dân trong khu dồn”. Chiến dịch mang mật danh K711.

Đúng 5 giờ sáng ngày 29-7-1974, hai phát pháo hiệu trùm lên căn cứ Thượng Đức. Tuy được chuẩn bị rất công phu, với hỏa lực áp đảo ngay từ đầu, ta chỉ tiêu diệt và bắt sống quân địch ở vòng ngoài. Vì vậy địch phản kích dữ dội, gây cho ta nhiều thương vong. Cuộc chiến đấu phải tạm dừng lại.

Được tin báo Thượng Đức đang gặp phải khó khăn, Tư lệnh quân khu Chu Huy Mân cử Phó tư lệnh quân khu, tướng Nguyễn Chánh đang trực chiến tại Bộ Tư lệnh chiến dịch Nông Sơn - Trung Phước đến ngay mặt trận Thượng Đức, cùng với các tướng Trần Bình, Chính ủy sư đoàn 304, tướng Hoàng Đan, Tư lệnh phó Quân đoàn 2, tướng Lê Công Phê, sư đoàn trưởng Sư đoàn 304, tướng Phan Hàm, đặc phái viên của Bộ Tổng tham mưu bàn kế hoạch tác chiến mới nhằm bảo đảm dứt điểm mục tiêu.

Rạng sáng ngày 7-8-1974, chờ cho lớp sương mù dày đặc như mây trên các sườn núi vừa tan, đưa ống nhòm có thể nhìn thấy rõ từng người lính và công sự địch, thì các khẩu pháo bắn thẳng từ trên đồi nhả đạn tới tấp vào công sự cố thủ của chúng. Sức công phá và sức nóng như thiêu đốt của đạn pháo gây nên nỗi kinh hoàng chưa từng có trong quân địch. Nhiều tên la hét hoảng loạn, tuồn chạy về phía đông, nhảy xuống nước. Hàng trăm tên lính địch tháo chạy đã bị bắt. Đến 8 giờ 15 phút sáng ngày 7-8-1974 “cánh cửa thép” đã bị mở toang, căn cứ Thượng Đức hoàn toàn sụp đổ. Lá cờ chiến thắng của quân cách mạng đã tung bay trên nóc hầm công sự Thượng Đức sụp đổ.

Tướng Ngô Quang Trưởng từ Đà Nẵng kêu gào “tử thủ giữ lấy Thượng Đức”, vào lúc 10 giờ sáng, biết Thượng Đức đã bị thất thủ, liền cho hai chiếc A37 đến ném bom hủy diệt Thượng Đức. 13.000 đồng bào bị tập trung vào chi khu đã được giải phóng để trở về với làng quê, ruộng đồng của mình.

Tướng Hoàng Đan, người tham gia chỉ huy trận đánh nói: “Đây là một trận đánh lớn, ta phải đổ xương máu, mồ hôi, công sức, tiền của rất nhiều. Cái giá thật “chẳng rẻ” chút nào. Nhưng bằng trí và lực, bằng mồ hôi và xương máu của quân và dân Quảng Nam - Đà Nẵng, của cán bộ và chiến sĩ Quân đoàn 2, mà trực tiếp là sư đoàn 304, chúng ta có thể kết luận rằng chủ lực ta đủ sức đè bẹp đối phương, và như thế quân đội ta có thể mở những trận đánh lớn, tổng tiến công giành thắng lợi cuối cùng”.

Bí thư Khu ủy V Võ Chí Công nhận xét: “Chiến thắng Thượng Đức không chỉ phá tan “cánh cửa thép” bảo vệ vòng ngoài Đà Nẵng, mà còn có ý nghĩa chiến lược quan trọng vào thời gian này. Từ thực tiễn đó đã góp phần cho Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương có những nhận định mới, đề ra những quyết sách đúng đắn và quyết định trong chiến lược Tổng tấn công và nổi dậy vào mùa xuân lịch sử năm 1975”.

Sau ngày giải phóng, một tượng đài Chiến thắng Thượng Đức được xây dựng tại nơi đây.

30 năm trước, Sư đoàn dù đã bị đánh quỵ ở Thượng Đức như thế nào ?

;
Thứ Ba, 24/10/2006, 16:40 [GMT+7]
Ngày 16-8-1974,  lữ đoàn dù 1 và trung đoàn 2 sư đoàn 3 ngụy bắt đầu mở cuộc tiến công vào vùng giải phóng Thượng Đức theo hai hướng : Hướng thứ nhất theo trục đường số 14 đánh vào trận địa cua trung đoàn 3 - sư đoàn 304 của ta  ở  khu vực điểm cao 52, 126, 109, Hà Nha, Bàn Tân 2. Hướng thứ hai đánh vào trận địa tiểu đoàn 7 trung đoàn 66 trên các điểm cao phía tây Thượng Đức. Cậy có quân đông, hỏa lực mạnh, trong những ngày trung tuần tháng 8-1974, địch tổ  chức tiến công ồ ạt hòng nhanh chóng chiếm các trận địa của trung đoàn 3 để tạo bàn đạp đánh vào Thượng Đức.
Thế nhưng, sau 13 ngày tiến công vào khu vực điểm cao 52, Bàn Tân 2 không thành công, bọn chỉ huy sư đoàn dù ngụy quyết định bỏ hướng đường 14 để tập trung đánh lên các điểm cao 109,  700, 1062. Về chiến thuật, địch bỏ lối đánh ồ  ạt chuyển sang áp dụng chiến thuật "lấn dũi" (đa từng được dùng vào năm 1972  ở  miền tây Quảng Trị). Chúng hy vọng,  với cách đánh "lấn dũi" cộng với bom,  pháo bắn vào trận địa ta, quân ta sẽ bị hao mòn dần,  không còn  đủ sức giữ trận địa. Và khi đó, chúng sẽ "gặm nhấm" dần vùng giải phóng Thượng Đức.
Đối mặt với lực lượng tổng dự bị chiến lược của địch, ở  thời điểm này, lực lượng của ta gặp rất nhiều khó khăn :  Quân số hao hụt nhiều sau chiến dịch giải phóng Thượng Đức.  Đạn súng lớn phải tính từng viên trong ngày,  bộ đội ngày đêm giữ chốt  không chỉ đối phó với bom đạn mà còn phải hứng chịu thời tiết khắc nghiệt : mưa nhiều,  hầm sụt lở từng mảng,  trong hầm lúc nào cũng có nước và bùn ngập tới mắt cá chân. Đường vận chuyển, tiếp tế luôn gặp ách tắc. Ăn uống thiếu  thốn lại phải chiến đấu căng thẳng khiến sức khỏe của chiến  sĩ ta giảm đi rõ rệt. Thêm vào đó, chiến  thuật "lấn dũi" của địch tỏ ra có hiệu quả : Một số chốt (như 700, 109, 383) của ta bị địch chiếm. Việc mất một số cao điểm  đã có ảnh hưởng đến tư tưởng và tinh thần chiến đấu của một số cán bộ,  chiến sĩ.
Trước tình hình đó,  cuối tháng 10-1974, Đảng ủy Sư đoàn 304 họp mở rộng và thống nhất nhận định : Địch tuy chiếm được một số chốt nhưng chúng đã  bị động và sa lầy  ở mặt  trận Thượng Đức. Quyết tâm của Đảng ủy sư đoàn là nhanh chóng rút kinh nghiệm chiến đấu,  tổ chức lại trận địa phòng ngự,  nhất là hầm hào, chặn đứng sư đoàn dù, đánh bại âm mưu tái chiếm Thượng Đức.
Lúc này,  đồng chí Hoàng Đan, Tư lệnh phó Quân đoàn 2 trở lại Thượng Đức cùng với trung đoàn 24, hai tiểu đoàn công binh và 4.000 viên đạn pháo cối để hỗ trợ cho lực lượng đang bảo vệ Thượng Đức.  Trong hồi ký của mình, ông cho biết : Vào đến sư đoàn,  việc đầu tiên tôi đề xuất với Bộ Chỉ huy sư đoàn là phải tiến hành tập huấn về phòng ngự ngay cho cán bộ từ tiểu đội đến tiểu đoàn. Mỗi lớp tập huấn được tổ chức 3 ngày. Một hình  mẫu trận địa được xây dựng ngay cạnh lớp học. Các cán bộ được tự do nêu ý kiến phân tích, tranh luận đến cùng. Kết thúc lớp học, đồng chí  Hoàng Đan nêu vấn đề : Với hệ thống chốt được xây dựng thành nhiều tuyến,  cho dù địch cứ 3 ngày lấn chiếm được một chốt của ta thì cũng phải mất 3 tháng địch mới mò tới Thượng Đức. Ba tháng nữa là đã đến mùa khô, tình hình lúc đó lại đã khác rồi.
Tuy chỉ tổ chức tập huấn trong 3 ngày nhưng nhờ xây dựng trận địa làm mẫu, nội dung huấn luyện sát với những thực tế đòi hỏi nên hiệu quả mang lại rất cao : Tất cả cán bộ đều biết cách xây dựng trận địa, biết cách đánh và tin tưởng  ở  cách đánh. Với khẩu hiệu : "Tất cả cho phía trước”.  "Tất cả để chiến thắng quân  dù”,  cán bộ, chiến sĩ và nhân dân toàn mặt trận Thượng Đức đều hướng về các trận địa chốt lao động quên mình, khắc phục mọi khó khăn để chuyển vật liệu  đạn dược, gạo lên phía trước.
Ngày 28-10-1974, sư đoàn 304 tổ chức một trận phản kích, chiếm lại toàn bộ điểm cao 1062. Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 3 sư đoàn dù.
Tháng 11-1974, sư đoàn dù đưa tiếp lữ dù 2 vào cuộc chiến. Bộ Chỉ huy chiến dịch của ta nhận định : Địch tung lực lượng dự bị vào không phải để thay đổi thế trận mà chủ yếu là hoạt động hỗ trợ cho lữ dù 1 và 3 đã mất sức chiến đấu. Với lực lượng mới này, địch chỉ đủ quân để rải ra trên các tuyến chiến đấu với ta chứ không thể có lực lượng tiến công nữa.
Thực hiện chủ trương của Bộ  Chỉ huy chiến dịch,  khi  lữ dù  2 vừa chân ướt chân ráo đến khu vực tập kết,  pháo binh ta đã đánh phủ đầu khiến chúng bị thương vong khá nhiều.  Ta còn cho trinh sát luồn vào nơi đóng quân của địch để tập kích trận địa pháo, đốt cháy kho đạn. Công binh của sư đoàn 304 dùng đạn pháo chưa nổ của địch liên kết với mìn làm giàn phóng vào đội hình chúng gây hoang mang, lo sợ,  không hiểu ta đã có vũ khí gì mới.
Cuối tháng 12-1974, qua 4 tháng bị giam chân  ở  chiến trường rừng núi, sư đoàn dù, một sư đoàn được coi là thiện chiến bậc nhất nằm trong lực lượng tổng dự bị chiến lược của địch, đã bị đánh quỵ ở  mặt trận Thượng Đức. Điều này cho phép khẳng định : quân chủ lực ngụy không thể đương đầu nổi với quân chủ lực của ta. Và,  ngày toàn thắng giải  phóng miền Nam, thống nhất  đất nước - không còn xa nữa.
Thu Minh

Linh hoạt, sáng tạo sử dụng pháo binh trong trận Thượng Đức

05:12 PM - 12/07/2015

BPO - Trận Thượng Đức (từ ngày 28-7-1974 đến ngày 7-8-1974) diễn ra ở phía tây tỉnh Quảng Nam(Khu 5) là một trong những trận đánh điển hình của Bộ đội Pháo binh (BĐPB). Trận này, pháo binh đã chi viện đắc lực, kịp thời và hiệu quả cho Sư đoàn 304 và các lực lượng vũ trang Quân khu 5 đánh địch. Chiến thắng Thượng Đức không chỉ mở toang "cánh cửa thép" bảo vệ phía tây TP Đà Nẵng, mà còn góp phần tạo thế, tạo lực cho ta, giúp Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh có những nhận định, đánh giá, mở những chiến dịch có ý nghĩa chiến lược tiếp theo, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày 6-6-1974, Tư lệnh Quân khu 5 giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 304, được tăng cường Trung đoàn Bộ binh 3 của Sư đoàn 324 và 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng-Đà, cùng với một số đơn vị chiến đấu và bảo đảm chiến đấu khác, đảm nhiệm tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch trong khu vực Thượng Đức. Nhận nhiệm vụ, Sư đoàn 304 khẩn trương làm công tác chuẩn bị, hiệp đồng chặt chẽ giữa các đơn vị.
Ngày 28-7-1974, toàn bộ đội hình các đơn vị tham chiến đã vào chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công. 5 giờ ngày 29-7-1974, Bộ tư lệnh chiến dịch phát lệnh tiến công Thượng Đức. Pháo binh ta lập tức dồn dập nã đạn, đánh trúng mục tiêu ngay từ loạt đạn đầu. Dưới sự chi viện hiệu quả của hỏa lực pháo binh, bộ binh ta đánh thẳng vào các vị trí đã xác định. Hỏa lực pháo binh các cấp chi viện kịp thời cho các đơn vị tiến công, ngăn chặn và tiêu diệt địch chi viện; làm chủ trận địa và các mục tiêu được phân công, tạo thành thế trận bao vây chia cắt địch ngay từ đầu.

Sư đoàn 304 tiêu diệt Chi khu Thượng Đức-Quảng Nam. Ảnh tư liệu.
Trong trận Thượng Đức, ta đã phát huy hiệu quả hỏa lực pháo binh với cách đánh độc đáo luồn phía sau địch, chiếm lĩnh bí mật, bố trí trận địa hiểm hóc. BĐPB đã dũng cảm đưa pháo lên cao, kéo pháo vào gần, bắn ngắm trực tiếp chi viện cho bộ binh trên từng hướng, từng mũi đánh địch hiệu quả. Để phát huy uy lực của pháo binh, đặc biệt là bắn các mục tiêu kiên cố trong công sự, đồng thời làm cho tinh thần địch hoang mang, Cơ quan pháo binh Quân khu 5 và Sư đoàn 304 lập kế hoạch đưa pháo 85mm từ Điểm cao 118 lên Điểm cao 296 để bắn ngắm trực tiếp ở cự ly 700m. Đây là kế hoạch sử dụng pháo táo bạo và hiểm hóc. Trung đoàn Pháo binh 68 đã thực hiện thành công việc tháo rời từng bộ phận để di chuyển pháo, trinh sát phát hiện mục tiêu chính xác, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ giữa pháo binh với bộ binh và các loại hỏa lực khác để chi viện cho các lực lượng tiến công địch giành thắng lợi.
BĐPB đã vận dụng sáng tạo phương pháp bắn, cơ động lực lượng, hỏa lực kịp thời, nhanh chóng xử trí các tình huống, đáp ứng yêu cầu chi viện hỏa lực trong chiến đấu. Khi phát triển vào trung tâm, các mũi tiến công của Trung đoàn 66 bị chững lại trước hỏa lực dày đặc của địch cả mặt đất và trên không. Hướng chủ yếu bị địch ngăn chặn không phát triển được. Trong lúc khó khăn như vậy, BĐPB đã sáng tạo dùng hỏa lực bắn lướt sườn chi viện cho Tiểu đoàn 8 đánh khu biệt động của địch rất hiệu quả. Việc chuyển hướng tiến công đã hạn chế một phần hỏa lực bắn thẳng và phi pháo của địch, tạo điều kiện đột phá thành công. BĐPB vừa chiến đấu vừa củng cố lực lượng, bố trí lại đội hình, mở các đợt tiến công mãnh liệt, giúp các đơn vị đánh chiếm toàn bộ căn cứ địch.
8 giờ 30 phút ngày 7-8-1974, Sư đoàn 304 đã làm chủ, giải phóng hoàn toàn Thượng Đức. Sau đó, BĐPB đã chi viện hỏa lực cho Sư đoàn 304 tiếp tục chiến đấu giữ vững vùng mới giải phóng Thượng Đức.
Chiến thắng Thượng Đức thể hiện ý chí quyết tâm và sáng tạo trong chiến đấu của BĐPB. Trước hết, BĐPB được tổ chức, xây dựng lực lượng, chuẩn bị thế trận pháo binh chặt chẽ. Hệ thống hỏa lực pháo binh triển khai toàn diện ở các cấp, từ cấp sư đoàn đến tiểu đoàn bộ binh. Do vậy, từng cấp chủ động, dùng hỏa lực của mình kịp thời chi viện cho bộ binh tiến công mỗi khi gặp các tình huống khó khăn, không trông chờ, ỷ lại vào hỏa lực pháo binh cấp trên. Các đơn vị phát huy được vai trò của pháo cối mang vác đi cùng trong đội hình tiểu đoàn bộ binh. Đặc biệt khi tiến công trong điều kiện địch phân tán rộng, luôn biến động, hỏa lực pháo cối đi cùng phát huy được hiệu quả bắn trúng, đúng thời cơ, chi viện cho bộ binh đánh địch.
Trong trận Thượng Đức, ta đã tập trung pháo binh ưu thế hơn hẳn so với địch. Cũng như các đơn vị bạn, pháo binh đã có lực lượng dự bị chiến lược và chiến dịch mạnh, triển khai được thế trận có lợi trên các chiến trường. Ta còn tổ chức cụm pháo binh chuyên trách để chế áp pháo binh địch, lấy pháo mang vác làm nòng cốt, phát huy được cách đánh sở trường, luồn sâu, lót sẵn, bí mật, bất ngờ, bắn trúng, đúng thời cơ. Chỉ huy chiến dịch và đơn vị linh hoạt, sáng tạo sử dụng pháo binh cho từng hướng, từng trận đánh để đạt hiệu suất chiến đấu cao, giành thắng lợi. Từ thực tế sử dụng hỏa lực pháo binh trận Thượng Đức, BĐPB cần tiếp tục nghiên cứu phát triển, vận dụng vào huấn luyện và tác chiến pháo binh trong điều kiện mới.
Nguồn QĐND

Từ chiến thắng Thượng Đức đến đại thắng mùa Xuân

;
Thứ Năm, 07/08/2014, 08:37 [GMT+7]
Hôm nay 7.8, UBND tỉnh tổ chức Lễ kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Thượng Đức. Nhân sự kiện này, Báo Quảng Nam trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Nguyễn Văn Chi - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương về ý nghĩa của chiến thắng Thượng Đức đối với chiến dịch giải phóng Đà Nẵng tiến tới đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Hội trại chào mừng 40 năm Chiến thắng Thượng Đức. Ảnh: Bích Liên
Hội trại chào mừng 40 năm Chiến thắng Thượng Đức. Ảnh: Bích Liên
Sau khi Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (27.1.1973), Đảng ta quán triệt tinh thần tuyệt đối tuân thủ những điều khoản các bên đã thống nhất, chủ trương đấu tranh chính trị quần chúng, không sử dụng đấu tranh vũ trang. Ngược lại, phía Mỹ - ngụy đã trắng trợn phá hoại hiệp định. Tại chiến trường Quảng Nam - Quảng Đà, chỉ hai giờ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực, quân ngụy đã tập trung càn quét các vùng tây Duy Xuyên, vùng B Đại Lộc và các vùng tranh chấp giữa hai bên. Trong nội thành Đà Nẵng, chúng thành lập lực lượng cảnh sát dã chiến được trang bị đầy đủ thay thế cho quân đội đánh phá các lực lượng cách mạng, đàn áp nhân dân, lợi dụng thời cơ dồn dân chiếm đất.
Trước tình hình đó, nhằm đối phó với mưu đồ lật lọng của kẻ thù, Đảng ta quyết định chuyển sang chuẩn bị lực lượng cho trận quyết chiến chiến lược. Tại Hội nghị lần thứ 21 vào tháng 7.1973, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích tình hình và đề ra Nghị quyết về: “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới”, khẳng định cách mạng miền Nam chỉ có thể giành thắng lợi bằng con đường vũ trang cách mạng. Tháng 8.1973, đồng chí Võ Chí Công - Bí thư Khu ủy khu 5 đã triệu tập Ban Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà để truyền đạt tinh thần nghị quyết và đề ra phương hướng, nhiệm vụ để đưa phong trào đấu tranh cách mạng ở Quảng Nam và Quảng Đà phát triển kịp với tình hình mới. Bộ máy tổ chức cán bộ, các lực lượng quân đội, biệt động, tự vệ được phục hồi và củng cố vị trí như trước khi ký Hiệp định Pa-ri.
Căn cứ bất khả xâm phạm?
Ban Thường vụ Khu ủy khu 5 xác định, sau chiến thắng trận Nông Sơn - Trung Phước (từ đêm 17 đến chiều 18.7.1974), để đột phá dứt điểm khai thông toàn bộ chiến trường, Thượng Đức được chọn là trận đánh tiếp và buộc phải thắng cả trên mặt trận quân sự lẫn chính trị bởi tính chất cực kỳ quan trọng của cứ điểm này. Nhiệm vụ quân sự là phải tiêu diệt gọn quân địch. Về chính trị là phải giải phóng cho được hơn 1 vạn dân trong khu dồn; đồng thời từ trận đánh này cho phép ta nhận định khả năng ứng phó của quân chủ lực ngụy sau khi Mỹ rút để so sánh tương quan lực lượng đôi bên, làm cơ sở để Trung ương đề ra những chủ trương, sách lược mới trong chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Chi khu quận lỵ Thượng Đức (nay thuộc xã Đại Lãnh, huyện Đại Lộc) nằm ở vùng ngã ba sông Côn gặp sông Vu Gia, cách Đà Nẵng chừng 45km về phía tây nam; phía tây dựa vào dãy Trường Sơn với nhiều vách đá dựng đứng, phía nam và đông bắc được bao bọc bởi các con sông. Theo đánh giá của địch, Thượng Đức là một “căn cứ bất khả xâm phạm” nằm trong thế phòng thủ chung thuộc vùng 1 chiến thuật của chúng. Với địa hình hiểm trở như vậy, chỉ huy của ta nhận định căn cứ Thượng Đức chỉ có thể tiếp cận được từ phía tây. Qua tìm hiểu, nghiên cứu, ta đã có thông tin: Mỹ - ngụy có bố trí tiền đồn bảo vệ và hoàn toàn có thể phát hiện đối phương từ xa. Chúng xây dựng tại đây hệ thống 35 lô cốt lớn và hầm ngầm bằng bê tông cốt thép hai tầng, hàng trăm lô cốt tiền duyên, ụ súng nửa chìm, nửa nổi. Tất cả mọi hoạt động khi xảy ra tác chiến đều ở dưới mặt đất nên rất khó cho ta phát hiện mục tiêu. Đánh giá về cứ điểm này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kiêu hãnh đặt cho tên gọi “Mắt ngọc của đầu rồng”. Còn Tỉnh trưởng Quảng Nam khẳng định chắc nịch đây chính là “cánh cửa thép bất khả xâm phạm”, một điểm chiến lược dễ thủ khó công, là niềm tự hào, là chỗ dựa đáng tin cậy của vùng 1 chiến thuật và căn cứ quân sự liên hợp Đà Nẵng. Nhờ “mắt ngọc” này, địch dễ dàng quan sát và đánh phá đường tiến quân của ta từ Bắc vào Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh. Hơn nữa, để tiến quân vào giải phóng Đà Nẵng buộc quân ta phải vượt qua được “thách thức” này vì đây là tiền đồn chiến lược bảo vệ căn cứ quân sự và sân bay Đà Nẵng. Quân ngụy kiêu ngạo thách thức: “Bao giờ nước Vu Gia chảy ngược thì Việt Cộng mới chiếm được Thượng Đức!”. Bởi chúng hoàn toàn tự tin với lối bố trí công sự cẩn mật, tập trung hỏa lực mạnh, quân số đông (có những thời điểm tính cả quân tại chỗ và lực lượng ứng cứu của địch lên đến 16 nghìn tên, trận địa pháo tầm xa và pháo cơ động của Sư đoàn 3 lính ngụy từ 65 - 70 khẩu các loại…). Ngoài ra, địch còn chuẩn bị lực lượng yểm trợ chi viện trực tiếp từ các cứ điểm Ba Khe, động Hà Sống, Núi Lở, khi cần có thể điều đến 60 lượt máy bay/ngày từ Đà Nẵng viện trợ lên. Nham hiểm hơn, địch cho dồn 13 nghìn dân các xã lân cận và thị trấn Hà Tân vào xung quanh căn cứ để dễ bề kìm kẹp và làm bia đỡ đạn cho chúng khi bị ta tấn công.
Mở “cánh cửa thép”
Trước âm mưu và thủ đoạn thâm độc của kẻ thù, nhiệm vụ giải phóng và làm chủ chi khu quận lỵ Thượng Đức ngày càng trở nên bức thiết, vừa có tính chiến dịch tại chỗ, vừa có tính chiến lược lâu dài. Tiêu diệt lực lượng địch ở đây là xóa bỏ một mắt xích phòng ngự vững chắc, phá tan “cánh cửa thép”, uy hiếp trực tiếp phía tây nam Đà Nẵng, giải phóng hơn 1 vạn dân và một vùng địa bàn rộng lớn, từng bước đánh bại kế hoạch “bình định lấn chiếm” của địch. Cũng tại đây, hỏa lực tầm xa của ta có thể uy hiếp sân bay Đà Nẵng và sở chỉ huy vùng 1 ngụy, tạo đòn tấn công mạnh và hiểm vào Đà Nẵng khi thời cơ chín muồi.
Đầu tháng 6.1974, Sư đoàn 304 được tăng cường Trung đoàn 3 (thuộc Sư đoàn 324) chính thức nhận nhiệm vụ: phối hợp với Quân khu 5, bộ đội địa phương và dân quân du kích cùng sự nổi dậy của quần chúng tiêu diệt chi khu quận lỵ Thượng Đức, giải phóng nhân dân. Chiến dịch mang biệt danh K711. Sau nhiều ngày đêm ròng rã, với sự giúp sức của nhân dân Quảng Đà, quân ta đã bí mật vận chuyển vũ khí, lương thực áp sát mục tiêu. Có nhiều cách làm sáng tạo được phát huy trong vận chuyển vũ khí và chiến đấu. Khai thác lợi thế địa hình có sông, quân ta đã cho một số khẩu pháo hạng nặng xuống thuyền, bè mảng xuôi về cứ điểm. Đêm trước ngày nổ súng, bộ đội và dân công đẩy kéo pháo 85 ly vượt qua bãi lầy và hai dốc lên điểm cao 118 để ngắm bắn trực tiếp diệt lô cốt mẹ và cứ điểm tiền tiêu. Trong các đợt tấn công đầu, do quân ngụy còn rất mạnh, chống trả ác liệt, hỏa lực từ các lô cốt ngụy được chuẩn bị công phu, có sức công phá lớn, trong khi quân ta chưa nắm chắc địa hình, tổ chức bố trí binh hỏa lực chưa thật phù hợp… nên cuộc chiến diễn ra khá giằng co, cả quân số của ta và địch đều thương vong quá nhiều. Sau khi họp bàn rút kinh nghiệm, đề ra kế hoạch tác chiến mới, tổ chức lại lực lượng, ta chuyển từ chiến thuật đánh nhanh thắng ngay sang “bao vây đánh lấn”. Với sự giúp sức quên mình của nhân dân địa phương, ta có sáng kiến khai thác cây song mây loại lớn về làm dây chằng, ròng rọc, đốn cây rừng làm đòn khiêng để di chuyển pháo lên các điểm cao. Nhờ đó, đến giữa đêm 5.8.1974, các khẩu pháo đã được đặt đúng vị trí như kế hoạch, sẵn sàng đợi lệnh. Rạng sáng 7.8.1974, nhận lệnh tấn công, các khẩu pháo dồn dập nhả đạn, phá tan công sự cố thủ của địch, góp phần quan trọng vào thế tiến công của quân ta. Đến 8 giờ 30 phút, sáng 7.8.1974, “cánh cửa thép” đã bị mở toang, căn cứ Thượng Đức hoàn toàn sụp đổ. Lá cờ chiến thắng của quân ta tung bay trên nóc hầm công sự Thượng Đức. Những cuộc tấn công phản kích hòng tái chiếm Thượng Đức của địch sau đó đều bị ta đánh bại.
Tiến đến ngày toàn thắng
Chiến thắng Thượng Đức như tiếp thêm sức mạnh cho ta tiến tới tiêu diệt các cứ điểm Hòn Chiêng, Núi Gai, Động Mông, Lạc Sơn, Đá Hàm, ép địch lui về Cấm Dơi và quận lỵ Quế Sơn. Nhờ sự giúp sức mạnh mẽ của Sư đoàn 2, lực lượng vũ trang Quảng Nam, Quảng Đà tiêu diệt 70 cứ điểm, mở rộng vùng giải phóng ở huyện Điện Bàn, tây Tam Kỳ, Quế Sơn, bức hàng trung đội dân vệ Gò Đa, phá sập cầu Thủy Tú, Giao Thủy, Bà Bầu, đánh phá sân bay, đánh chìm tàu quân sự tại quân cảng Đà Nẵng… Cũng từ thắng lợi quân sự này, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển mạnh mẽ bằng 3 mũi giáp công (quân sự, chính trị, binh vận). Quần chúng liên tục đấu tranh buộc địch phải rút khỏi nhiều thôn ở Phú Hương, Rừng Lớn (Quế Sơn), Vườn Cốc (Tam Kỳ)…, phá vỡ nhiều khu dồn, vận động binh lính phản chiến… Thời điểm đó, phong trào đấu tranh cách mạng lên cao, phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Sau chiến thắng Thượng Đức, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Trận Thượng Đức cho phép ta rút ra nhận định: Quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn chủ lực cơ động của ngụy. Một tình thế mới bắt đầu xuất hiện: Địch không còn khả năng chiếm lại các vị trí đã mất, quân ta có đủ khả năng tiến công tiêu diệt địch trong công sự kiên cố, tiêu diệt cụm cứ điểm, chi khu, quận lỵ, giữ được mục tiêu, chiếm đất, giải phóng dân ngay ở vùng giáp ranh”. Nhận định đầy sức thuyết phục này của Đại tướng tác động tích cực đến việc hạ quyết tâm chiến lược với những trận quyết chiến giành toàn thắng của quân và dân ta.
Chiến thắng Thượng Đức cũng được nhắc đến trong Hội nghị Bộ Chính trị ngày từ ngày 30.9.1974 đến ngày 8.10.1974, như để khẳng định thêm thời cơ của cách mạng Việt Nam. Chiến thắng đó là niềm cổ vũ lớn lao, có sức lay động mãnh liệt tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân và dân ta không chỉ ở Quảng Nam - Đà Nẵng mà còn trên nhiều chiến trường, không chỉ trên mặt trận quân sự mà cả trên đấu tranh chính trị và ngoại giao. Từ cột mốc quan trọng đó, Bộ Chính trị khẳng định đã đến thời điểm ra trận quyết chiến cuối cùng giành toàn thắng và chọn Tây Nguyên là chiến trường chính trong hoạt động mùa khô của toàn miền Nam, lấy Buôn Mê Thuột làm trận mở màn của chiến dịch nam Tây Nguyên, tiến đến giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
*            *
*
Thấm thoắt đã 40 năm trôi qua! Khoảng thời gian đủ cho những người đã đi qua kháng chiến và lớp thanh niên sinh ra trong hòa bình suy ngẫm nhìn lại, cúi đầu tri ân trước sự hy sinh cao cả của biết bao anh hùng liệt sĩ, thương binh, người có công cách mạng, trong đó có cả những chiến sĩ tham gia chiến dịch Thượng Đức anh hùng. Trận đánh Thượng Đức đã đi vào lịch sử của vùng đất Quảng Nam - Đà Nẵng “trung dũng kiên cường đi đầu diệt Mỹ” và của cả nước với ý nghĩa là trận thắng bước ngoặt, tạo đà cho chiến dịch giải phóng Đà Nẵng tiến tới Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng toàn miền Nam, non sông thu về một mối.
Chúng ta kính cẩn nghiêng mình trước anh linh các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để chiến thắng Thượng Đức mãi âm vang, tượng đài chiến thắng mãi vươn cao, hòa cùng hồn thiêng sông núi, sống mãi với dân tộc Việt Nam!
NGUYỄN VĂN CHI

Thượng Đức, những điểm nhìn - Bài 1: Trận chiến lịch sử

;
Thứ Ba, 05/08/2014, 08:56 [GMT+7]
Bốn mươi năm qua, máu và nước mắt đã khô, màu xanh đã lại phủ trên chiến trường khốc liệt. Tượng đài chiến thắng Thượng Đức (Đại Lộc) sẽ được khánh thành ngay trong ngày kỷ niệm (7.8), không chỉ tôn vinh những người đã khuất mà còn là địa chỉ đỏ giáo dục về lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho các thế hệ mai sau..
Bộ đội tiếp quản chi khu Thượng Đức. Ảnh tư liệu
Bộ đội tiếp quản chi khu Thượng Đức. Ảnh tư liệu
BÀI 1: TRẬN CHIẾN LỊCH SỬ
Đồi Thượng Đức giờ chỉ còn lại mặt phi đạo sân bay dã chiến loang lổ, tróc lở, vài công sự đổ nát, khuất chìm dưới những bụi sim, mua lúp xúp. Mặt trận ác liệt im tiếng súng suốt 40 năm qua. Ít ai biết được khu đồi đổ nát hiện tại này đã từng là căn cứ kiên cố, trang bị vũ khí hiện đại nhất của chính quyền Sài Gòn với hệ thống giao thông hào liên hoàn gồm 35 lô cốt nửa chìm, nửa nổi. Nhiều công sự có nắp, hệ thống nhà hầm, hầm ngầm kiên cố có sức chứa 16.000 quân, được mệnh danh là “Mắt ngọc của đầu rồng”, một “cánh cửa thép” của Đà Nẵng. Quân giải phóng đã hai lần tiến công vào Thượng Đức năm 1969-1970 đều không thành công. Chính quyền Sài Gòn huênh hoang tuyên bố chỉ “khi nào nước sông Vu Gia chảy ngược thì Việt Cộng mới lấy được Thượng Đức”.
Mười ngày đọ súng
Trung tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Xuân Thệ, nguyên Trung đoàn phó Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, đơn vị chủ lực tấn công vào chi khu quận lỵ Thượng Đức kể, lúc 5 giờ ngày 29.7.1974, Bộ Tư lệnh chiến dịch phát lệnh tiến công Thượng Đức. Hai phát pháo hiệu xanh, đỏ vút lên không trung và tín hiệu “bão táp” được truyền đi các hướng. Pháo binh dồn dập nã đạn vào Thượng Đức. Cả cứ điểm chìm trong khói lửa. Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 nổ súng chậm hơn 15 phút so với toàn mặt trận vì sương mù không rõ mục tiêu. Hỏa lực trung đoàn dội xuống Ba Khe, động Hà Sống, chiếm giữ tiền đồn phía đông Thượng Đức. Bộ đội chủ lực và địa phương đã chốt đường bộ và đường sông, cắt chia Thượng Đức với các vùng lân cận. Tuy nhiên, trận đánh vào chi khu Thượng Đức không thuận lợi như dự định. Sau 3 ngày tấn công, công sự phòng thủ cũng như hệ thống giao thông hào đều sụp đổ dưới những đợt pháo kích liên tục của pháo binh, nhưng Trung đoàn 66 vẫn chưa thể chiếm được chi khu quận lỵ và quân lực tổn thất khá nặng nề. Trung đoàn 66 phải tạm dừng để củng cố lực lượng đến tổ chức tấn công quyết liệt đêm 6.8. Đến 8 giờ 30 phút ngày 7.8.1974, chiến sĩ  Sư đoàn 304 đã tràn ngập cứ điểm Thượng Đức.
Tượng đài Chiến thắng Thượng Đức. Ảnh: T.DŨNG
Tượng đài Chiến thắng Thượng Đức. Ảnh: T.DŨNG
Sau này, Trung tướng Nguyễn Văn Tuyên - Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng cho biết, chiến thắng Thượng Đức 1974 đã thuộc về lịch sử nhưng vẫn còn quá nhiều điều để nói. Mấy chục tấn đạn pháo các loại, hỏa lực rải khắp trên bề mặt chi khu, cả cứ điểm Thượng Đức mù mịt trong khói bụi hàng giờ. Nhưng,  ngay cả các lực lượng pháo binh cũng không biết mục tiêu nào đã bị tiêu diệt, mục tiêu nào chưa. Khi bộ binh xung phong, do hỏa lực pháo binh không tiêu diệt được những mục tiêu xung quanh các cửa mở. Quân đội Sài Gòn từ các hầm ngầm, dùng hỏa lực bắn quét từ nhiều phía. Hỏa lực phòng không không khống chế hiệu quả máy bay địch, bị ném bom, bắn phá vào ngay đội hình ta trên cửa mở. Bộ đội bị thương vong, hy sinh quá nhiều. Đợt tiến công thứ nhất không thành công. Ngày 30 và 31 dù có thay quân đột phá, đơn vị mới vẫn lặp lại các thiếu sót  cũ, đánh không có sự chuẩn bị. Sự kết hợp giữa công binh, pháo binh, bộ binh rất rời rạc, chệch choạc thiếu tỉ mỉ, cửa mở vẫn không thông và bộ đội vẫn thương vong nhiều. Đến 17 giờ ngày 31.7, Trung đoàn 66 phải tạm dừng tiến công, chuyển sang giữ địa bàn đã chiếm, rút kinh nghiệm, chuẩn bị lại tất cả các khâu thật chu đáo trước khi thực hành đột phá tiếp. Đây là một trong những sai lầm lớn, dẫn đến thương vong lớn.
Điểm cao 1062
Ngay sau khi giải phóng Thượng Đức, để sẵn sàng đánh trả cuộc phản công lớn của địch hòng chiếm lại khu vực này, Bộ Chỉ huy chiến dịch sử dụng Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 tiến công đánh chiếm khu vực Bàn Tân 2, Hà Nha, các điểm cao 52, 126, 109 (đông Thượng Đức 5km). Tiếp đó Bộ Chỉ huy chiến dịch sử dụng Trung đoàn 3 và Trung đoàn 66 tổ chức tuyến phòng ngự kéo dài từ điểm cao 52 qua Hà Nha, Bàn Tân, vượt sông Vu Gia vào tới thung lũng núi Hữu Trinh, cắt đứt hoàn toàn đường tiến quân của địch từ Đà Nẵng lên Thượng Đức. Trung đoàn 24 bộ binh vừa từ Quảng Trị vào được giữ làm lực lượng dự bị.
Dấu vết chiến tranh còn sót lại trên đồi. Ảnh: N.PHONG
Dấu vết chiến tranh còn sót lại trên đồi. Ảnh: N.PHONG
Chỉ một ngày sau Thượng Đức thất thủ, lính dù Sài Gòn đã khẩn cấp không vận đến vùng hành quân Đại Lộc. Cuộc chạm trán đầu tiên giữa lực lượng tinh nhuệ hai bên đã diễn ra ngày 18.8.1974. Cuộc chiến đấu giữa Trung đoàn 24, Trung đoàn 66 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 324 với Sư đoàn dù của quân đội Sài Gòn đã diễn ra quyết liệt ở khu vực điểm cao 1062 trong suốt tháng 10 và đầu 11.1974. Đây là cuộc đọ sức nảy lửa nhất, ác liệt nhất của hai bên. Hai bên giành giật nhau từng tấc đất, từng mỏm đồi trên cao điểm 700, 383 và nhất là cao điểm 1062. Cuộc chiến đấu trở nên vô cùng ác liệt và gian khổ. Trung tướng Phạm Xuân Thệ, nguyên Trung đoàn phó Trung đoàn 66 nói, những ngày đó mưa lớn kéo dài, các trận địa chốt ngâm trong nước, hầm hào sạt lở. Việc vận chuyển, tiếp tế của Quân đoàn từ phía sau gặp khá nhiều khó khăn. Sức khỏe giảm sút, quân số thiếu hụt, nên ở một số nơi, có đơn vị không đủ sức giữ vững trận địa. Quân đội Sài Gòn đã chiếm được một số cao điểm 109, 700, 383… trong hệ thống phòng ngự phía trước. Thiếu tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Mã Lương, nguyên Chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 24, Sư đoàn 304 nói, tháng 8 khởi đầu mùa mưa lớn, các con đường đều sụt lở, lầy lội, suối sâu nước đổ ào ào dữ dội. Hàng ngày, máy bay, pháo binh trút bom dữ dội. Các tuyến hào chiến đấu ngược lên đỉnh 1062 đầy bùn nước sền sệt ngập tới đầu gối. Đi trên đỉnh như đi trong sình lầy, cây cối chỏng chơ không còn một chiếc lá trên cành, nơi đây từng là khu rừng rậm rạp nhưng bây giờ tựa như cánh đồng hoang đầy hiểm họa. Đỉnh 1062 là một nấm mộ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062,  lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại. Cả hai bên mất đi, rồi dành lại đỉnh 1062 nhiều lần. Pháo, súng, lựu đạn và cả bom napalm đốt cháy cả cánh rừng nguyên sinh, cày nát đỉnh đồi. Cuối cùng, quân dù phải rời bỏ điểm cao 1062, thiệt hại đến 50% quân số sau 4 tháng giao tranh. Thế trận giằng co hai bên còn kéo dài thêm vài tuần nữa, nhưng cuối tháng 11.1974, cuộc “thư hùng” giữa hai lực lượng tinh nhuệ nhất chấm dứt. Chiến thắng Thượng Đức khẳng định sức mạnh của chủ lực ta áp đảo chủ lực địch. Đây là một trong những cơ sở để Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương hạ quyết tâm giải phóng miền Nam 1975.
Khói lửa chiến tranh vùng Thượng Đức đã lùi xa. Một ngày đầu thu, vài người khách lạ đến cầu Ba Khe hỏi đường lên đỉnh cao 1062. Những người dân địa phương ngồi nghỉ dưới những bóng cây trùm mát rượi ven bờ khe nói không thể lên đồi cao ấy được vì đường khó đi. Hình như nơi ấy còn nhiều mìn. Dọc khu vực ấy có rất nhiều biển báo cấm người và trâu bò “xâm nhập”! Nhìn khung cảnh thanh bình, nên thơ ấy với khe nước trong veo chảy từ cánh rừng trước mặt, vài con trâu trầm mình giữa nước trong nắng sớm và không ít khách bộ hành mắc võng… nghỉ chân, không ai có thể hình dung nổi, khu vực này, đã từng là dưới chân đồi của một “đỉnh máu” 40 năm trước.
-----------------------
Bài 2: Nhận định từ hai phía
NHẬT PHONG

Thượng Đức, những điểm nhìn - Bài 2: Nhận định từ hai phía

;
Thứ Tư, 06/08/2014, 08:47 [GMT+7]
“Chiến thắng Thượng Đức góp phần hình thành quyết tâm giải phóng miền Nam của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương”. Nhận định này luôn được xác nhận tại các cuộc hội thảo, kỷ niệm bàn đến sự kiện ngày 7.8.1974. Phía chính quyền Sài Gòn hay báo chí phương Tây nhiều năm sau cuộc chiến cũng thú nhận: sự thất thủ của chi khu Thượng Đức là điều khó tránh khỏi.
Dưới chân đồi 1062. Ảnh: NHẬT PHONG
Dưới chân đồi 1062. Ảnh: NHẬT PHONG
1. Theo tài liệu của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, trong suốt 20 năm, kể từ 1954, chưa khi nào vấn đề đánh giá so sánh lực lượng hai bên lại đòi hỏi sự “sáng tạo” như thời điểm giữa năm 1974. Lịch sử đã chứng minh, khi mất chỗ dựa trực tiếp vào quân Mỹ, chính quyền Sài Gòn và quân lính đã suy yếu đi rất nhiều. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã phải kêu gọi quân lính “đánh theo kiểu con nhà nghèo”, nhưng thực lực địch yếu đến mức nào, khả năng phản kích, yểm trợ tại chỗ và khả năng cơ động ứng cứu giải tỏa của lực lượng tổng trù bị chiến lược của Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn ra sao, vẫn là ẩn số. Tuy nhiên, sự kiện Thượng Đức đã đưa đến cái nhìn mới về cuộc chiến. Quận lỵ đầu tiên được giải phóng, thoát khỏi sự cai trị của chính quyền Việt Nam Cộng hòa sau Hiệp định Paris đã cổ vũ rất lớn đến phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân ở các vùng nông thôn và đô thị miền Nam. Thượng Đức thất thủ, báo hiệu bắt đầu thất bại, đổ vỡ dây chuyền trong kế hoạch bình định, gom dân của chính quyền Sài Gòn. Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho hay, thực tiễn chiến trường Thượng Đức đã cho thấy hai kết luận rất quan trọng: Sức chiến đấu của quân chủ lực ta hơn hẳn quân chủ lực ngụy và Mỹ khó có khả năng can thiệp trở lại miền Nam. Thượng Đức là thước đo so sánh giữa chủ lực cơ động của ta và cơ động chính quyền Sài Gòn. Thực tế chiến trường cho thấy quân đội của chính quyền Sài Gòn đã suy yếu rõ rệt. Khả năng yểm hộ của phi pháo giảm cả về số lượng và cường độ. Quân chủ lực Quân khu I ngụy không đủ sức tự ứng cứu giải tỏa. Quân cơ động chiến lược phản ứng chậm chạp, điều động chắp vá, nhỏ giọt, bế tắc và lúng túng trong áp dụng chiến thuật. Tinh thần chiến đấu ngày một sa sút, dù rất muốn nhưng không đủ sức giành lại vị trí đã mất. Bộ Tổng tham mưu nhận định khả năng chiến đấu của bộ đội chủ lực cơ động ta đã hơn hẳn quân chủ lực cơ động của ngụy, mở ra niềm tin vào khả năng đánh thắng toàn bộ quân đội Sài Gòn trong một tương lai gần. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thống nhất nhận định đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân tộc dân chủ. Ngoài thời cơ này, không còn thời cơ nào khác. Nếu để chậm mươi, mười lăm năm nữa, bọn ngụy gượng dậy được, các thế lực xâm lược hồi phục, bọn bành trướng mạnh lên thì tình hình sẽ phức tạp vô cùng.
2. Chiến sự Thượng Đức và cuộc tái chiếm bất thành của sư đoàn dù liên tục được cập nhật trên các trang báo lớn ở miền Nam và phương Tây. Tờ Paris Press (số ra ngày 29.7.1974) viết: “Bắt đầu đợt tấn công, pháo binh cộng sản đã hạ nòng bắn tập trung diệt từng lô cốt một của căn cứ. Không quân Việt Nam cộng hòa gửi phi pháo đến yểm trợ thì gặp phải trọng pháo dữ dội của quân cộng sản”. Tin tức chiến sự được các tờ báo cập nhật liên tục mỗi ngày. Thời báo New York bình luận ngày 30.7.1974: “Cộng sản Bắc Việt bắn pháo dữ dội và tấn công trực tiếp vào chi khu quận lỵ Thượng Đức. Chi khu trưởng (Thiếu tá Quận trưởng Nguyễn Quốc Hùng) đã bị thương nặng. Có khả năng quân không giữ vững được phòng tuyến”. Báo Thế giới Mỹ mô tả trận đánh vào đêm 6.8.1974 rằng, cường độ pháo tăng mạnh với hơn 1.200 đạn pháo. Mọi chi viện đều bị cắt đứt. Quân Việt Nam cộng hòa thiếu lương thực. Đạn dược tiếp tế không thể vào được căn cứ”. Cũng trong khối tài liệu Bộ Quốc phòng Mỹ còn lưu, ghi rõ: “Tại chi khu quân sự Thượng Đức, tổn thất của biệt động quân và các đơn vị trú phòng ngày càng gia tăng, trong khi việc tải thương không thực hiện được do hỏa lực phòng không ác liệt của cộng quân. Theo báo cáo của Sở chỉ huy chiến dịch tại Đà Nẵng gửi về Sài Gòn: Tại Thượng Đức, tình hình trở nên nguy kịch khi lính biệt động quân sắp cạn kiệt đạn dược cũng như lương thực. Không quân Việt Nam cộng hòa cố gắng thả dù tiếp tế khẩn cấp vào ngày 5.8 nhưng do hỏa lực phòng không ác liệt của Bắc Việt, tám kiện hàng tiếp tế đều rơi ngoài chu vi phòng thủ”.
Theo Thượng tá TS. Trần Mai Hương (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam), sau nhiều năm, khá nhiều người vẫn đang còn cố gắng tìm lời giải cho câu hỏi: tại sao miền Nam mất quá nhanh như thế? Nhiều tướng lĩnh, chính khách Pháp - Mỹ, nhiều tư liệu được khai thác, sách, báo, tạp chí được xuất bản đã bình luận, đưa ra nhiều ý kiến. Có những ý kiến đánh giá khá gay gắt rằng, thất bại Thượng Đức chính là do tinh thần binh lính sa sút, chỉ huy chủ quan và sử dụng cách đánh không phù hợp với đối phương. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến ca ngợi tinh thần quyết chiến thắng, sự hiệp đồng tác chiến chặt chẽ của bộ đội Bắc Việt (cách  gọi của báo chí phương Tây). Khi chiến dịch kết thúc, chính quyền Sài Gòn đưa ra nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của chiến dịch Thượng Đức. Nhiều sách báo từ phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũng đã khẳng định trình độ tác chiến, tinh thần chiến đấu kiên cường của Bắc Việt. Tập san Quốc phòng của quân đội Sài Gòn nhận xét: “Đây là trận đánh hiệp đồng binh chủng cường tập rất mạnh của Trung đoàn 66 cộng sản Bắc Việt, sau nhiều đợt pháo bắn yểm trợ cho nhiều đợt bộ binh tấn công”. Còn tờ tin Mỹ và Thế giới mô tả tất cả công sự phòng thủ cũng như hệ thống giao thông hào đều sụp đổ dưới những đợt pháo kích liên tục của quân cộng sản Bắc Việt. Thất bại với Mỹ và quân đội Sài Gòn là không thể tránh khỏi. Thượng tá TS. Trần Mai Hương cho biết thêm, 10 năm sau ngày chiến dịch kết thúc, tra cứu tài liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho thấy, đối phương đã theo dõi chặt chẽ, nắm rõ tin tức tình báo việc ta chuẩn bị đánh vào căn cứ. Chính quyền Sài Gòn thừa nhận, kể từ cuối năm 1973, các không ảnh chụp được cho thấy nhiều khúc đường 14 từ Thừa Thiên đến Buôn Mê Thuột đang được sửa chửa hoặc chuyển quân. Một hệ thống ống dẫn dầu chằng chịt. Biệt kích đã được thả xuống nhiều nơi để thám sát hoặc phá vỡ. Các phi cơ A.37 được gọi đến để oanh tạc những đoàn xe đang chạy trên đường 14 hoặc các toán nhân công làm đường… Nhưng phá xong chưa được bao lâu, con đường lại hoàn nguyên như cũ. Chỉ có B.52 mới có thể phá sập những hệ thống đường và ống dẫn dầu rộng lớn. Nhưng lúc đó B.52 không còn! Có nghĩa là chính quyền Việt Nam cộng hòa biết, nhưng không thể làm gì được để ngăn cản làn sóng tiến công của quân đội ta!
____
Bài 3: Di dân và lưu dân
NHẬT PHONG

Thượng Đức, những điểm nhìn - Bài 3: Di dân và lưu dân

Thứ Năm, 07/08/2014, 08:41 [GMT+7]
Trong ký ức của những người di tản khỏi vùng chiến trận Thượng Đức, ngày 7.8.1974 là ngày giải phóng. Khá nhiều người chọn vùng đất mới Thạnh Mỹ, Thác Cạn, Đầu Gò, Ba Tớt ở lại, tiếp tục những tháng ngày lưu dân.
Khách lên Đầu Gò. Ảnh: NHẬT PHONG
Khách lên Đầu Gò. Ảnh: NHẬT PHONG
Di tản
Các con số thống kê của Sư đoàn 304, Huyện ủy Đại Lộc và nhân chứng không trùng khớp, nhưng ước chừng số người di tản khỏi mặt trận Thượng Đức trong những ngày cuộc chiến nổ ra không dưới 13 nghìn người. Quận Thượng Đức (cũ) bao gồm các huyện Nam Giang, Đông Giang, Tây Giang và một phần đất phía tây Đại Lộc. Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền Sài Gòn chỉ quản lý được 3 xã phía tây Đại Lộc gồm Lộc Ninh, Lộc Bình và Lộc Vĩnh, nay là các xã Đại Sơn, Đại Lãnh, Đại Hưng và Đại Hồng. Theo thống kê năm 1974, dân số Thượng Đức nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền Sài Gòn khoảng 14 nghìn người. Ông Phạm Thanh Ba - nguyên Chánh Văn phòng Đặc khu ủy Quảng Đà cho hay, chiến dịch đã vận động tổ chức dân bị dồn vào ấp chiến lược quay về vùng giải phóng. Khi tiếng súng Thượng Đức nổ ra, quần chúng phá khu dồn, bung ra vùng giải phóng. Ngay trong đêm 30.7.1974, hàng nghìn dân ở các thôn 12, 13, 14, 15 xã Lộc Bình theo đường sông Khe Cùng và đường Gò Trao lên vùng Hiên, hàng nghìn người dân khác của xã Lộc Vĩnh lên Đầu Gò, Thác Cạn, Thạnh Mỹ; và khi chiếm được quận lỵ Thượng Đức, hơn 8.000 người dân đã được ra khỏi khu vực chiến đấu để tránh bom đạn khi lính dù Sài Gòn hành quân tái chiếm Thượng Đức.
Đại tá Nguyễn Huy Toàn - nguyên Trưởng ban Tuyên huấn Sư đoàn 304 nói, ngày ấy, sư đoàn đã làm nhiều lán trại trong rừng, chuẩn bị cả lương thực, thực phẩm và đồ dùng thiết yếu… đủ cho nhân dân sống trong một thời gian. Khó khăn nhất là làm tư tưởng cho đồng bào tin cách mạng và bộ đội. Tuy nhiên, nhờ có các đội công tác địa phương và hành động thực tế của bộ đội đã cảm hóa được đồng bào miền núi, bảo đảm an toàn cho người di tản. Đồng bào các dân tộc ở Thạnh Mỹ đã giúp người dân di tản lên rất nhiều, từ việc dựng lán trại, đến chia đất, cấp giống cây, vật nuôi… để họ tạm bắt đầu cuộc sống những ngày tản cư. “Có thể nói đưa nhân dân sơ tán lên vùng căn cứ là nhiệm vụ khó khăn cho ta và nhân dân, nhưng không còn lựa chọn nào khác. Sau giải phóng chính quyền đã vận động hơn 8.000 người dân trở về làng cũ, giảm bớt khó khăn lương thực nơi sơ tán, đồng thời tham gia xây dựng vùng mới giải phóng” - ông Toàn nói. Bà Phạm Thị Minh (Hà Tân), nhân công trên công trình tưởng niệm Thượng Đức là một trong số những người trở lại làng cũ sau ngày mặt trận Thượng Đức im tiếng súng. Bà Minh nói không ít người, trong đó có khá nhiều họ hàng của gia đình bà, đã quyết định ở lại nơi đất mới. Có lẽ trong suy nghĩ của họ, làng cũ đã bị bom đạn cày xới và nhiều người không muốn gặp lại cảnh khu dồn ngày trước, đã từng “giam lỏng”, ám ảnh nhiều gia đình suốt thời gian dài, nên chấp nhận sống đời lưu dân. Những người tản cư lên Thạnh Mỹ đã có cuộc sống khá, còn dân ở lại Ba Tớt, Thác Cạn, Đầu Gò của xã Đại Sơn… vẫn chưa thể giàu có hơn.
Theo dấu chân lưu dân
Cô chủ quán nước đầu ngã ba Tân Đợi nói, cuối con đường bê tông ngoằn ngoèo, qua Tân Đợi, Đồng Chàm sẽ đến làng mới Tam Hiệp (xã Đại Sơn). Tám giờ sáng, ngôi làng vừa định cư cho những người dân bị mất đất sau những trận sạt lở kinh hoàng của hai làng Thác Cạn và Ba Tớt vắng vẻ. Chen giữa những ngôi nhà khép hờ cửa là những căn hộ trống trơn, không người ở. Một người rời làng, dắt theo hai con chó săn nhỏ về phía bến đò, qua sông. Người đàn ông 26 tuổi tên Nguyễn Văn Nhỏ ấy nói kẻ có tiền đã mua đất trung tâm Đại Sơn hay quê cũ Đại Lãnh làm nhà ở, bỏ lại những căn nhà thông thốc gió. Người nghèo vẫn phải trở lại làng cũ để làm đồng. Chiều tối mới về làng mới, tắm gội, rửa ráy, giặt giũ ngay tại các giếng ở đầu làng. Có người dựng trại ở luôn trên đất cũ, thi thoảng mới về làng.
Đầu Gò như một thế giới riêng, giống như một rẻo đất nhỏ neo mình bên sườn núi, thấp thoáng bóng người giữa những khu vườn xanh mát. Trừ vài ngôi nhà cất dọc sông, 65 ngôi nhà khác của làng đối mặt nhau như một dãy phố qua con đường đầy bụi đất, đi dăm phút hết đường. Họ là những lưu dân khắp nơi giạt về, nhưng nhiều nhất là dân Đại Lãnh. Ký ức ngày giải phóng với họ là ngày 7.8.1974. Căn nhà gỗ lim của anh Nguyễn Ngọ (dân Đại Lãnh tản cư) sát sông, mát rượi cây trái. Cũng như nhiều người khác, anh không cần biết và cũng không cần hỏi vì sao cha mẹ anh đã quyết định dựng nhà nơi “thâm sơn cùng cốc” này để sống. Những người già lần lượt khuất núi để lại mảnh vườn, nhà cửa sát kề nhau và các anh lớn lên trở thành chủ nhân của ngôi làng mấy trăm dân thiếu thốn mọi bề nhiều năm. Vài tháng trước, điện đã về làng. Dân làng bắt đầu sắm ti vi, tủ lạnh, đóng giếng tưới cây, hết cảnh các nhà đóng tiền mua xăng chạy máy phát điện vài giờ mỗi tối như những năm trước đây. Anh Ngọ nói dân làng không nghèo. Rất nhiều nhà có cỗ xe trâu làm thuê. Khó khăn duy nhất của họ chính là đò giang cách trở và thiếu đất canh tác. Ông Phạm Bình (82 tuổi), một trong số rất ít người già từ Hà Dục tản cư ngày ấy còn khỏe ở làng nói, hồi chiến tranh chỉ lên làng ở tạm, lâu ngày thành quen, nên sau giải phóng chẳng muốn về nữa. Những đứa trẻ lớn lên cũng bắt đầu cuộc sống như vậy không có gì thay đổi. “Không ai chọn nơi để sinh ra nhưng có quyền chọn quê cho mình sống, miễn là vui” - ông Bình nói.
Điện đã về làng sau 40 năm như một “món quà” bất ngờ. Một “món quà” lẽ ra họ phải được hưởng từ nhiều năm trước. Người làng nói muộn vẫn còn hơn không. Thao thức của dân làng hiện thời là chuyện không có phương cách gì để mưu sinh. Và cuộc sống gắn liền với nỗi lo sợ mỗi năm mùa lũ, những căn nhà bị nhấn chìm trong biển nước, có nguy cơ bị “bứng” đi lúc nào không hay. Ý nguyện của làng là dời nhà vào sát chân núi, nhưng dường như chính quyền địa phương chưa đủ kinh phí để tạo mặt bằng. Không đất, không việc làm, không còn cách nào khác buộc họ phải vào rừng tìm kế sinh nhai.
Chiều xuống. Gió từ mặt sông phả lên triền sông vắng. Vài thanh niên mắc võng giữa vườn. Phạm Văn Sơn, thợ sơn tràng, rủ vài người bạn ngày mai lên Thạnh Mỹ làm thuê. Kẻ lắc đầu, nghĩ ngợi điều gì không rõ. Chị Thanh, vợ anh Ngọ nói mới theo con trai về lại làng cũ. Mấy hôm nay ở dưới Đại Lãnh vui lắm. Họ cắm trại, văn nghệ, hội chợ… mừng kỷ niệm giải phóng. “Mới đó mà đã 40 năm”. Lời chị Thanh rớt giữa tiếng sông gầm qua vách đất, mất hút!
__________
Bài cuối: Núi đồi đồng vọng
NHẬT PHONG

Thượng Đức, những điểm nhìn - Bài cuối: Núi đồi đồng vọng

;
Thứ Sáu, 08/08/2014, 09:26 [GMT+7]
Chiến thắng Thượng Đức đã thuộc về lịch sử. Người dân vùng “đất chết” đã tìm thấy cuộc sống yên bình bên mảnh vườn ngày cũ. Tượng đài Chiến thắng Thượng Đức khánh thành ngay trong ngày kỷ niệm (7.8), không chỉ là nén tâm nhang tôn vinh những người đã nằm lại đất Mẹ, mà còn là lời nhắn gửi đến thế hệ mai sau về cái giá phải trả cho cuộc trường chinh, thống nhất hai miền Nam - Bắc.
Tượng đài trong lòng dân
Tượng đài Chiến thắng sừng sững uy nghi dựng trên đồi Thượng Đức, cạnh những chứng tích chiến tranh còn sót lại 40 năm qua, hướng mặt về dòng Vu Gia dùng dằng về xuôi. Trung tướng Phạm Xuân Thệ - Anh hùng lực lượng vũ trang, nguyên Trung đoàn phó Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304), một trong những người vận động Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tài trợ kinh phí xây dựng công trình chia sẻ, tượng đài như nén tâm nhang của những người sống sót trên chiến trường Thượng Đức thắp cho những người nằm lại. Nhưng sự tôn vinh, ghi nhớ công trạng ấy vẫn chưa đủ. Cái giá phải trả cho trận chiến này, cho cả cuộc trường chinh, thống nhất hai miền Nam - Bắc khá đắt. Đến nay chỉ có khoảng 600 (trong số 1.000) chiến sĩ hy sinh được tìm thấy hài cốt. Số còn lại đang nằm đâu đó trên đồi Thượng Đức hay ở những điểm cao giao tranh dữ dội ngày ấy vẫn chưa thể về với đồng đội, hay nhiều ngôi mộ vẫn mang dòng chữ “vô danh” đang day dứt, buộc những cựu binh phải tiếp tục mở thêm nhiều đợt khảo sát, tìm kiếm, đến từng gia đình người tham chiến để có thêm hình thức tôn vinh. Đại tá Nguyễn Huy Toàn - nguyên Trưởng ban Tuyên huấn Sư đoàn 304 hy vọng rằng Bộ Quốc phòng sẽ cử công binh về rà phá bom mìn, tìm hài cốt của hơn 300 chiến sĩ còn nằm đâu đó trên mặt trận Thượng Đức. “Tượng đài Chiến thắng Thượng Đức khánh thành. Xây dựng đã khó, nhưng nuôi dưỡng tác dụng, để các thế hệ mai sau hiểu hơn về cái giá của độc lập, xây dựng một tượng đài trong lòng dân còn khó hơn” - Đại tá Nguyễn Huy Toàn nói.
Qua chợ Hà Tân. Ảnh: NHẬT PHONG
Qua chợ Hà Tân. Ảnh: NHẬT PHONG
Nỗi day dứt ấy không chỉ của Trung tướng Phạm Xuân Thệ, Đại tá Nguyễn Huy Toàn, hay của cựu chiến binh Sư đoàn 304, mà đó cũng là nỗi buồn dai dẳng của nhiều người thời hậu chiến. Chủ tịch UBND xã Đại Lãnh (Đại Lộc) - Ngô Xuân Yến nói, chính quyền đã phối hợp tổ chức những đợt tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ trên đồi Thượng Đức nhưng vẫn chưa tìm thấy được gì. Giờ đây, người ta thường nói về hòa giải để hòa hợp thì câu chuyện ấy đã từng được thể hiện trên mảnh đất Thượng Đức. Chiến sự nổ ra, hơn một vạn người từ chi khu được di tản và 1.600 tù binh địch đã được nhân dân vùng giải phóng đón nhận. Họ đã được những người cách mạng dành những bịch gạo, lon sữa qua những ngày bệnh tật, để rồi sau đó được trả về đoàn tụ gia đình. Bốn mươi năm, thời gian đủ dài để người ta quên đi những đau thương mất mát trong chiến tranh. Chiến công, mất mát lẫn dư vị đắng chát thời chiến tranh, thường chỉ được nhắc tới trong các ngày giỗ chạp, ngày kỷ niệm hoặc một sự kiện nào đó diễn ra trên quê hương. Hàng nghìn bộ đội, du kích địa phương hy sinh trên mặt trận và cũng ngần ấy thương binh là những con số thực, có thể đo đếm được, nhưng nỗi đau thương mất mát, trầm uất còn sót lại trong mỗi người thì không thể nào định lượng. Nhưng họ nhắc lại chuyện cũ không phải để sống trong hoài niệm, không phải nói về nỗi đau mất mát, càng không phải để nuôi lòng thù hận mà để hướng về tương lai.
Truyền kỳ của đất
Nhiều người dân Hà Tân kể, ngày trở về không thấy nhà, không thấy làng. Chỉ có một vùng đồi loang lổ, lơ thơ cây cỏ và những chú chim lạc loài giật mình thảng thốt vỗ cánh bay lên từ đáy những hố bom ken dày mặt đất. Thi thoảng vẫn có thêm những tiếng nổ từ bom mìn còn sót lại sau chiến tranh trong những cuộc làm đồng, khai hoang phục hóa. Vậy mà chẳng mấy ai dứt áo ra đi. Họ vẫn sống và hy vọng. Cho tới giờ, không ít người vẫn còn tự hỏi, không hiểu vì sao họ có thể sống qua được những ngày tháng đói nghèo thời hậu chiến mà vẫn yêu nhau, sinh con, đẻ cái, cho chúng học thành tài, trở thành những kỹ sư, bác sĩ, nhà giáo nhiều như hôm nay. Có lẽ người ta bắt đầu quên đi cái nghèo khổ, kể từ khi cả làng hăm hở lao vào chiến dịch tấn công đồng cỏ, ra quân làm thủy lợi, quy hoạch mồ mả, biến những cánh đồng hoang hóa ken kín bom mìn thành những cánh đồng lúa tốt tươi, rau trên đất và màu xanh trên biền bãi suốt mấy chục năm qua.
Người Đại Lộc vẫn thường ví von Đại Lãnh có 3 thứ đặc sản là chiến trường lịch sử, rẻo đất nhỏ neo ven bờ sông Cái, sông Côn quanh năm đón nắng gió mát và cái nghèo. Nhưng, họ không bao giờ thôi khát vọng. Chợ Hà Tân vẫn tấp nập bán buôn. Khách thương hồ từ thượng nguồn xuống, bến Hiên qua, neo thuyền, tải hàng hóa lên những chuyến xe đò Hà Tân - Đà Nẵng và ngược lại mỗi ngày. Dân địa phương nói vui, Đà Nẵng có gì, chợ Hà Tân có nấy. Chính quyền địa phương vẫn phải thừa nhận dù tốc độ giá trị ngành thương mại, dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng khá ổn định, nhưng nguồn vốn đầu tư phát triển cho lĩnh vực này thấp, thiếu giải pháp kinh doanh, liên kết, phát triển ngành nghề mới và nông nghiệp bấp bênh… Nghĩa là cái nghèo vẫn đeo đẳng đất này suốt bốn mươi năm qua. Điều ấy rất dễ để hình dung khi vượt qua thị tứ Tân An, một con đường xuôi cầu Hà Tân đầy bụi đất qua những ngôi nhà thấp nép mình giữa trung tâm xã, thiếu tiếng ồn ã của những công xưởng, nhà máy hay cơ sở xí nghiệp, và thiếu cả những quán cà phê dọc đường. Dân địa phương cũng đã nghĩ đến chuyện làm du lịch hoài niệm chiến trường như ý kiến của nhiều cựu binh hay cơ quan quản lý, nhưng giờ họ không có tham vọng ấy, dù biết chắc, du lịch phát triển sẽ có thêm nguồn kinh phí để tái thiết, nhưng không dễ để đầu tư và doanh nghiệp nào chịu bỏ tiền ra để tạo lập điểm đến, mở tour lên vùng đất khá xa xôi này. Với họ đó là chuyện của ngày mai. Nhưng họ cũng tin rằng, ở nghìn trùng xa nào đó, các liệt sĩ đang dõi mắt, cổ vũ dân Thượng Đức biết quý từng tấc đất, nuôi dưỡng khát vọng cường thịnh, để sự hy sinh cho độc lập tự do không trở thành vô nghĩa.
Con đường trở lại xuôi đã gần hơn. Cánh đồng lúa xanh mướt có những bờ xe nước tưởng chỉ còn hiện hữu trong ca dao, và rẻo đất nhỏ ven sông, suối đồi có trâu đầm, trẻ em nô đùa trên cánh đồng mơ tưởng ấy… trôi ngược phía sau.
Thượng Đức ác liệt đạn bom đã trở thành lịch sử!
NHẬT PHONG

Một kỷ niệm ở Thượng Đức

;
Thứ Ba, 29/07/2014, 14:50 [GMT+7]
(QNO) - Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 (tiền thân là Trung đoàn 29, Sư đoàn 325 C), mang mật danh Trung đoàn Thuận Hóa - anh hùng của chiến trường Trị Thiên, được điều vào Tây Nguyên tham gia đánh chiếm quận lỵ Đăk Pét, tỉnh Kon Tum cùng với Trung Đoàn 66 (Play Me) của Sư đoàn 10 do mặt trận B3 chỉ huy.
Tượng đài Chiến thắng Thượng Đức.
Tượng đài Chiến thắng Thượng Đức.
Lần đầu tiên tại chiến trường, trung đoàn hành quân bằng cơ giới. Sau một thời gian chuẩn bị cho trận đánh, ngày 16.5.1974 chỉ trong khoảng 3 tiếng đồng hồ, Trung đoàn 3 sư đoàn 324 đã cùng đơn vị bạn giải phóng hoàn toàn quận lỵ Đăk Pét. Ngay sau trận đánh, đơn vị lao vào giúp dân làm làm nhà, ổn định chổ ở cho bà con từ ấp ra bản làm ăn.
Trung đoàn 3 lại được cơ giới đoàn 559 chở ra T’rao, chuẩn bị tiếp cho trận đánh Quận lỵ Thượng Đức, huyện Đại Lộc, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Đà, phối thuộc với sư đoàn 304 của quân đoàn II do quân Khu 5 chỉ huy.
Sau một tháng, đơn vị vừa vận chuyển cơ sở vật chất cho trận đánh, vừa trinh sát, nắm địch, lên quyết tâm chiến đấu và làm đường vận chuyển nối từ đường Hồ Chí Minh vào sát cứ điểm địch.
Giai đoạn một, Trung đoàn 3 làm nhiệm vụ đánh chốt đường, chiếm các điểm cao phía trước như Ba Khe, điểm 383… không cho địch từ Đà Nẵng lên ứng cứu và ngăn lính ngụy từ Thượng Đức tháo chạy về Ái Nghĩa. Quân khu I và Quân đoàn I ngụy liên tiếp giải vây, cứu nguy cho Thượng Đức nhưng không thể vượt qua bức “tường lửa” của Trung đoàn 3, Sư đoàn 324. Ngày 7.8.1974, Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, sau nhiều lần đột kích khó khăn đã chiếm được căn cứ Thượng Đức.
Mất cứ điểm quan trọng án ngữ Khu Liên hiệp quân sự Đà Nẵng, quân ngụy điều động Sư đoàn dù là đội quân thiện chiến và là xương sống của quân đội Việt Nam Cộng hòa lên phản kích chiếm lại.
Ở giai đoạn II, Trung đoàn 3 là lực lượng chủ yếu đối mặt với sư đoàn, bảo vệ vùng giải phóng Thượng Đức. Nhiều trận đánh ác liệt xảy ra ở điểm 383, đồi 500, bình độ 700… Đặc biệt, điểm cao 1062 là điểm quyết chiến điềm giành giật từng tất đất giữa ta và địch, lực lượng hai bên tổn thất nặng nề. Đơn vị chúng tôi luôn được chính quyền, nhân dân và bộ đội địa phương Quân khu V phối hợp, động viên và tiếp tế tận tình từ tinh thần đến vật chất cho bộ đội đánh địch dài ngày. Cuối cùng, bằng một đòn tiến công xuất sắc từ dải phòng ngự trực tiếp giữa ta và địch, chúng ta đã đập tan quyết tâm lấy lại Thượng Đức của Sư đoàn dù ngụy.
Là chiến sĩ thông tin của Trung đoàn, trong chiến dịch này chúng tôi đã tỏa đi muôn ngả, cùng các đơn vị hiệp đồng chiến đấu, góp phần làm nên thắng lợi. Đơn vị đã kịp thời gọi hỏa lực Trung đoàn bắn trùm lên chốt T2 (đồi 500) khi bị địch chiếm chốt, đã giữ vững trận địa, bảo đảm thế trận chung cho chiến dịch. Đại đội thông tin còn có sáng kiến tận dụng dây thép gai và dây mìn định hướng của địch lấy được, thiết lập một đường dây trần, lợi dụng dòng sông Vu Ga làm dây âm để phục vụ trung đoàn, bảo đảm thông tin trong quá trình chiến đấu đi đến thắng lợi.
Gần đến kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Thượng Đức (7.8.1974 - 7.8.2014) tôi xin viết vài kỷ niệm nhỏ này, thành tâm làm nén hương thắp lên Đài Tưởng niệm, tưởng nhớ đồng đội tôi hy sinh tại đây.
DƯƠNG ĐỨC HẠNH

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét