THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
ĐẠI CHÚNG
----------------------------------------
PHẦN III
Nguồn cội
“Đừng
chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG VII:
BẤT KHUẤT
“… Tinh thần Hà Nội, tính cách Hà Nội - đó
là tổng hợp tất cả những gì tốt đẹp nhất trong tâm hồn Việt Nam cao quí… Hà Nội khởi dậy từ
trong lòng mình sức trẻ mới của một xã hội đang đi lên kết hợp với truyền thống
nghìn xưa quyện trong không khí mà mỗi tấc đất đều thấm máu anh hùng của Thăng
Long - Đông Đô - Hà Nội”
(Trích xã luận báo Nhân Dân, số ra ngày
26-12-1972)
Năm 1802, Nguyễn
Ánh đặt niên hiệu là Gia Long, sai Lê Quang Định làm chánh sứ sang nhà Thanh
xin phong vương và đổi tên nước thành Nam Việt. Thế là năm Giáp Tý (1804), vua
Thanh phái Án sát Tề Bồ Sâm sang phong vương cho Gia Long và định tên nước ta là
Việt Nam
(ngược lại với từ mà Ánh đã “xin”!)
Dưới triều Nguyễn
Ánh, Phú Xuân (Huế) vẫn là kinh đô và Thăng Long vẫn là thủ phủ của Bắc Hà gồm
11 trấn. Năm 1803, Gia Long cho phá bỏ Hoàng Thành cũ, xây dựng lại một tòa thành
mới theo kiểu Vô băng (Vauban), có qui mô nhỏ hơn. Trấn thành Thăng Long đời
Nguyễn hình vuông, chu vi 1285 trượng (khoảng 5 km). Tường thành cao hơn một trượng
(khoảng 4 m), dày 4 trượng (khoảng 16 m), phía dưới xây bằng đá xanh, đá ong,
phía trên bằng gạch hộp. Thành mở 5 cửa: bắc, đông, tây, đông-nam và tây-nam.
Chung quanh thành có hào nước rộng chừng 4 trượng (16 m). Bên trong thành, chính
giữa có Kính Thiên vẫn ở vị trí cũ. Phía trước điện Kính Thiên là cửa Đoan Môn
cũng thuộc Hoàng Thành cũ. Núi Nùng vẫn còn đó. Cụm kiến trúc Phủ Chúa bị phá hủy
và vùng quanh hồ Hoàn Kiếm nhanh chóng thành khu dân cư đông vui. Nhìn chung các
kiến trúc văn hóa xây dựng thêm trong thời kỳ này không có mấy.
Khu văn miếu không
còn Quốc Tử Giám, phạm vi bị thu hẹp lại, chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử; có điểm
thêm một “Khuê Văn Các” xây năm 1802. Năm 1808, nhà Nguyễn mở khoa thi đầu tiên
ở Hà Nội; dựng Trường thi Hương dài 200 m, rộng 150 m (chỗ sau này là Thư viện
Trung ương, trên phố Tràng Thi).
Năm 1812, Cột Cờ (Kỳ Đài) được dựng nên,
chu vi bệ 42 m, đài cao 60 m, phần mái lúc đầu chưa có, sau mới được Pháp xây
thêm. Năm 1842, Tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Đăng Giai quyên tiền các tỉnh xây dựng
chùa Báo Ân trên nền lầu Ngũ Long cũ, bốn năm mới xong. Chùa Báo Ân gồm một cái
nền lớn, hai tầng, trên nền dựng 36 nóc chùa, rộng tổng cộng 180 gian. Từ chùa ra
hồ Gươm, qua mấy lần cửa. Vì quanh chùa có hồ sen nên còn gọi là chùa Liên Trì.
Năm 1848, tại Hà Thành có một sự kiện “dễ giận”: vua Tự Đức sai tháo gỡ các bức
chạm gỗ và đá của Thăng Long, đem vào Huế. Cũng dưới trào vua này, còn có sự kiện:
Nguyễn Văn Siêu (cùng với Cao Bá Quát là hai văn nhân tiêu biểu của Hà Nội thời
đó mà tài “hay chữ” được tôn vinh là: “Thần Siêu”, “Thánh Quát”) đứng ra tu sửa
đền Ngọc Sơn (1865), bắc cầu Thê Húc, dựng Tháp Bút, xây Đài Nghiên, và sự kiện:
tổng đốc Hà Nội là Tôn Thất Bật cho trùng tu lại chùa Báo Thiên.
Tháp Báo Thiên
đã bị dỡ bỏ từ năm 1794 do hư hại quá nặng. Nhưng hồn vía của nó vẫn thức tỏ
trong lòng người đến muôn đời như một ngọn hải đăng huyền vĩ, qua bài thơ của
Phạm Sư Hạnh:
Trấn áp đông tây củng
đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp
độc nguy nguy
Sơn hà bất động Kình
Thiên trụ
Kim cổ nan ma lập địa
chùy
Phong bãi chung
linh thời ứng đáp
Tinh di đang chúc
dạ quang huy
Ngã lai dục thử đề
danh bút
Quản lĩnh xuân
giang tác nghiễn trì.
(Đề
Báo Thiên tháp)
Đào Thái Tôn dịch:
Trấn áp đông tây
giữ đế đô
Hiên ngang ngọn tháp
đứng trơ trơ
Non sông giữ vững
tay trời chống
Kim cổ khôn mòn đỉnh
tháp nhô
Thỉnh
thoảng gió lay chuông ứng đáp
Đêm đêm sao xế đuốc
khôn mờ
Tới đây những muốn
dầm ngòn bút
Chiếm cả dòng sông
mài mực thơ
Năm 1831, Minh
Mạng cải tổ lại bộ máy hành chính, bỏ các trấn chia cả nước thành 29 tỉnh,
trong đó có tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long cũ, huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hòa, phủ
Lý Nhân, phủ Thường Tín.
Năm 1835, Minh
Mạng ra lệnh hạ thấp thành Hà Nội, giảm bớt chiều cao 1 thước 8 tấc (0,73 m),
nghĩa là tường thành chỉ còn cao hơn 3 m.
Như vậy Thăng
Long - Hà Nội thời Nguyễn đã không những mất vai trò là kinh đô cả nước mà còn
bị hạ thấp từ trấn thành xuống tỉnh thành và qui mô cũng bị thu hẹp lại. Hà Nội
thời Nguyễn với hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận gồm tương ứng với nội thành Hà
Nội ngày nay; Thọ Xương tương đương với quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng, Vĩnh
Thuận tương đương với quận Ba Đình, và Đống Đa.
Một học giả ngoại
quốc, J.Silvestre đã nhận xét về Hà Nội vào khoảng giữa thế kỷ XIX như sau: “Mặc
dù không còn là nơi vua chúa ở nữa, tôi cho rằng đó vẫn là một thành phố đứng đầu
vương quốc về nghệ thuật, công nghiệp, thương nghiệp, về sự giàu có, số dân đông
đúc, về sự lịch duyệt và học vấn. Phải nói rằng trong khắp vương quốc, không có
ngành công nghiệp nào khác ngoài Kẻ Chợ và tất cả Bắc Kỳ, Nam
Kỳ, không nơi nào vượt qua được nơi này. Chính ở đó đã tụ tập từ các nơi về những
văn nhân, thợ giỏi, nhà buôn lớn, chính ở đó đã sản xuất ra các mặt hàng thiết
yếu và những đồ mỹ nghệ xa hoa. Tóm lại, đó chính là trái tim của một đất nước”.
Miền đất Hà Thành
không còn cảnh đường bệ, uy nghi của đế đô nhưng vẫn còn nguyên cảnh nhộn nhịp
làm ăn của Kẻ Chợ.
***
Bản chất của kẻ
xâm lược là thèm khát đến vô bờ bến, là ngạo mạn đến hết cỡ vô liêm sỉ. Một cuộc
xâm lược, nếu không có gì ngăn trở nó, nó sẽ chiếm đoạt và cướp bóc đến cùng kiệt
thế giới. Những cuộc xâm lược thời tích lũy tư bản, thời thực dân - đế quốc, thể
hiện càng rõ cái bản chất vô nhân đạo ấy. Điều đó giải thích vì sao dã tâm của
thực dân Pháp không phải là chỉ chiếm đoạt 3 tỉnh, hay 6 tỉnh Nam Kỳ, cũng không
phải chỉ một nước Việt Nam, mà là cả bán đảo Đông Dương và thậm chí còn muốn hơn
thế nữa.
Sau khi chiếm được
Nam Kỳ, Thực dân Pháp rục rịch chuẩn bị kế hoạch đánh chiếm Bắc Kỳ. Tháng 1-1872,
lợi dụng việc triều đình Huế nhờ quân đội Pháp dẹp giặc biển ở Bắc Kỳ, Thống đốc
Nam Kỳ là Dupré cử viên trung tá hải quân Senez đem chiến hạm Bourayne tiến ra
vịnh Bắc Bộ. Mười tháng sau, cũng dựa vào cớ đó, chiến hạm Bourayne lại ra Bắc,
tiến sâu vào nội địa, tìm đường lên Hà Nội thám sát. Tháng 5-1873, Dupré báo cáo
về Pháp: “Việc đánh chiếm Bắc Kỳ là một vấn đề sinh tử cho tương lai thống trị
của chúng ta ở Viễn Đông”
Để kiếm cớ gây
hấn, thực dân Pháp bí mật dùng con bài Đuypuy (Jean Dupuis), một lái súng muốn độc
chiếm sông Hồng để chở hàng lên phía Bắc, đến Vân Nam (Trung Quốc). Được sự ngấm ngầm
hỗ trợ của Thực dân Pháp và của cả nhà Thanh, ngày 22-12-1872, với một lực lượng
quân sự gồm: 2 tàu máy, 7000 súng tay, 30 đại bác, 15 tấn đạn, hơn 100 người vũ
trang đầy đủ, Đuypuy hùng hổ đặt chân đến Hà Nội, rồi mặc dù không được triều đình
cho phép, vẫn ngang nhiên cho thuyền chở hàng ngược sông Hồng lên biên giới phía
bắc (3-1873) và lúc trở về còn được quân nhà Thanh hộ tống.
Từ sau chuyến
buôn trót lọt trở về, với lực lượng quân sự được tăng cường thêm, Đuypuy càng tỏ
ra ngạo mạn, hung hăng, hạch sách quá đáng: đòi được đóng quân trên bờ sông Hồng,
đòi có nhượng địa ở Hà Nội, đòi được cung cấp muối và than đá để chở sang Vân
Nam bán, cho lính tràn vào các khu phố khiêu khích, xé bố cáo của tổng đốc Nguyễn
Tri Phương, bắt giữ thuyền dân, cướp thuyền gạo của triều đình, tấn công đồn
canh ven sông Hồng, tuyên bố thương mại Hà Nội là thuộc Pháp, khước từ mọi việc
tiếp xúc thương thuyết với chính quyền triều Nguyễn…
Tình hình đến độ
như thế mà quan lại địa phương vẫn khoanh tay ngồi chờ lệnh triều đình - một
triều đình đã quá bạc nhược bởi có một ông vua hén nhát. Một triều đình đã từng
phân vân và cứ mãi phân vân giữa “hòa” và “đánh” để rồi sau mỗi bận phân vân ấy
lại “thương” vua khi vua hỏi nếu đánh đến cùng “thì các khanh để trẫm ở đất nào?”,
lại “trung” theo ý vua là “hòa”, để rồi trên thực tế là đánh không được, giữ không
xong, hòa cũng chẳng được hòa, thực chất là đầu hàng từng bước, dâng dần Tổ Quốc
cho Thực dân Pháp. Xét về mặt “pháp lý” thì cái triều đình ấy, ông vua ấy, những
bề tôi ấy cũng “chính danh” không kém triều đình, vua tôi thời nhà Trần, mà sao
“ẹ” thế, sao chỉ biết nghĩ đến “để trẫm ở đất nào” mà không nghĩ đến “để Tổ Quốc
ở đất nào, để dân ở đất nào?”, mà sao không học theo nhà Trần mở “Hội nghị Diên
Hồng”? Cho dù nhà vua đã từng khí dân nhưng dân không bao giờ bỏ nước. Khi vua
biết quay lại sống vì sơn hà xã tắc thì lòng dân rồi sẽ lại theo về. Nếu triều đình
nhà Nguyễn tạo dựng được một “Hội nghị Diên Hồng” thì rất có thể đã chuộc được
tội lỗi của Gia Long. Bởi vì trước sự phân vân: “Thế nước yếu, nên hòa hay nên đánh”
sẽ là lời đáp vang dậy núi sông: “Quyết chiến!”, và trước sự phân vân: “Quyết
chiến lấy gì lo chiến chinh?” sẽ là lời thề đanh thép của muôn lòng: “Hy sinh!”
Triều đình Tự Đức
là như thế nhưng không phải vì thế mà không có những bề tôi đáng kính phục.
Nghe đâu có ông quan, tài đến tam nguyên tên là Nguyễn Bích San thấy vua như thế,
uất quá, mượn câu sách cũ thốt lên: “Vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi chết”,
rồi ngã vật xuống. Thật đáng thương cho lòng trung của ông! Nhưng sao ông không
hành động như nhiều bề tôi khác, như Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực,
Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Đình Chiểu…), chọn con đường “xả thân vì nước”, “vì nước
quên thân”?
Trước nạn xâm lăng,
người Hà Nội ngay từ đầu đã không im lặng. Trong khoa thi hương năm Giáp Tý
(1864), khi nghe tin triều đình Huế, ký hiệp ước dâng ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ
cho giặc Pháp, toàn thể các thí sinh trường Hà Nội đã “đại náo trường thi” để
phản đối. Ba ngàn người đã vứt bỏ lều chõng, tập hợp đội ngũ chỉnh tề, rầm rộ kéo
ra Văn Miếu làm lễ, sau đó, kéo về Hồ Gươm, vừa đi vừa hô lớn xin được vào Nam
giết giặc cứu nước. Cuộc tuần hành được nhân dân các phố, các làng lân cận nhiệt
liệt hưởng ứng.
Trước những hành
động càn rỡ của Đuypuy, nhân dân Hà Nội đã tự phát phản kháng quyết liệt. Có
chuyện là khi bọn Pháp xúc phạm tới nhà nho, đốc học Lê Đình Nguyên, tức thì một
lực lượng gồm 300 người, phần lớn là học sinh, được tổ chức, kéo ra phục kích bên
sông Hồng, chặn đánh bọn Đuypuy tơi tả…
Tháng 7-1873,
Dupré điện về Pháp: “Bắc Kỳ đã được khai phóng do thắng lợi của Đuypuy, tạo hiệu
quả sâu rộng trong nền thương mại Anh, Đức, Mỹ. Chiếm Bắc Kỳ là tuyệt đối cần thiết
để bảo đảm cho nước Pháp con đường thông thương duy nhất này. Tôi không cần viện
binh gì hết, tôi giải quyết bằng cách của tôi. Bảo đảm thắng lợi”.
Thật khôi hài là
quá trình hiện diện của thực dân Pháp từ trận đánh vào Đà Nẵng (1858) đến lúc đó
đã bộc lộ ngày một rõ ràng mưu đồ ăn cướp của chúng đến ông đồ mù Chiểu còn thấy,
ấy vậy mà Tự Đức cùng bộ phận quần thần đủ đầu, mắt, tai vẫn cứ ngơ ngác, như lũ
đui, điếc, vẫn cứ “ngây thơ cụ”, “chân thành” tin tưởng vào “lòng tốt” của kẻ xâm
lược. Ảo tưởng rằng có thế sống nhục mà vẫn cần được vinh nên một phái bộ của
triều đinh Huế đã được cử vào Sài Gòn nhằm yêu cầu Thực dân Pháp giải quyết vụ Đuypuy.
Chớp cơ hội “trời cho” này, ngày 11-10-1873, Duypré lệnh ngay cho thiếu tá Gácniê
(Francis Garnier) đem hai tàu chiến trang bị 11 đại bác và 170 lính ra Bắc Kỳ,
với chỉ thị ngầm: được toàn quyền hành động, tùy theo diễn biến tình hình mà có
thể thiết lập chế độ bảo hộ hay chế độ thuộc địa. Vì vậy mà ngày 5-11-1873, vừa
đặt chân tới Hà Nội, Gácniê cho bắn 23 phát đại bác để thị uy, rồi phối hợp với
lực lượng của Đuypuy (có cả một đại đội quân chính qui Tàu), liên kết với bọn
phản động, tuyển mộ ngụy quân, sắp đặt ngụy quyền. Bộ mặt thật của thằng xâm lược
đã lòi ra bạch nhật: đã không giải giáp Đuypuy mà còn đưa ra những yêu sách
ngang ngược như: đòi đóng quân trong thành, đòi “từ nay Hà Nội và sông Hồng được
mở cho Pháp, Ý và Vân Nam
hoạt động thương mại. Pháp làm chủ và thu thuế”…
Tổng đốc Nguyễn
Tri Phương, vị chỉ huy cuộc chiến đấu ở đại đồn Chí Hòa năm 1861, kiên quyết đòi
Đuypuy phải rời sông Hồng và ra thông cáo cho dân chúng biết Gacniê chỉ có nhiệm
vụ ở Hà Nội là dàn xếp vấn đề Đuypuy. Nhân dân Hà Nội không ngồi yên. Họ thi hành
lệnh bất hợp tác với Pháp, thường bỏ thuốc độc vào giếng nước uống, mấy lần đốt
kho thuốc súng của chúng bên bờ sông…
Nhận được viện
binh tăng cường từ Sài Gòn và Hương Cảng, ngày 15-11-1873, Gácniê trắng trợn đơn
phương tuyên bố khai phóng sông Hồng, thiết lập chế độ thuế quan mới. Bốn ngày
sau (tức ngày 19-11-1873), Gácniê gửi tối hậu thư đòi tổng đốc Hà Nội phải giải
giáp quân đội, giao nộp thành và phải trả lời trước 6 giờ chiều cùng ngày. Nguyễn
Tri Phương cự tuyệt, tổ chức phòng thủ.
Xét tương quan
lực lượng đôi bên lúc đó, quân số triều đình Huế đông hơn nhiều so với quân viễn
chinh Pháp, nhưng trang bị vũ khí hết sức lạc hậu, kém cỏi, thiếu thốn nhiều.
Ỷ vào ưu thế áp
đảo tuyệt đối về hỏa lực, mờ sáng ngày 20-11-1873, Thực dân Pháp tấn công thành
Hà Nội. Tất cả đại bác trên các tàu chiến đều khai hỏa, bắn cấp tập vào thành,
yểm trợ cho hơn 200 binh lính Pháp và ngụy xông vào. Pháo ta bắn, nhưng không
chặn được địch. Chúng đánh mạnh vào cửa Nam và cửa Đông. Dù có phần bị bất
ngờ và yếu thế hơn, quân dân Hà Nội đã chiến đấu rất anh dũng . Tổng đốc Nguyễn
Tri Phương trực tiếp lên mặt thành phía Nam đốc chiến, bị trúng thương nặng
ở bụng. Con trai ông là phò mã Nguyễn Lâm cùng hiệp quản Trần Văn Cát và xuất đội
Ngô Triều lần lượt hy sinh tại trận. Mấy cửa thành bị phá, giặc Pháp thừa thắng
tràn vào. Sau khoảng một tiếng đồng hồ chống cự, quân triều đình tan vỡ, một phần
lớn vượt thoát, lên gia nhập cánh quân triều đình đóng ở Sơn Tây do Hoàng Tá Viêm
chỉ huy. Hà Thành thất thủ! Tuy nhiên, cánh quân gồm 100 người do một quan chưởng
cơ chỉ huy giữ cửa Ô Phố Mới, trước đó đã chặn đánh quyết liệt và giết nhiều giặc
ở hướng này, vẫn còn chiến đấu và hy sinh đến người cuối cùng (lịch sử quên ghi
tên ông, nhưng nhân dân sau này cũng gọi cửa ô đó là cửa ô Quan Chưởng để thương
nhớ). Bá hộ Trần Chí Thiện, kỳ mục Nguyễn Văn Hồ với hai con trai vẫn cứ đánh và
chịu hy sinh.
Tú tài Phạm Lý,
người tổ chức được một lực lượng tại huyện Thọ Xương tìm cách chặn đứng bước tiến
của giặc, vẫn còn đánh.
Khi vào thành,
quân Pháp dụ dỗ, chữa chạy cho Nguyễn Tri Phương. Ông mắng chúng và lũ phản động
rồi xé băng buộc thuốc, nhịn ăn, chịu chết. Mấy bữa trước, khi triều đình trao
cho ông trách nhiệm giữ Hà Nội, ông đã nói: “Phải giữ từ xa. Nay nó đến sát rồi,
thần cũng không giữ được. Ta chỉ vì nước mà hết trách nhiệm, dù gan óc lầy đất!”.
Có ông già theo Nguyễn Tri Phương lâu năm, kể rằng: “Một lần tôi được theo quan
Đại về làng (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên). Nhà ngài chỉ có ba gian lợp lá
từ cụ tổ để lại thôi”. Nhà Nguyễn Tri Phương, cha, con, anh, em, có đến 5 người
hy sinh vì nước. Tấm lòng trung quân ái quốc của ông thật đáng kính phục. Hà Thành
thất thủ nhưng người Hà Nội vẫn chiến đấu. Ngay tối hôm thành bị chiếm, nhân dân
đã tự động vũ trang, đốt phá trạm gác địch, đột kích vào thành. Ngày 1-12-1873,
chiến sự giằng co ở Gia Lâm. Ngày 8-12, vị trí địch ở tây nam Hà Nội bị công phá.
Còn lưu truyền đến nay chuyện chàng thanh niên Phùng Xuất Nghĩa quê ở Cổ Nhuế,
sau khi làm lễ tế cờ ở gò Ngũ Nhạc trong làng, đã kéo quân đi tìm giết giặc Pháp.
Khi bị giặc bắt, đặt lên mâm đồng nung đỏ, ông không hề run sợ và lẫm liệt hy
sinh… Gácniê đã thú nhận: “Đánh thành thì dễ mà giữ thành thì thực là khó… Những
đám cháy và các trận đột kích thật đáng sợ. Suốt đêm chúng tôi không hề chợp mắt”.
Biết tỏng tinh
thần đã bại liệt của Tự Đức và cái cơ thể rệu rã lạc hồn của quân triều đình Huế,
Gácniê đã triệt để tận dụng thời cơ, đánh chiếm các tỉnh thành Hưng Yên
(24-11-1873), Hải Dương (4-12), Ninh Bình (5-12), Nam Định (10-12).
Tuy nhiên, tại
Hải Dương, Nam
Định, nghĩa quân do các văn thân yêu nước dẫn đầu đã nhanh chóng được tập hợp lại,
tổ chức đóng giữ các nơi xung yếu, không cho giặc nống về nông thôn, và chuẩn bị
chiếm lại tỉnh thành. Trong khi đó, nhân lực lượng quân Pháp ở Hà Nội còn mỏng
manh, dân quân ta tăng cường đánh phá. Lực lượng triều đình gồm quân thứ Sơn Tây
do Hoàng Tá Viêm chỉ huy và quân thứ Bắc Ninh do Trương Quang Đản chỉ huy cùng
hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc, kéo về tạo thế bao vây Hà Nội. Toàn quân
Pháp cố thủ trong thành đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt.
Nghe tin đó, Gácniê
vội kéo quân từ Nam
Định về cứu nguy. Sáng ngày 21-12-1873, Lưu Vĩnh Phúc đem quân đến sát thành
khiêu chiến. Gácniê và viên chỉ huy quân giữ thành là Đavricua (Balny
d’Avricourt) đem quân ra đối phó. Quân Cờ Đen rút. Quân Pháp hung hăng đuổi
theo, mắc mưu, bị phục kích ở Cầu Giấy. Đavricua bị giết chết ở đền Voi Phục, Gácniê
bị giết chết ở cuối làng Giảng Võ, một số đông lính bỏ mạng, số còn lại chạy được
về thành.
Chiến thắng Cầu
Giấy làm nức lòng nhân dân Hà Nội cũng như nhân dân cả nước và cùng với cuộc
chiến đấu ở các tỉnh đã đặt quân viễn chinh Pháp vào tình thế vô cùng khốn đốn.
Đám giặc ở Hà Nội hốt hoảng đến mức chính Đuypuy, tên lái súng mới hôm nào còn
ngang ngược đã phải la lên: “Cả thành khủng khiếp! Chỉ còn 40 người khỏe mạnh. Đã
sửa soạn xuống tàu”. Việc giải phóng Hà Nội chỉ còn là nay, mai.
Thực dân Pháp
chắc chắn là chẳng coi triều đình Huế ra cái thá gì, nhưng rất lo sợ trước nhân
dân Bắc Kỳ, nhất là khi lực lượng ấy được phát động toàn diện và được thống nhất
lãnh đạo dưới một ngọn cờ. Hơn nữa, tình hình bấy giờ cả trong và ngoài nước Pháp
đã chưa cho phép Thực dân Pháp lấn sâu vào cuộc xâm lược Bắc Kỳ. Vì thế (chứ chẳng
phải vì lý do nào khác) buộc chúng phải gấp rút tìm giải pháp tạm thời hòa hoãn
có lợi nhất. Và Tự Đức đã làm thay công việc đó cho Thực dân Pháp một cách tận
tình đến bất ngờ!
Quái đản hết chỗ
nói khi giữa lúc tình thế chuyển biến hết sức thuận lợi cho đất nước thì triều đình
Huế ra lệnh cho Hoàng Tá Viêm lui quân về Sơn Tây “án binh bất động” để tiện
cho việc thương thuyết với Pháp. Ngày 6-12-1873, được vua Tự Đức đồng ý, Philat
(Philastre) cùng Nguyễn Văn Tường đại diện cho hai bên thương thuyết đáp tàu ra
Bắc Kỳ (tới Hà Nội vào đầu tháng 1-1874). Philat thấy rõ tình trạng hiểm nghèo
mà quân viễn chinh Pháp đang lâm vào và để nhanh chóng gỡ thế hiểm đó, ông ta đã
vội trao trả các thành cho quan lại triều Nguyễn, trục xuất Đuypuy ra khỏi Bắc
Kỳ, chỉ để lại một trung đội lính bảo vệ lãnh sự Pháp tại Hà Nội…
Ngày 15-3-1874,
“Hiệp ước hòa bình và liên minh” được ký kết giữa một bên là Lê Tuấn, Nguyễn Văn
Tường (đại diện triều đình Huế) và một bên là Dupré (đại diện chính phủ Pháp).
Với hiệp ước này, Nam Kỳ được chính thức thừa nhận là thuộc địa của Pháp, phần
còn lại của đất nước thì người Pháp được quyền chi phối ngoại giao, nội trị, thương
mại, có nhượng địa tại Hà Nội để đặt lãnh sự Pháp và một đội quân Pháp 100 người
thường trú ở đó.
Hiệp ước ký
xong, ở cả hai bên chỉ có một người cảm thấy buồn quá (hay tủi quá, nhục quá) tự
tử chết là Lê Tuấn, còn lại đều hài lòng: Pháp thì nhẹ nhõm, mãn nguyện, còn Tự
Đức thì hí hửng, phởn chí khen lấy khen để Philát là biết điều.
Chúng ta cho rằng
sự ra đời của cái hiệp ước đó là kỳ dị nhất thế giới từ cổ chí kim bởi vì nó trái
khoáy với mục đích chiến tranh. Sự ươn hèn của Tự Đức đã dâng thành quả đạt được
trên chiến trường của quân dân Bắc Kỳ cho kẻ cùng đường, trên bàn thương thuyết
ngoại giao. Vì kỳ dị như thế nên hòa ước này nhục nhã hơn hòa ước Tindit được ký
giữa hoàng đế Pháp là Napôlêông đệ nhất, và hoàng đế Nga là Alếchxăng đệ nhị.
Chỉ có cái nhục nhã của sự đầu hàng vô điều kiện khi chiến thắng đã ở trong tầm
tay mới may ra có thể sánh bằng nó, thậm chí là cũng không sánh bằng được! Phải
chăng hồn ma Nguyễn Ánh đã nhập vào Tự Đức và cái chướng nghiệp cõng rắn cắn gà
nhà đã phát tác đến nông nỗi như vậy? - Lừa đảo bán nước mua nghiệp đế để rồi
phải bán nước thật hòng giữ nghiệp đế, nghe cứ như chuyện cờ bạc bịp. Mà hai cách
đó đều làm cho dân cho nước mắc vạ lây, có khác nhau bao nhiêu đâu?
Hiệp ước kinh dị
đó đã làm nhân dân cả nước phản ứng mạnh mẽ. Nhiều cuộc chống đối, nổi dậy vũ
trang xuất hiện. Với điều khoản “Pháp bảo vệ nhà vua chống mọi sự tấn công” của
hiệp ước, Pháp nhiều lần phối hợp với quân triều đình tiến hành đàn áp, đánh dẹp.
Lãnh sự Pháp ở Hà Nội thừa nhận: “Những toán quân của sĩ phu hầu như đã sẵn sàng
chống lại điều ước… Hẳn là triều đình Huế sẽ chấp nhận điều ước không khó khăn
gì. Nhưng khắp mọi nơi, chính quyền nhà vua bất lực, không còn được tôn trọng. Đa
số sĩ phu không thừa nhận điều ước và sẽ nhất tề nổi lên…”
Chính quyền triều
Nguyễn đã suy yếu đến độ cùng cực mà sự thèm khát chiếm hẳn tòan bộ nước ta của
xâm lược Pháp thì chưa bao giờ nguôi. Mục tiêu trước mắt của Thực dân Pháp lúc đó
nhằm thực hiện tham vọng chính là Bắc Kỳ. Năm 1880, thủ tướng Pháp đương thời là
Gambetta nói: “Bắc Kỳ chính là tương lai thực sự của nước Pháp”
Đó là một câu nói
không chính xác! Nếu tài nguyên của cải cướp được từ Việt Nam là “tương lai thực sự” thì chỉ
có thể là dành cho tập đoàn tư bản thống trị nước Pháp. Đọc lịch sử nước Pháp
ai cũng thấy rằng trong 2 thế kỷ XVIII - XIX, nhân dân Pháp cũng có những vấn nạn,
những đau thương bi kịch, khao khát bình đẳng, yêu tự do, chuộng hòa bình và cũng
vô cùng bất khuất, tương tự như nhân dân Việt Nam…
Dù sao thì vào
lúc này, tình hình chính trị của nước Pháp ở châu Âu đã tạm ổn, nguy cơ xảy ra
cuộc chiến lớn Pháp - Đức cũng tạm thời lắng dịu, thế và lực của nước Pháp đã được
cải thiện trên bình diện quốc tế. Đã vậy, việc bình định Nam Kỳ của Thực dân Pháp
coi như hoàn thành, Nam Kỳ đã có thể đảm đương vai trò bàn đạp để đánh chiếm Bắc
Kỳ. Thời cơ đã đến đối với con hổ trước một con nai ngơ ngác.
Năm 1879, Thực
dân Pháp điều động thêm 3000 lính và 12 tàu chiến sang Việt Nam. Mặt khác, lợi dụng những điều
khoản rộng rãi của hiệp ước năm 1874, Thực dân Pháp tung người ra do thám khắp
Bắc Kỳ và nhân việc triều đình Huế yêu cầu giúp thêm lực lượng trấn áp nổi dậy,
chúng đưa quân và vũ khí ra đó ngày càng nhiều. Năm 1882, lấy cớ triều đình Huế
vi phạm hiệp ước, chúng cũng tăng gấp đôi số quân đồi trú ở Hà Nội, Hải Phòng.
Ngày 26-3-1882,
đại tá viễn chinh Pháp là Rivie (Henri Riviere) được lệnh đem 200 lính cùng 2
pháo thuyền từ Sài Gòn tiến ra Bắc Kỳ. Ngày 3-4, Rivie đổ bộ lên Hà Nội. Tổng đốc
Hà Nội lúc bấy giờ là Hoàng Diệu biết nếu tổ chức đánh ngay từ đầu thì sẽ có
nhiều lợi thế, nhưng vì chưa có lệnh triều đình nên đành chịu. Trước đó, thành
Hà Nội đã được tu bổ, củng cố lại, quân số giữ thành được bổ sung, vũ khí được
tăng cường. Rút kinh nghiệm Hà Thành thất thủ 9 năm trước, Hoàng Diệu bố trí thêm
lực lượng quan quân ở ngoài thành để hỗ trợ tác chiến.
Quân Pháp tập
trung về Hà Nội ngày một thêm đông. Giữa tháng 4-1882, 7 tàu chiến và 2 xuồng máy
của chúng từ Hải Phòng lên cặp bờ Hà Nội. Tình hình ngày một nguy cấp. Hoàng Diệu
cấp báo về Huế, yêu cầu các địa phương tâu lên triều đình xin thêm viện binh. Hoàng
Tá Viêm, chỉ huy cánh quân lớn đóng ở Sơn Tây cũng xin được đem quân về tập
trung ở trung châu để liệu bề phối hợp, kịp thời đối phó. Tự Đức thoái thác, sợ
làm người Pháp “ngờ vực”, khuyên Hoàng Diệu và Hoáng Tá Viêm đừng làm cái việc
“không phải lúc”, nên bình tĩnh, đừng”rối rít”. Rồi, nhà vua làm cái việc mà ông
ta cho rằng “phải phép” là sai Nha Thương Bạc chất vấn Pháp tại sao lại kéo quân
ra Bắc (!), và được trả lời: “Hà Nội muốn được yên thì phải giải binh và phá bỏ
các công trình phòng ngự”
Ngay khi chân ướt
chân ráo đến Hà Nội, Rivie cũng đã đòi Hoàng Diệu phải làm như thế và còn nói bóng
gió là quân Pháp sẽ vào đóng trong thành. Thái độ láo xược của thằng này đã làm
cho khâm sai Hà Thành là tổng lý Cát Văn Tụy - người được cử trực tiếp giao dịch
với Pháp - phải phát điên lên, lăn đùng ra chết.
Tất cả những hiện
tượng liên tiếp xảy ra hình như đã làm cho quan tổng đốc Hoàng Diệu có linh tính
không lành. Ông họp các quan, tướng dưới trướng ở trên lầu Cửa Đông, cạnh mấy hòm
thuốc súng, rót rượu, nói với họ rằng: “Tôi xin các ông cạn chén, thề tận trung
báo quốc. Nếu vạn nhất mà thành mất, thì tất cả chúng ta đến đây, đốt cái hòm đạn
này!”. Các quan tướng đều thề.
Mờ sáng ngày
25-4-1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu đòi phải nộp thành và ra trình
diện. Khoảng 8 giờ sáng, tàu chiến Pháp dàn trận trên sông Hồng đồng loạt bắn vào
thành Hà Nội, mở đường cho bộ binh xông lên. Ngay từ đầu, chúng đã vấp phải
tinh thần phản kháng của người dân Hà Nội. Họ tự đốt nhà mình. Nhiều dãy phố dọc
bờ sông cháy rừng rực ngăn bước tiến của giặc, làm chúng phải lội qua các hào đầy
nước. Nhiều toán dân mang giáo mác đến cổng thành xin đánh giặc. Các nhà dân và
đình, chùa đều đánh trống gõ mõ, khua chiêng vang dội để áp đảo tinh thần địch,
hỗ trợ tinh thần cho quan quân triều đình trong thành. Một cử nhân võ là Nguyễn
Hồng, người làng Bích Câu (vườn hoa Cửa Nam ngày nay), chuẩn bị vào thành tham
gia chiến đấu nhưng đã không kịp.
Trong thành, Hoàng
Diệu ra sức đốc chiến, trực tiếp bố trí các ổ chiến đấu. Quân Pháp dùng 40 chiếc
thang để tràn vào thành, bị ta bắn, đánh chặn quyết liệt, nhiều tên chết.
Trận đánh giằng
co ác liệt đến 10 giờ và thế quân triều đình vẫn còn vững vàng thì kho thuốc súng
trong thành bị đám nội phản đốt cháy, phát nổ. Ngọn cờ trên Kỳ Đài cũng đổ.
Quan quân triều đình bị bất ngờ đâm hoang mang dao động. Đúng lúc đó quân Pháp
dốc toàn lực lượng phá vỡ cửa Tây và cửa Bắc rồi ào ạt tràn vào thành. Quân triều
đình hoàn toàn rối loạn, tan vỡ, lớp bỏ mạng, lớp bị bắt, lớp bỏ chạy. Hà Thành
thất thủ lần thứ hai!
Nhiều người nói
rằng cũng như 9 năm trước, nguyên nhân lớn của lần thất bại này là quan quân giữ
thành đã xa rời, không biết dựa vào quần chúng - một lực lượng tiềm tàng, tuy có
thể là đã chán ngán triều đình Huế nhưng luôn yêu nước và thù ghét kẻ xâm lăng.
Đội quân triều đình vài ngàn người ấy đã phải chiến đấu cô đơn trước hỏa lực áp
đảo của địch. Quân trông cậy vào quan, quan trông cậy vào kho thuốc súng. Kho
thuốc súng nổ thì quan mất hết niềm tin vào thắng lợi, đâm rối trí làm cho quân
lính hoang mang, mất phương hướng và tan rã.
Ai cũng tiếc là
với lòng dân Hà Nội như vậy, nếu quân, dân đồng lòng, kết hợp đánh cả trong lẫn
ngoài thành thì dù cho giặc đã lọt được vào thành, dù chỉ còn giáo mác thôi, dễ
gì Hà Thành đã thất thủ. “Chính khí ca” còn ghi:
“ Không ngờ thất ý
tại ta
Rõ ràng thắng trận,
thế mà thua cơ
Nội công nó sắp
bao giờ,
Thấy kho thuốc cháy,
ngọn cờ đổ theo…”
Đề đốc Lê
Trinh, quân còn mà đã sớm bỏ chạy. Các chánh phó lãnh binh, một số mất tinh thần,
một số đến khi biết hết phương chống cự, cũng chạy. Một số bị bắt. Quan tuần Hoàng
Hữu Xứng khi bị bắt đã tỏ rõ khí tiết, mắng giặc thậm tệ rồi tuyệt thực. Ngoài
thành, tri huyện Thọ Xương bỏ trốn từ sáng sớm. Tri phủ Hoàng Đức thì đến trưa
cũng chạy trốn nốt. Lính Pháp vào huyện chỉ còn thấy ông cai trì. Ông này tuốt
gươm chém tên chỉ huy Pháp liền bị bắn chết ngay…
Giặc tràn vào
thành, thấy quân tướng triều đình tan tác, biết rằng tình thế đã trở nên vô vọng,
tổng đốc Hoàng Diệu quay về dinh ở điện Kính Thiên, viết tờ biểu nhận trách nhiệm
của mình và vạch rõ lỗi của triều đình trong việc để mất thành rồi đến vườn Võ
Miếu gần đó, buộc khăn lên cành đa treo cổ tự vẫn để tỏ lòng trung nghĩa với nước:
“Một cơn gió thảm
mưa sầu
Đúc
nung gan sắt dãi dầu lòng son
Chữ trung đã rắp
vuông tròn
Quyết đem gởi cái
tàn hồn cỏ cây
Trời cao, bể rộng,
đất dày
Núi Nùng, sông Nhị,
chốn này làm ghi”
(Chính Khí ca)
Không giữ được
thành thì “thung dung tựu nghĩa”, đền nợ nước. Hoàng Diệu thật tiết liệt! Dưới
triều Tự Đức, không thiếu những quan lại, sĩ phu có lòng nồng nàn yêu nước, có
tinh thần vì nước quyên sinh như thế.
Sau khi Hoàng
Diệu mất, văn thân, sĩ phu và nhân dân Hà Nội đưa thi hài ông về chôn ở nhà Học
chính đường (nay ở phố Trần Quí Cáp, sau ga Hà Nội). Bà vợ ông ở quê nhà, đang
cấy lúa thì có người gọi, báo hung tin. Người ta thấy bà cứ đứng yên ở dưới ruộng,
không khóc lóc gì, lấy làm lạ, họ đến lay thì ra bà đã mất rồi. Ai nghe chuyện
cũng ngậm ngùi, thương xót.
Trong lần Hà Thành thất thủ lần thứ hai, Nếu triều đình Huế là kẻ gián tiếp mắc tội dâng thành cho Pháp thì Hoàng Kế Viêm là kể trực tiếp mắc tội để giặc Pháp chiếm thành.
Hoàng Kế Viêm tên thật là Hoàng Tá Viêm, tự Nhật Trường, hiệu Tùng An, người làng Văn La, tổng Văn Đại, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông là con của Hoàng Kim Xán, Bố chính tỉnh Khánh Hòa. Sau khi Hoàng Kế Viêm thi đỗ cử nhân vào năm 1843 thời vua Thiệu Trị, ông được bổ Tư vụ, hàm Quang lộc tự khanh. Ông kết duyên với con gái thứ năm của vua Minh Mạng là Hương La Công chúa Quang Tĩnh, nhưng chẳng bao lâu thì vợ mất.
Đời Thiệu Trị, năm 1846, ông làm Lang trung Bộ Lại. Đến thời Tự Đức (năm 1850), mẹ mất, ông đang ở quê chịu tang thì được chiếu triệu về kinh, sung chức Án sát tỉnh Ninh Bình (1852). Năm 1854, ông thăng Bố chính Thanh Hóa, Bố chính kiêm Tuần phủ Hưng Yên (1859), Tổng đốc An Tĩnh (1863). Suốt thời gian trên, ông có công trị an, mở mang kinh tế, thủy lợi...
Năm cuối thập niên 1860, dư đảng của Thái Bình Thiên quốc
là Ngô Côn chạy tràn sang miền Bắc Việt Nam. Đầu tiên, họ xin hàng, sau
đem quân đi cướp phá các tỉnh. Quan quân đánh mãi không được mà còn mất
nhiều binh tướng, buộc triều đình nhà Nguyễn phải nhờ quân nhà Thanh phối hợp để tiễu trừ. Đến khi Ngô Côn bị giết, các dư đảng là: Hoàng Sùng Anh (hiệu Cờ vàng), Lưu Vĩnh Phúc (hiệu Cờ đen), Bàn văn Nhị-Lương văn Lợi (hiệu Cờ trắng); vẫn thường quấy nhiễu ở mạn Tuyên Quang, Thái Nguyên, làm quan quân nhà Nguyễn hết sức vất vả. Đến khi đảng cướp người Tàu là Tô Tứ nổi lên, cướp thành Lạng Sơn, bắt giết Tổng thống quân vụ Bắc Kỳ
là Đoàn Thọ, triều đình Huế bèn phái Hoàng kế Viêm ra làm
Lạng-Bình-Ninh-Thái Thống đốc quân vụ đại thần (1870), để hiệp với lực
lượng của Tán tương Tôn Thất Thuyết cùng lo việc đánh dẹp.
Qua tháng 4 năm sau (1871), Tự Đức lại sai quan Hình bộ thượng thư là Lê Tuấn làm chức Khâm sai thị sự đến hỗ trợ ông. Hoàng Kế Viêm vừa đánh vừa dụ hàng, thu phục được Lưu Vĩnh Phúc, đánh tan quân Cờ trắng và Cờ vàng. Hoàng Sùng Anh cũng bị quân Cờ đen
truy lùng và giết chết khi trốn chạy. Nhờ công lao này, Hoàng Kế Viêm
được phong Đại học sĩ lãnh Tổng thống Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ
miền Bắc.
Vì đất Bắc Kỳ luôn có loạn, năm Canh Thìn
(1880) triều đình đặt ra Lạng Giang đạo và Đoan Hùng đạo, rồi sai hai
viên Tĩnh biên phó sứ là Trương Quang Đản đóng ở Lạng Giang và Nguyễn
Hữu Độ đóng ở Đoan Hùng. Phong cho Hoàng Kế Viêm là Tĩnh biên sứ, kiêm
cả hai đạo.
Khi quân Pháp xâm chiếm Đại Nam, Hoàng Kế Viêm đứng về phe chủ chiến. Năm 1873, Đại úy hải quân Pháp Francis Garnier đem quân theo sông Hồng lên chiếm thành Hà Nội và sửa soạn đánh các tỉnh khác ở đồng bằng sông Hồng.
Hoàng Kế Viêm liền được cử làm Tiết chế Bắc Kỳ quân vụ (chức vụ quân sự
cao cấp nhất tại Bắc Kỳ) để đôn đốc các nơi lo việc chống ngăn. Ngày 21 tháng 11 âm lịch năm đó, Lưu Vĩnh Phúc cùng tổ chức mai phục và đã giết chết được F.Garnier tại Ô Cầu Giấy. Năm 1883, đến lượt Đại tá hải quân Pháp Henri Rivière đánh và chiếm được thành Hà Nội, song cũng lại bị quân của Lưu Vĩnh Phúc giết chết tại Ô Cầu Giấy ngày 19 tháng 5 năm 1883.
Ông trước đây là người trong phái chủ chiến, nhưng sau này ngả dần sang
chủ hoà. Khi Pháp đánh thành Hà Nội, ông được vua ban Tổng thống quân vụ
Bắc kỳ, toàn quyền chỉ huy. Khi Hà nội bị vây hãm, ông đang cầm hơn 1
vạn quân tinh nhuệ nhất triều đình, đóng ngay tại Sơn Tây, vậy mà không
ứng cứu—để mặc cho Hoàng Diệu cô độc trơ trọi chiến đấu một mình đến nỗi
mất thành, thắt cổ tự vẫn. Hoàng Tá Viêm lúc còn trong phái chủ chiến, khi ông cầm quân với chức
cao nhất Tổng thống quân vụ Bắc kỳ , vậy mà với hơn vạn quân tinh nhuệ,
chủ lực của triều đình mà toàn né tránh đụng độ với Pháp. Để mất Hà Nội,
Sơn Tây, Hưng Hoá, không hề đánh chác gì, hai trận thắng Cầu Giấy là
công lớn của Cờ Đen.
Năm sau (1883) Pháp lại tiến đánh Sơn Tây,
ông đóng quân ở ngay đó (ở đền Và) mà vẫn án binh bất động. Ông không
cho quân ứng cứu, bỏ mặc cho Tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận đơn độc đánh
nhau 3 ngày 3 đêm, tiêu diệt hơn 100 quân Pháp—trong đó có 1 đại úy và 5
sĩ quan—cùng với 350 lính khác bị thương. Trận Sơn Tây này thật oanh
liệt, nhưng quân ta và quân Lưu Vĩnh Phúc cũng chết rất nhiều (riêng
quân Cờ Đen thương vong hơn 1000 quân) nên sau đó phải rút ra ngoài. Bốn
tháng sau (12/4/1884) Pháp lại tiến đánh Hưng Hóa. Lúc này, ông cũng
đóng quân tại Hưng Hóa (từ Hạ Bi Thanh Thủy đến Sông Bứa), cũng lại án
binh bất động, rồi sau đó cho rút quân vào Đồn Vàng Thanh Sơn, rồi cuối
cùng, hồi kinh để mất tiếp luôn thành Hưng Hoá về tay giặc Pháp...
Khi về kinh, ông phục vụ Đồng Khánh, một vị vua bán nước, đã phái ông
đem quân đi đánh dẹp Cần Vương. Đến cuối năm 1885, ông được Vua Đồng
Khánh phong làm Thái tử Thiếu bảo, Cơ mật viên Đại thần. Và chẳng bao
lâu sau, ông xin về hưu trí, nhưng không được, và mãi đến đời vua Thành Thái, năm 1889, ông mới được nghỉ hưu, về quê sống đến khi mất (1909), thọ 89 tuổi.
Ngày
nay nhiều người không biết, cứ đổ lỗi tại vua ra lệnh triệt binh. Sự
việc không hẳn thế, sử triều Nguyễn chép: " Sơn Bắc quân thứ cùng các
tỉnh Hưng, Tuyên, Thái lần này thất thủ thành trì, chiếu theo quân pháp
đều là có tội: Hoàng Kế Viêm, đã được sung làm Đại tướng quân, hết thảy
được ủy quyền, địa vị xiết bao long trọng. Vậy mà đương sự chẳng biết
toan tính, làm hỏng cuộc to. Nay nên chiếu theo luật xử "Trảm giam hậu"
để bầy tỏ phép nước. - "Đại Nam thực lục chính biên, quyển IV- đệ ngũ kỷ...".
Chúng ta đánh giá: nếu triều đình kiên quyết chống Pháp hơn thì Hoàng Kế Viêm không tệ đến thế!
Khi sinh thời đã có và còn tồn tại đến ngày nay trong dân gian "bia miệng":
- "Nước Nam có bốn anh hùng;
- Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu!"
-
(Câu ca này xuất hiện trong dân gian sau vụ biến kinh thành Huế diễn ra tối ngày 4 rạng sáng 5-7-1885 khi đại thần Tôn Thất Thuyết (đứng đầu phe chủ chiến trong triều đình) hạ lệnh tấn công đánh úp quân Pháp tại Tòa Khâm sứ và đồn Mang Cá. Thất thủ, Tôn Thất Thuyết hộ tống vua Hàm Nghi ra Tân Sở, Quảng Trị.
Bốn nhân vật nhắc tới trong câu ca nói trên, người đầu tiên là Nguyễn Văn Tường. Ban đầu ông này sát cánh với Tôn Thất Thuyết trong phe chủ chiến chống Pháp, sau ra đầu thú với Thống tướng De Courcy và được phục chức phụ chánh. Ông Tường ra tuyên cáo kết tội ông Tôn Thất Thuyết, mang quân đi lùng bắt vua Hàm Nghi và ông Thuyết, bắt giam cha ông Thuyết.
Người thứ hai là Hoàng Kế Viêm, trước cũng chống Pháp trong phe chủ chiến, sau được vua Ðồng Khánh (thân Pháp) phục chức và sai ra Quảng Bình chiêu dụ vua Hàm Nghi.
Người thứ ba là Ông Ích Khiêm, người làng Phong Lệ, nay thuộc phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Khi Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường chuyên quyền, ông khẳng khái, không chịu luồn cúi cấp trên, làm phật ý hai ông này nên bị giam vào ngục.
Người cuối cùng là Tôn Thất Thuyết. Ông này "ngu" là vì đã làm một cuộc nổi dậy theo cảm tính, không chu đáo, quá muộn màng và do đó cũng không hợp thời.)
***
Hà Thành thất
thủ đã kích thích tinh thần đấu tranh của nhân dân Hà Nội nói riêng và nhân dân
Bắc Kỳ nói chung lên cao. Hàng loạt các đội hương dũng, dân nghĩa xuất hiện ở các
địa phương Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh,
Nam Định, Hải Dương.
Hai cánh quân triều đình của Hoàng Tá Viêm và Trương Quang Đản từ hai phía Sơn
Tây và Bắc Ninh cũng đã dần áp sát, tạo thế gọng kìm bao vây Hà Nội.
Vì chưa đủ lực
lượng và nhận chỉ thị từ chính phủ Pháp, Rivie đánh tiếng cho Tự Đức rằng sẽ trả
lại thành Hà Nội, quân Pháp và triều đình cộng tác giữ thành, tiến hành cuộc thương
lượng mới. Tự Đức vội cử phái viên ra Hà Nội. Để lấy lòng giặc Pháp, tạo thuận
lợi cho đàm phán, nhà vua lệnh cho hai cánh quân đang thực hành bao vây Hà Nội
phải rút tản ra. Ngố hơn nữa, còn nhờ cậy triều đình Mãn Thanh đứng ra điều đình
với Pháp.
Đối với Pháp, tỏ
ý trả thành và thương lượng chỉ là kế hoãn binh. Rivie nói trả thành nhưng vẫn đóng
quân trong Cấm Thành, lại đòi phải nhận nước Pháp là “bảo hộ”, phải nhượng Hà Nội
cho Pháp… Phái viên là Trần Đình Túc thấy nó đòi nhiều quá, mà cũng thấy khí thế
dân chúng lên mạnh, đâu cũng có hương dũng, có thể đánh thắng. Ông này bèn trình
với triều đình là một mặt phái người đi trách hỏi Sài Gòn và chính phủ Pháp, một
mặt thì cứ dốc sức ra mà đánh. Nhưng Tự Đức không chịu, vẫn kiểu “để trẫm ở đất
nào”, vẫn “thích” thương lượng. Vua theo ý Pháp, lệnh cho Hoàng Tá Viêm đuổi Lưu
Vĩnh Phúc, bắt các tỉnh phải dẹp bỏ lực lượng hương dũng. Đến nước đó, Hoàng Tá
Viêm không chịu, nhưng cũng lừng khừng, không tích cực chuẩn bị đánh giặc…
Đầu 1883, sau
khi đã nhận đủ viện binh, lập tức Rivie tung quân ra đánh chiếm Hòn Gai (ngày
12-3), vài ngày sau chiếm Quảng Yên. Ngày 27-3 chúng tấn công thành Nam Định. Nam Định là một thành lớn, lúc này
do Tổng đốc Võ Trọng Bình, án sát Hồ Bá Ôn, đề đốc Lê Văn Điếm trấn giữ. Tại Bến
Nứa, nơi xung yếu bên ngoài thành có 300 hương dũng từ Thái Bình sang do Viên Bổn
(Nguyễn Hữu Bản) chỉ huy, phòng thủ. Đầu tiên, thuyền chiến Pháp dàn trên sông
Vị Hoàng bắn đại bác vào thành đồng thời đánh mạnh vào Bến Nứa. Quan tư Carô
(Carreau) hô quân ào ạt xông vào. Quân Viên Bổn bắn chết tươi tên này. Nhưng Viên
Bổn cũng trúng đạn hy sinh. Quân Pháp đông, có súng tốt. Quân hương dũng chẳng
có bao nhiêu súng đạn, dù cố gắng chống cự, rốt cuộc cũng phải thua. Chiếm được
Bến Nứa, quân Pháp quay sang dồn lực lượng công thành. Trận đánh xảy ra ác liệt
từ sáng đến trưa thì giặc tràn được vào thành. Đề đốc Điếm tử trận, quan án Hồ
bị thương, tổng đốc Bình chạy thoát. Quân triều đình ùn ra cửa Tây. Thành Nam Định
thất thủ. Ông cả Hương, anh của Viên Bổn, dẫn đội hương dũng rút về phía Vụ Bản
lập căn cứ, tiếp tục chống Pháp.
Trong khi Rivie
đang đánh phá Bắc Kỳ thì chính phủ Pháp cũng họp bàn kế hoạch nhanh chóng khuất
phục hẳn triều đình Huế nhằm triệt tiêu ý đồ “chia phần” Bắc Kỳ của nhà Thanh;
trước mắt là khẩn trương tăng quân số và ngân sách cho những hoạt động quân sự ở
Bắc Kỳ. Kế hoạch đó được nghị viện Pháp thông qua ngày 15-5-1883.
Chiếm xong Nam Định,
Rivie vội trở về Hà Nội để đối phó với hai cánh quân triều đình đang tạo thành
thế bao vây ngày một chặt. Từ Bắc Ninh, tổng đốc Trương Quang Đản cùng phó kinh
lược Bùi An Niên đã đưa quân đóng ở Gia Lâm, đột kích nhà thờ Hàm Long - nơi Pháp
biến thành căn cứ đóng quân; đêm đêm nã pháo vào Hà Thành (có đêm bắn đến 80 quả
đại bác). Từ Sơn Tây, quân của Hoàng Tá Viêm cũng đã áp sát Hà Nội, lợi dụng đêm
tối bí mật đột nhập Hà Nội, đốt phá các cơ sở địch, dán yết thị thách thức
Rivie ra đánh.
Tình thế của giặc
Pháp ở Hà Thành ngày một nghiêm trọng, buộc Rivie phải tìm cách nới lỏng vòng vây.
Sau khi nhận thêm viện binh từ Hải Phòng, Hạ Long và cả từ Sài Gòn, tổng số quân
Pháp trong thành Hà Nội lên đến 750 tên. Để lại 200 tên giữ thành và Đồn Thủy,
mờ sáng ngày 19-9-1883, Rivie và Vile (De Villers) dẫn 550 quân tiến ra phía Cầu
Giấy.
Được mật báo,
quân ta chủ động bày thế trận ở bên kia Cầu Giấy. Tuyến đầu ở ngay gần cầu, một
đầu do Dương Tử An, đầu kia do Ngô Phong Diễn chỉ huy, khoảng giữa là Lưu Vĩnh
Phúc và Hoàng Trung Thư. Lãnh binh Đinh Công Tráng cũng có mặt trong trận này.
Quân ta bố trí trận địa sau các lũy tre làng Cót và Dịch Vọng. Tổng cộng khoảng
1000 người. Hoàng Tá Viêm cùng đại quân ở phía sau.
Quân Pháp vừa
qua cầu thì quân ta nổ súng mãnh liệt, anh dũng xung phong. Đạn quân ta bắn ra
từ làng Cót, Dịch Vọng rát rạt làm quân Pháp bị cầm chân, không vào được. Cả
hai bên đều thương vong, Vile tử thương, Dương Tử An và Ngô Phong Diễn cũng trúng
đạn. Trong lúc giằng co khó khăn đó thì Lưu Vĩnh Phúc và Hoàng Trung Thư đi vòng,
đánh vào sườn địch. Quân Pháp núng thế, phải tháo lui. Toàn thể quân ta xông lên,
tổng công kích dưới làn đại bác bắn yểm trợ cho cuộc tháo lui của địch. Lòng quả
cảm và kiên quyết tấn công ấy đã làm cho lính Pháp hốt hoảng, rối loạn chen chúc
nhau qua cầu, để lại hàng trăm xác chết, bỏ lại cả đại bác. Trận đánh diễn ra
chỉ khoảng hai tiếng, từ 5 đến 7 giờ sáng nhưng không kém phần ác liệt và kết
quả là thất bại thảm hại của quân Pháp. Trong số quân Pháp bỏ mạng tại trận địa
có 5 sĩ quan, kể cả Rivie, có điều là đầu của Rivie đã bị ai cắt mất tự bao giờ,
đành thành ma không đầu, kể cũng đáng tội láo xược!
Chiến thắng Cầu
Giấy lần thứ hai làm nức lòng quân dân Hà Nội và cả nước. Giặc Pháp ở Hà Nội lâm
vào khủng hoảng, tinh thần suy sụp như chính chúng thú nhận: “Thực là một cuộc
sống kinh khủng đối với một nhúm người từng đêm ngồi chờ đợi kết liễu cuộc đời”. Ở Hòn Gai và Nam Định, quân Pháp đã có lệnh chuẩn
bị rút để tránh nguy cơ bị tiêu diệt. Nếu quân ta thừa thắng đánh dấn mạnh vào
sào huyệt của chúng, rất có thể sẽ giải phóng được Hà Thành, làm thay đổi cục
diện chiến trường có lợi cho ta và nếu có đàm phán thì triều đình cũng có thế mạnh.
Tuy nhiên, triều đình Huế canh cánh một nỗi bạc nhược cùng cực, đã không những
cho ngừng cuộc tấn công phát huy chiến quả mà còn lệnh cánh quân Sơn Tây phải nới
lỏng vòng vây. Tự Đức và đám quần thần chủ hòa có thể là cũng đọc rộng biết nhiều
nhưng có lẽ quá khiếp vía trước đại bác, tàu sắt của thực dân Pháp mà đâm ra cái
sự “ biết nhiều” ấy là “biết nhiều” theo “kiểu” phản động, đã không noi được khí
phách của dân tộc Việt, đã không học được tài thao lược của tổ tiên người Việt để
đến những nhà quân sự bất tài nhất cũng phải nhếch mép cười khinh.
Tin Rivie chết bay về Pháp chỉ làm cho chính
phủ Pháp quyết tâm và khẩn trương hơn trong việc thôn tính Việt Nam,
chứ không như 10 năm trước, khi Gácniê chết. Ngày 17-7-1883, Tự Đức chết, sự phân
hóa phe phái trong nội bộ triều đình như ung nhọt được dịp vỡ ra: nạn bức hại,
chém nhau giữa các quần thần xảy ra như cơm bữa, sự phế truất, lên ngôi cứ xoành
xoạch. Sự kiện này càng làm cho Pháp nhanh chóng thực hiện kế hoạch đã vạch ra:
mở rộng chiến tranh đánh chiếm Bắc Kỳ và đồng thời tiến thẳng vào Huế, buộc triều
đình nhà Nguyễn đầu hàng.
Tăng quân ồ ạt sang Việt Nam,
ngày 15-8-1883, Thực dân Pháp cùng lúc tổ chức hành quân đánh chiếm nhiều nơi ở
Bắc Kỳ nhằm giành lại thế chủ động chiến trường, như: Sơn Tây, Hải Dương, Quảng
Yên. Cuộc hành quân lên Sơn Tây của Thực dân Pháp gồm 2000 lính do Buê (Bouet)
chỉ huy với nhiều tàu chiến và đại bác được huy động. Nhưng chúng đã bị quân dân
ta đánh chặn quyết liệt, chịu nhiều thương vong, buộc phải rút lui…
Giữa tháng 8-1883, đô đốc Pháp là Cuốcbê
(Courbet) kéo một hạm đội với 600 quân đến Cửa Thuận. Ngày 18-8, chúng nã đại bác
tới tấp công phá các pháo đài ở Thuận An, mở đường lên kinh thành Huế. Đêm 20-8,
vua triều Nguyễn lúc này là Hiệp Hòa phái người xuống Thuận An điều đình và gặp
Cao ủy Pháp là Haman (Harmand) cầu hòa. Một bản hiệp ước ghi sẵn 27 điều khoản được
trao cho triều đình Huế và trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ phải trả lời chấp nhận
hay không chấp nhận mà thôi. Cùng đường, ngày 25-8-1883, đại diện triều đình Huế
đành hạ bút ký cái gọi là hiệp ước Haman hay hòa ước Quí Mùi, chính thức thừa
nhận quyền bảo hộ của nước Pháp, mọi vấn đề về chính trị, ngoại giao, kinh tế của
Việt Nam từ nay đều do Pháp quyết định. Thực chất, đó là sự đầu hàng hoàn toàn
của triều đình nhà Nguyễn.
Phong trào chống Pháp của nhân dân Bắc Kỳ
không vì cái hiệp ước ấy mà giảm sút, trái lại, càng sôi sục hơn bao giờ hết.
Khâm sai triều đình mấy lần ra Bắc Kỳ đòi quân dân triệt binh, giải giáp để tuân
thủ hiệp ước nhưng Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản và nhiều quan văn võ không
thi hành, vẫn tiếp tục chiến đấu. Hà Nội vẫn bị quân dân ta bao vây. Hầu hết các
đồn trại giặc ở Bắc Kỳ luôn bị công kích. Tại các địa phương đồng bằng như Hà Nội,
Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương…, xuất hiện các đội nghĩa quân từ 200 đến 500 người,
có khi lên đến hàng ngàn người liên tục tiến đánh các đồng binh, chặn đánh địch
trên sông, phá hủy các kho tàng…
Ngày 11-12, đô đốc Cuốcbê chỉ huy 5500 quân
theo hai đường thủy bộ tiến đánh Sơn Tây. Quân ta chống cự kịch liệt nhưng dần
yếu thế, phải rút lên Hưng Hóa. Trận này, quân Pháp có 400 tên bị thương vong
trong đó có 27 sĩ quan.
Cuối tháng 12-1883, chính phủ Pháp lại
quyết định tăng quân, đại bác và tàu chiến. Lực lượng quân Pháp ở Bắc Kỳ đến lúc
này là 16000 tên. Trong vòng từ đầu tháng 3 đến cuối tháng 5-1884, quân Pháp đánh
chiếm Bắc Ninh (đến đây hai gọng kiềm lớn của quân ta bao vây Hà Nội đã gãy) rồi
lần lượt đánh chiếm Hưng Hóa, Thái Nguyên, Tuyên Quang và những nơi khác. Quân
triều đình tan rã. Một số quan tướng, trong đó có cả Hoàng Tá Viêm và Trương
Quang Đản, “đem thân về với triều đình”. Nhưng cũng có nhiều người ở lại với
phong trào kháng chiến của nhân dân, tiếp tục tổ chức đánh Pháp, như Đinh Công
Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích, Tạ Hiện, đốc Kỳ,
đốc Tít, cai Kinh…
Cuộc đấu tranh vũ trang chống xâm lược Pháp
của nhân dân Bắc Kỳ chắc rằng có tác động tích cực, ít nhiều đến phe chủ chiến
của triều đình Huế, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết.
Cuối năm 1884, trước sự việc 300 quân Pháp
kéo vào Huế lập căn cứ Mang Cá ở góc đông - bắc Hoàng Thành, Tôn Thất Thuyết lấy
danh nghĩa vua triều Nguyễn lúc này là Hàm Nghi, phản đối. Đáp lại, Pháp tăng
thêm số quân đóng ở đó lên hàng ngàn tên. Tôn Thất Thuyết huy động quân ở các địa
phương về Huế, bí mật chuẩn bị đánh. Ngày 27-6-1885, quân Pháp điều 4 đại đội và
2 tàu chiến từ Hải Phòng vào Huế nhằm loại trừ Thuyết cùng phe chủ chiến.
Đêm 4-7-1885, Tôn Thất Thuyết cho xuất quân. Đúng 1 giờ sáng,
quân ta đã nổ súng đánh đồn Mang Cá. Đồn bốc cháy, một số tên thương vong. Sứ
quán Pháp ở bên kia sông Hương cũng bị tấn công, các trại lính bốc cháy dữ dội.
Nhưng, lợi dụng sơ hở, quân Pháp điều quân đánh chiếm thành Huế, đột nhập được
vào Hoàng Thành.
Trận đánh đó của
quân ta thất bại. Tuy nhiên, Tôn Thất Thuyết đã bí mật rước vua Hàm Nghi vượt
thoát ra ngoài thành đến Quảng Trị, lên sơn phòng Tân Sở đã chuẩn bị từ trước
tiếp tục chống Pháp. Năm ngày sau (10-7-1885), Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa
vua Hàm Nghi hạ chiếu “Cần Vương”, thổi một luồng gió mới khuấy động tích cực đến
phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta và hàng ngũ quan lại, sĩ phu
yêu nước.
Thời gian xuất
bôn tuy ngắn ngủi nhưng đã có ảnh hưởng lớn lao đến tâm hồn vua Hàm Nghi. Vào
cuối triều đại nhà Nguyễn có ba ông vua trẻ tuổi ở mức độ khác nhau ít nhiều biểu
hiện được tinh thần tự tôn và lòng yêu nước, đó là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy
Tân.
Khi Pháp bắt được
vua Hàm Nghi, tìm cách dụ dỗ, thuyết phục ông làm vua bù nhìn, ông thẳng thắn
khước từ: “Tôi, thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị
em nữa”. Còn Thành Thái thì mọi dự định cách tân đất nước nước của ông đều bị
Pháp ngăn chặn. Có lần nhà vua đang đi, quân lính định chạy lên trước dẹp một
người dân đang vác tre, vua bảo: “Cứ để cho người ta đi! Mình dân không phải là
dân, vua không là vua, tại sao dẹp người ta?”. Cuối cùng là vua Duy Tân. Nhà
vua tham gia tổ chức khởi nghĩa với hai nhà chí sĩ của Việt Nam Quang Phục Hội
là Trần Cao Vân và Thái Phiên. Việc bị lộ, vua bị Pháp bắt. Toàn quyền Pháp đích
thân gặp, dụ dỗ vua tiếp tục ở lại ngai vàng. Nhà vua khẳng khái trả lời: “Các
ngài muốn buộc tôi phải làm vua nước Nam thì hãy coi tôi là một ông vua đã
trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi thư tín
và chính kiến với chính phủ Pháp”. (Vua cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại,
có câu nói cực hay: “Thà làm dân của một nước tự do, còn hơn là làm vua của một
nước nô lệ”, nhưng tiếc rằng đó chỉ là câu nói thốt ra từ chót lưỡi đầu môi!)
Trong suốt quá
trình xâm lược Việt Nam của Thực dân Pháp, triều đình Huế tồn tại được ở nửa thời
kỳ đầu không phải vì “giỏi” thương thuyết mà vì Pháp không đủ thực lực và tồn tại
được ở nửa thời kỳ sau, khi Pháp đã có đủ thực lực dẹp bỏ lại là vì “ý muốn” thâm
độc của chúng. Nỗi sợ hãi sâu thẳm của bất cứ kẻ xâm lược nào, của bất cứ kẻ tiếm
quyền nào đều là sợ Đại Chúng nổi dậy, lòng người bất phục, phản kháng. Do đó, đối
với một nhân dân bản xứ bất khuất thì hầu như kẻ xâm lược quỉ quyệt nào cũng cố
gắn cho mình nhãn mác Đức Huyền Diệu, cũng tỏ vẻ nhân nghĩa, cũng vỗ ngực về lòng
tốt đi khai hóa văn minh, và vì thế mà một trong những biện pháp thực hiện xâm
lược, cai trị một cách có hiệu quả nhất là phỉnh phờ, mua chuộc, dụ dỗ một bộ
phận người bản xứ để tạo dựng nên một ngụy quyền, ngụy quân bù nhìn, tay sai làm
công cụ trấn áp, bóc lột chính nhân dân xứ họ cho chúng. Muốn thế, tất nhiên kẻ
ngoại bang xâm lược phải nhường lại “chút đỉnh” quyền lợi cho “kẻ bản xứ xâm lược”
ấy. Tuy nhiên, xét cho cùng thì làm như thế hóa ra lại có lợi hơn nhiều đối với
“Mẫu quốc”.
Nhân đây, chúng ta xin nói một chút về từ "ngụy". Theo wikipedia:
" Từ ngụy là tính từ, có ý nghĩa là "sự giả tạo", ví dụ như "ngụy tạo, ngụy biện, ngụy trang, ngụy quân tử, ngụy quyền". Trong chính trị, từ này được dùng để chỉ một triều đại hoặc chính quyền do soán đoạt mà có, hoặc do quân xâm lược
nước ngoài dựng lên để hợp thức hóa sự xâm lược, đô hộ một nước khác.
Về bản chất, chính quyền này không có thực quyền, chỉ là hữu danh vô
thực, chính quyền này bị quân xâm lược nước ngoài khống chế, mang tính chất bất hợp pháp và không chính danh Trong lịch sử các nước Đông Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, từ "ngụy triều", "ngụy quyền" được sử dụng nhiều trong các văn bản lịch sử. Ở phương Tây, thuật ngữ "ngụy quyền" có cách gọi khác là chính quyền tay sai, hoặc Chính phủ bù nhìn, chế độ tay sai, nhà nước con rối ("Puppet State, Puppet Regime"). Theo Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam (năm 2007) thì: "Ngụy
quyền là chính quyền bản xứ do thế lực nước ngoài dựng lên, nuôi dưỡng,
sử dụng làm công cụ xâm lược, nô dịch của họ. Ở Việt Nam, chính quyền Bảo Đại (1949-1954) và chính quyền Sài Gòn (1954-1975) đều là ngụy quyền (do Pháp và Mỹ dựng lên)".
Từ "ngụy" thường được bên cho là chính nghĩa, chính danh, có lẽ phải, được đa số quần chúng ủng hộ, đại diện cho quyền lợi quần chúng gọi, gán cho bên còn lại, bên được các thế lực phản động dựng lên, dung túng một cách phi nghĩa để xâm hại, ăn cướp, thực hiện những điều phi nghĩa, trái với ý nguyện toàn dân, xâm hại đến quyền lợi đất nước, dân tộc. Tuy nhiên, trên chính trường quốc tế có đa phương nhận định, đa chiều đánh giá (như trên hội nghị, các cuộc đàm phán, những cuộc tiếp xúc ngoại giao...), người ta không dùng từ "ngụy"! Tuy nhiên dù trên chính trường quốc tế người ta không dùng từ "ngụy" để gọi tên các tổ chức, chính quyền...được dựng nên một cách khiên cưỡng, giả tạo mà vẫn gọi theo tên tự xưng (như: chính quyền Việt Nam cộng hòa), nhưng phe chính nghĩa vẫn hiểu ngầm rằng đó là tổ chức, chính quyền...ngụy.
Đó là phương thức cai trị cũ rích, có từ ngàn xưa, và đến ngày nay được
dùng phổ biến với nhiều biến tướng. Nhưng vì sao kẻ xâm lược lại thực hiện được
phương thức ấy? Bởi vì sự sống nói chung, trước hết, trên hết và ưu tiên số một
là duy trì sự sống; bởi vì cuộc sống muôn mặt có muôn vàn cách lý giải về thị
phi của cuộc sống; bởi vì có lúc dù biết phải hy sinh vẫn hiên ngang xông trận
nhưng khi đã vô vọng rồi thì vẫn cứ phải chạy, thậm chí là thục mạng để bảo toàn
mạng sống (hầu còn cơ hội xông trận lần sau giành chiến thắng hoặc nhiều khi chỉ
đơn giản là bản năng); bởi vì dù có yêu nước nồng nàn thì trước mắt cũng phải làm
ăn để sống mà giữ lòng yêu nước; bởi vì trong những trường hợp bị kích thích đến
cao độ, có thể một vài người tuẫn tiết hoặc nhiều người tuẫn tiết, nhưng không
thể là cả nước tuẫn tiết. Đức Huyền Diệu dạy rằng: Sự sống vốn dĩ được duy trì
là vì nó có tình yêu cuộc sống; ai không có tình yêu cuộc sống thì sẽ không sống
được. Vì thế phải đặt tình yêu cuộc sống ở vị trí trang trọng, thiêng liêng. Trên
đời này, nếu ai ai cũng biết tôn trọng cuộc sống của mình và cả của người khác
thì đẹp đẽ biết bao nhiêu. Nhưng nếu như thế thì lại chẳng có… loài người! Hiểu
như thế về xã hội, phải chăng mới là biện chứng?
Vả lại mục đích cơ bản của xâm
lược là danh lợi chứ không phải chết chóc. Tiêu diệt cuộc sống bản xứ, biến đất
nước bị xâm lược thành hoang mạc chỉ là biện pháp bất đắc dĩ, cực đoan cuối cùng
và hiếm có, bởi vì làm như thế là đi ngược lại với mục đích danh lợi của cuộc xâm
lược, thậm chí là làm mất luôn cái mục đích ấy. Dù bạc ác đến mấy, bạo tàn đến
mấy, vị kỷ đến mấy, thì kẻ xâm lược cũng không ngu muội đến mức hủy diệt hết cuộc
sống xung quanh - đối tượng mà nó muốn bóc lột. Nhưng như đã nói, vì mục đích xâm
lược là cướp bóc của cải, vơ vét tài nguyên thiên nhiên, nghĩa là chiếm đoạt, lấy
đi cái nguồn sống, cái thành quả lao động phục vụ sự sống của nhân dân bản địa,
cái quyền lợi “được hưởng” của tầng lớp thống trị bản xứ, cho nên bất cứ cuộc xâm
lược nào cũng phải đối diện với sự chống trả, sự phản kháng, sự nổi dậy đấu
tranh của tầng lớp thống trị và nhân dân xứ ấy.
Lúc này, tùy vào thái độ chính
trị của tầng lớp thống trị bản xứ mà ở chừng mực nhất định, quyền lợi của nó sẽ
tạm thời hòa hoãn với quyền lợi Đại Chúng thành quyền lợi thống nhất của đất nước
trước nạn ngoại xâm. Vậy thì, đối với mọi kẻ xâm lược, để thực hiện được mục đích
cơ bản, sẽ xuất hiện mục đích đầu tiên là chinh phục và chinh phục mọi khả năng,
mọi tiềm lực mà nó có và bằng bất kỳ giá nào, miễn đảm bảo thắng lợi, đạt đến mục
đích danh lợi. Chính vì thế mà chiến tranh xảy ra, mà giết chóc tràn lan. Chính
vì thế mà mọi cuộc xâm lược đều bạc ác, man rợ, tham tàn. Chính vì thế mà mọi
cuộc đấu tranh vũ trang nhằm tự vệ, giải phóng, dù cũng giết chóc, tiêu diệt, vẫn
cao thượng, đầy tính chính nghĩa và tiềm tàng nhân đạo.
(Chấm dứt cuộc sống dù
chỉ của một người, với bất cứ lý do gì đều đã là mắc lỗi. Dù mắc lỗi nhưng
trong nhiều trường hợp, giết người để chấm dứt nỗi đau khổ tột cùng của đương sự
lại vô tội. Tự tử là hành động tự xử, có lỗi chứ không có tội và đôi khi trở thành
lẫm liệt, để lại gương sáng cho đời sau, do đó không những vô tội mà còn có công.
Diệt trừ những kẻ giết người và đang tìm cách giết người là vô tội; giết người
một cách vô cớ hoặc với những cớ phi nhân tính, là có tội, là ác; tiêu diệt những
kẻ giết chóc người lương thiện, những kẻ đi gieo rắc tội ác lại là có công. Giết
người là mắc lỗi, điều đó không thể biện minh được, nhưng khi luận công, tội mà
hành động đó được thừa nhận là có công theo quan niệm của Đại Chúng (nghĩa là đã
lựa chọn đúng về tình yêu thương, phù hợp với Đức Huyền Diệu) thì lỗi ấy sẽ lu
mờ đi, thậm chí do “quá tay”, vô tình mà phạm tội thì cũng vẫn được tha thứ và
hành động đó thuộc về chính nghĩa, hơn nữa, nếu công trạng là to lớn thì nó còn
được nhân dân tôn vinh).
Quyền lợi của tập
đoàn thống trị thời quân chủ chuyên chế thường xuyên mâu thuẫn ở mức độ khác
nhau với quyền lợi của Đại Chúng. Vào giai đoạn phản động nhất của chế độ quân
chủ thì mâu thuẫn ấy trở nên tột độ, đối kháng không thể dung hòa được, đòi hỏi
phải có sự đột biến (chính biến, cách mạng…). Đó là quá trình tự phát (và xảy
ra nhanh hay chậm lại chủ yếu là do tự giác) làm bình ổn đời sống xã hội, tương
tự như quá trình chuyển hóa (từ từ hay đột khởi) để thích nghi trong thiên nhiên,
và cả hai quá trình ấy, quan sát ở tầng sâu nhất là biểu hiện, là tuân theo
nguyên lý vận động có xu thế hướng tới cân bằng nội tại của mọi sự vật - hiện
tượng trong tự nhiên. Thác lũ xuất hiện ở trung du là để giải quyết lượng nước
quá dư thừa ở thượng du do mưa bão thái quá ở đầu nguồn gây ra. Thác lũ tàn phá
trung du và gây úng lụt đồng bằng là nhằm giải tỏa “nỗi bức xúc” của chúng. Cuối
cùng là biển cả nhận lại cái phần nước mà nó thiếu hụt, mất đi do bốc hơi lên
trời xanh và đổ xuống đầu nguồn. Quá trình đó có tính chu trình: sự lập lại cân
bằng ở đây sẽ làm mất cân bằng ở kia, sự lập lại cân bằng ở kia sẽ phá vỡ cân bằng
ở nơi khác nữa, và sự lập lại cân bằng ở nơi nào đó trong chuỗi mắt xích sẽ làm
cho nơi ban đầu mất cân bằng, cứ thế lặp đi lặp lại có tính chu kỳ tuân theo cái
chu kỳ xoay vần lớn lao của “trời đất”. Để chống lại lũ lụt (và cả hạn hán) nhằm
bảo vệ giữ gìn quyền lợi sống còn của một miền đất, thì đê điều, kê đập phải “nổi
dậy” để chế ngự nước (chặn nước, giữ nước), thì phải nắn sông, khơi dòng để tiêu
thủy (và dẫn thủy nhập điền)… Công cuộc biến đổi thiên nhiên một cách nhân tạo ấy
(xuất hiện một cảnh quan thiên nhiên mới!) sẽ thành công (chế ngự được lũ lụt rồi
đến hạn hán) nếu nó hợp đạo lý (chọn được chất liệu phù hợp cho công trình bến
vững, tuân thủ nguyên lý vận động hướng tới cân bằng của tự nhiên… , sẽ vinh
quang nếu nó hợp Đức Huyền Diệu (phụng sự đắc lực cho đời sống nhân dân lao động,
cho cộng đồng xã hội)…
Trong thời kỳ
phản động nhất của tập đoàn thống trị quân chủ chuyên chế, để duy trì và bảo vệ
quyền lợi vị kỷ của nó, nó cũng độc ác, tham tàn y hệt như lũ xâm lược, bộ máy đàn
áp của nó cũng y hệt như bộ máy đàn áp của lũ xâm lược, thậm chí là còn tệ hại
hơn. Lúc đó, nếu có ngoại xâm, nó cũng sẽ chiến đấu, nhưng chiến đấu cho quyền
lợi ích kỷ của bản thân nó chứ không phải cho quyền lợi nhân dân, quyền lợi đất
nước (vì đã quá phản động về tư tưởng rồi nên không thể chuyển biến để về với lòng
dân, cùng Đại chúng làm nên cuộc khởi nghĩa toàn dân!). Trường hợp của Hoàng đế
Napôlêông, dù có khác, nhưng cũng là thí dụ điển hình của sự “không thể trở về”.
Trong chiến dịch nước Pháp có người hỏi sao không phát động cuộc chiến toàn dân
chống quân Liên minh xâm lược, Napôlêông đã cho rằng đó chỉ là “ảo tưởng… vì tôi
đã thủ tiêu Cách mạng”. Sau trận thua Oatéclô, nhân dân Pháp muốn ông ở lại cùng
họ chiến đấu nhưng ông đã thờ ơ với cuộc kháng chiến toàn dân vì như có lần ông
nói: “Chỉ nghĩ đến điều đó thôi đã là không chịu đựng nổi rồi”.
Tuy nhiên, khi
cái tập đoàn quân chủ phản động nói trên phải đối đầu với kẻ xâm lược mạnh hơn
nó, nó sẽ dễ dàng nhượng bộ, thỏa hiệp, và khi kẻ xâm lược hứa hẹn cho nó được
sống với chút ít quyền lợi thì nó sẵn sàng bán nước, đầu hàng, trở thành lực lượng
tay sai, đi đầu trong cuộc đàn áp dân chúng nổi dậy - cái công việc mà nó đã
quen làm trước đây, lúc đất nước chưa bị xâm lược.
Có lẽ đã thấu tỏ tình hình và
run sợ trước viễn cảnh xảy ra cuộc kháng chiến toàn dân theo kiểu Tây Ban Nha dưới
thời Napôlêông đệ nhất mà Ferry, thủ tướng Pháp thời đó, đã nói: “Khôn ngoan hơn
là chỉ nên nghĩ đến một cuộc bảo hộ. Muốn giúp cho công cuộc kinh doanh của nước
Pháp ở Đông Dương đạt hiệu quả tốt thì nước An Nam không thể là một cái hư không
được”. Đó chính là cơ sở cho hiệp ước Patơnốt (Patenôtre) ra đời (6-6-1884).
Nước mất nhà
tan thì nhân dân vẫn phải sống, vẫn phải làm để kiếm miếng ăn cái mặc dù bị bóc
lột, như đã từng phải sống cực khổ trong sự đày đọa hà khắc dưới thời quân chủ
phản động tăm tối.
Nói cho thật công
bằng, nếu sự vơ vét, bóc lột sức lao động của Đại Chúng là như nhau thì giữa
hai chế độ thực dân - tư bản và phong kiến - quân chủ, chế độ thực dân vẫn ưu
việt hơn. Bởi vì dù sao đi nữa, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của đương thời
do Cách mạng tư sản châu Âu mang lại, tiếp thu những thành quả khoa học - kỹ
thuật tiên tiến của châu Âu so với đương thời ở khu vực các nước thuộc địa, thì
dưới chế độ thực dân vẫn “dễ thở” hơn, phóng khoáng hơn, dân trí được mở mang hơn.
Và đó chính là công lao (nếu có) của chế độ thực dân (so với chế độ phong kiến)
đối với các nước thuộc địa (châu Á), dù là do vô tình, dù là vì mục đích bóc lột,
dù là phiến diện. Nước Nhật Bản phong kiến - quân chủ đã thoát được cơn “mưa móc”
này vì đã kịp chuyển biến một cách thức thời và họ có quyền tự hào vì điều đó.
Nói đến đây, chúng ta lại ngậm ngùi nhớ đến vua Quang Trung!...
Các nhà lý luận
bênh vực cho chủ nghĩa thực dân đã vin vào cái công lao nhỏ nhoi đó để rùm
beng, thổi phồng lên thành công lao to lớn với nhãn mác là “Khai hóa văn minh”.
Xin nhớ cho: trong thời kỳ đầu hình thành và phát triển nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa, ưu tiên hàng đầu, trở thành vấn đề bức thiết là nhanh chóng tích lũy tư
bản và chiếm lĩnh, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa (hàng hóa làm ra mà không
tiêu thụ được thì tích lũy tư bản cũng vô nghĩa!). Quá trình đó làm nảy sinh cạnh
tranh ngày càng gay gắt và cùng với cạnh tranh, chúng hôn phối với nhau đẻ ra
chủ nghĩa thực dân. Chủ nghĩa thực dân làm “nở rộ” các cuộc viễn chinh xâm lược
nhằm vơ vét của cải và xây dựng thị trường tiêu thụ ở “xứ người”. Do đó, đi liền
với thực dân là nhẫn tâm, là lòng tham vô độ lượng và là vô tình mà thêm được
chút công lao không muốn có đó.
Ngày nay, “thế
sự” đã biến chuyển, không cần đến sự “khai hóa” đó, tất cả các nước, nếu có ý
thức, đều có thể hưởng thụ được những kiến thức tiên tiến của nhân loại.
Quay lại vấn đề
trọng tâm, vì những lẽ đã trình bày phía trên, chúng ta cho rằng dưới thời thực
dân Pháp cai trị, trong bộ máy chính quyền tay sai, chỉ có một bộ phận nhỏ, chủ
yếu là những thành phần gọi là “chóp bu”, đã gắn chặt quyền lợi của chúng với
quyền lợi của thực dân, đã vì thực dân mà ra tay đàn áp các cuộc nổi dậy chống
Pháp của Đại Chúng, là có lỗi, có tội nặng với dân với nước. Đại đa số còn lại
là vô tội hoặc nếu có tội thì cũng có thể tùy mức độ mà tha thứ được…
Những “xú danh”
(từ dùng của Vương Hồng Sển) lứa đầu tiên cúc cung làm tay sai cho thực dân Pháp,
được Pháp tưởng thưởng, cho giàu sang phú quí, nhưng mắc tội nặng nề với dân với
nước, tiêu biểu là: Tôn Thọ Tường, Huỳng Công Tấn, Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương,
Nguyễn Hữu Độ, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Duy Hàn…
Trong thời gian
quân xâm lược Pháp đánh chiếm nước ta, có một hiện tượng rất ngược đời là một bộ
phận giáo dân (theo Đạo Chúa) người Việt đã ủng hộ, tiếp tế lương thực, vẽ đường
mách lối, thậm chí là cùng quân viễn chinh Pháp đánh phá phong trào kháng chiến
cứu nước của quân dân ta. Điều này làm dấy lên sự phẫn nộ của đại bộ phận lương
dân (không thờ Chúa), gây ra nhiều cảnh nồi da xáo thịt tương tàn, làm cho mối
hận thù lương - giáo đầy đau xót phát sinh, tồn tại dai dẳng và di căn đến mãi
về sau.
Muốn hiểu được
nguyên nhân sâu xa cũng như trực tiếp của hiện tượng nói trên, thiết nghĩ chỉ cần
đọc tác phẩm “Thiên Chúa và Hoàng Đế” của linh mục Trần Tam Tỉnh cũng đủ. Dưới đây,
chúng ta xin lược trích một vài đoạn trong tác phẩm của vị linh mục có tâm hồn
trung thực, trong sáng này, người đã từng thốt lên: “Thật đau lòng cho một sử
gia người Việt công giáo, khi phải nhắc lại những năm tháng ấy”, để phần nào thấy
được vấn đề xót xa trên:
“Năm 1492,
Krixtốp Côlông (Christophe Colomb) khám phá ra những vùng đất mới mà ông nghĩ là
Ấn Độ (Châu Mỹ - NV). Một nửa thế kỷ trước đó, thương thuyền Bồ Đào Nha cũng đã
chạy dọc theo bờ biển phía tây Châu Phi. Và ít năm sau, năm 1497, Vaxcô đơ Gama,
người Bồ Đào Nha đã phát hiện đúng con đường sang Ấn Độ.
Ngày 4-5-1493, qua
sắc chỉ “Inter cactera” (Giữa những điều khác), Giáo hoàng Alếchxăng VI giao
quyền chinh phục các vùng đất kể trên, mà các dân tộc phương Tây chưa từng biết,
cho các triều đình nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Tây Ban Nha có quyền đi chiếm
tất cả các đất đai gặp được ở 100 dặm kể từ quần đảo Axe (Acores), còn Bồ Đào
Nha là tất cả các nước ở mạn Đông đường ranh đó (quần đảo Axe nằm ở mạn giữa, cắt
đôi Đại Tây Dương).
Tuy nhiên, quyền
lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ “Giáo hoàng Rôma”
(Romanus Pontifex) do Đức Nicola V ra ngày 8-1-1454. Theo quyền lực Chúa ban và
quyền của Tòa thánh, Đức Giáo Hoàng ban cho triều đình Lixbon (Bồ Đào Nha): “Toàn
quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các
quân Xarađanh (Sarrsins - tức người Ả rập); các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác
của Giáo hội, gặp ở bất cứ nơi nào; được toàn quyền chiếm cứ tất cả vương quốc,
lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất
cả của nổi của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn”.
Nước Tây Ban
Nha, sau khi được Giáo Hoàng chúc lành, đã tung ra một đoàn chiến thuyền hùng hậu
và đạo quân kỵ binh hung tợn, lên đường đánh chiếm châu Mỹ và chỉ sau một thời
gian ngắn đã lập nên một đế quốc bao la. Về phía mình, người Bồ Đào Nha cũng
thu được những kết quả lừng danh ngay bước đầu. Ngày 17-2-1511, Anbuykec
(Alphonse d’ Albuguesque) chiếm thành Goa, một
đô thị thuộc loại quan trọng nhất Ấn Độ… Năm sau, Anbuykee chiếm Malắcca, thị
trấn của tất cả các hải đảo vùng Nam Cực… Nửa thế kỷ sau, cờ Bồ Đào
Nha bay phấp phới trên Macao,
ngay bên hông Trung Hoa, cho phép họ buôn bán với các hải khẩu Trung Quốc và Nhật
Bản.
(…) Chính từ
Goa và Macao, những nhà truyền giáo đầu tiên đã
tìm đến Việt Nam…
(…)
(…) Cố đạo Alécxăng
đờ Rốt đã trình về Roma năm 1650 một báo cáo về sự tiến triển của việc truyền
giáo tại Việt Nam và đề xuất một phương án tách việc truyền giáo khỏi quyền hành
Bồ Đào Nha…
Lực lượng Bồ Đào
Nha bắt đầu suy yếu. Từ đầu thế kỷ XVII, người Hà Lan, theo đạo Tin Lành, chẳng
quan tâm đến việc Giáo Hoàng phạt vạ tuyệt thông, đã lên đường mạo hiểm sang Ấn
Độ Dương, vùng biển Trung Quốc và chẳng mấy chốc đã bắt đầu cướp của vương quốc
Vạn An đó; họ lên đảo Java lập thành phố Batavia, vượt xa Goa về sự giàu có, thịnh
vượng. Ngày 12-1-1641, họ chiếm Malắcca và thế là phá vỡ thế độc quyền buôn bán
hương liệu mà Lixbon từng nắm giữ suốt một thế kỷ qua.
Rôma quay nhìn
sang nước Pháp.
Năm 1650, hai
giám mục Pháp được phái sang coi sóc địa phận truyền giáo tại Việt Nam. Đó
là giám mục Panluy (Pallu) và giám mục Lâmbe dơ la Mốt (Lambert de la Motte).
Những điều Rôma căn dặn họ thật là khôn ngoan và đúng với Tin Mừng, rằng các
linh mục khi coi sóc tín hữu phải căn cứ vào bốn điều nền tảng sau: đào tạo
linh mục và cả giám mục người bản xứ; vâng lệnh của Rôma; không nhúng vào lĩnh
vực chính trị; tôn trọng các nền văn minh và phong tục địa phương. Rằng các ngài
hãy cẩn thận giữ mình, đừng ra sức bảo các dân tộc ấy bỏ các nghi lễ, tập tục,
phong cách của họ, miễn là các điều đó không ngang nhiên vượt với đạo thánh và
phong hóa tốt, bởi vì có gì vô lý hơn là việc đưa nước Pháp, Tây Ban Nha hay nước
Ý, hay một phần đất nào của châu Âu vào nhà người Trung Quốc? Đó không phải là
cái các ngài phải đem vào. Hãy đem Đức Tin vào mà Đức Tin thì không phủ nhận, cũng
không gây tổn thương đến các nghi lễ và phong tục địa phương, miễn là chúng không
phải chuyện xấu xa, trái lại, Đức Tin muốn các nghi lễ và các phong tục đó được
bảo tồn. Cùng lúc Rôma chỉ thị cho các giám mục truyền giáo chỉ lo việc các
linh hồn thôi và hãy quên đi những lợi ích riêng tư của chính nước họ.
Tiếc thay, những
lời khuyên nhủ đầy tinh thần Tin Mừng và trong sáng như thế đã bị bỏ lơ quá sớm.
Giám mục Panluy đã nhanh chóng quan hệ với Công ty Ấn Độ mà nước Pháp mới thiết
lập nhằm cạnh tranh với Công ty Đông Ấn của Hà Lan. Ông trở thành cố vấn và báo
cáo viên của nó… Ông khuyến khích công ty của nhà Vua tiến hành thực hiện “phương
án quang vinh đưa dân mọi rợ trở lại đạo thánh và qua đó mà thánh hóa việc thương
mại của mình, để vừa mở mang Giáo hội, vừa làm giàu cho nước Pháp”.
(…)
Dù muốn dù không,
Giáo hội Việt Nam,
ngay từ những bước sơ khai đã dính líu vào các chuyện thế gian này rồi, mà chẳng
bao lâu đã ảnh hưởng đến việc truyền giáo.
(…)
Người Việt Nam,
vừa là Phật tử vừa theo đức Khổng, vẫn có thể chấp nhận Lão Giáo, một học thuyết
triết lý đối nghịch với Khổng Giáo, nhưng lại cũng bổ sung cho nó…
Nhưng mặc dù có
sự pha trộn tôn giáo, nghi lễ và tín ngưỡng khác nhau như thế, người Việt Nam lấy
làm trọng nhất sự thờ cúng tổ tiên mà họ coi như là đặc tính riêng của đời sống
tôn giáo. Việc thờ cúng này sát nhập một cách tài tình, nhuần nhuyễn vào cả ba
tôn giáo đã du nhập từ ngoài vào. Nó lan truyền thành một thứ đạo lý không ghi
thành sách nhưng rất phổ biến, khiến toàn dân chấp nhận nó một cách tự nhiên. Cơ
sở uyên thâm của đạo lý này nằm trong hệ thống xã hội và kinh tế truyền thống,
trong đó, gia đình không những là sợi dây tình cảm mà còn là hạt nhân của đời sống,
là thành lũy tạo sức mạnh cho mỗi cá nhân, là sợi chỉ thiêng liêng nối kết mỗi
người với thế giới bên kia không một ai am tường.
Người Việt Nam có
thể đón nhận dễ dàng đạo Kitô như họ đã chấp nhận ba tôn giáo ngoại lai kia. Nhưng
cái khó không thể vượt qua đối với nhiều người là sự lên án việc thờ cúng ông bà.
Hồi đầu, các linh mục dòng Tên cho phép tín hữu phục lạy trước bàn thờ tổ tiên,
nhưng các cố thừa sai Pari, các tu sĩ dòng Đa Minh lại chống đối và cấm đoán điều
đó. Cuối cùng, năm 1715, đức Clêmen (Clément) XI đã kể việc thờ cúng đó là hoàn
toàn dối trá và ngược với Kitô Giáo.
Từ đó, có thể
hiểu tại sao người Việt Nam lại tỏ ra đối nghịch với cái đạo bất lương, dám từ
chối lòng hiếu thảo đối với ông bà và từ đó, cũng muốn xóa bỏ tất cả những mối
quan hệ của một dân tộc với quá khứ của mình. Người tín hữu Kitô bị coi là những
kẻ phản bội gia tộc, đồng thời là phản bội quê hương. Bởi quê hương người Việt Nam cũng
đặt nền tảng nơi đạo hiếu, vốn làm cho toàn thể công dân nên anh em như cùng một
gia tộc…
(…)
Tình hình thực
tế đó bị người lương Việt Nam coi là dấu hiệu vong thân của người Kitô giáo, một
sự vong thân không thể dung thứ trong thời bình, mà lại nguy hiểm khi hạm đội nước
ngoài đến đe dọa xứ sở.
Sự sống của giáo
hội vì thế đã bị xáo trộn bởi các cuộc “bách hại”. Đó là những hiện tượng không
ăn khớp với bản tính hết sức bao dung của người dân Việt Nam, xét cả về mặt tôn giáo…
(…)
Nhờ Giám mục Bá
Đa Lộc, một hiệp ước đã được kí kết ngày 28-11-1787, theo đó vua Pháp hứa viện
trợ quân sự cho Nguyễn Ánh và ông này đã đáp lễ lại bằng việc nhượng cho nước
Pháp Côn Đảo và cửa Hội An.
(…)
Các khó khăn chính
trị nội bộ đã không cho phép nước Pháp gửi lực lượng quân sự qua như đã hứa
trong hiệp ước Véc xây. Nhưng Bá Đa Lộc không nản lòng. Với tài chính của Hội
Truyền giáo Pari, với sự ủng hộ tiền bạc của bạn bè và với các phương tiện của
bản thân, giám mục đã mua tàu, trang bị khí giới và thuê một số sĩ quan Pháp.
Như vậy, ông vô tình giúp được Nguyễn Ánh đè bẹp Tây Sơn sau một ít năm chinh
chiến.
Được tin giám mục
trở lại có sĩ quan Pháp tháp tùng, anh em Tây Sơn rất tức giận. Người ta đọc được
lời thổ lộ sau đây của một nhà viết sử truyền giáo: “Các quan Tây Sơn càng tỏ
ra gay gắt với Kitô Giáo từ khi giám mục thành Adran trở lại. Sự trở lại này làm
cho họ ngờ vực người Kitô Giáo và nhất là các vị thừa sai khi cả hai đều ra sức
hỗ trợ cho Nguyễn Ánh (mà họ cho là vua hợp pháp, còn Tây Sơn thì bị họ gán cho
tội phản loạn) được trở lại ngai vàng vua cha. Sự bách hại vốn chưa hề dứt từ
30 năm qua, đã tái phát một cách dữ dằn hơn vào năm 1798”.
Thực ra, đây chẳng
phải chỉ có vấn đề ngờ vực, mà là một điều chắc chắn. Vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn
đã có lần chặn bắt được một bức thư Nguyễn Ánh gửi cho giám mục Labalet
(Labarlette), xin đức cha tổ chức một đạo quân gồm người tín đồ Kitô Giáo tại
chỗ, hầu hỗ trợ cho lực lượng quân Pháp chỉ huy đánh từ ngoài vào.
(…)
Đằng khác, các
vua nhà Nguyễn đã mang sẵn nỗi lo âu về chủ nghĩa đế quốc phương Tây, đang ngày
càng đe dọa nghiêm trọng hơn… Tuy nhiên các nỗi lo âu ấy không phải là cớ chính
đáng cho các cuộc bách hại thời Minh Mạng (1833 và 1838), mà theo các sắc chỉ
nhà vua, “đạo của bọn Hà Lan” là một tà đạo, một đạo bất phân, cấm đoán việc thờ
cúng tổ tiên, một thứ đạo gieo hỗn loạn vào phong tục và trật tự nước nhà…
Có thể tránh được
các vụ đổ máu này, nếu đạo Kitô Giáo khi đến Việt Nam, biết tỏ ra bao dung hơn,
cởi mở hơn, biết bám rễ sâu hơn vào văn hóa xứ sở và nếu các vua nhà Nguyễn biết
tỏ ra thông minh và khôn khéo hơn. Trong các cơn bão táp này, các cố Tây đã không
khôn ngoan, đi cầu cứu Pháp, vốn là một đế quốc đang chực sẵn cơ hội tốt hòng xâm
chiếm Việt Nam,
vin cớ là để bảo vệ tự do tôn giáo.
(…)
(…) Lợi dụng vụ
tàn sát một vài vị thừa sai Pháp ở Việt Nam, cánh hữu tư sản công giáo Pháp đã
làm áp lực để chính quyền Đệ nhị cộng hòa khai thác các điều vụng về của nhà
vua Việt Nam, hầu đánh chiếm nước này. Ơgien Vơiô (Eugène Veullpt) đã viết:
“Quyền lợi con người mà Châu Âu Kitô Giáo phải bắt buộc các dân mọi rợ tôn trọng
và việc quan tâm bảo vệ danh dự của chúng ta, đòi chúng ta phải trả thù các vụ
xâm phạm đến đồng bào chúng ta tại đất An Nam”.
Hai nhân vật
quan trọng trong việc cổ vũ Pháp xâm lăng Việt Nam là giám mục Pelơ Ranh
(Pelelrin) cai quản địa phận Huế và linh mục Húc, cựu thừa sai truyền giáo. Giám
mục Pelơranh đã khẳng định trước mặt triều đình Napôlêông III rằng: “Nếu quân
Pháp đánh chiếm nước này thì giáo dân bản xứ sẽ tiếp đón họ như những kẻ cứu
tinh”. Linh mục Húc cũng viết thư cho vua rằng: “Chiếm lấy Nam Kỳ là việc dễ dàng
nhất trần gian, nó sẽ đem lại những kết quả vô cùng to lớn. Nước Pháp hiện có tại
biển Trung Quốc những lực lượng dư sức để tiến hành công việc đó. Dân bản xứ thì
hiền lành, siêng năng, rất dễ đón nhận đức tin Kitô Giáo và đang rên xiết dưới ách
tàn bạo ghê tởm, họ sẽ đón tiếp chúng ta như đón những người giải phóng, những
vị ân nhân. Chỉ cần ít lâu thôi là đem họ theo đạo được hết và làm cho họ nhiệt
tình yêu mến nước Pháp”.
(…)
Trên chiến hạm
Nêmêdis (Némésin), phó đô đốc Giơnuy (Rigault de Genouilly) có giám mục Pelơranh
bên cạnh, đảm bảo việc giao liên với các thừa sai và tín đồ Kitô, vốn được chỉ
thị phải cung cấp cho phó đô đốc các tin tình báo và vị trí các quân đội Việt
Nam và các vụ chuyển quân… Do thiếu kết hợp các tin tình báo và chiến thuật, quân
Pháp đã bắn phá cảng Turan (Đà Nẵng)… nhưng rồi do dự không muốn tiến về kinh đô
Huế…
Bỏ lại Turan một
đơn vị đóng chốt, Giơnuy xuống đánh chiếm Sài gòn (Gia Định) và các tỉnh miền Đông
Nam Kỳ. Sài Gòn thất thủ nhưng cuộc kháng chiến được tổ chức tiếp tục xung
quanh các vùng đất bị chiếm đóng, tạo vòng vây phong tỏa tiếp viện. Binh lính
Pháp có thể chết đói tại đây nếu giám mục Lơphevơrơ (Lefèvre, đã từng bị triều đình
Huế hai lần kết án tử hình, nhờ có chiến hạm Pháp gây áp lực nên thoát - NV) không
kịp thời vận động giáo dân tiếp viện.
(…)
Trong việc tổ
chức cai trị các vùng chiếm đóng, quân Pháp chiêu mộ người hợp tác, nhưng theo
lời phó đô đốc Rơnê (Rieuneir), chúng chỉ gặp được “tín đồ Kitô hoặc những tên
vô lại”. Bốn ngàn giáo dân đến quây quần xung quanh bọn xâm lược. Thật dễ đoán
biết sự tức giận, phẫn nộ không những của triều đình Huế mà cả trong dân chúng
người lương nổi lên cao độ chừng nào. Các sắc chỉ cấm đạo công bố giữa năm 1859
và 1861 là gay gắt và nghiêm khắc nhất từ trước tới nay.
Sắc chỉ
17-1-1860 truyền phân tán người Công giáo tới sống xen giữa các làng người lương,
để mỗi tín đồ phải có 5 đồng bào lương kiểm soát. Tất cả các làng và nơi thờ tự
của Công giáo phải triệt hạ. Tài sản của người Công giáo phải bị tịch thu và
sau hết phải khắc chữ Tà Đạo lên má các tín đồ.
Sau hòa ước
1862, Tự Đức công bố ân xá cả nước… lệnh tha tất cả các tín hữu Kitô đang bị tù,
cho những người bị phân tán trước đó được trờ về làng cũ, được nhận lại tài sản
của họ, nhà cửa, ruộng đất, còn được miễn thuế và được sống yên thân.
Tại Nam Kỳ, trừ
tín hữu Kitô và những tên xu thời, nhân dân các vùng bị chiếm đóng đều tổ chức
kháng chiến chống Pháp, dưới sự lãnh đạo của những nhà chí sĩ yêu nước…
(…) Và bởi xác định
rằng người Công giáo đồng lõa với bọn xâm lược, họ (những người kháng chiến -
NV) cũng coi luôn tín đồ là kẻ thù của mình.
(…)
(…) Theo tài liệu
của chính quyền Nam Kỳ, mỗi lần quân đội Việt Nam thất bại thì dân chúng người
lương lại thêm căm thù dân Công giáo: “nhiều cuộc tàn sát, đốt làng đã theo sau
vụ Nam Định bị quân Pháp chiếm đánh ngày 9-12-1873, tại các tỉnh Nam Định, Ninh
Bình, Hà Nội, những cảnh đó trở nên rất tàn bạo…”
Chẳng cần nhấn
mạnh liên hệ nhân quả ở đây, tài liệu nói trên kể thêm rằng: “Cơn bắt đạo xảy
ra sau sự rút lui của chúng tôi khỏi Bắc Kỳ đã không hoành hành trong các địa
phận thuộc dòng Đaminh Tây Ban Nha cai quản. Các thừa sai của họ vẫn được tự do
tương đối và đã được đối xử khoan hồng. Giám mục Côlôme (Colomet) đã được vua Tự
Đức cho cấp đất xây nhà thờ và nhiều huân chương, vàng bạc tưởng thưởng họ, vì đã
đóng góp tốt cho việc giữ gìn trị an trong các tỉnh mạn đông sông Cái (tức sông
Hồng)”
(…)
(…) Nhằm bình định
cứ điểm này (chỉ căn cứ Ba Đình của cuộc khởi nghĩa do Đinh Công Tráng lãnh đạo
- NV), quân Pháp đã gửi tới một lực lượng gồm 2250 tên tính, 25 đại bác, 4 pháo
hạm, dưới quyền chỉ huy của trung tá Mátsanhgie (Matsinger). Cuộc tiến công ngày
18-12-1886 bị đẩy lùi. Quân Pháp phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới.
May cho chúng, có một sĩ quan trẻ, đại úy Giôphơrơ (Joffoe), rồi đây sẽ là thống
chế Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhất, nghĩ tới việc nhờ linh mục Trần Lục,
quản xứ Phát Diệm là Phó vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh mục này đã nhận phép lành của giám mục Duydinê, rồi
tiếp viện cho quân Pháp với 5000 giáo dân, và Ba Đình thất thủ.
(…) “Sau cuộc hành
quân mệt mỏi rã rời, quân lính của ta kiệt sức vì thiếu ăn, mà tiến vào một làng
người lương thì thường chỉ được ăn đạn. Nhưng nếu gặp được một làng người giáo
thì trẻ con chạy ra đón đường và kêu ầm lên: “Công giáo, Công giáo đây!” để quân
chúng ta biết rằng chẳng có gì phải sợ ở đó, rồi dân làng đem chuối, trứng, gà
choai ra chiêu đãi. Sự khác biệt thật rõ ràng và là điều đáng ghi nhớ chứ nhỉ?”.
Những dòng đó chẳng phải do một bàn tay Cộng sản ghi lại, mà là do tu sĩ dòng Tên
đã say sưa thích thú về thái độ của người có đạo Kitô lúc đó nghĩ rằng bổn phận
của họ phải hợp tác (với Pháp) vì mình là người Công giáo.
Cụ Phan Bội Châu,
một chí sĩ yêu nước, đã gửi cho họ những lời tâm huyết trong cuốn “Việt Nam vong quốc sử”, xuất bản năm 1905 như sau: “Có
một hạng người mà tổ tiên là Việt Nam, nhưng đã cùng vợ con trở thành
tín đồ Kitô. Này, hãy nghe tôi nói. Chúng ta đều sinh ra trong cùng một xứ sở,
chúng ta cùng sống với nhau dưới một gầm trời, cùng ăn một thứ cơm gạo… bởi thế,
chúng ta phải liên kết với nhau hầu bảo vệ giống nòi, hơn là quì gối trước mặt
quân thù. Sau cái chết của các người, có thể các người lên Thiên đường, nhưng bây
giờ đây các người phải cầu nguyện cho hòa bình.Cuộc sống của các người tại ngục
tù trần gian này thật là khốn khổ, tại sao các người lại dửng dưng được? Quả thực,
mặc dù là Kitô hữu, các người thảy là người dân Việt Nam. Các người đừng đi theo quân Pháp,
đừng giúp chúng nó làm hại Tổ Quốc chúng ta. Như vậy, các người sẽ lập được công
đức trung thành với Chúa, môn đồ của đấng Kitô cứu thế đồng thời thật là đồng bào
Việt Nam”.
Qua câu chuyện
của linh mục Trần Tam Tỉnh thì Đạo Chúa đã có những vết nhơ trong lịch sử tồn tại
của nó và nguyên nhân giềng mối của nhiều nguyên nhân dẫn đến bất đồng lương -
giáo trong quần chúng Việt Nam chính là tâm hồn vẩn đục của số đông cố đạo Pháp
có mặt ở nước ta thời kỳ đầu, đã manh tâm làm nhiều điều sai ý Chúa, biến những
con chiên ngoan đạo bản xứ thành những tội đồ nắm trong tay không phải thập giá
mà là lưỡi gươm, tưởng phụng sự Đức Chúa mà hóa ra là Hoàng Đế của quân xâm lược.
Tội lỗi tày trời của những cố đạo đó đối với dân tộc Việt Nam là không thể chối cãi.
Kể tiếp: tiêu
biểu cho phong trào hưởng ứng Cần Vương là cuộc kháng chiến 10 năm (1886 - 1895)
của Phan Đình Phùng (khởi nghĩa Hương Khê), cuộc kháng chiến 8 năm (1883 - 1891)
của Nguyễn Thiện Thuật (khởi nghĩa Bãi Sậy), cuộc kháng chiến của Đinh Công Tráng
(khởi nghĩa Ba Đình) và cuộc kháng chiến của Hoàng Hoa Thám (khởi nghĩa Yên Thế).
Chúng ta sẽ lần lượt kể về những cuộc khởi nghĩa ấy để ôn lại một giai đoạn thật bất khuất, hào hùng mà cũng đầy bi thương của ông cha ta, của dân tộc ta.
1-Khởi nghĩa Bãi Sậy:
Khởi nghĩa Bãi Sậy là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX của nhân dân Đại Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra từ năm 1883 và kéo dài đến năm 1892 mới tan rã. Bãi Sậy là một trong những trung tâm chống Pháp lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX.
Trong thời kỳ đầu (1883 - 1885), phong trào do Đinh Gia Quế lãnh đạo, các địa bàn hoạt động lúc này còn giới hạn ở vùng Bãi Sậy (bao gồm địa phận các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mỹ thuộc tỉnh Hưng Yên). Từ năm 1885 trở đi, vai trò lãnh đạo thuộc về Nguyễn Thiện Thuật. Ông là thủ lĩnh cao nhất của nghĩa quân Bãi Sậy. Bố chánh Thái Nguyên Vũ Giác là người giúp đỡ rất nhiều cho cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Sau khi đánh chiếm Nam Kỳ, người Pháp tiến quân ra Bắc và tiếp tục đánh chiếm được Bắc Kỳ của Việt Nam. Nhà Nguyễn hạ lệnh các cánh quân chống Pháp hạ vũ khí, Nguyễn Thiện Thuật kháng lệnh triều đình, quyết tâm đánh Pháp. Tháng 8 - 1883, Pháp chiếm Hải Dương, Nguyễn Thiện Thuật đã mộ quân, mưu đánh chiếm tỉnh lị, việc không thành, ông kéo quân lên phối hợp với Hoàng Tá Viêm chống Pháp ở Sơn Tây. Ông về Đông Triều mộ quân, hợp lực với tướng quân Cờ Đen là Lưu Vĩnh Phúc chống Pháp. Ông liên lạc với Đinh Gia Quế
phát triển lực lượng ở vùng đồng bằng, tập hợp được nhiều tướng như
Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Thiện Giang (Lãnh Giang), Đốc Tít, Đốc Cọp, Đốc
Sung, Đề Ban, Đội Văn, Đề Tính, bà Đốc Huệ và các nhà nho Ngô Quang Huy,
Nguyễn Hữu Đức tham gia.
Cuối năm 1883, sau khi ký Hiệp ước Harmand, nhà Nguyễn ra lệnh bãi binh đợi chỉ dụ. Nguyễn Thiện Thuật không nghe theo, mang quân lên Tuyên Quang cùng với Nguyễn Quang Bích giữ thành. Sau khi các thành Hưng Hóa và Lạng Sơn thất thủ, Nguyễn Thiện Thuật chạy sang Long Châu (Trung Quốc) chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến đấu.
Sau cuộc tấn công ở kinh thành Huế đã thất bại, Tôn Thất Thuyết mang vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị). Tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương. Nguyễn Thiện Thuật trở về nước, thành lập căn cứ địa Bãi Sậy do Đổng Quế trao lại. Vua Hàm Nghi
phong cho ông làm Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần, gia trấn Trung
tướng quân, nên nhân dân còn gọi ông là quan Hiệp thống. Dưới sự lãnh
đạo của Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Bãi Sậy lan ra khắp tỉnh Hưng Yên và một số tỉnh lân cận.
Tháng 9 năm 1885 nghĩa quân vượt sông Hồng sang đánh phá các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa. Đêm 28 rạng ngày 29 tháng 9, quân Bãi Sậy tấn công thành Hải Dương, quân Pháp phải điều hai pháo hạm tuần tiễu trên sông Thái Bình để bảo vệ.
Tháng 10 năm 1885 Thống tướng Roussel de Courcy giao cho thiếu tướng François de Négrier, trung tá Donnier cùng Hoàng Cao Khải
mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Bãi Sậy. Được tin, Nguyễn Thiện Thuật
lệnh cho các tướng bí mật tấn công vào các đồn địch, chặn đường địch
hành quân. Sau đó, ông nhử địch vào sâu căn cứ nơi đặt trận địa mai
phục. Khi quân Pháp biết bị mắc lừa định rút lui thì quân Bãi Sậy nổ
súng và dùng đoản đao, mã tấu đánh giáp lá cà. Nhiều quân Pháp bị giết, tướng Négrier chạy thoát.
Tại căn cứ Hai Sông, vào tháng 11-1885, suốt trong 2 tuần, nghĩa quân
đã phải chống cự quyết liệt với một binh đoàn lớn do Falcon và Faure
chỉ huy.
Ngoài hoạt động chống càn quét, nghĩa quân còn tổ chức nhiều trận
tập kích hiệu quả. Ngày 26/6/1886, nghĩa quân tấn công một đồn Pháp ở Cầu Đuống. Tháng 9/1885, Nguyễn Thiện Thuật trực tiếp chỉ huy nghĩa quân tấn công chiếm lại thành Hải Dương,
rồi tỏa ra đóng giữ các làng xung quanh. Nhưng do lực lượng quá yếu,
nên sau đó nghĩa quân phải rút lui. Tháng 9/1886, nghĩa quân chặn đánh
binh đoàn Bazinet và tấn công đồn Bần Yên Phú, đẩy mạnh các hoạt động ra
các miền phụ cận Hà Nội, Bắc Ninh.
Ngày 12/2/1887, một trận đụng độ lớn đã xảy ra ở vùng Kẻ Sặt (Hải Dương). Từ cuối năm 1888 đến đầu năm 1889, nghĩa quân còn tổ chức đánh thắng quân Pháp nhiều trận, như các trận ở Lang Tài (Bắc Ninh), Dương Hòa (Hưng Yên)...
Thống tướng De Courcy bị bãi chức, Charles-Auguste-Louis Warnet
sang thay. Warnet thực hiện càn quét quy mô lớn bằng chiến lược phân
tán quân đội, lập các đồn nhỏ để dễ tuần tiễu, đồng thời chuyển chế độ
cai trị bằng quân sự sang dân sự, nhưng cũng không thành công.
Ngày 9 tháng 2 năm 1888, em Nguyễn Thiện Thuật là Nguyễn Thiện
Dương bị tử trận trong cuộc đụng độ với quân Pháp do viên đội Fillipe
chỉ huy. Được tin em chết, ngay đêm đó Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho Tuần
Vân, Đề Tính tấn công đồn Ghênh và đồn Bần Yên Nhân để trả thù, giết
chết 21 quân địch.
Ngày 11 tháng 11 năm 1888, Hoàng Cao Khải cùng giám binh Ney chỉ huy
đồn Mỹ Hào đưa lính về gặt lúa ở Liêu Trung tổng Liêu Xá, muốn buộc dân
hết lương phải ra đầu thú, xa rời quân Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật được
tin, lệnh cho các tướng Nguyễn Thiện Kế, Nguyễn Văn Sung, Vũ Văn Đồng
đem 800 quân trong đó có 400 tay súng giả dạng phu gặt để phục kích.
Quân Bãi Sậy nổ súng giết chết 31 quân địch, trong đó có giám binh Ney,
Bang tá Nguyễn Hữu Hào. Hoàng Cao Khải trốn thoát về Mỹ Hào rồi nhờ giáo
dân Kẻ Sặt đưa đường chạy về Hải Dương.
Tháng 6 năm 1889, Thống sứ Bắc Kỳ ra lệnh thành lập đạo quân Tuần cảnh do Hoàng Cao Khải với chức Khâm sai Bắc Kỳ
làm Tư lệnh trưởng, Muselier làm Cảnh sát sứ. Quân Bãi Sậy giao chiến
quân Tuần cảnh suốt 8 tháng, gây cho địch khá nhiều thiệt hại. Trận Đông Nhu,
quân Bãi Sậy giết viên quản khố xanh Leglée; ngày 24 tháng 7 giết chết
viên quản khố xanh Escot ở làng Hoàng Vân. Ngày 18 tháng 10 Nguyễn Thiện
Thuật bắn viên quản Montillon bị trọng thương. Ngày 11/4/1891 quân của Hai Kế và Đề Vinh bị vây ở Mậu Duyệt, hai bên bắn nhau, viên quản Desmot bị giết, giám binh Lambert bị thương.
Nhiều lần không thắng được, người Pháp phải tặng Nguyễn Thiện Thuật danh hiệu "Vua Bãi Sậy".
Từ sau khi vua Hàm Nghi bị bắt (1888) và lưu đày ở châu Phi, phong trào Cần Vương
bắt đầu suy yếu. Sức mạnh của quân Bãi Sậy cũng suy yếu dần. Quân Pháp
thiết lập được nhiều đồn quanh căn cứ Bãi Sậy, các tướng Lãnh Điều, Lãnh
Lộ, Lãnh Ngữ, Đề Tính cùng một số tướng lĩnh khác tử trận, số còn lại
bị truy kích. Hoàng Cao Khải nhân danh vua Đồng Khánh
chiêu dụ Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và hứa khôi phục chức tước. Ông đã
viết vào tờ sớ dụ này 4 chữ "Bất khẳng thụ chỉ" (Không chịu nhận chỉ).
Sau đó, ông giao quyền cho em là Nguyễn Thiện Kế và một số tướng lĩnh
khác rồi sang Trung Quốc mưu tính cuộc vận động mới. Những cuộc mưu tính
của Nguyễn Thiện Thuật ở Trung Quốc không thành, ông không tiếp tục
được việc chống Pháp tại Việt Nam. Sau đó ông lâm bệnh mất tại Trung
Quốc năm 1926, thọ 82 tuổi.
Từ tháng 7 - 1889, Pháp
tập trung binh lực bao vây và tấn công nghĩa quân tại Trại Sơn là đại
bản doanh của đội quân Hai Sông. Quân Pháp chia thành 4 đạo, vây chặt
căn cứ trung tâm, rồi dùng tàu bè đi tuần tiễu ngày đêm trên tất cả ngả
sông quanh căn cứ. Nghĩa quân phải rút chạy hết nơi này qua nơi khác.
Quân Pháp thắt chặt vòng vậy, tăng cường truy quét và khủng bố nhân dân
trong vùng nhằm cắt đứt mối liên hệ giữa nghĩa quân và nhân dân. Thế
cùng lực kiệt (lương thực, đạn dược hết). Ngày 12/8/1889, Đốc Tít phải ra hàng, rồi bị đày sang Algérie. Sau những tổn thất nặng nề đó, phong trào kháng Pháp ở vùng Hưng Yên, Hải Dương
bị giảm sút rõ rệt, nhưng vẫn còn duy trì thêm một thời gian nữa. Đến
năm 1892, khi thủ lĩnh cuối cùng của phong trào Bãi Sậy là Đốc Vinh bị
giết, lực ượng nghĩa quân Bãi Sậy mới tan rã hẳn. Nguyễn Thiện Kế trước
đó cũng bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo.
Tóm lại, khỏi nghĩa Bãi Sậy - Hai Sông (1883 - 1892) là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của nhân dân đồng bằng Bắc Kỳ
cuối thế kỷ XIX. Cuộc khởi nghĩa này đã để lại nhiều bài học bổ ích,
nhất là về phương thức hoạt động và các hình thức tác chiến (du kích)
của nghĩa quân ở một vùng đồng bằng đất hẹp, người đông.
2-Khởi nghĩa Ba Đình:
Khởi nghĩa Ba Đình là một trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19 của nhân dân Việt Nam chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, diễn ra vào năm 1886-1887 tại Ba Đình, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1885, sau khi kinh thành Huế thất thủ, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên chiến khu Tân Sở (Quảng Trị) ra dụ Cần Vương
kêu gọi toàn dân kháng chiến. Hưởng ứng, Đinh Công Tráng đã cùng các
đồng chí của mình đã chọn Ba Đình làm căn cứ kháng chiến lâu dài.
Tháng 3 năm 1886 các Lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa tổ chức
cuộc họp tại Đồng Biên (Bồng Trung nay thuộc xã Vĩnh Tâm, huyện Vĩnh
Lộc, Thanh Hóa) bàn kế hoạch chống Pháp. Hội nghị đã quyết định giao cho
Phạm Bành, Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt phụ trách xây dựng căn cứ Ba
Đình ở vùng đồng bằng phía bắc huyện Nga Sơn. Căn cứ Ba Đình là nơi bảo
vệ cửa ngõ miền Trung và là bàn đạp tỏa đánh địch ở đồng bằng.Mỗi làng
có một ngôi đình và có chung một ngôi nghè. Ba Đình nằm giữa cánh đồng
chiêm trũng và hai con sông là Sông Hoạt, Sông Chính Đại biệt lập với
khu dân cư lân cận, nhất là vào mùa mưa. Đóng quân ở Ba Đình, nghĩa quân
Cần Vương có thể kiểm soát được dòng sông, dễ dàng kéo lên Bỉm Sơn,
Đồng Giao để khống chế Quốc lộ 1. Địa thế Ba Đình rất thuận lợi cho việc
xây dựng Pháo đài phòng ngự vững chắc, Phạm Bành, Đinh Công Tráng,
Hoàng Bật Đạt được phân công xây dựng và chỉ huy căn cứ Ba Đình.
Chỉ trong 1 tháng, căn cứ Ba Đình đã được xây song, bao quanh ba làng là
một hệ thống thung lũng bằng đất, có nơi chân thành rộng 9-10m, mặt
thành xếp bằng cọc tre, bên trong tạo lớp bùn và rơm rạ tạo thành chiếc
bia đỡ đạt rất công hiệu. Bên ngoài không thể nhìn thấy được vào bên
trong, phía trong có hào rộng 4m, sâu 3m, cắm cọc nhọn chông chà bằng
tre. Qua cánh đồng trũng là một lũy tre dày đặc bao bọc cả 3 mặt: Phía
Bắc, Tây, Tây nam. Lúc đầu nghĩa quân Ba Đình chỉ có khoảng 300 người,
nhưng sau đó được bổ sung thêm. Vũ khí của nghĩa quân là súng hỏa mai,
súng trường, cung, nỏ, vài khẩu súng thần công tổ chức cho 10 cơ đội,
mỗi cơ đội khoảng 30 người do một hiệp quân chỉ huy. Lãnh đạo tối cao
của căn cứ Ba Đình là Cán lý quân vụ Phạm Bành, còn người trực tiếp chỉ
huy là Đinh Công Tráng được coi là linh hồn của khởi nghĩa Ba Đình.
Đinh Công Tráng (1842-1887) sinh năm Nhâm Dần (1842), quê ở làng Trinh Xá, huyện Thanh Liêm (Hà Nam). Là một người yêu nước, nên khi quân Pháp đến xâm chiếm, đang làm chánh tổng, Đinh Công Tráng đã rời quê gia nhập đội quân của Hoàng Tá Viêm. Khi Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc cầm cự với Henri Rivière, Đinh Công Tráng đã tham gia trận đánh ở Cầu Giấy. Nhờ có kinh nghiệm chiến đấu, ý chí dũng cảm và tư chất thông minh nên ông đã trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Ba Đình.
Phạm Bành (?-1887) là một viên quan chủ chiến, quê ở làng Tương Xá (Hậu Lộc, Thanh Hóa). Hưởng ứng phong trào Cần Vương,
ông đã treo ấn từ quan về quê vận động sĩ phu và nhân dân khởi nghĩa.
Trong cuộc khởi nghĩa này, ông là người đứng thứ hai sau Đinh Công Tráng.
vận động sĩ phu và nhân dân khởi nghĩa. Trong cuộc khởi nghĩa này, ông là người đứng thứ hai sau Đinh Công Tráng.
Hoàng Bật Đạt (1827-1887) là người làng Bộ Đầu, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Năm Tự Đức
thứ 21 (1868), ông thi đỗ Cử nhân, được bổ làm Giáo thụ huyện Phong
Doanh (nay là huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Sau, ông được cử làm Tri
huyện Lang Tài (nay là huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh). Sau trận kinh
thành Huế (tháng 7 năm 1885), phe chủ chiến thất bại, khiến vua Hàm Nghi
phải chạy ra Sơn phòng Tân Sở (Cam Lộ, Quảng Trị) ban bố dụ Cần Vương.
Hưởng ứng, Hoàng Bật Đạt cùng với Phạm Bành mộ quân, rồi hiệp cùng lực
lượng của Đinh Công Tráng, Nguyễn Đôn Tiết, v.v...đi đánh quân Pháp.
Nguyễn Đôn Tiết (1836 - 1887) là người làng Thọ Vực, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Năm Kỷ Mão (1879) ông đỗ Phó bảng, làm Tri phủ một thời gian. Sau tháng 7
năm 1885, hưởng ứng dụ Cần vương, ông về quê chiêu mộ quân rồi tham gia
chiến đấu trong cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình (thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa).
Tháng 3 năm 1886 ông bị quân Pháp bắt được, đày đi Côn Đảo rồi mất tại
đấy (1887), hưởng dương 51 tuổi.
Hiện nay, tại thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang
tên Nguyễn Đôn Tiết. Ở Đà Nẵng cũng có một con đường mang tên ông tại
phường Thuận Phước quận Hải Châu.
Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4 km, tây bắc giáp huyện Hà Trung, được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê. Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng
nước mênh mông, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi là Ba Đình
vì mỗi làng có một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai
làng kia.
Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, các lãnh tụ Ba Đình đã cho bao bọc
xung quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy
chông tre. Ở trong là một lớp thành đất cao 3 m,
chân rộng 8 đến 10m. Trên mặt thành, nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất
nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến
đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía trong thành có hệ thống giao
thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận động khi chiến đấu. Ở
những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc. Các hầm chiến đấu được xây
dựng theo hình chữ "chi", nhằm hạn chế thương vong.
Ở mỗi làng, tại vị trí ngôi đình được xây dựng một đồn đóng quân.
Ở Thượng Thọ có đồn Thượng, ở Mậu Thịnh có đồn Trung và ở Mỹ Khê có đồn
Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng
thời cũng có thể chiến đấu độc lập. Có thể nói rằng căn cứ Ba Đình có vị
trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng ngự quy mô nhất thời kỳ
Cần Vương cuối thế kỷ 19. Ngoài Ba Đình, còn có các căn cứ hỗ trợ: căn cứ Phi Lai của Tống Duy Tân và Cao Điển, căn cứ Quảng Hóa của Trần Xuân Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.
Từ Ba Đình, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao
thông quan trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tải của
đối phương đi lại trên con đường Bắc-Nam...Chính vì vậy, mà quân Pháp
rất quyết tâm đánh dẹp.
Lực lượng nghĩa quân Ba Đình lúc đầu chỉ có khoảng 300 người, nhưng sau đó được bổ sung thêm, tuyển từ ba
làng và các vùng Thanh Hóa, bao gồm cả người Kinh, Thái, Mường. Nghĩa
quân có 10 toán, mỗi toán có một hiệp quản chỉ huy. Về vũ khí, nghĩa
quân tự trang bị bằng súng hỏa mai, giáo mác, cung nỏ.
Năm 1886,
nghĩa quân liên tiếp tiến công các phủ, thành, huyện lỵ, chặn đánh các
đoàn xe, các toán quân lẻ, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 12 tháng 3 năm 1886 lợi dụng phiên chợ đã tấn công Tòa Công sứ Thanh Hóa. Và tiếp đó, nghĩa quân đã tấn công nhiều phủ thành, chặn đánh các đoàn xe, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại.
Từ 18 tháng 12 năm 1886 đến 20 tháng 1 năm 1887 Đại tá Brissand
thống lĩnh 76 sĩ quan và 3.500 quân vây hãm và tiến đánh căn cứ Ba
Đình. Quân Pháp đã nã tới 16.000 quả đại bác trong vòng một ngày
trời, biến căn cứ Ba Đình thành biển lửa.
Nghĩa quân Ba Đình đã chiến đấu trong suốt 32 ngày đêm chống lại đối
phương đông gấp 12 lần, được trang bị vũ khí tối tân hiện đại. Trong
trận chiến đấu vô cùng ác liệt này, nghĩa quân đã tỏ ra mưu trí dũng
cảm, nhưng vì hỏa lực mạnh của đối phương nên nghĩa quân Ba Đình bị
thương vong nhiều.
Để tránh khỏi bị tiêu diệt hoàn toàn, nghĩa quân Ba Đình đã mở
một con đường máu vượt qua vòng vây dày đặc của quân Pháp, rút lên căn
cứ Mã Cao.
Đến sáng ngày 21 tháng 1 năm 1887,
quân Pháp mới chiếm được Ba Đình. Sau đó, quân Pháp đã triệt hạ hoàn
toàn cả ba làng của căn cứ Ba Đình, tiếp tục cho quân truy kích nghĩa
quân ở Mã Cao, rồi triệt hạ luôn đồn này vào 2 tháng 2 năm 1887.
Sau đó, một số đông nghĩa rút lên Thung Voi, Thung Khoai, rồi lên miền Tây Thanh Hóa sáp nhập với đội nghĩa quân của Cầm Bá Thước.
Kết cục, thủ lĩnh Nguyễn Khế tử trận. Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại tự sát... Hoàng Bật Đạt sau bị bắt và bị Pháp chém đầu vì tinh thần bất khuất, không hàng giặc. Đinh Công Tráng thì chạy về Nghệ An. Quân Pháp treo giải cái đầu ông với giá trị tiền thưởng rất cao. Tháng 10 năm 1887, vì tham tiền thưởng, viên lý trưởng làng Chính An đã mật báo cho quân Pháp đến bắt và sát hại Đinh Công Tráng.
Cuộc khởi nghĩa Ba Đình và các lãnh tụ Ba Đình được lịch sử đánh giá rất cao. Chính người Pháp đã phải thừa nhận: "1886-1887,
cuộc công hãm Ba Đình là quan trọng nhất, cuộc chiến đấu này thu hút
nhiều quân lực nhất và làm cho các cấp chỉ huy lo ngại nhiều nhất". Mặc dù bị thất bại nhưng khởi nghĩa Ba Đình đã gây cho Pháp nhiều tổn thất
Năm 1945, Bác sĩ Phan Văn Dũng
được cử làm Đốc lý Hà Nội (Thị trưởng). Vốn là một trí thức có tinh
thần dân tộc, ngay sau khi nhận chức, ông đã quyết định đổi một loạt tên
đường phố từ tiếng Pháp sang tiếng Việt lấy theo tên của các vị anh
hùng Việt Nam như: Phố Garnier thành phố Đinh Tiên Hoàng, phố Boulevard
Carnot thành phố Phan Đình Phùng... Vườn hoa Pugininer trước Phủ Toàn quyền được ông đổi tên thành Vườn hoa Ba Đình để kỷ niệm khởi nghĩa Ba Đình. Tại đây, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho xây dựng một lễ đài, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc Tuyên ngôn độc lập và chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân, chính thức khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
3-Khởi nghĩa Hương Khê:
Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896) là đỉnh cao của phong trào Cần vương, và thất bại của công cuộc này cũng đã đánh dấu sự kết thúc sứ mạng lãnh đạo 10 năm chống thực dân Pháp của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam. Lãnh đạo chính của khởi nghĩa là Đình nguyên tiến sĩ Phan Đình Phùng (1847 - 1895), và một cộng sự đắc lực của ông là tướng Cao Thắng (1864 - 1893).
Sau khi vua Hàm Nghi ban chiếu Cần Vương (tháng 7 năm 1885), ở Hà Tĩnh và Nghệ An đã bùng nổ nhiều phong trào đấu tranh vũ trang. Cuộc khởi nghĩa đầu tiên là của Lê Ninh ở Trung Lễ (Đức Trung, Đức Thọ), sau đó lần lượt là:
- Khởi nghĩa của Cao Thắng, Cao Nữu ở Hàm Lại, Sơn Lễ (Hương Sơn, Hà Tĩnh).
- Khởi nghĩa của Nguyễn Trạch và Nguyễn Chanh ở Can Lộc (Hà Tĩnh).
- Khởi nghĩa của Ngô Quảng và Hà Văn Mỹ ở Nghi Xuân (Hà Tĩnh).
- Khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Thuận ở Thạch Hà (Hà Tĩnh).
- Khởi nghĩa của Nguyễn Xuân Ôn và Lê Doãn Nhạ ở Nghệ An, v.v...
Trên cơ sở các cuộc khởi nghĩa đó, sau khi được vua Hàm Nghi và đại tướng Tôn Thất Thuyết giao trọng trách tổ chức phong trào kháng Pháp ở Hà Tĩnh (tháng 10 năm 1885), Phan Đình Phùng đã tiến hành tập hợp, phát triển thành một phong trào có quy mô rộng lớn, dưới sự chỉ đạo thống nhất là ông.
Địa bàn hoạt động của nghĩa quân bao gồm bốn tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình; với địa bàn chính là Hương Khê (Hà Tĩnh), tồn tại suốt 10 năm liên tục.
Ở bốn tỉnh này, Phan Đình Phùng đã chia địa bàn thành 15 quân thứ,
đồng thời dựa vào địa thế rừng núi hiểm yếu, ông cho xây dựng lực lượng
và cơ sở chiến đấu chính nằm ở hai huyện Hương Sơn và Hương Khê (Hà Tĩnh).
Theo sử liệu thì Phan Đình Phùng đã cho xây dựng bốn căn cứ lớn, đó là:
- Căn cứ Cồn Chùa ở xã Sơn Lâm (Hương Sơn, Hà Tĩnh), án ngữ đường sang Nghệ An. Đây là nơi dự trữ lương thực và rèn đúc vũ khí.
- Căn cứ Thượng Bồng-Hạ Bồng ở tây nam Đức Thọ
(Hà Tĩnh) dựa vào địa thế của sông Ngàn Sâu và Ngàn Trươi. Ngoài ra,
Phan Đình Phùng còn cho lập nơi đây hệ thống hào lũy, đồn trại, kho
lương, bãi tập,...Đây là một căn cứ lớn trong buổi đầu kháng chiến của
nghĩa quân Hương Khê.
- Căn cứ Trùng Khê-Trí Khê nằm ở hai xã Hương Ninh - Hương Thọ thuộc huyện Hương Khê. Đây là căn cứ dự bị, có đường sang Lào, phòng khi bị quân Pháp bao vây.
- Căn cứ Vụ Quang ở phía tây Hương Khê. Nơi đây có địa hình hiểm trở, tựa lưng vào dãy Trường Sơn. Từ đây, nghĩa quân có thể theo đường núi vào Quảng Bình, Quảng Trị, ra Nghệ An, Thanh Hóa hay theo đường sông đi xuống các vùng đồng bằng hoặc khi cần thiết có thể lánh sang Lào.
Theo giúp Phan Đình Phùng, có các trí thức như tiến sĩ Phan Trọng Mưu, cử nhân Phan Quảng Cư, Ấm Ninh (Lê Ninh),...và
rất nhiều chỉ huy xuất thân từ nhân dân lao động nghèo khổ như Cao
Thắng, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch, Lê Văn Tạc, Phan Đình Can, Phan Đình
Phong, Nguyễn Mục, Phan Bá Niên,...
Về tổ chức lực lượng, nghĩa quân được chia thành 15 quân thứ: Hà
Tĩnh có 10, Nghệ An có 2, Quảng Bình có 2, và Thanh Hóa có 1. Các quân
thứ được xây dựng trên các cơ sở đơn vị hành chính, thường là huyện, có
khi là xã, và lấy tên nơi đó để gọi. Mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 quân, đứng đầu là người có năng lực và uy tín. Nghĩa quân có phục trang cùng một kiểu giống nhau.
Vũ khí của nghĩa quân, ngoài những thứ thông thường, họ còn có khoảng 500 trăm khẩu súng tự chế (kiểu súng Pháp năm 1874) và rất nhiều súng hỏa mai.
Nghĩa quân Hương Khê dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở với hệ thống công sự chằng chịt để tiến hành chiến tranh du kích.
Nghĩa quân luôn phân tán hoạt động, đánh quân Pháp bằng nhiều hình
thức, như: công đồn, chặn đường tiếp tế, dùng cạm bẫy, và dụ đối phương
ra ngoài đồn để diệt họ...
Khởi nghĩa Hương Khê có thể chia làm hai giai đoạn chính:
Giai đoạn đầu từ 1885 đến 1888. Đây là giai đoạn chuẩn bị, xây dựng lực lượng và cơ sở chiến đấu. Sau
một vài trận tập kích và chống càn không hiệu quả, Phan Đình Phùng cho
quân rút về làng Phùng Công (Hương Sơn), rồi lại rút lên rừng núi đánh du kích. Đầu năm 1887, thấy thực lực nghĩa quân Hương Khê quá suy yếu, Phan Đình Phùng giao quyền chỉ huy cho Cao Thắng để ra Bắc đến các tỉnh Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh,...tìm sự hỗ trợ và kết nạp quân đội. Ở lại Hà Tĩnh, Cao Thắng cùng các chỉ huy khác như Cao Nữu, Cao Đạt, Nguyễn Niên,...đem quân đến làng Lê Động (Hương Sơn) để tổ chức lại lực lượng, luyện quân, xây dựng hệ thống đồn lũy, rèn đúc vũ khí,...
Giai đoạn sau từ 1889 đến 1896). Cuối tháng 9 năm 1889, Phan Đình Phùng từ Bắc Kỳ trở về Hà Tĩnh. Nhờ Cao Thắng và các chỉ huy khác, mà lực lượng lúc này đã có khoảng ngàn lính và 500 khẩu súng tốt.
Nhận thấy trong công tác chuẩn bị, mọi mặt đều đã khá, Phan Đình Phùng
bèn cho mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp bốn tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh và Quảng Bình; làm cản trở con đường đi lại Bắc-Nam và công
cuộc thôn tính nước Việt của quân Pháp. Đối phó lại, thực dân Pháp cho bố trí nhiều đồn lẻ ở các nơi để
phong tỏa từng khu vực và kiềm chế hoạt động của nghĩa quân. Riêng ở Hương Khê, đối phương đã cho lập tới 20 đồn, mỗi đồn có khoảng 30 lính đóng giữ
Trong những năm từ 1889 đến 1892, nghĩa quân bốn tỉnh trên đã phối hợp và hoạt động mạnh trên một vùng rộng lớn bao gồm Diễn Châu, Yên Thành, Thanh Chương, Nghi Lộc,...để đánh trả và quấy rối quân Pháp. Theo sách "Việt sử tân biên", thì nghĩa quân đã tổ chức được 28 trận lớn nhỏ trong giai đoạn này, để tập kích và chống càn quét.
Sau nhiều trận thua đau, kể từ đầu năm 1892
trở đi, thực dân Pháp cho mở nhiều cuộc càn quét, trong số ấy đáng kể
là trận càn lớn vào khu Hói Trùng và Ngàn Sâu, là căn cứ của Cao Thắng,
vào đầu tháng 8 năm 1892. Để đối phó với quân Pháp, Phan Đình Phùng bố trí một lực lượng
chống trả tại chỗ, một nhóm khác đi hoạt động ở phía sau lưng đối
phương, buộc họ phải rút về vì sợ bị đánh tập hậu. Trong khoảng thời
gian này, đã xảy ra nhiều trận giao tranh.
Thấy nghĩa quân Hương Khê ngày càng lớn mạnh, quân Pháp một mặt tăng
cường càn quét, thu hẹp phạm vi hoạt động của quân, mặt khác tìm cách
cắt đứt liên lạc giữa các quân thứ, và giữa nghĩa quân với nhân dân.
Để phá thế bị bao vây và mở rộng địa bàn hoạt động, được Phan Đình Phùng đồng ý, tháng 11 năm 1893, Cao Thắng đưa khoảng một ngàn quân từ Ngàn Trươi mở trận tấn công lớn vào tỉnh lỵ Nghệ An. Trên đường hành quân, nhiều đồn trại đối phương bị phá bỏ. Nhưng trận tấn công đồn Nu ở Thanh Chương (một huyện miền núi nằm ở phía tây nam thuộc tỉnh Nghệ An), Cao Thắng bị thương nặng rồi hy sinh lúc 29 tuổi, gây tổn thất lớn cho nghĩa quân Hương Khê.
Lợi dụng cơ hội nghĩa quân bị mất người đứng đầu tài giỏi, quân Pháp
tăng thêm binh lực rồi siết chặt vòng vây. Nghĩa quân Hương Khê cố gắng
đánh trả những cuộc vây quét, nhưng thế lực của lực lượng ngày càng giảm
sút.
Khoảng cuối năm này (1893), Phan Đình Phùng cho người đến vây nhà Trương Quang Ngọc ở làng Thanh Lang, thuộc huyện Tuyên Hóa, chém lấy đầu ông này để báo thù cho việc ông bắt vua Hàm Nghi giao cho quân Pháp. Ngày 31 tháng 3 năm 1894, Bá hộ Thuân lại mang quân tập kích vào tỉnh lỵ Hà Tĩnh lần nữa, nhưng sau đó phải rút lui về cố thủ tại núi Quạt và núi Vụ Quang thuộc Hương Khê (nay thuộc huyện Vũ Quang).
Khoảng tháng 10 (âm lịch) năm Giáp Ngọ (1894), một đại thần thân Pháp là Hoàng Cao Khải bắt tay vào việc khuyến dụ Phan Đình Phùng và nghĩa quân của ông.
Năm 1895, thực dân Pháp điều võ quan thân Pháp là Nguyễn Thân đến phối hợp với công sứ Nghệ An
là Duvillier đem ba ngàn quân đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Quân
chủ lực của Phan Đình Phùng bị đối phương bít đường tiếp vận, nên vũ
khí, lương thực, quân số thảy đều thiếu thốn, khó bù đấp. Mỗi lần đối
phương tấn công, nghĩa quân chỉ có thể chạy quanh từ núi Quạt rồi trở về
núi Vụ Quang, và không thể ở đâu lâu quá ba ngày.
Ngày 17 tháng 10 năm 1894,
Phan Đình Phùng đã tập hợp lực lượng, đánh thắng một trận lớn, đối
phương mất nhiều vũ khí và bị giết chết rất nhiều. Khởi đầu, ông cho
quân lên tận nguồn sông chặt cây đóng kè chặn nước lại, đồng thời chuẩn
bị sẵn nhiều khúc gỗ lớn. Khi quân Pháp và quân triều đến giữa dòng
sông, thì ông cho phá kè trên nguồn, và tuôn cây xuống. Đối phương phần
bị nước cuốn, phần bị cây lao vào người, lại bị nghĩa quân ở hai bên bờ
xông ra đánh nên bị thương vong rất nhiều. Theo nhà sử học Phạm Văn Sơn thì sau trận này, phía Pháp ngoài số quân trang và đạn dược bị mất mát, còn có ba sĩ quan và trên trăm lính bị tiêu diệt. Đây là trận thắng cuối cùng, vì gần ba ngàn quân do Nguyễn Thân cầm đầu ngày càng xiết chặt vòng vây.
Trong một trận giao tranh ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương nặng, rồi hy sinh vào ngày 28 tháng 12 năm 1895.
Mười hai ngày sau khi thủ lĩnh Phan Đình Phùng mất, Nguyễn Thân mới tới
được căn cứ Vụ Quang. Sau đó, Nguyễn Thân cho quật mồ Phan Đình Phùng ở
chân núi Quạt, đổ dầu đốt cho xương thịt ông cháy thành tro, rồi trộn
vào thuốc súng bắn xuống sông La.
Sang đầu năm 1896, một số chỉ huy lần lượt mất vì ở lâu nơi rừng sâu nước độc, một số bị tử trận hoặc bị bắt rồi bị giết, một số khác thì rút qua Xiêm La hoặc ra hàng...Khởi nghĩa Hương Khê đến đây kết thúc.
Khởi nghĩa Hương Khê là đỉnh cao nhất của phong trào Cần vương cuối thế kỷ 19, kéo dài suốt 10 năm, có quy mô rộng lớn, có tổ chức tương đối chặt chẽ, lập được nhiều chiến công và gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề.
Cuộc khởi nghĩa đã huy động đến mức cao độ sự ủng hộ và tiềm năng to lớn của nhân dân (người Kinh và người Thượng, của cả đồng bằng và miền núi). Về quân sự, nghĩa quân đã biết sử dụng những phương thức tác chiến linh
hoạt, chủ động, sáng tạo trong quá trình chuẩn bị lực lượng cũng như khi
giao chiến với đối phương.
Khởi nghĩa Hương Khê thất bại do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do nghĩa
quân chưa biết liên kết, tập hợp lực lượng, phát triển thành phong trào
toàn quốc. Đó cũng chính là những hạn chế của thời đại, của bộ phận lãnh
đạo phong trào Cần vương nói chung.
4-Khởi nghĩa Yên Thế:
Khởi nghĩa Yên Thế là một cuộc đối đầu vũ trang giữa những người nông dân ly tán tại vùng Yên Thế Thượng và sau đó là Thái Nguyên, đứng đầu là Hoàng Hoa Thám, với quân Pháp, khi Pháp vừa kết thúc chiến tranh với Trung Quốc và bắt đầu kiểm soát toàn bộ vùng Bắc kỳ những năm cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.
Yên Thế Thượng vào giữa thế kỷ 19 còn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá. Đây là nơi tá túc của nhiều toán "giặc Khách",
nhiều toán thổ phỉ thường xuyên cướp phá các vùng lân cận. Đây cũng là
nơi cho nông dân lưu tán hoặc đang bị truy đuổi đến ẩn náu và sinh sống
từ những năm 60 và 70 của thế kỷ 19. Ở đây, họ cùng nhau khai phá đất
hoang để trồng cấy, kiếm lâm sản, sống lẫn lộn với bọn giặc Khách, bọn
thổ phỉ. Để chống lại ách áp bức, sự truy bắt của chính quyền cũng như
chống lại sự cướp bóc, tàn phá của giặc cướp, những người nông dân lưu
tán đến cư ngụ ở đây đã phải lập những đội vũ trang tự vệ, những làng
chiến đấu. Đây được đánh giá là vùng đất thiếu an ninh nhất của Bắc Kỳ lúc bấy giờ.
Nhiều học giả nhận định ba nguyên nhân dẫn đến cuộc khởi nghĩa:
- Do nhu cầu tự vệ của nông dân lưu tán cư trú ở đây, nhằm giữ
vững vùng đất này như là một vùng đất ngoài pháp luật, không chịu sự
kiểm soát của bất kỳ chính quyền nào.
- Sự yêu nước và chống ngoại bang Pháp của nghĩa quân Yên Thế.
- Yên Thế là vùng đất phía Tây Bắc Giang, diện tích rộng cây cối rậm
rạp, cây cỏ um tùm từ đấy có thể đi thông sang Tam Đảo, Thái Nguyên,
Phúc Yên, Vĩnh Yên nên rất thích hợp với lối đánh du kích, dựa vào địa
thế hiểm trở và công sự dã chiến, đánh nhanh và rút nhanh lại rất thuận
tiện khi bị truy đuổi.
Hoàng Hoa Thám,
dân chúng thường gọi là Đề Thám, tên thật là Trương Văn Nghĩa, sinh năm 1858 tại
làng Dị Chế, xã Minh Khai, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
Tháng 3-1884,
khi thực dân Pháp chiếm thành Bắc Ninh, Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa quân của
lãnh binh Trần Quang Loan. Năm 1885, ông tham gia cuộc khởi nghĩa của Cai Kinh
(Hoàng Đình Kinh) ở Lạng Giang, Bắc Giang. Sau khi Cai Kinh mất, ông trở thành
thủ hạ thân tín và tài giỏi của Đề Nắm (Lương Văn Nắm). Đề Nắm bị một thuộc hạ
phản bội, giết hại vào tháng 4-1892. Từ đó, Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối
cao, linh hồn của cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Phạm vi hoạt động
của nghĩa quân Đề Nắm khá rộng nhưng chủ yếu là ở Yên Thế Thượng thuộc huyện Yên
Thế, tỉnh Bắc Giang. Đó là một cùng đất pha đá, hình thế phức tạp, theo mô tả của
Clôbukốpxki, toàn quyền Đông Dương năm 1909 thì: “Vùng Yên Thế được cấu tạo bởi
một địa hình không cao lắm, được bao phủ bằng một lớp dày đặc cây cao, dây leo,
cỏ dại, những bụi rậm chằng chịt… Giữa những ngọn đồi ấy, trừ một vài khe thưa đã
được khai phá, là một vùng rừng rậm không nhìn thấy gì, một nền đất có nhiều hồ
lầy với một vài con đường mòn chỉ người địa phương mới biết”.
Triệt để lợi dụng
địa hình địa vật đó, Đề Thám đã khéo léo xây dựng cả hệ thống đồn lũy, công sự đa
dạng, kết hợp thành những trận địa phòng ngự hiểm yếu, kiên cố và có hiệu quả.
Về vấn đề này, viên sĩ quan Pháp từng tham gia các trận đánh ở Yên Thế tên là Báctuê
đánh giá: “Sự hiểu biết địa hình áp dụng vào phòng ngự và tiến công, bản năng
chiến đấu của Đề Thám thật là kỳ diệu”.
Xét về mặt thuần
túy quân sự, câu nói đó của kẻ viễn chinh nhà nghề, đã nêu bật luận điểm: địa hình
thiên nhiên cũng là một lực lượng tham chiến lợi hại, thậm chí là yếu tố quyết định
đến thắng, bại. Giữa hai bên tham chiến, lực lượng đó sẽ nghiêng về bên nào
“thuộc” nó hơn, biết vận dụng, cải tạo nó hơn nhằm “lôi kéo” nó về mình cùng đánh
đối phương. Muốn thế người chỉ huy phải thực sự tài giỏi về quân sự, không những
biết vận dụng, cải tạo địa hình, địa vật mà còn phải biết chọn cách đánh phù hợp
với địa hình, địa vật đã được cải tạo ấy. Học hỏi, kế thừa những người đi trước,
tiếp thu được nghệ thuật quân sự truyền thống của tổ tiên, có được những thủ hạ
năng động, những người lính quả cảm đã qua tôi luyện chiến đấu và được trang bị
đầy đủ, Đề Thám đã là người chỉ huy như thế. Chính điều này đã cắt nghĩa vì sao
mà nghĩa quân Yên Thế, với lực lượng chưa bao giờ vượt quá 150 người, đã chống
cự kiên cường hàng loạt cuộc hành binh đánh phá, càn quét qui mô của bộ máy đàn
áp của Thực dân Pháp ở Bắc Kỳ trong ngót 30 năm, buộc thực dân Pháp phải hai lần
giảng hòa.
Tướng thực dân
Pháp là Galiêni, trong cuốn “Ba cuộc hành binh ở Bắc Kỳ” đã viết: “Ngược hẳn với
các nguyên lý làm công sự của chúng ta (tức quân đội thực dân), quân Yên Thế không
bao giờ phát quang phía trước công sự, không dọn sạch cây cối ở phía rìa công sự.
Họ coi rừng cây như là những vật phòng hộ tốt nhất, ở bên trong cũng như bên ngoài
công sự. Các hàng rào ẩn kín trong bụi rậm làm người ta chỉ phát hiện ra công sự
khi bước hẳn vào công sự. Như vậy tầm bắn của họ tuy bị rút ngắn, song tầm bắn
của kẻ địch cũng bị hạn chế, nhất là đối với pháo binh. Làm như thế, họ buộc kẻ
tiến công phải phân tán, hàng ngũ rối loạn và xuất hiện lộn xộn trước lỗ châu
mai của họ”; “Quân Đề Thám và các tướng lĩnh của ông…, can đảm và thiện chiến”;
“Tóm lại, chiến thuật của quân Yên Thế là luôn luôn rút vào những khoảng rừng
thật sâu, thật kín, đào đắp công sự, bố trí trận địa để buộc kẻ địch phải xuất
hiện trong khoảng trống trước mắt họ, trong khoảng cách rất gần, để có thể bất
ngờ đánh dịch bằng những làn đạn đan chéo nhau, đã được điều chỉnh sẵn khi địch
vấp phải rất nhiều chướng ngại chồng chất xung quanh công sự chính”
Còn theo Báctuê,
trong “Tấn bi kịch Pháp - Đông Dương”, thì: “Trong thực tế, họ, tức nghĩa quân
Yên Thế, không khỏe lắm, nhưng rất nhanh nhẹn, đặc biệt can đảm và có khả năng
chịu đựng thiếu thốn và sự thất thường của thời tiết. Và phải hàng tạ sắt thép
may ra mới hạ nổi một con người như vậy”; “Nếu bây giờ tôi nói rằng, về phương
diện quân sự, Đề Thám là một nhân vật có tầm cỡ lớn và ông ta là một nhà chỉ
huy quân sự có tài…, chắc tôi đã nói lời xúc phạm đến nhiều người. Ấy vậy mà đã
có biết bao nhiêu chiến dịch qui mô do các vị chỉ huy lớn tiến hành để chống lại
ông ta: tướng Gôđanh, đại tá Gôđa, Trung tá Mayê, đại tá Phơrê, tướng Vê-rông, đại
tá Bataơ và nhiều vị khác nữa, nhưng không bao giờ các vị ấy đã thành công triệt
để. Đương nhiên, Đề Thám vẫn cứ thoát… Luôn luôn ở vào thế tương quan lực lượng
yếu hơn, và chiến thuật của ông ta vẫn hầu như giữ nguyên như thế, nhưng ai mà
ngăn cản nổi chiến thuật ấy cứ ngày càng hoàn thiện. Hoàn toàn bị bao vây, đảo
lộn, chia cắt, ông ta vẫn vượt qua và chạy mất. Hơn nữa, địa bàn hoạt động chủ
yếu của ông ta cũng không rộng lắm. Và điều đáng ngạc nhiên nhất vẫn còn đó,
trong phạm vi dù chỉ 20 km tối đa từ đông sang tây, từ Bố Hạ qua Nhã Nam, và cũng
20 km tối đa từ bắc xuống nam, từ mỏ Na Lương hay từ Canh Nậu đến Nhã Nam… Nhưng
ông ta vẫn chủ động, hơn nữa, vẫn cứ thành công. Ngoài ra còn phải kể đến biết
bao nhiêu cuộc hành quân kéo dài nhiều năm của đơn vị lính khố xanh cùng với những
vị chỉ huy có tầm cỡ và sự hỗ trợ của lính dũng để chống lại ông ta, nhưng cũng
chịu những tổn thất đẫm máu”; “Ông ta đã gây cho chúng ta nhiều tồn thất, rất
nhiều tổn thất. Ông ta đã đánh những trận thật là kỳ diệu ở Yên Thế. Và biết
bao chiến binh cứng rắn, da trắng và da vàng đã vĩnh viễn gửi thân nơi đó”
Có thể tóm lược
hoạt động, chiến đấu của Đề Thám và nghĩa quân Yên Thế bằng những sự kiện nổi bật
sau:
Cuối thu 1890,
Thực dân Pháp mở chiến dịch lớn càn quét vùng Yên Thế thượng. Nghĩa quân chạm súng
với địch ở Cao Thượng, trên đồi Yên Ngựa suốt một ngày trời rồi rút về đồn Hố
Chuối. Đây là hệ thống phòng ngự vững chắc, được xây dựng và bố trí kỹ từ trước
của nghĩa quân. Sáng ngày 9-12-1890, một lực lượng gồm 77 lính Lê dương và 66 lính
khố đỏ, do đại úy Pơlétxiê chỉ huy tiến công đồn Hố Chuối từ phía bắc theo con đường
từ làng Lèo, dưới sự yểm trợ của một đơn vị sơn pháo 80 ly. Lực lượng tiến công
bị chặn đứng tại hàng rào cách cửa bắc 100m. Chúng cố gắng chuyển sang xâm nhập
từ phía nam đồn nhưng cũng không được, đành tạm rút lui, dù lực lượng chưa bị
thiệt hại (chỉ chết 1, bị thương 30). Ngày 11-12-1890, với lực lượng tăng cường
gồm 100 lính thủy đánh bộ, 50 lính lê dương, 136 lính khố đỏ và một đơn vị pháo
80 ly, do trung tá Tanơ chỉ huy, theo đường cũ tấn công đồn. Địch vượt được qua
hàng rào nhưng lại bị chặn bởi hỏa lực từ trong đồn chính bắn ra. Pháo của địch
không phát huy được tác dụng. Một cánh quân khác của chúng tiến công hệ thống công
sự vòng ngoài, phía bắc đồn cũng thất bại. Địch buộc phải rút lui với 3 lính chết,
4 tên bị thương. Ngày 22-12-1890, với 180 lính thủy đánh bộ, 126 lính lê dương,
280 lính khố đỏ và pháo yểm trợ, do đại tá Mayê chỉ huy trở lại tiến công theo
hướng cũ. Bị hỏa lực của nghĩa quân từ đồn chính bắn ra dữ dội, quân địch chựng
lại cách đồn 40 m, phải điều thêm một mũi tiến công hệ thống công sự vòng ngoài
phía bắc nhưng cũng không giải quyết được tình thế khi viên trung úy chỉ huy cánh
quân này bị bắn chết. Giữa lúc đó, một lực lượng nghĩa quân từ đồn chính bí mật
vận động ra, đánh tập hậu đội hình địch, chúng phải hốt hoảng rút lui với thương
vong là 8 tên chết, 24 tên bị thương.
Đợt đánh phá cuối
cùng của quân Pháp vào đồn Hố Chuối lần này, mở đầu ngày 2-1-1891, và kéo dài
suốt 10 ngày. Lực lượng của chúng gồm 1060 lính có pháo binh, công binh, hải quân
hỗ trợ, do đại tá Phơrê chỉ huy. Sử dụng các hải thuyền theo đường sông, địch đánh
chiếm các làng xung quanh, chiếm các cao điểm, dùng pháo bắn cầu vồng vào trong
đồn, đồng thời cho tàu chiến tuần tiễu trên sông Thương, ngăn chặn các ngả tiếp
tế và rút lui của nghĩa quân. Trận này chúng chọn hướng tiến công chủ yếu là từ
phía nam đồn Hố Chuối. Để đối phó lại, nghĩa quân cũng điều nhiều nhóm nhỏ tỏa
ra chiếm lĩnh nhiều ngọn đồi xung quanh, phục kích đánh tiêu hao lực lượng địch.
Với lực lượng áp đảo, ngày 7-1, quân Pháp bắt đầu tiến công các công sự của nghĩa
quân, cùng lúc càn quét làng Nứa và làng Vàng để phá hủy dự trữ hậu cần của nghĩa
quân được cất giấu ở đây. Trong hai ngày 8 và 9-1, quân Pháp tổ chức nhiều cuộc
công đồn nhưng đều thất bại. Ngày 10-1, một trận đánh ác liệt xảy ra, đặc biệt
là từ hướng nam. Địch phải dùng những tấm thép chống đạn làm lá chắn để xông lên
đánh chiếm các công sự của nghĩa quân. Trận đánh kéo dài đến đêm. Trước một tương
quan lực lượng quá chênh lệch, để bảo toàn lực lượng, ngay trong đêm đó, toàn bộ
nghĩa quân chủ động rút khỏi đồn Hố Chuối. Sáng hôm sau, khi quân Pháp tiến vào
thì đồn Hố Chuối đã hoàn toàn vắng lặng. Đợt ra quân này, địch chết 26 tên, bị
thương 73 tên.
Sau khi rút khỏi
Hố Chuối, nghĩa quân Yên Thế về Đồng Hom, lập căn cứ và tổ chức hệ thống phòng
ngự ở đó.
Ngày 25-3-1892,
một lực lượng quân Pháp do trung tá Hăngri chỉ huy kéo tới đánh Đồng Hom. Trận đánh
này cũng ác liệt, kéo dài suốt một ngày. Nhờ trận địa được chuẩn bị kỹ càng,
chu đáo, Đề Thám cùng nghĩa quân đã đánh trả quyết liệt, có hiệu quả và chỉ đến
tối mới rút đi, sau khi gây cho quân Pháp thiệt hại là 13 tên chết trong đó có
3 trung úy, 31 tên bị thương và 9 tên mất tích.
Rút khỏi Đồng
Hom, nghĩa quân trở lại Hố Chuối. Tháng 5-1894, quân Pháp tấn công đồn Hố Chuối
lần thứ hai. Nghĩa quân đánh một trận anh dũng, giết chết giám binh Tơruvê, bắn
bị thương công sứ Bắc Giang là Mulơliê và làm thương vong nhiều tên khác rồi lánh
sang Thái Nguyên, tạm thời tránh đụng độ với địch.
Sau khi đã củng
cố lực lượng, Đề Thám lại kéo nghĩa quân về Yên Thế, phục kích một đoàn xe lửa
từ Kép đi Bắc Giang, bắt sống hai tên Pháp, buộc chúng phải chuộc tiền, chấp nhận
giảng hòa và công nhận Đề Thám làm chủ 4 tổng: Mục Sơn, Yên Lễ, Nhã Nam và Hữu
Thượng. Thời gian này, Đề Thám lập bản doanh ở Phồn Xương và tranh thủ phục hồi
lại binh lực.
Sáng ngày
30-11-1895, quân Pháp do tướng Galiêni bất ngờ đánh úp Phồn Xương. Sau khi chống
trả quyết liệt, nghĩa quân rút vào rừng rậm, tiếp tục chiến đấu. Quần thảo mệt
nhoài mà không sao tiêu diệt được nghĩa quân, Thực dân Pháp đành phải giảng hòa
lần thứ 2 vào tháng 11-1897. Đề Thám dẫn quân của mình về lại Phồn Xương, làm
chủ một phương, gây dựng lực lượng, tích trữ phòng cơ, Cuộc giảng hòa này kéo dài
đến khoảng 12 năm.
Ngày 27-6-1908,
tại Hà Nội, xảy ra sự kiện chấn động xã hội mà lịch sử còn lưu lại với cái tên
“Hà Thành đầu độc” - đầu bếp người Việt đã dùng cà thược dược đầu độc gần 250 vừa
sĩ quan vừa binh lính Pháp trong bữa ăn tối (tuy nhiên chúng chỉ bị say và được
cứu chữa kịp thời vì chất độc không đủ mạnh). Trong quá trình điều tra, Thực dân
Pháp đã tìm được nhiều chứng cớ khẳng định Đề Thám có vai trò chủ yếu trong vụ đó.
Và đây cũng chính là một nguyên nhân khiến Thực dân Pháp quyết tâm tuyệt trừ
nghĩa quân Yên Thế.
Tháng 1-1909,
Thực dân Pháp huy động một lực lượng khổng lồ (có sách nói có tới 15000 quân!) được
chỉ huy bởi đại tá Pháp là Báctuê và đại thần Lê Hoan, nhằm bao vây chặt khu vực
Yên Thế để tìm diệt bằng được Đề Thám cùng nghĩa quân của ông. Trước tình hình
hết sức cam go đó, Đề Thám đã chọn phương thức đối đầu tối ưu là phân tán lực lượng
thành nhiều nhóm: nhóm trung tâm do Đề Thám cùng cả Trọng (con trai ông) và Đặng
Thị Nhu (vợ ba của ông) chỉ huy, đóng ở Phồn Xương; nhóm 2 do Lý Thu chỉ huy;
nhóm 3 và 4 do cả Dinh, cả Hùng chỉ huy, đóng ở hai vị trí phòng ngự phía tây khu
vực Hố Chuối, nhóm 5 ở Thương Thượng; nhóm 6 ở trại Gốc Cọ.
Khởi đầu, quân
Pháp đánh mạnh vào trại của cả Dinh, cả Huỳnh. Hai nhóm này đánh trả quyết liệt
nhưng cũng phải rút lui. Hôm sau, Pháp tập trung lực lượng đánh Phồn Xương. Nghĩa
quân rút cả về Đồng Hom. Tại đây, Đề Thám chỉ bố trí 30 nghĩa quân, dựa vào công
sự đón đánh địch. Lực lượng còn lại được chia thành 5 nhóm do Cả Dinh, Cả Huỳnh,
Ba Điều, Cai Thanh, Lý Thu chỉ huy, đóng trên các địa chỉ phân tán khác nhau. Nếu
bị đánh núng thế, các nhóm trên sẽ được chia nhỏ hơn nữa thành từng toán từ 5 đến
7 người tiếp tục chiến đấu. Nhờ thế, trong phạm vi không rộng và đã bị vây chặt,
nghĩa quân Yên Thế vẫn tiếp tục chiến đấu ngoan cường, cầm cự đến 4 năm nữa, cụ
thể là ngày 10-2-1913, khi Đề Thám cùng 2 thuộc hạ thân tín bị sát hại, cuộc khởi
nghĩa Yên Thế mới chấm dứt. Giặc Pháp và đám tay sai đã hèn mạt bêu đầu Đê Thám
ở Nhã Nam
- Bắc Giang hòng “nhát ma” dân chúng. Tuy nhiên, nhiều nhân vật tai mắt thời ấy
đã không tin thủ cấp đó là của Đề Thám. Dù sao đi nữa, trong lưu truyền dân
gian, ông vẫn được tôn vinh đời đời là “Hùm thiêng Yên Thế”.
Có chuyện kể rằng
vào năm 1911, khi đã gần 60 tuổi, bản thân Đề Thám một mình ông đã chiến đấu với
cả một trung đội lính khố xanh bao vây ông trên cao điểm 28 trong suốt một ngày,
rồi thoát vòng vây sau khi đã diệt được 5 tên địch, làm bị thương 7 tên. Hoặc cũng
có chuyện với bốn tay súng, nghĩa quân làng Sơn Quả, dựa vào công sự đã vô cùng
quả cảm, đối đầu suốt cả ngày trời với lực lượng 300 tên của Pháp, do đại úy
Padét chỉ huy.
Còn chuyện “Hà
Thành đầu độc” là thế này:
Hà Nội chưa bao
giờ ngừng đấu tranh chống Thực dân Pháp và sau này là cả triều đình nhà Nguyễn đã
hóa bù nhìn, còn bộ máy chính quyền của nó đã hóa thành công cụ tay sai.
Bước vào thế kỷ
XX, bộ mặt thật của Thực dân Pháp bắt đầu phơi bày bởi nạn sưu cao thuế nặng,
phu phen tạp dịch ở miền Trung. Tình cảnh một cổ mà hai tròng đã làm cho nông dân
xứ ấy nổi dậy phản kháng gay gắt, và tình hình đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến người
Hà Nội. Các tổ chức hoạt động yêu nước như phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa
Thục đều lấy Hà Nội làm trung tâm hoạt động. Dù có tính chất cải lương nhưng chúng
đã có tác động to lớn đến việc vạch trần bộ mặt mị dân của Thực dân Pháp, tính
chất lỗi thời, phản động, và mọt ruỗng của bộ máy triều đình phong kiến Huế - bù
nhìn đối với ngoài nước và là tay sai ở trong nước. Từ đó mà duy trì ngọn lửa yêu
nước thương nòi cũng như làm bừng sáng tinh thần tự tôn dân tộc trong nhân dân
cả nước nói chung và tầng lớp trí thức nói riêng, nhất là trong bộ phận thanh
niên học sinh - một thế hệ người Việt Nam mới, đầy nhiệt huyết. Trong bối
cảnh đó, các phái viên của Đề Thám như Chánh Tĩnh, Đội Hổ, Lý Nho đã xâm nhập Hà
Nội, lập một tổ chức yêu nước lấy tên là Hội Nghĩa Hưng, bí mật móc nối, tuyên
truyền đối tượng là binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Một kế hoạch làm
binh biến, kết hợp với lực lượng vũ trang của nghĩa quân Yên Thế từ bên ngoài vào,
đánh chiếm Hà Nội, hình thành. Nhiều sĩ phu như Phan bội Châu, Phan Chu Trinh,
Phan Văn Ngôn, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên… đã từng gặp Đề Thám bàn bạc phối
hợp hành động. Tại cửa hàng cơm và chứa trọ của vợ chồng ông Nguyễn Tĩnh (tức
Nhiêu Sáu) phố Cửa Nam và nhà thầy bói Nguyễn Văn Phúc (tức Lang Seo) phố Hàng
Buồm, đã có nhiều cuộc tiếp xúc giữa các thủ hạ của Đề Thám với một số anh em
binh lính khố đỏ như Nguyễn Chí Bình (Đội Bình), Đặng Đình Nhân (Đội Nhân), Dương
Bệ (Đội Cốc)… Trong bước triển khai kế hoạch chuẩn bị cho cuộc binh biến, có cả
một số sĩ phu Hà Nội như Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Võ Hoàng và một số tri thức
khác như thầy giáo Trịnh Văn Học ở Hoàn Long (ngoại thành Hà Nội), học sinh trường
Pháp Việt là Trần Đức Quang ở phố Hàng Đâu; có cả sư tham gia tích cực của một
số thợ thuyền và viên chức lao động làm việc cho Pháp như công nhân nhà máy đèn
là Nguyễn Trường Cần, gác đèn ở vườn Bách Thảo là Nguyễn Đình Chính, làm vườn ở
Dinh Toàn Quyền là Nguyễn Đăng Duyên, chạy công văn giấy tờ ở phồ Hàng Than là
Trương Phố…
Sau nhiều lần
trì hoãn, thời điểm thực hiện kế hoạch được ấn định là tối 27-6-1908, khoảng 8
giờ tối, việc đầu độc xảy ra trót lọt, khoảng 250 quân Pháp đã bị trúng độc sau
bữa ăn tối. Đáng lẽ sau đó, theo tiếng súng báo hiệu của lực lượng binh biến,
nghĩa quân Đề Thám sẽ từ Lò Lợn, từ ven Hồ Tây, từ Ô Cầu Giấy, từ dưới thuyền lên…
sẽ đánh vào các trại lính và Đồn Thủy. Tuy nhiên, kế hoạch lúc này đã bị bại lộ.
Tô Trương, một lính Việt thuộc trung đội Công nhân pháo thủ Hà Nội (đơn vị làm
binh biến) sau khi bỏ thuốc độc xong, đi xưng tội với cố đạo người Pháp là
Dronet (tức cố Ân). Vị cố đạo này làm trái Đạo Chúa, báo ngay cho tướng Pháp là
Belet biết. Quân Pháp lập tức báo động, tước hết vũ khí của binh lính người Việt,
giới nghiêm thành phố, đem quân đi chặn các ngả. Nghĩa quân bên ngoài chờ súng
hiệu không thấy, biết đã bị lộ nên phải rút lui. Vụ đánh úp Hà Nội bất thành. Hầu
hết những người tham gia vụ “Hà Thành đầu độc” đều bị bắt, 4 người bị xử chung
thân, 9 người bị khép tội tử hình (trong số này có bếp Hiên, bếp Xuân, bếp Nhiếp,
Đội Bình, Đội Cốc, Đội Nhân…). Ngày 8-7-1908, Thực dân Pháp đem chém 9 người ở
bãi Gáo, bêu đầu ở các cửa ô. Sau đó, chúng còn kết án tử hình vắng mặt, khổ
sai chung thân và giam giữ một số đông khác nữa.
Trong quá trình
tra tấn lấy lời khai, có chuyện bà Nguyễn Thị Ba, người làng Tương Mai, vợ ông
Nhiêu Sáu, bị chúng cho vào thùng đóng đinh nhọn chĩa vào trong rồi lăn mạnh thùng
trên mặt đất.
Có hai bức ảnh
chụp về vụ “Hà Thành đầu độc” còn lưu giữ được đến ngày nay, đó là bức ảnh chụp
13 vị nghĩa phu tham gia vụ đầu độc, với chân bị cùm và bức ảnh chụp ba cái thủ
cấp trong ba cái rọ tre đặt cạnh nhau, đầy máu me. Thủ cấp ở giữa mắt vẫn mở hờ,
mặt thanh thản và khóe miệng còn vương nụ cười phảng phất. Một thế kỷ đã trôi
qua, nhưng nhìn ngắm hai bức ảnh đó, chúng ta vẫn cảm nhận được qua vẻ mặt và ánh
mắt họ cái hừng hực của một tinh thần bất khuất vô song, cái ngùn ngụt của ngọn
lửa uất hờn vì thân đã xả mà chưa thỏa đền nợ nước…
Chỉ một chút xưng
tội mà sự việc vở lỡ. Thật vô cùng đáng tiếc! Tôn Trương có đáng lên án không?
Không! Theo chúng ta là không, đó chỉ là một kẻ ngoan đạo, dại khờ, mắc lỗi xưng
tội quá sớm nhưng không có tội. Nếu có tội chăng là cố đạo Ân kìa! Và tội đó là
tội dối Chúa lừa chiên!
Hành động của cố
đạo Ân làm chúng ta nhớ tới một cái tên: Puydinê (Puginier). Câu chuyện liên
quan đến cái tên này, chúng ta “nghe lóm” được chủ yếu từ Tiến sĩ Lý Khuông Việt
trong “quán” “Kiến thức ngày nay” số 655. Đây là câu chuyện làm cho cả Đức Chúa
lẫn Đức Phật đều buồn thúi ruột!
Khi Gacniê đem
quân ra Hà Nội, ông ta đã tìm cách bắt liên lạc ngay với giám mục Puydinê. Puydinê
“ra sức giúp quân lính (Pháp) tất cả những việc gì có thể thích hợp với vị trí
một giám mục thừa sai tại Bắc Kỳ”, trong đó có việc tuyển mộ mấy ngàn con chiên
của ông làm lính đánh thuê cho Thực dân Pháp. Linh mục Trần Tam Tỉnh viết: “Giám
mục (Puydinê) đã đoan chắc với binh lính rằng ông có thể nhập ngũ dưới ngọn cờ
của kẻ chiến thắng, bởi vì ngọn cờ này là cờ nước Pháp”. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương,
trong khi bị thương nặng, trước lúc mất, đã nói thẳng vào mặt Puydinê. “Chính
nhờ ông và các lời khuyên của ông mà bọn đạo tặc người Pháp đã cướp Nam Kỳ và sẽ
cướp cả Bắc Kỳ chúng tôi nữa”.
Theo linh mục
Trần Tam Tỉnh thì sau đó, “nhờ người Công Giáo” mà Gácniê tiếp tục chiếm được
Nam Định, Hải Dương và những vùng khác thuộc đồng bằng sông Hồng một cách nhanh
chóng”. Trong một báo cáo, Haman (Hatmand) thừa nhận: “Chắc chắn là những người
Thiên Chúa Giáo đã giúp cho chúng ta được nhiều việc lớn và đã làm cho nhiệm vụ
của chúng ta được dễ dàng hơn”.
Thấy chưa thể
nuốt trôi Bắc Kỳ. Pháp ký hòa ước năm 1874, làm cho “Puydinê chống lại chính sách
ấy mà ông xem là một sự nhục nhã đối với nước Pháp, một sự bất công đối với dân
chúng, nhất là đối với giáo dân”.
Chín năm sau,
khi Rivie dẫn quân ra Hà Nội, Puydinê không chỉ tuyển mộ hàng ngàn giáo dân làm
lính ngụy mà còn lập một đội do thám gồm những con chiên đáng tin cậy nhất để
cung cấp tin tức về lực lượng của quân dân ta cho Rivie. Theo linh mục Trần Tam
Tỉnh, ngày nay “người ta đang giữ được hàng chục điện văn và bản tin tình báo
mang chữ ký của ông ta trong văn khố của Bộ thuộc địa (Pháp). Và một phần nhờ ở
các bản tin đó mà quân Pháp đã có thể đập tan cuộc kháng chiến vũ trang của người
Việt Nam”. Một báo cáo của Pháp cũng nhận xét tương tự: “Chính nhờ sự hiểu biết
tường tận của ông ta về xứ Bắc Kỳ, nhờ nhiều tin tình báo mà giáo dân ở Bắc Kỳ
cung cấp cho ông ta, Bộ tổng tham mưu (của Pháp) đã có thể nhận được nhiều thông
tin có ích về giao thông ở Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa…”. Trong báo cáo ngày
4-4-1884 của Pháp gửi về Pari: “giám mục Puyniê được kể như là người đóng góp
nhiều nhất cho cuộc xâm lăng của Pháp ở Bắc Kỳ”. Chính Puydinê cũng tuyên bố:
“Không có các giáo sĩ và giáo dân, người Pháp sẽ giống như những con cua đã bị
bẻ gãy hết càng”. Toàn quyền Lanxan (Lanissan) thừa nhận ảnh hưởng của Puydinê
“lớn đến nỗi phần nhiều những hành động của nhà cầm quyền Pháp đều trực tiếp
vay mượn các ý tưởng của ông”.
Để ghi nhận công
lao của Puydinê đối với cuộc xâm lược vào xứ sở mà ông ta đang rao giảng những điều
thánh thiện nhất về Đức Chúa Giêsu, Thực dân Pháp đã gắn bên cạnh thánh giá của
ông ta cái huân chương Bắc đẩu bội tinh “Binh đoàn danh dự”. Chưa hết, khi Puydinê
xin chùa Báo Thiên của nhân dân Hà Nội, kẻ cướp Pháp “rộng lòng” cho luôn. Còn
nữa, khi con đường phố to nhất, đi từ cửa Nam đến phủ toàn quyền ở Hà Nội được
làm xong, Pháp liền đặt tên cho nó là “Đại lộ Puydinê”. Danh lợi đến như thế, hồi
đó có thỏa lòng ông chưa, hỡi hồn ma của Giám mục Puydinê?!
Thực dân Pháp đập
tan chùa Báo Ân để xây Nhà bưu điện và Phủ thống sứ thì Giám mục Puydinê cũng
nhanh tay “phế truất” chùa Báo Thiên để dựng nên một nhà thờ to tướng. Vào thời
điểm chùa Báo Thiên bị khai tử, công sứ Hà Nội là Bonan (R.Bonnal) nhận xét:
“Theo bề ngoài, phá chùa và chiếm đất, chẳng có gì là dễ dàng hơn thế trong
giai đoạn xâm lăng mà chúng ta trải qua”. Theo nhà sử học Đơvinlê ( Phillipe
Devillers), “nhà thờ này đã được làm lễ dâng Chúa (!) vào ngày 24-12-1886”, đúng
vào dịp Chúa giáng sinh. Tòa Giám mục Hà Nội cũng được xây dựng cạnh nhà thờ này
- gọi là nhà thờ Thánh Giuse (Saint
Joseph, cha của Chúa Giêsu). Năm 1950, Tòa Khâm sứ (đại
diện Tòa thánh vatican)
dời từ Huế ra Hà Nội, cũng đặt ở ngôi nhà bên cạnh. Cả ba vị trí ấy nằm gọn trên
nền của chùa Báo Thiên. Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, Việt Nam bị tạm thời chia cắt ở vĩ tuyến
17. Tòa thánh Vatican thiên vị, chỉ công nhận chính phủ Ngô Đình Diệm, không
thiết lập quan hệ ngoại giao với chính phủ Hồ Chí Minh, nên năm 1959, tòa Khâm
sứ ở Hà Nội đóng cửa, trở thành nơi phục vụ các lợi ích công cộng của thủ đô Hà
Nội.
Sau hơn 8 thế kỷ
nổi chìm cùng vận nước, buồn vui theo những đau thương và tự hào của Thăng Long
- Đông Đô - Hà Nội, chùa Báo Thiên đã phải “nhượng địa” lại cho nhà thờ Thánh
Giuse, ra đi không một lưu ảnh. Từ đây nét nhu mì, “phượng múa rồng bay” tươi mát
của Hà Nội giảm đi, nét uy nghi tráng lệ có phần se lạnh tăng lên.
“Vật đổi sao dời”
là lẽ tự nhiên, nhưng sự ra đi trong cảnh “nước mất nhà tan” của chùa Báo Thiên
thì thật ngậm ngùi. Chúng ta có thể mượn bài thơ mà giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng
tác giả đích thực của nó là: thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài bên Trung Quốc đời Tống;
để phần nào nói lên cái tâm trạng ấy:
“Nhạn quá trường
không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích
chi ý
Thủy vô lưu ảnh
chi tâm”
(Tạm dịch nghĩa:
Chim nhạn bay
ngang qua bầu trời
Hình bóng của nó
soi ở dưới làn nước lạnh
Chim nhạn không có
ý để lại di tích
Mà nước cũng chẳng
có lòng lưu giữ bóng hình)
Khai hóa văn
minh gì mà lại bêu đầu người ta ra như thế, rao giảng đức tin gì mà lại làm những
điều tán tận lương tâm như thế? Chúng ta chẳng bao giờ trả lời được câu hỏi này!
***
Có thể cho rằng
nếu chọn ngày Đề Thám bị sát hại làm mốc thì sau khoảng 55 năm đối với cả nước
kể từ trận Thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên đánh Đà Nẵng và sau khoảng 40 năm
đối với Bắc Kỳ kể từ phát súng đại bác đầu tiên công thành Hà Nội lần thứ nhất
của chúng, tiếng súng đấu tranh vũ trang trực diện với quân xâm lược Pháp của
nhân dân Việt Nam tạm thời ngừng nổ, kết thúc một thời kỳ có thể gọi là bi phẫn
nhất trong lịch sử Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam đã
từng trải nhiều thăng trầm, cũng không ít lần đất nước bị ngoại bang chà đạp gây
cảnh đau thương, nhưng chưa bao giờ lại phải chịu cái tình trạng khốn khổ, đầy
uất ức như thời đoạn đó. Triều đình bạc nhược đến mất hết tinh thần, cắt dần đất
nước dâng cho Pháp để mua lòng khoan dung của kẻ xâm lược, không đếm xỉa gì đến
con dân của mình… Nhân dân mong mỏi triều đình đứng ra lãnh đạo chiến đấu thì
triều đình bãi binh, đòi rút quan tướng về triều. Nhân dân phải tự phát nổi dậy
chiến đấu thì không những triều đình bỏ mặc họ mà còn đòi giải tán họ và sau này
còn quay sang tiếp tay cho Thực dân Pháp đàn áp họ. Sự hợp tác của triều đình với
quân xâm lược đã khuyến khích nhiều quan lại, quần thần cầu vinh, theo Pháp,
nhiều kẻ quay lại đánh phá phong trào kháng chiến, trở thành khét tiếng. Đó cũng
là một nguyên nhân làm cho phong trào kháng chiến của nhân dân mất tập trung,
thiếu tính mục đích cụ thể nên cũng mờ mịt về phương hướng và rốt cuộc dẫn đến
tản mạn, manh mún. Lời kêu gọi Cần Vương muộn màng, và sự tồn tại ngắn ngủi của
ông vua kháng chiến Hàm Nghi đã không đủ sức chuộc lại cái tội bỏ dân, bán nước
trước đó của triều đình nhà Nguyễn, chưa đủ thời gian tạo điều kiện cho lòng dân
qui tụ về. Giữa lòng dân Bắc Kỳ sôi sục kháng chiến mà quân triều đình cứ chiến
đấu như kẻ mất hồn, bỏ qua hết thời cơ này đến thời cơ khác có cơ may chiến thắng
rõ ràng. Được nhân dân ủng hộ, được chiến đấu giữa lòng dân như thế là một thuận
lợi to lớn, thế mà quân triều đình đã hành động cứ như kẻ đơn thương độc mã, hầu
hết là thụ động chống đỡ, cầu hòa. Như vậy có phải là bi phẫn không?
Nếu không thì
phải chăng là điều này: Quân dân muốn đánh giặc thì triều đình không cho đánh,
khi đã đánh và chuẩn bị giáng thêm đòn quyết định chiếm thế thượng phong thì
triều đình hốt hoảng sợ mất lòng Pháp, chuẩn bị giành được thắng lợi thì triều đình
đã nhanh tay ký thỏa ước, nhượng bộ, đầu hàng?
Hay bi phẫn chính
là hiện tượng này: hàng loạt quan lại triều đình mang nặng tư tưởng Nho giáo đầy
nhiệt huyết và năng lực đã bị giằng xé tâm hồn ghê gớm và đau đớn trước sự lựa
chọn khó khăn giữa trung quân và ái quốc? Trong số họ, có bao nhiêu con người
phải chết trong uất hận vì đã không tìm được lối thoát? Cùng dân đánh giặc cứu
nước thì mắc tội khi quân, còn muốn giữ tiếng trung quân thì phải bỏ dân, quên
nước, không thể lựa chọn cả hai thì chọn cái nào đây?
Bao nhiêu sĩ
phu yêu nước, cùng dân đánh giặc mà bị triều đình gọi là “giặc” thì có bi phẫn
không?
Trường hợp sau đây
kể về một ông quan đã hành động đúng, có cuộc đời tương đối “suôn sẻ”, nhưng cũng
cho chúng ta thấy cuộc đấu tranh tư tưởng hết sức gay gắt thời bấy giờ giữa ơn
vua - nợ nước.
Dựa theo “Thế
giới mới” số 808 thì Đỗ Quang sinh năm 1807 trong một gia đình nhà Nho nghèo.
Quê ông ở Gia Lộc, Hải Dương. Ông là người học giỏi, năm 18 tuổi đỗ tú tài, năm
21 tuổi đỗ cử nhân, năm 25 tuổi đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1832) đời Minh Mạng.
Với tài học rộng,
kiến thức cao sâu, lại khẳng khái, trung thực nên Đỗ Quang được giữ nhiều trọng
trách khác nhau trong triều chính và là đại thần ở cả 3 đời vua: Minh Mạng, Thiên
Trị, Tự Đức.
Sự thanh liêm hết
mực của quan Đỗ Quang được dân thì tin yêu, vua thì mến phục. Lần đầu, khi làm
Tuần phủ Định Tường (địa bàn các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp ngày nay),
ông bị cách chức. Vua Tự Đức tra xét kỹ rồi chỉ dụ rằng: “Được biết Đỗ Quang ở Định
Tường khi bị cách chức, dân trong hạt khóc lóc như mưa. Nếu không phải ngày thường
được dân yêu thì làm sao được như thế!”. Lần thứ hai, khi giữ chức Bố chính Nghệ
An, ông mắc phải vạ. Tổng đốc Nghệ An lúc đó tâu về triều rằng ông là người
“ngay thẳng, liêm khiết trước tiền tài, cảnh nhà thanh bần”, nên ông được miễn
phạt. Vua Tự Đức chỉ dụ: “Đỗ Quang làm quan thanh liêm được mọi người khen ngợi,
do phạm vào án, phải bồi thường cũng chỉ vì không khéo biện lý. Hãy miễn cho tất
cả để khuyến khích người liêm khiết”.
Năm Canh Thân
(1860), Đỗ Quang được cử làm tuần phủ Gia Định. Cũng trong năm đó, Nguyễn Tri
Phương được phong làm Thống tướng quân vụ đại thần. Hai ông dốc sức chỉ huy đánh
Pháp. Tháng giêng năm Tân Dậu (2-1861), quân Pháp tập trung lực lượng tấn công
Gia Định, đại đồn Chí Hòa thất thủ. Nguyễn Tri Phương chủ trương rút về Biên Hòa
nhưng Đỗ Quang không đồng ý. Nguyễn Tri Phương hỏi: “Đại đồn đã mất rồi, ở lại
sao được?”. Đỗ Quang đáp: “Tuy đại đồn thất thủ nhưng còn đất, còn dân thì ta còn
đánh được”. Câu nói này đã thể hiện cái tư tưởng quân sự rất sâu và rất đúng của
Đỗ Quang. Nó phù hợp với cách đánh truyền thống của dân tộc Việt. Tiếc rằng
Nguyễn Tri Phương đã không cảm thụ được cái chân lý hàm chứa trong câu nói giản
dị đó. Dù sao thì Nguyễn Tri Phương đã không phải là Trần Quốc Tuấn. Với quan
niệm “công - thủ” cứng nhắc tương tự Hồ Quí Ly, trước một đội quân xâm lược không
đông nhưng tạm có ưu thế áp đảo về hỏa lực, ông quyết định lùi quân theo kiểu
“chạy dài” về Thuận Kiều, và như ông nói là để củng cố lực lượng tìm cách lấy lại
Gia Định.
Than ôi! Ngày
25-2-1861 Đại đồn thất thủ thì ngày 28-2, quân Pháp đánh Thuận Kiều. Quan quân
rút về Biên Hòa thì ngày 3-3 giặc chiếm đóng Trảng Bàng, coi như làm chủ Gia Định.
Thừa thắng, ngày 12-3, chúng càn quét vùng phụ cận Sài Gòn (Biên Hòa, vùng sông
Vàm Cỏ Tây, rạch Vũng Gù và đường bộ Sài Gòn - Mỹ Tho). Gia Định, nơi dấy nghiệp
đế của Nguyễn Ánh, vĩnh viễn “từ biệt” triều đình Huế.
Sau thất bại này,
triều đình cử Nguyễn Bá Nghị vào chỉ huy cuộc kháng chiến. Dưới con mắt nhát cáy
và phản dân của Nghị thì tình thế đã đến lúc “đánh, giữ đều không được”. Và ông
ta tâu về triều: “Trừ một chước hòa, tôi chỉ còn chịu tội”. Trong khi đó thì sự
thể khác hẳn: cuộc chiến đấu của những đoàn “dân dũng”, những đội quân “dân ấp,
dân lân” đang làm cho quân Pháp lúng túng, thất điên bát đảo; một bộ phận chiến
đấu sát cánh với quân triều đình, một bộ phận khác tự động tổ chức đánh giặc và
đánh giặc khắp nơi. Chính Barê (Pallu de La Barrière), một tác giả người Pháp cũng
ghi nhận: “Thực tế đâu đâu cũng là trung tâm kháng chiến. Cuộc kháng chiến có cơ
sở và hệ thống khắp nơi. Có thể nói rằng hễ có bao nhiêu người An Nam thì có bấy
nhiêu ổ kháng chiến. Đúng hơn là phải xem mỗi người nông dân đang bó lúa là một
du kích quân”
Thật là bi phẫn!
Và càng bi phẫn hơn nữa khi nhớ về thời Trần, về câu nói bất hủ khi can vua định
hàng giặc của Trần Thủ Độ và của Trần Quốc Tuấn! Phải nói: Bá Nghị ẹ ơi là ẹ!
Khi Nguyễn Tri
Phương rút lui, Đỗ Quang về Gò Công cùng Trương Định chống giặc. Thấy Trương Định
là người mưu trí, có tài thao lược lại lập nhiều chiến công nên tuần phủ Đỗ
Quang tấu trình về triều, vua Tự Đức liền phong cho Trương Định làm Phó lãnh
binh.
Ngày
10-12-1861, đạo quân ứng nghĩa do Nguyễn Trung Trực chỉ huy, đốt cháy tàu chiến
Pháp trên sông Nhật Tảo, tiêu diệt phần lớn quân địch trên tàu, khích lệ mạnh mẽ
tinh thần cứu nước của nhân dân lục tỉnh. Cũng năm đó, nghĩa binh Cần Giuộc tấn
công tiêu diệt một số quân Pháp nữa. Nhưng bên ta cũng tổn thất. Dịp này, chính
Đỗ Quang đã nhờ cụ Đồ Chiểu (Nguyễn Đình Chiểu) viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc” nổi tiếng và rất cảm động, để đọc tại lễ truy điệu những “dân ấp, dân lân
mến nghĩa làm quân chiêu mộ” đã anh dũng hy sinh.
Đến đầu năm
1862, tuy thực dân Pháp chiếm được 4 tỉnh thành (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa,
Vĩnh Long) nhưng chưa thể tổ chức được bộ máy cai trị vì luôn phải tích cực đối
phó với cuộc kháng chiến quyết liệt của quân dân ta. Những trung tâm kháng chiến
ở Cần Giuộc (do Quản Là chỉ huy), Thủ Dầu Một, Trảng Bàng và Tây Ninh ở phía bắc
sông Vàm Cỏ, ở Tháp Mười (do Võ Duy Dương chỉ huy), đã chặn đứng được ý đồ đánh
thọc sâu vào vùng nông thôn nhằm bao vây tiêu diệt lực lượng kháng chiến của giặc.
Các nguồn tư liệu khác nhau cho thấy những tháng đầu năm 1862 là thời gian khủng
hoảng nặng nề nhất của quân viễn chinh Pháp ở chiến trường Việt Nam. Một
mặt là do phong trào kháng chiến đang dâng cao của nhân dân Nam Kỳ, một mặt là
do những tác động tiêu cực từ thất bại của Pháp ở Xiri (Syrie), ở Mêhicô
(Mexique) và làn sóng phản đối của nhân dân Pháp.
Giữa lúc đó, nếu
triều đình Huế hạ chiếu Cần Vương, hô hào trung quân, ái quốc thì nhất định quân
viễn chinh Pháp sẽ bị cuốn phăng ra biển cả hoặc ở lại dưới những nấm mồ. Nhưng
không, triều đình Huế đã làm điều ngược lại là chủ động “nghị hòa”, đến Thực dân
Pháp cũng phải ngỡ ngàng: “May mắn thay, đang lúc phải đón đợi một tình thế xấu
thì Huế lại yêu cầu ký hòa ước”. Thế là hòa ước Nhâm Tuất ra đời ngày 5-6-1862.
Đây là “thành quả” cơ bản mà triều đình Huế đã đạt được nhờ hòa ước ấy: “Trọn
ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn nhượng đứt cho Pháp… Vua
An Nam ra lệnh chấm dứt các cuộc nổi loạn đang diễn ra trong các tỉnh Gia Định,
Định Tường và những người cầm đầu các cuộc nổi loạn phải đi khỏi để trong xứ có
an ninh và qui thuận”.
Thế có bi phẫn
không?!
Triều đình bãi
binh. Đau khổ và đơn độc, nhưng nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu. Một số quan
quân triều đình đã không nỡ bỏ dân, chấp nhận tiếng “khi quân”, ở lại cùng sĩ
phu yêu nước và dân nghĩa dũng, hiến dâng đời mình cho Tổ quốc. Trong số đó có:
Trương Định, Võ Duy Dương, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huấn Nghiệp,
Hà Mậu Đức, Nguyễn Tấn Kiều, Bùi Quang Diệu… và tiêu biểu là Trương Định. Ông được
nhân dân Nam Kỳ tôn vinh là “Bình Tây Đại nguyên soái”. Trong văn bia tại lăng
mộ ông còn ghi:
“… Năm Kỷ Mùi
(1859), (Pháp) chiếm thành Gia Định, ông theo giúp việc nơi quân thứ. Năm Canh
Thân (1860), đại đồn thất thủ, ông về Gò Công mộ nghĩa binh… quyết chí thu phục
giang sơn cũ. Tiếp đó ông được nhận chức Phó Lãnh binh Gia Định…
Năm Nhâm Tuất
(1862), do việc hòa nghị, ông được điều bổ về An Giang. Lúc đầu ông không có ý
cưỡng lệnh triều đình, nhưng lại cũng không muốn phụ lòng mọi người. Do lòng
trung phẫn, họ ngăn ông lại giữa đường, không muốn cho ông đi nhậm chức, đồng lòng
suy tôn ông làm đại tướng quân…
Năm Quý Hợi (1863),
đồn Gò Công thất thủ, ông lại quay trở về đây và lại khởi binh. Ngày 19 tháng 7
năm Tự Đức thứ mười bảy, ông tử trận ở rừng Tân Phước, được đem về táng ở làng
Thuận Ngãi…”.
Thực tế là ngày
25-9-1863, được bọn tay sai mật báo, quân Pháp đột kích căn cứ Lý Nhơn. Nghĩa
quân phá vòng vây trở về vùng Gò Công, giấu lực lượng tại một nơi hiểm yếu bên
hữu ngạn sông Soài Rạp. Địch phát hiện, đêm tối 19-8-1864, kéo đến đột kích. Sáng
20-8, Trương Định thoát được vòng vây nhưng bị địch bắn theo, gãy cột sống, hy
sinh tại trận.
Khoảng cuối tháng
1-1866, Phan Thanh Giản có thi hành lệnh “giải giáp” của triều đình nhưng theo
ghi nhận của một học giả thực dân Pháp thì: “Chúng ta ngỡ rằng vị quan này sẽ
ra lệnh ngưng được mọi cuộc nổi loạn, nhưng tình hình vẫn như cũ. Lệnh của Phan
Thanh Giản vẫn vô hiệu. Bọn phiến loạn Đồng Tháp ngày càng gia tăng hoạt động.
Các đồn bốt vùng Mỹ Tho bị tấn công. Đầu tháng 2 (1866), bọn phiến loạn truyền
hịch kêu gọi dân chúng nổi dậy, hứa hẹn sẽ thành công…”.
Tinh thần kháng
chiến của nhân dân Nam Kỳ là như thế đó!
Trở lại chuyện Đỗ
Quang. Trong gần 2 năm lăn lộn cùng quân dân Nam Kỳ kháng chiến, ông đã có nhiều
đóng góp quan trọng trong những chiến công đánh Pháp, được mọi người nể phục.
Sau hòa ước Nhâm Tuất, triều đình gọi Đỗ Quang về làm Tuần phủ Nam Định. Ông
cho đó là hành động trốn giặc, đáng xấu hổ, bèn không nhận lệnh rồi dâng sớ từ
quan với giọng văn đầy đau xót, phẫn uất.
“… Ngày thần ra
về, kẻ sĩ và nhân dân đứng chật đường mà nói rằng: từ nay cha bỏ con, quan bỏ dân,
quan về lại làm quan còn dân thì không được làm dân của triều đình nữa. Tiếng
khóc nghẽn đường. Thần cũng phải gạt nước mắt mà ra đi. Trộm nghĩ thần tầm thường
kém cỏi không có tài cán gì, nhưng lâu nay quanh quẩn với dân, vốn không nghĩ đến
ngày được sống trở về. Nay thần được gọi về, còn nghĩa sĩ, nghĩa dân thì không được
vì triều đình mà góp sức, góp của nữa, không biết đặt mình vào đâu. Như thế là
thần trên đã phụ triều đình, dưới phụ trăm họ, tội đã rõ ràng không thể chối cãi.
Nếu nay thần lại được nhận chức ở địa phương Nam Định thì đối với nhân dân Gia Định
biết nói sao đây, đối với công luận thiên hạ biết nói thế nào? Thần còn chút làm
người biết xấu hổ nên cúi đầu xin thu hồi lệnh đã ban, bãi chức cho thần được
trở về với vườn ruộng để cho hả cái nỗi phẫn uất của nhân dân và còn để cho giữ
được cái tiết liêm sỉ của thần hạ”.
Bài sớ của Đỗ
Quang rất nổi tiếng, đương thời được nhân dân cả nước hoan nghênh, cảm phục.
Tuy chống lệnh
nhưng triều đình không bắt tội ông, còn triệu về kinh bổ nhiệm chức Tham Tri. Ông
cũng từ chối.
Năm Giáp Tý
(1864), miền Hải Dương, Quảng Ninh bị nạn phỉ hoành hành, quan quân triều đình đối
phó rất vất vả. Triều đình lại gọi Đỗ Quang ra giữ chức Tham tán quân vụ Hải An
rồi Tuần phủ Bắc Ninh. Ông nhận, hăng hái làm tròn trọng trách. Sau khi dẹp yên
bọn phỉ, ông lại cáo quan về ở ẩn. Năm Bính Dần (1866), Đỗ Quang mất tại quê nhà,
ôm theo mối bất bình với tư tưởng chủ hòa đầy bạc nhược của triều đình, về “ngậm
khóc” nơi chín suối.
Nhìn vào lịch sử,
không thể chối cãi được rằng hệ tư tưởng Nho giáo đã có những tác động tích cực
nhất định đến đời sống xã hội thời quân chủ. Nhưng cũng phải công nhận rằng cái
quan niệm “trung quân” mù quáng, thái quá, cực đoan đến tàn nhẫn của nó đã gây
ra không ít những cái chết oan uổng, uất ức hoặc cũng có thể là bi tráng nhưng
vô ích của biết bao nhiêu con người tài năng, chính trực. Đỗ Quang chưa bị dồn
vào bế tắc đến mức tuẫn tiết, nhưng câu chuyện về Đỗ Quang đã là điển hình bi kịch
của sự giằng xé nội tâm về tư tưởng của bộ phận quan lại, sĩ phu yêu nước thời đó.
Và qua đó, hành động trả ấn từ quan về với dân với nước tham gia kháng chiến chống
Pháp của họ càng thêm cao quí, càng được kính phục.
Thế còn tư tưởng
“trung quân” của Đại Chúng? Đơn giản hơn! Đại Chúng cũng “trung quân” với triều
đình vì theo lẽ tự nhiên, Đại Chúng cũng cần có lãnh đạo để điều hành đất nước.
Đại Chúng nghe theo “chỉ bảo” của triều đình và còn tôn vinh nếu triều đình đó
“tốt” đối với Đại Chúng. Nhưng Đại Chúng sẽ nổi lên chống lại, thậm chí là đòi
“đổi mới” trước một triều đình trở nên “xấu”, phản bội. Khi có giặc ngoại xâm, Đại
Chúng mong triều đình đánh giặc và dốc lòng theo triều đình đánh giặc giữ nước
vì tin vào “tài” thống nhất chỉ huy của triều đình, tin rằng triều đình dù sao
cũng là “người nhà”, ở trong một “nhà” với Đại Chúng và của Đại Chúng. Một khi
triều đình không những bỏ Đại Chúng mà còn bán cả “nhà” của Đại Chúng cho kẻ xâm
lược để ích kỷ toàn mạng cầu vinh thì Đại Chúng cũng cứ phải đánh giặc thôi. Vì
nếu không đánh giặc thì Đại Chúng ở đất nào? Triều đình bán “nhà” của Đại Chúng
cho kẻ xâm lược nhưng đời nào Đại Chúng chịu, hơn nữa bán hết rồi thì ở đâu, không
lẽ kéo bầu đoàn thê tử lưu vong đi xâm lược “nhà” của Đại Chúng khác. Mà dám không?
Do đó, triều đình phải quay lại, đi theo kẻ xâm lược chà đạp Đại Chúng để xin kẻ
xâm lược nhượng lại cho góc “nhà” nào đó mà ở. Đại chúng vốn “cả tin”, dựa hết
vào sự bảo vệ của triều đình, chỉ lo làm lụng mà không tàng trữ binh lực, nên
trong những trường hợp như vậy thì dễ bị thua. Thua thì mất “nhà”, đành phải sống
trên đất rõ ràng là của mình mà như là đất giặc, trở thành nô lệ của “khách” trên
đất mình. Bị vậy nên Đại Chúng thua rồi vẫn đánh, đánh truyền đời truyền kiếp
cho đến thắng thì thôi, đến đòi được “nhà” mới thôi, và lần này thì dẹp luôn cả
“trẫm”. Tuy nhiên, cũng có thể phải chịu hy sinh hết mà không đòi được “nhà”. Nếu
có vậy thì Đại Chúng vẫn cứ đánh vì đàng nào cũng chết, mà chết trong đấu tranh
vẫn thỏa chí hơn chết trong đọa đày, vì “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trên đất mà tổ tiên đã dày công
khai phá, làm chủ và con cháu có quyền được hưởng.
Rõ ràng, trước
quân xâm lược thì trước sau gì Đại Chúng cũng phải đánh đuổi, có triều đình đi
“tiên phong” thì tốt hơn nhưng không có triều đình cũng phải tự nổi dậy mà đánh,
tự phát đánh. Từ đây, chúng ta hiểu vì sao ông cha ta đã đúc kết được một câu rất
cô đọng nhưng thật sự bình dị, vừa là nguyên tắc, vừa là nghĩa vụ, vừa là truyền
thống: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”.
Có lẽ nhiều lãnh
tụ khởi nghĩa hồi đó của Tổ Quốc nói chung và Bắc Kỳ nói riêng cũng hiểu đơn giản
thế: đối với lũ ngoại bang cầm súng xâm lược quê hương xứ sở thì hành động tiên
quyết là đánh đuổi chúng đi, còn thương thuyết chỉ là sách lược, quyền mưu.
Thời tuổi trẻ,
chúng ta rất thích một bài thơ, đến bây giờ còn thuộc. Nghe bạn bè nói, đó là bài
thơ mô tả nội dung bức thư cuối cùng của Đề Thám gửi cho một kẻ đã từng là cha
nuôi hay cha đỡ đầu gì đó của ông, tên là Phúc, làm quan tay sai Pháp, đã từng
lên bản doanh của Đề Thám, đã từng gửi thư cho Đề Thám dụ hàng. Không biết do
ai sáng tác, cũng quên khuấy mất người bạn nào đã đọc cho chúng ta chép bài thơ
đó, và bản chép bài thơ đó cũng đã mất biến tự bao giờ. Nhưng cái hùng khí, cái
ngang tàng bất khuất, cái sang sảng của nó đã ngấm vào tim óc của chúng ta từ độ
ấy và bây giờ, kể chuyện đến đây, chúng ta bỗng thấy nó hiện lên, hực đỏ chói màu
máu trên trang vàng tươi rói màu da dưới ánh sáng chan hòa phản chiếu xuống từ
bầu trời xanh cao vời vợi, giữa một bao la thinh không vắng lặng, như thầm thì
nhắn nhủ qua cảm giác tâm linh: thời gian làm cho tất cả những mưu đồ, những thể
hiện thị phi về sang - hèn, sướng - khổ, vinh - nhục, khôn - ngu, thành - bại…
của mọi thời đều phải đi qua, đều trở thành phi lý, vô nghĩa, nhưng những điều
thiêng liêng thì vẫn ở lại trong lòng hậu thế, giúp hậu thế thấy được đời người
là phù phiếm, vô tình đối với Tạo Hóa đồng thời là quan trọng, có nghĩa đối với
mỗi con người. Do đó mà ai cũng vậy, đều phải loay hoay lựa chọn cho mình một lẽ
sống, dù nhiều khi là không dễ dàng, thậm chí là cay nghiệt, dữ dội. Dù thế thì
cũng vẫn phải lựa chọn, không thể không lựa chọn. Chúng ta sẽ ngâm lên bài thơ
này:
Đọc mấy lời
trong thư cha dụ dỗ.
Dòng
lệ con lã chã lâm ly.
Nhớ
ngày nào con dứt áo ra đi
Trong
quá khứ cha ghi niềm kiêu hãnh.
Lưỡi gươm nọ máu
kẻ thù còn dính
Mà
anh hùng tim lạnh bả hư vinh
Trong
phong ba vùng vẫy bóng ngạc kình
Tham
mùi béo nạp mình cho ngư phủ.
Giữa
rừng xanh tung hoành con mãnh hổ
Ham
mồi ngon ủ rũ chốn chuồng con
Bả
hư vinh mờ mịt cả tâm hồn
Nào
có chuyển lòng son dạ sắt
Núi
Hồng Lĩnh còn mịt mờ u uất
Sông
Nhị Hà còn chứa chất khối hờn căm
Thì
đời con là của cả giang sơn
Dù
gió kép mưa đơn đâu xá kể.
Trong những lúc
cha vui vầy vị kỷ
Là
những khi con rầu rĩ khóc non sông
Đêm
đông trường cha đệm gấm, chăn bông
Ngoài
thẳm xanh con nằm gai nếm mật.
Cha
hít thở trong hương trầm thơm ngát
Pha
lẫn mùi máu thịt của lê dân.
Thì
con đây ngạt thở bởi xâm lăng
Lại
vẳng tiếng hờn oan bao thảm cảnh.
Trên
ngực cha đầy mề đay, kim khánh
Bên
mình con lấp lánh kiếm Tiêm Cưu.
Cha
say mê bên thiếu nữ yêu kiều
Con
tận tụy với tình yêu Tổ Quốc.
Buổi đoàn tụ,
thôi cha đừng mong ước
Cuộc
hội đàm chỉ đại bác với thần công
Bức
thư đây là bức thư cuối cùng
Cha
chỉ còn là cha trong dĩ vãng.
Xin
hạ bút cho thân tình gián đoạn
Để
người đời kết án kẻ gian phi!
Lưỡi
gươm này, con tuốt sẵn chờ khi…
Đó là sự lựa chọn
lẽ sống của Hùm Thiêng Yên Thế. Nhưng như chúng ta đã theo dõi, cùng thời nước
sôi lửa bỏng bấy giờ, cách lựa chọn đó không phải là độc nhất vô nhị, mà cũng
không phải là hiếm.
Đương nhiên, cũng
có sự lựa chọn lẽ sống tương phản, đối kháng với sự lựa chọn nói trên. Nếu cách
sống trước là “vì nước quên thân” thì cách sống sau là “vì thân quên nước”. Dù
có biện luận, giải thích kiểu gì đi chăng nữa, dù có đánh lận con đen giữa công
và tội khéo léo đến mấy đi nữa, dù có xét đi xét lại đến vạn lần thì rốt cuộc
trước Đức Huyền Diệu, cốt lõi sự thực cũng chỉ là hai cách tương phản ấy và trước
mắt Đại Chúng, cách sống sau “có mặt” càng thượng tôn, càng làm hào hùng cách sống
trước, và dĩ nhiên, cách sống sau trở nên thấp hèn, đê tiện. Ở đời, thiếu gì người
muốn làm anh hùng và tưởng rằng mình đã là anh hùng; ai cũng có thể luận anh hùng
và nhiều kẻ đã được gắn nhãn mác anh hùng, nhưng xứng danh anh hùng của Đức Huyền
Diệu chỉ có thể là những người “vì nước quên thân” theo quan niệm của Đại Chúng
- linh hồn của đất nước, và được thừa nhận, tôn thờ bởi Đại Chúng đương thời cũng
như những đời sau. Đó mới chính là những tấm gương sáng ngời đích thực về lòng
trung nghĩa.
Xét như thế thì
Napôlêông có phải anh hùng không? Có thể là anh hùng ở thời kỳ đầu với chiến dịch
nước Ý, ở thời kỳ sau với chiến dịch nước Pháp, khi những chiến dịch ấy được
cho là chống xâm lược; có thể là “gian hùng” khi ông ta tiến hành những chiến dịch
nhằm mục đích xâm lược, làm bá chủ châu Âu, điển hình là chiến dịch nước Nga; có
thể là anh hùng khi đại diện cho một hình thái kinh tế - xã hội tiến bộ hơn đi đánh
dẹp các chế độ quân chủ chuyên chế đã lạc hậu, thối ruỗng, nhưng cũng có thể chỉ
là đồ tể, bạo chúa khi ra tay tàn bạo hòng khuất phục các dân tộc khác nhằm thỏa
sự thèm khát được làm bá chủ châu Âu (điển hình là cuộc đàn áp đẫm máu cuộc kháng
chiến bất khuất của nhân dân Tây Ban Nha - ngọn lửa đầu tiên báo hiệu sự thiêu tàn triều đại Napôlêông). Thế thì tại sao nhiều
người vẫn gọi cuộc đời Napôlêông gắn liền với cuộc chiến tranh đẫm máu do ông
phát động, là “thiên anh hùng ca”? Đó là một cách gọi và xét ở góc độ tác động
lớn lao của cá nhân một con người đến toàn châu Âu, xét ở bình diện thuần túy
quân sự và thiên tài “đánh nhau” của Napôlêông đã làm cho người đời phải bái phục,
thì gọi như thế cũng có thể được, không sai. Nếu thế sao người ta lại không gọi
cuộc đời Thành Cát Tư Hãn là một “thiên anh hùng ca”? Vẫn có thể gọi được như vậy
nếu muốn. Thường thì người ta vẫn thích gọi những quá trình lớn lao, kéo dài với
những thăng trầm có vẻ “dữ dội”, có tác động nhiều mặt đến đời sống xã hội là
những “thiên anh hùng ca”. Sự nghiệp của Thành Cát Tư Hãn là thống nhất đất nước
Mông Cổ và làm nên một cuộc chinh phục vĩ đại, nên nó có tính chất sử thi, anh
hùng ca. Nhưng nếu nói tất cả những vĩ đại, lớn lao đó chả là cái thá gì cả, cũng…
đúng. Bản tính của loài người, vì “xuất thân” từ loài khỉ ưa tò mò tọc mạch, “đâm
bị thóc chọc bị gạo”, nên rất chi là đỏng đảnh và thích… cãi nhau suốt ngày!...
Nhưng thôi, chuyện xứ người nên để cho xứ người đặt tên là khôn ngoan nhất!...
Còn ở xứ ta, vì
Gácnê và Riviê chiến đấu và chết ở nước ta nên thử hỏi: họ có phải là những anh
hùng không? Hỏi thế nghe nhạt và vô duyên quá! Đối với Đại Chúng Việt Nam thì
“chắc như bắp”, họ là những kẻ tội đồ. Rất có thể họ cũng là những anh hùng nếu
được gắn nhãn mác, nhưng chỉ có thể là anh hùng của riêng chủ nghĩa Thực dân Pháp,
chứ không thể là anh hùng dân tộc của Đại Chúng Pháp…
Cuối cùng, những
đầu bếp, binh lính người Việt bị xử chém trong vụ “Hà Thành đầu độc” có anh hùng
không? Dù cho trước khi chết họ là những kẻ bình thường, nhưng khi bị giam ở Hỏa
Lò, những gương mặt bất khuất của họ đã biểu hiện phẩm chất anh hùng và sau khi
hiên ngang đi vào cõi chết, chúng ta cho rằng họ là những anh hùng của dân tộc
Việt.
Ngày ra pháp trường
Bãi Gáo, một người trong số họ đã gọi đồng bào, dặn: “Bao giờ nước nhà độc lập
thì bà con nhớ đến chúng tôi nhé!”. Và chúng ta, lũ con cháu đang sống ở năm
2008 này nhớ về họ như thế nào khi đã xây được biết bao nhiêu nhà cao cửa rộng,
đường xá thênh thang, cơ ngơi hoành tráng? Trong bài “Những vị đầu bếp bất tử
trong vụ Hà Thành đầu độc” đăng trong báo “An ninh thế giới” số 736, ra ngày 5-3-2008
của tác giả Đỗ Doãn-Anh Phương, có những dòng này: “Những người ngã xuống không
thể ngờ được rằng: gần một thế kỷ sau, con cháu máu mủ của các vị đã vất vả bao
năm tìm kiếm phần mộ của họ. Không ngoại trừ cả việc mang đậm màu sắc hoang đường,
như vợ chồng ông Khải (con cháu cụ bếp Hiên) gặp những giấc mơ lạ về những cụ ông
không đầu về báo mộng. Khi tìm thấy nơi mai táng rồi, việc vinh danh các tử sĩ,
chăm chút phần mộ và dựng mấy dòng chữ kỷ niệm các anh hùng vệ quốc ấy lại vô cùng
lận đận… Muốn thắp nhang cho họ, chúng tôi phải vạch cây cối, đi qua nhà người
ta rồi đến cái xó tường nhếch nhác ở vùng Nghĩa Đô (Hà Nội), nơi từng là trại
nuôi dê, thấp hơn mặt đường những 50 cm, ở đó có duy nhất một ngôi mộ mới được ông
Khải quy tập vội vã cùng vài dòng chữ nhỏ, có phần hơi tối nghĩa: “Nơi yên nghỉ
của 9 nghĩa sĩ yêu nước trong vụ Hà Thành đầu độc Thực dân Pháp ngày 27 tháng 6
năm 1908 (13 tháng 9 Mậu Thân)”.
Nhiều sử gia đã
thống thiết kêu cứu cho di tích “Hà Thành đầu độc”, nhưng sự việc vẫn đâu đóng đấy.
Không lẽ, chúng ta đã tri ân những người anh hùng vệ quốc của mình một cách như
thế ư?”.
Ai đó trên Dương
trần, hay cả dưới Âm phủ, có thấy phẫn uất không?
***
Sau vụ “Hà Thành
đầu độc”, thực dân Pháp đàn áp khốc liệt, làm cho phong trào đấu tranh của nhân
dân Hà Nội lắng xuống.
Ngày 19-6-1912,
chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu thành lập “Việt Nam quang phục hội” (trên đất Trung
Quốc). Hội phái người về nước để ám sát toàn quyền Xarô (Albert Sarraut) và hai
tên tay sai đầu sỏ là Hoàng Trọng Phu, Nguyễn Duy Hân. Tuy nhiên chỉ có Nguyễn
Duy Hân bị Phạm Văn Trắng, một công nhân quê ở Gia Lâm, ném tạc đạn chết. Nhưng
ngay trung tâm Hà Nội, trên đường phố Tràng Tiền, chiều ngày 26-4-1913 vang lên
tiếng tạc đạn của Nguyễn Khắc Cần, công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm, giết chết
tại chỗ hai sĩ quan Pháp và làm một số tên khác bị thương khi chúng đang ăn uống
trong một khách sạn.
Sự kiện đó đã làm
thực dân Pháp khủng bố điên cuồng hơn. Tổ chức Việt Nam quang phục hội của Phan Bội Châu
cơ bản tan rã. Riêng Hà Nội, sự tổn thất của phong trào yêu nước rất nặng nề,
những nghĩa sĩ người Hà Nội là Phan Văn Tráng, Phạm Hoàng Triết, Phạm Hoàng Khuê
bị kết án tử hình. Nhà tù Hỏa Lò chật ních người của các tổ chức yêu nước Đông
du, Đông kinh nghĩa thục, Việt Nam
quang phục hội. Hoạt động yêu nước tại Hà Nội lại phải tạm lắng, nhưng vẫn âm ỉ…
Về đại thể, có
thể nói phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lược của nhân dân ta đã chấm
dứt vào năm 1895, với sự thất bại của khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh
đạo, nghĩa là cũng kết thúc phong trào Cần Vương.
Có một thực tế
lịch sử là phong trào đấu tranh vũ trang ấy rộ lên rất mạnh ở thời kỳ quân viễn
chinh Pháp chân ướt chân ráo đặt chân lên nước ta (trong giai đoạn đánh chiếm
Nam kỳ hoặc trong giai đoạn đánh chiếm Bắc kỳ), sau đó lần lượt suy giảm khá
nhanh khi thực dân Pháp bắt đầu tổ chức được bộ máy cai trị ở Nam kỳ cũng như ở
Bắc Kỳ và sau hiệp ước Patơnốt (1884) là cả nước, rồi tiếp tục hầu như im ắng kéo
dài đến Cách mạng Tháng tám (1945). Một điều dễ nhận thấy nữa là ở thời đoạn sôi
sục nhất của phong trào, dù là có vẻ rộng khắp nhưng là sự rộng khắp mang tính
tản mạn, tự phát, thiếu nhất quán và không kết thành được một cuộc khởi nghĩa toàn
dân, tập trung dưới một sự lãnh đạo thống nhất. Hơn thế nữa, những cuộc khởi
nghĩa trong phong trào đó đã không thể phát triển (không kịp phát triển?) thành
một lực lượng ngày một lớn mạnh được. Tại sao?
Tại vì quân viễn
chinh Pháp thiện chiến hơn, có vũ khí hiện đại hơn, hỏa lực đại bác hoàn toàn áp
đảo. Điều này đúng một phần nhưng không cơ bản. Sự ủng hộ của một bộ phận giáo
dân đối với quân viễn chinh, tuy cũng có tác dụng đáng kể, nhưng cũng không thể
là trọng yếu. Có lẽ, muốn tìm thấy cái nguyên nhân cơ bản thì lại phải hướng nhìn
về triều đình Huế, một triều đình mà ngay từ đầu đã không kiên quyết chiến đấu đến
cùng trước quân xâm lược, do đó làm cho phong trào kháng chiến mất tập trung rồi
dần mất phương hướng và phân rã, một triều đình mà hiện tại của nó là đê hèn,
quá khứ của nó là cổ hủ, hà khắc và bóc lột dân chúng cũng quá ư thậm tệ làm
cho lòng dân quá ngán không còn muốn hướng về. Hịch Cần Vương ra vừa muộn màng
vừa chẳng kích thích được mấy về chính trị đã không còn tác động tích cực, mạnh
mẽ đến Đại Chúng nữa. Chính sách cai trị thưở ban đầu của thực dân Pháp, với những
quan niệm tiến bộ hơn về mặt quan hệ sản xuất - kinh tế, về nhân quyền, dù
trong đó có phần mị dân, đã thổi một luồng gió mới vào đời sống xã hội Việt
Nam. Rất có thể chính điều này đã làm cho phong trào đấu tranh giành độc lập, mất
dần tính quyết liệt cũng như tính quần chúng thuở ban đầu của nó, để rồi phải lụi
tàn trong một thời gian tương đối ngắn và sự bùng phát chỉ mang tính cục bộ, địa
phương. Bởi vì, giàu lòng yêu nước với ước muốn nước được độc lập là hai vấn đề
có quan hệ mật thiết với nhau nhưng cũng có lúc tách rời nhau. Nếu giành độc lập
để rồi từ chế độ đô hộ tạm thời tốt hơn trở lại chế độ tồi tệ hơn vừa mới thoát
ra được thì độc lập làm gì? (Dám chắc rằng nếu một cuộc xâm lược đem đến tự do,
bình đẳng, bác ái và phồn thịnh cho một đất nước thì sẽ không có một cuộc kháng
chiến quần chúng giành độc lập nào xảy ra trên đất nước đó. Nhưng theo định nghĩa
thì phải gọi cuộc xâm lược đó với một cái tên khác, chẳng hạn: “cuộc “khai hóa
văn minh”. Nước nào làm được cái quên mình, yêu người đó, khi mà ngay cả Đạo Chúa,
Đạo Phật hay bất cứ Đạo nào khác còn chưa làm được? May ra chỉ có Mặc Địch, nhưng cũng chỉ có trên bình diện tư tưởng!)
Cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp trên lãnh thổ Việt Nam, dù sao đi nữa,
cũng tạo ra triển vọng công ăn việc làm cho nhiều người và dù có bị bóc lột chăng
nữa thì vẫn có thể là “dễ thở” hơn so với dưới thời phong kiến quân chủ nhà
Nguyễn. Điều này cũng là một nguyên nhân đáng kể tác động tiêu cực đến phong trào
đấu tranh yêu nước của nhân dân ta thời kỳ đó.
Có thể lấy khởi
nghĩa Yên Thế làm thí dụ chứng minh. Tồn tại ngót 30 năm nhưng lực lượng nghĩa
quân chưa bao giờ vượt quá 150 người, dù dân chúng địa phương hoặc các nơi vẫn
ngầm quyên góp giúp đỡ. Vì sao Đề Thám không thể phát triển lực lượng ngày một đông
hơn trong suốt thời gian đó? Đề Thám không có được tầm nhìn chiến lược hay đã
không thể thuyết phục được dân chúng đứng lên theo mình kháng chiến? Có thể là
do sự đàn áp khốc liệt của Pháp và tay sai mà cuộc khởi nghĩa Yên Thế phải liên
tục giành thời gian đối phó, không còn thời gian triển khai, tuyên truyền, vận động
(đối với khởi nghĩa Hương Khê cũng vậy, cũng tồn tại đến 10 năm, phất cao cờ Cần
Vương mà phong trào cứ thoái hóa dần)? Một trong những nguyên nhân là thế nhưng
không phải là nguyên nhân quyết định vì trong lịch sử, có những cuộc khởi nghĩa
bắt đầu cũng ngặt nghèo tương tự, thậm chí là khó khăn hơn thế nhưng đã phát
triển được và giành được thắng lợi cuối cùng như: Khởi nghĩa Lam Sơn, khởi nghĩa
Tây Sơn, khởi nghĩa Tháng Tám, nhất là khởi nghĩa Tháng Tám, phải tiến hành kháng
chiến với buổi đầu xét về tương quan lực lượng thì cũng ít ỏi, nghèo nàn về vũ
khí trước một đội quân viễn chinh thiện chiến và trang bị vũ khí mạnh gấp bội
phần, hỏa lực cũng hoàn toàn áp đảo. Thế thì nguyên nhân cốt lõi nằm ở đâu, dù
không thể tìm ở đâu khác ngoài “vùng”: thiên, địa, nhân? Phải chăng thời thế đổi
thay đã có lợi cho thực dân Pháp và quan trọng nhất là truyền thống yêu nước vẫn
còn nguyên vẹn đó, nhưng những tiến bộ xã hội - kinh tế có được của chế độ cai
trị thực dân thời kỳ đầu (dù có thể là ít ỏi, không tương xứng với thành quả bóc
lột được của kẻ thực dân) làm cho Đại Chúng không còn muốn quay về với cái chế độ
quân chủ ngột ngạt với một ông vua mồm thì nói yêu dân, nhưng lại chỉ nghĩa đến
mình, trong sự lựa chọn của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đấu tranh giành độc
lập để rồi lại về với cảnh sống dưới một triều đình mà kinh nghiệm đã cho thấy
là sẽ khổ hơn thì có nên không, trong khi đời sống xã hội đang có chiều hướng
khá hơn? Trải qua hàng ngàn năm quân chủ, quan niệm đất nước không thể một ngày
không có vua đã bám rất chặt vào tâm khảm con người và ngay tức thì khó mà hình
dung nổi có một hình thái xã hội nào đó sau khi giành được độc lập (giả sử như
thế) lại có thể mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn so với dưới chế độ thực dân
thời kỳ đầu…
Có thể suy luận
rằng phong trào nhân dân kháng chiến chống Pháp sôi nổi và quyết liệt thời kỳ đầu
là nhờ tinh thần yêu nước thuần túy của Đại Chúng. Kinh nghiệm hàng ngàn năm chống
phong kiến phương Bắc với cuộc sống bị chà đạp tàn bạo nhất, cho nên phải chống
xâm lược. Hành động kiên quyết chống xâm lược đó đã trở thành truyền thống bất
khuất của dân tộc và tương tự như bản năng ở mỗi con người Việt. Dù sao thì cái
tinh thần quật khởi, một lòng kháng chiến chống Pháp đó đã bị triều đình Huế
ngu ngốc bỏ lỡ, và hơn thế nữa là đang tâm phá hoại. Bên cạnh đó, thời thế cũng
đã đổi thay: những luồng gió mới mát lành từ nền dân chủ tư sản châu Âu đã thổi
vào châu Á đang bị giam hãm ngột ngạt bởi xiềng xích phong kiến quân chủ, mở ra
những lựa chọn mới, hy vọng mới cho Đại Chúng các nước. Cuộc nổi dậy đấu tranh
vũ trang của nhân dân ta chống Pháp xâm lược vào nửa cuối thế kỷ XIX có vẻ cơ bản
là vì thế mà mau chóng thoái trào? Đấu tranh giành lại độc lập chỉ vì cái mục đích
“ghét” Pháp, yêu nước chung chung thôi, đã làm giảm sút tính chính đáng của nó.
Một cuộc giành độc lập sẽ không được Đại Chúng triệt để ủng hộ khi nó không đem
lại một danh lợi sát sườn nào cho cuộc sống Đại Chúng, không mở ra được một tương
lai xán lạn nào cho đời sống xã hội. Giành độc lập cho đất nước chỉ vì yêu nước
một cách mông lung thôi mà thiếu mất mục đích danh lợi nhằm đáp ứng cuộc sống
thì cũng khó lòng kích thích được cái động lực đấu tranh to lớn của Đại Chúng,
và như thế, làm sao mà đi đến thắng lợi được? Chúng ta nhớ lại nguyên lý này: mọi
cuộc vận động tạo dựng xã hội đều phải vì danh lợi, danh lợi là mục đích, là động
lực của chúng và cũng chính là lý do tồn tại của chúng?
Cuộc chống Pháp
xâm lược của nhân dân ta, tiếp sau thời kỳ trực diện đấu tranh vũ trang là thời
kỳ đấu tranh chính trị. Nòng cốt lãnh đạo của cuộc đấu tranh chính trị này là các
nhà chí sĩ yêu nước và lực lượng chủ yếu của nó là giới trí thức, học sinh. Mục
đích của cuộc đấu tranh chính trị này là hun nóng, phát động tinh thần yêu nước
thương nòi trong nhân dân, giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Quá trình đấu
tranh đó, với những nguyên do nói trên, cũng đồng thời là cuộc đấu tranh tư tưởng
trong hàng ngũ những nhà yêu nước về việc chọn đường lối, phương thức thực hiện…
Chung qui lại là xác định cái danh lợi thiết thực mà Đại Chúng có thể gặt hái được
một khi đã giành lại độc lập.
Tính ưu việt của
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa so với hình thái kinh tế - xã hội
phong kiến và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chế độ thực dân thời kỳ đầu đô hộ đã
hầu như che giấu được cái bản chất ăn cướp trắng trợn của nó. Đây có thể là
nguyên nhân chính gây ra hiện tượng hoang mang, lúng túng, bế tắc trong cuộc đấu
tranh tư tưởng, tìm kiếm một con đường khả dĩ giành độc lập cho đất nước. Cũng
vì vậy mà việc tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh cho nền độc lập nước
nhà đã vấp phải rất nhiều khó khăn chăng?
Tuy nhiên, bản
chất ăn cướp trắng trợn và tàn bạo của chủ nghĩa thực dân sớm muộn gì cũng phải
lộ tẩy ra, nhất là trong những giai đoạn biến động xã hội ở “chính quốc” và trên
thế giới làm ảnh hưởng tiêu cực đến chế độ đã sản sinh ra nó, đòi hỏi nó phải
ra sức bóc lột các nước thuộc địa, không từ một thủ đoạn nào. Tình hình đó đã làm
xuất hiện trong lòng Đại Chúng sự đòi hỏi ngày càng lớn về sự phải vùng lên giải
phóng xóa bỏ áp bức bất công, đồng thời cũng giải quyết luôn cuộc đấu tranh tư
tưởng để đi đến một quan niệm nhất quán, phù hợp với đòi hỏi của Đại Chúng và
mang tính cách mạng. Đến đây, tiền đề cho một cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc thắng lợi đã hé mở.
Cụ thể, đối với
dân tộc Việt Nam, quá trình đấu tranh tư tưởng ở thời đoạn ấy tất yếu dẫn đến sự
lựa chọn cuối cùng là quan niệm của Mác - Lê về đấu tranh giải phóng, giành độc
lập dân tộc, vì nó cũng phù hợp với ý nguyện của Đại Chúng lúc bấy giờ.
Thế giới đã phải
quay theo chiều tự nhiên của nó và định mệnh đã tưởng thưởng cho Việt Nam, một
dân tộc bất khuất trên một đất nước hiền hòa, trở thành lực lượng kết liễu chủ
nghĩa thực dân, và nêu một tấm gương sáng ngời về đấu tranh giải phóng, giành độc
lập dân tộc, giành quyền được sống tự do - bình đẳng - bác ái trong cộng đồng các
dân tộc trên thế giới…
Với tài nhớ như
in của mình (dù đã mất trí nhớ từ lâu rồi!) chúng ta sẽ kể lại câu chuyện vắn tắt
(thực ra là Copy!) về cuộc đấu tranh tư tưởng đã từng xảy ra trong thời kỳ Pháp
xâm lược và đô hộ mà tiến sĩ Huỳnh Công Bá đã kể trong cuốn sách “Lịch sử tư tưởng
Việt Nam” (NXB Thuận Hóa, năm 2006), có thêm thắt chút ít của nhiều người khác
trong những cuốn sách khác (cũng là Copy nốt, vì yêu cầu đòi hỏi của sự thực khách
quan và sự không thể kể hay hơn họ được về những sự kiện lịch sử; Tuy nhiên “chính
kiến” vẫn là của chúng ta).
Sau khi đàn áp
xong phong trào Cần Vương, thực dân Pháp bắt tay tiến hành cuộc khai thác qui mộ
tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của Việt Nam (mà sau này thường gọi là cuộc
khai thác lần thứ nhất). Phục vụ cho công cuộc khai thác đó, chúng mở cảng Sài
Gòn để xuất khẩu gạo, đào than Hòn Gai, lập các công xưởng ở Hải Phòng, Hà Nội,
Nam Định, Hải Dương, xây dựng Bến Thủy thành thị trấn công thương nghiệp; xây dựng
các cơ sở hạ tầng như làm đường bộ, đường sắt, bến tàu, lập sở bưu điện, ngân hàng,
nhà máy, công ty thương nghiệp… Tình hình đó làm xuất hiện nhiều thành thị. Trước
đây, ở nước ta, chỉ có Sài Gòn và Hà Nội là tương đối tấp nập. Giờ đây, các tỉnh
lỵ đều trở thành những trung tâm thương mại. Ngoài ra, còn xuất hiện một số
trung tâm công nghiệp như Hồng Gai, Cẩm Phả, Hải Phòng, Nam Định, Bến Thủy… Thực
dân Pháp cũng phát triển báo chí làm cơ quan ngôn luận phục vụ cho công cuộc đô
hộ và khai thác, công bố các chủ trương chính sách của Nhà nước thực dân; mở trường
đào tạo người giúp việc… Điều đó, khách quan đã góp phần mở ra cho người Việt Nam một
chân trời mới…
Vào đầu thế kỷ
XX, trên thế giới có một số sự kiện tác động thức tỉnh đối với nhân dân Việt Nam, đó
là sự cường thịnh của Nhật Bản… Đặc biệt, thắng lợi của Nhật trong cuộc chiến
tranh với nước Nga Sa hoàng (1904 - 1905) càng làm cho người Việt Nam
nghĩ rằng: một nước Châu Á nhỏ bé nếu biết tự cường vẫn có thể đánh bại một nước
Châu Âu hùng mạnh. Nhiều chí sĩ yêu nước đã hướng đến Nhật Bản, coi đó là tấm gương
đáng để học tập.
Năm 1894, Tôn
Trung Sơn lập “Hưng Trung hội”; đến năm 1905 lại lập “Đồng Minh hội” với mục tiêu
cụ thể là: “Đánh đổ nhà Mãn Thanh, khôi phục Trung Hoa, thành lập dân quốc, bình
quân địa quyền” trên cơ sở hệ tư tưởng dân chủ tư sản. Năm 1911, dưới sự lãnh đạo
của Tôn Trung Sơn, Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, nước Trung Hoa Dân Quốc được thành
lập. Lúc bấy giờ ở Trung Quốc đã xuất hiện hàng loạt sách báo, những tác phẩm dịch,
giới thiệu, truyền bá tư tưởng của các nhà tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây
như Xpenxơ (Spencer), Vônte (Voltaire), Ruxô (J.J. Rousseau)… Những sách báo đó
qua các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn được đưa vào nước ta. Nhưng sự kiện này
đã tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh tư tưởng ở Việt Nam. Báo “Thần Chung” ở Sài Gòn, số
ra ngày 8-1-1929 đã viết: “Những Thanh Nghị báo, Tân Dân tùng báo, Ẩm Băng thất,
Tự Do Thư, Trong Quốc hồn, đã đánh thức đám sĩ phu nước ta gần như trực tiếp, vì
trong đó nói chuyện nước Tàu mà có chỗ trùng bệnh người mình lắm”
Đầu thế kỷ XX, ở
nước ta xuất hiện tác phẩm “Văn minh tân học sách”, khuyết danh tác giả. Sách này
là chủ trương tích cực học hỏi những mặt được cho là tiến bộ của xã hội phương
Tây để trên cơ sở đó thực hiện đổi mới xã hội về văn hóa và kinh tế mà suy cho
cùng là muốn đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa với một nhà nước
dân chủ tư sản.
Tiêu biểu cho
cuộc đấu tranh tư tưởng trong hai, ba thập niên đầu thế kỷ XX ở Việt Nam là
hai nhà thi sĩ yêu nước nổi tiếng Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh.
Là một nhà nho
yêu nước, trong giai đoạn đầu, những hoạt động của Phan Bội Châu chỉ “cốt sao
khôi phục được nước Việt Nam,
lập ra một chính phủ độc lập, ngoài ra chưa có một chủ nghĩa gì khác”.
Năm 1904, tại
Quảng Nam,
Phan Bội Châu cùng những người đồng chí hướng như: Nguyễn Thành, Đặng Thái Thân,
Phạm Văn Ngôn… thành lập tổ chức chính trị gọi là “Duy Tân hội”. Cháu 6 đời của
vua Gia Long là Cường Để được cử làm hội chủ. Mục đích duy nhất của tổ chức này
là đánh đuổi Pháp, giành độc lập. Sau đó hai năm, mục tiêu của hội được Phan Bội
Châu nêu rõ hơn: “Làm thế nào khôi phục nước Việt Nam, lập thành nước quân chủ lập hiến”.
Một trong ba kế hoạch hoạt động của hội là hướng đến Nhật Bản, xuất dương cầu
viện. Theo kế hoạch này, Phan Bội Châu đã vận động thanh thiếu niên trong nước
sang Nhật Bản học hỏi, làm dấy lên phong trào có tên gọi là “Đông Du”.
Tuy kế hoạch cầu
viện thất bại, nhưng Phan Bội Châu đã chuyển biến tư tưởng. Trong “niên biểu”, ông viết rằng lúc bấy giờ, “tôi từ khi sang Nhật, được nghiên cứu nguyên nhân cách
mạng nước ngoài và chính thể các nước, thì rất say sưa về lý luận của Lư Thoa
(Ruxô); vả lại được giao thiệp với các đồng chí Trung Hoa nhiều, nên trong đầu óc
đã xếp tư tưởng quân chủ vào một xó”, và “tôi được trao đổi nhiều với đảng viên
cách mạng Trung Quốc nên càng ngày càng thấm nhuần được tư tưởng dân chủ. Tuy bị
kế hoạch cũ ngăn trở, lời lẽ chưa phát triển được mạnh dạn, nhưng trong bụng đã
chứa sẵn một động cơ thay đổi bắt đầu từ đó”.
Trong “Việt Nam quốc
sử khảo” viết năm 1908, Phan bội Châu viết: “Dân quyền mà được đề cao thì dân được
tôn trọng mà nước cũng mạnh. Dân quyền bị xem nhẹ thì dân bị coi khinh mà nước
yếu. Dân quyền bị hoàn toàn mất thì dân mất mà nước cũng mất”. Tiếp đó, xem xét
cơ cấu cũng như cách thức hoạt động chính quyền ở các nước tư bản thuộc hàng phát
triển mạnh nhất bấy giờ là Nhật, Anh, Pháp, Đức, Mỹ, ông cho rằng nguyên nhân của
sự cường thịnh là chế độ dân chủ. Ở các nước đó, Phan Bội Châu viết: “hình pháp,
chính lệnh, thuế khóa tiêu dùng đều do nghị viện quyết định, mà nghị viện thì đều
do nhân dân tổ chức nên. Chính phủ không được can thiệp vào. Hàng năm đến kỳ
nghị viện họp, các nghị viên tụ tập đông đủ. Chính phủ phải trình bày dự án trước
hội nghị. Nghị hội tức là nhân dân. Những điều nhân dân cho là phải, chính phủ
không thể không làm; những điều nhân dân cho là trái, chính phủ không được làm”.
Nước Trung Hoa
Dân Quốc được thành lập (1-1-1912) đã tác động mạnh mẽ đến Phan Bội Châu. Tháng
3-1912, tại từ đường nhà Lưu Vĩnh Phúc ở Quảng Đông, Phan bội Châu triệu tập hội
nghị toàn thể hội viên Duy tân hội, quyết định đổi tên thành Việt Nam Quang Phục
hội, Cường Để vẫn được bầu làm Hội trưởng, Phan Bội Châu làm Tổng lý, tôn chỉ của
Hội được xác định là “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước
Cộng Hòa Dân Quốc Việt Nam”.
Ngày 19-1-1914,
Phan bội Châu bị nhà đương cục Quảng Đông bắt giam và đến tháng 4-1916 thì được
trả tự do. Năm 1917, Phan bội Châu viết sách: “Pháp - Việt huề luận”, biểu hiện
sự hoang mang, dao động trong lập trường tư tưởng của ông. Trong sách đó có đoạn
viết: “Tôi muốn từ nay về sau, người Pháp chớ coi người Nam như tôi tớ, như trâu
ngựa, mà coi người Nam như bạn bè, như thân thích. Người Pháp mà thực lòng coi
người Nam
như bạn bè thân thích mà mình lại không biết coi người ta như bạn bè thân thích
hay sao? Trong lúc vô sự thì dạy nuôi gồm đủ, đến lúc có sự thì họa phúc cùng
nhau. Đem tất cả bọn con em khỏe mạnh 25 triệu người Việt Nam mà cùng các tướng
tài quân giỏi của nước Pháp cùng hợp sức chống giữ cửa ngỏ, mà người Nhật muốn
có cắn nuốt e cũng không sao trôi cổ họng được”. Sự chuyển biến tư tường từ bạo
động chống Pháp sang hòa thân với Pháp là một bước lùi trong nhận thức chính trị
của Phan Bội Châu. Ông đã chưa thấy được bản chất của thực dân, xâm lược.
Phan Chu Trinh
cũng là một nhà nho yêu nước cỡ lớn. Ông là người sớm có tư tưởng dân chủ ở nước
ta. Chủ trương cứu nước của ông có khác với chủ trương cứu nước của Phan Bội Châu.
Sau khi từ quan
(1905), Phan Chu Trinh vào Nam
ra Bắc để tuyên truyền chí hướng mình. Năm 1906, ông sang Trung Quốc gặp Phan Bội
Châu và sau đó cùng sang Nhật. Trong thời gian ở Nhật, hai người từng trao đổi,
tranh luận về đường lối cứu nước. Phan Chu Trinh nói với Phan Bội Châu: “Nay được
mấy học sinh vào nhà trường của Nhật Bản là sự nghiệp rất lớn của ông đấy. Bây
giờ ông nên ở Đông Kinh tĩnh dưỡng, chuyên chủ về việc viết sách, không cần hô
hào đánh Pháp, chỉ nên đề xướng dân quyền. Dân đã giác ngộ được quyền lợi của mình,
bấy giờ mới có thể mưu tính việc khác” (Phan bội Châu niên biểu). Phan Bội Châu
có thuật lại cuộc tranh luận về chính kiến giữa hai người như sau: “Ông (tức
Phan Chu Trinh) thì muốn trước hết đánh đổ ngay quân chủ để làm cơ sở xây dựng nhân quyền, tôi (tức Phan
Bội Châu) thì muốn mưu tính đuổi ngay giặc Pháp, đợi khi nước nhà độc lập rồi sẽ
mưu tính đến việc khác. Ý tôi là muốn lợi dụng quân chủ thì ông cực lực phản đối,
ý ông là muốn đánh đổ quân chủ, đề cao quyền dân thì tôi không tán thành, vì ông
với tôi tuy cùng một mục đích, nhưng thủ đoạn khác nhau rất xa. Ông thì từ chỗ
dựa vào Pháp để đánh đổ vua, tôi thì đi từ chỗ đánh đổ Pháp mà phục lại Việt,
do đó mà khác nhau. Nhưng dù chính kiến ông có khác tôi, mà về ý chí thì ông rất
thích tôi”.
Để thực hiện đường
lối đó, Phan Chu Trinh đã đi diễn thuyết tại nhiều nơi và vận động cho chủ trương
cải cách giáo dục, duy tân đất nước theo hướng dân chủ. Hoạt động của Phan Chu
Trinh và những người cùng chí hướng đã thực sự có tác động tích cực, sâu rộng đến
đời sống tinh thần trong xã hội và đồng thời chống lại chính sách ngu dân, ru
ngủ của thực dân Pháp. Với cuộc vận động đó, có thể nói Phan Chu Trinh là người
đề xướng dân chủ dân quyền sớm nhất ở nước ta.
Năm 1914, chiến
tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đó là kết quả tất yếu của cuộc tranh giành
thị trường và thuộc địa giữa các nước tư bản đã phát triển lên giai đoạn gọi là
Đế quốc chủ nghĩa. Sau 4 năm khốc liệt, năm 1918, cuộc chiến tranh đế quốc nhằm
phân chia lại thế giới ấy kết thúc.
Nước Pháp tuy ở
tư thế kẻ thắng trận nhưng cũng bị tàn phá nặng nề, đời sống xã hội tiêu điều,
kinh tế kiệt quệ. Để sớm hàn gắn vết thương chiến tranh, nhanh chóng khôi phục
kinh tế, tư bản Pháp tăng cường cướp bóc không thương tiếc các nước thuộc địa.
Ở Việt Nam, thực
dân Pháp thi hành “chương trình khai thác lần thứ hai” mà tác giả của nó là Xarô,
một trùm thực dân mang nhiều nợ máu với nhân dân ta, đã từng hai lần làm Toàn
quyền Đông Dương. Trong lần cướp bóc có qui mô lớn này, số vốn của Pháp đầu tư
vào Việt Nam tăng rất nhanh. Từ năm 1924 (nghĩa là 6 năm sau chiến tranh thế giới
thứ nhất) đến năm 1929, tổng số vốn của tư bản Pháp đầu tư vào Việt Nam hơn gấp
6 lần vốn đầu tư vào Việt Nam trong 20 năm trước chiến tranh. Qua đó, tư bản Pháp
đã xâm nhập mạnh mẽ vào mọi ngành kinh tế nước ta, đặc biệt là nông - lâm nghiệp
và khai thác mỏ. Sự xâm nhập này không nhằm nâng cao đời sống nhân dân lao động
mà trái lại là công cụ tăng cường vơ vét thành quả lao động của họ cũng như tài
nguyên thiên nhiên đất nước. Đi đôi với việc đó, để đảm bảo lợi nhuận tối đa
(siêu lợi nhuận) cho công cuộc khai thác có tính cướp bóc trắng trợn lần này,
thực dân Pháp đã thi hành hàng loạt chính sách chính trị, quân sự, văn hóa giáo
dục thâm độc, đầy tính áp bức bất công với không ít phủ dụ mị dân làm phân hóa
quần chúng để dễ bề cai trị. Bên cạnh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ được
áp dụng ở mức độ nhất định, cần thiết cho sự cướp bóc, thực dân Pháp vẫn để cho
tồn tại quan hệ phong kiến, làm cho nước ta ở vào tình trạng thuộc địa - nửa
phong kiến, nhân dân lao động ở tình thế “một cổ hai tròng”
Với qui mô to lớn,
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp đã làm chuyển hóa mạnh mẽ
thành phần cũng như đời sống của lực lượng lao động nước ta. Thành phần làm công
ăn lương trong các đồn điền, công ty Pháp tăng lên rất nhanh và bộ phận trực tiếp
sản xuất gọi là công nhân trở thành một lực lượng to lớn. Con người thuộc bộ phận
này (còn gọi là công nhân) có đời sống rất cực khổ (cực khổ đến độ không có tài
sản gì đáng kể nên còn gọi là “vô sản”). Mãi đến tháng 10-1927, toàn quyền Đông
Dương mới ra nghị định, quy định công nhân bản xứ được làm việc mỗi ngày 10 tiếng,
kể cả thời gian đi về, nhưng trên thực tế, họ vẫn phải làm đến 12 hay 14 tiếng,
có khi lên đến 15-16 tiếng với đồng lương ít ỏi. Cực khổ quá thì bỏ việc từng
nhóm, sau là bãi công từ nhỏ đến lớn, lúc đầu là yêu sách vế kinh tế, sau là bên
cạnh yêu sách về kinh tế có cả yêu sách về chính trị; lúc đầu là tự phát, tản mạn,
sau là tự giác có tổ chức. Hiện tượng đó không phải là ngẫu nhiên!
Trong lúc đó đời
sống người nông dân nói chung cũng không kém phần cực khổ bởi sự bóc lột của nhà
nước phong kiến và đám cường hào, ác bá. Một số nông dân còn bị bần cùng hóa bởi
nạn cướp đoạt ruộng đất lập đồn điền xí nghiệp của tư bản Pháp.
Dù cố duy trì và
không ngừng tô son trát phấn cho bộ mặt giả nhân, giả nghĩa, thì đến đây, chủ
nghĩa thực dân Pháp với những gì đã gây ra trong thực tiễn xã hội Việt Nam (mà
không thể không gây ra!), xâm phạm trắng trợn đến quyền lợi tối thiểu, có tính
sống còn của Đại Chúng Việt Nam, đã không thể che dấu được trước Đại Chúng ấy -
một Đại Chúng đã từng trải đau thương và đã có cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn
nhờ sự tuyên truyền, khai trí của các nhà chí sĩ yêu nước, cái bản chất tham tàn,
bạo ngược, vô nhân tính của nó. Một Đại Chúng đã chất chứa phẫn uất và bắt đầu
sục sôi trong một xã hội phân hóa ngày một sâu sắc giàu nghèo và đầy rẫy bất công
đã làm hình thành nên một môi trường thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc.
Tình hình ấy đã
làm cho phong trào đấu tranh chính trị yêu nước chuyển biến mạnh về tư tưởng
theo hướng ngày một gay gắt hơn, trực diện hơn đối với chế độ thực dân - nửa
phong kiến Việt Nam.
Nhất là sau khi cách mạng vô sản ở nước Nga, còn gọi là Cách mạng Tháng Mười
Nga giành được thắng lợi (7-11-1917) và tư tưởng Xã hội chủ nghĩa của nó lan
truyền về Việt Nam, thì sự chuyển biến tư tưởng ở nước ta từ tư tưởng dân chủ tư
sản sang tư tưởng Xã hội chủ nghĩa (hợp với nguyện vọng của Đại Chúng lao khổ lúc
bấy giờ) trở nên một xu hướng tất yếu; một sự lựa chọn duy nhất phù hợp với đặc
tính thời cuộc.
Năm 1922, vua
Khải Định sang Pháp. Phan Chu Trinh (đã bị đưa sang cư trú chính trị tại Pháp vào
thập niên trước đó, sau khi bị bắt đày Côn Đảo vì thực dân Pháp cho ông đã kích
động phong trào chống thuế, và được trả tự do nhờ sự can thiệp của Hội Nhân quyền
Pháp) đã viết “Thư thất điều” gửi Khải Định. Trong đó có đoạn “Nếu bệ hạ còn một
chút thiên lương mà biết hối ngộ ra, tin rằng quân quyền không có thể cậy được,
dân quyền không có thể đoạt được, mau mau hãy quay đầu mà thoái vị đi, đem chính
quyền trao trả cho quốc dân để quốc dân trực tiếp ngay với chính phủ Pháp mà làm
công việc để mưu lợi ích sau này”; và: “Chớ vì bằng thói cũ không chừa, choán cái
ngôi chí tôn, ra cái ngôi chuyên chế, chìm quốc dân xuống cái vực sâu hang thẳm
đời đời thì Trinh này sẽ bố cáo với quốc dân và thương thuyết với chính phủ Pháp,
lãnh mệnh 25 triệu đồng bào Việt Nam, cùng với bệ hạ tuyên chiến một trận kịch
liệt, hễ cái ngày nào đầu Trinh này chưa rớt xuống đất tức là cái ngày quân quyền
của bệ hạ chìm xuống đáy sâu, kẻo lại trách rằng Trinh không báo trước!”
Tháng 5-1925,
chính phủ Pháp cho Phan Chu Trinh về nước theo yêu cầu của ông. Ngày 15-6-1925,
Phan Chu Trinh gửi thư cho Toàn quyền Pháp là Biô (Paul Beau). Trong đó, ông có
viết: “Hơn nữa, các quan phụ huyện chọn thằng dân béo nào thì ăn, từ việc trộm
cướp, kiện cáo, án mạng cho đến các việc vặt khác, việc gì cũng bóp nặn lấy tiền.
Phàm sầu khổ ở dân gian tức là mối lợi to của quan lại. Không cứ việc gì lớn nhỏ,
việc hoãn việc cấp, hễ nắm được một mảnh giấy của quan bảo hộ thì họ quí như hòn
ngọc coi như bùa hộ thân, vì nhờ đó mà thu được nặng túi”, vì thế, “ngày nay dân
cùng của hết, nghèo giàu đều khốn, dân đói đầy đường, trộm cướp như rươi; oán
trách rầm lên, tình thế thật nguy ngập”. Cũng trong bức thư đó, Phan Chu Trinh
ngây thơ đề nghị: “Chính phủ bảo hộ quả thực có thay đổi hẳn chính sách kén chọn
kẻ tài năng, trao cho quyền binh, lấy lễ mà đãi, tỏ rõ lòng thành, cùng với họ
bàn mưu lập kế hưng lợi trừ hại, mở đường sinh dưỡng cho dân nghèo, trao quyền
nghị luận cho thân sĩ, rộng đường báo chí để thấu dân tình, phân minh thưởng phạt
để trừ lại tệ (cái tệ của quan lại), ngoài ra như sửa đổi pháp luật, bãi bỏ
khoa cử, chấn hưng học hiệu, đặt dựng thư cục, đào tạo sư phạm cho đến học công
thương, khoa kỹ nghệ, phép thuế dịch, không có cái gì không lần lượt cải lương,
thì người dân đều yên làm ăn, kẻ sĩ đều vui phục vụ”.
Khi những kiến
nghị đó của ông bị Pháp bỏ ngoài tai, Phan Chu Trinh bèn thực hiện chủ trương tự
lực cải cách dân chủ. Ông đề xướng việc khai thông dân trí, mở mang dân quyền
theo ba phương châm là khai dân trí, chấn dân trí và hậu dân sinh. Ông lên án
chế độ quân chủ và bọn quan lại, ông cho rằng không đập tan được nền quân chủ
thì dù có khôi phục được nước cũng không phải là hạnh phúc của dân. Đồng thời ông
cũng chỉ trích cả chính sách cai trị của thực dân Pháp vì cho rằng nó đã dung dưỡng
bọn quan lại, cố tình làm ngơ cho bọn chúng đục khoét, hà hiếp nhân dân, miễn
sao đủ sưu thuế cho nhà nước là được.
Phan Chu Trinh đã
thấy được thảm trạng xã hội thời ông, bắt đầu nhận ra dã tâm thực dân, nhưng đã
không thấy được nguyên nhân sâu xa của nó không phải là cái triều đình đã mục rỗng,
thối nát sống vạ vật ấy mà chính là chính sách cai trị thâm độc của thực dân Pháp,
có nguồn gốc từ bản chất ăn cướp cố hữu của nó. Do đó mà ông đã ảo tưởng. Dù
sao Phan Chu Trinh đã làm được nhiều điều có lợi cho dân, nước và trước sau, ông
vẫn là một nhà tư tưởng lớn, có trái tim yêu nước nồng nàn.
Đến đầu thập niên
20 của thế kỷ XX, tư tưởng Phan Bội Châu, lúc ông đã bị Pháp đưa về an trí (thực
ra là giam lỏng) ở Huế với tên gọi trìu mến của dân chúng là “ông già bến Ngự”,
đã có sự thay đổi lớn lao. Trong tác phẩm “Xã hội chủ nghĩa”, ông đã hết lời ca
ngợi chủ nghĩa xã hội.
Sự chuyển biến
tư tưởng và chuyển hướng đường lối đấu tranh yêu nước, giành độc lập thể hiện rõ
trên lĩnh vực sách, báo mà những cái tên tiêu biểu là Nguyễn An Ninh, Phan Văn
Trường, Phạm Tuấn Tài, Huỳnh Thúc Kháng… Nhiều tờ báo, bài báo ở thời kỳ này đã
ngày càng kiên định lập trường chống chế độ thực dân, nhiều nhà báo, trong tình
hình kiểm duyệt khủng bố gắt gao của nhà đương cục Pháp, đã dũng cảm vạch trần,
tố cáo trực tiếp vào chế độ thực dân. Báo “Le Jeune Annam” đã đăng lại các bài
“Chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Viễn Đông” và “Varenne ở Đông Dương” của Nguyễn Ái Quốc,
vốn đã từng đăng trên báo “Le Paria” ở Pari (vì vậy báo này mới ra được số đầu
tiên vào ngày 23-3-1926 thì bị cấm chỉ). Báo “Le Nhaqué” đăng bài trực tiếp đả
kích chế độ thực dân phong kiến (vì vậy cũng chỉ ra được số đầu tiên vào ngày
11-12-1926 rồi phải đình bản). Báo “Pháp - Việt nhất gia”, trong số cuối cùng đã
kịch liệt lên án chế độ thuộc địa, đòi tự do dân chủ, chống chủ nghĩa Pháp - Việt
đề huề.
Đặc biệt, báo
“La Cloche fêlée” của Nguyễn An Ninh xuất bản ở Sài Gòn từ ngày 10-12-1923 đến
ngày 26-4-1926 đã kịch liệt phê phán chế độ cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Hơn nữa, trong những số cuối, báo này còn lần lượt đăng toàn văn “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản” của Mác và Ăngghen, lên án sự nô dịch của thực dân Pháp đối với
dân tộc Việt Nam. Nguyễn An Ninh viết: “Người ta có viết và in một cuốn sách
nhan đề: “Những điều kỳ diệu của người Pháp” ở châu Âu. Cái gì kỳ diệu? Thực ra cái kỳ diệu đó là chỉ cần
trong một thời gian ngắn thôi, người ta đã có thể làm cho trình độ tri thức của
người Nam
đã thấp đi, lại càng rơi vào chỗ cực kỳ dốt nát. Cái kỳ diệu đó là người ta đã
có thể trong một thời gian ngắn như thế, xô đẩy một dân tộc có tư tưởng dân chủ,
ngã nhào vào tình trạng nô lệ hoàn toàn”. Trong bài “Nước Pháp ở Đông Dương” cũng
của Nguyễn An Ninh, có đoạn: “Thứ nhất, nước Pháp chẳng những không áp dụng những
nguyên lý vĩ đại mà nó tuyên bố, nó lại còn tiêu diệt tinh thần dân chủ của xã
hội Việt Nam.
Thứ nhì, Pháp là nước đã ban bố tự do và dân quyền cho những người mới hôm qua
là nô lệ, thì chính nước Pháp đó ở Đông Dương lại đặt ách nô lệ lên cổ của một
dân tộc tự do, từng có nền văn hóa, trong lúc người Pháp còn lạc hậu ở trong những
làng xóm quanh ao hồ”…
Luật sư Phan Văn Trường là một trong những
người Việt Nam
đầu tiên tán thành chủ nghĩa Mác. Ông đã từng cộng tác đắc lực với Nguyễn An
Ninh. Sau khi Nguyễn An Ninh bị bắt (ngày 26-4-1926), ông ra ngay tờ báo
L’Annam (nước An Nam) nhằm phê phán chủ nghĩa Pháp - Việt đề huề, phản đối thực
dân Pháp đưa binh lính Việt Nam đi tham gia trấn áp phong trào giải phóng dân tộc
ở Marốc, Xiri, Libăng; đăng lại nhiều bài của báo L’Humanité (Nhân Đạo), cơ
quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp và đăng nhiều bài thể hiện cảm tình với Cách
mạng Tháng Mười Nga và chủ nghĩa xã hội.
Các tổ chức đảng phái chính trị hoạt động
thời kỳ này, hầu hết vẫn trên lập trường tư tưởng dân chủ tư sản, nhưng đường lối
đấu tranh đã ngả dần sang hướng chống Pháp quyết liệt hơn. Một số đã dứt khoát
quan điểm phải đánh đuổi chính quyền thực dân - nửa phong kiến bằng bạo lực. Điều
này đã giải thích cho việc hàng loạt những nhà hoạt động ưu tú của những tổ chức,
đảng phái này, trước sau đã thay đổi lập trường, lần lượt đi theo tiếng gọi của
chủ nghĩa xã hội khi tổ chức mang tư tưởng vô sản xuất hiện tại Việt Nam.
Nổi bật có các tổ chức đảng phái sau:
Đảng Lập hiến
do Bùi Quang Chiêu đứng đầu. Lập trường chính trị của đảng này chỉ là yêu cầu
chính quyền thực dân thi hành một số chính sách cải lương. Năm 1925, Bùi Quang
Chiêu sang Pháp vận động chính phủ Pháp ban hành một số cải cách tự do dân chủ ở
Đông Dương, nhưng không đạt được kết quả. Ngày 24-3-1926, nhân khi Bùi Quang
Chiêu từ Pháp về đến Sài Gòn, Đảng Thanh Niên đã huy động 60.000 người xuống đường
đón rước Bùi Quang Chiêu nhằm biểu dương lực lượng đòi chính quyền thực dân Pháp
ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Trong cuộc mít tinh này,
sợ gây xích mích với chính quyền Pháp, Bùi Quang Chiêu đã hô khẩu hiệu: “Pháp -
Việt đề huề muôn năm”. Vì vậy, ngay tối hôm đó, quần chúng đã hô to: “Đả đảo chủ
nghĩa Pháp - Việt đề huề”, “Đả đảo Bùi Quang Chiêu!”.
Đảng Thanh Niên
là một tổ chức công khai do một số thanh niên yêu nước như Trần Huy Liệu, Nguyễn
Trọng Hy… thành lập ở Sài Gòn vào tháng 3-1926. Đảng Thanh Niên không có cương
lĩnh, điều lệ, hệ thống tổ chức. Chỉ là một tập hợp quần chúng hoạt động biểu dương
lòng yêu nước như: đón tiếp Bùi Quang Chiêu như đã nói trên, tổ chức lễ tang
Phan Chu Trinh (bệnh, mất vào ngày 24-3-1926), đòi trả tự do cho Nguyễn An
Ninh.
Tâm Tâm Xã: (còn
có tên là Tân Việt Thanh Niên Đoàn), do một số thanh niên yêu nước như Hồ Tùng
Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong… thành lập vào thập kỷ 20 của thế kỷ XX. Tôn chỉ
của tổ chức này là: “phục quốc”, “hợp sức mọi người, lấy ý kiến tập thể, dũng cảm
tiến lên, để đem lại cho mọi người cái nhân quyền đã bị cướp mất và mưu cầu hạnh
phúc cho nhân dân”. Ngày 19-6-1924, một thành viên của Tâm Tâm Xã là Phạm Hồng
Thái đã ném bom vào khách sạn Victoria
ở Sa Diện, đô giới của Pháp ở Quảng Châu để ám sát toàn quyền Merlin. Mục đích
không đạt được, Phạm Hồng Thái hy sinh anh dũng. Tuy nhiên sự kiện đó đã nêu
cao tinh thần bất khuất trong lòng những người Việt Nam yêu nước.
Việt Nam Nghĩa Đoàn
là tổ chức yêu nước của một nhóm sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Hà Nội, như
Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Phạm Thiều…, thành lập năm 1925. Sau đó, kết hợp
với một số sĩ phu yêu nước vừa mới ở tù ra như Lê Văn Huân, Trần Mộng Bạch,
Nguyễn Đình Kiên…, đổi tên Nghĩa Đoàn thành Hội Phục Việt. Hội Phục Việt tuyên
bố: “Nước Pháp dùng vũ lực để bắt nước ta thành nô lệ…, họ đã áp bức dân ta nhiều
năm nay… Trong cảnh ô nhục và căm thù đó, chúng ta, người Việt Nam,
không thể đội trời chung với người Pháp… Các dân tộc đang hưởng ứng lời kêu gọi
của nước Nga Cách mạng… Lẽ nào người Việt Nam chúng ta lại vẫn chìm đắm trong
giấc ngủ triền miên…? Hỡi dân tộc Việt Nam! Hãy mau mau thức tỉnh…”.
Việt Nam Quốc Dân
Đảng là tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng cách mạng dân chủ tư sản, do
Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài sáng lập vào đêm 25-12-1927 ở Hà Nội. Hạt nhân đầu
tiên của đảng này là nhóm Nam
Đồng thư xã của Phạm Tuấn Tài, thành lập đầu năm 1927. Khi mới thành lập, đảng
này chưa có đường lối chính trị rõ ràng. Buổi đầu thành lập chỉ nêu mục tiêu
chung chung là “Trước làm dân tộc cách mệnh, sau làm thế giới cách mệnh”, “xây
dựng nền cộng hòa dân chủ trực tiếp”. Đến bản điều lệ soạn thảo năm 1928 thì có
nêu chủ nghĩa của đảng là “xã hội dân chủ”, mục đích của đảng là: “Đoàn kết các
lực lượng cả nam lẫn nữ để đẩy mạnh cách mạng dân tộc, xây dựng nền dân chủ trực
tiếp và giúp đỡ các dân tộc bị áp bức. Đến bản chương trình hoạt động đầu năm
1929 thì Quốc Dân Đảng đã thay “chủ nghĩa xã hội dân chủ” bằng khẩu hiệu “Tự do
- Bình đẳng - Bác ái” với mục đích nêu ra cụ thể hơn, là tiến hành “cách mạng dân
tộc, cách mạng chính trị, cách mạng xã hội, nhằm đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ
ngôi vua, thiết lập dân quyền, thi hành tự do dân chủ”. Do tổ chức lỏng lẻo, hoạt
động bừa bãi nên đã để cho mật thám Pháp lọt được vào hàng ngũ, đồng thời trong
nội bộ đảng cũng xuất hiện mầm mống chia rẽ. Chiều tối 9-2-1929, ngay tại trung
tâm Hà Nội, gần chợ Hôm, xảy ra vụ ám sát tên thực dân mộ phu đồn điền Badanh
(Bazin). Nhân sự kiện này thực dân Pháp tổ chức khủng bố trắng không từ một tổ
chức cách mạng nào, gây tổn thất lớn cho phong trào đấu tranh đang lên. Gần 200
đảng viên Quốc Dân Đảng bị bắt. Trước tình hình đấu tranh căng thẳng của Pháp và
cũng do tâm lý dao động, nóng vội, một số lãnh đạo nòng cốt của đảng như Nguyễn
Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính quyết định khởi nghĩa. Ngày 10-2-1930,
cuộc nổi dậy bạo động xuất hiện ở Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Thao, rồi đến ngày
15-2-1930 ở Hải Dương. Tất cả đều nhanh chóng thất bại. Nguyễn Thái Học cùng
nhiều đồng chí của ông phải bước lên đoạn đầu đài, nêu cao tinh thần yêu nước,
bất khuất. Đến đây Việt Nam Quốc Dân Đảng tan rã. Riêng Phạm Tuấn Tài, nằm trên
giường bệnh, trước lúc mất mới xác định lại niềm tin cuối cùng của đời mình: “Đối
với tổ chức đảng, tôi nhận thấy rằng: cách mệnh thành công mới là mục đích cứu
cánh, còn tổ chức đảng chỉ là một công cụ để thực hành cách mệnh… Do những điều
kinh nghiệm về cách mệnh, tôi nhận thấy rằng: muốn phá hoại một xã hội cũ và kiến
thiết một xã hội mới, lực lượng cách mệnh chỉ có thể trông vào các giai cấp nào
trong xã hội bị bóc lột hơn hết và bị áp bức hơn hết. Và muốn đánh đổ chế độ hiện
thời, những phần tử cách mệnh ở các dân tộc bị áp bức phải liên kết với công nông
và quần chúng lao khổ ở các nước tư bản mà thành lập một trận tuyến chung. Chủ
nghĩa quốc gia hiện đã trái mùa, cả đến chủ nghĩa xã hội dân chủ hay chủ nghĩa
Tam dân cũng chỉ là những cách mệnh cải lương không công hiệu. Nói rõ hơn, chỉ
có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể đánh đổ được chủ nghĩa đế quốc mà giải phóng
cho các dân tộc yếu hơn, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có thể phá tan được xã
hội giai cấp mà dẫn nhân loại tới thế giới đại đồng”.
(Sự phân biệt
giàu nghèo là không thể tiêu diệt được, một khi còn sản xuất hàng hóa và danh lợi.
Nếu hội tụ được 3 yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì bất cứ cuộc cách mạng,
khởi nghĩa nào cũng thành công chứ không cứ gì phải là cách mạng vô sản. Lịch sử
thế giới đã chỉ ra như vậy. Do đó lời tâm huyết trên có thể là đúng cho thời đoạn
lịch sử của nó nhưng không thể mang tính chân lý phổ biến!).
Sau cuộc khởi
nghĩa Yên Bái cũng như cuộc bạo động non dẫn đến thất bại đau đớn của Việt Nam
Quốc Dân Đảng, ngọn cờ phản đế, phản phong, giải phóng dân tộc đã chuyển hẳn
sang tay những người cộng sản, mà theo Lê Duẩn là: “Từ năm 1930, trên dải đất
Việt Nam, phong trào chống đế quốc giành độc lập, giải phóng dân tộc, chỉ là những
phong trào do giai cấp công nhân lãnh đạo” (Một vài đặc điểm của cách mạng Việt
Nam; NXB Sự Thật, Hà Nội, năm 1967).
***
Nhận xét
Đăng nhận xét