THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
ĐẠI CHÚNG
----------------------------------------
PHẦN III
Nguồn cội
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG IV:
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
“Thủ đô là cái đại tập thành của cả đất nước
từ khí non sông tụ lại. Không bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội
thì không ai không nhớ đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo
cái nghĩa tín đồ hành hương, nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà
xúc phạm vào nó là phải đền tội.”
(Nguyễn Tuân)
“Khi một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có
thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà
nó không phải là thiết yếu thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải
công nhận bạo lực bởi vì không còn cách nào khác.”
(Nguyễn An Ninh)
(tiếp theo)
Thượng hoàng vẫn
hết mực tin Hồ Quí Ly trung thành. Nhưng Phế Đế đã thấy âm mưu thoán đoạt của
kẻ họ Hồ, cùng kẻ tâm phúc tìm cách khử đi để trừ hậu họa. Lộ chuyện, Quí Ly kêu
van với Thượng Hoàng: “Cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi
cháu bao giờ”.
Thượng hoàng xuống
chiếu trách vua Phế Đế trẻ con, có ý hại kẻ trung thần, nguy đến xã tắc nên giáng
xuống làm Minh Đức đại vương, lập con của Nghệ Tông làm vua, lấy hiệu là Thuận
Tông (1388 - 1398). Sau đó, Phế Đế bị thắt cổ chết, các quan đồng mưu đều bị giết
hại.
Năm 1389, Chế Bồng
Nga lại đem quân quấy phá Đại Việt. Hồ Quí Ly đem quân đi cự chiến, nhưng thua
trận phải rút chạy. Đến cuối năm, quân Chiêm tiến vào sông Hoàng Giang định đánh
Thăng Long. Thượng Hoàng sai Trần Khắc Chân đi chặn, đến đóng ở Hải Triều (vùng
Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ, Hải Dương). Hàng trăm chiến thuyền quân Chiêm,
tiến vào trận địa phòng ngự của quân Đại Việt. Biết được thuyền chở Chế Bồng
Nga nhờ chỉ điểm, Trần Khắc Chân cho quân tập trung bắn vào thuyền ấy, Chế Bồng
Nga trúng tên chết. Quân Đại Việt được thể đánh dấn, quân Chiêm đại bại. Nạn
Chiêm Thành được giải quyết.
Về già, hình như
Thượng hoàng Nghệ Tông cũng lờ mờ thấy được tâm địa của Hồ Quí Ly nên có lần gọi
Quí Ly vào điện bảo:
- Nhà ngươi là
thân tộc, cho nên bao nhiêu việc nước trẫm đều ủy thác cho cả. Nay quốc thể suy
nhược, trẫm thì già rồi, ngày sau con trẫm có nên thì giúp, không thì nhà ngươi
tự làm lấy.
Quí Ly cởi mũ,
khấu đầu, vừa khóc, vừa thề thốt:
- Nếu hạ thần
không hết lòng hết sức giúp vua thì trời tru đất diệt…
Lời thề ấy chưa
được tày gang!
Năm 1394, Thượng
hoàng Nghệ Tông mất, Quí Ly lên làm Phụ chính Thái sư, thâu tóm toàn bộ quyền lực.
Để dễ bề thoán đoạt, Quí Ly xây thành Tây Đô (tại xã Yên Tôn, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa,
dân gian gọi là thành nhà Hồ) và năm 1397, ép vua Thuận Tông dời đô về đó. Thăng
Long đổi tên thành Đông Đô.
Năm sau, Quí Ly
lại ép Thuận Tông nhường ngôi cho con rồi đi tu ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại
(Thanh Hóa). Thái tử Án lên ngôi lúc 3 tuổi, hiệu là Thiếu Đế (1398 - 1400). Hồ
Quí Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt Đại vương, sai người giết Thuận Tông, con
rể mình.
Triều Trần lúc đó
có Thái Bảo Trần Nguyên Hãn, Thượng tướng quân Trần Khắc Chân lập mưu trừ Hồ Quí
Ly. Việc bại lộ, 370 người liên quan bị giết hại. Tháng hai năm Canh Thìn
(1400), Hồ Quí Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Ngu, lật
đổ nhà Trần lập nên nhà Hồ. Ngay sau đó truyền ngôi cho con là Hồ Hán Thương, xưng
mình là Thái Thượng Hoàng.
Người đương thời
đã phán xét Nghệ Tông là ông vua “chí khí đã không có, trí tuệ cũng hèn kém, để
cho gian thần lừa đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ những trung thần nghĩa
sĩ, cứ tin dùng một Quí Ly cho được quyền thế đến nỗi làm xiêu đổ cơ nghiệp nhà
Trần”.
Lời phán xét ấy
có vẻ là quá nặng chăng?
Nhà Trần tiêu
vong là điều không tránh khỏi và đã được báo trước mấy chục năm. Sự phát triển đất
nước, xét cho cùng là tự phát tất yếu dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế. Sự
thiếu sáng suốt không biết cách giải quyết các cuộc khủng hoảng đó dẫn đến cuộc
sống của nhân dân, nhất là nông dân ngày càng lâm vào khốn khó, quẫn bách. Đó là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến bạo loạn, khởi nghĩa nông dân làm thế nước suy yếu,
và đồng thời là một trong những nguyên nhân không những không dẹp yên dứt khoát
được nạn quấy phá của giặc Chiêm Thành mà còn chịu cho Chế Bồng Nga lộng hành,
gây chiến liên miên. Chiến tranh, bạo loạn, giặc giã liên miên, đến lượt chúng,
làm cho đời sống nhân dân càng cực khổ, thế nước đã suy yếu càng suy yếu nghiêm
trọng, và cùng với thiên tai, mất mùa, đã tác động như những kích hoạt, đẩy nhà
Trần mau chóng đến tiêu tan.
Một nguyên nhân
khác, có vẻ tầm thường nhưng cũng thật tự nhiên và góp phần quan trọng không kém
vào quá trình suy vong của nhà Trần. Đó là khi đất nước đã thanh bình, thịnh vượng,
mục tiêu vì dân vì nước để từ đó cũng là vì mình đã bị đảo lộn thứ tự. Kiếp đời
hữu hạn đã mâu thuẫn với lý tưởng có vẻ xa vời (nhưng thực ra là chân lý, chính
nghĩa và cũng là thượng sách để giữ vững ngai vàng!). Những quan niệm sống đầy
tham lam, vị kỷ trỗi dậy, lối sống hưởng lạc, xa hoa, buông thả vô độ một cách
mù quáng, đầy bản năng, đầy thú tính trở nên nổi trội. Sự sa đọa và thèm khát
thấp hèn, kèm theo là bạc nhược tinh thần và nhẫn tâm, độc ác đã được dung túng
vì chính cung đình, nơi tập trung cao nhất của quyền sinh sát đất nước lại là mảnh
đất màu mỡ làm nở rộ những hành vi mê muội bản năng và dã man thú tính nhất. Vì
thế mà nhà Trần trong giai đoạn tồn tại cuối cùng, cùng với công cụ bạo lực của
nó, trước tình cảnh rối bời của đất nước, đã không tìm ra lối thoát, và mặc nhiên
trong sự dẫy chết của nó, đã trở thành phản động và ngu xuẩn, quay sang bức hại
hơn nữa quần chúng nhân dân, cái gốc cội cưu mang, nuôi sống mình, làm cho mình
được vinh hoa phú quí.
Khi đã trở thành
lực lượng thù địch của Đại Chúng thì dù không có ngoại xâm, nhà Trần cũng coi
như mất nước (hay chính nhà Trần lúc đó đã biến tướng thành giặc ngoại xâm?!).
Khi tính chính nghĩa đã không còn thì lý do tồn tại trong lòng dân tộc Việt cũng
không còn nữa, nhà Trần tất nhiên phải bị loại trừ, không chóng thì chầy. Và thực
tế đã xảy ra đúng như vậy. Dân giàu thì nước mạnh, nước mất thì nhà tan, chân lý
ấy đã được khắc ghi đến ngàn đời trên nền trời xanh lồng lộng, có lẽ là bất cứ
ai cũng thấy. Các bậc khai quốc công thần của triều đại nhà Trần đã thấy và thấm
nhuần được chân lý ấy; nhưng những hậu duệ cuối cùng của triều đại đó, do phần
ngợm đã lấn át hết phần người, dù có thấy, cũng chẳng bao giờ hiểu được. Oái ăm
là như thế!
Như một định mệnh,
cơ nghiệp nhà Trần được lập nên như thế nào thì cũng bị mất đi tương tự như thế
ấy. Không có Huệ Tông, Trần Thủ Độ này thì cũng có Huệ Tông, Trần Thủ Độ khác,
không có Nghệ Tông, Hồ Quí Ly này thì cũng có Nghệ Tông, Hồ Quí Ly khác, vì luật
thịnh - suy buộc phải như thế. Chỉ có điều con người và thời thế của Hồ Quí Ly
không thể so sánh được với con người và thời thế của Trần Thủ Độ.
Sự chối bỏ kinh
đô Thăng Long của Hồ Quí Ly (hay khí thiêng Thăng Long đã từ chối kẻ thèm khát
ngôi báu?), đã bộc lộ tầm nhìn thiển cận của ông ta và là điềm báo về sự ngắn
ngủi của một triều đại được sinh ra không biết để làm gì, khi chỉ khác triều đại
thời mạt Trần cái nhãn mác, thậm chí còn tệ hại hơn, làm cho đất nước loạn lạc,
rối bời và suy yếu hơn nữa.
Hành động dời đô
của Hồ Quí Ly chỉ là để phục vụ cho mưu đồ đen tối và ích kỷ cá nhân chứ hoàn toàn
không chính đáng, hơn nữa còn bất lợi cho đất nước. Đông Đô, với vị trí đắc địa
của nó, vẫn luôn là trung tâm của đất nước, nơi đã khắc sâu nỗi nhớ niềm thương
của mọi người dân nước Đại Việt. Còn Tây Đô, như lời của Nguyễn Nhữ Thuyết được
ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, thì chỉ là nơi “chật hẹp hẻo lánh, cuối nước
đầu non, nên với loạn mà không nên với trị, chỉ cậy hiểm được thôi”.
Hồ Quí Ly không
phải là không thấy được thảm trạng của đất nước mà như Nghệ Tông nói là “Quốc
thể suy nhược”. Chắc rằng ông ta cũng muốn khắc phục thảm trạng ấy và chấn hưng
đất nước. Nhưng người đứng đầu nhà nước Đại Ngu đã không biết cách, vì đã không
có thể nhận biết được nguồn gốc sâu xa cũng như nguyên nhân cơ bản đưa đến thảm
trạng ấy. Do đó, Hồ Quí Ly đã thực hiện hàng loạt cải cách về kinh tế - xã hội,
vẫn không dập được đám cháy lúc âm ỉ lúc bộc phát, đang lan tràn khắp nước mà còn
như đổ thêm dầu vào lửa.
Về mặt kinh tế,
những chính sách quan trọng nhất của Hồ Quí Ly là: hạn điền hạn nô, phát hành
tiền giấy và đổi mới chế độ thuế khóa. Hạn điều là trừ các đại vương và trưởng
công chúa, hạn chế mức độ sở hữu về số lượng ruộng đất từ quan cho tới thứ dân
tối đa là 10 mẫu, số dư ra sau khi đo đạc sẽ sung công. Ai có tội được phép lấy
ruộng mà chuộc tội. Chính sách này nhằm trước hết tước đoạt lại số đất đai của đám
quí tộc Trần có được trước kia dưới thời Trần nhờ được ưu ái và cũng nhờ chiếm đoạt.
Việc này khôg thể không đụng chạm đến quyền lợi của phần lớn địa chủ và quan lại.
Tuy nhiên chính sách hạn điền đã tập trung được một số lớn điền đất cho nhà nước
để tăng thêm thu nhập từ tô, thuế. Thực chất của quá trình này chỉ là thay đổi
tên chủ sở hữu, phân phối lại lợi tức từ ruộng đất ở “phía trên” chứ không đếm
xỉa gì đến nông dân, những người trực tiếp nai lưng trên đồng ruộng. Hạn nô là
“những người được phép dùng gia nô theo cấp bậc của mình mà dùng nhiều ít khác
nhau, số gia nô thừa phải đem sung công. Gia nô đều có ghi dấu hiện vào trán”
(Cương Mục). Chính sách này của Quí Ly nhằm mục đích (đồng thời với hạn điền)
khống chế việc duy trì các lực lượng vũ trang lớn của vương hầu quí tộc cũ nhà
Trần, đồng thời tạo thêm nguồn nhân lực cho nhà nước.
Việc phát hành
tiền giấy thay cho tiền đồng có thể là chính sách táo bạo của Hồ Quí Ly, nhằm
giải quyết khủng hoảng tiền tệ, nạn kiệt quệ tài chính của triều đình. Chính sách
này, xét ra chẳng có lợi gì cho dân chúng cả và nếu để lạm phát, chỉ làm cho họ
khốn khổ thêm. Nó là giải pháp tình thế và chỉ có lợi cho nhà nước quân chủ
chuyên chế trong một thời đoạn.
Chính sách thuế
khóa của Quí Ly “tệ” hơn của nhà Trần, tăng thuế ruộng, tăng thuế đinh…
Cho dù Hồ Quí
Ly cũng có những hành động được cho là tích cực như lập kho bán thóc rẻ cho người
nghèo, mở “Quảng Tế Thư” (kiểu như bệnh viện công), lập hệ đo lường thống nhất
trong cân đo đong đếm, sửa đổi chế độ thi cử, khuyến khích học hành…, nhưng những
cái đó chỉ có thể ở mức độ hình thức hoặc cũng lại chỉ vì quyền lợi triều đình,
không thiết thực đối với đòi hỏi cấp bách của Đại chúng lúc đó, và như vậy trên
toàn cục, công cuộc cải cách kinh tế của Hồ Quí Ly về thực chất là vì quyền lợi
ích kỷ của tầng lớp thống trị mới, đứng đầu là Quí Ly. Lòng dân không thuận là
phải!
Mặt khác, đi đôi
với thủ đoạn kinh tế, để củng cố quyền lực, hòng mong xây dựng được một nhà nước
mạnh, Hồ Quí Ly còn ra sức trấn áp, loại bỏ, triệt hạ quan lại, tướng tá quý tộc
Trần, thực hiện chính sách “pháp trị” hà khắc kiểu hiến binh, mật thám đến độ
người quen biết nhau “chỉ nhìn nhau bằng mắt, không dám nói chuyện với nhau bằng
lời”, người đương thời gọi Quí Ly là “gian giảo”. Đối với Phật giáo, năm 1396,
Quí Ly lệnh: “Những sư chưa đến tuổi 50 đều phải hoàn tục”; thực hiện khảo sát
các sư, ai “thông hiểu đạo Phật” thì mới được coi sóc chùa chiền… Lòng người càng
thêm ly tán!
Ngót 30 năm làm
tôi cho các vua Trần với nhiều năm thực chất là thay vua điều hành đất nước, Hồ
Quí Ly đã bắt đầu thực hiện từng bước cải cách của mình trước khi lên ngôi. Thế
nhưng sau khi lên ngôi được 6 năm, đứng trước sự xâm lược không thể tránh khỏi
của nhà Minh (Trung Quốc), công cuộc cải cách kinh tế và xây dựng đất nước đạt được
thành quả gì, tạo nên thế và lực gì? Ngoài một đội quân chính qui có được từ chế
độ quân dịch nghiêm khắc ra. Hồ Quí Ly chỉ hầu như còn lại sự đơn độc. Câu hỏi
của Hồ Quí Ly trước tả hữu: “Làm thế nào có trăm vạn quân để đánh giặc Bắc?”, và
câu nói của Hồ Nguyên Trừng: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà
thôi”, đã bộc lộ ra tất cả. Nghe sao mà buồn!
Từ năm 1384, nhà Minh nhiều lần ra yêu sách đòi nhà Trần
cống nạp, đòi cung cấp nhà sư, phụ nữ xoa bóp, giống cây hoặc giúp quân
lính, lương thực, voi chiến... để đánh người Man ở biên giới Việt –
Trung. Nhà Trần đáp ứng các yêu sách đó, có lúc hoàn toàn, hoặc một
phần. Sau khi lên ngôi, vua Hồ Hán Thương năm 1402 cho đắp đàn Giao ở núi Đốn Sơn để làm lễ Tế giao, một nghi lễ chỉ dùng cho thiên tử, hàm ý nước Đại Ngu ngang hàng với Trung Quốc.
Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh (1406 – 1407), hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là cuộc xâm lược của nhà Minh 1406 – 1407, là cuộc chiến của nhà Hồ nước Đại Ngu (Đại Việt) chống cuộc xâm chiếm của nhà Minh (Trung Quốc) dưới triều Minh Thành Tổ từ tháng 4 năm 1406 cho đến tháng 6 năm 1407
Vào đầu thế kỷ
XV, dưới triều Minh Thành Tổ (1403 - 1424), nhà Minh đạt đến toàn thịnh và đưa
Trung Quốc lên vị trí một đế chế lớn mạnh nhất phương Đông. Cuối năm 1406, Minh
Thành Tổ phát động quân tiến đánh nước Đại Việt, à quên, Đại Ngu.
Dưới thời nhà Hồ, nhà Minh tiếp tục gây sức ép lên nhà Hồ bằng các đòi hỏi về người, lương thực,
đất đai, của cải,... nhưng nhà Hồ chỉ đáp ứng cho nhà Minh theo cách mà
gây ít thiệt hại nhất cho họ.
Để chuẩn bị lực lượng đánh Đại Ngu, Minh Thành Tổ cho điều động lực lượng từ Nam Kinh, theo đường thủy xuống hội binh với các lực lượng đang tập trung tại Quảng Tây, gồm 95.000 quân từ các tỉnh Chiết Giang, Giang Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Quảng, cộng với 10.000 kỵ binh và bộ binh từ các đơn vị cấm binh, 30.000 thổ binh từ Quảng Tây. Nhà Minh cũng huy động chuẩn bị tác chiến 75.000 quân kỵ binh và bộ binh từ Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên. Các xứ Vân Nam và Quảng Tây được lệnh mỗi xứ phải chuẩn bị 20 vạn thạch lương (một thạch khoảng 60 kg) cung ứng cho quân. Vân Nam cũng được lệnh huy động 10.000 quân tiếp viện. Có khoảng một phần mười binh lính Minh được trang bị hỏa khí.
Nhà Minh phao tin quân viễn chinh được điều động lên đến 80 vạn quân,
nhưng theo Whitmore, có lẽ quân Minh thực tế khoảng 215.000 quân.
Đến tháng 4 năm 1406 nhà Minh lấy cớ đưa Trần Thiêm Bình, một người tự xưng là dòng dõi nhà Trần đã sang cầu cứu nhà Minh việc Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, về Đại Ngu,
họ mang quân đánh vào ải Lãnh Kinh. Đội quân này bị đánh bại, nhưng nhà
Hồ đã mất bốn đại tướng chỉ huy quân các vệ. Ba tháng sau, nhà Minh huy động quân đội, chia làm 2 đường tấn công Đại Ngu.
Trước một đội
quân xâm lược đông đảo của một đế chế hùng mạnh, Hồ Quí Ly đã không hèn nhát, ông
quyết định kháng chiến.
Trước đó, biết
rõ dã tâm xâm lược của nhà Minh, Hồ Quí Ly đã tích cực chuẩn bị đối phó. Hồ Hán Thương điều động thêm quân trong nước. Tháng 9 năm 1404,
ông định ra Nam ban và Bắc ban, chia làm 12 vệ; quân Điện hậu đông và
quân Điện hậu tây chia làm 8 vệ; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người. Đại
quân thì 30 đội, trung quân 20 đội, mỗi dinh 15 đội, mỗi đoàn 10 đội;
Cấm vệ đô có 5 đội. Tất cả chịu sự chỉ huy của Đại tướng quân. Các sách
sử ở Việt Nam đều không có số liệu về tổng số quân lính dưới thời nhà
Hồ, chỉ biết rằng trong chiến dịch xâm lược Chiêm Thành năm 1403, nhà Hồ đã huy động 20 vạn quân:
"Gia phong Phạm Nguyên Khôi làm Đại tướng quân hai vệ Thiên Ngưu và
Phụng Thần, chỉ huy quân Long Tiệp, hành thủy quân đô tướng; Hồ Vấn làm
phó. Đỗ Mã chỉ huy các quân Thiên Cương; Đỗ Nguyên Thác làm phó. Quân
thủy bộ cộng 20 vạn người đều theo tiết chế của Nguyên Khôi".
Bằng
nhiều biện pháp, Hồ Quí Ly đã cố gắng xây dựng một lực lượng quân sự chính qui càng đông
càng tốt, cho ra sức huấn luyện, tập dượt. Tổ chức phòng thủ những nơi hiểm yếu. Ráo riết tăng cường trang bị vũ khí
và thiết bị chiến tranh cho quân đội ấy như đóng hàng loạt thuyền đinh sắt (gọi
là “cổ lâu thuyền”), đúc nhiều loại súng thần công. Súng thần công của nhà Hồ được
gọi là “thần cơ”, do Hồ Nguyên Trừng (con Hồ Quí Ly và cũng là tướng lĩnh có năng
lực của quân nhà Hồ) sáng chế, có sức công phá hơn hẳn các loại khí giới đương
thời, gây nhiều nỗi kinh hoàng cho quân Minh sau này. Chính vì thế, khi Hồ Nguyên
Trừng bị quân Minh bắt, ông đã được trọng dụng để dạy cho nhà Minh cách đúc súng
“thần cơ” đó. Trong “Vân Đài loại ngữ”, Lê Quí Đôn có nhắc đến tình tiết: “Quân
Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng”. Bên cạnh đó, Hồ Quí Ly cũng khẩn trương
lập thế trận, xây thành đắp lũy phòng ngự, bố trí nhiều lực lượng chặn địch dọc
theo các hướng giặc có thể tiến sang (như hướng Lào Cai, hướng Lạng Sơn, các cửa
sông, cửa biển…), nhưng chủ yếu là lập phòng tuyến sông Hồng, kéo dài hơn 700
trăm dặm, từ chân núi Tản Viên (Ba Vì) theo sông Đà lên Bạch Hạc và từ đó qua Đông
Đô (Thăng Long) trở về xuôi, với hai thành lớn của hệ thống là Đa Bang (Sơn Tây)
và Đông Đô. Ngoài công trình phòng ngự chủ yếu đó, Hồ Quí Ly còn thực hiện kế
“thanh giã” ở một số nơi (thuộc vùng Lạc Sơn, Hà Bắc, Bắc Thái, Vĩnh Phú…).
Trong khi bị nhà Minh uy hiếp ở phía Bắc, nhà Hồ liên tục mở mặt trận phía nam để mở rộng đất đai từ Chiêm Thành. Sau khi buộc vua Chiêm dâng Chiêm Động và Cổ Lũy để lập ra 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa vào năm 1402, sang năm 1403, Hồ Hán Thương lại tiếp tục đánh Chiêm. Tướng Phạm Nguyên Khôi nhanh chóng tiến đến bao vây kinh thành Chà Bàn của Chiêm Thành. Trong tình thế nguy cấp, vua Chiêm bèn sai sứ cầu cứu nhà Minh. Minh Thành Tổ điều 9 thuyền chiến vượt biển sang cứu Chiêm. Phạm Nguyên Khôi vây hãm Chà Bàn trong 9 tháng nhưng không hạ được. Quân Đại Ngu hết lương, đành phải rút về.
Nhìn chung, sự
chuẩn bị cho kháng chiến của Hồ Quí Ly là dày công, kỹ càng và tương đối hoàn tất.
Lực lượng xâm lược
của quân Minh gồm 21,5 vạn người, chưa kể một số đông dân cư và thổ binh tải lương
đi theo, chia làm hai đạo vượt biên giới Đại Ngu.
Tháng 4 năm 1406, lấy cớ đưa Trần Thiêm Bình về nước, nhà Minh sai Hàn Quan và Hoàng Trung mang quân hộ tống để lập Trần Thiêm Bình làm vua. Minh Thực lục chép quân số đội quân của Hoàng Trung là 5000, nhưng theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Hoàng Trung có tới 100.000 quân.
Ngày 8 tháng 4 âm lịch, Hoàng Trung đánh vào cửa Lãnh Kinh. Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng dẫn hai cánh quân thủy bộ Đại Ngu đụng độ với quân Minh. Sáng hôm đó, các quân thủy bộ giao chiến. Theo "Đại Việt Sử ký Toàn thư",
quân Đại Ngu thấy quân Minh ít hơn nên khinh suất, để bị đánh bại với
tổn thất nặng nề. Nhị vệ đại tướng Phạm Nguyên Khôi, tướng chỉ huy quân Chấn Cương là Chu Bỉnh Trung, tướng chỉ huy quân Tam Phụ
là Trần Huyên Huyên, Tả Thần Dực quân Trần Thái Bộc đều thua chết. Tả
Tướng quốc Trừng bỏ thuyền lên bờ, suýt bị vây, có người vội dìu xuống
thuyền thoát được.
Nhưng đúng lúc đó, tướng Tả Thánh Dực quân Hồ Vấn mang quân từ Vũ Cao
(Bắc Giang) đánh úp quân Minh. Hoàng Trung không chống nổi, đến đêm bèn
rút quân về. Song các tướng Đại Ngu là Hồ Xạ và Trần Đĩnh mang quân đóng chặn ở ải Chi Lăng. Quân Minh bị mất đường về, buộc phải chấp nhận giao nộp Trần Thiêm Bình và sai Cao Cảnh đưa hàng thư, đề nghị mở đường cho về nước. Hồ Xạ nhận hàng thư, bằng lòng nhận Thiêm Bình và mở vòng vây cho quân
Minh rút lui. Quân Đại Ngu bắt được nhiều tù binh, đưa vào Nghệ An cho làm ruộng. Trần Thiêm Bình bị mang về xử lăng trì. Trần Thiêm Bình bị giết khiến nhà Minh tức giận và quyết định tiến đánh nhà Hồ.
Về sách lược của Đại Ngu, viên hàng tướng Chiêm Thành Bố Đông khuyên với Hồ Quý Ly
nên đưa quân lên biên giới đón đánh ngay quân Minh, không cho tiến sâu
vào, để quân Minh ỷ vào trường binh và thông được đường tiến quân, nhưng
các tướng không nghe. Theo K.W Taylor, nhà Hồ đã từ bỏ phần lớn khu vực Đông Kinh (Thăng Long) và phòng thủ ở bờ nam sông Hồng.
Tháng 11 -
1406, Trương Phụ xuất quân từ Bằng Tường (Quảng Tây) vượt ải Pha Lũy (Nam Quan)
vào Lạng Sơn. Quân tiến phong của Trương Phụ nhanh chóng hạ được ải Lưu Quan và
Kê Lăng (Chi Lăng), hai vị trí quan trọng, có địa thế hiểm yếu, do khá đông quân
ta phòng giữ. Từ đó giặc tiếp tục tiến về Cần Trạm (quãng Kép - Bắc Giang ngày
nay), rồi chiếm Xương Giang, Thị Cầu. Kỵ binh giặc trước đó đã tiến đến Gia Lâm
làm nhiệm vụ nghi binh, còn đại quân chúng tắt qua những nơi bỏ trống, tiến đến
miền Đa Phúc, Lập Thạch, bắt liên lạc với đạo quân thứ hai. Binh giặc tiến rất
nhanh do dọc đường hành quân không vấp phải sức kháng cự nào đáng kể.
Đạo quân giặc
thứ hai, do Nhược Thạch chỉ huy, từ Vân Nam vượt biên giới tiến theo sông Hồng,
sông Lô. Cánh quân này của giặc cũng nhanh chóng triệt hạ được nhiều đồn ải, đánh
tan các bộ phận án ngữ, đốt cháy rất nhiều thuyền chiến của quân Hồ, rồi tiến đến
Bạch Hạc.
Ngày
11-12-1406, hai đạo quân Minh, theo kế hoạch đã hội sư với nhau ở bờ bắc sông Hồng
chuẩn bị công thành Đa Bang, một cứ điểm trọng yếu của hệ thống phòng ngự nhà Hồ.
Quân nhà Hồ tập
trung rất đông ở thành Đa Bang, tiếp tục củng cố thêm cho kiên cố, tăng cường dàn
tượng binh, tỏ rõ quyết tâm phòng thủ.
Ngày 2 tháng 12 âm lịch, người Minh chiếm được Việt Trì, bờ sông Mộc Hoàn (nay là xã Cổ Đô, huyện Ba Vì, Hà Nội) và chỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc (cửa sông Lô đổ vào sông Hồng). Tướng chỉ huy quân Tả Thánh Dực là Hồ Xạ không giữ nổi, phải dời hàng trận sang phía nam sông Cái.
Đêm mồng 7 tháng 12 âm lịch, quân Minh cho khiêng thuyền ra bờ phía bắc
bãi sông Thiên Mạc bị tướng nhà Hồ là Trần Đĩnh đánh bại. Tướng nhà
Minh trừng phạt những người đã thoái lui để thua trận, binh lính quân
Minh từ đó liều chết cố đánh, liều mạng lập công.
Sau thất bại ở Thiên Mạc, quân Minh chấn chỉnh lại đội ngũ, đánh được hai mặt sông Thao và sông Tuyên, đóng quân ở bờ bắc sông Thao, đối diện với thành Đa Bang. Đêm mồng 9 tháng 12 âm lịch, quân Minh đánh úp quân Hồ ở bãi Mộc Hoàn. Tướng Đại Ngu là Nguyễn Công Khôi mải nữ sắc không phòng bị, thuyền bị đốt gần hết.
Trương Phụ và Mộc Thạnh thấy các bãi sông đều có rào cọc chắn không tiến được, lại biết nhà Hồ chỉ trông vào thành Đa Bang để phòng thủ nên tập trung tấn công thành này làm bước quyết định cục diện mặt trận. Đêm 20-1-1407,
quân Minh nổi lửa, thổi tù và làm hiệu lệnh tấn công. Chúng nhanh chóng vượt sông,
lợi dụng bãi cát dưới chân thành làm điểm tựa, nổ súng mãnh liệt, ào ạt vượt hào,
công thành. Trương Phụ và Hoàng Trung đánh
góc tây bắc, Mộc Thạnh và Trần Tuấn đánh mặt đông nam. Cánh Mộc Thạnh
dùng thang mây đánh lên mặt thành, quân bị giết xác chất cao ngang mặt
thành nhưng quân lính nhà Minh vẫn không ngừng tấn công, không dám dừng
lại. Quân Hồ không địch nổi, phải rút vào thành cố thủ. Tướng nhà Hồ là Nguyễn Tông Đỗ chỉ huy quân Thiên Trường đục thành lùa voi
ra đánh. Quân Minh dùng hỏa tiễn bắn voi và dùng các hình vẽ sư tử phủ
lên mình ngựa để voi sợ. Voi lùi lại, quân Minh nhân đấy đuổi theo hút
vào trong thành, quân nhà Hồ
thua to, các tướng nhà Hồ là Lương Dân Hiến và Thái Bá Nhạc tử trận.
Quân Minh đánh chiếm được thành Đa Bang cùng 12 voi chiến và vô số binh
khí, các quân dọc sông đều tan vỡ. Thành Đa Bang
nhanh chóng thất thủ, phòng tuyến dày công chuẩn bị coi như tan vỡ. Quân Minh
thừa thắng tràn xuống chiếm được Đông Đô vào ngày 22-1-1407. Một số quan lại quí
tộc quay sang hàng quân Minh, đánh lại Hồ Quí Ly.
Quân nhà Hồ do
Hồ Nguyên Trừng chỉ huy, tiếp tục rút chạy về Hoàng Giang (khúc hạ lưu sông Hồng
thuộc địa phận Lý Nhân - Nam Hà). Ngày 20 tháng 2 âm lịch năm 1407
hai bên đụng độ nhau ở 2 bờ sông. Theo Minh sử, quân Hồ có 500 chiến
thuyền, còn quân Minh đánh theo cả hai đường thủy bộ. Kết quả quân Đại
Ngu bị thua, mất 100 thuyền chiến và 10.000 binh lính, phải lui về Muộn
Hải
Vào khoảng tháng
3, do Muội Hải là nơi ẩm thấp, lại không quen khí hậu thủy thổ, bị ốm đau bệnh
tật nhiều nên giặc chuyển quân về Hàm Tử (Hưng Yên). Nhân cơ hội đó, nhà Hồ tập
trung được 7 vạn quân, tổ chức phản kích. Nhưng giặc biết trước, mai phục đánh
làm cuộc phản công bị thất bại nặng. Hồ Quí Ly cùng Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán
Thương (vua Hồ) dẫn bại quân chạy vào Thanh Hóa, cố thủ ở thành Tây Đô.
Đầu mùa hạ năm
1407, Trương Phụ kéo đại quân tấn công Tây Đô, đánh bại quân Hồ. Hồ Quí Ly cùng
đình thần cắm cổ chạy dài, đến Lỗi Giang (Mã Giang) thì bị quân Minh đuổi kịp đánh
cho tan tác. Lúc này tướng nhà Hồ là Ngụy Thức thấy tình thế vô phương cứu chữa,
bèn tâu:
- Nước đã mất,
làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin bệ hạ tự đốt đi mà chết còn
hơn.
Hồ Quí Ly cả giận,
chém đầu Ngụy Thức rồi dẫn tàn binh chạy về vùng Hà Tĩnh. Quân giặc đuổi bám ráo
riết, đến cửa biển Kỳ La (Kỳ Anh, Hà Tĩnh) thì kịp. Quân nhà Hồ nghênh chiến
trong bước đường cùng. Trận đánh nổ ra (chắc là xoàng xĩnh thôi!), quân Hồ
“nhanh nhẹn” tan nát hoàn toàn. Cha con Hồ Quí Ly cùng nhiều tướng lĩnh, thân
thuộc đều bị quân Minh bắt sống, giải về Kim Lăng (Trung Quốc). Triều Hồ đến đây
tiêu vong, Đại Ngu kết thúc, nước Đại Việt bị xâm lăng.
Nguyên nhân thất
bại của cuộc kháng chiến nhà Hồ chống quân Minh xâm lược đã quá rõ. Hồ Quí ly đã
xây dựng được một lực lượng quân sự không kém hùng hậu về quân số và trang thiết
bị chiến tranh, đã có đủ thời gian để xây thành đắp lũy kiên cố, công phu và bày
binh bố trận kỹ càng. Về tương quan lực lượng ban đầu, chắc chắn quân Hồ không
thua kém quân Minh và có phần lợi thế hơn, cho nên Quí Ly mới nghĩ đến chọn trận
địa chiến làm cách đánh phòng thủ chủ yếu. Tuy nhiên, sự chuẩn bị có vẻ rất chu
đáo và hoàn tất ấy lại thiếu mất một bộ phận cơ bản, một khâu cốt lõi mà Quí Ly
dù có ao ước đến mấy cũng không thể có được, đó là khối đoàn kết toàn dân tộc và
một tài năng quân sự xuất chúng (chúng ta cho rằng cái sau phụ thuộc vào cái trước!).
Chính vì thế mà
quân nhà Hồ tuy đông, được trang bị tốt nhưng “trăm vạn người, trăm vạn lòng”
(lời Nguyễn Trãi), không có được cái sức mạnh tinh thần hết sức quý báu của một
đội quân tự giác, thoát thai từ “toàn dân vi binh”, một lòng cứu nước, đó là
tinh thần chủ động tiến công, ý chí quyết chiến. Bên cạnh đó, tư tưởng chỉ đạo
chiến tranh sai lầm của bất tài quân sự Quí Ly đã trực tiếp làm nên chiến bại
chóng vánh của quân kháng chiến. Thụ động trong phòng ngự, chạy dài trong rút
lui, để cho giặc rảnh rang tập trung quân đánh hết đồn ải này đến thành lũy khác
thì quân đông mấy cũng thành ít, mạnh mấy cũng thành yếu. Tướng tài đến mấy cũng
có thể phạm sai lầm, nhưng hơn người ở chỗ nhanh chóng phát hiện ra điều ấy,
nhanh chóng phán đoán được tình huống và quyết đoán chọn phương án tác chiến mới
phù hợp. Ở đây, Quí Ly đã không làm được như vậy. Trước những thất bại trong phòng
thủ ở vùng biên giới và những trận đánh dọc đường hành tiến của quân Minh, nhà
Hồ không những không thu được chiến quả có ý nghĩa nào mà còn bị tổn thất không
nhỏ về lực lượng quân sự. Ấy vậy mà quân Hồ tuyến sau vẫn án binh, cứng đờ, ở đâu
củng cố ở đó chờ giặc tới để phòng thủ, đồng nghĩa với chờ bị tiêu diệt. Nếu
ngay lúc đó Hồ Quí Ly hiểu ra được tình thế ngày một bất lợi, phát hiện được những
biểu hiện mầm mống từ những sự kiện chiến trường vùng biên giới về một nguy cơ
thất bại của thế trận co cụm phòng ngự máy móc, mà tìm cách bảo toàn lực lượng,
quyết đoán chuyển sang trường kỳ kháng chiến, “kiên thủ chờ suy”, lấy trận Đa
Bang và thêm trận Đông Đô làm những trận quyết chiến chiến thuật (đánh nghi
binh, ngăn chặn quyết liệt để rút lui an toàn…) tổ chức hàng loạt trận tập kích
theo các hướng thường xuyên, liên tục để tiêu hao, phân tán địch, thì quân Hồ rất
có thể sẽ phòng thủ được Đại Ngu lâu hơn nhiều, thậm chí có cơ may đánh bại quân
xâm lược nhà Minh. Kháng chiến kéo dài chỉ có lợi cho nhà Hồ, vì bản chất phi
nhân phi nghĩa của quân xâm lược sẽ bị phơi bày, chiêu bài giả dối “phù Trần,
diệt Hồ” của chúng sẽ dần mất tác dụng, tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến tăng
lên; sẵn nồng nàn yêu nước và có đủ thời gian lựa chọn, chắc rằng lòng dân sẽ
ngày càng hướng về và nhờ thế mà cũng có thể nhận thức chính trị của vua quan
nhà Hồ được cải thiện ít nhiều, sĩ khí quân Hồ từ đó sẽ được kích thích lên
cao.
Nhưng nếu thế
thì không phải lịch sử vì đã là lịch sử thì làm gì có chữ “nếu”. Còn nếu chúng
ta vẫn cứ muốn “nếu” thì cái “nếu” ấy chỉ có nghĩa: nếu trứng khôn hơn vịt thì
vịt sẽ phải có một chọn lựa là không đẻ ra… trứng, mà đẻ ra vịt con để khỏi khôn
hơn nó. Nhưng nếu thế thì làm sao có câu: “Hậu sinh khả úy”? Hay trứng khôn hơn
vịt là vì trứng nở ra vịt để “bắt” vịt đẻ ra trứng? Nếu thế thì… Ôi, chữ “nếu”!
Quá khứ không
thể trở lại nhưng lịch sử thì có thể lặp lại. Vì thế mà người đọc sử có quyền
“nếu” để chọn lựa tương lai. Tương lai như thế nào, có một phần quan trọng phụ
thuộc vào hiện tại thấm nhuần đến mức độ nào những bài học lịch sử. Hãy đừng để
cho lịch sử lặp lại những đau thương! Phải chăng lời kêu gào ấy là vô vọng?
***
Hồ Quí Ly bị giặc
Minh bắt, rồi bị đày làm lính ở Quảng Tây. Đại Ngu mất, nhưng Đại Việt vẫn còn và
chưa chịu khuất phục hẳn.
Sau khi xóa bỏ
triều Hồ, quân Minh ngay lập tức “Phù Trần” bằng cách ép quan lại Đại Việt tay
sai và các bô lão làm tờ thỉnh cầu: “Họ Trần không còn ai nữa và đất An Nam vốn
là đất Giao Châu ngày trước, nay xin đặt quận huyện như cũ”. Thế là triều đình
nhà Minh xóa bỏ tên nước Đại Việt, đổi làm quận Giao Chỉ, chia làm 15 phủ gồm
41 châu và 210 huyện, lập cơ quan đầu não gồm 3 bộ phận (3 ty) thực hiện việc đô
hộ. Về thực chất, đó là hành động thực hiện ý đồ đã có từ trước của kẻ xâm lược:
thủ tiêu nền độc lập của nước Đại Việt, sát nhập vĩnh viễn vào lãnh thổ Trung
Quốc để tiện bề vơ vét bóc lột tài nguyên, của cải, nhân lực của xứ sở này phục
vụ vua quan triều Minh. Thâm độc và cũng bất nhân bất nghĩa nhất là thủ đoạn hủy
diệt văn hóa bản thổ và đồng hóa dân tộc, “biến phong tục thành tóc dài răng trắng,
hóa làm người Ngô cả” (Việt kiệu thư). Ngay từ lúc phát binh đánh Đại Việt, chính
Minh Thành Tổ đã trực tiếp ra lệnh cho bọn tướng lĩnh chỉ huy cuộc xâm lược là
phải phá hoại triệt để, sách vở giấy tờ thì “một mảnh giấy, một chữ viết đều
thiêu hủy hết”, bia đá thì “đập phá hết, một chữ không được để sót”.
Dưới ách đô hộ
của nhà Minh, thành Đông Đô bị đổi tên là thành Đông Quan, được chọn là nơi đầu
não của bộ máy chính quyền đô hộ, và như thế, trở thành sào huyệt trung tâm của
quân xâm lược.
Để thực hiện dã
tâm như đã nói đồng thời để khuất phục hẳn ý chí đấu tranh bất khuất của dân tộc
Việt và cũng nhằm triệt để vơ vét bóc lột của cải, xương máu của nhân dân Đại
Việt, nhà Minh đã thi hành một chính sách đàn áp, thống trị hết sức nham hiểm và
cực kỳ tàn bạo. Một đằng chúng tập hợp đám quí tộc, quan lại đầu hàng, mua chuộc,
đào tạo một số người khác lập nên đội ngũ “thổ quan”; ra sức bắt lính (cứ hai
hoặc ba suất đinh thì một suất lính) tạo nên đội ngũ “thổ binh”, tổ chức thành
một lực lượng ngụy quân ngụy quyền tay sai nhằm chia rẽ nội bộ quần chúng, “dùng
người Việt trị người Việt”. Một đằng chúng cho xây dựng trên cả nước gần 40 thành
trì lớn làm trụ sở hành chính và căn cứ quân sự, hàng trăm thành lũy, hàng ngàn
đồn bốt để kiểm soát, trấn áp các nơi. Riêng xung quanh thành Đông Quan, chúng
thiết lập một hệ thống đồn lũy bảo vệ ngoại vi do 5 vệ quân (theo binh chế nhà
Minh, mỗi vệ có 5600 quân) đồn trú. Một trong những đồn lũy phòng vệ đó là thành
Điên Diêu, hiện còn di tích ở Gia Lâm. Bên cạnh đó là đàn áp thẳng tay, khủng bố
tàn khốc các cuộc nổi dậy phản kháng, những người yêu nước, liên tục trên qui mô
cả nước của quân Minh. Chúng đã gây ra những tội ác đẫm máu và khét tiếng man rợ
như: mổ bụng moi quan, thiêu sống, rán thịt người lấy mỡ, chất thây người làm mồ
kỷ niệm, cắt tai người xỏ thành xâu (sau khi giết người, quân Minh cắt tai xỏ xâu,
mổ cả bụng người có chửa để cắt tai thai nhi, đem về Đông Quan tính công, lĩnh
thưởng).
Về kinh tế, nhà
Minh đặt ra vô số thứ thuế đánh vào mọi hạng người, vào mọi ngành nghề làm ăn của
nhân dân ta như thuế ruộng, thuế thủ công, thuế đánh cá, thuế săn bắn, thuế làm
thổ sản… Về thuế ruộng đất, nhà Minh tăng lên gấp 3 lần so với mức thuế thời nhà
Hồ. Việc buôn bán ở các chợ, vận chuyển hàng hóa đều phải đóng thuế nặng. Việc
thông thương với nước ngoài bị cấm ngặt. Chỉ trong khoảng hơn nửa năm tiến hành
xâm lược, đội quân xâm lược nhà Minh đã cướp đoạt của nhân dân ta 235.900 voi,
ngựa, trâu, bò, 13.600.000 thạch thóc, 8670 chiếc thuyền và 2.539.800 vũ khí
(Minh sử). Sau khi thiết lập chính quyền đô hộ, sự vơ vét cướp bóc có qui mô rộng
lớn hơn nữa.
Chế độ thuế khóa
đã nặng nề, nhân dân ta còn chịu một chế độ lao dịch hết sức tàn ác. Hàng năm,
tất cả dân binh từ 16 đến 60 tuổi đều phải luân phiên đi phu để xây thành quách,
dinh thự, hoặc lên rừng xuống biển, nai lưng tìm kiếm, săn bắn, khai thác sơn lâm
thủy hải sản và tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho lực lượng đô hộ và cống nạp
về triều Minh. Trong “Bình Ngô đạo cáo”, Nguyễn Trãi đã lột tả như sau về tội ác
của quân Minh thời đó:
“Thui dân đen trên
lò bạo ngược
Vùi con đỏ dưới hố
tai ương
Lừa chúng dối trời,
kế giở đủ muôn nghìn khóe
Động binh gây hấn,
ác chứa gần hai chục năm
Vơ vét thuế má, đầm
núi chẳng còn tý gì
Lên núi đào vàng xông
pha lam chướng, phá rừng đãi cát
Ra khơi mò ngọc
giao long, mà lặn biển đông tây
Nhiễu dân đào hầm
bẫy hưu đen
Hại vật chăng lưới
lùng chả biếc
Cỏ cây sâu bọ không
một loài nào được thỏa sống còn
Quan khả khốn cùng
chẳng một ai được ở yên ổn…
Rút máu mủ sinh
linh, lũ kiệt liệt miệng răng nhờn béo
Đủ công trình thổ
mộc, chỗ công tư nhà cửa nguy nga
Chốn hương thôn sưu
dịch nặng nề
Trong làng xóm cửi
canh bỏ phế
Tát khô nước Đông
Hải, khôn rửa sạch tanh hôi
Chẻ hết trúc Nam Sơn,
khó ghi hết tội ác”.
Chịu chung với
số phận đất nước, Thăng Long cũng chìm ngập trong tang tóc, đau thương, nhưng
không hề bi lụy hèn yếu mà phẫn uất, căm hờn. Đại Ngu mất nhưng Đại việt vẫn kháng
chiến, Đông Quan bị đọa đày nhưng Thăng Long vẫn quật khởi rồng bay.
Nếu tính từ khi
cha con Hồ Quí Ly bị bắt (năm 1407) cho đến khi khởi nghĩa Lam Sơn giành toàn thắng (năm 1428) thì giặc Minh chiếm
đóng nước ta khoảng 20 năm. Nhưng do nhân dân ta liên tục nổi dậy khởi nghĩa hết
cuộc này tới cuộc khác rải rác khắp nơi nên ách đô hộ của nhà Minh chỉ được yên
ổn trong khoảng 4 năm (1414-1417). Sử gọi khoảng thời gian này là kỷ thuộc
Minh. Thực ra cái khoảng lặng đó trên một đất nước địa linh nhân kiệt, lừng
danh bất khuất ngay cả trong sử sách Trung Hoa chính là cái yên ắng ghê người của
sự tụ hội khí thiêng sông núi làm nên một trận bão dông vĩ đại, quét sạch lũ cướp
nước và bán nước. Cũng vì thực trạng Đại Việt như thế cho nên chúng ta thấy ý đồ
thâm độc của Minh Thành Tổ, đồng hóa dân tộc Việt, thủ tiêu nước Đại Việt là không
thể đạt được, dù có gây ra rất nhiều tổn thất về văn hóa vật thể đối với nhân dân
ta.
Ngay từ năm
1407, nhân dân Đông Đô và vùng ngoại vi (tức đất Hà Nội ngày nay) đã không khuất
phục và nhiều phen vùng lên đánh quân Minh. Vùng Từ Liêm bị quân Minh coi là “ổ
quân ác nghịch” (Việt Kiệu thư) vì ở đây chúng luôn gặp sự kháng cự, chống đối.
Năm 1408-1409, nhân dân vùng ngoại vi Đông Quan nổi dậy, phối hợp với quân khởi
nghĩa của Trần Ngỗi và của Trần Quí Kháng, nhiều lần uy hiếp chính quyền đầu não
của giặc. Năm 1409, Hoàng Cự Liêm khởi nghĩa ở Quảng Oai (Ba Vì). Năm 1410, bùng
nổ cuộc khởi nghĩa lớn của Lê Nhị ở Thanh Oai, Từ Liêm và của Lê Khanh ở Thanh Đàm
(Thanh Trì). Năm 1411, Phạm Khảng nổi dậy ở vùng tây nam Đông Quan. Năm 1412, Lưu
Bổng cầm đầu cuộc khởi nghĩa ở Quảng Oai (Ba Vì).
Những cuộc nổi
dậy, ứng nghĩa đó, vì xảy ra gần sát khu vực sào huyệt đầu não giặc trong khi
chúng đã rảnh tay, đã giải quyết xong quân nhà Hồ, nên nhanh chóng bị đánh dẹp.
Tuy nhiên, sự kháng chiến đó đã nêu tấm gương bất khuất sáng ngời, góp phần thổi
bùng lên ngọn lửa vì nước quên thân trong lòng nhân dân cả nước.
Muốn đánh tan
quân xâm lược, giải phóng kinh thành khi chúng đã chiếm được nước ta - đội quân
của một vương triều đang thịnh nhà Minh, không thể một sớm một chiều và phải ở đâu
đó để có thời gian qui tụ và phát triển lực lượng chứ không thể ở nơi gần với
“phồn hoa đô hội” được. Thời cuộc đã chọn Lam Sơn và giao cho nó trách nhiệm viết
tiếp trang sử hào hùng của dân tộc Việt. Vùng đất Thanh Hóa cũng thuộc hàng “tổ
quán” hiểm địa, là “gốc cội” công thủ của quân dân Đại Việt trong suốt quá trình
lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc.
Trong các cuộc
khởi nghĩa trước khởi nghĩa Lam Sơn, có hai cuộc khởi nghĩa lớn còn in dấu
trong lịch sử mà mỗi lần đọc đến, lòng chúng ta cứ nặng trĩu nỗi niềm yêu, thương,
hờn, giận, tiếc nuối, đó là khởi nghĩa Trần Ngỗi và khởi nghĩa Trần Quí Kháng.
Người ta nói:
người chép sử chân chính phải thực sự khách quan. Chúng ta thắc mắc: khách quan
làm sao được khi bàn tay cầm bút để chép sự kiện lịch sử lại bị điều khiển bởi
bộ não hoàn toàn chủ quan của kiếp người? Một bộ não biết suy nghĩ, khi đánh giá
một sự vật hiện tượng nào đó, không thể thiếu tính tư tưởng. Mà tư tưởng thoát
thai từ đâu nếu không phải là từ những định kiến, và định kiến được kết lại từ đâu
nếu không phải là từ quá trình nhận thức? Đã nhận thức thì sao tránh khỏi thị
phi? Thị phi chỉ hàm chứa chân lý một khi nó sát với thực tại. Nhưng làm sao biết
được điều đó? Dựa trên kinh nghiệm ngàn đời? Vâng, chỉ có thể là như thế! Nhưng
kinh nghiệm ngàn đời ở đây nên hiểu là những tinh hoa, những kiến thức (những ý
tưởng trong qúa khứ được đa số thừa nhận?) được rút ra, được hun đúc từ lịch sử,
thành những bài học lịch sử. Nhưng cũng lại kinh nghiệm cảnh báo rằng: kiến thức
vẫn chưa là chắc chắn! Một lịch sử được gọi là khách quan nhất, may ra chỉ có
thể là biên niên sử. Một biên niên sử sẽ chẳng giúp ích cho hậu thế được gì ngoài
sự… mù tịt. Một khái niệm có nội hàm thì tương tự, một lịch sử phải có nội
dung. Nội dung ấy như thế nào là do người chép sử (hoặc người chép lại lịch sử!).
Nội dung một sự kiện được một con người cụ thể chép lại để lưu truyền thì không
bao giờ là sự kiện đó nữa, nó đã mang tình cảm của người chép mất rồi! Nói như
thế thì cần gì những con người tài năng đứng ra chép sử, cần gì phải cố gắng mô
tả các sự kiện một cách khách quan, vì đằng nào thì cũng chẳng… đâu vào với đâu
cả?! Vui thế thôi chứ “hậu sinh khả úy” mà lại! Chúng ta vô cùng biết ơn những
nhà viết sử chân chính và không chân chính, bởi nhờ họ mà hôm nay chúng ta mới
thấy được quang cảnh của những hiện tại đã thuộc về quá khứ, đã thấy được cả
chiều sâu của những quan niệm, để mà xót xa và cũng tự hào tràn trề về dòng giống,
tổ tiên, ông cha thuở trước. Đã là lịch sử thì có đúng có sai, đó là điều cần
phải chấp nhận bởi lẽ dù nhận thức có độc lập đến mấy và tư tưởng có tự do đến
mấy thì cũng là sản phẩm của một thời đại cụ thể, chưa kể loại lịch sử được viết
ra bởi bồi bút, tay sai cho một thế lực nào đó (mà thực ra cũng ẩn chứa ít nhiều
sự thật).
Lịch sử có được
của ngày hôm nay chính là nhờ có (hoặc bị có?) những ý kiến phản biện. Ý kiến
phản biện là tượng trưng cho hậu thế. Lịch sử cũng có quá trình phát triển đến
hoàn thiện của nó và đó chính là trách nhiệm của hậu thế. Và một lịch sử sẽ rất
gần với thực tại (thời quá khứ) nếu người trực tiếp ghi lại sự kiện và cả người
đọc, người chép lại lịch sử, biết cảm nhận buồn vui, hạnh phúc và khổ đau theo
như Đức Huyền Diệu mách bảo, nghĩa là theo quan niệm của Đại Chúng đương thời và
cũng là ở mọi thời đại. Nhận định của Đại Chúng nhiều khi rất tầm thường, mộc mạc,
thô sơ nhưng thường đúng, đích đáng về cái xã hội đầy thị phi mà Đại Chúng đó là
nền tảng. Chính vì vậy, chúng ta cho rằng một nhà viết sử hay nghiên cứu lịch sử
chân chính, ngoài sự uyên bác ra, phải có lòng nhân hậu. Hiện tại là kết quả tất
yếu của quá khứ, nhưng nhờ có những bài học lịch sử mà hiện tại được quyền chọn
tương lai. Nếu điều vừa nói là chân lý thì vai trò của các sử gia quan trọng đến
cỡ nào?!
Nói gì mà… Thôi
đi! Muốn viết những điều nghiêm túc thì đừng nên uống nhiều rượu quá. Còn nếu đã
uống nhiều rượu quá thì… Im đi! Ai thế nhỉ? Chúng ta có nói đâu mà bảo im, chúng
ta đang viết mà? Bực mình quá! Tôi đây, NTT đây! Ông có biết phía trước là cả một
bãi lầy mênh mông vô định mà ông có hứa là sẽ vượt qua trước khi mãn kiếp, nhớ
không? Ôi, NTT, ông từ đâu ra vậy, hả? Câm mồm! Ông còn một cuộc hành trình rất
xa, có thể là đến tận ngôi sao lấp lánh kia kìa, hoặc là xa hơn nữa. Tại sao ông
cứ phải quẩn quanh ở đây, trong khi chính ước mơ của ông lại đang chờ ông ở chân
trời Vũ Trụ? Biết thế nào mà nói được đây, NTT ơi? Chúng tôi vẫn biết mình phải
đi chứ không thể ở, đời chúng tôi nếu kết thúc thì ít ra cũng kết thúc đằng sau
ngôi sao đó, chứ không thể ở chốn này, chốn mà ai cũng cho mình tài giỏi, đầy mưu
chước và chẳng ai thèm nghe ai, chốn mà khóc cười chẳng biết vì sao lại khóc cười.
Nhưng xin NTT hiểu cho rằng đã là con người thì phải có gốc gác, tổ tiên, ông bà,
cha mẹ, vợ con; đã là con người thì làm sao mà dứt áo bỏ đi được những tình cảm
mà nhờ đó chúng ta mới là con người? Mày nói nghe cũng “phê”, thôi, tùy mày lựa
chọn, và… Và gì nữa mà “và”, ông cũng say mèm quá xá cỡ rồi chứ nói ai được nữa?
“Chúng ta” mà ông gọi là “mày”, là “ông” thì thật… hết biết. Câm họng, lũ lẻo mép!
Ông đây mà say á?... Thế thì… Thôi, thôi… ừ, ừ… à, à… Chúng mày muốn làm gì thì
làm, ông đây không thèm nói nữa! Ấy chết, thưa bậc thượng thừa, không có ông làm
sao có chúng tôi? Ông thông cảm cho, vì chất đầy nỗi niềm nên hãy cho phép chúng
tôi giãi bày hết nỗi niềm ấy, dù vắn tắt thôi, để rồi an tâm lên đường, không còn
vương vấn cõi lòng nữa. Ừ! Mà lẹ lẹ lên, vì mục đích của sự hoang tưởng không
phải là mổ xẻ lịch sử…
Ai ơi, tin đi,
lời khuyên chí tình bao giờ cũng hàm chứa ít nhất một chân lý!
Chúng ta cảm ơn
NTT, nhưng chúng ta có lựa chọn riêng, và chúng ta lại tiếp tục câu chuyện đâu
cho… ra đó.
Tháng 11-1407,
Trần Ngỗi - con trai thứ của vua Trần Nghệ Tông, từng được cha phong là Giản Định vương, như vậy, ông là em của Thái úy Trang Định vương Trần Ngạc và là anh của Trần Thuận Tông, vua áp chót triều Trần (ở ngôi 1388-1398).
, chạy
giặc đến Yên Mô (Ninh Bình), cùng bộ hạ tập hợp được một số người yêu nước (phần
đông là người Thiên Trường) nổi dậy, tự xưng là Giản Định Đế (1375 – 1410) với mục tiêu
là chống quân Minh, giành độc lập, khôi phục triều Trần (sử gọi là triều Hậu Trần) . Lực lượng mới nổi còn
non, quân Minh lại sớm kéo tới đánh, nên thua trận, rút về Nghệ An. Tại đó, quân
Trần Ngỗi phát triển nhanh thành một lực lượng khá lớn gồm nhiều quý tộc, quan
lại yêu nước nhà Trần, nhà Hồ và nhiều nhóm nghĩa binh từ các nơi kéo về. Trong
đó, đáng chú ý nhất có Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Trần Nguyệt Hồ (là những
quan lại cũ của nhà Trần, nhà Hồ, ra hàng quân Minh, nhận quan tước của chúng)
quay sang giết đám quan lại đô hộ, dẫn binh về hội nghĩa dưới cờ Trần Ngỗi. Họ đều
trở thành những tướng xuất sắc của nghĩa quân.
Đầu năm 1408,
Trần Ngỗi đánh chiếm các thành Diễn Châu và Nghệ An. Trương Phụ đem quân vào đàn
áp. Nghĩa quân tạm rút vào Hóa Châu (vùng Bình - Trị - Thiên) để rồi sau đó lại
tiến ra đánh chiếm Nghệ An và đến tháng 7-1407 thì giải phóng được một vùng rộng
lớn từ Thanh Hóa trở vào.
Sau một thời
gian ngắn củng cố và tăng cường lực lượng, Trần Ngỗi bắt đầu tiến công ra Bắc, đánh
thọc sâu vào những căn cứ địch như Bình Than, Hàm Tử, Tam Giang… và vùng ngoại
vi thành Đông Quan. Có một hiện tượng rất cảm động là cuộc dấy binh của Trần Ngỗi,
theo thời gian, ngày càng được quần chúng hưởng ứng, ủng hộ. Tại Ninh Bình, các
quan lại cũ, hào kiệt và dân chúng các nơi theo về rất đông. Dĩ vãng đầy uất ức
đã lu mờ trước lòng yêu nước nồng nàn!
Liên tiếp đánh
thắng và không ngừng lớn mạnh, vùng giải phóng của quân kháng chiến nhanh chóng
được mở rộng, quân Minh phải rút lui cố thủ trong các thành, Đông Quan nằm vào
tình thế bị uy hiếp.
Để đối phó với
tình hình đó, cuối năm 1408, nhà Minh vội sai Mộc Thạch cùng Lưu Tuấn (Thượng
thư bộ binh của nhà Minh) dẫn 4 vạn quân hộc tốc từ Vân Nam sang tiếp viện. Chúng
tập trung đến Đông Quan, rồi từ đó hành quân theo đường sông Đáy, tiến đánh nghĩa
quân. Đến bến Bồ Cô (Ý Yên, Nam
Định) thì quân lực hai bên đụng độ. Một trận giáp chiến ác liệt xảy ra ngày
30-12-1408 ở đó. Trần Ngỗi, trên cương vị Giản Định đế, tự đánh trống thúc quân,
tướng sĩ nhà Hậu Trần (tạm gọi như thế vì có sách viết như thế, và gọi như thế
cũng không sai!) tả xung hữu đột, phá được quân Minh, chém chết Lưu Tuấn và nhiều
tướng địch. Mộc Thạch phải thu tàn quân rút chạy về Cổ Lộng (cũng thuộc Ý Yên),
chờ viện binh yểm hộ về thành Đông Quan.
Giản Định Đế muốn thừa cơ chiếm ngay Đông Quan, ông truyền lệnh cho các quân:
"Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch, như sét đánh không kịp bịt tai, tiến đánh thành Đông Quan thì chắc chắn phá được chúng". Tuy nhiên, Đặng Tất lại chủ trương đánh xong số quân địch còn sót lại rồi mới tiến. Vua tôi bàn mãi chưa quyết định được, viện binh quân Minh ở Đông Quan đã tiếp ứng cho Mộc Thạnh chạy về cố thủ Đông Quan. Đặng Tất chia quân vây các thành và gửi hịch đi các lộ kêu gọi hưởng ứng đánh quân Minh.
Do bất đồng về sách lược, Giản Định Đế không bằng lòng với Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân.
Nghe theo lời gièm pha của hoạn quan Nguyễn Quỹ và học sinh Nguyễn Mộng
Trang, Giản Định đế sợ uy tín của hai người quá cao, lại nghi ngờ hai
tướng "có ý khác" vì hai người từng làm quan cho nhà Hồ và từng hàng
quân Minh. Tháng 2 âm lịch năm 1409, Giản Định Đế đóng quân bên bờ sông Hoàng Giang, sai triệu hai tướng đến rồi sai võ sĩ bóp cổ giết chết Đặng Tất. Nguyễn Cảnh Chân sợ hãi bỏ chạy lên bờ cũng bị đuổi theo chém chết
Trần Ngỗi làm thế chẳng khác gì tự giết mình. Dù sao đi nữa, trong thời điểm cực kỳ nhạy cảm và đang có rất nhiều triển
vọng mà chém một lúc hai danh tướng trụ cột, hết lòng vì mục đích trên hết là đánh
đuổi giặc Minh, đồng thời đang được ba quân theo phục, thậm chí là linh hồn của
cuộc khởi nghĩa, thì không cần phải có hiểu biết binh pháp, cũng thấy là điều đại
kỵ. Hành động này của Trần Ngỗi, không thể nói khác, đã bộc lộ ra cái tầm thường,
vị kỷ, háo thắng của con người ông ta và là đòn chí tử làm cho cuộc kháng chiến đang phát
triển thuận lợi bỗng trở nên vỡ lỡ. Thật là tiếc nuối vô cùng!
Thấy Giản Định Đế
giết những người có công, lòng người chán nản, quân sĩ bất bình, nhiều người rời
bỏ đội ngũ quân khởi nghĩa. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị (con của Đặng Tất và
Nguyễn Cảnh Chân) phản kháng, cùng nhau dẫn quân mình trở về Thanh Hóa, rước Trần
Quí Khoáng (cũng là quí tộc nhà Trần, cháu nội của Nghệ Tông) vào La Sơn (Hà Tĩnh)
tôn lên làm vua để phò tá vào tháng 4-1409, lấy hiệu là Trùng Quang. Ngay sau đó,
tướng Nguyễn Súy của Trùng Quang Đế, thừa lệnh đem quân ra đánh úp, bắt được Trần
Ngỗi đưa về Nghệ An, đặt làm Thái Thượng Hoàng để mong thống nhất lực lượng dưới
một ngọn cờ. Nhưng than ôi, ngọn cờ đó đã không vẹn chữ “nhân” nên cũng không còn
tròn chữ “nghĩa”!
Sau thất bại Bồ
Cô, nhà Minh quyết định gửi thêm một đạo binh tiếp viện, gồm 4,7 vạn người, chịu
sự chỉ huy của Trương Dụ (tổng binh) và Vương Hữu.
Trong thời gian
đó, quân khởi nghĩa (lúc này dưới danh nghĩa Trùng Quang Đế) vẫn giữ vững được
vùng giải phóng từ Thanh Hóa trở vào và bắt đầu có nhiều hoạt động quân sự tích
cực ở lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình.
Ngày 4 tháng 7 âm lịch năm 1409, mẹ ông là Hưng Khánh thái hậu cùng các tướng Lê Tiệt, Lê Nguyên Đỉnh ngầm khởi binh ở sông Hát để đánh úp Trùng Quang đế, giành lại quyền hành cho ông nhưng bị Nguyễn Trạo tiết lộ. Trùng Quang Đế bèn bắt giết Tiệt và Đỉnh. Ngày 20 tháng 4, Nguyễn Súy rước ông về với Trùng Quang Đế. Trùng Quang đế tôn ông làm Thái thượng Hoàng.
Tháng 7 năm 1409,
Thượng hoàng và vua Trùng Quang chia quân hai đường đánh quân Minh.
Thượng hoàng Trần Ngỗi đóng ở Hạ Hồng (Ninh Giang), Trùng Quang đế đóng ở
Bình Than. Quân Minh cố thủ không dám ra đánh.
Trương Phụ mang quân tới tiếp viện. Trần Ngỗi bỏ thuyền lên bờ, chạy về trấn Thiên Quan. Trùng Quang đế
ngờ Thượng hoàng có ý tách lực lượng riêng nên sai Nguyễn Súy đuổi theo
nhưng không kịp. Trương Phụ mang quân đuổi theo bắt được Trần Ngỗi và
Thái bảo Trần Hy Cát, Đông Đô lộ An phủ sứ Nguyễn Nhữ Lệ, tướng Nguyễn Yến, sai giải về Kim Lăng (Trung Quốc) và sát hại.
Cuối tháng
9-1409, Trương Phụ tiến xuống Hàm Tử đánh bại đạo quân của Đặng Dung. Trùng
Quang Đế cùng với lực lượng thua trận rút lui vào Nghệ An. Chúng đánh quân Hậu
Trần ở Hạ Hồng (Ninh Giang). Không chống cự nổi, Thượng Hoàng Giản Định cùng
binh thuyền chạy đến Mỹ Lương (Nho Quan, Ninh Bình) thì bị giặc bắt, giải sang
Kim Lăng (kinh đô nhà Minh lúc đó, nay là Nam Kinh, Trung Quốc). Trương Phụ tiếp
tục tiến đánh Thanh Hóa. Nhân tình hình đó, phong trào đấu tranh giải phóng của
dân chúng ngoài Bắc lại trổi dậy mạnh mẽ mà lớn nhất là cuộc nổi dậy ở An Lão
(Hải Phòng). Trương Phụ buộc lòng phải bỏ dở cuộc hành quân ở Thanh Hóa, quay ra
Bắc đàn áp.
Năm 1410, nhà
Minh phát động cuộc chiến tranh với Thát Đát ở biên giới phía bắc Trung Quốc.
Trương Phụ được lệnh rút bớt quân ở Giao Chỉ về để tham gia cuộc Bắc Chinh.
Phong trào nổi dậy, đấu tranh vũ trang của nhân dân ta, nhờ đó mà phát triển,
lan rộng. Thời gian đó có thể là “thiên thời” nhưng vẫn còn thiếu “nhân hòa”,
chưa có minh chủ đủ nhân, đủ nghĩa, đủ sáng suốt để tận dụng.
Sau khi đã yên
bề phía Bắc, đầu năm 1411, Trương Phục đem theo 2,4 vạn quân trở lại và tháng 7
năm đó đánh vào Thanh Hóa, tiến sâu xuống Diễn Châu, Nghệ An, Tân Bình. Quân của
Trùng Quang Đế núng thế phải lui dần vào Thuận Hóa. Bấy giờ, ở Bắc Bộ, khởi nghĩa
vũ trang lại trỗi dậy mạnh, Trương Phục đành phải quay ra đối phó, đánh dẹp. Mãi
đến tháng 7 năm 1413, quân nhà Minh mới tập trung được lực lượng đánh vào căn cứ
của Trùng Quang Đế ở Tân Bình, Thuận Hóa. Sau một thời gian cầm cự với địch, lực
lượng suy giảm, quân Hậu Trần phải rút vào Hóa Châu. Trước nguy cơ phải chịu một
trận càn quét qui mô lớn của Trương Phụ và Mộc Thạch, để tìm cách hoãn binh, Trùng
Quang Đế sai Nguyễn Biểu ra Nghệ An gặp Trương Phụ để điều đình, xin cầu phong.
Trương Phụ liền bắt Nguyễn Biểu. Biểu mắng Phụ:
- Chúng bay
trong bụng chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài miệng lại nói thác đem quân nhân nghĩa
đi đánh dẹp. Trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị,
rồi tìm kế vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân. Chúng bay thật là đồ ăn cướp hung
ngược.
Phụ giận điên,
sai đem chém Nguyễn Biểu.
Tháng 8-1413,
Trương Phụ từ Nghệ An đổ bộ lên cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đánh Hóa Châu. Sau vài
trận đánh quyết liệt, nghĩa quân vỡ trận, phải lui dần ra phía bắc và tan rã.
Cuối cùng, năm 1914, Trùng Quang Đế, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Dị và các tướng lĩnh
nghĩa quân lần lượt bị giặc bắt. Và đến đây, phong trào nổi dậy của nhân dân trên
cả nước cũng tạm lắng.
Trên đường bị
giải về Trung Quốc, Trùng Quang Đế và Đặng Dung đã nhảy xuống biển tự tử, tìm đường
về với tổ tông, với linh thiêng sông núi Đại Việt.
***
Lam Sơn (Thọ Xuân,
Thanh Hóa) là vùng đất ở tả ngạn sông Chu, là
miền chuyển tiếp giữa trung du và thượng du. Vị trí và địa hình Lam Sơn thời bấy
giờ rất phù hợp cho những cuộc tụ binh dấy nghĩa.
Ông tổ tam đại
(ba đời), người dựng nghiệp đầu tiên của họ Lê ở Lam Sơn là Lê Hối. Lúc đầu, ông
cùng gia đình sống ở làng Như Áng chuyên làm ruộng và sống khá phong lưu. Ông vốn
chất phác, hiền hậu, ít nói nhưng là người hiểu biết sâu xa, có linh giác, “đoán
biết sự việc từ lúc còn chưa hình thành”. Một bữa nọ, khi có việc đi qua vùng
Lam Sơn, Lê Hối thấy có một đám quạ xúm xít, bay liệng trên một cái gì đó. Ông
cho đó là đất lành bèn đưa cả gia đình đến làm nhà ở dưới chân gò. Sau vài năm
khai phá ruộng vườn ở đó, cơ nghiệp nhà ông ngày một phồn thịnh. Con cháu của ông
tiếp nối, thuận đà mà phát triển, trở thành hào trưởng xứ Lam Sơn.
Cha của Lê Lợi
có tên húy là Khoáng; là người có chí khí và hào hiệp, hiếu khách, thương yêu dân
chúng, hay chu cấp cho người nghèo, giúp kẻ hoạn nạn khó khăn, nên cả vùng ai cũng
nể phục.
Lê Lợi sinh ngày
mồng sáu tháng 8 năm Ất Sửu (tức 10-9-1385), là con thứ ba trong nhà. Lúc nhỏ,
Lê Lợi là đứa trẻ thông minh, sáng sủa, có dũng khí. Lớn lên, theo dân gian kể
lại thì ông tướng cao to, mắt sáng miệng
rộng, mũi gồ, bả vai trái có 7 nốt ruồi, bước đi khoan thai, tiếng nói vang như
chuông, tính tình khẳng khái, có chí tiến thủ và lòng trọng nghĩa khinh tài.
Quãng đời thanh
thiếu của Lê Lợi không thể không mắt thấy tai nghe những cảnh, những sự kiện dồn
dập và bi hùng về cuộc kháng chiến cũng như những hành động đàn áp, giết chóc tàn
ác của quân Minh và những cái chết xả thân, lẫm liệt của quân nghĩa dũng, vì đất
Thanh Hóa khoảng thời gian đó đóng vai trò gần như là bãi chiến trường trung tâm
của chiến tranh. Do đó sự thực lịch sử về chí tiến thủ và lòng yêu nước mà Lê Lợi
có được có thể là kết quả, hòa quyện thành từ sự được kế thừa huyết thống về khả
năng trực giác tinh nhạy, tính độ lượng thương người của ông cha và từ sự chứng
kiến, suy ngẫm trước thời cuộc bi hùng đó.
Đọc những truyền thuyết về Lê Lợi, nếu
cẩn thận lược đi những tình tiết phi thường, chúng ta có thể thấy một thực tế là
dù mơ hồ, ông đã linh cảm được tương lai đời mình, đã tầm sư học binh thư, đã
nghiền ngẫm những sách quí nói về binh thư. Tuy nhiên, sôi kinh nấu sử là một
chuyện còn có làu thông kinh sử hay không, lại là chuyện khác. Phải thừa nhận rằng
Lê Lợi là một con người có hoài bão lớn, có khả năng đặc biệt thu phục lòng người
(khả năng đặc dị này không phải là tài năng uyên bác, hùng biện mà là nhờ vào nội
khí, gần giống với thôi miên, do thiên phú, do vận động sinh học nội tại khác
thường mà có !) và có tài ở mức độ nhất định. Nhưng với ngần ấy thôi thì chưa đủ
để lãnh đạo một cuộc nổi dậy long trời lở đất. Bởi vì dù sao, trong thời đoạn
tiền khởi nghĩa, vẫn sống ở một môi trường có vị trí và hoàn cảnh địa lý - xã hội
hạn chế, cho nên mức độ cảm nhận bản chất thời cuộc chưa sâu, tầm nhìn chưa đủ
rộng, do đó mà sự thấu tỏ về tư tưởng cũng chưa đủ độ chín.
Phải chăng Lê Lợi đã
nhận thức được điều đó để cho dù hoài bão đã đến với ông từ rất sớm, nhưng chỉ
“đánh tiếng” và chờ đợi cho đến khi gặp được những trợ thủ đắc lực cần thiết (mà
ông mẫn cảm trực giác được qua sự trình bày của họ về thời thế, về ý nghĩa lớn
lao của cuộc nổi dậy…, và cái tài của ông chính là ở chỗ này)?. Có những sự kiện,
biến cố lịch sử lạ lùng đến độ dị thường không thể giải thích được bằng bất cứ
lập luận khoa học nào mà chỉ có thể bằng con đường tâm linh.
Ngày nay nhiều
hiện tượng tâm linh là sự thực hiển nhiên mà những cái đầu khoa học “cứng rắn”
nhất cũng không thể bác bỏ được, dù vẫn cứ khăng khăng rằng chúng phi khoa học.
Sự khăng khăng đó là chính xác. Tâm linh là phi khoa học bởi vì khoa học chưa đủ
trình độ để bao hàm nó, thế thôi! Một sự thực lịch sử mang tính tâm linh, nhiều
khi lại “sự thực” hơn sự thực lịch sử mang tính khoa học là vì thế đấy!...
Sau khi đánh bại nhà Hồ, nhà Minh đặt ách đô hộ lên nước Việt, đặt nước Việt trở thành quận Giao Chỉ. Người Việt lập tức nổi lên chống quân Minh. Đã có những thời điểm tưởng chừng có thể khôi phục lại giang sơn của
người Việt. Tuy nhiên, do sự thiếu đoàn kết giữa các thủ lĩnh quân nổi
dậy người Việt, quân Minh vừa mua chuộc gây chia rẽ, vừa khủng bố trấn
áp rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác, cuốn ruột vào cây...), hòng đè bẹp mọi ý chí phản kháng của người Việt. Mặc dù vậy, dưới sự cai trị tàn bạo, khắc nghiệt của nhà Minh, người Việt rất oán hận, luôn ấp ủ chờ thời cơ nổi dậy.
Lê Lợi vốn là phụ đạo Lam Sơn (tên gọi thổ tù), nối đời làm hào trưởng Lam Sơn, trước từng theo vua Trùng Quang làm chức Kim ngô Tướng quân, sau Hoàng Phúc chiêu dụ đến cho làm Thổ quan Tuần kiểm, Lê Lợi không theo. Chuyện kể lại
rằng: Quân Minh biết Lê Lợi là hào kiệt, dụ ông ra làm quan, ông không thèm ra,
còn nói với thân tín:
- Đại trượng
phu phải giúp nước lúc nạn to, lập nên công lớn, chứ lại đi làm đầy tớ cho người
ta à!
Ngụy quan người Việt Lương Nhữ Hốt bàn với tướng Minh, nói rằng:
-Chúa Lam Sơn chiêu vong, nạp bạn, đãi quân lính rất hậu, chí
nó chẳng nhỏ. Nếu thuồng luồng gặp được mây mưa, thì tất không phải là
vật ở trong ao đâu! Nên sớm trừ đi, đừng để sau sinh vạ.
Nhà Minh tin lời Lương Nhữ Hốt, bức bách Lê Lợi gấp gáp.
Sau đó, ông được
hồn sư ông mặc áo trắng hiển hiện ra, chỉ cho ngôi huyệt phát “đế vương” ở động
Chiêu Nghi. Rồi một người phường chài tên là Lê Thận bắt được một lưỡi gươm cũ.
Khi vào tay Lê Lợi, lưỡi gươm tự dưng sáng ngời, nổi lên hàng chữ triện. Hai ngày
sau, vợ Lê Lợi ra vườn hái rau lại bắt được một quả ấn báu cũng khắc mấy chữ
triện và khắc tên Lê Lợi. Ngày sau nữa lại bắt được một cái chuôi gươm ở gốc đa,
có khắc hình con rồng, con hổ và hai chữ “Thanh Thúy”, đem lắp vào lưỡi gươm
kia thì vừa khít. Lê Lợi biết đó là thanh gươm thần trời giúp cho. Do đó ông chăm
chỉ đọc binh pháp, nuôi chí chờ thời.
Nổi bật trong
những người trợ thủ đầu tiên đã đến với Lê Lợi, cùng bàn mưu và dựng cờ khởi
nghĩa là Nguyễn Trãi.
Nguyễn Ứng
Long, nguyên ở huyện Phượng Nhỡn, biết xem địa lý (thuật phong thủy), mới dời mả
tổ sang táng ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (nay là huyện Thường Tín, Hà Tây),
rồi làm nhà ở, nhập tịch luôn vào làng ấy. Nguyễn Ứng Long có vợ là con gái một
quan tể tướng nhà Trần (tức Trần Nguyên Đán) học giỏi, đỗ tiến sĩ, và năm 1401
làm quan cho nhà Hồ, được Hồ Hán Thương phong chức: Trung thư thị lang, hàn lâm
viện học sĩ. Lúc đó, ông đã đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh. Tiếng là con rể một
tể tướng, nhưng trước khi ra làm quan, ông vẫn sống cảnh túng thiếu, đạm bạc bằng
nghề dạy học. Quân Minh xâm lược, cha con Quí Ly cùng triều thần bị bắt, trong đó
có Phi Khanh.
Nguyễn Trãi, hiệu
là Ức Trai, con của Phi Khanh. Ngày nhỏ, Nguyễn Trãi sống với bên ngoại ở Côn Sơn.
Sau khi mẹ và ông ngoại lần lượt qua đời, ông trở về sống với cha ở Nhị Khê, được
cha kèm cặp và bản thân cũng tu chí học hành. Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái
học sinh (tức tiến sĩ), rồi cũng ra làm quan cho nhà Hồ đến chức Ngự sử đài chánh
chưởng.
Nguyễn Trãi là
người có hiếu, rất thương cha. Ngày cha bị đóng cũi giải sang Ngô (thời bấy giờ
nước ta vẫn gọi nhà Minh là Ngô vì trước khi lập nên nhà Minh, Chu Nguyên Chương
- Minh Thái Tổ sau này, dựng chính quyền chống nhà Nguyên ở Kim Lăng, tự xưng là
Ngô Quốc Công, sau đó tám năm (1364), đổi thành Ngô Vương), Nguyễn Trãi cùng em
là Nguyễn Phi Hùng, lẽo đẽo theo đoàn áp giải đến tận cửa ải Pha Lũy (nay là Hữu
Nghị Quan). Ở đó, Nguyễn Trãi khóc lóc định theo hầu hạ cha đến mãn chiều xế bóng
bên xứ người. Nguyễn Phi Khanh thấy vậy bảo:
- Con là người
có học, có tài, nên trở về mà tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha, như
thế mới là đại hiếu. Đâu cứ phải theo cha, khóc lóc như đàn bà thế, ích gì!
Chàng trai đa sầu
đa cảm Nguyễn Trãi nghe lời, từ biệt cha mình, quay về, và từ đó nung nấu lời
cha dặn.
Trong khoảng thời
gian đó, khắp nước Đại Việt đang sôi sục những cuộc nổi dậy khởi nghĩa chống quân
xâm lược, còn dân chúng thì đang rên xiết dưới ách đô hộ bạo ngược của nhà
Minh. Thế nhưng tuyệt nhiên không thấy Nguyễn Trãi, người con có mối thù cha sâu
nặng ấy, xuất hiện trong bất cứ cuộc nổi dậy chống đối, khởi nghĩa nào. Vì sao
vậy? Trong những năm tháng ấy ông ở đâu, làm gì?
Ông là quan văn
chứ không phải là tướng võ, do đó có thể là ông cũng nhận thấy vị trí trực tiếp
cầm quân xông pha trận mạc là không phù hợp với mình. Hơn nữa, mấy ai đã biết được
cái tài tiềm ẩn trong một viên quan nhỏ, thất cơ lỡ vận, chưa chút tiếng tăm gì?
Thậm chí là cái tài đó đã đủ độ chín muồi chưa?
Nhiều khả năng,
sau khi từ biệt cha, Nguyễn Trãi về lánh ở Côn Sơn tiếp tục sôi kinh nấu sử, ôn
văn đọc võ, đồng thời trăn trở, nghiền ngẫm, đánh giá thời cuộc. Chắc rằng một
con người thông minh có học, đa sầu đa cảm như ông đã tiếp thu được, thấu đạt được
một cách sâu sắc nhất, trọn vẹn nhất khối tư tưởng sáng ngời và tuyệt đẹp về nhân
- nghĩa của thời Lý - Trần, cũng như những tinh hoa quân sự, nghệ thuật lãnh đạo
kháng chiến - kiến quốc thời đó, có được trên nền tảng tư tưởng có tính chân lý
ấy. Từ đó, có thể Nguyễn Trãi đã thấy những điểm yếu không khắc phục được về mục
đích cũng như đường lối thực hiện, tất yếu dẫn đến thất bại của các cuộc nổi dậy
và khởi nghĩa đương thời. Trong ông dần sáng tỏ một con đường dẫn đất nước vượt
qua tai họa. Cha ông dặn “tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha” và ông đã
tìm ra cách, chờ đợi thời cơ với một hoài bão lớn lao (có thể còn cao rộng hơn
cả hoài bão của Lê Lợi nữa!).
Chí lớn đã nuôi,
nhưng tài năng chưa đến dịp được đem ra thi thố, trong khi đất nước ngày một lầm
than, lòng Nguyễn Trãi bồn chồn, khắc khoải và đượm buồn. Cái tâm trạng ấy man
mác trong câu thơ ông làm ngày ở Côn Sơn: “Dạ y Ngưu Đẩu vọng trung nguyên” (Đêm
dõi theo sao Ngưu sao Đẩu mà nhớ về trung nguyên). Trung nguyên ở đây là nói về
vùng đồng bằng châu thổ, nơi ấy có làng Nhị Khê, có kinh đô của nước Đại Việt
ngày xưa.
Có lần nhớ lại
tích Tàu (Tử Mỹ (tức Đỗ Phủ), thi hào đời Đường, trong cuộc loạn An Lộc Sơn, thường
đau đớn ôm lòng cô trung với nước; và tích: Bá Nhân (tức Chu Nghi) đời Tấn, làm
thượng thư tả bộc xạ, khi nhà Tấn mất, chạy sang Giang Đông, lần dự yến hội cùng
các danh sĩ ở Tân Đinh, ông nhìn non sông mà ứa lệ), cám cảnh, Nguyễn Trãi bùi
ngùi viết:
“Thần Châu từ
thuở nổi can qua
Rên
xiết muôn dân đến thế mà
Tử
Mỹ ôm trung Đường xã tắc
Bá
Nhân chan lệ Tấn sơn hà
Thu
về đất lạ lòng nhiều cảm
Đời
biến lâu nay khách chóng già
Ba
chục năm trời danh tiếng hão
Quay
đầu muôn việc giấc nam kha.”
(“Thần Châu” là
đất nước được nói một cách trìu mến, kính trọng).
Thế rồi chí lớn
gặp nhau: Nguyễn Trãi đã gặp được minh chủ và Lê Lợi đã tìm được đệ nhất hiền tài
thiên hạ. Công đầu ấy thuộc về Trần Nguyên Hãn. Lịch sử không nói như vậy nhưng
truyền thuyết lịch sử ám chỉ như vậy. Trong không khí đàn áp ngột ngạt và khủng
bố khốc liệt thì việc âm mưu nổi dậy phải rất bí mật, hời hợt lộ chuyện cho nhiều
người biết là dễ mang họa lớn như chơi. Việc hai người rủ nhau đến ra mắt Lê Lợi
không thể là hành động lần mò hú họa được. Có thể đoán rằng Trần Nguyên Hãn đã
từng là nghĩa quân tham gia lực lượng của nhị đế, trên bước đường rong ruổi đã
gặp và trở thành tâm phúc của Lê Lợi trong việc âm mưu nổi dậy. Vì Trần Nguyên
Hãn là em con cô con cậu của Nguyễn Trãi, do đó, trước kia có khả năng hai người
đã từng nhiều lần đàm luận về thời cuộc và giãi bày cho nhau về chí hướng. Qua đó
Trần Nguyên Hãn biết được Nguyễn Trãi là người có chí, có tài và đã ra sức tiến cử cho
Lê Lợi.
Trần Nguyên Hãn đi tìm Nguyễn Trãi là nằm trong kế hoạch đó, có sự đồng
ý của Lê lợi. Không phải ngẫu nhiên mà truyền thuyết nói đến việc Nguyễn Trãi
phải hai lần gặp Lê Lợi. Phải chăng lần đầu gặp nhau là ra mắt, dò hỏi, Lê Lợi
nói sơ về ý muốn cứu nước của mình và Nguyễn Trãi thì trình bày nỗi lòng cũng
như ý tưởng thực hiện kháng chiến; lần gặp sau là sự tỏ lời quyết tâm đi theo Lê
Lợi cùng với những trình bày cụ thể về đường lối, quyết sách cho cuộc kháng chiến
của Nguyễn Trãi, để rồi Lê Lợi đã chấp thuận, cùng Nguyễn Trãi và những người
thân tín khác xúc tiến việc dấy binh?
Trong “Nam Hải
dị nhân”, Phan Kế Bính kể thế này:
“Bấy giờ có người
ở làng Hoắc Sa tỉnh Sơn Tây, tên là Trần Nguyên Hãn, đi bán dầu kiếm ăn. Một bữa
trời tối, đi qua làng Chèm, mới vào đền Chèm nằm ngủ. Nửa đêm nghe có tiếng ông
thần làng khác vào rủ ông Chèm lên chầu trời. Ông Chèm nói có Quốc Công ngủ trọ
không đi được. Đến gà gáy, ông thần kia trở về, ông Chèm hỏi trên trời có việc
gì thì ông kia nói rằng:
- Thượng Đế thấy
nước Nam
chưa có chúa, có cho ông Lê Lợi làm chúa, mà ông Nguyễn Trãi thì làm bầy tôi.
Trần Nguyên Hãn
nghe rõ câu ấy, chịu khó hỏi dò, tìm đến nhà ông Nguyễn Trãi, kể lại chuyện ấy.
Nguyễn Trãi không tin, lại về đền Chèm cầu mộng thì thần báo mộng rằng:
- Việc thiên đình
bí mật lắm, không dám nói lộ ra ngoài. Có chị Tiên Dung (chuyện “Nhất dạ trạch”
- NV) biết tường việc ấy, vả lại là đàn bà, thì trời không trách đến, ông nên đem
vàng đến nơi ấy mà hỏi.
Ông Nguyễn Trãi
nghe lời ấy, đến cầu mộng bà Tiên Dung, thì mơ thấy bà ấy gọi bảo rằng:
- Nguyễn Trãi!
Lê Lợi làm vua, mà anh thì làm bầy tôi, anh chưa biết chuyện ấy à?
Ông ấy hỏi cặn
kẽ lại thì mới biết ông Lê Lợi là người làng Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Mới cùng
Trần Nguyên Hãn vào Lam Sơn, hỏi thăm đến nhà ông Lê Lợi. Bấy giờ Thái Tổ (Lê Lợi)
còn hàn vi, khi hai ông kia đến, thì ngoài đang mặc áo cánh cộc, vai vác bừa,
tay dắt bò ở ngoài đồng về. Hai ông xin vào hầu, Thái Tổ mời nghỉ lại trong nhà.
Xảy gặp hôm ấy nhà có giỗ, hai ông kia xuống bếp thổi nấu, trông trộm lên nhà
trên, thì thấy ngài cầm dao thái thịt, đang vừa thái vừa ăn.
Hai ông kia bàn
riêng với nhau rằng:
- Bà Tiên Dung
nói lừa chúng ta đây, có lẽ đâu khí tượng thiên tử mà lại thế kia bao giờ?
Liền cáo từ ra
về, lại đến cầu mộng đền bà Tiên Dung, thì thấy báo mộng rằng:
- Lê Lợi làm vua, trời đã nhất định như thế rồi,
chỉ vì chưa có thiên tinh giáng đấy thôi.
Hai ông lần sau
lại đến thăm Thái Tổ, thì bấy giờ ngài đã được quyển thiên thư. Khi ấy, đang đêm
đóng cửa xem sách. Nguyễn Trãi đứng ngoài cửa dòm vào, rồi đẩy cửa, hai ông cùng
vào. Thái Tổ cắp thanh gươm đi ra, hai ông cùng lạy phục xuống đất và nói rằng:
- Chúng tôi xa
xôi lặn lội tới đây là vì thấy ngài làm được chúa thiên hạ, xin cho chúng tôi được
theo hầu.
Thái Tổ cười, lưu
hai người ở lại, mưu việc khởi binh. Ông Nguyễn Trãi lấy mỡ viết vào lá cây tám
chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi).
Về sau sâu cắn những lá ấy rụng xuống, người ta thấy vậy cho là sự trời định, đồn
rực cả lên, bởi thế nhân dân tranh nhau theo về với ông ấy, quân thế mỗi ngày một
thịnh”
Năm 1416, Lê Lợi
cùng 18 người thân tín nhất (gồm Lê Lai, Nguyễn Trãi… và nhiều người khác, nhưng
đặc biệt lạ là không có tên Trần Nguyên Hãn!), làm lễ cắt máu ăn thề, nguyện một
lòng đánh giặc cứu nước. Sau này được gọi là “Hội thề Lũng Nhai”. Trong quyển
“Những vì sao đất nước”, tập 3, tác giả Nguyễn Anh - Quỳnh Cư, NXB Thanh Niên,
năm 1985, có ghi nội dung của lời thề Lũng Nhai, chúng ta trích đoạn:
“Nay phụ đạo chính
ở nước chúng tôi là Lê Lợi cùng với bọn Lê Lai cho đến Trương Chiến, mười tám
người tuy quê quán họ hàng có khác nhau, nhưng đã kết nghĩa anh em thề cùng như
chung một tổ. Phận vinh hiển dù có khác nhau, nguyện tình cùng họ không bao giờ
khác.
Nay nhân giặc
Ngô xâm chiếm nước Nam, tàn sát nhân dân rất là khổ sở, nên Lê Lợi cùng Lê Lai đến
Trương Chiến, mười tám người chung sức đồng lòng, giữ vững đất nước, cho nhân dân
ăn ở yên lành, thề sống chết đều phải cùng nhau, không dám quên lời thề ước
(…)
Nếu Lê Lợi, Lê
Lai cho đến Trương Chiến sinh lòng này khác, cầu ơn hiện tại, núp bóng quân thù,
không cùng đồng lòng, quên lời thề ước, chúng tôi cúi xin trời đất, thần linh
giáng cho trăm vạ, từ mình cho đến nhà mình, con cháu, họ hàng đều bị tru diệt,
chịu hết hình phạt của trời
Xin có lời thề!”
Mùa xuân năm Mậu
Tuất, tức ngày 7-2-1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Nguyễn Lý... tất cả 50 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn (trong đó 19 người đã từng tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416), xưng là Bình Định vương, kêu gọi dân Việt đồng lòng đứng lên“tiêu diệt quân Minh để đem lại cái phúc thái bình muôn thưở”. Địa danh Lam Sơn nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Theo sách "Lam Sơn thực lục", buổi đầu khởi nghĩa Lam Sơn:
"Nguyên trước Nhà vua kinh doanh việc bốn phương, Bắc đánh giặc Minh,
Nam đuổi quân Lào, mình trải trăm trận, đến đâu được đấy, chỉ dùng có
quan võ là bọn Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mươi
lăm người; quan văn là bọn Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng; cùng những
quân-thân như cha, con; hai trăm thiết kỵ, hai trăm nghĩa sĩ, hai trăm
dũng sĩ và mười bốn thớt voi. Còn bọn chuyên-chở lương-thảo, cùng già
yếu đi hộ-vệ vợ con, cũng chỉ hai nghìn người mà thôi".
Khi ấy, quân Minh đã thiết lập được sự cai trị trên đất Đại Việt, với 5 vạn quân, voi ngựa hàng trăm con!
Cuộc khởi nghĩa
vừa phát động thì khoảng bảy ngày sau, quân Minh từ thành Tây Đô (Vĩnh Lộc,
Thanh Hóa) kéo tới đàn áp. Nghĩa quân phải rút khỏi căn cứ Lam Sơn, mai phục ở
Lạc Thủy đánh thắng trận đầu tiên. Ngày 21-2-1418, quân giặc nhờ có mấy tên phản
bội chỉ đường, đánh úp vào doanh trại quân ta. Để tránh bị tiêu diệt, nghĩa quân
phải rút lên núi Chí Linh.
Thời kỳ hoạt động ở vùng núi Thanh Hóa
là giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khởi nghĩa. Trong thời gian đầu,
lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn,
thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh do các tướng như
Lý Bân, Phương Chính chỉ huy đánh bại. Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn 3 lần phải rút chạy lên núi Chí Linh những năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở Sách Khôi năm 1422.
Từ đó cho đến năm
1422, quân Minh liên tục tổ chức nhiều cuộc tiến công vây quét nhằm ra sức tiêu
diệt nghĩa quân, cố gắng dẹp tan cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, trung tâm và cũng là
niềm hy vọng của phong trào chống xâm lược cả nước. Trong số các cuộc tiến công
ấy, có những cuộc rất lớn, hàng chục vạn quân tham gia, kéo dài trên hai tháng;
quân được huy động không những từ Tây Đô đến mà còn từ Đông Quan vào, từ Nghệ
An ra, kết hợp với bọn tù trưởng phản động Ai Lao từ phía sau đánh tới. Nói
chung giặc đã ráo riết áp dụng đủ mọi cách, ồ ạt càn quét, lúc đánh cấp tập thẳng
vào căn cứ, lúc bao vây nhiều tầng nhiều ngày, đánh chắc tiến chắc…, thể hiện
quyết tâm cao độ trong việc tiêu diệt khởi nghĩa Lam Sơn, vì đã thấy cái nguy cơ
biểu hiện ngày một tăng từ cuộc khởi nghĩa này đối với sự rạn nứt và đổ vỡ ách đô
hộ của chúng.
Đây là thời kỳ
khó khăn chồng chất, cùng cưc nhất của nghĩa quân Lam Sơn. Nhiều lúc tưởng chừng
như tuyệt vọng, không gượng nổi, chẳng hạn:
“Khi Lam Sơn lương
cạn mấy tuần.
Lúc
Khôi Huyện quân không một lữ”
(Bình Ngô đại cáo)
hoặc :
“Vua ta giấu vết
núi này, đành nín hơi để náu nương
Vợ con lưu ly quân
sĩ tan tác”
(Phú
núi Chí Linh)
Nếu đem so sánh
thì thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến nhà Hồ, xét trên mọi mặt đều có thuận lợi
hơn gấp bội phần. Cuộc dấy binh của Lê Lợi ra đời trong hoàn cảnh nhà Minh đã đặt
ách đô hộ lên Đại Việt hơn 10 năm, phong trào nổi dậy kháng chiến trên cả nước
bị đàn áp khốc liệt, lắng hẳn xuống đã hơn 3 năm, thung thổ địa hình chiến trường
đã hầu như thông thuộc đối với đội quân đàn áp còn rất mạnh, cơ cấu ngụy quân
ngụy quyền đã hình thành và phát huy ít nhiều tác dụng, lòng dân khắp nước đang
ở trạng thái hoang mang, phân kỳ, chưa đủ thời gian nhận biết để lựa chọn, hướng
về, vũ khí và trang bị chiến tranh vào buổi đầu khởi nghĩa hầu như không có gì,
quân số ít ỏi và bị tiến đánh, ngay từ lúc “lọt lòng”.
Trong tình thế
bất lợi to lớn như vậy, trước sự liên tục đánh phá ác liệt của quân Minh như vậy,
với một lực lượng ban đầu còn rất hạn chế về số lượng, vũ khí cũng như kinh
nghiệm chiến đấu, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với ban chỉ huy gồm 18 con người đã đồng
lòng nhất trí từ hội thề Lũng Nhai, đứng đầu là một Lê Lợi biết quyết đoán, được
quân sư bởi một Nguyễn Trãi đảm lược, đã chiến đấu vô cùng anh hùng và cũng hết
mực khôn ngoan. Đó là một cuộc chiến đấu được khích lệ bằng trận thắng mai phục
đầu tiên mở ra khả năng “lấy ít địch nhiều” (tiêu diệt 3000 quân địch - trận Lục
Thủy), để từ đó vừa đánh vừa xây dựng nhanh chóng một cách đánh dựa trên nền tảng
của chiến tranh nhân dân, vừa kế thừa được tinh túy quân sự của các thế hệ đi
trước, vừa năng động sáng tạo của riêng nghĩa quân Lam Sơn, và đúng như Nguyễn
Trãi nói: “Thế là bởi tai nạn nhiều là gốc dựng nước, lo nghĩ nhiều là cái nền
mở nghiệp thành. Trải nhiều biến thì mưu kế sâu, tính việc xa thì thành công kỳ”
(Phú núi Chí Linh). Đó là một cuộc chiến đấu ngoan cường chống trả đồng thời cũng
quyết liệt tiến công địch một cách linh hoạt, lúc thì mai phục trong căn cứ,
khi thì luồn ra đánh úp sau lưng, chủ động phá vây, tập kích tận sào huyệt địch,
“bỏ chỗ vững đánh nơi sơ hở, tránh chỗ chắc đánh chỗ hư, dùng sức một nửa mà thành
công gấp đôi”. Đó là một cuộc chiến đấu vừa đánh vừa củng cố, phát triển được lực
lượng nhờ có nhân dân trong vùng ngày càng hết lòng ủng hộ, càng đánh càng mạnh,
bền bỉ, dẻo dai bám trụ và đã đứng vững được trên một địa bàn không lớn, thậm
chí là nhỏ hẹp thuộc miền tây Thanh Hóa.
Trong những ngày
tháng khó khăn cùng cực nhưng cũng vô cùng anh hùng này của nghĩa quân Lam Sơn,
có một tấm gương chiến đấu hy sinh vụt sáng ngời như một ngôi sao băng, đó là sự
kiện “Lê Lai liều mình cứu chúa”.
Lê Lai người làng
Dụng Tú, huyện Lương Giang (nay là xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lạc, tỉnh Thanh Hóa),
liền kề với Lam Sơn. Theo sử cũ thì tổ tiên Lê Lai đời đời làm phụ đạo ở vùng này.
Ông với Lê Lợi là chỗ thân thiết với nhau. Ông tướng cao lớn như Lê Lợi, là người
khẳng khái, bộc trực và quả cảm. Lê Lai là một trong những người đầu tiên cùng
Lê Lợi mưu tính nổi dậy, có mặt trong số 18 người ở hội thề Lũng Nhai và khi Lê
Lợi dựng cờ thì Lê Lai cùng các con của ông và nghĩa binh ông tuyển mộ, theo về
hưởng ứng.
Tháng 5-1419,
quân Minh huy động một lực lượng rất lớn tấn công vào Lam Sơn. Nghĩa quân phải
rút về Chí Linh lần thứ hai. Lần này giặc vây chặt, đông đặc cả bốn phía, trong
khi lương thực của nghĩa quân ngày một cạn dần. Nguy cơ bị tiêu diệt đã hiện ra
trước mắt nghĩa quân. Trong một cuộc họp bàn cùng tướng lĩnh để tìm cách thoát
vòng vây, lúc đó, theo “Lam Sơn thực lục”, Lê Lợi hỏi:
- Bây giờ ai có
thể làm như Kỷ Tín ngày xưa, để ta ẩn náu trong rừng núi, mưu tính cơ sự về
sau?
(Khi Lưu Bang bị
Hạng Vũ vây hãm nguy khốn ở Huỳnh Dương, trung thần là Kỷ Tín giả làm Lưu Bang
ra hàng và bị giết. Nhờ vậy, Lưu Bang thoát hiểm, về sau giết được Hạng Vũ, lập
nên nhà Hán; gọi là Hán Cao Tổ)
Lê Lai đã xung
phong lãnh trách nhiệm đó:
- Thần nguyện đổi
lấy áo bào. Ngày sau bệ hạ thành nghiệp đế, có được thiên hạ, nhớ dến công thần
mà cho con cháu muôn đời của thần được chịu ơn nước. Đó là điều thần mong ước.
Và Lê Lợi đã thề
trước mặt người tâm phúc trung nghĩa của mình:
- Lê Lai có công
đổi áo, sau này trẫm cùng con cháu trẫm và các tướng tá công thần cùng con cháu
họ, nếu không nhớ đến công ấy, thì xin điện cơ này hóa thành rừng núi, ấn báu hóa
ra cục đồng, gươm thần hóa ra dao thường.
Rồi, Lê Lai mặc
áo bào đóng giả Lê Lợi, dẫn đoàn quân cảm tử lên đường, đánh lạc hướng giặc và
vĩnh viễn không bao giờ trở về (ông bị giặc bắt và hành hình man rợ). Được giải
vây, Lê Lợi trở lại vào căn cứ Lam Sơn, sau đó lên vùng thượng lưu sông Mã xây
dựng một căn cứ mới ở Mường Xôi (sát biên giới Lào), tiếp tục kháng chiến.
Sau ngày toàn
thắng, để ghi nhớ công lao của Lê Lai, Lê Lợi đã phong cho Lê Lai làm công thần
hạng nhất, truy tặng chức thiếu úy; sai Nguyễn Trãi viết “Tiên ước thệ từ” và
“Lai công thệ từ” cất trong tủ vàng để mãi mãi ghi nhớ công ơn Lê Lai. Theo lời
dặn dò của Lê Lợi, con cháu nhà Lê sau này làm giỗ Lê Lai trước giỗ Lê Lợi (22
tháng 8 âm lịch) một ngày. Trong dân gian truyền tụng câu “21 Lê Lai, 22 Lê Lợi”
là vì thế.
Với sự sống còn
đến kỳ lạ, con thuyền tranh đấu Lam Sơn trong phong ba bão táp dữ dội đã có tác
động rất mạnh đến phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Đại Việt. Đến
khoảng năm 1420, các cuộc khởi nghĩa lớn có, nhỏ có bùng phát khắp nơi, Tình hình
đó đã phần nào giảm áp lực đánh phá của giặc lên khởi nghĩa Lam Sơn. Tuy nhiên,
chỉ sau một, hai năm các cuộc khởi nghĩa đó dần dần bị dập tắt. Dù sao thì ngọn
cờ chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn ngày càng được dương cao đã thu hút nhiều
lực lượng còn lại của những cuộc khởi nghĩa đã thất bại đó, tụ về. Vừa chiến đấu vừa xây dựng, lực luông kháng chiến dần mạnh lên.
Cuối năm 1419,
từ Mường Xôi, nghĩa quân Lam Sơn bắt đầu tiến xuống hoạt động ở vùng trung lưu
sông Mã; thắng nhiều trận bằng mai phục, tập kích, tiêu diệt nhiều địch (như trận
tập kích vào trại Quan Du (Quang Hóa), tiêu diệt 1000 tên). Quân Minh phải rút
bỏ nhiều đồn, lui về cố thủ Tây Đô.
Cuối năm 1421,
hàng vạn quân Minh lại tiến công lên căn cứ địa của nghĩa quân, nhưng cuộc vây
quét của địch đã thất bại sau trận tập kích ở Kinh Lộng và trận mai phục ở Đèo Ống
(đều thuộc Quang Hóa) của nghĩa quân. Riêng trận tập kích, nghĩa quân đã tiêu
diệt trên 1000 tên địch.
Ngoài quân Minh, Lê Lợi và quân Lam Sơn còn phải đối phó với một bộ
phận các tù trưởng miền núi tại địa phương theo nhà Minh và quân nước Ai
Lao (Lào)
bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều khó khăn, quân Lam Sơn mấy lần đánh
bại quân Ai Lao có lực lượng đông hơn. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ
mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi,
nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả
voi và ngựa chiến của mình để cho tướng sĩ ăn.
Đầu năm 1423,
quân Minh lại chia làm 2 mũi gọng kìm, đánh vào căn cứ trung tâm của cuộc kháng
chiến Lam Sơn ở tây bắc Thanh Hóa. Nghĩa quân phải rút về Nho Quan rồi từ đó tiếp
tục phải rút về núi Chí Linh lần thứ ba. Sau nhiều trận đánh phá vây, quân Lam
Sơn chịu khá nhiều tổn thất. Cuộc chiến lâm vào thế giằng co. Về phía ta, dù vùng
căn cứ đã mở rộng, nhưng khó khăn còn nhiều, và cũng cần phải củng cố, tăng cường
lực lượng. Về phía quân Minh, dù hết sức cố gắng, vẫn không sao tiêu diệt được
quân đội kháng chiến, đòi hỏi sự tăng cường binh lực hơn nữa trong khi chưa đủ
khả năng đó vì còn phải phân tán lực lượng ở các nơi khác tiếp tục đánh dẹp khởi
nghĩa, phòng thủ những thành lũy đồn bót sung yếu, đề phòng nổi dậy, đồng thời
bên Trung Quốc, nhà Minh cũng đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc chiến tranh với
Mông Cổ (từ thập kỷ 30 của thế kỷ XV, nhà Minh bắt đầu bước vào quá trình suy
vong!). Tình hình đó đã đưa đến cuộc hòa hoãn 1423 - 1424 giữa nghĩa quân Lam Sơn
và quân Minh.
Lợi dụng thời
gian hòa hoãn đó, “trong rèn chiến cụ, ngoài giả hòa thân”, nghĩa quân khẩn trương
củng cố, tích cực phát triển lực lượng, tăng cường dự trữ lương thực. Trong khi
đó, quân Minh một đàng dở thủ đoạn chính trị, mua chuộc Lê Lợi, dụ dỗ tướng lĩnh
hòng gây mất đoàn kết nội bộ, làm tan rã hàng ngũ nghĩa quân, đàng khác là
tranh thủ thời gian, ổn định nhanh chóng các nơi khác, phân bố lại lượng lượng
nhằm tạo điều kiện tập trung toàn bộ lực lượng về Thanh Hóa, đánh đòn quyết định.
(Có thể quân Minh thừa hiểu mục đích cuối cùng của cuộc kháng chiến Lam Sơn là đánh
đuổi chúng đi. Cuộc kháng chiến đó đã ngoan cường chiến đấu và đạt đến thế lực
giằng co với chúng, thì dễ gì mua chuộc được. Có thể thấy thủ đoạn chính trị của
quân Minh chỉ là đòn nghi binh).
Đến đây, mầm mống
thất bại của quân xâm lược nhà Minh đã bắt đầu bộc lộ. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã
chuẩn bị đủ thế và lực để chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn tích cực phản kích,
chủ động tiến công, vây thành diệt viện, tiến tới thắng lợi cuối cùng.
***
Nguyễn Chích là
một nông dân nghèo ở Đông Sơn (Thanh Hóa). Trước đó, ông đã cầm đầu một đội nghĩa
binh khá lớn (lực lượng còn sót lại của cuộc khởi nghĩa Nhị Đế chăng?), hoạt động
ở vùng nam Thanh Hóa - bắc Nghệ An. Khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, ông đem toàn
bộ lực lượng theo về. Nhờ hiểu biết tường tận địa thế vùng Thanh - Nghệ, với nhãn
quan quân sự của một người kinh qua trận mạc và trở thành tướng tài, Nguyễn Chích
cho rằng nên tạm thời rời bỏ căn cứ chật hẹp ở miền rừng núi Thanh Hóa mà tiến
vào chiếm lấy Nghệ An, xây dựng thành căn cứ địa vững chắc, tạo bàn đạp phản công
tiêu diệt dịch. Tháng 9-1424, trong cuộc họp bàn các tướng lĩnh nhằm đề ra kế
tiến thủ trong thời kỳ mới, mọi người đã nhất trí với đề nghị của Nguyễn Chích:
“Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An, nên
rất thông thuộc đường đất, nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long, chiếm lĩnh bình định
cho được Nghệ An để làm chỗ đất dừng chân, rồi dựa vào đấy mà lấy tiền tài sức
lực, sau sẽ quay cờ trẩy ra Đông Đô thì có thể tính xong được việc dẹp yên thiên
hạ”.
Theo kế của Nguyễn Chích, năm 1424, Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Tiến vào Nghệ An là một bước ngoặt về chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Biết quân Minh đã
được tăng viện, đang chuẩn bị tấn công lớn, nghĩa quân quyết định hành động trước,
di chuyển về hướng Trà Long (Con Cuông - Nghệ An), đánh trong hành tiến. Tháng
10-1424, nghĩa quân hạ thành Đa Căng (Thọ Xuân, Thanh Hóa). Sau đó thắng tiếp một
số trận lớn, diệt được các toán quân địch từ Tây Đô đuổi theo và từ Nghệ An ra
chặn. Sau hai tháng vây hãm, và ngụy vận, thành Trà Long ra hàng. Dọc đường hành
tiến và đánh thắng địch, nhân dân địa phương nhiệt tình hưởng ứng, ủng hộ nghĩa
binh, thêm 5 ngàn thanh niên nhập ngũ, có cả những ngụy quân sau khi khoan hồng
cũng tình nguyện theo vì “cảm kích, nguyện ra sức lập công”.
Đầu năm 1425, địch
huy động toàn bộ quân ở thành Nghệ An ra, theo sông Lam, tiến đến gần Khả Lưu đắp
lũy trú quân, nghĩa quân khéo léo nghi binh, nhử địch tiến quân vào nơi đã mai
phục sẵn diệt được hàng vạn tên. Địch vẫn còn đông, dựng trại lập lũy nhử nghĩa
quân tới đánh. Nghĩa quân cử một bộ phận tiến về phía Thanh Chương hoạt động
nghi binh còn đại bộ phận bí mật vòng ra sau lưng địch, mai phục ở Bố Ải. Địch
thấy nghĩa quân xuất hiện phía sau, kéo binh tiến đánh, lọt ổ mai phục, bị tiêu
diệt rất nhiều mà theo. “Lam Sơn thực lục” thì “thuyền giặc chặn ngang dòng, xác
chết nổi lấp sông, khí giới chất đầy khe núi”. Nghĩa quân thừa thắng truy kích
ba ngày đêm và tiến về bao vây thành Nghệ An.
Vừa vây thành
Nghệ An, quân ta vừa đánh chiếm các phủ, huyện…, đến đâu dân hưởng ứng và giặc
xin hàng đến đấy (có trường hợp như tri phủ Ngọc Pha và Cầm Quý mang 8 ngàn quân
tới theo Lê Lợi). Trong vòng 3 tháng, toàn phủ được giải phóng (trừ hai thành cô
lập bị vây là Nghệ An và Diễn Châu).
Trước tình hình
đó, tháng 5-1425, quân Minh huy động một đội binh thuyền, từ Đông Quan, theo đường
biển vào Nghệ An ứng cứu. Bị quân ta mai phục đánh thắng một trận lớn ở Đỗ Gia
(Hương Sơn, Hà Tĩnh), rồi diệt một đoàn thuyền lương từ Đông Quan vào trong khi
vẫn hãm thành Diên Châu, toàn bộ địch ở Nghệ An phải rút hết vào thành, bị động
phòng thủ.
Lúc này, bộ chỉ
huy cuộc kháng chiến nhận định: “Quân giặc dồn hết về cửa thành Nghệ An, các nơi
khác tất trống rỗng”, nên huy động một đạo quân ra vây Tây Đô, giải phóng Thanh
Hóa, một đạo quân khác vào giải phóng Tân Binh - Thuận Hóa. Đến đâu cũng được
nhân dân hưởng ứng, lực lượng nghĩa binh được bổ sung hàng vạn người. Cuối năm
1425, sau 8 năm kháng chiến anh dũng, nghĩa quân Lam Sơn đã trưởng thành vượt bậc,
từ một đội quân du kích nhỏ đã vươn vai thành một lực lượng thiện chiến hàng vạn
người đủ cả các binh chủng thủy bộ, thuyền chiến, voi trận… Chiếm giữ một vùng
giải phóng rộng lớn, từ Tam Điệp đến nam đèo Hải Vân, tạo thành hậu phương vững
chắc cho cuộc tổng tiến công ra Bắc, đánh tan giặc Minh, kết thúc chiến tranh.
Lượng sức đã mạnh
trong khi giặc đã suy yếu, dựa vào thành lũy cố thủ chờ viện binh sang, Lê Lợi
cùng bộ chỉ huy khởi nghĩa quyết định đánh ra Bắc.
Tháng 9-1946, Lê Lợi chia quân cho các tướng làm 3 cánh Bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía Tây Bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía Đông Bắc, Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan trước là đánh tiêu hao địch, “vỗ về nhân dân”, bao vây uy hiếp thành trại của
quân Minh, sau là chuẩn bị kế hoạch đánh viện binh của chúng đang rục rịch tiến
sang.
Lý An và Phương Chính nghe cầu viện, để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành Nghệ An, còn mình kéo đại quân ra bắc.
Cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn đã phát triển đến cao trào thành cuộc đấu tranh giải phóng của toàn dân
trên phạm vi toàn quốc. Ngụy quyền tan rã, chính quyền đô hộ vở lỡ từng mảng,
nhiều vùng rộng lớn được giải phóng.
Bị uy hiếp mạnh,
quân Minh buộc phải kéo quân từ Đông Quan ra đối phó, bị ta chặn đánh thắng hai
trận ở Ninh Kiều (Chương Mỹ - Hà Tây) và Nhân Mục (ngoại thành Hà Nội), tiêu diệt
hàng vạn tên. Phía Tam Giang, nghĩa quân cũng tiêu diệt được một bộ phận đáng kể
trong số một vạn quân địch ứng cứu từ Vân Nam sang, số còn lại lui vào thành
Tam Giang cố thủ. Tổng binh giặc là Trần Trí ở Đông Quan lo sợ, phải bí mật điều
bớt quân từ Nghệ An ra tăng cường cho phòng thủ Đông Quan.
Đầu tháng
11-1426, năm vạn viện binh nhà Minh, do Vương Thông chỉ huy, ồ ạt kéo sang, tiến
thẳng đến Đông Quan, tăng quân số ở đây lên 10 vạn tên. Với ý đồ nhanh chóng giành
lại thế chủ động chiến lược, Vương Thông hùng hổ phản công ngay. Trước đó, đại
quân Lam Sơn đã tiến ra tập kết ở Thanh Hóa sẵn sàng cho những đòn đánh lớn.
Vương Thông bày
binh dàn ra ba nơi: Cổ Sở (phía tây nam Phùng - Hà Tây), Sa Đôi (vùng Phú Đô
thuộc Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội), và ở Thanh Oai với mục đích bao vây tiêu diệt
lực lượng nghĩa quân đang hoạt động ở khu vực này.
Không thụ động
chờ địch, quân ta (gồm đạo quân đang hoạt động ở vùng Tây nam ngoại vi Đông
Quan do Phạm Văn Xảo, Lý Triện chỉ huy và đạo quân đang hoạt động ở vùng nam ngoại
vi Đông Quan, do Đinh Lễ, Nguyễn Xí chỉ huy, phối hợp) quyết định ra quân tiến
công trước mặc dù lực lượng ít hơn quân địch rất nhiều. Mục tiêu đầu tiên là đánh
cánh quân Mỹ Kỳ ở Thanh Oai, tương đối yếu và sơ hở nhất. Nghĩa quân của Phạm Văn
Xảo và Lý Triện khéo léo dụ địch đến cầu Ba La (gần thị xã Hà Đông), nơi có địa
hình lầy lội, rồi phục binh đổ ra tiêu diệt gần toàn bộ. Tiện đà, nghĩa quân định
đánh úp sau lưng cánh quân giặc do Phương Chính chỉ huy ở Sa Đôi, nhưng bọn này
đã rút về cụm lại gần cánh quân của Vương Thông ở Cổ Sở. Nghĩa quân cũng lui về
Cao Bộ (Chương Mỹ, Hà Tây), hội với nghĩa quân của Đinh Lễ, Nguyễn Xí từ Thanh Đàm
kéo tới.
Vương Thông tiến
xuống Ninh Kiều, thực hiện kế hoạch chia quân từ trước mặt, sau lưng rồi đồng loạt
đánh dồn nghĩa quân để bao vây tiêu diệt. Tương kế tựu kế, nghĩa quân tổ chức
mai phục ở Chúc Động, Tốt Động (Chương Mỹ - Hà Tây)
Mờ sáng ngày
7-11-1426, quân Minh lọt vào trận địa mai phục, bị quân ta bất ngờ xông lên từ
bốn phía đánh mãnh liệt. Trên 5 vạn địch bị tiêu diệt và bắt sống, các tướng Lý
Lượng, Trần Hiệp bị giết. Tổng binh Vương Thông bị thương, vội thu tàn binh rút
chạy về Đông Quan.
Chiến thắng Tốt
Động - Chúc Động đã phá tan kế hoạch phản công chiến lược nhằm giành lại thế chủ
động trên chiến trường của quân Minh và đồng thời trở thành trận thắng lừng
danh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Sau trận thắng
lớn có ý nghĩa chiến lược đó, Lê Lợi dẫn đại quân từ Thanh Hóa ra Bắc, tiến đánh
thành Đông Quan. Đêm 22-11-1426, nghĩa quân do đích thân Lê Lợi chỉ huy đánh,
chính thức mở màn chiến dịch giải phóng Đông Quan. Quân ta tiêu diệt tất cả các
căn cứ, cứ điểm phòng vệ ngoại vi, sau đó áp sát thành, ngày đêm công phá dữ dội,
Sử cũ chép: “Vua Lê Lợi thân đốc thúc các tướng sĩ ngày đêm đánh thành Đông Đô.
Bọn tướng Minh là Vương Thông, Sơn Thọ đánh trận nào thua trận nấy, lòng nản,
khí nhụt, kế cùng, viện tuyệt” (Đại Việt sử ký toàn thư)
Đại bản doanh của
Bình Định Vương lúc đầu đặt ở Đông Phù Liệt, sau dời lên Tây Phù Kiệt (Thanh Trì),
đến đầu năm 1427 dời sang Bồ Đề (Gia Lâm). Bốn đạo quân Lam Sơn đóng đồn trại ở
bốn cửa thành Đông Quan, tạo thế vây chặt chẽ, uy hiếp; ngăn chặn việc liên lạc
của giặc với bên ngoài.
Vương Thông dùng
kế hoãn binh, một mặt xin giảng hòa, một mặt vẫn ngoan cố cố thủ chờ viện binh
sang. Quân ta chủ trương vừa siết chặt vòng vây, vừa tích cực địch vận, dụ hàng.
Lợi dụng sơ hở,
Vương Thông tổ chức một số cuộc tập kích gây tổn thất cho nghĩa quân Lam Sơn (các
tướng Lý Triện, Đinh Lễ hy sinh, Đỗ Bí, Nguyễn Xí bị bắt) nhưng không xoay chuyển
nổi tình thế.
Thái độ trí trá,
lật lọng của Vương Thông đã làm cho cuộc giảng hòa không đạt kết quả.
Lúc bấy giờ, Đông
Quan trở thành mặt trận trung tâm, nóng bỏng nhất.
Đầu năm 1427,
nhà Minh ra lệnh điều động 15 vạn quân sang cứu viện. Trong 20 năm xâm lược và đô
hộ, nhà Minh đã phải 9 lần gửi viện binh, nhưng đây là lần gửi viện binh lớn nhất,
biểu hiện quyết tâm cao độ trong việc duy trì ách đô hộ ở nước ta của chúng.
Trước khi viện
binh kéo sang, quân địch chỉ còn đóng giữ, phòng thủ trong bốn thành là Đông
Quan, Chí Linh, Cổ Lộng và Tây Đô, với lực lượng gồm 5 vạn ở Đông Quan và 5 vạn
phân bổ cho ba thành còn lại.
Lực lượng chủ lực
của nghĩa quân có 10 vạn. Lúc đó, các lãnh tụ Lam Sơn đã chủ trương “vây thành
diệt viện” hết sức đúng đắn: “Đánh thành là hạ sách, ta đánh thành lâu hàng tháng,
hàng năm mà không hạ được, quan ta sức mỏi mà khí nhụt, nếu viện binh giặc đến thì
trước mặt, sau lưng đều có giặc, đó là con đường nguy. Không bằng nuôi dài, chừa
sức để chờ viện, diệt viện thì thành phải hàng, thế là làm một mà được hai, kế
vẹn toàn vậy”.
Đầu tháng 10-1427,
viện binh địch chia làm hai đạo tiến vào nước ta, đạo thứ nhất gồm 10 vạn tên
do Liễu Thăng chỉ huy theo đường Lạng Sơn, đạo thứ hai gồm 5 vạn theo đường Lào
Cai, cùng nhằm hướng Đông Quan. Bên ta điều một vạn quân chặn Mộc Thạch ở phía
Lê Hoa (Hà Giang), một vạn quân tiên phong lên mai phục ở ải Chi Lăng, 2 vạn quân
tiếp ứng lên sau, tập trung chủ yếu đánh Liễu Thăng, một bộ phận tiếp tục vây các
thành, còn đại quân thủy bộ tập trung ở mạn sông Thương.
Quân Liễu Thăng
vừa vượt biên giới đã bị quân ta chặn đánh, rồi vừa đánh vừa lui dần từng bước,
dụ địch về Chi Lăng. Liễu Thăng thấy đánh dễ, trở nên rất mực chủ quan, dẫn đầu
một vạn quân tiên phong, tiến vượt lên phía trước, lọt vào trận địa mai phục, bị
nghĩa quân giáng cho một đòn sấm sét, tiêu diệt hoàn toàn, Liễu Thăng bỏ mạng bên
sườn núi Mã Yên.
Lực lượng địch
phía sau còn đông, tiếp tục đánh mở đường tiến tới. Đạo quân tiếp ứng của nghĩa
quân cũng vừa tới kịp, cùng phối hợp đánh thêm một số trận nữa, tiêu diệt thêm
2 vạn quân địch (trong đó có phó tổng binh Lưỡng Minh). Đô đốc Thôi Dụ cùng thượng
thư Hoàng Phúc ổn định quân ngũ, mở đường tiến về thành Xương Giang. Dọc đường
hành quân, bị quân ta đánh truy kích, tập kích liên tục. Tướng giặc là thượng
thư Lý Khánh, quá căng thẳng, tự tử tại Phố Cát.
Đến được Xương
Giang thì thành đã mất (bị ta hạ trước khi viện binh sang khoảng nửa tháng), quân
Minh phải đóng quân giữa đồng, đắp lũy chống giữ. Ta điều quân tới bao vây chặt
để rồi ngày 3-11-1427, mở cuộc tổng công kích. Toàn bộ quân địch bị tiêu diệt.
Thôi Dụ, Hoàng Phúc cùng khoảng 3 vạn tên bị bắt sống, số còn lại chết tại trận.
Thế là, chỉ
trong vòng một tháng, quân Lam Sơn đã đánh tan đạo viện binh của Liễu Thăng.
Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang là chiến thắng oanh liệt nhất của nghĩa quân
Lam Sơn, đóng vai trò như một dấu chấm hết đối với cuộc xâm lược, đối với ách đô
hộ và cả đối với cái quyết tâm cứu vãn cuối cùng của nhà Minh. Chiến thắng Chi
Lăng - Xương Giang đi vào sử xanh, trở thành một trong những chiến công hiển hách
nhất trong sự nghiệp chống xâm lăng của dân tộc Việt.
Mộc Thạch đang
cầm cự với quân ta ở Hà Giang, nghe tin đạo quân Liễu Thăng đã bị tiêu diệt thì
mất hết tinh thần, thu quân rút chạy. Quân ta truy kích, đánh một số trận ở Đan
Xá, Lãnh Châu, bắt sống cả ngàn và giết chết trên một vạn tên.
Viện binh bị đánh
tan, hoàn toàn tuyệt vọng, Vương Thông và quân địch trong các thành buộc phải
xin giảng hòa cho rút về nước (thực chất là đầu hàng vô điều kiện). Ngày
29-12-1427, được ta cấp ngựa, thuyền và lương thực đầy đủ, 86000 quân tướng bại
trận nhà Minh bắt đầu rút khỏi nước ta và đến ngày 3-1-1428, đất nước Đại Việt
sạch bóng thù, hoàn toàn giải phóng.
Sau 10 năm trường
kỳ và bền gan chiến đấu, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành được thắng lợi rực rỡ.
Đã có rất nhiều cuộc nổi dậy, khởi nghĩa nhỏ có lớn có và trong đó từng có những
cuộc khởi nghĩa được người đời hy vọng và quần chúng ngày càng hướng về, nhưng đến
nửa đường đứt gánh và rốt cuộc thất bại. Cuộc dựng cờ dậy nghĩa ở Lam Sơn, lúc đầu,
về mặt hình thức, thì cũng tương tự như mọi cuộc dựng cờ dậy nghĩa khác, về mặt
hoàn cảnh, thì có phần khó khăn hơn, thậm chí là rất khó khăn, ấy vậy mà chỉ từ
một đốm lửa nhỏ, duy nhất có nó vượt qua được bão tố, bùng lên thành một ngọn lửa
lớn rồi bừng bừng lan xuống Nghệ An, lan ra phía Bắc, thiêu cháy sạch bè lũ bán
nước và cướp nước. Hiện tượng đó phải hiểu như thế nào?
Nhiều nhà nghiên
cứu lịch sử quân sự đã phân tích rất nhiều về nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn. Theo họ thì nguyên nhân có nhiều, nào là có mục đích vì dân vì nước,
biết dựa vào dân để đánh lâu dài, nào là có đội ngũ tướng lĩnh mẫn cán, xuất sắc
với đường lối quân sự đúng đắn, chỉ đạo chiến lược tài giỏi, có cách đánh sáng
tạo, biết kết hợp quân sự với ngoại giao, vừa đánh vừa binh vận v..v… và v..v…
và đều đúng cả. tất cả những nguyên nhân đó đều đã được chính Nguyễn Trãi (người
trong cuộc) tổng kết. Chung kết lại, đó là:
“Nêu hiệu, gậy làm cờ, tụ tập
về khắp bốn phương dân chúng
Thết quân, rượu hòa nước, dưới
trên đều một bụng cha con
Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất
ngờ
Lấy ít địch nhiều, thường dùng
mai phục
Rốt cuộc là lấy đại nghĩa để
thắng hung tàn
Đem chí nhân mà thay cường bạo”
(Bình
Ngô đại cáo)
Nhưng từ đâu để
có được những yếu tố đó, những nguyên nhân đó? Chúng ta cho rằng cái thời đoạn
từ lúc có hội thề Lũng Nhai đến năm 1422 đã là hạt nhân làm nên tất cả. Nếu toàn
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một thiên anh hùng ca về đấu tranh giải phóng dân tộc
thì thời đoạn nói trên chính là giai điệu chủ đạo của thiên anh hùng ca ấy. Nó
là hạt nhân của quá trình kháng chiến thắng lợi. Nó không chói chang như vàng bạc,
lấp lánh rạng rỡ như kim cương, bởi vì nó là một viên ngọc long lanh. Nó là một
bài học vô giá một khi còn chiến tranh xâm lược và khởi nghĩa chống xâm lược.
Vùng thượng du
Lam Sơn có thể là hiểm yếu, nhưng thiếu gì những nơi có địa hình hiểm yếu như
thế và cuộc nổi dậy, khởi nghĩa nào mà không tự chọn cho mình một chỗ được cho
là hiểm yếu để sống còn?
Như chúng ta đã
nói, một địa hình thiên nhiên, bản thân nó chẳng có gì là hiểm yếu, chỉ có nhận
thức của con người về nó và hành động tạo dựng của con người đối với nó mới làm
cho nó có hiểm yếu hay không. Hơn nữa, như Hồ Chí Minh nói “Thiên thời không bằng
địa lợi, địa lợi không bằng nhân hòa”. Nếu không có nhân hòa thì thiên thời cũng
trôi qua, địa lợi cũng câm nín. Vả lại, khi không còn bí mật nữa thì hiểm yếu đối
với người cũng là hiểm yếu đối với ta, cuối cùng cũng chả lợi gì cho bên nào trong
hai bên đang đấu tranh đối kháng hay nói đúng hơn, bên nào “biết” hơn thì địa hình
trở nên có lợi cho bên đó hơn. Sự sống của động thực vật nước ngọt buổi khởi đầu,
khó mà sống còn được trên một hòn đảo dù hiểm yếu cỡ nào nhưng nhỏ nhoi, lọt thỏm
giữa vòng vây đại dương quanh năm sóng trào, nắng chan, bão dập nếu không biết
cách nhanh chóng thích nghi. Không thích nghi được thì sự tồn tại của bản thân
chúng cũng không thể duy trì được chứ nói gì đến sự phát triển.
Ấy vậy mà cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn đã làm được điều tưởng chừng như không thể. Trong một khu vực
nhỏ hẹp, trước một lực lượng có lúc suy kiệt đến cùng cực, vẫn trụ lại được, đã
là một sự quá ư tài tình, chưa nói đến là không những trụ vững, tồn tại được mà
còn phát triển và ngày một lớn mạnh. Nói không ngoa tý nào, nếu nhìn nhận thật
kỹ, chúng ta thấy hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn thời kỳ ấy đã thực hiện được
đến mức tối ưu những đòi hỏi về cơ động, uyển chuyển, biến hóa, kịp thời, hầu
như không phạm sai lầm nào trong phán đoán, nhận định cũng như trong hành động
thực tiễn. Có thể thấy ở đó cái cốt lõi của những trận đánh giành thắng lợi
trong suốt thời kỳ lịch sử trước đó của dân tộc Việt. Có thể thấy ở đó hình bóng
của binh pháp Tôn Tử, của “Binh thư yếu lược”. Có thể rút ra từ đó những nguyên
lý cơ bản nhất của lý luận quân sự, về sự lựa chọn và giải quyết rốt ráo, phù hợp
trong từng thời gian các mối quan hệ như: phân tán - tập trung, tiến công - phòng
thủ, ít - nhiều, yếu - mạnh, rút lui bảo toàn - tiến công tạo thế, chính - kỳ,
hư - thực …
Một đội quân nhỏ
nhoi, mới dấy, còn trong thời kỳ trứng nước mà làm được ngay như vậy, hoặc rất
nhanh chóng làm được như vậy thì chỉ có thể rằng: ngay từ đầu, nghĩa quân Lam Sơn
đã có những vị chỉ huy tài giỏi, kinh qua trận mạc, nhuần nhuyễn quyền mưu và làu
thông, thấu tỏ binh pháp. Bản thân Lê Lợi, với văn tài, võ lược mà theo truyền
thuyết dân gian cũng như chính sử ghi chép đã “thổ lộ”, là ở mức độ chưa thể gọi
là xuất chúng, không thể làm được điều đó. Chắc rằng trong thành phần lực lượng
dấy binh thưở ban đầu của cuộc kháng chiến Lam Sơn đã có sẵn một số chỉ huy và
binh lính đã từng đi theo và chiến đấu dưới ngọn cờ của những cuộc khởi nghĩa
khác, sau khi những cuộc đó thất bại, đã theo về để đi tiếp con đường nghĩa dũng
của đời mình. Nhưng như thế vẫn chưa đủ để làm nên một đội quân ưu tú; một đội
quân mới từ trứng nở ra đã bị diều hâu xông đến đánh, phải nhanh chân trốn né, để
rồi bất thình lình mai phục tại Lạc Thủy, đánh một đòn chí mạng, tiêu diệt đến
3000 địch quân; một đội quân tuy nhỏ nhưng đã biết tạo thế mạnh bằng cách “rủ”
quần chúng và địa hình rừng núi theo mình đi đánh giặc, để rồi xuất kỳ bất ý tiến
ra đột kích từ đó và rút lui, tan biến vào đó.
Để cho đầy đủ
thì cần một mắt xích nữa và phải là mắt xích hợp thành cơ bản mà nếu thiếu mắt
xích đó thì có thể vẫn có cuộc dậy nghĩa Lam Sơn nhưng không phải cuộc dậy nghĩa
Lam Sơn tiến đến toàn thắng như đã thấy trong lịch sử. Đó chính là nhân vật
Nguyễn Trãi, Nguyễn Trãi là một nhân tài nhưng thiếu bản lãnh của người làm tướng.
Trong khi đó, Lê Lợi đủ bản lĩnh và vật lực nhưng chưa đủ niềm tin để dựng cờ vì
còn thiếu một “Bình Ngô sách”. Lê Lợi dựng cờ và ngọn cờ đó ngày một phất cao
ngạo nghễ được là nhờ có cái gốc cứng vững trên nền tảng “đại nhân đại nghĩa” mà
Nguyễn Trãi đã là người đề xướng và khởi công xây đắp nên. Trên cái nền tảng
mang tính quần chúng cao độ ấy, tài năng các tướng nghĩa quân mới đủ điều kiện
thỏa sức thi thố và mau chóng thăng hoa. Dũng khí binh sĩ cũng nhờ thế mà hừng
hực dâng cao.
Nhưng cuối cùng,
cái nguyên nhân duy nhất, nguyên nhân của mọi nguyên nhân là gì, là ngẫu nhiên
hay tất yếu? Chúng ta nói thế này: đốm lửa nhỏ ở Lam Sơn, về hình thức thì cũng
giống như những đốm lửa kháng chiến chống quân Minh khác, nhưng đồng thời về thực
chất lại rất khác: dù cũng do con người nhóm lên nhưng được nuôi dưỡng nhờ khí
thiêng sông núi tích tụ lại. Nó là đốm lửa linh được đúng người nhen nhúm, đúng
vị trí và đúng lúc. Nhìn ở góc độ cụ thể về tên người, tên đất, tên tháng năm
thì sự xuất hiện đốm lửa ấy là ngẫu nhiên, nhưng ở góc độ diễn tiến thời cuộc,
quá trình lịch sử của một đất nước, truyền thống của một dân tộc, theo nguyên lý
nhân quả, thì lại là tất yếu. Giản dị hơn, có thể nói đốm lửa Lam Sơn là hiện tượng
tâm linh, vì thế nó thiêng liêng, mang nhiều yếu tố vượt ra ngoài khuôn khổ lý
luận.
Để khỏi ngộ nhận,
chúng ta nói thêm: Lê Lợi không phải là không tài giỏi, nhưng là cái tài giỏi của
người nhạy cảm, biết được lưỡi gươm và chuôi gươm nhặt được là trời cho đến tay
mình để lắp lại thành ra gươm báu, là cái tài biết dựa vào hội thề Lũng Nhai
(nhưng khi đã nên nghiệp đế thì vội quên ngay lời thề ấy?!) dấy nghĩa cứu nước
và đồng thời có được nghiệp đế.
Theo truyền thuyết: một hôm, Lê Lợi, lúc đó
đã là vua, ngự thuyền rồng chơi trên hồ Tả Vọng, bỗng thấy một con rùa lớn nổi
lên, bơi theo thuyền, liền rút thanh gươm thần chỉ xuống. Không ngờ con rùa ấy đớp
lấy thanh gươm thần rồi lặn mất. Bấy giờ, Lê Lợi mới chợt hiểu ra, liền đổi tên
hồ ấy là hồ Hoàn Kiếm, hàm nghĩa là trả lại gươm cho trời. Ngày nay, người ta cũng
hay gọi hồ Hoàn Kiếm là hồ Gươm.
Không thể nào
so sánh thời Tam Quốc bên Tàu với thời nước ta bị nhà Minh đô hộ được, vì hoàn
cảnh điều kiện cũng như thời đại và bản chất xã hội là khác nhau xa. Do đó, cuộc
dấy nghĩa của Lưu Bị cũng hoàn toàn khác về bản chất so với cuộc dấy nghĩa của
Lê Lợi. Tuy nhiên, một cách hình thức nhất, thô nhám nhất, chúng ta có thể lấy
trường hợp Lưu Bị và sự hình thành nước Thục để làm rõ hơn điều chúng ta muốn bày
tỏ.
Trước khi dựng
cờ dấy nghĩa, Lưu Bị đã cùng hai danh tướng Quan Công và Trương Phi hội thề “kết
nghĩa vườn đào”. Lưu Bị, nếu là kẻ bất tài thì làm sao chiêu dụ được hai danh tướng
ấy và sau này thêm Triệu Tử Long, cũng là một danh tướng, qui phục và xả thân
phò tá? Nhưng dù là có tài năng và có cả hai, ba danh tướng hết lòng với võ công
thiên hạ thì phỏng làm nên được tích sự gì nếu không xuất hiện một Khổng Minh -
Gia Cát Lượng mà phải ba lần đến lều cỏ, Lưu Bị mới cầu có được? Không có Gia Cát
Lượng, sẽ không thể có trận Xích Bích lừng danh Kim Cổ, và như thế cũng sẽ không
có một nước Thục trong cái thế tam phân chân vạc: Ngụy - Ngô - Thục
Có thể thấy ở Lê
Lợi có những nét phảng phất của hình bóng Lưu Bị và ở Nguyễn Trãi có những nét
phảng phất hình bóng Khổng Minh?!
Chúng ta thấy rằng:
lịch sử nước nhà từ trước đến nay đều đặt tài năng Nguyễn Trãi ở tầm mức không đủ
lời ca ngợi. Như lời nhận xét của Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi: “Gió thanh
hây hẩy gác vàng, người như một ông tiên ở trong tòa ngọc. Cái tài làm hay, làm
đẹp cho nước, từ xưa chưa có bao giờ”; của Lê Quí Đôn: “Viết thư, thảo hịch tài
giỏi hơn hết mọi thời”; hay của Phạn Huy Chú: “Văn chương mưu lược gắn liền với
sự nghiệp kinh bang tế thế”. Trong “Kiến văn tiểu lục” (của Lê Quí Đôn, Quyển V
- Tài phẩm), có đoạn:
“Nguyễn Vĩ, một
người cháu ba đời của Nguyễn Trãi, xuất trình chế văn truy tặng cho ông tước Tế
Văn Hầu, trong ấy có câu rằng “Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên,
văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh cùng hậu thế” (Rồng hổ gió mây tụ hội, còn
ghi duyên tiền định, truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau). Câu ấy đã
tỏ ra ông là người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm không
thể mai một được”
Chính vua Lê là
Nhân Tông, khi cùng các quan văn xem các di bản của Nguyễn Trãi, đã xúc động đánh
giá: “Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp giặc, giúp đức Thái
Tổ sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh thần
của bản triều không ai sánh bằng”
Tóm lại, nói
cho công bằng thì: Nguyễn Trãi đã đóng vai trò như linh hồn của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn, là nhà tư tưởng và đồng thời là nhà chiến lược vạch đường mở lối cho
cuộc khởi nghĩa đó đi đến toàn thắng. Không những thế, trên nền tảng tư tưởng
nhân đạo, đứng về phía Đại Chúng đó, Nguyễn Trãi cũng có công lao to lớn, không
trực tiếp thì cũng gián tiếp (thông qua Lê Lợi, được Lê Lợi tiếp thu, nắm bắt lấy
để thực thi) đối với việc đề ra những quyết sách thích ứng trong thời kỳ đầu nhà
Lê của công cuộc hàn gắn và xây dựng đất nước sau khi đập tan ách đô hộ của nhà
Minh.
***
Ngay từ thời kỳ
“vây thành diệt viện”, Lê Lợi - Nguyễn Trãi đã bắt tay vào việc khôi phục và xây
dựng lại đất nước trên qui mô lớn, qui định các khu vực hành chính, tổ chức chính
quyền từ cơ sở đến trung ương, kêu gọi nhân tài, tổ chức thi cử… Có thể rằng trên
lĩnh vực này, đã xuất hiện những quan niệm khác nhau trong việc thực hiện các tư
tưởng đại nhân đại nghĩa mà Nguyễn Trãi đã nêu ra trong thời kháng chiến gian
khổ, làm cho mối quan hệ “long hổ phong vân chi hội” xơ tước dần và chờ dịp tắt
hẳn, không thể nối kết lại được nữa.
Nguyễn Trãi đã ấp
ủ một hoài bão quá lớn, tin tưởng một cách trong sáng (và ngây thơ?) rằng có thể
thông qua Lê Lợi, “nhờ” Lê Lợi để thực hiện bước thứ hai của hoài bão đó, là xây
dựng một nước yên vui thanh bình theo kiểu xã hội thời Nghiêu, Thuấn, trong khi
Lê Lợi về cơ bản, đã đạt được hoài bão có từ thời nổi dậy dựng cờ của mình.
Tồn tại ngai vàng
để làm cho dân giàu nước mạnh và làm cho dân giàu nước mạnh để ngai vàng tồn tại
là hai vế không thể tách rời của một quá trình hợp tình hợp lý. Nhận thức được
như thế là biện chứng. Nếu nhận thức thiên lệch về một vế nào thì đều làm cho
quá trình đó phát triển sai lạc, dẫn đến bế tắc, khủng hoảng và thậm chí là đổ
vỡ. Trình độ kinh tế - xã hội thời Nguyễn Trãi không cho phép trở về với xã hội
Nghiêu - Thuấn và cũng chưa đủ để đến với xã hội kiểu xã hội Nghiêu - Thuấn (đối
với thời đại ngày nay thì kiểu xã hội đó vẫn còn là một viễn cảnh quá xa vời!).
Nguyễn Trãi đã
từng tâu với vua Lê Thái Tông: “Thần chuyên đọc điển phần, chỉ những muốn việc
cổ nhân đã muốn. Để tâm dân chúng, mình trước lo điều thiên hạ phải lo”. Hình
như đây cũng là lời trần tình đượm buồn của một người đã thất cơ, không còn cơ
hội để thực hiện điều mình mơ ước cho dân cho nước. Hai con người đã gặp nhau vì
cùng muốn cứu nước, cùng muốn xây dựng đất nước đẹp giàu, nhưng đã phải chia ly
vì mục đích xây dựng đất nước đẹp giàu đã phân kỳ, người hướng về Đại Chúng, kẻ
hướng tới ngai vàng.
Mơ ước về một xã
hội đại đồng đã từng có ở thời tiền sử xa xưa, thời Nghiêu - Thuấn, là một giấc
mơ đẹp của một tâm hồn đẹp. Không phải chỉ có Nguyễn Trãi mà không ít người và
ngay từ thời cổ đại, nhiều nhà hiền triết “gạo cội” đã từng mơ giấc mơ đó. Họ không
những mơ mà còn trăn trở đến bạc đầu để vạch ra cách thực hiện giấc mơ. Nhưng
than ôi, đó là điều không tưởng!
Quá thiết tha với
lý tưởng, cố tìm cơ hội để thực hiện hoài bão, sống theo quan niệm nhập thế của
Nho Gia, cột trụ kiên cường, biết không làm được vẫn làm, đã tạo nên cái bi kịch
trong tâm hồn Nguyễn Trãi, đã là nguyên nhân sâu xa nhất trong những nguyên nhân
gây ra thảm kịch lớn nhất trong triều đại nhà Lê và cũng có thể là lớn nhất, đau
thương nhất trong xã hội quân chủ chuyên chế Việt Nam. Thảm kịch đó mang tên: Vụ
án Lệ Chi Viên (Vụ án vườn Lệ Chi).
Sau khi giành được
độc lập cho đất nước, để “dĩ hòa” và cũng nằm trong sách lược ngoại giao mềm dẻo
với nhà Minh, dù chỉ là danh nghĩa, Lê Lợi vẫn xin cầu phong cho con cháu họ Trần
là Trần Cảo làm vua. Trần Cảo biết phận mình, chẳng có chút công lênh gì mà ngồi
ngai vua, lòng áy náy không yên, bèn cưỡi thuyền ra biển, chạy về châu Ngọc Ma
(Thanh Hóa). Quân của Lê Lợi đuổi kịp, dẫn về, bắt uống thuốc độc chết rồi làm
tang lễ rất hậu theo nghi lễ một ông vua (thật khôi hài!).
Ngày 15 tháng 4
năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi từ dinh Bồ Đề chuyển vào thành Đông Đô. Ngày 29 tháng
đó, Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế tại điện Kính Thiên, khôi phục quốc hiệu
Đại Việt, vẫn định đô ở Thăng Long - Đông Đô, tự xưng: “Thuận thiên thừa vận Duệ
Vân Anh vũ đại vương”. (Năm 1430, Đông Đô được nhà Lê đổi tên gọi thành Đông
Kinh).
Tại sao Lê Lợi
không xưng đế mà chỉ xưng vương thôi? Người này thì cho rằng đó là do thực hiện
sách lược ngoại giao mềm dẻo vì nhà Minh luôn đòi tìm lập con cháu nhà Trần và
chỉ cho nhà Lê làm “quyền thủ An Nam quốc sự” mà thôi. Người khác cho rằng Lê Lợi
là người có tính khiêm tốn. Chúng ta không đồng thuận với cả hai nhận định đó!
Nếu là vì ngoại
giao thì ở trường hợp đưa Trần Cảo lên ngôi vua (hờ) còn tin được. Nhưng tại
sao lại phải giết Trần Cảo, khi chẳng được ích lợi gì mà không chừng chỉ có hại?
Trần Cảo chết thì thiếu gì con cháu họ Trần khác, có thể tìm ra trong “tích tắc”
để tiếp tục đưa lên làm vua “hờ”? “An Nam” hay “Giao Chỉ” là do phong kiến phương
Bắc gọi nước ta, nhưng các triều vua nước ta chưa bao giờ nhận, ngay Lê Lợi cũng
dùng lại quốc hiệu là Đại Việt, thì “sợ” gì mà không xưng đế? Ngoại giao mềm dẻo
không có nghĩa là nhẫn nhục, khuất phục! Nhưng nếu không phải là do ngoại giao
thì có phải là do Lê Lợi có đức tính khiêm nhường không? Đã ở cái vị thế “con
trời” rồi thì khoảng cách giữa đế với vương là bao xa, hay nếu có chỉ là hình
thức? Trong số 18 con người ở hội thề Lũng Nhai và những người tâm phúc theo Lê
Lợi từ thuở còn hàn vi, còn thuộc tầng lớp địa chủ nhỏ ở vùng thượng du, học hành
tiếp thu kiến thức cũng tại đó, có bao nhiêu con người tài năng xuất chúng và
trong số đó bao nhiêu người còn sống khi đất nước thanh bình, chứng kiến Lê Lợi
lên ngôi? Đây là lời phân trần của chính Lê Lợi: “Những vị vua có công đức lớn
như các vua Vũ, Thang, Văn… Thời tam đại, mà cũng chỉ xưng vương thôi, huống
chi trẫm tài đức mỏng manh, đâu dám nói đến hiệu hoàng đế. Nay chỉ xưng tước vương
cũng đã làm quá rồi”. Chúng ta nhớ lại, ngay từ lúc mới dựng cờ khởi nghĩa ở
Lam Sơn, Lê Lợi lúc đó “tệ” hơn nhiều, vẫn “dám” xưng vương (Bình Định Vương) mà?
Vậy thì thế nào mới gọi là khiêm nhượng? Trong nhiều trường hợp, quá khiêm tốn
chỉ là một sự đóng kịch, cố che dấu cái hành vi biểu lộ sự thèm khát danh lợi
trong sâu thẳm cõi lòng mình, trước những người mà mình đã từng cùng “nằm gai nếm
mật”. Lê Lợi có thuộc hạng người này không? Chúng ta không dám chắc, nhưng chắc
rằng Lê Lợi tuy không phải là người có bản chất bất nghĩa, vô nhân nhưng cũng
không đến độ là người đã thấu tỏ được ngọn ngành ý nghĩa của “đại nhân, đại nghĩa”
như Nguyễn Trãi đã thấu tỏ. Có lẽ Lê Lợi đã học thuộc tư tưởng của Nguyễn Trãi,
tưởng biết hết mà thực ra chưa biết hết (vì chưa đủ mức uyên thâm về học vấn)
nghĩa sâu của khái niệm ấy. Biết nói thế nào nhỉ?!...
Dù sao thì Lê Lợi
cũng đã giải quyết được những công việc bề bộn của một đất nước vừa mới trải
qua chiến tranh giành độc lập. Công lao của Lê Lợi đối với đất nước là có thật
và đáng được tôn vinh.
Cũng như phần lớn
những ông vua lận đận gian nan gầy dựng, khai mở vương triều từ hàn vi cơ cực,
Lê Lợi vẫn giữ được những đức tính tốt đẹp do từng trải mà có, phần nhân tính
trong ông vẫn còn lấn át được, kiềm tỏa được phần thú tính. Tuy nhiên sự lấn át
và kiềm chế ấy cũng chỉ đạt đến mức độ nào đấy tương đối mà thôi vì 6 năm trị vì
ngắn ngủi của Lê Lợi đã thể hiện ra như
vậy. Trong 6 năm ấy, Lê Lợi đã làm nhiều điều đúng nhưng cũng có nhiều điều
sai, làm nên công và đồng thời cũng làm nên tội. Cái biểu hiện rõ rệt nhất về tài
năng, đức độ hạn chế của Lê Lợi chính là ông đã không đủ sáng suốt để tránh được
vết xe đổ dứt bỏ, bức hại trung thần khi đã có được vương triều, còn in dấu sâu
đậm trong tích sử Trung Hoa.
Nhu cầu tự nhiên
của con người, ai cũng vậy, là ăn và mặc. Đói ăn đói mặc thì thèm khát, đó là bản
năng. Trải nghiệm đói khát và những điều khủng khiếp do nạn đói khát gây ra lặp
đi lặp lại trong quá trình sống của loài người đã ngấm vào máu, vào xương tủy
con người làm cho bản năng thèm khát đó nâng lên đến bình diện cao hơn: thèm có
của ăn của để, thèm được ăn ngon mặc đẹp, thèm được giàu có… nghĩa là không bao
giờ hết thèm khát, “được voi thì đòi tiên”. Trong xã hội, nói chung, ai cũng có
sự thèm khát ấy. Nhưng không phải chỉ thèm khát là có ngay được những thứ làm thỏa
sự thèm khát. Sản vật thiên nhiên là có hạn độ, sức người cũng có hạn độ nhưng
lòng ham muốn thì lại vô hạn độ. Vì vậy muốn có được cái mình thèm khát trong một
xã hội ai cũng thèm khát thì phải phấn đấu, phải mưu cầu bằng cách nào đó. Cái
mà thèm khát hướng đến đó, chính là “danh lợi”. Nhưng “danh lợi” thì ít mà sự hướng
tới thì nhiều, nên muốn chiếm hữu được “danh lợi”, trước tiên phải có được
trong tay cái công cụ gọi là “quyền lực”. Do đó tranh quyền đoạt lực là hiện tượng
phổ biến, xảy ra thường xuyên trong mọi chế độ chuyên chế. Những cuộc “Long
tranh hổ đấu” đó lẽ đương nhiên đòi hỏi những kẻ tham gia phải có tài năng, biết
vận dụng quyền mưu. Muốn thế, chỉ có cách duy nhất là học hỏi (năng khiếu hay
thiên tài cũng phải học nhưng học nhanh hơn người khác; có được khả năng ấy là
vì đã được truyền lại bằng con đường huyết thống từ sở học, ước vọng đã nung nấu
của tổ tiên, ông cha…). Cho nên mới có câu đúc kết như một nguyên tắc quá trình
mưu cầu danh lợi, lưu truyền đến ngày nay: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”.
Sự tìm kiếm và
lựa chọn cách thức để mưu cầu danh lợi, cũng như quá trình tranh giành quyền lực
và danh lợi đã là cội nguồn nảy sinh ra các quan niệm thị phi, là đầu mối làm
xuất hiện những cặp khái niệm như: thiện - ác, chính nghĩa - phi nghĩa, ngay thẳng
- gian tà, quân tử - tiểu nhân…
Trong chế độ quân
chủ chuyên chế, cái đích tuyệt cùng của mưu cầu danh lợi là ngai vàng. Kẻ ngồi
trên ngai vàng được gọi là vua. Vua là tượng trưng cho quyền lực cao nhất trong
chế độ quân chủ và trên thực tế, ông vua nào cũng cố gắng tạo cho được một quyền
lực mạnh nhất để giữ vững ngai vàng trước đám hoàng thân quốc thích và quần thần
luôn tiềm tàng sự thèm khát (trong đó thiếu gì những “đứa” thèm khát đến độ ngấm
ngầm không coi vua ra gì và nếu có cơ hội là ngay lập tức dở trò thoán nghịch
hay nói trắng ra là cướp ngôi!). Tuy nhiên, vua lại không thể tập trung được
tuyệt đối quyền lực và lúc nào cũng trực tiếp nắm được quyền lực. Về hình thức
có thể thấy quyền lực nhà vua là tập trung nhưng trên thực tế nó bị phân chia ở
mức độ nào đó và được gọi là quyền lực của triều đình. Chính vì thế mà các ông
vua thường đa nghi, giật mình, luôn dỏng tai, thích nghe ngóng và dễ nổi cơn chém
giết bề tôi; chính vì thế mới có lũ nịnh thần cố gần vua để hưởng mưa móc, xây
dựng quyền lực cá nhân bằng những thủ đoạn hèn hạ và để che đậy điều ấy thì phải
xiểm hại những người trung nghĩa, những khai quốc công thần và cả lẫn nhau nữa.
Ngoài nguyên nhân
nói trên thì nguyên nhân chính chủ yếu của quyền lực triều đình là để bảo vệ đặc
quyền đặc lợi của tầng lớp thống trị thượng tầng, để cai trị bóc lột xã hội và để
đàn áp sự nổi dậy của quần chúng khi mà ước mơ của họ, loại ước mơ bao giờ cũng
là tầm thường nhất trong xã hội, ước mơ có đủ cơm ăn áo mặc, cũng không thực hiện
được.
Những điều trình
bày trên đã cắt nghĩa vì sao nói Lê Thái Tổ không tránh được vết xe đổ khi cái
mục đích lớn nhất của đời ông đã thành, chỉ phải lo sao cho ngai vàng không còn
kẻ dòm ngó và bền vững đến đời con cháu. Chẳng xa xôi gì, sự kiện Hồ Quý Ly cướp
ngôi vua Trần, xóa bỏ nhà Trần còn sờ sờ ra đó, không thể không ám ảnh ông.
Để sáng tỏ hơn,
chúng ta sẽ kể một câu chuyện đã xảy ra ở thời Trung Hoa cổ đại, trở thành điển
hình của hiện tượng có tính lặp lại lạ lùng, mà thành văn là: “Hết chim, cất cung
tên; thỏ chết, thịt chó săn”
Thời Xuân Thu,
vua nước Việt là Câu Tiễn bị vua nước Ngô là Phù Sai đánh bại ở Cối Kê. Nhờ mưu
của Phạm Lãi, Văn Chủng mà thoát nạn, nước không mất. Sau một thời gian gom người
tích của, xây dựng lại lực lượng, Việt vương Câu Tiễn tiến đánh, diệt được nước
Ngô. Trong bữa tiệc mừng công, ai nấy đều vui mừng náo nức, công thần khanh tướng
hết sức hồ hởi chúc tụng nhau, tiếng hoan hô vang trời. Trong bữa tiệc đó, Việt
vương Câu Tiễn đáng lẽ là người sung sướng nhất mới phải. Ấy vậy mà Phạm Lãi lại
thấy mặt của Câu Tiễn có vẻ miễn cưỡng, thoáng nét không vui, liền nghĩ ngay rằng
công thành nghiệp trọn, khiến ai cũng phấn khởi, thế mà quốc vương lại có vẻ không
vui, chắc không ngoài việc lo nghĩ về chuyện chia phần công lao. Xem ra, cùng
chung hoạn nạn thì dễ mà cùng hưởng an lạc thì khó. Vì vậy, dù đang là Thượng tướng
quân, công lao to lớn (cùng Câu Tiễn nằm gai nếm mật, mưu toan hơn 20 năm, giúp
Câu Tiễn lập nên nghiệm bá). Phạm Lãi vẫn viết thư từ biệt Câu Tiễn:
- Thần nghe: “Vua
lo thì tôi phải khó nhọc, vua nhục thì tôi phải chết!”. Hồi xưa, nhà vua chịu
nhục ở Cối Kê, thần sở dĩ chưa chết là còn phải báo thù. Nay đã rửa được nhục,
thần xin chết theo tội ở Cối Kê!”
Câu Tiễn nói:
- Ta đương sắp
chia nước này cùng cai trị với nhà ngươi. Không nỡ lại giết nhà ngươi?...
Phạm Lãi nói:
- Nay nước Ngô đã
bị diệt, vậy thần mong đại vương tha cho tội xưa để thần được về chốn giang hồ
sống nốt những ngày cuối đời, thần vô cùng biết ơn công đức của đại vương.
Câu Tiễn cố giữ,
nhưng Phạn Lãi đã quyết, soạn gói châu ngọc và các của cải mang vác được, dong
thuyền ra biển sang Tề.
Phạm Lãi gửi thư
về cho đại phu Văn Chủng, nói: “Chim đã hết thì cung tốt phải cất, thỏ khôn đã
chết thì chó săn bị nấu. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu, có thể cùng
lo lúc hoạn nạn, nhưng không thể cùng vui sướng với ông ta. Sao ông lại không bỏ
đi?”
Chủng nhận được
thư, cáo bệnh không vào chầu. Có kẻ gièm pha, nói:
- Chủng sắp làm
phản.
Việt vương Câu
Tiễn bèn sai đưa kiếm cho Chủng và nói:
- Nhà ngươi dạy
quả nhân bảy thuật để đánh Ngô. Quả nhân mới dùng có ba mà nước Ngô đã thua. Còn
bốn thuật nữa ở nhà ngươi. Nhà ngươi hãy giúp ta dùng những thuật ấy với tiên vương
xem sao.
Chủng bèn tự sát.
Tâm địa Việt vương thật tàn nhẫn!
Đến Tề, Phạm Lãi
đổi họ tên, cày ruộng ở bờ biển, khổ thân cố sức, cha con cùng lo làm ăn, không
bao lâu thì giàu có. Người nước Tề biết ông là người hiền, mời ra làm Tướng quốc.
Phạm Lãi ngậm ngùi than:
- Ở nhà thì có
hàng ngàn lượng vàng, làm quan thì đến công, khanh, tướng quốc, kẻ áo vải được
thế là tột bậc rồi, giữ mãi cái tiếng tăm lừng lẫy là không tốt!.
Bèn trả ấn Tướng
quốc, đem tất cả tài sản cho bạn bè, làng xóm. Chỉ mang những của thật quý, lẻn
đi. Phạm Lãi dừng lại ở đất Đào, cho nơi đó là ở giữa thiên hạ, tiện đường buôn
bán, rồi lại nhanh chóng giàu có, thường cứu giúp mọi người. Ông chết già tại đất
Đào, được đời truyền tụng, gọi là Đào Chu Công.
***
Với 6 năm trị vì,
thành tựu xây dựng và phát triển kinh tế đất nước của Lê Thái Tổ không nhiều.
Nhìn chung, Lê Thái Tổ cũng chỉ làm những công việc cần làm đối với một đất nước
sau chiến tranh và đối với một nhà nước quân chủ còn non trẻ như thiết lập và xây
dựng bộ máy chính quyền, phân định lại quyền sở hữu đất đai, tìm biện pháp phát
triển sản xuất nông nghiệp, kích thích công thương nghiệp tăng trưởng…. Với nhiều
chủ trương tương tự, kế thừa của thời Lý - Trần, thiếu đặc sắc, nhưng phần nào
cũng đáp ứng được yêu cầu của xã hội đương thời.
Nói cách khác,
sau khi lên ngôi, Lê Lợi đã phải “thức khuya, dậy sớm” (Bia Vĩnh Lăng) lo toan
việc nước, tổ chức bộ máy cai trị, củng cố quyền lực, ban bố luật lệ về hành chính,
kinh tế, xét miễn thuế ruộng, bãi dâu, ao đầm trong hai năm, miễn thuế hoặc giảm
thuế cho những vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tiến hành điều tra ruộng đất
và dân số, ban hành chính sách quân điền, đề ra chính sách khẩn hoang, lập đồn điền,
phát tiền mới, lập trường học, mở khoa thi… Bên cạnh đó, Lê Lợi rất chú trọng đến
việc xét thưởng công lao những người tham gia kháng chiến, thu dụng hiền tài.
Trong 2 năm 1428 - 1429 đã tổ chức 3 đợt bình công, ban phong chức tước. trong
6 năm trị vì đã ban chiếu cầu mời hiền tài 6 lần. Lê Lợi nói: “Nay Trẫm giữ trách
nhiệm nặng nề sớm khuya kinh sợ, như gần vực sâu, chỉ vì tìm hiền tài giúp trị
mà chưa được người”. Ông cũng từng nói: “Trẫm nghĩ: chống lại kẻ thù của vua phải
nhờ có tài đánh dẹp, giữ cán cân của nước, nên ủy cho người cũ có công”. Đó là
những câu tha thiết, chân thành. Lê Lợi còn nhiều câu nói như thế nữa trong các
chiếu chỉ của ông, phần lớn là do Nguyễn Trãi soạn thảo chẳng hạn như những câu
dưới đây:
“Ai thấy trẫm có
chỉ lệch hà khắc, thuế má nặng nề, hại cho lương dân, thưởng công phạt tội không
đúng… hoặc các đại thần, quan lại, tướng hiệu, các chức trong ngoài có người nào
không giữ phép, hối lộ, nhiễu hại lương dân, làm việc thiên tư vị phi thì há tâu
lên ngay”; “Nếu thấy điều lệnh của trẫm hoặc có điều gì không tiện cho việc quân,
việc nước, hoặc là việc vô cớ, hoặc thuế má nặng nề… được tâu xin sửa lại”; “lấy
mối lo của dân chúng làm mối lo của mình”.
Và câu nói này
của Lê Lợi đọng lại trong tâm khảm của chúng ta rất lâu: “Chuộng nhà cửa cung đài
cao đẹp, tất gây nên thói kiêu sa, theo ý mình mà trái lòng người, sẽ chuốc lấy
mọi người oán ghét. Trẫm rất lo về điểm này, cho nên tự nghĩ những cung điện huy
hoàng tráng lệ đây đều là sức lao động của quân dân, trẫm được ngự yên, vẫn cứ
lo không xứng”.
Một vị vua nói được
những lời tâm huyết như thế, nghe ra, ai mà không cho đó là một vị vua hiền.
Tuy nhiên, trong câu nói được chúng ta ghi lại vừa rồi của Lê Lợi, hình như có
cái gì đó nhờn nhợn, gợi nhớ về trường hợp của Nghiêm Tử Lăng: đã quyết đi ở ẩn
rồi thì hà cớ gì phải mặc áo trái để người đời chú ý thấy.
Có một sự thực
lịch sử không thể phủ nhận được là: dưới triều Lê Thái Tổ, chỉ trong khoảng một,
ba năm sau khi ông lên ngôi, đã có nhiều công thần tướng lĩnh bị truất chức, hạ
ngục, bị giết, bị bức tử, mà điển hình là trường hợp Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn
Xảo và Nguyễn Trãi.
Đánh giá về thời
gian trị vì của Lê Lợi, vào thế kỷ XIX, sử thần triều Nguyễn trong “Việt sử thông
giám cương mục”, viết rằng Lê Lợi “kịp khi lên ngôi, qui định thuế khóa, chia cắt
ruộng đất, ban hành luật lệ, mở khoa thi, tổ chức cấm vệ, cắt đặt quan chức, tưởng
lục công thần, dựng trường học… Qui mô sáng nghiệp có thể gọi là rộng lớn, nhưng
hay nghi kỵ, đa sát, đó là chỗ kém của nhà vua”.
Sự đánh giá ấy được
cho là gần như san định lại từ ghi chép của văn sử nhà Lê. Một quan chép sử chép
về triều đại mình đang phục vụ, muốn khách quan đến mấy cũng không thể không
thiên vị. Ấy vậy mà sử thần nhà Lê, từ Ngô Sĩ Liên đến Lê Hy, trong “Đại Việt sử
ký toàn thư” cũng phải nhận định về Lê Lợi như sau: “Thái Tổ từ khi lên ngôi đến
nay, thi thố chính trị có vẻ khả quan, như định luật lệnh, chế lễ nhạc, mở khoa
thi, đặt cấm vệ, đặt quan chức, lập phủ huyện, thu sách vở, dựng học hiệu, cũng
có thể gọi là qui mô sáng nghiệp rộng rãi, song đa nghi, hay giết, đó là chỗ kém”.
Hiền, giống ngu
nhưng không phải là ngu mà là nhân nghĩa. Người biết nhân nghĩa thì không thể ác
được. Một ông vua có lòng nhân nghĩa thì sao lại đa nghi, chém giết đối với
ngay cả những công thần đã từng cùng mình chiến đấu hy sinh trong những ngày
gian khổ?
Chưa đầy hai năm
lên ngôi mà đã hành động như thế, thì đó là tội lỗi và không thể biện minh được.
Và để giải thích cái động cơ dẫn đến hành động tội lỗi ấy của Lê Lợi, chỉ cần
nhớ về cách hành xử của Việt vương trong điển tích mà chúng ta đã kể ở trên.
Giết Trần Cảo đã
là một việc mờ ám, có thể gây ra phản cảm trong người này người kia và Lê Lợi đã
chột dạ chăng?
Trước đây, trong
kháng chiến, Lê Lợi đã tổ chức nhiều đợt phong thưởng cho các tướng sĩ lập được
công trạng trong chiến đấu nhằm kịp thời khích lệ ba quân. Sau khi giải phóng hoàn
toàn đất nước và lên ngôi vua, Lê Lợi đã tổ chức cuộc bình xét công lao, ban thưởng,
phong chức tước với một qui mô lớn, như là sự tổng kết chiến tranh, đầy đủ và toàn
diện chia làm ba đợt, kéo dài từ tháng 2 năm Mậu Thân (1428) cho đến tháng 5 năm
Kỷ Dậu (1429). Trong cuộc bình xét này, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn
Xảo đều được xếp ở hàng đệ nhất công thần, đều được ban họ vua.
Nguyễn Trãi, thời
kháng chiến, khi Lê Lợi tự xưng là Bình Định Vương, đã được bổ nhiệm vào chức:
Tuyên Phụng đại phu, thừa chỉ học sĩ, coi việc “hội mật”, tham dự các buổi bàn
kế hoạch quân sự và chính trị, soạn thảo những văn kiện quan trọng về nội chính,
cũng như về ngoại giao. Đến khi bình công, ông được phong chức Quan phục hầu,
giữ chức Nhập Nội hành khiển (chức quan văn, đứng sau Tể tướng) lại bộ thượng
thư kiêm Quản công khu mật viện. Trần Nguyên Hãn, thì nhà bác học Lê Quí Đôn
thuộc thế kỷ thứ XVIII, ghi trong phần liệt truyện của “Đại Việt thống sử” là:
“Năm Mậu Thân, Thuận Thiên thứ nhất, (vua Thái Tổ) phong ông làm Tả tướng quốc
và cho theo họ vua”. Còn Phạm Văn Xảo, cũng theo Lê Quí Đôn, thì “Tháng 3 năm Mậu
Thân (1428), Thuận Thiên thứ nhất, thăng ông lên chức Thái Bảo, ban cho họ vua.
Tháng 5 năm thứ hai, Kỷ Dậu, khắc biểu ghi tên công thần, ông được phong là Huyện
Thượng Hầu, tên ông xếp vào hàng thứ ba, thăng là Thái phó”.
Ba bề tôi cùng
Lê Lợi mở nước, đến đây, công lao to lớn của họ đã được tôn vinh, tưởng thưởng
xứng đáng và danh tiếng họ cũng đã vang lừng thiên hạ, được dân chúng đương thời
rất trọng vọng. Công danh đến cỡ đó, có lẽ đã tột bậc đối với người áo vải rồi!
Công đã thành,
danh đã toại, tưởng rằng từ nay vua tôi cứ thế mà cùng nhau thong dong an hưởng,
ai ngờ đó chỉ là một giấc mơ khoảnh khắc, phù phiếm. Trong chốc lát, tai họa bỗng
đâu giáng thẳng xuống đầu ba con người đang mãn nguyện ấy làm hai người mất mạng,
một người lúc ấy tuy may được toàn mạng nhưng vô cùng ê chề, lại tiếp tục lạc vào
vòng xoáy của những mưu mô đấu đá vương triều để rồi chuốc lấy thêm một đại họa
vô cùng oan khốc.
Chính Lão Tử,
nhà hiền triết vĩ đại, là người ngay từ thời cổ đại trên cơ sở lý luận về tính
qui căn, phản phục của sự vật - hiện tượng trong triết thuyết gọi là Đạo do ông
sáng tạo ra (từ những ý gợi mở của minh triết phương Nam?!), và cũng là đúc kết rút ra được từ “bãi chiến trường” đẫm máu tranh
giành danh lợi thời Xuân Thu và cả thời trước đó, đã để lại cho đời sau nhiều lời
khuyên dạy chí lý về ứng đời xử thế. Chúng đã trở thành những danh ngôn, châm
ngôn phổ biến trong xã hội. Có lẽ rằng hầu hết mọi người đã từng ít nhất một lần
đọc qua chúng và đều cho là đúng đắn. Thế nhưng thật hiếm người thực hành được
những châm ngôn ấy. Không biết có phải là do sự tham muốn, thèm khát trong con
người đã thành bản năng lý tính không?
Lão Tử có thể là
người đầu tiên khuyên người ta tri túc: “Biết thế nào là đủ thì không nhục, biết
lúc nào nên ngừng thì không nguy.” (Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi); “Họa không
gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì cho bằng tham muốn cho được
nhiều” (Họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư nhục đắc). Và thành ngữ “Công
thành thân thoái” có thể cũng xuất phát từ ông: “Vàng ngọc đầy nhà, làm sao giữ
nổi. Giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về, đó là
đạo trời.” (Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ. Phú quí nhi kiêu, tự di kì cữu.
Công thành thân thoái, thiên chi đạo.)
Trần Nguyên Hãn
là người ngay từ đầu đã cảm nhận được bóng ma Việt vương Câu Tiễn trong con người
Lê Thái Tổ. Theo ghi chép của Lê Quí Đôn ở phần liệt truyện trong “Đại Việt thống
sử” vào thế kỷ XVIII thì ông nói riêng với người thân: “Nhà vua có tướng như Việt
Vương, không thể cùng sung sướng được”, và ông đã hành động theo Phạm Lãi: xin
về hưu. Nhà vua bằng lòng nhưng qui định mỗi năm phải hai lần về chầu. Ông về làm
nhiều nhà cửa, xây dựng gạch hoa, đóng thuyền chở binh khí. Có người tố cáo ông
là mưu phản. Vua bèn sai lực sĩ xá nhân bắt về hỏi tội. Trên thuyền, ông phẫn uất
khấn trời rằng: “Tôi với vua cùng mưu cứu dân. Nay việc nghĩa lớn đã thành, vua
lại muốn giết tôi. Hoàng Thiên có biết xin soi xét cho”, rồi tự sát.
Trần Nguyên Hãn
đã phát hiện được cái điều mà Phạm Lãi đã phát hiện, đã làm theo như Phạm Lãi đã
làm, nhưng không triệt để, vẫn còn vương lụy hai chữ “công danh”, cho nên “giàu
sang mà kiêu là tự rước lấy họa” (lời Lão Tử).
Trường hợp Phạm
Văn Xảo cũng tương tự như trường hợp của đại phu Văn Chủng, chẳng bao lâu sau
ngày được ban phong chức tước rình rang, có người tố cáo ông ngầm mưu phản, vua
“ban cho được chết”
Trường hợp Nguyễn
Trãi bị hạ ngục thì chính sử nhà Lê và sử các thời sau không ghi. Nhưng sự kiện
đó là có thật và sự mắc vạ của hai người kia đã là duyên cớ trực tiếp dẫn đến hệ
lụy. Có nhiều căn cứ xác đáng để các nhà sử học ngày nay nhất trí về việc Nguyễn
Trãi đã bị hạ ngục một thời gian dưới triều Lê Thái Tổ. Một trong số đó là
trong “Biểu tạ ân” của Nguyễn Trãi dâng lên Lê Thái Tông sau này, có câu: “Nếu
không được tiên đế (chỉ Thái Tổ) xét rõ đáy lòng, thì hầu khiến tiểu thần ngậm
cười dưới đất”. Nhiều khả năng bài thơ sau đây của Nguyễn Trãi đã được cảm tác
về thời gian ấy:
“ Cuộc đời chìm nổi
mấy mươi năm
Núi cũ khe xưa ước
đã lầm
Danh giá bỗng mang
vòng họa thực
Lòng ngay khôn gỡ
miệng quân phàm
\
Tự văn chưa mất lòng
còn đoái
Định mệnh thôi đành
chết cũng cam
Khó gửi nửa lời lên
bệ ngọc
Tỏ lòng oan tủi buổi
tù giam”
Cụ thể, tội mưu
phản của Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo là gì? Sử cũ cũng không ghi, chỉ bàn
luận, nhận định là nhiều. Nhờ ghi chép của Lê Quí Đôn trong “Đại Việt thông sử”
mà chúng ta biết thêm rằng trong lời chiếu của Lê Lợi ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch
năm 1432 (dạng văn hơi bị thô!), sau khi dẹp xong hai cuộc nổi loạn của tù trưởng
Đèo Cát Hãn và Khắc Thiệu ở miền núi, có đoạn: “Trẫm xét: kẻ loạn thần tặc tử
thì ai ai cũng muốn giết chết. Năm ngoái thằng Khắc Thiệu ở Thái Nguyên mưu làm
phản, đích là do thằng Hãn âm mưu. Năm nay Cát Hãn nổi loạn là do âm mưu của Xảo.
Mầm mống họa hoạn không thể không triệt cho hết”.
Về nguyên nhân
dẫn đến thảm sát ấy, nhận định của Lê Quí Đôn là xác đáng. Theo ông thì bấy giờ
vua thường đau yếu, con còn nhỏ, mà Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo là những khai
quốc công thần, người là con cháu tông tộc nhà Trần, người là kẻ kinh lộ. Vua sợ
khi con nhỏ lên ngôi, bọn họ cậy quyền ỷ thế sinh lòng khác, nên bề ngoài lấy lễ
ý tôn sùng trọng vọng mà bụng vẫn nghi ngờ, lại bị bọn nịnh thần Lê Quốc Khí, Định
Bang Bảng… đón biết ý vua, tranh nhau dâng mật sớ, khuyên vua quyết trừ đi.
Vì là con cô
con cậu nên khi Nguyễn Trãi là cháu ngoại thì Trần Nguyên Hãn là cháu nội của
Trần Nguyên Đàm, một đại phu thời nhà Trần giữ chức vị tương đương với Tể tướng
đồng thời là cháu bốn đời của Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải. Trong khi đó,
Nguyễn Trãi có một người vợ (Hà Sơn Bình cũ), không biết có họ hàng gì với Phạm
Văn Xảo không. Nếu có thì ba người tài năng xuất chúng ấy là chỗ thân bằng quyến
thuộc và nếu họ thông đồng hợp sức lại thì đó là một lực lượng cực kỳ đáng sợ.
Có thể đoán thêm rằng Lê Lợi đã hình dung ra điều ấy và cộng thêm sự xiểm tấu của
đám nịnh thần mà ông đã trở nên hốt hoảng thực sự, vội ra tay diệt trừ.
Cũng theo nhận định
của Lê Quí Đôn thì: “Vua Thái Tổ hối hận, thương hại người bị oan: Lại biết bọn
Lê Quốc Khí đều là hạng tiểu nhân xảo quyệt nên rất ghét chúng. Về sau bọn chúng
đều có việc bị đuổi, nhà vua xuống chiếu bảo cho các quan rằng: bọn Lê Quốc Khí,
Trịnh Hoàng Bá, Lê Đức Dư dầu là có tài cũng không được dùng lại nữa, mà trong
thiên hạ có kẻ mưu phản cần phải tố cáo cũng không cho bọn ấy được tố cáo”.
Lê Lợi có hối hận
không? Trách nhiệm của đám nịnh thần tới đâu mà sao xử “nhẹ hều” thế ? Hay lại
cũng cái kiểu Lưu Bị quẳng con để lấy lòng tướng? Điều này là chắc chắn: Lê Lợi
đã yên lòng vì hai “mầm họa lớn” đã bị triệt và xong việc rồi thì không thèm
“chơi” với cái đám nịnh thần mà ông khinh ghét, biết tỏng chúng cũng chẳng vừa
gì. Trong dịp này, ông quan văn “hiền khô” Nguyễn Trãi, người có lẽ là duy nhất
mà Lê Lợi trong sâu thẳm đáy lòng vẫn còn cảm phục về tài năng lẫn nhân cách, được
trả tự do. Màn kịch vừa bi, vừa hài, vừa lạ lùng đã từ từ khép lại.
Có thể thấy được
cái mâu thuẫn nội tâm gay gắt ở Lê Thái Tổ qua lời dặn dò con là Nguyên Long
trong chiếu truyền ngôi khi ông mất (Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 năm Quí Sửu, tức
năm 1433).
“Trẫm gặp thời
tao loạn, dựng nghiệp gian nan, hơn hai mươi năm mới nên nghiệp lớn, những nỗi đau
khổ của nhân dân, thảy đều hiểu hết, những đường gian nan trong thế sự, thảy đều
trải qua, thế mà đến khi lên ngôi, lòng người thực hay giả, cũng chưa dễ gì tỏ
tường, những việc nghi ngờ, cũng chưa dễ gì phán đoán. Như vậy đạo làm vua không
khó ư? Huống chi con, đương thời tuổi trẻ, nối nghiệp gian nan, nghe biết càng
nông, tư lường chưa thấu. Vậy nên dốc lòng kính cẩn, như giẫm trên băng mỏng vực
sâu, thờ trời đất nên hết lòng, cung phụng tôn miếu nên tròn đạo hiếu, thân ái
anh em, hòa mục tông tộc, cho tới việc đối xử trăm quan và muôn dân, thảy đều nên
nghĩ sao cho phải đạo. Chớ đổi phép cũ của tiên vương, chớ bỏ cách ngôn của tiên
triết, chớ gần thanh sắc mà chuộng tiền tài, chớ thích đi săn mà ham dâm đãng,
chớ nghe lời gièm mà xa người can thẳng, chớ dùng tân tiến mà bỏ cựu thần…”
Vì ngai vàng và
trong nỗi lo sợ mất nó, Thái Tổ đã làm tất cả có thể: giết vua Trần Cảo (dù là
vua hờ); thực hiện chiêu “hết chim, cất cung tên”, nghĩa là ban cho những quý tộc,
tôn thất, người tài có công trong kháng chiến tước cao lộc hậu rồi phần lớn cho
về “yên hưởng luân thường” chỉ rất ít được ở lại tiếp tục tham gia triều chính;
thực hiện chiêu “thỏ chết, thịt chó săn”, nghĩa là trừ khử những kẻ tỏ ra cậy công,
nghênh ngang coi thường thiên tử, dễ gây mầm phản loạn; bỏ con trưởng lập con
thứ… Dù có nêu ra đủ lý do, đủ duyên cớ thì Thái Tổ cũng không thể biện minh được
cái ích kỷ đến mù quáng trong việc bức hại, truy sát các công thần của mình. Dù
Thái Tổ không phải là con người có bản chất bất nghĩa, vô nhân, nhưng những hành
xử đó của ông là bất nhân bất nghĩa, không thể gọi khác đi được.
Sự đam mê danh
lợi trong mỗi con người, một khi đã như con ngựa chứng, lồng lên bứt đứt dây cương
chế ngự của Đức Huyền Diệu, sẽ gây ra những tai nạn ghê gớm thật không biết đến
đâu mà lường!
Khi dấy nghĩa và
dẫn dắt cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đi đến thắng lợi rực rỡ, Thái Tổ là Lê Lợi, vị
lãnh tụ quả cảm, được các chiến hữu trong hội thề Lũng Nhai hết lòng tin theo,
xả thân phò tá vì đại nghĩa. Lúc đó, ông xứng đáng được tôn vinh là anh hùng cứu
nước của Dân tộc. Khi ngồi trên ngôi báu, có cả giang sơn, Lê Lợi là Thái Tổ, một
ông vua vị kỷ đến mức giũ bỏ tình xưa nghĩa cũ, nghi kỵ đến mức độc địa hôn quân,
để rồi khi đã được yên lòng, hả dạ thì lại bỗng thấy hụt hẫng, cô đơn, u uẩn
trong cảnh đời xa vắng. Chính lúc này đây, Thái Tổ không còn là Thái Tổ đắm đuối
ngai vàng nữa, cũng không phải là Lê Lợi khao khát chiến công nữa, mà chỉ là một
con người đau yếu, bệnh tật trước Thiên Thu, bước ra khỏi vòng danh lợi và tổng
kết cuộc đời mình, rút ra bài học gửi gắm lại cho con mình bằng cái tâm trong sáng
nhất.
***
Sau khi được Thái
Tổ “xét rõ đáy lòng”, Nguyễn Trãi được trả tự do và được phục hồi chức tước như
cũ. Tuy nhiên, từ trước đó, Nguyễn Trãi đã không còn được Lê Lợi trọng dụng như
thời kháng chiến nữa. Giờ đây, sau biến cố đau đớn, mối quan hệ giữa hai người
càng lạnh nhạt và Nguyễn Trãi đã dần nhận ra cái hoài bão lớn của ông, cái mộng
tôi sáng vua hiền tận tâm với nước, “lo trước điều thiên hạ phải lo”, là khó lòng
thực hiện được, dù rằng có thể ông chưa thấu tỏ được sự biến đổi rất sâu trong
tâm hồn Lê Lợi.
Thất sủng rồi
nhưng Nguyễn Trãi vẫn làm quan, không còn được tin dùng nhưng vẫn làm tròn phận
sự. Hình như ông vẫn cố gắng làm được đến đâu hay đến đấy những điều tốt đẹp nhất
cho triều đình như một kẻ bất đắc chí nhưng chưa thối chí, vì tấm lòng hướng về
Đại Chúng, tư tưởng đại nhân đại nghĩa ở ông vẫn còn nguyên vẹn đó. Cũng vì thế
mà ông sống thanh liêm, trong sáng và dù giàu sang phú quí đã không đến với ông
thì ông vẫn hài lòng với cuộc sống có phần đạm bạc của mình. Một tâm hồn tham
quyền cố vị chỉ chăm chăm vơ vét danh lợi vật chất thông thường sẽ không thể làm
được những câu thơ “trần tình” nhưng rất “nhẹ” như Nguyễn Trãi đã làm:
“Bữa ăn dù có dưa
muối
Áo mặc nài chi gấm
là”
Và:
“Hài cỏ đẹp chân đi
đủng đỉnh
Áo bô quen cật vận
xênh xang”
Hay:
“Góc thành Nam lều
một gian
No nước uống thiếu
cơm ăn
Con đòi trốn đường
ai quyến
Bầy ngựa gầy thiếu
kẻ chăn
Ao bởi hẹp hòi khôn
thả cá
Nhà quen xú xứa ngại
nuôi vằn
Triều quan chẳng
phải, ẩn chẳng phải
Góc thành Nam lều
một gian”
Nguyễn Trãi không
thể không biết câu “công thành thân thoái”, không thể không biết câu chuyện Việt
vương - Phạm Lãi, và rõ ràng với lối sống thanh đạm, ông cũng luôn luôn thấy đủ.
Vậy thì vì sao lúc bấy giờ ông không lui về Côn Sơn từ sớm mà mãi sau mới về đó
ngao du, vui thú với cảnh vật thiên nhiên? Tại sao ông không chịu ra khỏi thời
cuộc mà cứ phải “đem thân về với triều đình” để mà buồn man mác ở “góc thành Nam lều
một gian”?
Nếu
thực sự bất
cứ hành động nào của con người cũng vì danh lợi thì Nguyễn Trãi hành
động như vậy
phải là vì danh lợi gì đó. Nhưng là danh lợi gì? Chúng ta nên nhớ, trong
thời Hồ Quí Ly tư tưởng Nho Giáo đã được truyền bá sâu rộng vào nước ta
và trở thành như một quốc giáo!
Nguyễn Trãi có
một hoài bão lớn. Mong muốn tột bậc của ông là được đem hết tài năng ra để thực
hiện hoài bão ấy. Mười năm tham gia kháng chiến là mười năm tài năng của ông được
thỏa sức thăng hoa vỗ cánh và thực sự đã góp được công lao to lớn, đã phụng sự được
một cách đắc lực cho công cuộc cứu dân, cứu nước. Chắc rằng đó là khoảng đời hồ
hởi nhất, dù gian khổ nhưng sảng khoái nhất của ông. Văn thơ thư tịch ông viết
trong thời kỳ này đã phản ánh rất rõ cái trạng thái tâm lý ấy, trong đó, “Bình
Ngô đại cáo” là tiêu biểu nhất, được đương thời và đời sau thán phục, ngợi ca hết
lời và thượng tôn là “thiên cổ hùng văn”.
Nước nhà giải
phóng, trước mắt Nguyễn Trãi mở ra con đường thênh thang, cho mong ước của ông:
tiếp tục được thực hiện để cái hoài bão lớn lao mà ông đeo đuổi và đang dở dang
sớm trở thành hiện thực một cách trọn vẹn. Tinh thần ông lúc này chắc càng thêm
phấn chấn với một hy vọng tràn trề. Nhưng cái khoảng khắc ấy mau chóng qua đi
trước cái biến thái cũng mau chóng không kém của thực tại. Nhất là sau khi bị
buộc tội và hạ ngục, danh dự bị tổn thương, thân phận bị bẽ bàng, thì trong tâm
hồn Nguyễn Trãi đã có nhiều vỡ lở khó mà hàn gắn được, lần đầu tiên, có thể ông
đã cảm nhận được điều ông mong ước là vô vọng.
Vô vọng rồi thì
mục đích làm quan của Nguyễn Trãi cũng không còn. Vậy thì tại sao ông không rời
bỏ chốn quan trường mà về đi có hơn không? Hay tại Thái Tổ không cho về vì hình
bóng lớn lao của Nguyễn Trãi thời kháng chiến vẫn còn đậm nét trong lòng người,
nên trước bàn dân thiên hạ, giữ Nguyễn Trãi ở lại “ngồi chơi xơi nước”, “triều
quan chẳng phải, ẩn chẳng phải” có lợi hơn là cho về vườn?
Nếu đó là nguyên
nhân thì cũng không phải là duy nhất, còn một nguyên nhân khác nữa.
Danh lợi, hiểu
theo nghĩa rộng nhất, là bất cứ thứ gì mà một con người ước muốn. Mong ước cuối
cùng của Nguyễn Trãi là đem hết tài năng để góp công tạo dựng nên một triều đình
thực sự vì dân, một xã hội thanh bình tươi sáng để dân tình được yên vui, mọi
người cùng chung hưởng hạnh phúc. Mục đích làm quan của Nguyễn Trãi chính là vì
thế và cái danh lợi mà ông đeo đuổi cũng chính là như thế. Chúng ta cho rằng đó
là cái danh lợi cao nhất, tuyệt đỉnh mà
một con người hướng thiện có thể mơ ước được và đồng thời cũng chính là sự thể
hiện toàn vẹn nhất của Đức Huyền Diệu.
Mọi sự vật -
hiện tượng đều có thể hiện hữu, mọi sự việc đều có thể xảy ra nếu chúng hợp Đạo
Lý (Lẽ Tự Nhiên hay Nguyên Lý Tự Nhiên). Tuy nhiên, hợp Đạo Lý chưa chắc đã là
hợp Đức Huyền Diệu. Hợp Đức Huyền Diệu mà không hợp Đạo Lý thì bất cứ thứ gì cũng
không thể thực hiện được mà chỉ là hiện hữu ảo, là lý tưởng, ảo tưởng, không tưởng…
Trong cái môi trường hàm chứa đầy ắp thị phi chốn cung đình, cụ thể là triều đình
Thái Tổ, nơi chính vua là người đã (có thể là vô tình!) mở cửa, dung túng cho
những mưu cầu hèn kém nhất, phi nhân nhất, thì ước mơ của ông quan “hữu danh vô
thực” Nguyễn Trãi hoàn toàn vô vọng là chuyện đương nhiên.
Xét theo hướng ấy,
nếu đối với nhiều người khác ở địa vị như Nguyễn Trãi đã là công thành danh toại,
thì đối với Nguyễn Trãi là công chưa thành và vì thế mà thân chưa muốn thoái.
Nguyễn Trãi đích thị là một nhà nho thuần túy. Quan niệm, cũng như việc đối nhân
xử thế của ông hoàn toàn theo Nho Giáo: biết vô vọng rồi mà vẫn cố làm cho được đến
đâu hay đến đấy, biết không theo được nữa vẫn cố theo để giữ tiếng trung quân,
cô đơn giữa đám loạn thần vẫn “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” để bảo tồn chữ dũng,
nghĩa phu phụ đã bạc mà vẫn già nhân ngãi để ôm cho vẹn lòng nhân nghĩa. Có thể
nói Nguyễn Trãi là con người lấy chính danh, nhập thế làm lẽ sống. Ngay cả khi
về già, “xuất thế” đối với ông cũng chỉ là miễn cưỡng, “lực bất tòng tâm”. Ông
xuất thế mà lòng còn vọng động, xuất thế mà không tròn được chữ “vô vi”, xuất
thế mà vẫn không ra khỏi được vòng nhập thế.
Ôi danh lợi! Thơm
ngon mà cũng thối tha, cay đắng quá chừng!
Nguyễn Trãi là
một cuộc đời đáng được ghi tạc công lao, đáng kính phục về tài năng đức độ, đáng
xót thương vì bị số phận bạc đãi. Chúng ta càng kính phục, cảm thương ông hơn
khi đọc những tâm sự mà ông đã gửi gắm vào văn thơ do chính ông sáng tác ở giai
đoạn nửa cuối cuộc đời mình.
Là một nhà nho,
tin theo tuyệt đối tư tưởng của Nho Giáo và phục tùng cái hệ thống luân lý máy móc
của nó, Nguyễn Trãi đã ưu tiên lựa chọn phương châm sống là nhập thế hữu vi. Nhưng
trước hết, Nguyễn Trãi là một con người như mọi người khác, hơn nữa là con người
đa sầu, đa cảm, nặng lòng với quê hương và yêu thích cảnh sống thanh dã, gần gũi
với thiên nhiên. Cho nên trước cái nhân tình thế thái đầy nhiễu nhương và sặc mùi
danh lợi tầm thường chốn triều đình, trong nỗi thất vọng, chán nản trên con đường
hoạn lộ đã hầu như mất hết mục đích, con người Nguyễn Trãi, một cách tự nhiên,
không thể không bị cái ý tưởng xuất thế, trở về dân dã vui buồn với cảnh đẹp
thiên nhiên, kêu réo thiết tha, thúc dục. Giằng xé giữa nhập thế và xuất thế,
giữa bổn phận với đất nước theo tư tưởng Nho gia và ao ước tự nhiên muốn rời xa
cảnh đời đen bạc, đã là mâu thuẫn lớn nhất, gây khổ đau nhất cho tâm hồn Nguyễn
Trãi. Và cái tên hiệu Ức Trai của ông đã như một điềm báo trước. Dưới đây chúng
ta trích dẫn một số vần thơ của Ức Trai để phần nào thấy được tâm trạng đó của ông
cũng như cái hay, cái đẹp của thơ ông.
Đây là đạo làm
người của Ức Trai:
“Một thân lẩn quất
đường khoa mục
Hai chữ mơ màng việc
quốc gia”
(Ngôn
chí, bài 7)
“Bui có một niềm chang nở trễ
Đạo làm con mấy đạo
làm tôi”
(Ngôn
chí, 1)
“Tôi ngươi hết
tấc lòng trung hiếu
Ai há liệu nơi thịnh
suy”
(Tự
thán, 30)
“Tôi ngươi thề một
lòng trung hiếu
Mưa để nghìn đời
tiếng hô han”
(Tự
thán, 27)
“Quân thân chưa báo
lòng canh cánh,
Tình phụ cơm trời,
áo cha”
(ngôn
chí, 7)
“Quân thân tại niệm
chốn tâm đan”
(Hải
khẩu dạ bạc hữu cảm, 1)
(Nghĩa quân thần
luôn ghi tạc ở tấm lòng son)
(Đêm
ở cửa bể, cảm tác, 1)
Và đây là những
nỗi niềm của ông:
“Ở thế nhiều phen
thấy khóc cười
Năm nay tuổi đã ngoại
tư mươi
Lòng người một sự
yêm chưng một,
Đèn
khách mười thu lạnh hết mười!
Phượng những tiếc
cao diều hãy lượn
Hoa thì hay héo, cỏ
thường tươi!”
(Tự
thuật, 9)
(Đối với hai câu
cuối, có người giải nghĩa: ở trong lòng địch, nơi cao không thấy “phượng hoàng”
mà chỉ thấy “diều hâu” lượn (!), bọn tham quan như loài cỏ xấu, cứ mọc lên xanh
tươi (!). Theo chúng ta thì hiểu như thế là sai. Hai câu đó là sự “than thở” xa
xôi về cái nghịch cảnh mà Ức Trai đang “vướng” vào. Ông ví mình như hoa héo, phượng
hoàng sa cơ chỉ lượn được như cánh diều)
“Lòng thế bạc đen
dầu nợ biến
Ta thì nhân nghĩa
chớ loàn đan”
(Trần
tình, 3)
“Đã biết cửa quyền
nhiều hiểm hóc
Cho hay đường lợi
cực quanh co”
(Ngôn
chí, 19)
“Thấy biển triều
quan đã ngại vượt
Trong dòng phẳng có
phong ba”
(Bảo
Kính cảnh giới, 41)
“Biển học, trường
văn hàng nhật bới
Đường danh, lối lợi
hiểu khôn lầm”
(Bảo
kính cảnh giới, 23)
“Gia sơn thục bất hoài tang tử
Trung hiếu hà tàng
hữu cố câm?”
(Đề
Hà Hiệu úy “Bạch vân tư thân”)
(Tình quê hương:
ai mà chẳng nhớ cây dâu, cây thị
Lòng trung hiếu: nào
từng có phân biệt xưa nay)
(Đề tập thơ “Bạch
Vân tư thân” của quan Hiệu ứng họ Hà)
“Ký thác mộng hồn,
tâm cố lý
Không tương huyết
lệ tẩy tiên oanh”
(Quy
Côn Sơn chu trung tác)
(Bao lần trong chiêm
bao, tìm về làng cũ
Luống đem nước mắt
lẫn máu rửa mồ tổ tiên)
(Trong
thuyền về Trung Sơn cảm tác)
“Mả mồ nghìn dặm
khôn thăm viếng
Thân cựu mười năm
thảy rụng rời”
(Thanh
Minh)
“Còn một lòng âu
lo việc nước
Đêm đêm thức nhẵn
nẻo sơ chung”
(Trích
trong “Quốc âm thi tập”
“Người sao còn chửa
đi về
Nửa đời bụi bặm hoài
lăn lóc
Muôn chung nghìn đỉnh
có làm gì
Nước là cơm rau miễn
tri túc…”
(Trích trong một bài
thơ chữ Hán, Đào Duy Anh dịch)
“Biển lùa gió bấc,
thổi băng băng
Nhẹ kéo buồm thơ vịnh
Bạch Đằng
Ngọc chặt kình băm
non lởm chởm
Dáo chìm gươm gãy
bãi dăng dăng
Quan hà hiểm trở
trời kia dựng
Hào kiệt công danh
đất ấy từng
Việc cũ ngoảnh đầu
ôi, đã dứt!
Dòng trôi tìm bóng
dạ bâng khuâng”
(“Cửa
biển Bạch Đằng”, dịch từ chữ Hán)
“Niềm cũ sinh linh
đeo ắt nặng
Cật trưng hồ hải đạt
chưa an
Những vì Chúa thánh
âu đời trị
Há kẻ thân nhàn tiếc
tuổi tàn
Thừa chỉ ai rằng
thời khó ngạt
Túi thơ chứa hết mọi
giang san”
(Tự
thán, 2)
“Lão khứ cuồng ngôn
hữu quái ngã
Lân ký ngã diệc Thượng
thừa hiền”
(Tống
tăng Đạo Khiêm qui sơn)
(Lúc già hay nói
ngông, đừng ngạc nhiên nhé
Tới chỗ rẽ, ta cùng
đi tu thiền của phái Thượng Thừa)
(Tiễn
sự Đạo Khiêm về núi)
“Trà mai đêm nguyệt
dậy xem bóng
Phiến sách ngày xuân
ngồi chấm câu
Dưới công danh đeo
khổ nhục
Trong dầu dãi có
phong lưu”
(Trích
trong “Quốc âm thi tập”)
Dù có thể là đã
chán ghét cảnh quan trường, chướng tai gai mắt trước thế sự dở ương, trắc trở bởi
những mưu mô ti tiện, lập bè kéo cánh, nhưng nhân cách một nhà nho đã ràng buộc
Ức Trai ở lại, thực hiện bổn phận để giữ đạo vua tôi, tỏ trọn lòng trung nghĩa.
Tuy nhiên, trong chốn sâu thẳm nhất của tâm hồn Ức Trai, vẫn canh cánh một ao ước
được trở về với thiên nhiên, xứ sở, sống cảnh “thanh bần cực lạc” cùng thiên
nhiên. Mãi đến khi về già, khi được coi là đã tròn bổn phận, ông mới lui được về
Côn Sơn. Niềm ao ước tưởng rồi cũng toại nguyện trong những năm tháng cuối đời,
ai ngờ là dang dang dở dở để rồi đột ngột chấm dứt trong bi phẫn tột cùng…
Đây là tình tự
của Ức Trai về phong cảnh thiên nhiên và nỗi ao ước được hòa vào cảnh sắc thiên
nhiên ấy:
“Côn Sơn có khe
Tiếng nước chảy rì
rầm
Ta lấy làm đàn cầm
Côn Sơn có đá
Mưa xối rên xanh đậm
Ta lấy làm chiếc
thảm
Trong núi có thông
Muôn dặm rờn rờn
biếc một vùng
Ta tha hồ nghỉ ngơi
ở trong
Trong rừng có trúc
Nghìn mẫu in biếc
lụa
Ta tha hồ ngâm nga
bên gốc…”
(Trích “Côn Sơn
ca”, Đào Duy Anh dịch từ chữ Hán)
“Quét trúc bước
qua lòng suối
Thưởng mai về đạp
bóng trăng”
(Ngôn
chí, 15)
“Núi láng giềng,
chim bầu bạn
Mây khách khứa,
nguyệt anh tam”
(Thuật
hứng, 19)
“Rủ viên hạc, xin
phương giải tục
Quyến mai trúc, kết
bạn tri âm”
(Tự
thuật, 8)
Trong “Quốc âm
thi tập” còn rất nhiều câu thơ trữ tình, nghe sâu lắng nhưng xốn xang lòng người,
chẳng hạn:
“Đêm thanh nguyệt
hiện ngoài hiên trúc
Ngày vắng chim kêu
cuối khóm hoa”
“Trì, tham nguyệt
hiện, chăng buông cá
Rừng, tiếc chim về,
ngại phát cây”
“Án sách cây đèn,
hai bạn cũ
Song mai hiên trúc,
một lòng thanh”
“Tà dương bóng ngả
áp giang lâu
Thế giới đông nên
ngọc một bầu
Tuyết sóc leo cây điểm
phấn
Cỏi đông dải nguyệt
in câu!
Khói chìm thủy quốc
quyến phẳng
Nhạn triện hư không
gió thâu
Thuyền mọn còn chèo
chăng khừng đỡ
Trời ban tối biết
về đâu?”
“Nước biếc, non
xanh, thuyền gối bãi
Đêm thanh, nguyệt
bạc, khách lên lầu”
Nhưng than ôi, Ức
Trai! Đã về tu tiên rồi mà sao lòng vẫn chưa dứt được nợ trần; sao cứ phải:
“Tự văn chưa
mất lòng còn đoái
Định
mệnh thôi đành chết cũng cam”?
Hơn ba thế kỷ
sau, đại thi hào Nguyễn Du có viết trong “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Thúy
Kiều) như một đúc kết về thân phận con người cõi trần thế:
“Ngẫm hay muôn
sự tại Trời,
Trời
kia đã bắt làm người có thân
Bắt
phong trần, phải phong trần
Cho
thanh cao, mới được phần thanh cao
Có
đâu thiên vị người nào
Chữ
tài, chữ mệnh, dồi dào cả hai
Có
tài mà cậy chi tài
Chữ
tài liền với chữ tai một vần
Đã
mang lấy nghiệp vào thân
Cũng
đừng trách lẫn Trời gần, Trời xa…”
¯¯¯
Tư Tề là con trưởng
của Lê Lợi, đã từng lăn lộn từ những ngày đầu kháng chiến, giữ chức Tư đồ, rồi được
thăng Hữu tướng quốc. Đến năm Kỷ Dậu (1429), Tư Tề được Lê Lợi cử làm Quốc vương,
tạm coi việc nước (trùng với năm Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo bị bức tử, Nguyễn
Trãi bị hạ ngục; không biết có điều gì uẩn khuất ở đây không?!). Rồi nghe đâu Tư
Tề mắc chứng cuồng. giết bừa các tỳ thiếp (kể cũng thật lạ!). Thái Tổ không ưa,
bèn phế bỏ, lập Nguyên Long, người con thứ hai lên ngôi Thế tử.
Lê Nguyên Long
lên ngôi vua ngày 8 tháng 9 năm Quí Sửu (1433), gọi là Thái Tông, lấy niên hiệu
là Thiệu Bình. Khi lên ngôi, Thái Tông mới 11 tuổi, quyền hành nằm trong tay
nhiếp chính Đại Tư đồ Lê Sát và phụ tá nhiếp chính, Đô đốc Lê Vấn. cả hai đều là
nhạc phụ của nhà vua.
Lê Sát xin phục
chức cho bọn Lê Quốc Khí, Trịnh Hoành Bá, Lê Đức Dư…, nhưng tuân theo di huấn của
Thái Tổ, vua Thái Tông không nghe. Đến năm 15 tuổi, nhà vua đã xét đoán rành rẽ
mọi việc mà Lê Sát vẫn khư khư quyền nhiếp chính, tiếm quyền. Thái Tông bất bình
kết tội Sát, bãi hết chức tước, cho tự tử ở nhà, điền sản bị sung công. Những kẻ
thuộc bè đảng của Lê Sát cũng đều bị bãi chức, đồng thời phục chức quan cho Bùi
Ư Đái, Bùi Cầm Hổ… Hành động đó chứng tỏ nhà vua tuy còn ít tuổi nhưng đã biết
quyết đoán. Về nhân cách của Lê Thái Tông, sử cũ nhất loạt nhận xét: “Vua tư chất
sáng suốt tinh khôn; khi cầm quyền chính: trong ngăn ngừa kẻ cường thần, ngoài
dẹp yên các man động; trọng đạo; chuộng Nho, đặt khoa thi, chọn kẻ sĩ, chế lễ
nhạc, rõ chính hình; văn vật rực rỡ đủ cả, đáng khen là vua hiền”. Điều này có
khơi gợi lại hy vọng về một triều đình có tôi sáng vua hiền trong lòng Nguyễn
Trãi không?
Tuy nhiên trong
triều đình không còn đám Lê Quốc Khí, Đinh Bang Bảng… thì lại xuất hiện đám Lê
Cảnh Xước, Nguyễn Thúc Huệ, Lương Đăng… và nạn bè phái, tìm cách triệt hạ nhau
trong hậu cung, lăm le quanh ngai vàng, trong dòng tộc, thân bằng quyến thuộc của
nhà vua thì chưa bao giờ chấm dứt.
Sau khi Thái Tổ
băng hà, Nguyễn Trãi vẫn tiếp tục làm quan dưới triều Thái Tông cho đến năm
1438, khi nhà vua đã đủ lớn và tự quyết rành rẽ mọi việc triều chính, thì mới cáo
lui về Côn Sơn (Hải Dương) an trí. Có nhiều khả năng trong khoảng thời gian từ
năm 1433 đến năm 1434, Nguyễn Trãi đã gặp Nguyễn Thị Lộ và nhận về làm thiếp.
Tương truyền, một
chiều xâm xẩm tối, tan chầu về, Ức Trai bắt gặp một người con gái bán chiếu,
nhan sắc tuyệt trần. Tức cảnh sinh tình, ông hỏi bỡn bằng 4 câu thơ:
“Ả ở đâu đi bán
chiếu gon
Chẳng
hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân
thu chừng độ bao nhiêu tuổi
Đã
có chồng chưa, được mấy con?”
Hỏi vui thế, không
ngờ cô gái bán chiếu ứng khẩu, đáp luôn cũng bằng 4 câu thơ không kém phần láu
lỉnh:
“Tôi ở Tây Hồ bán
chiếu gon
Cớ
chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân
thu mới độ trăng tròn lẻ
Chồng
còn chưa có, nói chi con!”
Lời đáp ấy đã là
một tiếng sét ái tình đánh trúng ông quan luống tuổi, đang “nhàn nhã” đồng thời
là nhà thi hào đa tình. Ức Trai đã đem lòng mê mẩn người con gái sắc sảo “mới độ
trăng tròn lẻ” ấy. Còn người con gái ấy có bị tiếng sét ái tình đánh trúng không?
Chúng ta đoán là không! Nhưng trước một Ức Trai lừng lẫy công danh như thế, chắc
là nàng phải động lòng. Và chắc trong lòng nàng cũng trỗi dậy một ước vọng về tương
lai… Lịch sử lu mờ đã không cho chúng ta biết được nhiều điều. Dù sao đi nữa thì
họ đã nên vợ nên chồng.
Người con gái ấy
chính là Nguyễn Thị Lộ. Thị Lộ vốn là con nhà gia giáo, có học, ở làng Hải Triều
tức làng Hới, một làng có tiếng làm chiếu (nay thuộc xã Phạm Lễ, huyện Quỳnh Thụ,
Thái Bình). Trước Thị Lộ, Ức Trai đã có 3 bà vợ, đều có con với ba bà ấy. Thị Lộ
không có con, sau này được Ngô Thị Ngọc Dao giới thiệu cho cô cháu là Ngô Chi
Lan làm con nuôi. Ngô Chi Lan đổi tên là Nguyễn Hà Huệ về sau lấy Phú Thúc
Hoành, một người học giỏi, từng làm Bác sĩ giảng kinh sử ở Quốc Tử Giám thời Lê
Thánh Tông. Bản thân Ngô Chi Lan lúc đó làm Lễ Nghi học sĩ (giống Thị Lộ đã từng
giữ thời Thái Tông), đồng thời là nữ thi sĩ có tài.
Vua Lê Thái Tông
thấy Thị Lộ xinh đẹp lại có văn tài, nên có lòng yêu mến, bèn phong làm Lễ Nghi
học sĩ, được phép tự do ra vào cung và (có sách nói) ngày đêm hầu bên cạnh. Sự
yêu mến của nhà vua đối với Thị Lộ đến mức độ nào, đã chung chăn gối chưa? Sử cũ,
không nói rõ nhưng phần đông các sử gia đều ám chỉ rằng có. Nhưng dù có hay không
thì cũng không nên kết tội Thị Lộ giết vua với những lời lẽ nặng nề cay độc quá.
Thị Lộ là một thiếu nữ tài hoa và nếu biết dùng nhan sắc của mình để được vua sủng
ái mà tiến thân, vươn tới một địa vị nào đó trong xã hội thì cũng là chuyện thường
tình. Thái Tông là một ông vua có thể là “đam mê tửu sắc”, nhưng với khối lượng
công việc triều chính và điều hành đất nước mà sử đã ghi chép thì không phải là
ông vua mất nhân cách, bê tha, sa đọa. Có thể nhìn thấy Thị Lộ qua tấm gương phản
chiếu nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương được chăng?...
Theo nhà sử học
Phan Huy Chú thì: “Khi ông (tức Nguyễn Trãi) lo việc nước, những chiếu thư, từ
mệnh nàng (tức Thị Lộ), đều được dự nhuận sắc”. Có thể vì thấy thế mà vua bèn
“thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người rất đẹp, văn chương
rất hay, gọi vào cung phong làm Lễ Nghi học sĩ” (Đại Việt sử ký toàn thư). (Người
thường cũng thích chứ huống gì vua! Các “sếp” bây giờ chúa là thích nữ thư ký
xinh đẹp. Tuy nhiên không phải cứ như thế là họ hư hỏng!).
Đầu năm Đinh Tỵ
(1437), nhà vua giao cho Nguyễn Trãi và hoạn quan Lương Đăng đốc xuất làm loan
giá, thẩm định nhã nhạc. (Có thể Thị Lộ được phong chức Lễ Nghi học sĩ vào dịp
này). Đến đây, một phần là do mâu thuẫn không hòa được với đám triều thần nịnh
vua, xu thời, một phần đã có Thị Lộ cáng đáng được những công việc lễ nghi triều
chính; một phần nữa là đã già và quá chán nản việc quan, Ức Trai xin từ quan về
trí sĩ ở Côn Sơn (vườn Lệ Chi).
Thái Tông đồng ý
cho về, nhưng lâu lâu, khi cần, vẫn cho vời Ức Trai trở lại kinh thành giúp việc
triều đình trong những khoảng thời gian ngắn nhất định.
Có một sự kiện đáng
chú ý: cuối năm 1440, Nguyễn Thị Anh, người vợ thứ tư của Thái Tông (Thái Tông
có 5 người vợ chính thức) sinh ra Bang Cơ (sau này là Lê Nhân Tông). Ngay tháng
sau, Thái Tông tước ngôi Đông Cung thái tử của Nghi Dân (con người vợ thứ 3) để
lập Bang Cơ làm Thái tử. Cũng trong năm đó, người vợ thứ 5 của Thái Tông là Ngô
Thị Ngọc Dao có mang. Thị Anh sợ Ngọc Dao sinh quí tử dẫn đến Bang Cơ mất ngôi
Thái tử, nên tìm cách vu khống, xin vua khép vào tội voi dày. Lễ Nghi học sĩ
Nguyễn Thị Lộ thấy oan uổng (sử cũ cho rằng cả Ức Trai tham gia trực tiếp vào vụ
này, nhưng chắc là không phải thế!) đã xin Thái Tông để cứu Ngọc Dao. Chắc là nể
Thị Lộ, vua đổi hình phạt, cho Ngọc Dao an trí (thực chất là giam lỏng) ở chùa
Huy Văn (gần Văn Miếu). Sợ chưa yên, Thị Lộ sai người đưa Ngọc Dao vào An Bang
(Quảng yên). Về sau, Ngọc Dao sinh ra Tư Thành (sau này là vua Lê Thánh Tông)
Những việc đó đều
đến tai Thị Anh. Từ đó mà sinh mối thù ghét của Thị Anh với Thị Lộ (và lây sang
cả Nguyễn Trãi). Như vậy, Nguyễn Trãi đã vô tình không biết rằng mình là tâm điểm
mối thâm thù của bè lũ Thị Anh và triều thần cùng phe cánh. Mầm tai họa đã kết
tụ chờ ngày phát tác. Chỉ có điều chưa biết phát tác lúc nào và mức độ phát tác
ra sao mà thôi.
Mối quan hệ gần
gũi, mật thiết giữa ông vua còn quá trẻ và Lễ Nghi nữ học sĩ tài sắc đang ở độ tuổi
sung mãn nhất không thể thoát được lời đàm tếu, gièm pha, vẽ vời thêm, thổi phồng
lên của bọn người ghét ghen. Chắc chắn những đàm tếu, thị phi đó cũng đã đến
tai Ức Trai trong những ngày hưu trí ở Côn Sơn. Trong bài thơ gửi Thị Lộ chúng
ta thấy toát lên nỗi buồn xót xa và vừa thương vừa oán trách nàng nhẹ dạ, mê
vui theo bả hư vinh:
“… Ngày vắng chim bay khoảng trống, nỗi ta
những ngóng tăm hơi
Đêm khuya trăng khuất tầng mây, nỗi nàng
thấu chăng u uất?
Như tấm gương, như quả cân: chưa soi, chưa
chỉnh
Như mặt trời, mặt trăng đương chiếu, đương
lên
Lời thề khắc Nam Sơn, sừng sững Nam Sơn vẫn
đó
Lời nguyền ghi Đông Hải, bao la Đông Hải còn
đây.
Lòng ta đã không sờn,
Chí nàng đi chẳng đổi…”
Nhưng than ôi:
“Tình đời lắt léo,
Lòng gái không thường
Có kẻ tình ngoại giết chồng, nào sợ trời
xanh lồng lộng.
Có người mê chơi bỏ nghĩa, chẳng hay vầng
nhật sáng choang choang
Tưng bừng vườn Hán dạo chơi,
Hớn hở lầu Tần vui cuộc
Nỗi riêng do kế đoản, nên việc được việc mất
sinh ra
Lại vì kẻ mưu sâu, để chuyện ta, chuyện mình
xảy đến
Giữa trần ai, ai biết người quân tử
Trong đám ngọc, ai biết đá vũ phu?
Thân không chính lấy thân, khổ thay hờn
duyên tủi phận
Nghĩa chẳng còn là nghĩa, chỉ toan oán trời,
trách người
Chuyện ngày xưa đã đành,
Việc ngày nay đáng trách…”
Hình như đã có điềm
báo và với bộ óc mẫn tiệp, từng trải của mình, Ức Trai đã linh cảm được điều bất
thường.
Và đây là lời
phân trần, biện bạch của Thị Lộ (ở chiều rất sâu, có thể cảm nhận được cái hơi
thở hừng hực thanh xuân trong thân phận éo le của nàng):
“Chỉ xin chàng nên:
Lấy quân tử làm lòng
Lấy thánh hiền làm đạo
Vua Thuấn xưa hai vợ mà tình chăn chiếu vẫn
đường hoàng
Đời Ngu có ông chồng mà nỗi buồng the không
đắm đuối
Đọc kinh sử thông kim bác cổ
Lấy trung thứ sinh ra ta người
Mối tình muộn màng nào quên, núi tuy khuất
mà lòng thiếp không khuất
Lời thề đinh ninh khó nhạt, sông dù vơi mà
ý thiếp không vơi
Còn gì liệu đáng băn khoăn
Phải chăng tự mình chuốc lấy?
Chỉ riêng mong
Xe thư một mối
Văn giáo cùng đường
Dù kín mít như rồng ẩn vực sâu
Sẽ sáng lòa như đầu xuân nắng mới
Vốn nhân, vốn kính, ngoài là vua vua, tôi
tôi
Càng mến càng thân, trong là chồng chồng vợ
vợ.
Nền có chắc thì nước mới vững
Nhà có hòa thì việc mới thành
Nghe gà gáy để đọc Tề thi, thiếp mong học
hiền phi lập đức
Nhìn móng lân giữ nếp công tư, thiếp xin
theo thánh mẫu ban nhân
Cũng mong sáng chói nghìn đời
Để lại tiếng tăm muôn thưở…”
Ngày 27 tháng 7
năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quan ở thành
Chí Linh. Ngày 4 tháng 8, nhà vua cùng với Thị Lộ về đến Lệ Chi Viên (nơi ở của
Ức Trai, tục gọi là Trại Vải ở làng Đại Lại, huyện Gia Bình, tỉnh bắc Dinh, nay
là huyện Gia Lương, Hà Bắc), “thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng hà, các
quan bí mật đưa về, ngày mồng 6 đến Kinh Sư, nửa đêm đem vào cung mới phát
tang” (Đại Việt sử ký toàn thư)
Đó là cái chết đột ngột, bất đắc kỳ tử. Nguyên nhân
của nó cho đến tận ngày nay vẫn là bí ẩn lịch sử. Dù có nhiều lý giải, nhận định
về cái chết của Thái Tông như do thượng mã phong, sốt rét, cảm, đột quị, đầu độc…
nhưng đều chưa xác thực. Dù sao thì một điều hiển nhiên là không ai mong muốn cái
chết đó cả và nếu có thì không ai ngoài Nguyễn Thị Anh. Do đó cũng không thể loại
trừ khả năng chính Thị Anh đã âm mưu đầu độc giết vua và cái chết của Thị Lộ cũng
như của Ức Trai là kết quả của sự trả thù hèn hạ mà đồng thời cũng là kết quả của
hành động bịt đầu mối, tiêu trừ nhân chứng, hậu họa.
Ngày 12 tháng 8
năm Nhâm Tuất (1442), các đại thần nhận di mệnh là Trịnh Khả, Nguyễn Xí, Lê
Thu, Lê Liệt, Lê Bôi tôn Hoàng tử Bang Cơ lên nối ngôi, lấy tên hiệu là Nhân Tông,
đổi niên hiệu là Thái hòa. Lúc đó, vì Bang Cơ mới 2 tuổi nên mẹ là Thái hậu
Nguyễn Thị Anh được buông rèm nhiếp chính, tạm coi việc nước thay con (thời
gian gọi là tạm đó kéo dài đến hơn 10 năm!)
Đến đây, mầm
tai họa đã đủ mọi điều kiện thuận lợi để phát tác ở tầm mức tàn độc nhất của nó.
Nguyễn Thị Lộ bị qui tội giết vua. Lúc đầu, nàng một mực kêu oan, nhưng do bị
tra tấn với nhiều cực hình dã man, không chịu nổi, đã nhận Ức Trai là chủ mưu
(theo lời hỏi ép của đám hình quan!). Và thế là quan Hành khiển Nguyễn Trãi - Ức
Trai bị khép vào tội ấy và bị xử tru di tam tộc (tất cả con và cháu trai bị giết,
vợ và con gái, cháu gái bị sung tỳ thiếp). Đó là ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất,
tức ngày 19-9-1442. Ba ngày sau, cuộc hành quyết thảm khốc xảy ra. Hai viên hoạn
quan là Đinh Phúc, Đinh Thắng, lỡ miệng than oan cho quan Hành Khiển, cũng bị đem
chém đầu.
Trước khi bị hành
hình, Ức Trai có nói: “Hối không nghe lời của hoạn quan Đinh Phúc, Đinh Thắng”.
Hai ông này đã nói gì? Đó vĩnh viễn là một bí ẩn. Nhưng chính Ức Trai chứ không
ai khác là người đã thấy được cái nguyên nhân sâu xa nhất về cái chết của mình.
Ông đã trối lại cho hậu thế lời nhắn nhủ thật bi phẫn:
“Họa phúc hữu môi
phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ
thiên niên”
(Họa phúc có nguồn,
phải đâu một buổi
Anh hùng để hận hàng
mấy ngàn năm)
Gieo gì gặt nấy,
ác giả thì ác báo. Mùa đông năm Kỷ Mão (1459), Lạng Sơn Vương Nghi Dân (là anh
vua Nhân Tông, người bị Thái Tông tước ngôi Đông cung Thái tử) đang đêm bắc
thang vào tận cung cấm giết vua và Tuyên từ Hoàng thái hậu (Nguyễn Thị Anh) rồi
tự lên làm vua. Nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt
xướng nghĩa lật đổ, tôn người con thứ tư (và cũng là út) của Thái Tông tên là Tư
Thành lên ngôi vua, với hiệu là Thánh Tông. Nghi Dân bị giáng xuống tước hầu.
Lê Thánh Tông là
một ông vua sáng, hiền; có bản lĩnh. Người đương thời nhận xét: vua tựa trời
cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, mà thánh
học rất chăm, tay không lúc nào rời quyển sách; các sách kinh sử, lịch toán, các
việc thánh thần, cái gì cũng tinh thông; văn thơ thì hay hơn cả các quan văn học.
Ông là vị vua rất có ý thức về trách nhiệm của mình đối với đất nước. Ông từng
viết:
“Lòng vì thiên hạ
những sơ âu
Thay việc trời dám
trễ đâu
Trống dời canh còn
sách
Chiêng xế bóng chưa
thôi chầu”
Ông cũng từng nói:
“Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người
nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ, làm mồi cho giặc thì người đó
sẽ bị trừng trị nặng”
Nhờ đó mà dưới
thời trị vì của Thánh Tông, quốc gia Đại Việt đã đạt được sự phát triển rực rỡ
về mọi mặt.
Chính vua Lê Thánh
Tông đã xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi sau 20 năm bị hại, truy phong ông
là Thái sư Tuệ Quốc Công, ra lệnh sưu tầm thơ văn của Ức Trai (hơn 100 bài thơ được
tìm thấy trong thời gian này); cấp cho con cháu còn sống sót của Nguyễn Trãi
100 mẫu ruộng để dùng vào việc thờ cúng vị đại khai quốc công thần. Trong khúc
“Quỳnh uyển ca”, nhà vua viết:
“Ức Trai tâm thượng
quang khuê tảo”
(Lòng Ức Trai sáng
như sao khuê)
Có một tình tiết
thế này:
Người vợ cả của
Nguyễn Trãi là Trần Thị Thành. Bà sinh được ba con trai. Người đầu tiên là Nguyễn
Khuê, cùng bị giết theo cha. Người thứ hai là Nguyễn Ứng, cùng hai con trai chạy
thoát lên vùng Đoan Hùng (Vĩnh Phú), rồi lên Lai Châu, đổi qua họ Ngạc, đến nay
chưa rõ tung tích. Người thứ ba là Nguyễn Phú, chạy thoát lên Thái Nguyên, rồi
lên phía Cao Bằng, dựa vào dòng họ Bế Khắc Triệu, dân tộc Tày, sau yên ổn mới
trở về Gia Miêu ngoại trang ở Trung Sơn (Thanh Hóa). Nguyễn Công Duẩn có con
trai là Nguyễn Đức Trung làm quan, giữ chức Điện Tiền Chỉ Huy sứ thời Lê Thánh
Tông. Con gái Nguyễn Đức Trung là Nguyễn Thị Hằng về sau làm vợ Lê Thánh Tông,
trở thành Trường Lạc Hoàng Hậu. Người vợ thứ hai của Ức Trai họ Phùng (không rõ
tên) sinh được hai trai là Bản và Tích, hai gái là Trà và Lương. Cho đến nay cũng
không rõ thân phận họ như thế nào, có bị giết trong vụ án Lệ Chi Viên hay không?
Người vợ thứ ba là Phạm Thị Mận, thoát được, trốn nhiều nơi, sang cả Lào, sau
khi tình hình lắng ổn thì về Gia Miêu ngoại. Trong khi chạy trốn, bà đang có
mang, sau sinh ra Phạm Anh Vũ, được Lê Thánh Tông cho làm quan. Anh Vũ đi sứ
Trung Quốc, lúc về bị đắm thuyền, chết. Vua truy tặng tước Thái sư Sùng Quốc Công.
Chắc rằng Ức
Trai cũng đã thỏa nhẹ nỗi lòng mà thanh thản ngậm cười nơi chín suối!
Ông sẽ vui hơn
nữa khi biết rằng hậu thế đã tôn vinh ông là một đại anh hùng của Dân tộc Việt.
Nhận xét
Đăng nhận xét