Thứ Hai, 6 tháng 2, 2023

THỰCTẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 27/a


                                                               PHẦN III

Nguồn cội 

“Đừng chê cõi trần nhơ
  Đừng khen cõi trần đẹp
  Cõi trần là thản nhiên
  Chỉ có đời nhơ, đẹp

                                  Trần Hạnh Thu


CHƯƠNG V: XUÂN LỬA ĐỐNG ĐA

“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đên nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn; nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.
(Hồ Chí Minh)

Triều đại nhà Lê do Lê Lợi khai nghiệp (1428 - 1527) thường được gọi là Triều Lê Sơ để phân biệt với triều Tiền Lê (mà Lê Hoàn là đời vua thứ nhất) và với triều Hậu Lê (được dựng lên sau triều Mạc).
Kinh đô Đại Việt, thành Đông Kinh thời Lê (Sơ), trên cơ sở thành Thăng Long - Đông Đô thời Lý, Trần, được tu bổ và xây dựng thêm theo qui cách đế đô của một quốc gia quân chủ chuyên chế phương Đông. Vòng thành ngoài vẫn mang tên là “thành Đại La”, vào năm 1477 được Lê Thánh Tông cho xây dựng lại vòng thành thứ hai được chính thức gọi là Hoàng Thành. Năm 1474 và năm 1500, nhà Lê cho sửa chữa và tôn tạo lại tường thành phía tây và phía đông của Hoàng Thành. Năm 1516, Hoàng Thành được mở rộng thêm về phía đông: “đắp thành to rộng mấy nghìn trượng, bao vây cả điện Tường Quang, quán Trấn Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía đông đến phía tây - thành trong cùng gọi là Cung Thành hay Phượng Thành. Năm 1490, vòng thành này được “đắp rộng thêm ra ngoài trường đấu võ, dài rộng 8 dặm” (Sđd).
Khi Lê Thái Tông cho tiến hành vẽ thành tập bản đồ cả nước gọi là “Hồng Đức bản đồ” thì trong đó cũng có cả bản đồ thành Đông Kinh (theo lối họa đồ mang tính chất ước lệ, chưa có tỉ lệ). Theo bản đồ này thì Hoàng Thành được xây bằng gạch đá, trên có ụ bắn. Thành mở ba cửa: cửa Đông hay cửa Đông Hoa (nhìn ra Hàng Cân, Hàng Đường) và cửa Bảo Khánh (phía nam hồ Bảo Khánh, khu Giảng Võ, trước đình Giảng Võ trước đây có cổng đề là Bảo Khánh môn). Cung Thành hình chữ nhật, xây bằng gạch. Cửa chính của Cung Thành mở về phía nam gọi là Đoàn Môn, hai bên có hai cửa phụ là Đông Tràng An và Tây Tràng An.
Trong Cung Thành, nhà Lê cho xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác. Kiến trúc trung tâm vẫn là điện Kính Thiên, được xây dựng lại từ năm 1428, đến năm 1467 có làm thêm hai lan can bằng đá chạm rồng ở thềm điện. Trước điện Kính Thiên có điện Thị Triều, làm nơi các quan vào chầu vua, bên phải là điện Chí Kính, bên trái là điện Vạn Thọ. Ngoài ra còn có các điện Cần Thánh, Cẩn Đức, Thúy Ngọc, Giảng Võ, Thạch Thất, Thượng Dương…, các cung Cảnh Linh, Vĩnh Ninh… Phía đông Cung Thành có Đông Cung giành cho Hoàng tử, điện Phụng Tiên thờ tổ tiên nhà vua… Trong Hoàng Thành còn nhiều lầu gác, đền miếu cùng các ao cảnh, núi giả, vườn Thượng uyển… làm nơi giải trí, thưởng ngoạn.
Ngoài Hoàng Thành, nhiều kiến trúc mới cũng được dựng lên. Phía nam cửa Đại Hưng có đình Quảng Văn là niêm yết các pháp lệnh, cáo thị của nhà nước. Viện Đãi Lận là nơi quan chờ để vào chầu, trước dựng ở ngoài cửa Tây, đến đời Thánh Tông thì dời về ngoài cửa Đại Hưng.
Dưới triều Lê, tư tưởng Nho giáo thịnh hành lấn át Phật giáo và trở nên chính thống, do đó khu Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng lại và mở mang nhiều. Văn Miếu gồm điện Đại Thánh thờ Khổng Tử, hai dãy giải vũ đông và tây thờ các Tiên hiền, Tiên nho, điện Cảnh Phục, nhà bếp, kho tế khí. Quốc Tử Giám hay nhà Thái Học ở phía sau Văn Miếu, được xây dựng thành một trường học cao cấp, có qui mô rộng lớn. Khu học xá này gồm nhà Minh Luân 3 gian, các giảng đường đông và tây mỗi dãy 14 gian làm chỗ giảng dạy, kho chứa ván in sách 4 gian và hai ký túc xá của học sinh, mỗi khu 3 dãy, mỗi dãy 25 gian. Lê Thánh Tông qui định 3 năm mở một kỳ thi hội và những người trúng tuyển gọi là tiến sĩ, dân gian gọi là Ông Nghè, được truyền loa xướng danh, được yết tên lên bảng vàng treo ở cửa Đông Hoa và được khắc tên vào bia đá dựng trước Quốc Tử Giám.
Từ khoa thi hội đầu tiên năm 1442 đến khoa thi hội cuối cùng năm 1526, gần 26 kỳ thi, triều Lê đã đào tạo được 984 tiến sĩ. Hiện nay ở Văn Miếu còn giữ được 13 bia tiến sĩ dựng từ đời Lê.
Dưới triều Lê, hàng loạt phủ đệ của quí tộc, dinh thự của quan lại, công đường của 6 bộ và các cơ quan trung ương, doanh trại quân đội… đua nhau mọc lên, lan ra cả ngoài Hoàng Thành.
Quá sùng bái tư tưởng Nho Giáo, nhà Lê đã làm hình thành nên một thứ văn hóa tạm gọi là “văn hóa lễ - nhạc cung đình”, mang tính câu nệ và nặng hình thức, dành riêng cho vua quan, tương đối phân biệt và tách rời nền văn hóa dân gian của Đại chúng; càng ngày càng có thái độ khinh thường vốn văn hóa cổ truyền. Nhà Lê cấm trình diễn chèo hát, múa rối trong cung đình, phân biệt đối xử với các nghệ sĩ dân gian, coi họ là “xướng ca vô loài” và cấm con trai đi thi, cấm con gái lấy chồng nhà quyền quí. Điều trớ trêu là vương triều Lê đã mở đường cho việc bắt chước máy móc, thiếu cân nhắc lựa chọn nhiều thứ từ văn hóa nhà Minh.
Nhưng bên cạnh một Đông Kinh của vua quan, vẫn có một Đông Kinh của dân chúng. Khu phố phường dân cư ngoài Hoàng Thành tiếp tục phát triển. Năm 1466, vùng Kinh sư đặt thành phủ Trung Đô gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương. Năm 1469, phủ Trung Đô đổi tên thành phủ Phụng Tiên. Khu dân cư của hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương chia làm 36 phường. Phường vừa là một đơn vị hành chính cơ sở, tương tự như Xã ở nông thôn, vừa là tập hợp những người cùng nghề. Qui hoạch 36 phố phường của Thăng Long - Hà Nội bắt đầu từ đó.
Cư dân 36 phường của Đông Kinh bao gồm cả nông dân, thợ thủ công và thương nhân, trong đó có những phố - chợ buôn bán tấp nập và những phường thủ công nổi tiếng…
Những năm cuối triều Lê, Đông Kinh là nơi diễn ra những cuộc ăn chơi trác táng của “vua quỉ” Lê Uy Mục (1505 - 1509), “vua lợn” Lê Tương Dực (1509 - 1516), là chiến trường xung đột giữa các phe phái triều đình và cũng là mục tiêu tiến công của khởi nghĩa nông dân. Nghĩa quân nông dân do Trần Cao lãnh đạo, đã ba lần tiến đánh Đông Kinh, trong đó có một lần chiếm được Kinh thành.
Năm 1527, Triều Mạc (1527 - 1592) thay thế triều Lê Sơ.
Mạc Đăng Dung sinh giờ Ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão (tức ngày 22 tháng 12 năm 1483) thời vua Lê Thánh Tông, người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử: Cụ tổ 7 đời của Mạc Đăng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Lưỡng quốc Trạng nguyên thời Trần, quê ở Chí Linh, Hải Dương, làm quan đến chức Nhập nội Hành khiển Thượng thư môn hạ tả Bộc xạ kiêm Trung thư lệnh, Tri quân dân trọng sự, làm quan thanh liêm, tiếng tăm lừng lẫy cả nước. Mạc Đĩnh Chi sinh ra Mạc Dao làm quan Tư hình đại phu, Mạc Dao sinh bốn con là Mạc Địch, Mạc Thoan, Mạc Thúy, Mạc Viễn, người nào cũng có tài năng, sức lực. Nhà Minh xâm lược Đại Ngu, họ Mạc tất cả đều theo nhà Minh, đem quân hàng giặc, dâng địa đồ cho giặc, lại dẫn đường cho giặc, bắt được Hồ Hán Thương ở núi Cao Vọng. Nhà Minh đều cho làm quan, phong tước. Sau đó Mạc Thúy gặp quân Minh dâng sớ xin nhập Đại Ngu thành quận huyện của Trung Quốc. Mạc Thúy sinh ra Mạc Tung, dời đến huyện Thanh Hà. Lúc ấy Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh, nghiêm trị ngụy quan (những quan lại người Việt cộng tác với quân Minh). Mạc Tung không dám ra làm quan, ẩn náu nơi thôn xóm. Mạc Tung sinh ra Mạc Bình, dời đến Nghi Dương, Mạc Bình sinh ra Mạc Hịch, ba đời này đều không hiển đạt. Mạc Hịch lấy người con gái họ Đặng trong làng, sinh ra con trưởng là Mạc Đăng Dung, hai con thứ tên Đốc và Quyết. 
Theo sách của Viện Sử học Việt Nam, họ đã dùng sách "Công Dư tiệp ký", cuốn sách mang tính truyền kỳ không phải chính sử, để kết luận rằng Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi mà Mạc Đĩnh Chi lại là cháu 5 đời của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích thời Lý Nhân Tông (1086), tức Mạc Đăng Dung là cháu 11 đời của Mạc Hiển Tích. Gốc gác họ Mạc từ Cơ Chất Khiết - hậu huệ nhà Chu bên Trung Quốc. Sau khi nhà Chu mất, Cơ Chất Khiết làm quan cho nhà Hán, được ban họ Mạc và phong ở Trịnh ấp. Sau này con cháu di cư xuống phía nam rồi tới Đại Việt. Một tích khác, theo sử gia Việt Nam Trần Quốc Vượng, người làm trong Viện Sử học Việt Nam, theo sách đã dẫn, Mạc Đăng Dung là dòng dõi người tộc Đãn ở ven biển từ Phúc Kiến (Trung Quốc) trở xuống, đã Việt hóa ở phương Nam. Mạc Đăng Dung nhận mình là con cháu Mạc Đĩnh Chi chỉ là "thấy người sang bắt quàng làm họ", những nghiên cứu của giáo sư Vượng còn nhiều ý kiến tranh cãi.
Năm 1504 vua triều Lê sơ Lê Hiến Tông chết. Người con thứ lên thay, tức vua Lê Túc Tông cũng mất một năm sau đó, thọ 17 tuổi. Túc Tông mất, người anh lên thay, tức vua Lê Uy Mục.
Mạc Đăng Dung là người có sức khỏe. Thời trẻ, ông nhà nghèo làm nghề đánh cá. Thời Lê Uy Mục tổ chức thi tuyển dũng sĩ, Mạc Đăng Dung đã trúng Đô lực sĩ xuất thân (còn được gọi là Võ trạng nguyên), được sung vào đội quân Túc vệ cầm dù theo vua. Trong hàng ngũ võ quan Nhà Lê, theo sử gia Lê Quý Đôn, Mạc Đăng Dung tỏ ra là người thật thà ngay thẳng. Năm 1508 ở tuổi 25, Mạc Đăng Dung được giao chức Đô Chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ (trật chánh tam phẩm).
Năm 1509, vua xua đuổi người tôn thất và công thần về xứ Thanh Hóa, viên tướng Nguyễn Văn Lang đem quân ba phủ khởi binh ở Tây Đô, giữ cửa biển Thần Phù. Người cháu của Lê Thánh Tông, Giản Tu công Lê Oanh bị bắt, trốn ra, chạy đến Thanh Hóa được Nguyễn Văn Lang phò lập làm minh chủ. Quân của Lê Oanh từ Thanh Hóa tiến ra Thăng Long, vua Uy Mục bị thua, uống thuốc độc tự tử, Lê Oanh lên ngôi tức vua Lê Tương Dực. Vua Tương Dực lên ngôi, ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt, song chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, nhiều nơi dấy binh làm loạn, dẫn tới sự suy vong của Nhà Lê sơ.
Năm 1516, Trần Cảo khởi nghĩa ở Quỳnh Lâm, đem quân chiếm kinh thành. Đích thân vua Tương Dực cầm quân, đánh bại Trần Cảo, Cảo phải chạy về Ngọc Sơn. Viên tướng Trịnh Duy Sản trước kia có mâu thuẫn với nhà vua, nay dùng mưu giết vua Lê Tương Dực ở cửa nhà Thái Học. Cùng năm đó, Trịnh Duy Sản cùng các huân cựu đại thần lập người con mới 14 tuổi của Cẩm Giang vương Lê Sùng tên Lê Y lên ngôi tức vua Lê Chiêu Tông.
Năm 1517 người hai thế lực đương thời họ Thủy Chú (Trịnh) và họ Tống Sơn (Nguyễn) là Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy đánh lẫn nhau, Trịnh Tuy phải chạy về Lôi Dương, Thanh Hóa. Một thế lực khác là Trần Chân lại tìm cách đánh Nguyễn Hoằng Dụ, khiến Dụ phải tìm cách về Thanh Hóa, từ nay chỉ có Trần Chân làm phụ chính trong triều. Mạc Đăng Dung lúc ấy trấn thủ Sơn Nam, Trần Chân viết thư khuyên Đăng Dung chặn lại, Đăng Dung không nỡ. Nguyễn Hoằng Dụ viết tờ thư và bài thơ gửi cho Đăng Dung, Đăng Dung án binh bất động, Hoằng Dụ chạy thoát về Tống Sơn, Thanh Hóa.
Năm 1518, Mạc Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên hầu, ra trấn thủ Hải Dương. Tại đây Đăng Dung thu thập hương binh, chỉnh đốn quân ngũ, quân số ngày càng đông.
Sau khi đánh đuổi được hai thế lực Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy, quyền thế của Trần Chân ngày càng lớn. Mạc Đăng Dung cũng phải sợ, liền dạm hỏi con gái Trần Chân cho con trai mình là Mạc Đăng Doanh. Bấy giờ, các đại thần bàn mưu với nhà vua, dụ Trần Chân vào cung, sai lực sĩ bắt, Trần Chân chạy đến cổng thành bị người giữ cửa bắt chém đi. Các thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc mang quân đánh kinh đô báo thù. Vua Chiêu Tông không chống nổi, đang đêm phải bỏ chạy sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm để tránh.
Theo sách "Đại Việt thông sử", lúc này Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, nên nảy ý đồ khác. Ông mượn thế của quân địch để giết hết đại thần, chặt vây cánh của vua Lê Chiêu Tông. Bèn lập ra kế đi dụ quân địch, rồi mạo lời họ, ép triều đình giết chết Đoan quận công Ngô Bính, Thọ quận công Trịnh Hựu và Chử Khải.
Trịnh Tuy lúc này cầm 1 vạn binh, đóng ở xứ Sơn Nam, nghe tin vua chạy ra ngoài, quân lính tan vỡ cả. Quân của Nguyễn Kính, Nguyễn Áng tha hồ cướp bóc. Lê Chiêu Tông bèn triệu Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu. Mạc Đăng Dung từ Hải Dương về yết kiến vua, đóng thủy quân ở sông Nhị Hà, cho rằng chỗ nhà vua ở là Súc Ý đường hơi, xin vua chuyển về dinh Bồ Đề để tiện theo hầu. Lại sai đi dụ hàng thủ hạ của Trần Chân, những người này nói phải giết những kẻ gièm pha trước kia, rồi sẽ hàng. Vua Chiêu Tông làm theo, nhưng họ đều không hàng, mà càng rông rỡ hoàng hoành, đóng quân không rút. Đăng Dung lại xin nhà vua chuyển nơi ở, hai viên quan can ngăn, Đăng Dung đều cho người giết chết. Lúc này, Trịnh Tuy và các tướng ở Sơn Tây mưu lập người con của Tĩnh Tu công Lộc lên làm vua, sau nửa năm thì phế, lại lập Lê Do lên. Vua Chiêu Tông lại mời Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Trịnh Tuy, Nguyễn Áng, Nguyễn Kính ở Sơn Tây. Hoằng Dụ đem quân ra cùng với Đăng Dung đi đánh, quân Hoằng Dụ thua to, chết rất nhiều, Hoằng Dụ lại lui quân về Thanh Hóa. Từ đây Mạc Đăng Dung thống lĩnh quân thủy bộ.
Tháng 7 năm 1519, Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thủy bộ vây Lê Do ở Từ Liêm, rồi phá đê cho nước vỡ vào quân Lê Do. Do và Nguyễn Sư chạy đến Ninh Sơn, bị Đăng Dung bắt được, giải về giết chết. Trịnh Tuy bỏ chạy về Thanh Hóa. Các tướng Sơn Tây là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc đều xin hàng Mạc Đăng Dung. Chiêu Tông phong Mạc Đăng Dung làm Minh quận công. Ông một mình nhân cầm quân dẹp loạn mà từ đó nắm hết quyền bính, vua hồi Kinh sư, việc thiên hạ tạm yên.
Năm 1520, Đăng Dung được vua sai làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh, lấy Phạm Gia Mô làm Tán lý quân vụ. Năm sau, lại được phong làm Nhân quốc công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo, tháng 7 lại gia phong Đăng Dung làm Thái phó. Năm 1521, sau khi đánh lui được Trịnh Tuy vào Thanh Hóa, Mạc Đăng Dung nắm quyền điều hành triều chính Nhà Lê. Đăng Dung mang quân đánh lực lượng của Trần Cung ở Lạng Nguyên. Trần Cung bại trận, bỏ chạy vào châu Thất Nguyên. Mạc Đăng Dung điều quân tuần tiễu truy nã và bắt được Trần Cung, bị giải về kinh thành giết chết. Lúc này quyền thế của Mạc Đăng Dung rất lớn, kiểm soát toàn bộ triều đình. Ông gây dựng phe cánh gồm thông gia Phạm Gia Mô làm Thượng thư Bộ Lễ, em rể là Quỳnh khê hầu Vũ Hộ làm Hữu đô đốc trấn thủ Sơn Tây; ngoài ra còn có các Thượng thư Trình Chí Sâm và Nguyễn Thì Ung ngả theo ông. Mạc Đăng Dung lại tiến vua một mỹ nhân, giả danh là con gái, vào làm cung tần để dò la tin tức, lại sai em là Mạc Quyết giữ đạo binh Túc vệ, con trai Đăng Doanh giữ điện Kim Quang.
Năm 1522, Lê Bá Hiếu nổi dậy chống triều đình ở vùng Đông Ngàn, Gia Lâm. Mạc Đăng Dung lại mang quân đi đánh dẹp được. Mạc Đăng Dung lập nhiều công lớn, dẹp được nhiều lực lượng chống đối triều đình nên quyền lực của ông càng lớn. Sử gia Lê Quý Đôn viết rằng: "công danh ngày càng thịnh, triều đình ai cũng phục". Khi đó Mạc Đăng Dung đi bộ thì lọng phượng giát vàng, đi thủy thì thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm không kiêng sợ gì. Ông giết thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh Sơn bá Nguyễn Thọ và Đàm Cử vốn là những người trung thành với Lê Chiêu Tông.
Trước sự lớn mạnh của thế lực Mạc Đăng Dung, vua và các cựu thần Nhà Lê không bằng lòng, nhưng bất lực. Nghe theo lời một số cận thần trung thành, đêm 27 tháng 7 năm 1522, Chiêu Tông rời kinh thành chạy sang Sơn Tây hiệu triệu bốn phương hỏi tội Mạc Đăng Dung. Ngay ngày hôm sau, Mạc Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc đem quân đuổi theo, trận chiến xảy ra, Hoàng Duy Nhạc tử trận. Trong tình huống kinh thành trống vắng, vua không còn ở Kinh sư, Mạc Đăng Dung đã bàn với các đại thần tạm thời lập Hoàng đệ Xuân (Lê Cung Hoàng) làm vua. Ngày 1 tháng 8 năm 1522, Đăng Dung và một số triều thần Nhà Lê cùng tôn Hoàng đệ Xuân lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thống Nguyên năm thứ 1.
Bấy giờ, trong một nước có hai vua, vua Lê Chiêu Tông ở Thanh Hóa đại diện cho lực lượng cựu thần Nhà Lê do Trịnh Tuy cầm đầu và Lê Cung Hoàng ngự tại dinh Bồ Đề, mọi việc do Mạc Đăng Dung sắp xếp và đối phó. Sau khi đàn áp một số lực lượng nổi dậy, thế lực Mạc Đăng Dung vô cùng mạnh mẽ, kiểm soát và làm chủ vùng Kinh Bắc, quan lại và quân dân đến quy phục ngày một đông.

Năm 1523, Mạc Đăng Dung sai em là Mạc Quyết cùng Vũ Hộ và Vũ Như Quế mang quân đánh Lê Chiêu Tông và Trịnh Tuy ở Thanh Hóa. Cùng lúc, ông nhân danh vua mới Lê Cung Hoàng tuyên bố phế truất Chiêu Tông làm Đà Dương vương. Năm 1524, Mạc Đăng Dung nắm chức Bình Chương quân quốc trọng sự, Thái phó, tước Nhân quốc công. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung tiến đánh Trịnh Tuy ở đầu nguồn Thanh Hóa. Trịnh Tuy thất thế rồi qua đời, Chiêu Tông bị bắt giải về Kinh sư. Sau đó Mạc Đăng Dung tiếp tục đánh dẹp các lực lượng trung thành với Lê Chiêu Tông do các tướng Giang Văn Dụ, Hà Phi Chuẩn đứng đầu. Ông tiêu diệt các tướng chống đối. Các lực lượng chống đối đều bị dẹp, mọi quyền lực đều thuộc về Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lui về Cổ Trai nhưng vẫn chế ngự triều chính. Ngày 18 tháng 12 năm 1526, Mạc Đăng Dung sai Phạm Kim Bảng bí mật giết Chiêu Tông ở chỗ bị giam lỏng là phường Đông Hà.

Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, gia thêm cửu tích. Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại kinh đô ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi. Sử gia Lê Quý Đôn chép: "lúc này thần dân phần nhiều (có) xu hướng (nghiêng) về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô".

Ngày 15 tháng 6 năm 1527 Đông các Đại học sĩ Nguyễn Văn Thái soạn tờ chiếu, nội dung như sau:

"Nghĩ Thái Tổ ta, thừa thời cách mệnh, có được thiên hạ, các vua truyền nhau, nối giữ cơ đồ, là do mệnh trời lòng người cùng hợp, cùng ứng nên mới được thế. Cuối đời Hồng Thuận, gặp nhiều tai hoạ, Trần Cảo đầu têu gây mầm loạn ly, Trịnh Tuy giả trá lập kế phản nghịch. Lòng người đã lìa, mệnh trời không giúp. Khi ấy thiên hạ đã không phải là của nhà ta. Ta không có đức, lạm giữ ngôi trời, việc gánh vác không kham nổi. Mệnh trời lòng người đều theo về người có đức. Xét Thái sư An Hưng vương Mạc Đăng Dung nhà ngươi, bẩm tính thông minh, sáng suốt, có tài lược văn võ. Bên ngoài đánh dẹp bốn phương, các nơi đều phục tùng; bên trong coi sóc trăm quan, mọi việc đều tốt đẹp. Công to đức lớn, trời cho người theo. Nay ta cân nhắc lẽ phải, nên nhường ngôi cho. Hãy gắng sửa đức lớn, giữ mãi mệnh trời để ức triệu dân lành được yên vui. Mong kính theo đó."

Lúc bấy giờ rất nhiều quan lại tử tiết để phản đối nhà Mạc giết vua cướp ngôi, từ đó thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh "phù Lê diệt Mạc". Mạc Đăng Dung lên ngôi, tức là vua Mạc Thái Tổ, chính thức lập ra Nhà Mạc. Nhà Lê truyền được 100 năm đến đây kết thúc!

Ngày 15 tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung xưng Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là năm Minh Đức thứ nhất; phế truất vua Cung Hoàng làm Cung vương, giam cùng Thái hậu. Vài tháng sau Mạc Đăng Dung ép cả hai phải tự tử, khi chết rồi Đăng Dung sai người mang xác phơi ở quán Bắc Sứ, sau đem chôn ở lăng.

Sau khi lên ngôi được 1 năm, tức năm 1528, Mạc Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với Nhà Minh với nội dung là "con cháu họ Lê không còn ai thừa tự nữa, dặn cho đại thần họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng". Vua Minh không tin, sai người dò la tin tức, ngầm lập con cháu họ Lê lên. Mạc Đăng Dung sai người trả lời bằng lời lẽ văn hoa, đem nhiều vàng bạc đút lót. Đến khi sứ giả Nhà Minh về, mật tâu với vua Minh là con cháu Nhà Lê đã hết, đã ủy thác cho họ Mạc, người trong nước đều theo phục cả. Vua Minh mắng sứ giả, Đăng Dung sợ vua Minh hỏi tội liền lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng, bạc cùng châu báu vật lạ. Vua Minh nhận, từ đó Bắc Nam thông hiếu đi lại.

Năm 1540, Mạc Đăng Doanh chết, Mạc Đăng Dung lập cháu Phúc Hải lên nối ngôi. Mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai Văn Minh và Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh. Tướng Nhà Minh bèn xin với vua Minh ban cho lịch, cho ấn chương và bảo ông giữ cẩn thận để quyết định sau. Năm 1541, Nhà Minh phong làm An Nam đô thống ty sứ, cho ấn bạc, vẫn cho thế tập. Còn 13 lộ cứ để tên cũ, đều lập phủ ty, đặt các chức như Tuyên phủ, Đồng tri, Phó sứ và Thiêm sự, cho chức Đô thống sứ được cai quản, điều khiển và phải triều cống.

Sau khi lên biên giới để cắt đất trở về, ngày 22 tháng 8 năm 1541, Thái Tổ Mạc Đăng Dung băng hà. 

Như vậy, triều Mạc, vì quyền lợi ích kỷ, hẹp hòi, đã hai lần dâng đất của Đại Việt cho ngoại bang!

Chính sách cai trị của Triều Mạc nói chung có nới hơn so với triều Lê, song về cơ bản vẫn không đề ra được những cải cách mới, mở đường cho sự phát triển bình ổn lâu dài của xã hội. Trong khi đó, các thế lực gồm đông đảo các cựu thần nặng tư tưởng Nho giáo, trung quân mù quáng, nổi lên chống đối khắp nơi. 
Năm 1530, cháu ngoại họ Lê tên Lê Ý khởi binh ở Thanh Hóa chống lại họ Mạc, quân số vài vạn người, Mạc Đăng Dung tự thân cầm vài vạn quân thủy bộ giao chiến với Lê Ý ở sông Mã, quân Đăng Dung thường thua luôn, đành dẫn quân về, để Mạc Quốc Trinh ở lại chống giữ. Sau đó Mạc Đăng Doanh từ kinh sư dẫn quân vào, giao chiến với Lê Ý, lại bị đánh bại, dẫn quân trở về. Sau những chiến thắng, Lê Ý chủ quan, quân ít lương hết, đội ngũ rời rạc, Mạc Quốc Trinh nghe tin báo liền dẫn quân tinh nhuệ tập kích, bắt sống Lê Ý về kinh sư sai ngựa xé xác.
Năm 1531, viên Bích Khê hầu Lê Công Uyên, người huyện Lôi Dương, cháu của công thần thời vua Lê Thái Tổ là Lê Văn Linh, khởi binh đánh vào cửa Chu Tước, bị thua phải chạy vào Thanh Hóa. Đăng Dung phát binh diệt trừ, Lê Công Uyên bị giết, xứ Thanh Hóa, Nghệ An binh hỏa liên miên, nhân dân lưu tán, vườn ruộng bỏ hoang.
Lê Ý thất bại nhưng thổ tù các nơi vẫn không quy phục Nhà Mạc, Nguyễn Kim đóng ở Ai Lao, anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chiếm cứ xứ Thái Nguyên; Vũ Văn Uyên chiếm xứ Tuyên Quang, các tướng này đều danh nghĩa phục quốc. Suốt một dải ven núi các xứ Thanh, Nghệ, Tuyên, Hưng đều không theo họ Mạc. Ở Ai Lao, con nhà dòng dõi công thần Nguyễn Đức Trung từ thời vua Lê Thái Tổ là An Thành hầu Nguyễn Kim, con của Nguyễn Hoằng Dụ và cháu của Nguyễn Văn Lang lập con của Lê Chiêu Tông tên Lê Ninh lên làm hoàng đế, khôi phục nhà Lê.
Nguyễn Kim (1468–1545), là người lãnh đạo trên thực tế của chính quyền và quân đội Lê trung hưng, đã tích cực đối kháng nhà Mạc sau khi nhà Lê sơ sụp đổ. Ông đã đem các con em chạy sang Ai Lao, chiêu tập binh mã, tôn lập vua Lê Trang Tông, đặt nền móng gây dựng lại nhà Lê và mở đầu thời kỳ Nam–Bắc triều (1533–1592). Ông là nội tổ phụ của các chúa Nguyễn và vua Nguyễn sau này, đồng thời cũng là ngoại tổ phụ của các chúa Trịnh. Các vua Hậu Lê từ Lê Thần Tông (cháu ruột Trịnh Tùng) cũng là hậu duệ trực tiếp bên họ ngoại của ông. Miếu hiệu của ông là Triệu Tổ, thụy là Tĩnh Hoàng đế dù ông không phải là vua hoặc chúa nào ở nhà Nguyễn.  
Năm 1533, các lực lượng này tập hợp lại ở Thanh Hóa, dựng nên triều Lê Trung Hưng hay Hậu Lê để chống lại nhà Mạc. 

Năm 1539, Trang Tông dùng con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm làm Dực quốc công, cùng Trịnh Công Năng và Lại Thế Vinh cùng xuất quân đánh Mạc. Đăng Dung mang quân đến đánh, bị thua to. Đến năm 1540 Mạc Đăng Doanh chết, Đăng Dung trở về Thăng Long, dựng cháu nội là Phúc Hải lên nối ngôi. Mùa xuân năm 1542, vua Lê Trang Tông đích thân làm tướng ra đánh Thanh Hoa, dùng quận Thụy Hà Thọ Tường làm Ngự doanh đề thống. Nguyễn Kim dẫn quân đi trước, tấn công Thanh - Nghệ, nhiều người hưởng ứng theo, thanh thế rất lẫy lừng. 

Nguyễn Kim bị Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất đầu độc vào năm Ất Tỵ (1545). Trung Hậu hầu vốn là hàng tướng nhà Mạc, xuất thân hoạn quan, làm quan đến chức Chưởng bộ, nghe tin vua Lê Trang Tông nổi quân, liền dùng kế trá hàng, muốn hại vua Lê Trang Tông. Việc không thành, Trung Hậu hầu mời Thái tể Nguyễn Kim đến dinh, bỏ ngầm thuốc độc trong quả dưa dâng lên trước mâm cỗ. Nguyễn Kim tin thật, ăn dưa, bị trúng độc, đến khi về thấy trong người khó chịu rồi mất. Hôm đó là ngày 20 tháng 5 năm Ất Tỵ (1545), niên hiệu Nguyên Hòa thứ 14. Lê Quý Đôn nhận định trong sách Đại Việt thông sử: "Nguyễn Kim lấy thân phận là tướng già của con nhà thế thần, giữ vững tiết tháo, lật đật nơi hang núi, cố chí lo toan việc khôi phục, rước lập thế tử, nối lại tông thống, đánh kẻ loạn tặc, phá đám chông gai, mở mang canh thổ Thanh, Nghệ, Thuận, Quảng hàng hơn ngàn dặm. Cơ nghiệp ngàn vạn năm của nước nhà, thực bắt đầu từ đây. Như thế chả phải là người bầy tôi xã tắc đó ư?".

Người mở đầu sự nghiệp của họ Trịnh là Trịnh Kiểm, người huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Tương truyền thuở nhỏ nhà Trịnh Kiểm nghèo, hàng xóm rất ghét, nhân khi Trịnh Kiểm đi vắng bèn bắt mẹ ông ném xuống vực. Trịnh Kiểm về không thấy mẹ đâu bèn đi tìm, đến vực tìm ra xác mẹ thì mối đã xông đầy lên rồi. Mẹ mất, nghe tin Nguyễn Kim nổi dậy dựng lại nhà Lê, Trịnh Kiểm bèn đến xin gia nhập. Nhờ tài năng, ông được Nguyễn Kim tin cậy và gả con gái là Nguyễn Thị Ngọc Bảo cho. Nǎm 1539 ông được phong làm Đại tướng quân, tước Dực quận công. Năm 1545, Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền, được phong làm thái sư nắm toàn thể quân đội. 

Nắm quyền trong triều đình Nam triều nhà Lê, trước hết Trịnh Kiểm lo đối phó với các con của Nguyễn Kim để củng cố quyền lực. Ông sai thuộc hạ xông vào nhà giết con cả của Kim là Nguyễn Uông. Người con thứ là Nguyễn Hoàng sợ hãi xin xuống trấn giữ vùng Thuận Hóa - Quảng Nam ở phía Nam. Trịnh Kiểm cho rằng giết cả hai anh em Hoàng sẽ mang tiếng, mà Thuận - Quảng là nơi xa xôi, "ô châu ác địa" nên bằng lòng cho Hoàng vào đó để mượn tay nhà Mạc giết Hoàng. Từ đó Trịnh Kiểm nắm toàn bộ quyền hành của nhà Lê, xây dựng sự nghiệp cho họ Trịnh. 

 Từ năm 1545, quyền bính của triều Lê này thực chất nằm trong tay họ Trịnh. Đây là khởi đầu của cái chính quyền gọi là “vua Lê - chúa Trịnh” (về hình thức, giống như chính quyền quân chủ lập hiến ngày nay), kéo dài đến tận 1786. Cuộc xung đột Lê - Mạc và tiếp đó là Trịnh - Nguyễn phân tranh đã làm cho đất nước bị chia cắt trong một thời gian rất dài.
Năm 1556, vua Lê Trung Tông mất sớm không có con nối, Trịnh Kiểm định giành ngôi nhà Lê, nhưng còn do dự sợ dư luận, bèn sai người tìm đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm bấy giờ đang ẩn dật. Nghe theo lời khuyên của Trạng Trình ("giữ chùa thờ Phật thì ăn oản"), Trịnh Kiểm bèn đi tìm được người trong tôn thất nhà Lê là Lê Duy Bang, cháu 6 đời của Lê Trừ (anh Lê Thái Tổ), lập làm vua, tức là Lê Anh Tông. Từ đó họ Trịnh nối đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò, làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế lưỡng đầu phụ thuộc nhau: nhà Lê cần có họ Trịnh để bảo vệ và chống Mạc, còn họ Trịnh cần có nhà Lê để việc nắm quyền được danh chính ngôn thuận. Bởi vậy người đời truyền lại câu: "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong."
Đông Kinh thời nhà Mạc, rồi thời vua Lê - chúa Trịnh thường được gọi trở lại bằng tên Thăng Long…
Để đề phòng những cuộc tân cống của quân Lê - Trịnh, năm 1588, nhà Mạc cho đắp thêm ba lần lũy ngoài thành Đại La, đưa toàn bộ khu hồ Tây vào trong phạm vi thành Thăng Long. Năm 1592, sau khi đánh bại quân Mạc, chiếm được Thăng Long, quân Trịnh đã phá hủy hoàn toàn hệ thống thành lũy phòng vệ này, làm cho Thăng Long lại không có vòng thành ngoài.
Sang thế kỷ XVIII, nhất là từ thập kỷ 30, phong trào khởi nghĩa nông dân bộc phát dữ dội, uy hiếp nghiêm trọng nến thống trị của chúa Trịnh. Khởi nghĩa Quận He (Nguyễn Hữu Cầu) đã có lần tiến đánh kinh thành Thăng Long. Vì vậy, năm 1749, chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Doanh điều động dân phu, dựa theo thành Đại La cũ, đắp lại vòng thành ngoài, gọi là thành Đại Đô.
Một nét mới trong quần thể kiến trúc cung đình của Thăng Long thời Lê - Trịnh là sự xuất hiện cụm kiến trúc Phủ Chúa. Phủ Chúa ở phía nam tháp Bảo Thiên (bị sập vào năm 1547) và phía tây hồ Hoàn Kiếm (lúc bấy giờ còn khá rộng, gồm hồ Tả Vọng và hồ Hữu Vọng). Kiến trúc chính của Phủ Chúa là các cung điện nguy nga, có tường thành bao bọc hình vương, mở hai cửa: Chính Môn ở phía nam và Tuyền Vũ ở phía đông (nhìn ra hồ Hoàn Kiếm).
Ngoài Phủ Chúa còn một loạt kiến trúc liên quan, bố trí bên bờ hồ Hoàn Kiếm, lan rộng đến bờ sông Hồng như: Nguyệt Đài, Thủy Tạ, cung Khánh Thụy, trên Gò Rùa có Tả Vọng Đình (nền tháp Rùa sau này), cung Tây Long (khoảng vị trì của Bảo tàng lịch sử), lầu Ngũ Long (khoảng Tràng Tiền), chuồng voi (thường nuôi khoảng 150 đến 200 voi chiến)…
Do sự phát triển của kinh tế hàng hóa và sự mở rộng quan hệ ngoại thương, thế kỷ XVII là giai đoạn hưng thịnh của các thành thị trên qui mô cả nước. Nhiều thành thị cũ trở nên thịnh vượng và một loạt thành thị, thương cảng mới ra đời. Trong đó nổi tiếng nhất là Thăng Long, Phố Hiến (Hưng Yên), Vị Hoàng (Nam Định) ở Đàng Ngoài; Phú Xuân (Huế), Thanh Hà (gần Huế), Hội An (Quảng Nam), Đia Định (thành phố Hồ Chí Minh), Cù Lao Phố (Biên Hòa), Hà Tiên (Kiên Giang) ở Đàng Trong. “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”, đứng đầu các thành thị ấy là Thăng Long mà người đương thời cũng quen gọi là Kinh Kỳ hay Kẻ Chợ. Các thương nhân và giáo sĩ phương Tây đều thống nhất nhìn nhận Thăng Long là một thành phố lớn ở Á Châu, thậm chí có người so sánh với Vơ-ni-dơ (Venise) của Ý hay Pa-ri (Paris) của Pháp (?)
Thời bấy giờ, hoạt động thương nghiệp của Thăng Long phát triển mạnh mẽ nhất qua các màng lưới chợ, bến cảng và phố xá. Mật độ chợ rất cao, thường họp ở các cửa ô thành ngoài, các cửa của Hoàng Thành và ven sông. Những chợ lớn, nổi tiếng đã có trên 10 chợ như: chợ cửa Đông, chợ cửa Nam, chợ Ông Nước (gần Ngọc Hà), chợ Yên Thọ (Ô Cầu Dền), chợ Thịnh Quang (Ô chợ Dừa), chợ Dịch Vọng (Ô Cầu Giấy), chợ Yên Thái (Bưởi), chợ Đình Ngang (gần Cửa Nam), chợ Bà Đà, chợ Văn Cử, chợ Bác Cử, chợ Gạo, chợ Hàng Cá, chợ Bạch Mã… Ngoài ra còn một loạt chợ Không Tên, bất cứ nơi nào đông người qua lại lập tức người ta nhóm họp lại để mua bán. Hiện tượng đó làm cho Thăng Long giống như một cái chợ khổng lồ và từ đó mà có tên Kẻ Chợ. Các sông ngòi tự nhiên của Thăng Long tạo nên cho thành thị này một hệ thống bến cảng rất thuận tiện. Sông Hồng lúc đó còn ăn sâu vào phía trong, ăn thông với hồ Tả Vọng, Hữu Vọng và nối liền với sông Tô Lịch, hồ Tây, sông Kim Ngưu. Các bến cảng ven sông, nhất là sông Hồng, không những mở rộng mối giao lưu trong thành phố, mà còn nối Thăng Long với các thị trường chung quanh và với thuyền buôn nước ngoài. Hồi đó, phía ngoài thành, phía sông Hồng (mạn phía nam cầu Long Biên) còn có thương điếm của Hà Lan (từ 1645 đến 1699), của Anh (từ 1683 đến 1697)
Người Thăng Long - Kẻ Chợ rất tự hào với lối sống thanh lịch của đất Kinh Kỳ, với những công trình nghệ thuật “Phật đá Cầu Đông” (Cầu qua sông Tô ở quãng Hàng Đường - Ngõ Gạch), “tượng đồng Trấn Vũ” (cao 3,76m, nặng 4 tấn, đúc năm 1677), với dòng tranh dân gian Hàng Trống, với tên tuổi các danh nhân Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn (người Nhân Mục, Đống Đa), Bùi Huy Bích (người Thịnh Liệt, Thanh Trì), Ngô Thì Sở (người làng Tô, tức Tả Thanh Đài), Lê Quí Đôn, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du v..v…..
Tuy nhiên, những yếu tố thuận lợi, kích thích sự tăng trưởng kinh tế nói trên (trong đó phải kể đến cả những tác động tích cực của việc hình thành lãnh thổ Đàng Trong của chúa Nguyễn, tạo điều kiện lan tỏa dân cư xuống phía nam (là mang tính ngẫu nhiên, tự phát). Trong khi đó, linh hồn của một nền kinh tế là sản xuất nông nghiệp lại hầu như dậm chân tại chỗ, thậm chí là suy thoái đi bởi cơ chế đè ép nặng nề của giai tầng thống trị, Thực trạng đó có thể nhất thời tạo nên cảnh phồn hoa đô hội nhưng có vẻ giả tạo và bất ổn. Nó sẽ không đương đầu nổi với những khó khăn chất chồng lên đất nước bởi nạn chiến tranh tranh quyền đoạt lợi giữa các thế lực vương triều, nạn cát cứ chia cắt đất nước, nạn xa hoa đàng điếm trong cung đình và quan lại tham nhũng của bộ máy chính quyền cồng kềnh, nạn thiên tai.
Chiến tranh Trịnh - Mạc (hay còn gọi là cuộc chiến Nam - Bắc triều) kết thúc bằng thắng lợi của vua Lê - chúa Trịnh (Nam Triều). Sau 47 năm chiến tranh với 38 trận đụng độ lớn nhỏ đã gây nên nhiều hậu quả ghê gớm cho nhân dân và xã hội Viêt Nam đương thời. Hàng vạn người thương vong, mùa màng bị tàn phá chưa kể do thiên tai.
Nhìn chung lại, dù các sử gia hậu thế muốn nói hưu nói vượn gì thì nói, sự xuất hiện triều Mạc là phi nghĩa, là kết quả tranh giành quyền lợi, danh lợi của các tập đoàn thống trị Nó chỉ làm đau thương hơn, khốn khổ hơn cho tầng lớp bị trị. Tập đoàn thống trị nào cũng nhỏ nhen, ươn hèn và độc ác, ích kỷ, không một chút yêu nước thương nòi, sẵn sàng dâng hiến đất đai tổ quốc cho ngoại bang để bảo toàn quyền lợi hẹp hòi của mình. Còn việc mở rộng lãnh thổ, theo xu hướng tự nhiên của quá trình lan tỏa dân cư, trước sau gì cũng xảy ra.
Năm 1592, nhà Mạc tiêu vong, tình trạng phân chia Nam - Bắc triều chấm dứt. Nhưng trước đó đã nảy sinh mầm mống của nạn cát cứ mới. Sau khi Nguyễn Kim chết, trong nội bộ Nam triều xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa hai dòng họ thế lực Trịnh và Nguyễn. Trịnh Kiểm, con rể Nguyễn Kim, tiếp nhận vai trò lãnh đạo quyền bính của họ Nguyễn. Trong hai người con của Nguyễn Kim thì một người là Nguyễn Uông đã bị Trịnh Kiểm ám hại, người thứ hai là Nguyễn Hoàng lâm vào tình trạng bị đe dọa tính mạng. Trước tình thế đó, Nguyễn Hoàng đã khôn khéo chủ động xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa để tránh tai họa.
Tháng 11 năm 1558, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều bà con, dòng tộc ở Tống Sơn (Thanh Hóa) vượt biển, đổ bộ lên Cửa Việt, lập bản doanh ở Ái Tử (Bình Trị Thiên), thu hết hào kiệt, xúc tiến việc tổ chức cai trị, tranh thủ lòng dân… Năm 1570, khi quân Mạc tấn công vùng Thanh Nghệ, chúa Trịnh phải triệu trấn thủ Quảng Nam, về bảo vệ Nghệ An và giao cho Nguyễn Hoàng cai quản đất Quảng Nam. Từ đó, bề ngoài Nguyễn Hoàng vẫn giữ tư cách một phiên thần của Nam triều, nhưng bên trong thì khẩn trương xây dựng lực lượng riêng. Dựa vào điều kiện thiên nhiên thuận lợi và nhân lúc họ Trịnh đang phải lo đối phó với nhà Mạc ở phía Bắc (Bắc Triều), họ Nguyễn ra sức cải tạo vùng Thuận - Quảng thành căn cứ địa vững chắc, tạo dựng một tiềm lực quân sự mạnh mẽ chống Trịnh lâu dài. Năm1613, trước khi chết, Nguyễn Hoàng dặn con là Nguyễn Phúc Nguyên: “Đất Thuận - Quảng phía bắc có Hoàng Sơn và Linh Giang, phía nam có núi Hải Vân và Thạch Bí, địa thế hiểm cố, thật là nơi để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gầy dựng được cơ nghiệp muôn đời”.
Năm 1614, Phúc Nguyên cải sổ chính quyền, xây dựng một nhà nước riêng, tách khỏi mọi quan hệ lệ thuộc với họ Trịnh (đình chỉ việc nộp phú thuế cho Trịnh, thải hồi những quan lại do họ Trịnh cử vào Thuận - Quảng). Hành động đó đã chính thức phân chia đất nước thành hai miền mà dân gian gọi là Đàng Trong, Đàng Ngoài. Tháng 4 năm 1627, lấy cớ họ Nguyễn chống lại vua Lê, quân Trịnh tiến đánh, mở đầu cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài từ năm 1627 đến 1672, với 7 cuộc đụng độ lớn và chiến trường khốc liệt nhất là vùng lưu vực sông Gianh và sông Nhật Lệ. Cuộc chiến tranh đó dai dẳng và bất phân thắng bại, sự chia cắt đất nước vẫn tồn tại kéo dài đã tiêu tốn vô ích biết bao nhân tài vật lực của đất nước, đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho đời sống nhân dân, nhất là nhân dân Đàng Ngoài lâm vào tình cảnh ngày càng cơ cực, đói khổ.
Một nguyên nhân cũng rất quan trọng dẫn đến sự suy thoái nghiêm trọng của đời sống kinh tế xã hội là nạn mất mùa. Nó đóng vai trò như chất xúc tác, kích thích tốc độ suy thoái xảy ra nhanh và mức độ suy thoái nặng nề hơn. Thực ra, thiên tai mất mùa đã xảy ra khá thường xuyên từ cuối thế kỷ XVII. Các năm 1678, 1681, 1684, 1687, 1695… là những năm hạn lụt, mất mùa lớn. Sang thế kỷ XVIII, thiên tai cơ vận càng xảy ra triền miên và trầm trọng hơn. Năm 1702, do từ lâu trước đó việc coi sóc tu tạo đê điều không được quan tâm đúng mức, nhiều nơi bỏ bê, dẫn đến sự kiện vỡ đê sông Mã, sông Chu ở Thanh Hóa, mùa màng mất sạch, nhân dân bị đói lớn. Năm 1703, nạn đói lan ra cả 4 nội trấn ở đồng bằng và khu vực kinh thành. Những năm 1712, 1713, một trận đói lớn nữa lan tràn khắp Đàng Ngoài, các đê sông lớn lại vỡ nhiều nơi, người ta “phải ăn vỏ cây, rau cỏ, thây chết đói đầy đường, thôn xóm tiêu điều…”. Năm 1726 và 1727, nhân dân Thanh Nghệ lại lâm vào nạn đói kéo dài, đến 1728 thì lan rộng ra cả 4 trấn đồng bằng. Đặc biệt nghiêm trọng là nạn đói năm 1741, bắt đầu ở trấn Hải Dương rồi bao trùm lên khắp Đàng Ngoài. Sử cũ chép: “Dân bỏ cả cày cấy, thóc lúa dành dụm trong xóm làng đều hết sạch, duy có Sơn Nam còn hơi khá. Dân lưu vong bồng bế dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, 100 đồng tiền không đổi được một bữa ăn. Dân phần nhiều sống nhờ rau cỏ, đến nỗi ăn cả chuột, rắn. Người chết đói ngổn ngang, người sống sót không còn được 1 phần 10. Làng nào có tiếng là trù mật cũng chỉ còn độ 3,5 hộ mà thôi” (Cương mục). Riêng ở Sơn Nam, Nghệ An, được mùa một chút thì bị họ Trịnh trưng mua, vơ vét lúa gạo nên đời sống nhân dân cũng đói khổ. Thóc gạo khan hiếm đến nỗi có nơi một mẫu ruộng bán đi không mua nổi một cái bánh nướng, có người tiền của đầy nhà cũng chết đói. Ở vùng Hải Dương “ruộng đất đã hầu thành ra rừng rậm, những giống gấu chó, lợn lòi sinh tụ ngoài đồng, những người sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn” (Vũ trung tùy bút)…
Hàng vạn nông dân đã chết qua những nạn đói kéo dài và khủng khiếp ấy. Riêng ở khu vực kinh thành, số người chết đói bị chôn vùi ở bên đường nhiều quá, Trịnh Cương phải lấy đất công lập hai khu mộ địa, một khu rộng hơn 17 mẫu ở xã Dịch Vọng và một khu rộng hơn 14 mẫu ở xã Hoàng Mai để chôn cất những người chết đói, chết dịch ở Kinh Thành.
Các nạn đói, nạn dịch làm cho những người sống sót không còn điều kiện sinh sống, phải bỏ làng quê đi kiếm ăn khắp nơi, tạo ra một lực lượng nông dân lưu vong ngày một đông đảo. Vào khoảng nửa sau thế kỷ XVIII, theo bản điều trần của Ngô Thì Sĩ gửi lên chúa Trịnh thì ở Đàng Ngoài, vùng đồng bằng thuộc Bắc Bộ ngày nay, trong số 9668 xã thôn thì có 1076 xã đã phiêu tán…
Trong khi ở Đàng Ngoài, đời sống xã hội đã suy thoái như thế thì ở Đàng Trong, nhờ những điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi hơn ở phía Nam mà tình hình có đỡ hơn. Tuy nhiên, bản chất chính trị của chế độ quân chủ cũng dần gây ra những hậu quả làm mâu thuẫn giàu - nghèo trong xã hội trở nên hết sức căng thẳng. Chế độ thuế khóa rắm rối và không kém phần nặng nề đã không kích thích được sản xuất mà còn làm cho đời sống nhân dân lâm vào cơ cực. Từ năm 1769, trong khoảng 4,5 năm liền, đói kém diễn ra liên tiếp. Mùa đông năm 1774 vùng Thuận Hóa lâm vào nạn đói lớn, người chết đói đầy đường. Vùng Gia Định là vựa thóc của Đàng Trong mà từ năm 1768 trở đi, giá thóc cũng tăng vọt.
Trong khi đó, sau khi đã củng cố được địa vị thống trị, tầng lớp thống trị nhà Nguyễn cùng với đám quan lại đã bắt đầu “đổ đốn”, ra sức bóc lột, đục khoét nhân dân, đã tích lũy được rất nhiều của cải để bắt đầu cuộc sống xa hoa trụy lạc. Xu hướng sa đọa này thể hiện rõ ngay từ đầu thế kỷ XVIII và đến đời Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) thì sự xa hoa trụy lạc đã lên đến cực độ, không thua kém gì bè lũ họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Ở Phú Xuân, “cung điện cao nguy nga rực rỡ…”, dinh thự quí tộc “la liệt hai bên bờ thượng lưu sông Phú Xuân và con sông nhỏ ở Phủ Cam”. Trong những lâu đài, dinh thự cực kỳ tráng lệ đó là cảnh đua nhau phè phỡn, ăn chơi trác táng, yến tiệc, ca hát thâu đêm. Chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong là Nguyễn Phúc Thuần, khi lên ngôi mới 12 tuổi, mọi quyền hành đều bị Trương Thúc Loan thâu tóm hết, bộ máy chính quyền càng trở nên thối nát, tham tàn, “từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đán gỗ trắc, yên ngựa dây cương đều nạm vàng ngọc, áo quần là lượt, nệm hoa chiếu mây, lấy sự phú quý phong lưu để khoa trương lẫn nhau. Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng” (Lê Quí Đôn). Điển hình cho sự tham lam vô độ của quí tộc, quan lại Đàng Trong là quyền thần Trương Thúc Loan: hàng năm thu lợi 4,5 vạn quan tiền, nổi tiếng về tham ô, ăn của đút và mua quỵt hàng của thương nhân nước ngoài, “vàng bạc, châu báu, gấm vóc chứa đầy nhà, nô bộc, trâu ngựa không biết bao nhiêu mà kể”. Mỗi lần bị lụt, Loan đem vàng bạc bày lên chiếu mây để phơi nắng “sáng chói cả một góc sân”.
Đến đây, quyền lợi ích kỷ bất nhân bất nghĩa của cả hai tập đoàn thống trị Trịnh, Nguyễn đã hoàn toàn trở thành đối kháng với quyền lợi được sống của Đại Chúng ở Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong. Như vậy chúng chỉ còn là những bè lũ phản dân, hại nước và dù có mang nhãn mác nào đi chăng nữa thì lúc này, về thực chất, chúng đã hành động không khác gì những bọn, nếu chưa phải là bán nước thì cũng là cướp nước.
Phong trào khởi nghĩa nông dân xuất hiện là điều tất yếu, không thể tránh khỏi.
***
Từ cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, nhiều cuộc nổi dậy và khởi nghĩa nông dân đã nổ ra rải rác khắp nơi. Đến những năm cuối của nửa đầu thế kỷ XVIII, khởi nghĩa nông dân bộc phát thành cao trào, cuồn cuộn dâng lên như nước vỡ bờ và kéo dài trên dưới 10 năm.

Từ khi kết thúc chiến tranh phía nam với họ Nguyễn (xem Trịnh-Nguyễn phân tranh) và dứt được việc cát cứ ở Cao Bằng của họ Mạc, các chúa Trịnh là Tây Định vương Trịnh Tạc và Định Nam vương Trịnh Căn ra sức củng cố chính quyền Bắc Hà. Đến chắt Trịnh Căn là Trịnh Cương tiếp tục xây dựng nền thịnh trị ở Đàng Ngoài.

Năm 1729, An Đô vương Trịnh Cương mất, con là Trịnh Giang lên thay, tức là Uy Nam vương. Từ khi Trịnh Giang cầm quyền, chính sự Bắc Hà bắt đầu suy. Giang phế bỏ vua Lê Duy Phường làm Hôn Đức công năm 1732 và sau đó giết chết, lập anh Duy Phường lên ngôi, tức là Lê Thuần Tông (1732 - 1735). Không chỉ vua Lê, các đại thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn vốn có uy tín với đời trước cũng bị giết hại. Giang tiêu dùng xa xỉ, vì thế thuế má một ngày một nhiều, sưu dịch một ngày một nặng khiến nhân dân Đàng Ngoài vô cùng cực khổ. Do đó nông dân Đàng Ngoài đồng loạt đứng lên khởi nghĩa. 

Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa ở Tam Đảo. Năm 1739, Vũ Đình Dung nổi dậy ở Ngân Già (nên bị gọi là giặc Ngân Già), hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi dậy ở Hải Dương. Theo "Lê Triều dã sử", Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển tin theo Sấm Trạng Trình có câu: "Phá điền thiên tử xuất, bất chiến tự nhiên thành" (Vỡ ruộng thiên tử ra, không đánh tự nhiên thành) nên dựng cờ khởi nghĩa. Khởi nghĩa này sau đó không lâu bị dẹp nhưng thuộc hạ của hai người là Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu tiếp tục tập hợp lực lượng và trở thành hai cánh quân khởi nghĩa lớn và làm hao binh tổn tướng của chúa Trịnh nhiều hơn cả. 

Tại Tam Đảo, sau khi Nguyễn Dương Hưng thất bại, Nguyễn Danh Phương nổi dậy và cũng trở thành một cuộc khởi nghĩa lớn trong nhiều năm. Tôn thất nhà Lê là Lê Duy Mật cũng định làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên rút ra ngoài khởi nghĩa, cát cứ suốt 30 năm.

Ngoài những cuộc khởi nghĩa trên còn một số khởi nghĩa khác. Phong trào khởi nghĩa trải rộng khắp Bắc bộ vào tới Thanh Hoá, Nghệ An. Các cuộc khởi nghĩa phần đông lấy tiếng "phù Lê diệt Trịnh" làm cớ. Nhân dân mặt đông nam mang bừa vác gậy đi theo quân khởi nghĩa, toán nào đông thì kể có hàng vạn người, toán nào ít thì cũng có đến hàng trăm hàng nghìn người, rồi đi cướp phá ở các hương thôn và vây các thành ấp, quân triều đình đánh dẹp không được.

Trong cung, Trịnh Giang xa xỉ tư thông với cung nữ của cha, lại bị sét đánh nên tin theo lời hoạn quan, làm nhà hầm ở luôn dưới đất để tránh sét, còn việc chính trị thì để cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Phụ chuyên quyền làm bậy.

Trước tình hình đó, gia tộc họ Trịnh quyết định phế truất Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên ngôi năm 1740. Là người có tài, Trịnh Doanh bắt đầu chỉnh đốn tình hình trong nước, ra tay đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa.

Năm 1740, ở làng Ngân Già, có Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao, cướp phá rất dữ, giết chết Đốc lĩnh là Hoàng Kim Trảo. Trịnh Doanh phải tự làm tướng đem binh đi đánh, bắt được Vũ Đình Dung đem chém, và đổi tên xã Ngân Già làm Lai Cách (nay là Gia Hòa).

Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển giữ đất Đỗ Lâm ở Gia Phúc, núi Phao Sơn ở Chí Linh, làm đồn, xây lũy liên lạc với nhau, quân lính kể có hàng mấy vạn người, quân triều đình đi đánh, nhiều người bị bắt. Năm 1741 thống lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được các đồn quân khởi nghĩa ở Phao Sơn, ở Ninh Xá và Gia Phúc; Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Vũ Trác Oánh trốn đi mất tích. Nguyễn Cừ thì chạy lên Lạng Sơn được mấy tháng, lại về Đông Triều, nhưng vì hết lương phải vào nấp ở núi Ngọa Vân, bị Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũi đem về kinh hành hình.

Sau đó Trịnh Doanh còn mất nhiều năm đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa khác

Trong phong trào khởi nghĩa nông dân đó, phải kể đến bốn cuộc khởi nghĩa lớn là cuộc khởi nghĩa của Nguyễn hữu Cầu, cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Danh Phương, cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật và cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất.

 Nguyễn Hữu Cầu (1712 – tháng 3 1751) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ XVIII. Ông là người xã Lôi Động ("sấm trong hang sâu") tổng Hương Đại, huyện Thanh Hà (nay thuộc xã Tân An), huyện Thanh Hà, Hải Dương, Việt Nam. Nguyễn Hữu Cầu xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, có tài cả văn kiêm võ, lại bơi lội rất giỏi nên được gọi là quận He.
Hữu Cầu vì nhà nghèo nên đi làm cướp, sau theo Nguyễn Cừ khởi nghĩa, được Cừ yêu quý gả con gái là Nguyễn Thị Quỳnh cho. Chẳng bao lâu ông nổi tiếng là một viên tướng giỏi võ nghệ, dũng cảm gan dạ và nhiều mưu lược. Khi Nguyễn Cừ bị bắt, Nguyễn Hữu Cầu đem thủ hạ về giữ núi Đồ Sơn và đất Vân Đồn. Năm 1743, quận He giết được Thủy Đạo đốc binh là Trịnh Bảng, tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân Đại tướng Quân, thanh thế lừng lẫy. Sau đó bị Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây ở núi Đồ Sơn, Hữu Cầu phá vây ra, về đánh lấy thành Kinh Bắc. Trấn phủ là Trần Đình Cẩm và Đốc đồng là Vũ Phương Đề đánh thua ở Thị Cầu phải bỏ ấn tín mà chạy; ở Thăng Long được tin ấy triều đình rất lo lắng. Hoàng Ngũ Phúc đem binh về, cùng với Trương Khuông lấy lại thành Kinh Bắc, nhưng thế Nguyễn Hữu Cầu vẫn mạnh, phá quân của Trương Khuông ở làng Ngọc Lâm (thuộc huyện Yên Dũng), đuổi quân của quan thống lĩnh Đinh Văn Giai ở Xương Giang (thuộc huyện Bảo Lộc) rồi lại về vây dinh Thị Cầu. Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh bại Hữu Cầu ở Xương Giang. 

Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được các sử gia đánh giá là người kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, ông chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo. Các tướng sĩ họ Trịnh ai cũng sợ quận He, duy chỉ có Phạm Đình Trọng là bạn học thuở nhỏ là người hiểu quận He. Hai người đố kỵ nhau từ trước, sau đó lại đối địch, Hữu Cầu đào mồ mẹ Trọng đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu.

Năm 1746, quận He cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa Hầu. Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất Sơn Nam. Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nhân lúc kinh thành không ai phòng bị, nên lẻn về đánh, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy, về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi. Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An, hợp với thủ lĩnh khởi nghĩa tên là Diên ở Hương Lãm (thuộc huyện Nam Đường).

Năm 1751, Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại. Hữu Cầu chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Trịnh Doanh cùng lúc đó dẹp được Nguyễn Danh Phương, bắt mang về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hi, huyện Kim Anh, gặp người của Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt Danh Phương dâng rượu, Hữu Cầu thổi kèn.

Hữu Cầu nuốt nhục hầu chúa, khi về kinh thành định vượt ngục nhưng không thành. Tháng 3 năm 1751, ông bị hành hình. Phạm Đình Trọng mang quân về quê ông, quật mộ bố Nguyễn Hữu Cầu, giết 3 họ gia quyến ông. Vợ ông là Nguyễn Thị Quỳnh tự tử.

Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học một thầy. Trọng hay được thầy khen nhưng Cầu không phục. Một hôm đi đám ma về, thầy cho cả hai người đi theo. Nhà đám biếu thủ lợn, Cầu và Trọng tỵ nhau không ai chịu xách. Thầy bèn ra vế đối, bảo ai đối được thì không phải xách:

Huề trư thủ (xách đầu lợn)

Trọng đối lại:

Phan long lân (Vịn vây rồng)

Còn Cầu đối:

Diệt Tần phá Sở

Thầy gõ quạt lên đầu Cầu, nói câu đối không chuẩn, thừa chữ và bắt xách thủ lợn. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi:

Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vịn vây rồng như Trọng!

Một lần khác thầy lại ra vế đối:

Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo

Trọng đối:

Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc

Cầu lại đối rằng:

Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động

Thầy nghe xong bảo:

Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc!

Rồi từ đó ông đồ sợ không dám nhận dạy Cầu nữa. Sau này quả nhiên Trọng làm quan cho nhà Lê còn Cầu khởi nghĩa chống triều đình. 

Có lần hai bên đối trận, Phạm Đình Trọng ra vế đối sai người đưa cho Cầu như sau:

Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ

(土撤半横, 順者上, 逆者下)

Nghĩa là: chữ "thổ" (土) nếu bỏ đi một nửa nét ngang, để xuôi là chữ "thượng" (上), để ngược là chữ "hạ" (下). Câu này có ý đe doạ Cầu nếu thuận theo triều đình thì có chức, chống lại thì bị diệt.

Hữu Cầu viết thư đối lại rằng:

Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương

(玉藏一點, 出為主, 入為王)

Nghĩa là: bộ "ngọc" (玉) có một dấu chấm, để lên đầu là chữ "chúa" (主), bỏ đi là chữ "vương" (王). Ý nói chí lớn của mình chẳng làm chúa cũng làm vua chứ không chịu hàng. 

Khi Cầu bị bắt, Trọng lại gần xem Cầu có kêu cầu gì không, nhưng Cầu thản nhiên ngồi hát xướng rất ngang tàng. Trọng hỏi:

Anh bây giờ như con chim trong lồng, còn gì mà hát? Nghe nói anh có tài thơ, trong trường hợp nào cũng làm được, vậy anh thử làm bài thơ "Chim trong lồng" xem sao?

Cầu không cần đợi giục hai lần, liền ngâm:

"Nhất lung thiên địa tàng thân tiểu
Vạn lý phong vân cử mục tần
Hỏi sao sao luỵ cơ trần
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng
Nào khi vỗ cánh rỉa lông
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung
Chim oanh nọ vẫy vùng giậu bắc
Đàn loan kia túc tắc cành nam
Mặc bay đông ngữ tây đàm
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán
Phá vòng vây làm bạn kim ô
Giang sơn khách diệc tri hồ?"

"Chim trong lồng" là bài thơ nổi tiếng trước khi bị đem hành hình của Nguyễn Hữu Cầu còn lưu truyền đến ngày nay.

Cầu đào mộ mẹ Trọng thì đúng là hành động quân cường khấu, nhưng Trọng là đại quan triều đình cũng trả thù quật lại mộ cha Cầu thì cũng không khá hơn giặc cướp. Dẹp được Cầu, Trọng được phong làm Binh Bộ thượng thư. Nhưng cũng chỉ 3 năm sau (1754), Trọng chết lúc mới 40 tuổi. Có Cầu thì có Trọng đối địch, Cầu không còn thì Trọng cũng ra đi, như truyện dân gian "Trạng chết thì chúa băng hà".  

Tại thôn Cựu Điện, xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng) có đền thờ Nguyễn Hữu Cầu rất lớn. Đình Lôi Động thờ tam vị thành hoàng trong đó có quận He. Hàng năm vào ngày 11-13/3 âm lịch tổ chức lễ hội. 

Nguyễn Danh Phương (1690-1751), hay còn gọi Quận Hẻo, là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn vào giữa thế kỷ XVIII. Nguyễn Danh Phương còn có tên là Nguyễn Danh Ngu, người làng Tiên Sơn, huyện Yên Lạc, trấn Sơn Tây – nay thuộc Phố Tiên, Phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Việt Nam. 

Nguyễn Danh Phương được mọi người gọi là quận Hẻo. Ông vốn xuất thân từ nhà nho. Ban đầu ông dự định theo nghiệp văn, nhưng tình hình xã hội Đàng Ngoài từ khi Trịnh Giang lên nắm quyền thay Trịnh Cương (1729) có nhiều biến động tiêu cực, vì thế nhiều người bất bình với chính quyền họ Trịnh. Nguyễn Danh Phương bỏ dở nghiệp văn chương theo nghiệp võ. Năm 1739, nghe tin Đô Tế và thủ lĩnh Bồng khởi nghĩa ở Sơn Tây, ông bèn đến xin đầu quân. Tháng 2 năm 1740, chúa Trịnh sai Võ Tá Lý làm Chinh tây đại tướng quân đi dẹp. Hai bên đụng nhau ở An Lạc (nay thuộc Trung Giã, Sóc Sơn, Hà Nội). Đô Tế và Bồng đánh không lại với Tá Lý, bị bắt và bị giết. Nguyễn Danh Phương tập hợp tàn quân của Đô Tế, rút về cố thủ ở núi Tam Đảo, xây dựng lực lượng để tính kế lâu dài. 

Để tránh sự truy sát của triều đình, quận Hẻo sai người ra xin hàng. Lúc đó Trịnh Doanh phải đối phó với những cuộc khởi nghĩa mạnh của Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất nên chấp thuận cho quận Hẻo hàng. Tận dụng vùng núi hiểm trở, nhất là ngọn Độc Sơn Tôn, quận Hẻo ra sức xây đồn lũy để phòng thủ và chiêu thêm quân. Năm 1744, lực lượng dưới quyền ông có 1 vạn người. Ông mang quân đi đánh ra xung quanh. Thanh thế quân quận Hẻo lan sang vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa. Tháng 11 năm 1744, Nguyễn Danh Phương mang quân đánh lên Việt Trì, tiến sang Bạch Hạc. Sau đó ông dùng kế nghi binh, đánh lừa đạo quân triều đình do Văn Đình Ức chỉ huy và tiến sang đánh chiếm Thanh Lãnh (huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). 

Tháng 9 năm 1748, quận Hẻo bắt đầu xây dựng hệ thống đồn trại kiên cố ở núi Ngọc Bội, gồm có Đại đồn là trung tâm, bên ngoài có đồn Hương Canh là Trung đồn và Ức Kỳ là ngoại đồn. Ngoài ra, ông còn cho xây nhiều đồn nhỏ xung quanh gọi là chi đồn. Hệ thống đồn của quận Hẻo trải rộng một vùng thuộc các huyện Tam Đái, Lâm Thao, Đà Dương thuộc trấn Sơn Tây và một số huyện thuộc trấn Thái Nguyên, Tuyên Quang. Ông tự xưng là Thuận thiên khải vận đại nhân, đặt hệ thống quan tước, ban hành chế độ thu thuế trong vùng mình quản lý. Tháng 2 năm 1750, chúa Trịnh điều quân đánh vào Thanh Lãnh, bắt được hai người em ông là Nguyễn Văn Bị và Nguyễn Văn Quảng. Được tin, quận Hẻo mang quân đến giải vây, uy hiếp khiến quân Trịnh phải thả hai người em ông. 

Trước sự lớn mạnh của Nguyễn Danh Phương, Trịnh Doanh buộc phải tập trung lực lượng tiến đánh. Chúa Trịnh đích thân cầm quân, có các tướng tài như Hoàng Ngũ Phúc làm giám quân, Nguyễn Nghiễm làm tá lý, Đoàn Chú là Hiệp đồng, chia quân làm 4 đạo tiến đánh. Sau nhiều đợt tấn công không kết quả, Trịnh Doanh phải lui quân.

Đầu năm 1751, Trịnh Doanh lại thân chinh đi đánh quận Hẻo. Để tạo bất ngờ, chúa Trịnh sai quân đánh lên vùng Kinh Bắc, vòng qua Thái Nguyên và từ đó đánh ập xuống ngoại đồn Úc Kỳ. Bị đánh bất ngờ trong đêm tối, quân khởi nghĩa tại Úc Kỳ không chống đỡ được và bị tiêu diệt. Trịnh Doanh thúc quân đánh vào trung đồn Hương Canh. Dù đã phòng thủ trước, quân khởi nghĩa không chống lại nổi đại quân triều đình. Đồn Hương Canh bị hạ.

Quận Hẻo thu thập tàn quân về giữ đại đồn Ngọc Bội. Quân Trịnh tấn công phá vỡ đồn Ngọc Bội. Nguyễn Danh Phương dẫn quân phá vây chạy trốn, đến Tinh Luyện thuộc huyện Lập Thạch thì ông bị quân Trịnh mai phục bắt được. Khi Trịnh Doanh giải quận Hẻo về thì giữa đường gặp tướng Phạm Đình Trọng cũng vừa bắt được quận He Nguyễn Hữu Cầu. Trịnh Doanh mở tiệc khao quân, quận Hẻo bị sai hầu rượu. Sau đó cả hai tướng khởi nghĩa bị giải về kinh và bị xử tử.

Lê Duy Mật (? – 1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ XVIII. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với các cuộc khởi nghĩa khác trong phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài và được gộp chung vào phong trào này. Ông là hoàng thân nhà Hậu Lê, con thứ vua Lê Dụ Tông (1705 – 1729) 

Năm 1728, theo ý của Trịnh Cương, Dụ Tông lên làm thái thượng hoàng, nhường ngôi cho con thứ là Duy Phường. Năm sau, Trịnh Cương đột ngột qua đời, Trịnh Giang lên thay, tức là Uy Nam vương. Trịnh Giang muốn tỏ rõ uy quyền nên sau khi thượng hoàng Dụ Tông mất (1731), Giang phế truất và giết Duy Phường (1732), lập người anh lớn nhất của Duy Mật, tức là con cả của Dụ Tông là Duy Tường lên ngôi, tức là Lê Thuần Tông. Được 4 năm, Thuần Tông mất sớm, Giang lập em Thuần Tông là Duy Thận nối ngôi, tức là Lê Ý Tông. Sau khi làm việc phế lập, Trịnh Giang không quan tâm tới triều chính, ăn chơi sa đọa. Giang bỏ và sát hại nhiều công thần đời Trịnh Cương như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn. Xã hội rối ren, chính trị mất ổn định. Trong triều đình nhiều người bất bình với hành động của Giang.

Trước sự tàn bạo của Trịnh Giang, Lê Duy Mật bàn với chú là Lê Duy Chúc và em là Lê Duy Quý làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh. Tháng 12 năm 1738, Duy Mật cùng Duy Chúc, Duy Quý định đốt kinh thành để khởi sự, nhưng chưa kịp thi hành thì mưu kế đã bị tiết lộ, ba người lập tức bỏ trốn. Lê Duy Mật và chú Duy Chúc chạy đến Nghi Dương (Kinh Môn, Hải Dương), Duy Quý chạy đến Cẩm Thủy (Quảng Hóa, Thanh Hóa). Ít lâu sau, cả Duy Chúc và Duy Quý đều lâm bệnh nặng và qua đời. 

Sau khi chú và em mất, Lê Duy Mật được sự giúp đỡ của viên thổ hào ở Nghi Dương là Ngô Hưng Tạo. Ông mang gia quyến và tùy tùng chạy vào Thanh Hóa. Nhờ danh nghĩa hoàng thân nhà Lê, ông được sự ủng hộ của dân chúng địa phương và bắt đầu xây dựng lực lượng chống họ Trịnh. Đầu tiên, ông xây dựng căn cứ ở huyện Thạch Thành, dựng lũy ở Ngọc Lâu (nay tại xã Thành Minh), và tự xưng là Thiên Nam Đế Tử. Sau khi Duy Mật nổi dậy, ngày càng nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân khác bùng phát, cùng mang danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh". Họ Trịnh buộc phải tìm cách phế Trịnh Giang, lập em Giang là Trịnh Doanh lên thay. 

Tháng 1 năm 1740, Lê Duy Mật xuất phát từ Ngọc Lâu tấn công vào Phúc Lộc và Tiên Phong (Hà Tây). Chúa Trịnh vội sai Trần Đình Miên đến đánh trả, sau đó lại điều Nguyễn Bá Lân tới hợp sức tiến công. Do quân Trịnh đông hơn, Lê Duy Mật không chống nổi phải rút lui về Thanh Hóa.  

Tháng 5 năm 1740, Trịnh Doanh ép vua Ý Tông nhường ngôi cho cháu là Duy Diêu – cũng là cháu của Duy Mật - lên ngôi, tức là Lê Hiển Tông. Theo các nhà nghiên cứu, đây là dụng ý chính trị rất lớn của Trịnh Doanh. Trước đây, khi Thuần Tông mất, lẽ ra Duy Diêu là con cả của vua cũng đã lớn phải được lập, nhưng Trịnh Giang cố tự làm theo ý mình nên lập chú Duy Diêu là Ý Tông khiến nhiều người không đồng tình. Lúc đó Trịnh Doanh lập Duy Diêu là trả lại ngôi cho ngành trưởng khiến dẹp đi sự bất bình của thiên hạ, làm cho việc chống Trịnh của Lê Duy Mật không còn nhiều ý nghĩa chính trị như trước và duy trì ngôi vị làm chúa của họ Trịnh.

Tháng 9 năm 1741, Lê Duy Mật tấn công ra Hưng Hóa và Sơn Tây. Trịnh Doanh điều Đặng Đình Mật. Đình Mật nhân đêm tối đánh úp khiến quân Duy Mật bị rối loạn. Sau đó, ông tổ chức lại đội ngũ và mai phục đánh thắng quân Trịnh một trận. Tuy nhiên sau đó Duy Mật không đánh lại được Đình Mật nên rút về Văn Lãng (Thái Nguyên) và sau đó trở về Ngọc Lâu. Trong lần ra bắc thứ hai, ông được sự hậu thuẫn của thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân là Tương. Khi Duy Mật trở về Ngọc Lâu, Tương cùng đi theo về. 

Sau khi Duy Mật rút lui, Trịnh Doanh sai Lê Hữu Kiều làm chức Lưu thủ, cùng với Thượng thư Bộ hình là Hà Tông Huân làm Tham tụng về Thanh Hóa để phủ dụ dân chúng. Do tài năng của Hữu Kiều và Tông Huân lấy danh nghĩa vua Hiển Tông làm danh nghĩa để phủ dụ, một bộ phận dân chúng ngả theo triều đình. Do tình hình bất lợi, Lê Duy Mật để lại một bộ phận ở lại giữ Ngọc Lâu, còn ông mang quân vào Nghệ An, đánh chiếm Cổ Nam (Quỳ Châu, Nghệ An) và bắt đầu xây dựng căn cứ mới ở đây.

Giữa năm 1742, Lê Duy Mật trở về Thanh Hóa đánh bại quân Trịnh ở Bái Thượng (Thanh Hóa). Tháng 10 năm đó, Trịnh Doanh phải điều các tướng tài như Đặng Đình Mật, Nguyễn Nghiễm và Hà Tông Huân cùng phối hợp đánh vào nơi ông đóng quân ở Lôi Dương. Quân Trịnh quyết tâm tiêu diệt Lê Duy Mật ở Thịnh Mỹ. Tuy nhiên, khi quân Trịnh tiến vào Thịnh Mỹ thì Duy Mật đã rút lui về Lang Chánh. Trong khi Trịnh Doanh phải đối phó với những cuộc khởi nghĩa mạnh mẽ của Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất thì Lê Duy Mật tranh thủ phát triển lực lượng ở Lang Chánh. Ông xây dựng Lang Chánh trở thành căn cứ vững chắc trong 7 năm (1742 – 1749). Từ lúc đó, quân Lê Duy Mật có 3 căn cứ là Ngọc Lâu, Cổ Nam và Lang Chánh. 

Tháng 3 năm 1749, Lê Duy Mật đánh ra Kinh Lão (Hà Tây) gần Thăng Long. Trịnh Doanh lo lắng sai Văn Đình Ức và Mai Thế Chuẩn đi đánh mặt trước, lại sai Lân Trung hầu đi đánh vào căn cứ Ngọc Lâu của ông để chặn đường về. Nghe tin Ngọc Lâu bị uy hiếp, Duy Mật buộc phải bỏ chiến trận dở dang ở Hà Tây để trở về bảo vệ căn cứ.

Các cuộc khởi nghĩa lớn của Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương bị dẹp, thủ lĩnh Tương theo Duy Mật cũng bị tử trận, tới năm 1763 chỉ còn ông và Hoàng Công Chất ở Mường Thanh chống lại họ Trịnh. Dẹp xong các cuộc khởi nghĩa kia, Trịnh Doanh rảnh tay đối phó với Lê Duy Mật. Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân Trịnh, Duy Mật nhiều lần phải rút lui.

Tháng 5 năm 1763, ông cho quân tiến vào Trấn Ninh và Cao Châu, nhanh chóng kiểm soát hai vùng này rồi sau đó tiếp tục đánh Quỳ Châu và Trà Lân. Ông xây dựng căn cứ mới ở núi Trình Quang (Trấn Ninh). Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, căn cứ gồm có 16 đồn lũy, thành cao hào sâu, có đài quan sát điếm canh từ xa để bảo vệ. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, quân chiến ước 3000 người, voi chiến hơn 100 con, ngựa hơn 300 con, súng lớn nhỏ có đến hàng nghìn khẩu, diêm tiêu lưu hoàng thuốc đạn không kể xiết được. Khi giới binh giáp rất là tinh nhuệ, đạn lửa, tên lửa quả ném bằng lửa, mồi lửa, những thứ cần dùng để đánh thành, không thứ gì là không có. Bên ngoài phủ chung quanh có 16 đồn gác trên núi, liên lạc với nhau, dựa nhau để phòng giữ. Đồn gác nào cũng: lần thứ nhất, đắp lũy đất, trên mặt lũy cứ cách 1 trượng dựng 1 lầu để bắn, phía ngoài lũy trồng tre, cách chỗ tre 1 trượng thì xẻ hào sâu hơn 13 trượng, chiều rộng cũng như thế. Ở chỗ quan hệ khẩn thiết cần phải canh phong, đều căm chông sắt. Ngoài ra đều cắm chông bằng tre liền như lông nhím. Cách hào 1 trượng lại làm thêm lần lũy nữa, ngoài lũy ấy đặt chông tre dày kín như lông mọc; trên lũy đặt nỏ gỗ, treo chuông có quả lắc, hễ động vào luỹ, thì tiếng chuông vang lên. Phòng bị chỗ nào cũng chu đáo. Về phạm vi uy hiếp thì có phía tây từ Hô Mường đến các Lào, cho đến cả ở các động ở biên giới Hưng Hoá, phía đông đến Lạc Hoàn, phía bắc đến 7 tổng ở phủ Trà, phủ Quỳ. Thường đem háng hóa buôn bán thông với Trung Quốc, thế lực có phần mở rộng thêm

Từ Trấn Ninh, ông thường tổ chức tấn công xuống đồng bằng Thanh Hóa và Nghệ An. Trịnh Doanh bèn sai Bùi Thế Đạt vào Nghệ An làm Đốc suất, được tùy ý quyết định mọi việc. Tháng 7 năm 1764, Trịnh Doanh cử thêm Đàm Xuân Vực vào hỗ trợ cho Thế Đạt, kiêm quản cả Thanh Hóa và Nghệ An. Trước sự uy hiếp của quân Trịnh, Lê Duy Mật viết thư, sai người vào Thuận Hóa đưa cho chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Khoát đề nghị hỗ trợ "diệt Trịnh phù Lê" nhưng Khoát không muốn gây hấn với họ Trịnh nên không ra quân giúp.

Năm 1767, Trịnh Doanh chết, con là Sâm lên thay. Lê Duy Mật nhân lúc chúa Trịnh mới lên ngôi bèn tiến quân đánh chiếm Thanh Chương (Nghệ An) và Hương Sơn (Hà Tĩnh) vào tháng 4 năm đó. Trịnh Sâm vội sai Nguyễn Nghiễm mang quân vào Nghệ An tiếp viện cho Bùi Thế Đạt, đẩy lui quân khởi nghĩa về phía tây Nghệ An.

Tháng 8 năm 1769, Trịnh Sâm sai Tham nghị Nghệ An là Nguyễn Mậu Dinh dụ hàng ông nhưng không kết quả. Trịnh Sâm bèn huy động lực lượng lớn gồm 3 đạo quân Thanh Hóa, Hưng Hóa, Nghệ An do Bùi Thế Đạt, Nguyễn Phan và Hoàng Đình Thể chỉ huy vào đánh Duy Mật. Lê Duy Mật chủ động điều quân ra phủ Ngoại đối phó với quân Trịnh. Tháng 1 năm 1770, quân Trịnh tiến đến phủ Ngoại. Lê Duy Mật giữ vững đồn lũy phòng thủ không đánh. Các tướng Trịnh cũng không dám tiến quân. Trịnh Sâm thấy chiến sự không thuận lợi phải điều danh tướng Hoàng Ngũ Phúc đến tây Nghệ An tăng viện. 

Hoàng Ngũ Phúc dày dạn trận mạc, biết đồn lũy Trấn Ninh vững vàng không đánh được, bèn dùng kế khác. Ngũ Phúc cho bắt mẹ của một thủ hạ, đồng thời là con rể của Lê Duy Mật là Lại Thế Thiều. Do sự tác động của Hoàng Ngũ Phúc, mẹ Thế Thiều viết thư dụ con. Lại Thế Thiều nhận thư, vì thương mẹ nên quyết định phản Lê Duy Mật. Thiều sai thủ hạ là Lê Văn Bản mở cửa thành cho quân Trịnh tiến vào. Thấy tình hình nguy biến, Lê Duy Mật biết không thể thoát được bèn tụ tập hết vợ con lại rồi đốt lửa tự thiêu mà chết.

Chiêu Thống nguyên niên (1787), ông được vua Chiêu Thống truy tặng tước Hoài Nghĩa Trung Trinh đại vương

     Hoàng Công Chính (31 tháng 1 năm 1706 - 21 tháng 3 năm 1769), là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài lớn giữa thế kỷ XVIII, chống lại triều đình vua Lê chúa Trịnh trong suốt 30 năm. Hoàng Công Chất có tên thật là Hoàng Công Thư, gốc họ Mạc, quê ở Nguyên Xá, Vũ Thư, Thái Bình.
Theo Minh đô sử, năm 1739, Hoàng Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu đi theo Nguyễn Cừ và Nguyễn Tuyển hoạt động ở vùng Sơn Nam. Sau khi quân Nguyễn Cừ bị đánh bại, Công Chất tụ tập lực lượng riêng tiếp tục hoạt động ở Sơn Nam. Quân khởi nghĩa giỏi thủy chiến, thường ra vào nơi cỏ rậm bùn lầy không để lại dấu tích.
Năm 1740, chúa Trịnh cử các tướng Hoàng Công Kỳ, Phạm Trần Tông mang quân đánh Công Chất ở Công An nhưng không nổi. Năm 1743, Công Chất lại chống cự thành công cuộc bao vây của thống lĩnh Trương Nhiêu. Quân triều đình lại buộc phải rút về. Cuối năm đó, chúa Trịnh Doanh sai sứ đi chiêu an, đòi Công Chất phải về yết kiến. Chất cự tuyệt, chiếm giữ phủ Khoái Châu (Hưng Yên). Trịnh Doanh bèn điều Đinh Văn Giai mang đại quân đi dẹp, quân khởi nghĩa thất bại nặng nề ở Đỗ Xá nhưng vẫn giữ được Khoái Châu.

Năm 1745, quân khởi nghĩa tập kích bắt và giết chết trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ. Công Chất mang quân đánh phá các huyện lân cận và phối hợp với quân khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu.

Năm 1746 và 1748, quân Công Chất phối hợp với quân của Hữu Cầu đánh Sơn Nam và Thăng Long nhưng thất bại. Cuối năm 1748, Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng tấn công vào Mã Não và Hương Nhi, quân khởi nghĩa thua to, Công Chất cùng con là Công Toản đến Mỹ Lương theo thủ lĩnh khởi nghĩa tên là Tương. Sau đó quân của Tương bị đánh tan, cha con Công Chất bỏ chạy vào Thanh Hoá. Triều đình ban thưởng ai bắt được ông thì được tước quận công, hàm tam phẩm. Tuy nhiên năm 1750 ông theo đường núi tiến ra vùng Hưng Hoá. 

Năm 1750, Hoàng Công Chất liên kết với một thủ lĩnh khởi nghĩa giáp biên giới Vân Nam (Trung Quốc) là Thành, quân triều đình do Đinh Văn Thản tới đánh không dẹp nổi. Năm 1751, Thản chết, Lê Đình Châu được cử thay. Tháng 6 năm 1751, Lê Đình Châu đánh bại Công Chất và Thành. Thành bị bắt, Chất rút lên động Mãnh Thiên, châu Ninh Biên, tức là Mường Thanh (Điện Biên), xây dựng căn cứ kháng cự lâu dài. Tại đây quân khởi nghĩa đã lấy thành Tam Vạn do người Lự xây dựng trước đó (tiếng Thái gọi là Sam Mứn) làm đại bản doanh. Tương truyền tên gọi Tam Vạn là do trong thành có thể chứa 3 vạn quân, có thuyết nói rằng vì trong thành có 3 vạn cối giã gạo. Sau đó nhận thấy thành Tam Vạn ở địa thế bất lợi, Công Chất xây thành Bản Phủ làm căn cứ. Hoàng Công Chất rất được lòng dân bản địa. Ông đánh tan quân giặc cướp, phát triển lực lượng ra khắp miền Tây Bắc, chia ruộng cho dân nghèo, lôi kéo những người cầm đầu ở các châu mường.

Từ động Mãnh Thiên, quân khởi nghĩa đánh ra xung quanh, làm chủ 10 châu Yên Tây, ngày nay thuộc địa bàn Lai Châu và một phần Vân Nam (Trung Quốc). Cuối năm 1767, Công Chất từ Yên Tây đánh xuống chiếm châu Mộc (Sơn La), châu Mai (Hoà Bình), lại chia quân tiến xuống thượng du Thanh Hóa. Các trấn thủ Thanh Hóa, Hưng Hoá cáo cấp, chúa Trịnh Sâm huy động các tướng Trịnh Phưởng, Đinh Văn Phục, Hoàng Đình Thể mang quân đi đánh. Quân Công Chất thua chạy vào Xa Hổ và Nậm Ban.

Tháng 2 năm 1768, Trịnh Sâm cử Nguyễn Đình Huấn và Phạm Ngô Cầu mang quân đánh Mường Thanh. Lê Duy Mật nghe tin bèn điều quân cứu ứng cho Công Chất. Đình Huấn sợ không dám tiến phải rút về. Trịnh Sâm bèn giao quân cho Đoàn Nguyễn Thục chia làm nhiều cánh đánh thẳng vào Mường Thanh. Trong lúc chiến sự căng thẳng thì Hoàng Công Chất lâm bệnh qua đời tại căn cứ.

Con ông là Hoàng Công Toản tiếp tục cầm quân chống Trịnh. Đầu năm 1769, Toản đặt phục binh ở Nậm Cô đón đánh quân Trịnh nhưng thất bại. Nguyễn Phục một mặt đánh Nậm Cô, mặt khác điều quân đánh úp đốt căn cứ thành Bản Phủ. Công Toản chạy về thấy thành mất bèn bỏ trốn, không biết sau đó kết cục ra sao. Sách Đại Nam nhất thống chí chép Toản chạy sang Vân Nam, theo Minh đô sử thì Toản chạy vào Trấn Ninh. Cũng có nguồn cho rằng Hoàng Công Toản chạy sang Vân Nam, sau được an sáp ở Urumqi (Tân Cương). Hoàng Công Toản cùng 22 hộ được vua Càn Long giao 660 mẫu đất tại Urumqi, sau đó chạy sang huyện Ma Nạp Tư (Manas) sinh sống.

Ngày nay ở Điện Biên, trong di tích thành Bản Phủ cũ còn miếu thờ Hoàng Công Chất và 6 viên tướng nổi tiếng của ông. 

                                                                   ***

Trong khi ở Đàng Ngoài, phong trào khởi nghĩa nông dân nổi lên rầm rộ thì ở Đàng Trong, tình hình có vẻ “dịu” hơn. Năm 1747 có nổ ra cuộc khởi nghĩa ở Gia Định do một thương nhân cầm đầu. Nhân dân thiểu số dọc Trường Sơn và vùng Tây Nguyên, người Chàm, người Khmer cũng nhiều lần nổi dậy, chống họ Nguyễn. Ở vùng đồng bằng cũng xuất hiện những cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Nói chung thì qui mô của các cuộc nổi dậy đó chưa lớn. Nổi trội chỉ có cuộc nổi dậy của Lía là đáng kể trước khi có cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Nhưng lưu truyền đến nay chỉ như một truyền thuyết. Trong dân gian còn lưu truyền câu chuyện của Lía và câu thơ gây xúc cảm sau đây:
                              “Chiều chiều én liệng Truông Mây
                              Cảm thương chàng Lía bị vây trong thành”
Chàng Lía (1760 - 1779), là một thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân ở Đàng Trong thời Chúa Nguyễn vào thế kỉ 18, được biết đến nhiều qua miếng võ "cú nhảy cá lóc". chàng Lía vốn tên thật là Võ Văn Doan, quê nội huyện Phù Ly (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định ngày nay), quê ngoại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn (huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định ngày nay). Lía xuất thân trong 1 gia đình nghèo khổ.
 
Lúc nhỏ, Lía vì nhà nghèo nên phải đi chăn trâu thuê cho địa chủ trong vùng. Lía thường tổ chức chơi trò đánh trận với các trẻ em chăn trâu. Một lần, tình cờ trông thấy một chú cá lóc vọt phốc từ dưới nước lên qua một bờ đất cao, Lía nảy ý muốn học thế nhảy này. Hàng ngày, Lía đào một cái hố, rồi đứng dưới hố bắt chước theo thế nhảy của cá lóc nhảy vọt lên. Do khổ luyện nên khả năng của Lía mỗi ngày một tăng. Theo truyền thuyết, sau khi tập luyện thành công cú nhảy cá lóc, Lía có thể tung người nhảy vọt qua khỏi nóc nhà. Cũng nhờ cú nhảy cá lóc, Lía đã nhiều lần thoát thân khi đi cướp của người giàu chia cho dân nghèo hay những lúc đánh nhau với quân lính. Lía tuy giỏi võ, nhưng Lía từng có một lần phải chịu thất bại thảm hại khi đánh nhau với một người phụ nữ. Người phụ nữ này chính là mụ Mẫn, người bán thịt heo cũng thuộc dạng giàu có. Đêm đó Lía đến để cướp nhưng đã bị mụ Mẫn đánh bại. Lía đánh không lại đành phải dùng cú nhảy cá lóc vọt qua tường rào để chạy thoát thân.

Giữa thế kỷ XVIII, chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong suy yếu dần. Việc mua quan chức phổ biến. Số quan lại ngày càng tăng, nhất là quan thu thuế. Có nơi một xã có 20 xã trưởng và hàng chục nhân viên thu thuế (gọi là tướng thần). Quan lại, cường hào kết thành bè cánh đàn áp bóc lột nhân dân thậm tệ, đua nhau ăn chơi xa xỉ. Trương Phúc Loan nắm hết quyền hành, tự xưng "quốc phó", khét tiếng tham nhũng ở triều đình Phú Xuân.Quan tham nhũng ở khắp nơi, vàng bạc đầy nhà. Nông dân bị địa chủ cường hào lấn chiếm ruộng đất. Nhân dân đồng bằng phải nộp nhiều thứ thuế, nhân dân miền núi phải nộp lâm thổ sản. Cuộc sống nhân dân ngày càng khổ cực. Nỗi bất bình oán giận cua các tầng lớp xã hội đối với chính quyền họ Nguyễn ngày càng dâng cao. 

Cuộc khởi nghĩa chàng Lía đã bùng lên trong hoàn cảnh đó.

  Căn cứ khởi nghĩa của chàng Lía là Truông Mây, ngày nay thuộc địa phận xóm Ba, thôn Phú Thuận, xã Ân Đức, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, cách huyện lỵ khoảng 3 km. Lía xuất thân từ một gia đình nghèo khổ. Vì bất bình cảnh quan lại hà hiếp và bóc lột người dân, Lía đã phất cờ khởi nghĩa và nhận được sự giúp đỡ ủng hộ nhiệt tình của nhiều nông dân nghèo. Sau khi được đông đảo nhân dân ủng hộ Lía lập căn cứ vững chắc ở Truông Mây. Nghĩa quân Lía hoạt động với chủ trương "cướp của người giàu chia cho người nghèo". Lía đã từng thử đi thi tuyển nhưng thấy cảnh quan lại ăn hối lộ nên Lía tức mình đem quân đi giết các quan phủ hối lộ. Quân Nguyễn đã cố gắng đàn áp nghĩa quân sau nhưng vẫn không tài nào diệt được Lía. Biết không thể dùng vũ lực nên quân triều đình bày mưu hãm hại Lía. Các quan tuần phủ cố gắng tìm gia đình vợ Lía và thuyết phục nàng phản bội Lía. Một hôm, trong một bữa tiệc, vợ Lía dụ binh sĩ của Lía uống say, vì thế quân triều đình đã đến dễ dàng diệt gọn nghĩa quân chàng Lía. Cuối cùng, chỉ còn mình Lía trốn thoát bỏ lên núi, uất hận mà tự sát.
Dù có lúc phát triển rất nhanh, bộc phát thành cao trào nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ trước khi có cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, trong phong trào khởi nghĩa nông dân suốt thế kỷ XVII và XVIII (nhất là ở thế kỷ XVIII, khi mà tình hình đất nước đã trở nên bất lợi đối với thế lực Trịnh ở Đàng Ngoài và Nguyễn ở Đàng Trong) đều lần lượt thất bại. Nguyên nhân thất bại có thể là rất nhiều, nhưng chung kết lại thì nguyên nhân sâu xa nhất là gì?
Chúng ta cho rằng ba yếu tố chắc chắn làm nên mọi thắng lợi là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nhân hòa, hiểu rộng ra là sự đoàn kết nhất trí, sự tài giỏi, sự thấu tỏ chân lý… Không có nhân hòa thì không thấy được địa lợi và cũng không nắm bắt được thiên thời. Một cuộc khởi nghĩa tự phát, hành động mù quáng mà giành được thắng lợi thì chỉ có thể là hú họa. Đối đầu với một đối tượng đàn áp giàu kinh nghiệm, cáo già, còn đủ binh lực thì sự hú họa đó là gần như không tưởng. Nhân hòa, ở mức cao độ của nó chính là biểu hiện của Đức Huyền Diệu, đó là chính nghĩa. Thế nhưng không phải tự dưng mà có được nhân hòa nếu không có sự tạo dựng bởi con người (con người có thể tự tạo dựng mình thành người tài năng, như thế là đã tạo nhân hòa và nhờ thế mà biết tạo ra nhân hòa rộng lớn hơn và khi Đại Chúng đồng thuận thì đó là chính nghĩa, là hành động vì chính nghĩa).
Bất cứ ai dù tốt, xấu đều có thể dựng được ngọn cờ gắn nhãn mác chính nghĩa, nhưng hành động có làm cho ngọn cờ đó thực sự thắm màu chính nghĩa không và Đại Chúng có đồng ý để dần dần hướng về hay không lại là chuyện khác.
Điều đáng suy nghĩ là nhiều cuộc khởi nghĩa xảy ra gần như đồng thời, có quan hệ với nhau, đôi lúc còn hỗ trợ nhau nhưng lại không thể hòa hợp với nhau để cùng qui về một mối, cùng phụng sự cho một ngọn cờ chung. Hình như sự thiển cận về danh lợi ở các thủ lĩnh đã không cho phép họ thực hiện được điều đó.
Phải chăng các cuộc khởi nghĩa đó lần lượt thất bại là tại nguyên nhân phổ biến này: chưa đủ chính nghĩa vì còn thiếu nhân hòa? Nếu đúng thế thì chỉ có thể nói rằng phong trào khởi nghĩa nông dân của khoảng thời gian đó đã thiếu một lãnh tụ tư tưởng, biết nhìn xa trông rộng, vạch ra được đúng đắn đường lối chiến lược và sách lược, qui tụ được lòng dân, phân hóa được kẻ thù, từ đó mà tổ chức tiến hành khởi nghĩa vũ trang đúng nơi đã định và đúng thời điểm đã định, thực hiện những hành động quân sự một cách hợp lý, có phương pháp… (Chúng ta tin rằng trong một chừng mực nhất định thì con người có thể tác động cho thiên thời đến sớm hơn, thậm chí là có thể tạo dựng được!).
Tuy nhiên, cho dù các cuộc khởi nghĩa có thất bại, thì phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII - XVIII đã làm rung chuyển, lung lay tận gốc rễ chế độ vua Lê - chúa Trịnh, tạo điều kiện cho cuộc tiến công giành thắng lợi nhanh chóng của nghĩa quân Tây Sơn sau này.

Cuối đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, ông trở nên lười nhác, ham hưởng lạc mà bỏ bê triều chính. Các quan lại cấp dưới cũng học theo thói xa xỉ đó, nạn tham ô, hối lộ cũng vì thế mà ngày càng nghiêm trọng. Lê Quý Đôn xứ Đàng Ngoài trong "Phủ biên tạp lục" có nhận xét về thời kỳ cuối chúa Nguyễn là:

"… từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa – dây cương đều nạm vàng, nạm bạc, quần áo là lược, nệm hoa, chiếu mây, lấy phú quý phong lưu để khoe khoang lẫn nhau… Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng…" 

Triều đình ngày càng suy yếu, lòng dân chán ghét, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra báo hiệu sự cai trị của chúa Nguyễn đã sắp đến hồi kết.

 Ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ, được gọi là "Tây Sơn tam kiệt". Các nguồn tài liệu về thân thế Nguyễn Huệ và anh em Tây Sơn chưa hoàn toàn thống nhất.
Tổ tiên anh em nhà Tây Sơn vốn người họ Hồ, Quê gốc ở làng Thái Lão huyện Hưng Nguyên, Nghệ An đến năm 1986 được nâng lên thành Thị trấn Thái Lão, đến năm 1998, thị trấn Thái Lão hợp nhất với xã Hưng Thái thành thị trấn Hưng Nguyên ngày nay. 
Khoảng những năm 1653-1657, quân Nguyễn vượt sông Gianh, đánh ra Đàng Ngoài, cả thảy 7 lần. Trong lần thứ 5 (1655–1656), quân Nguyễn tràn qua Hưng Nguyên. Khi rút về, họ dẫn theo nhiều dân chúng và tù binh cho vào những vùng đất mới (vùng Thuận – Quảng đất rộng người thưa) để khẩn hoang. Ông tổ bốn đời của anh em Tây Sơn là Hồ Phi Long cũng bị bắt làm tù binh trong dịp này, vốn được đưa đến ấp Tây Sơn (nay là An Khê, Hoài Nhơn, Bình Định), đổi sang họ Nguyễn, định cư ở đó.
Ông cố của ba anh em Tây Sơn (chính là Hồ Phi Long) vào giúp việc cho nhà họ Đinh (ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn), cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam.Đến đời Nguyễn Phi Phúc lại dời sang ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn (Tuy Phước, Bình Định). Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt, cuộc sống cũng tạm cho là khá giả.  Cũng có tài liệu cho rằng họ Hồ đã đổi theo họ chúa Nguyễn ngay từ khi mới vào Nam. Nguyễn Phi Phúc có tám người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Về thứ tự của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trong các anh em, các nguồn tài liệu ghi không thống nhất. Theo thư từ của các giáo sĩ phương Tây hoạt động ở Đại Việt khi đó như Labartette, Eyet và Varen thì Nguyễn Huệ là em của Nguyễn Lữ. Nguyễn Lữ được gọi là Đức Ông Bảy còn Nguyễn Huệ là Đức Ông Tám. Dân phủ Quy Nhơn xưa truyền lại rằng: Nguyễn Nhạc thuở đi buôn trầu nên gọi là anh Hai Trầu; Nguyễn Huệ còn có tên là Thơm nên gọi là chú Ba Thơm; Nguyễn Lữ gọi là thầy Tư Lữ vì có thuở đi tu theo đạo Hồi Bani (Islam Bani), một hệ tôn giáo của người Chăm cổ.
Tây Sơn xưa là vùng đất thuộc phủ Qui Nhơn, dinh Quảng Nam, hồi đó vốn là miền trù phú. Nhưng theo đà thoái hóa của chính quyền chúa Nguyễn cùng bộ máy quan lại của nó, xứ Quảng bị áp đặt thuế khóa ngày một nặng nề, nạn tham quan lại nhũng, cường hào xà xẻo, tranh đoạt đất đai khai khẩn của nông dân ngày một trắng trợn, đã làm cho dân chúng trong vùng vô cùng bất bình, nhiều người lâm vào đói khổ. Sự đè nén áp bức đó đã giải thích vì sao Quảng Nam, với vị trí là trung tâm kinh tế giàu có vào hàng bậc nhất Đàng Trong như nhận xét của nhiều thương nhân ngoại quốc đương thời lại có thể là nơi xảy ra cuộc khởi nghĩa của anh em Nguyễn Nhạc và cuộc khởi nghĩa ấy mau chóng được quần chúng ủng hộ.
Thuở nhỏ, ba anh em đều có theo học ông giáo tên Trương Văn Hiến. Giáo Hiến là một nho sĩ, môn khách của Trương Văn Hạnh, làm ngoại hữu dưới thời Nguyễn Phúc Thuần. Hạnh bị Loan giết, Hiến sợ lụy bỏ vào Qui Nhơn, mở lớp dạy học ở ấp Yên Thái. Lúc đó đang là thời kỳ quyền thần Trương Thúc Loan thỏa sức tác oai tác quái, lòng người ai cũng căm ghét. Được truyền thụ bởi một nho sĩ về vườn vì nhiễu nhương thời cuộc, chắc rằng ba anh em họ Nguyễn (nhất là Nguyễn Huệ) đã tiếp thu được những kiến thức quí báu, những tư tưởng trong sáng về đạo làm người từ nhà nho này. Hơn nữa, nhiều khả năng mưu đồ khởi nghĩa sau này của anh em họ Nguyễn đã nhận được sự khích lệ tích cực từ ông giáo này. Chính người thầy này đã phát hiện được khả năng khác thường của Nguyễn Huệ và khuyên ba anh em khởi nghĩa để xây dựng đại nghiệp. Giáo Hiến cho là có sấm truyền: "Tây khởi nghĩa Bắc thụ công" - "Phụ nguyên phục thống". Rồi nói với anh em Nguyễn Huệ: "Các con là người của đất Tây Sơn, Tây Sơn khởi nghĩa sẽ lập nên sự nghiệp lớn ở miền Bắc và hết lòng giúp chúa Nguyễn để phục hồi nền nhất thống… Các con nên đổi thành họ Nguyễn để có danh nghĩa lập công". Do vậy, anh em Tây Sơn từ họ Hồ đổi thành họ Nguyễn
Trong những năm đầu tiên, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng nhất. Tương truyền trước khi nổi dậy ông từng đi buôn trầu nên được gọi là Hai Trầu. Sử nhà Nguyễn chép rằng ông được chúa Nguyễn giao cho việc thu thuế trong vùng. Năm Tân Mão (1771), sau một đợt thu thuế nhưng mang tiền thu thuế đánh bạc thua mất hết, Nguyễn Nhạc cùng quẫn cùng hai em về quê nội, vào vùng núi Thượng Đạo, ấp Tây Sơn, lập đồn trại dựng cờ khởi nghĩa. 
 Theo chúng ta, mục đích ban đầu của Nguyễn Nhạc có thể chỉ là trốn tội, chứ một người như Nguyễn Nhạc khó mà có chí lớn ngay từ buổi đầu tiên như thế! Sau, thời cuộc đưa đẩy thành lớn chuyện "lỡ leo lưng cọp" mà thôi! Theo ý kiến của PGS Nguyễn Phan Quang trong sách Phong trào nông dân Tây Sơn (2003), tình tiết này thực chất là dụng ý nói xấu người "phản loạn" của nhà Nguyễn sau khi họ đã thắng trận.
Thường thì khi nổi dậy, ai cũng cho là mình có “nghĩa”, và để thu phục nhân tâm thì đều tự nhận là “làm việc nghĩa”, nên khi dựng cờ lên đều muốn nêu cao nhãn mác “nhân nghĩa”. Thế nhưng, theo quan niệm của Đức Huyền Diệu thì không phải bất cứ cuộc nổi dậy nào cũng là “khởi nghĩa” dù có mang danh “khởi nghĩa” đi chăng nữa. Lịch sử đã chứng tỏ rằng sự bần cùng thường phát sinh ra nổi dậy, nhưng một sự nổi dậy không nhất thiết được phát sinh ra từ sự bần cùng. Sự thèm khát danh lợi một cách vị kỷ cũng làm xuất hiện sự nổi dậy, oán thù mù quáng cũng kích thích nổi dậy, áp bức bất công cũng sinh ra nổi dậy, bị chèn ép giáo phái cũng “thích” nổi dậy… Nói chung là có 1001 “kiểu” nổi dậy, từ “giận quá hóa điên”, “bần cùng sinh đạo tặc”, đến “sướng quá hóa rồ”, “được voi đòi tiên”, “thù nhà nợ nước”, v..v… Trong vô vàn “kiểu” nổi dậy ấy, có một “kiểu” gọi là “khởi nghĩa”. Khởi nghĩa là nổi dậy đấu tranh vũ trang chống lại chế độ đã trở nên phản động, nhằm đánh tan lực lượng thống trị (trong nước cũng như ngoại bang), dẹp bỏ áp bức bất công đang đè nặng xã hội, phù hợp với ý nguyện thiết tha của Đại Chúng, phụng sự Đức Huyền Diệu. Tùy thuộc vào nhận thức, cách hiểu (vô tình hay cố ý) mà ở mỗi người, ý nghĩa của khái niệm “áp bức” có thể là tương đối khác nhau. Tuy nhiên có thể nói áp bức, bất công là nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc nổi dậy, song chỉ có cuộc nổi dậy nhằm dẹp bỏ áp bức, bất công đối với Đại Chúng mới được gọi là khởi nghĩa. Áp bức bất công có qui mô xã hội, trước sau gì cũng làm bần cùng hóa Đại Chúng và đó chính là môi trường dung dưỡng, tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa duy trì, phát triển nhanh chóng về chất và lượng để tiến tới giành thắng lợi…
Chính sự của họ Nguyễn ngay từ thời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho dân chúng. Hệ thống thuế khóa phức tạp, cồng kềnh, nặng nề, quan dưới lạm thu khiến dân phải nộp nhiều hơn quy định. Thuế thổ sản có tới hàng ngàn thứ, tính cả những sản vật nhỏ nhặt. Năm 1741, Phúc Khoát ra lệnh truy thu thuế của cả những người bỏ trốn. Tới năm 1765 lại có lệnh truy thu thuế còn thiếu của 10 năm trước.
Năm 1765, Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát qua đời, chính quyền chúa Nguyễn rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Loan thao túng triều chính, tự xưng là "Quốc phó", giết Nguyễn Phúc Luân (cha của Nguyễn Phúc Ánh) và lập Nguyễn Phúc Thuần, lúc đó mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định vương. Trương Phúc Loan trở thành quyền thần lấn lướt trong triều đình, mọi quyền hành đều bị thao túng. Loan nắm giữ Bộ Hộ, quản cơ Trung tượng kiêm Tàu vụ, thâu tóm mọi quyền lực về chính trị và kinh tế. Loan nổi tiếng là tham lam, thường vơ vét của công, mua quỵt của các thương nhân nước ngoài. Thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân... đều rơi vào tay Loan, hàng năm Loan chỉ nộp vào ngân sách quốc gia 1-2 phần mười số thuế thu được. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm giữ mọi chức vụ chủ chốt. Người bấy giờ gọi là Trương Tần Cối.

Cùng lúc đó, Lại bộ Thượng thư Nguyễn Cư Trinh, trụ cột của triều Nguyễn qua đời (tháng 5 năm 1767). Họ Trương không còn ai ngăn trở, càng ra sức lộng hành: bán quan tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân cực khổ. Những người có tài như Tôn Thất Dục bị Loan tìm cách hãm hại. Tài chính vô cùng kiệt quệ. Cơ nghiệp Chúa Nguyễn đến đây là suy vong, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân bắt đầu diễn ra.

Năm 1769, vị vua mới của nước Xiêm là Taksin tung ra một cuộc chiến nhằm tìm cách lấy lại quyền kiểm soát nước Chân Lạp (Campuchia) vốn chịu nhiều ảnh hưởng của chúa Nguyễn. Quân của Chúa Nguyễn buộc phải lùi bước khỏi những vùng đất mới chiếm.

Thất bại trước những cuộc đụng độ với Xiêm La cộng với sưu thuế nặng nề cùng tình trạng tham nhũng tại địa phương khiến cho chính quyền chúa Nguyễn đã yếu càng yếu thêm. Nhiều nông dân lâm vào nghèo khổ, mâu thuẫn xã hội Đàng Trong trở nên gay gắt, lòng dân trở nên chán ghét chúa Nguyễn. Đó chính là thời cơ để ba anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa.
Ngay sau khi dựng cờ nghĩa, ba anh em Tây Sơn, đứng đầu là Nguyễn Nhạc đã nêu một khẩu hiện hợp thời, làm phân hóa lực lượng thống trị: “Đánh đổ quyền thần Trương Thúc Loan, ủng hộ Hoàng Tôn Dương”. Nhờ khẩu hiện đó, cuộc khởi nghĩa đã tìm được sự ủng hộ nhất định của một bộ phận trong tầng lớp thượng lưu vốn bất bình với bè lũ Trương Thúc Loan. Một số thổ hào, nhà giàu như Nguyễn Thông, Huyền Khê… đã bỏ tiền của ra giúp nghĩa quân. Bên cạnh đó, nghĩa quân còn chủ trương và trong thực tế đã đem quân đi tịch thu tài sản do giàu bất chính mà có của bọn quan lại, cường hào, ác bá đem chia cho người nghèo. Chính sử nhà Nguyễn cũng chép: “Hào mục bản thổ đua nhau nổi dậy hưởng ứng với Nhạc, thế giặc ngày càng bùng lên”; hay “Nhạc nổi lên cướp của nhà giàu giúp đỡ cho người nghèo, giả làm ơn nhỏ để mua chuộc lòng người”.
Từ căn cứ Tây Sơn, các đạo nghĩa quân tỏa về các làng xã, trừng trị bọn xã trưởng, quan thu thuế, tịch thu thuế, tịch thu các giấy tờ sổ sách đem đốt hết, tuyên bố bãi bỏ mọi thứ thuế. Nghĩa quân còn tiến đánh các đồn, giải phóng tù nhân, đi đến đâu dân chúng hưởng ứng đến đấy, nhiều người, kể cả thuộc dân tộc miền thượng, dân tộc Chàm… tham gia nghĩa quân. Theo tài liệu ghi chép của các giáo sĩ ở Đàng Trong, chứng kiến lúc bấy giờ thì “cùng đi theo (Tây Sơn) có bọn giặc núi từ miền núi ở giữa hạt Quy Nhơn và Phú Yên”, hoặc “lính của họ (Tây Sơn) có bộ phận gồm những người thiểu số. Có một nữ chúa Chàm tên là Thị Hoa cũng ủng hộ tích cực. Ngoài ra, bấy giờ có hai thương nhân Hoa kiều là Tập Đình và Lý Tài chiêu tập dân nghèo người Việt và người Hoa ở Quảng Nam nổi dậy hưởng ứng khởi nghĩa Tây Sơn”.
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng khởi nghĩa Tây Sơn là khởi nghĩa nông dân. Gọi như thế cũng được vì lực lượng nghĩa quân chủ yếu là nông dân. Nhưng đúng hơn, theo chúng ta, phải gọi là cuộc khởi nghĩa Đại Chúng.

Nguyễn Nhạc và bộ tham mưu nhận thấy địa thế Tây Sơn Hạ không được an toàn, bèn dời tổng hành dinh và các cơ quan trọng yếu lên Tây Sơn Trung. Lấy dãy núi ở dưới đèo An Khê làm mật khu. Nguyễn Nhạc cùng bộ tham mưu đóng ở hòn núi cao nhất nằm phía nam chân đèo, Nguyễn Huệ cùng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đóng tại hòn núi phía bắc. Do đó mà hai ngọn núi này mang tên là núi Ông Bìnhnúi Ông Nhạc.

Tháng giêng năm Nhâm Thìn (1772), chúa Nguyễn sai Chưởng cơ Tôn Thất Văn đi tuyển xét ở Quy Nhơn. Báo cáo về việc Tây Sơn lập 6 đồn trên vùng Thượng đạo từ năm trước (1771). Nghe tin Nguyễn Nhạc bị truy nã gắt gao vì thâm lạm công quỹ, chạy vào núi chiêu tập bọn vong mạng định làm giặc, viên tuần phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên cho quân lính đi lùng bắt. Nhưng nhiều lần quan quân đến Tây Sơn Hạ thấy nhân dân làm ăn yên ổn, không thấy dấu vết của giặc đâu cả, Tuyên cho là tin đồn nhảm, nên thôi đem quân càn quét vùng Tây Sơn.

Đầu tháng 4 năm 1773, quân Tây Sơn đã kéo nhau từng toán xuống các chợ ngay lúc ban ngày, lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo, đe dọa đốt nhà cửa để bắt người tuân theo. Họ họp từng nhóm khoảng 300 người, riêng vùng Đồng Hươu, Đồng Hào có đến 600 người và họ quấy nhiễu suốt ở Phú Yên, Quy Nhơn. Tổ chức của họ cứ theo thắng lợi mà trở thành lớn lao, có quy củ hơn. Lúc đầu họ võ trang giáo mác, cung tên và cả súng tay nữa. Họ đi bộ, nhưng sau đó, khoảng tháng 8, họ đi ngựa, cáng và võng. Để bày tỏ vị trí phương nam và tính cách bạo động của quân khởi nghĩa, họ mang mỗi đội một lá cờ đỏ dài độ 9 aunes (khoảng 1 mét)

Tháng 5 năm 1773, lòng dân địa phương lại hướng hoàn toàn về Nguyễn Nhạc. Viên tri huyện Tuy Viễn không hay biết gì cả. Nhưng vì biện lại đồn Tây Sơn (có tên là Vân Đồn) không chịu nạp thuế trong hai năm liền, viên tri huyện sai Đốc Trung Đằng đem quân lên vấn tội. Đốc Trung Đằng bị quân Tây Sơn chặn lại đòi giấy tờ, tiền bạc, bị đâm một nhát ở vai trái nên phải cùng lính hầu bỏ chạy. Thanh thế lớn lên, Nguyễn Nhạc dời quân xuống Kiên Thành tự xưng làm Đệ nhất trại chủ coi 2 huyện Phù Ly và Bồng Sơn, cho Nguyễn Thung làm Đệ nhị trại chủ coi Tuy Viễn, Huyền Khê làm Đệ tam trại chủ coi quân lương.

Tháng 8 năm Quý Tỵ (1773), mọi việc an bài, Nguyễn Nhạc lập đàn cáo trời đất, hợp thức hóa danh vị chức chưởng của chúa tôi và tế cờ xuất quân. Rồi tấn công huyện lỵ Tuy Viễn. 

Quân Tây Sơn phát triển nhanh nhờ có được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng quanh vùng, nhất là những người nông dân nghèo bị bần cùng hóa bởi tình trạng địa chủ chiếm đất và sưu cao thuế nặng của Chúa Nguyễn. Quân ngũ Tây Sơn khi dựng nghiệp có khoảng 150.000 người được chia thành 12 đơn vị, trong đó có 2 đơn vị là người dân tộc thiểu số. Đây là đội quân tiên phong, dũng mãnh dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ. Kỵ binh có hơn 2.000 chiến mã, tượng binh có hơn 100 thớt voi. 

Những năm đầu tiên, lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng được sự giúp đỡ của nhân dân quanh vùng nên ngày càng mạnh lên. Không chỉ những người nông dân nghèo mà cả một số sắc dân thiểu số và lực lượng người Hoa như hai đạo quân của Lý Tài, Tập Đình. Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và lấy của người giàu chia cho người nghèo. Nghĩa quân đã từng nêu lên khẩu hiệu "Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo". Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban Nha, điển hình là Diego de Jumilla ghi lại, sách Les Espagnols dans l’Empire d’Annam trích dẫn như sau:

"Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi... Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ...".

Được tin Tuy Viễn đã vào tay nghĩa quân, Trần Quang Diệu liền chia đại binh mình chỉ huy ra làm ba đội. Một đội giao cho Lê Văn Hưng ở lại hậu phương. Một đội giao cho Võ Văn Dũng cùng Cao Tắc Tựu đi đánh Bồng Sơn, còn mình lãnh một đạo đi đánh Phù Ly cùng La Xuân Kiều. Bồng Sơn và Phù Ly, nghĩa quân kéo đến, chưa đánh đã lấy được. Quân cũng như dân của hai huyện đều hân hoan đón tiếp nghĩa binh. Trần Quang Diệu để Võ Văn Dũng cùng hai học sĩ Cao, La ở lại giữ huyện lỵ hai nơi, còn mình thì đem quân vào hợp với Tây Sơn Vương đánh thành Quy Nhơn.

Lực lượng nghĩa quân phát triển nhanh chóng. Mùa thu năm Quí Tỵ (1773), số lượng quân Tây Sơn đã lên đến vài vạn người, đánh chiếm phần lớn phủ Quy Nhơn, rồi tiến đến vây quanh thành Quy Nhơn, trong có một đêm đã lấy được thành. Tuần phủ cùng quân lính ở đó bỏ chạy. Phát huy chiến quả, nghĩa quân đánh tiếp ra Quảng Ngãi. Trương Thúc Loan vội cử bốn tướng đem đại quân chống cự. Sau khi chiếm được Quảng Ngãi, nghĩa quân rút về Bến Đà (Thạch Tân, phủ Thăng Bình, Quảng Nam) bố trí mai phục, đánh bại quân Nguyễn. Cuối năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn lại phục ở núi Bình Khê (huyện Phú Mỹ) đánh thắng một trận nữa, làm quân Nguyễn tan tác. Ở phía nam, nghĩa quân cũng chiếm được các phủ Diên Khánh, Bình Khang. Chỉ trong vòng một năm, lực lượng khởi nghĩa đã chiếm cứ được một khu vực rộng lớn từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận.

Sau khi hạ thành Quy Nhơn, Tây Sơn Vương giao thành cho Trần Quang Diệu và các tướng đóng giữ, tự mình đem hai đoàn quân xuống Càng Rang, Nước Ngọt, đánh lấy hai kho lương thực. Hai viên quan giữ kho là Đốc Trưng Đằng và Khâm Sai Lượng chống cự. Lượng bị giết, Đằng tẩu thoát. Vương cho chở hết lương thực về thành Quy Nhơn.

Đi đánh mặt Bắc, Tây Sơn Vương không quên mặt Nam. Vương cử Nguyễn Lữ, Nguyễn Văn Lộc và Võ Văn Cao đi vào Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận để xem xét tình hình, liên lạc cùng Vua Thủy Xá (Pơtau Ea), Hỏa Xá (Pơtau Apui), và vận động thân hào nhân sĩ địa phương hưởng ứng cuộc nam chinh. Phái đoàn về trình tâu rõ tình hình, Vương liền cử Ngô Văn Sở làm Chinh Nam Đại tướng quân, cùng Nguyễn Văn Lộc, Lê Văn Hưng vào đánh chiếm ba phủ Phú, Diên, Bình.

      Mặt tây được hai Vua Thủy, Hỏa yểm hộ, binh Tây Sơn cứ thẳng tiến vào Nam. Đi tới đâu được hoanh nghênh tới đó, và lấy ba thành dễ dàng như trở bàn tay. Tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền bị giết và Nguyễn Khoa Kiên bị bắt sống. Đại thắng, Ngô Văn Sở kéo binh về, để Nguyễn Văn Lộc và Lê Văn Hưng ở lại trấn giữ. 

Tháng 11 năm Quý Tỵ (1773), Chúa Nguyễn sai các Phò mã Chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Cửu Sách, Cai cơ Phan Tiến, Cai đội Nguyễn Vệ, Tổng nhung Tống Sùng, Tán lý Đỗ Văn Hoảng từ Quảng Nam kéo vào lấy lại Quy Nhơn. Tây Sơn Vương giao thành và mặt nam Quy Nhơn cho Trần Quang Diệu và các tướng tâm phúc. Còn mình và Tập Đình, Lý Tài, Nguyễn Văn Xuân cử đại binh ra chống cự quân chúa Nguyễn.

Quân nhà Nguyễn chia làm hai đạo, theo hai đường thủy, bộ. Đạo bộ binh do Chưởng cơ Nguyễn Vệ chỉ huy, còn đạo thủy quân đi đường bể làm sách ứng. Nguyễn Nhạc chia quân làm 3 đạo, hai bên là cánh quân Trung Hoa và người Thượng của Tập Đình, Lý Tài, trung quân là người Việt do đích thân Nguyễn Nhạc chỉ huy đối chiến.

Đạo bộ binh chưa qua khỏi Bình Đê đã bị quân Tập Đình và Lý Tài chặn đánh. Trông thấy quân Trung Nghĩa và Hoài Nghĩa cao lớn dữ tợn, quân chưởng cơ Vệ khiếp sợ, chưa đánh đã thua chạy, bị truy kích giết sạch. Chưởng cơ Vệ không chống nổi Lý - Tập, bị tử trận.

Đạo thủy quân bị bão đắm, chỉ còn thoát có một thuyền do một quan Công giáo điều khiển, thuyền bị dạt vào doi cát tại cửa sông Trà Khúc, không tiến được. Vừa lúc ấy gặp quân Tây Sơn Vương kéo ra đánh tan hết chiến thuyền, bắt sống được 50 thủy binh và lấy được 10 khẩu đại bác.

Quân Nguyễn đại bại rút tàn quân chạy về Quảng Nam bị quân Tây Sơn chặn đánh, bỏ lại 4 thớt voi và nhiều xe lương cùng vũ khí. Tây Sơn Vương toàn thắng, đắp một lũy cát tại Bến Ván (Bình Sơn, Quảng Ngãi) giao cho Nguyễn Văn Xuân đóng giữ, rồi đem chiến lợi phẩm trở về Quy Nhơn. Quân Tây Sơn chiếm được Quảng Ngãi.

Tháng 12 năm Quý Tỵ (1773), chúa Nguyễn lại cử hai đạo binh vào đánh Tây Sơn Vương. Một đạo do Tiết chế Tôn Thất Hương điều khiển kéo thẳng vào Bồng Sơn. Một đạo do Tổng nhung Thành và Tán lý Đản chỉ huy, kéo đánh lũy Bến Ván. Quân số của binh nhà Nguyễn quá đông, Nguyễn Văn Xuân không chống nổi, phải bỏ Bến Ván rút lên núi, theo thượng đạo về Quy Nhơn. Thành và Đản thừa thắng kéo quân vào Bồng Sơn hiệp cùng quân Tôn Thất Hương chiếm núi Bích Kê (Bình Định).

Tây Sơn Vương hay tin sai Tập Đình và Lý Tài theo đường rừng, đến Trà Câu ở Quảng Nghĩa, để chặn đường về của quân Nguyễn, và Nguyễn Văn Xuân đem quân yểm phục phía nam núi Mồng Gà để làm sách ứng. Còn mình đem quân ra thẳng Bích Kê. Tại Bích Kê, quân Tây Sơn và quân nhà Nguyễn kịch chiến. Tôn Thất Hương bị tử trận. Quân nhà Nguyễn bị giết gần hết. Thành và Đản rút tàn binh chạy lui, đến Trà Câu bị phục binh Tây Sơn giết chết. Quân Tây Sơn cướp thu được rất nhiều voi ngựa và quân lương quân dụng.

Tây Sơn Vương kéo quân chiếm phủ lỵ Quảng Nghĩa, lưu Nguyễn Văn Xuân lại giữ thành, cùng Tập Đình, Lý Tài kéo đại binh đánh thẳng vào Quảng Nam. Quân của Vương đóng tại sông Cối Giang, quân Lý Tài đóng tại sông Thế Giang huyện Duy Xuyên. Quân Tập Đình đóng tại bãi cát gần Kim Sơn thuộc Hà Đông để ứng viện.

Cai cơ Tôn Thất Bân đánh không lại quân Tây Sơn liền bỏ chạy về Quảng Nam. Quân Tây Sơn nhanh chóng đánh xuống phía nam, chiếm Bình Khang, Diên Khánh, kiểm soát vùng đất từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.

Quân Nguyễn do Thống binh Huy và Hiến quận công Nguyễn Cửu Dật chỉ huy, kéo vào đánh.

Trận đầu bị quân Tây Sơn Vương đánh thua, quân Nguyễn dồn nơi phố Mỹ Thị thuộc Hòa Vang. Quân Nguyễn qua 2 ngày chiếm hai lũy. Cánh quân Thượng của Tây Sơn ghi một thắng lợi nhỏ, đuổi viên tướng triều chạy cùng với voi trận nhưng họ không tiến được hơn. Hai bên thường ngày kéo quân giáp trận kịch liệt, không phân thắng bại. Tây Sơn Vương rút quân về Thế Giang, đóng nơi Thiên Lộc thuộc Duy Xuyên, trước sông sau sông cứ hiểm làm đồn lũy.

Thiên Lộc nằm giữa nhiều nhánh sông sâu, thế rất hiểm. Quân Nguyễn không đánh nổi. Nguyễn Cửu Dật bàn mưu cùng Thống binh Huy án binh bất động. Rồi cho đóng chiến thuyền, đặt đại bác, lén theo đường sông, lấy ván chận nước để đưa thuyền xuống, xuất kỳ bất ý, đánh úp đồn Thiên Lộc. Mười tám viên tướng Tây Sơn và quân chống với 3 cánh quân triều 3 mặt: dọc theo chân núi, dọc theo quan lộ và từ các thuyền chiến dưới biển bắn lên. Thủy quân bắn chết được một viên tướng dũng mãnh của Tây Sơn với 2 tên quân. Quân Nguyễn toàn thắng tiến vào, đồn Thiên Lộc thất thủ. Binh của Lý Tài ở Thế Giang cũng bị đánh úp, binh của Tập Đình đến cứu không kịp. Quân Tây Sơn Vương bị đại bại rút về án cứ Bến Ván và Châu Ổ (Quảng Ngãi).

Tây Sơn Vương chỉnh đốn lại đội ngũ, rồi theo thượng đạo đi tắt ra hội quân cùng Tập Đình và Lý Tài. Quân Nguyễn đóng tại Phú Hòa thuộc huyện Hòa Vang, nương thế sông làm hiểm cứ. Tây Sơn Vương dùng chiến thuyền đánh xuống. Nguyễn Cửu Dật dùng kế sa nang, lấy bao đựng cát ngăn nước sông, rồi giả thua chạy, đợi quân Tây Sơn qua khỏi, vớt bao cát lên, nước ào xuống, thuyền Tây Sơn bị đắm khá nhiều. Bị thua quân Cửu Dật, Tây Sơn Vương kéo binh đến Mỹ Thị đánh Thống binh Huy. Huy bị thua kéo tàn binh chạy thoát. Tây Sơn Vương đóng binh tại Mỹ Thị, sai Tập Đình đóng ở Cối Giang, và Lý Tài đóng ở Thế Giang để làm thế ỷ giốc. 

Tháng 1 năm 1774, Chưởng cơ Tôn Thất Thăng trên đường tiếp chiến đến Quảng Nam nghe tin Tôn Thất Hương thua trận, hoảng sợ bỏ quân chạy suốt đêm. Chỉ trong 7 ngày, quân Tây Sơn chiếm lại Quảng Nam và cả tỉnh thành.

Tháng 4 năm 1774, lưu thủ Dinh Long Hồ Tống Phúc Hiệp đem quân từ Hòn Khói (Nha Trang) Nguyễn Khoa Thuyên ra đánh Tây Sơn. Quân Nguyễn đánh chiếm Bình Thuận. Tống Phước Hiệp để Nguyễn Khoa Toàn ở lại, còn mình kéo binh ra đánh Diên Khánh. Trấn thủ Lê Văn Hưng chặn đánh. Nhưng nhận thấy quân địch đã đông lại có trọng pháo yểm hộ, liệu không thắng nổi, bèn bỏ thành trống, rút toàn quân về Phú Yên cùng Nguyễn Văn Lộc chống địch.

Mùa hè năm 1774, quân Nguyễn tập trung lực lượng từ Gia Định đánh ra chiếm lại các phủ Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, Phú Yên. Đến đó thì dừng lại vì không đủ lực lượng để tiếp tục đánh chiếm.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét