THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
ĐẠI CHÚNG
----------------------------------------
PHẦN III
Nguồn cội
“Đừng
chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG VI:
MIỀN ĐẤT VÕ
“Nay con đã khôn lớn và có bản lĩnh hơn
người. Hãy xuống núi mà đem tài đức giúp đời giúp người. Con sống xứng đáng thì
thầy chết cũng yên lòng.”
(Hòa thượng- võ sư Thiện Hoa căn dặn đệ tử.
Thiện Tâm, người sau này là thượng tọa Thích Thiện Tánh - tức võ sư Mai Văn Phát)
“Càng sống, tôi càng nhận ra rằng học võ
không phải để múa hay, đánh giỏi, hạ nhanh và nhất là để có con rắn đen tự mãn
trong máu thịt, mà chính học võ cốt biến được con rắn đen xấu xí kia thành
“thanh gươm trí tuệ” chém tan bức màn vô minh, nhìn thấy được thực tướng của sự
vật. Môn võ tuyệt thế chính là môn võ để chiến thắng chính mình. Và đó cũng chính
là câu chuyện về thánh võ Kadgapa (một trong 84 vị thánh của Tây Tạng) khi người
đi tìm môn võ tuyệt thế trong thiên hạ”.
(Lời thổ lộ của nữ võ sư Phạm
Cô Gia, khi bà đã 90 tuổi)
Như đã hứa, chúng
ta sẽ kể một đôi dòng về võ nghệ và miền đất “con gái cũng biết múa roi đi quyền”.
Theo Wikipedia, Võ thuật nguyên gốc là vũ thuật. Võ là cách đọc trại đi của vũ để tránh húy thụy hiệu của chúa Nguyễn Phúc Khoát (hiệu Vũ Vương) ở Đàng Trong.
Tuy có thể đồng nhất "Võ" và "Võ thuật", nhưng thực ra hai khái niệm ít
nhiều vẫn có ranh giới. "Võ", nói chung, chỉ lối đánh nhau bằng tay
không hay binh khí, và đôi khi, nhằm chỉ một bộ môn đối lập với "văn";
còn "võ thuật" lại thiên về nghệ thuật vận động hơn. Theo đó võ thuật
đề cao phương pháp, cách thức, sự khéo léo, kĩ thuật, nghĩa là sự phát
huy toàn diện sức mạnh của con người để chiến thắng mọi địch thủ mà
không chỉ là những đối thủ trực diện trên sàn đấu. Bên cạnh các thuật
ngữ trên còn có thuật ngữ "Võ nghệ", vừa có nội hàm rất gần với thuật ngữ võ thuật, vừa mang ý nghĩa nghề nghiệp, khẳng định võ cũng là một nghề trong xã hội, nghề võ.
Hệ thống công phu võ thuật hợp thành "tứ đại công phu", gồm nội công, ngoại công, nhuyễn công và ngạnh công. Nội công là những
phương thức luyện tập bằng cách sự tập trung tối đa tâm ý khí lực theo
những phương thức đặc biệt nhằm phát huy các năng lực bí ẩn của con
người, khi luyện thành thì có thể dùng tĩnh chế động. Ngoại công là
các công phu luyện ngoại lực, có thể bao gồm trong nó cả nhuyễn công và ngạnh công, với các phương thức luyện tập các chiêu thức tấn công linh
hoạt, mạnh mẽ và từng phần cơ thể để phòng thủ hữu hiệu. Khi luyện đại
thành thì sức lực di hành khắp chân thân không bị ngăn trở, do đó muốn
vận dụng đến sức thì sức có ngay, thân thể cương cường, da thịt gân
xương đều cứng chắc, đến đao kiếm cũng khó bề gây thương tích. Nhuyễn công là
các công phu chuyên luyện lực âm, nhu lực, âm công, khi luyện đại thành
thì bề ngoài cơ thể không có biểu hiện gì của người biết võ (như tay
chân không sần sùi, cơ thể không cường tráng), nhưng lực đánh ra rất
nguy hiểm (nên nhiều khi được gọi là độc thủ).
Tương truyền, một số công
phu như nhất chỉ thiền công (luyện phóng một ngón tay), quan âm chưởng (luyện cạnh tay), tỉnh quyền công (luyện quyền bằng cách đấm tay xuống giếng) có thể đả thương người từ xa, nhu cốt công luyện khớp xương toàn thân mềm dẻo...Tương truyền ở Nhật Bản từ xa xưa lưu truyền một môn võ thuật có tên là "Bí thuật Nhu công". Người luyện tập nhìn bề ngoài có vẻ rất yếu đuối nhưng khi ra tay thì vô cùng tàn độc, nhất là những đòn đánh "Cầm nã thủ" lấy mạng người dễ dàng vô cùng. Các chiêu thức tung ra gần như chỉ để có một mục đích là lấy mạng đối phương mà thôi.
Vào đệ nhị thế chiến, môn võ thuật này nghe nói được phổ biến cho
các chiến sĩ trong những lực lượng cảm tử và sát thủ, nhưng sau này bị
cấm và mất đi tông tích bởi vì quá độc ác mà cho tới nay chưa ai rõ lý
do thất truyền, chỉ biết rằng một kẻ luyện tập môn võ này dù có thân thể
bệnh hoạn yếu ớt, một khi đã dốc lòng luyện tập đều có thể trở thành cỗ
máy giết người. Ngạnh công là các công phu chuyên luyện sức mạnh dương cương, dương lực, dương công, như thiết sa chưởng (chưởng tay sắt), thiết tảo trửu (chân quét), thiết tất cái (đầu gối).Trong đó phải kể tới các môn công phu của Thiếu Lâm rất đặc sắc như: thập tam thái bảo (thân thể cứng),thiết bố sam (thân cứng như sắt),đồng tử công
(cũng luyện thân thể)... Khi luyện đại thành thì tay chân người tập
chai sần, cứng như sắt, cơ thể tráng kiện, cơ bắp cuồn cuộn. Sức mạnh đòn đánh có được khi đòn tiếp xúc với cơ thể đối phương với uy lực khủng khiếp.
Môi trường tự
nhiên vừa ổn định tương đối vừa luôn bất ổn, vừa chuyển hóa có tính chu kỳ vừa
có lúc đột biến ngẫu nhiên, đã tạo ra khó khăn cho sự sống còn của sinh vật. Những
biểu hiện nhằm khẳng định sự có mặt, sự tồn tại của vạn vật ở thế giới vô sinh
biến thành sự cố gắng sống còn bản năng của muôn loài trong thế giới hữu sinh.
Sự cố gắng vượt qua khó khăn để sống còn không gì khác hơn là biến hóa thích
nghi. Sự biến hóa (hay tiến hóa) để thích nghi có tính đa phương chiều, đa dạng,
tùy vào trạng thái tiến hóa trước đó của sinh vật và mỗi giống loài sinh vật. Một
trong những cách thức tiến hóa thích nghi ở muông thú là hoàn thiện “kỹ năng
chiến đấu” để rình, vồ mồi, để chống trả tự vệ, trốn thoát “kẻ thù”, để đánh thắng
trong việc tranh giành “quyền lợi”. Những động tác tối ưu, mang lại hiệu quả
cao trong “chiến đấu” để sống còn, được lặp đi lặp lại, hun đúc lại, được “truyền
thụ” cho nhau, “bắt chước” nhau một cách trực quan, sau đó ổn định dần dần thành
bản năng, di truyền bằng con đường sinh học cho đời sau; không phải và cũng không
thể là tất cả, mà chỉ là những gì cô đọng nhất, “tinh hoa” nhất. Ở muông thú đã
thấp thoáng, dù lờ mờ, hình bóng của võ nghệ.
Sống trong thiên
nhiên hoang dã đầy bất trắc, ở loài người cũng xảy ra quá trình hoàn thiện, “kỹ
năng chiến đấu” như thế. Và hơn thế nữa, vì loài người biết suy nghĩ, cho nên
quá trình ấy được xúc tiến ngày một nhanh và mạnh mẽ từ từ phát lên tự giác, chủ
động học hỏi từ thiên nhiên hoang dã và sáng tạo ra thêm “chiêu thức” mới, chưa
từng có. Lúc đầu, cũng như muông thú, con người cũng chỉ biết chiến đấu bằng
tay không, bằng chân, bằng răng… nhưng từ khi biết cầm khúc cây, hòn đá để làm
công cụ kiếm ăn thì cũng là khi con người bắt đầu biết “chiến đấu” bằng vũ khí.
Có thể nói võ
thuật đã được nung nấu, phôi thai từ những ngày đầu biết suy nghĩ của loài người.
Nó được hun đúc hoàn thiện dần thành những kỹ năng chiến đấu có tính tương đối ổn
định để truyền thụ cho đời sau bằng con đường chủ yếu là dạy và học. Chúng ta
cho rằng sự truyền thụ cho đời sau, thông qua con đường di truyền sinh học, là
có mức độ giới hạn. Đến hạn độ đó, khi mà số lượng cũng như độ phức tạp của thông
tin cần truyền thụ đã vượt quá khả năng của phương thức di truyền sinh học (hoặc
đòi hỏi phải có một thời gian di truyền quá lâu, không phù hợp với mục đích của
di truyền, hoặc nói đúng hơn là không đáp ứng được yêu cầu của thích nghi và trở
nên phi đạo lý) thì sự truyền thụ sẽ chuyển sang phương thức chủ động là dạy và
học một cách tự giác, và để có được như thế thì sự tiến hóa thích nghi sẽ phải
làm xuất hiện ra sự suy nghĩ làm tiền đề cho nhận thức ở loài người. Tuy nhiên,
sự di truyền sinh học vẫn âm thầm làm công
việc của nó và ở mức độ nhất định, thứ yếu, nó vẫn tác động đến quá trình truyền
thụ các kỹ năng cho đời sau, thể hiện ra dưới dạng làm xuất hiện những năng khiếu,
những đứa bé thần đồng, những thiên tài (theo luật tính trội, tính lặn?). Sự
truyền thụ kỹ năng rất có thể còn một con đường đặc biệt nữa, đó là truyền thụ
tâm linh chẳng hạn như thần giao cách cảm, nhập hồn…
Có
thể nói võ
nghệ được hình thành ở loài người có nguồn gốc từ tự nhiên, là kết quả
của quá
trình học hỏi thiên nhiên, rút kinh nghiệm từ thực tiễn và sáng tạo nhằm
ngày một
nâng cao khả năng, kỹ năng chiến đấu với mục đích nguyên thủy là tự vệ
để sống
còn trong môi trường thiên nhiên hoang dã cũng như trong xã hội còn đầy
thú tính và đã bắt đầu xuất hiện những hành vi, thủ đoạn (tạm gọi chung
là nhân tính).
Kỹ năng chiến đấu
để tự vệ hay võ nghệ được chính thức đúc kết thành bài học hoàn chỉnh, xuất hiện
lần đầu tiên ở đâu trên thế giới? Chúng ta khó mà biết được. Chỉ biết rằng, võ
nghệ được truyền thụ như những bài học đích thực, đã có từ rất sớm. Ngày nay võ
nghệ đã có mặt khắp nơi trên thế giới với sự đa dạng, phong phú của nó và mục đích
của việc học võ nghệ cũng được mở rộng ra rất nhiều, về phía ngày một lành mạnh
hóa (trước súng đạn, mục đích của võ nghệ đã phải lui bước xuống hàng thứ yếu!).
Có một điều cũng hầu như chắc chắn: võ nghệ xuất hiện lần đầu tiên như một hiện
tượng nổi bật là ở phương Đông và rất có thể là tại nơi cội nguồn của văn minh
nhân loại, trên Đại Lục Mẫu, dưới chân núi Tu Di huyền thoại.
Thế giới võ nghệ
cũng mênh mông như đại dương, truyện kể về võ thuật cũng nhiều như sao trên trời.
Chúng ta là những kẻ được gọi là đi nhiều thấy nhiều và cũng đã tích cóp không ít
những câu chuyện võ nghệ. Nhưng thực chẳng đáng là bao! Tuy nhiên chúng ta có cố
nhớ lại, sắp xếp lại để kể ra đây. Vui là chính mà!
Các nhà nghiên
cứu võ nghệ thấy rằng trong loại chữ tượng hình cách nay 6000 năm của Ai Cập cổ
đại, đã phác họa những động tác của binh sĩ các Pharaon (vua Ai Cập) đang đấu
quyền với những chiếc găng tay quấn bằng da. Thủy tổ của môn quyền Anh ngày nay
có lẽ xuất phát từ đó. Các võ sĩ châu Phi thời cổ khi giao đấu không chỉ quấn
da và vải quanh nắm tay như võ sĩ Ai Cập, họ quấn trọn cả cánh tay lên đến tận
cùi chỏ. Ngày xưa các trận đấu không phân hiệp mà cũng chẳng phân hạng theo cân
nặng của võ sĩ. Đôi bên cứ đấu cho đến khi một bên bị hạ gục (đo ván) hoặc chịu
thua. Trường hợp cả hai đều kiệt sức thì phải bốc thăm. Người may mắn sẽ được đấm
trước. Người kia phải đứng yên để chịu quả thôi sơn, nếu không bị đánh gục sẽ được
đấm lại người kia bằng một quả như thế. Ai đo ván sẽ thua cuộc.
Những hình vẽ tìm
thấy trên vách mồ tại làng Beni Hasan ở miền trung Ai Cập chứng minh rằng hơn
5000 năm trước đây, người Ai Cập cổ đại cũng đã sử dụng những thế kẹp thông thường
mà ngày nay các nhà đô vật vẫn dùng.
Từ Ai cập, võ
thuật lan truyền sang Hy Lạp theo ngả Créte. Sử liệu chứng tỏ môn võ vật đã là
một phần quan trọng trong những ngày lễ hội của thời Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên
phải đợi đến khi hình thức tranh tài Thế Vận Hội (Olympic) thành hình thì võ
thuật mới được phổ biến khắp đất nước Hy Lạp. Vô địch quyền thuật đầu tiên là một
người Hy Lạp tên là Onomastus (688 TCN). Trận tranh tài quyền thuật thiếu niên được
tổ chức lần đầu tiên ở kỳ Thế Vận Hội thứ 41 (616 TCN). Sau này các đoàn quân
viễn chinh của đế quốc La Mã mới đưa quyền thuật của mình đến khắp các nước phương
Tây.
Nhắc đến đô vật
thời xưa, người ta không thể bỏ qua cái tên Milo
ở Crôtona, một tay đô vật cừ khôi vừa giỏi cả quyền thuật lẫn võ tự do của Hy Lạp.
Milo đã là đô vật vô địch thế giới trong suốt 24 năm liền, giữ vững chức vô địch
qua 6 kỳ Thế Vận Hội liên tiếp. Khi còn bé, Milo
có lần vác một con bê con lên vai và ngày nào cũng vác đi rong như thế mãi cho đến
khi con bê con lớn thành con bò mộng…
Trong khi các võ phái tại các nước châu Á khác (Nhật Bản, Việt Nam v.v.)
thường thừa nhận ảnh hưởng từ võ thuật Trung Hoa, thì giới võ lâm Trung
Hoa lại thừa nhận môn võ thuật của mình nguyên khởi từ Ấn Độ.
Ở Ấn Độ, có một
môn võ cổ truyền từ rất lâu đời, có tên gọi là Kalaripayattu
. Kalaripayattu được thiết kế cho chiến trường cổ đại (từ "Kalari" có nghĩa là "chiến trường"), với vũ khí và kỹ thuật chiến đấu đặc trưng của Ấn Độ.
Một số nhà sử học tin rằng các kỹ thuật chiến đấu của thời kỳ Sangam là tiền thân sớm nhất của Kalaripayattu. Mỗi chiến binh trong thời đại Sangam đều được huấn luyện quân sự thường xuyên về thực hành mục tiêu, cưỡi ngựa và cưỡi voi. Họ chuyên về một hoặc nhiều vũ khí quan trọng của thời kỳ này bao gồm giáo ( vel ), kiếm ( val ), khiên ( kedaham ) và cung tên ( vil ambu ). Các giả thuyết khác cho rằng một số nhóm bộ lạc sinh sống ở Kerala cổ đại đã thành lập Kalaripayattu để tự vệ trước các mối đe dọa từ các nhóm tương tự.
Kalaripayattu, còn được gọi đơn giản là Kalari, là một môn võ thuật của Ấn Độ. Kalaripayattu được biết đến với lịch sử lâu đời trong võ thuật Ấn Độ. Đây được cho là môn võ thuật lâu đời nhất còn tồn tại ở Ấn Độ, với lịch sử kéo dài hơn 3.000 năm.. Một môn võ
nguyên thủy được cho là môn võ khởi nguyên của võ thuật châu Á. Quê hương môn võ Kalari
là ở bang Kêrala, nơi cao nguyên Đêcan, tiếp giáp với biển. Từ nơi đó môn võ
Kalari phát triển và lan tỏa ra khắp Ấn Độ. Theo truyền thuyết thì võ Kalari có
nguồn gốc từ Kalaripayat, nghĩa là binh thư đồ trận của nữ thần chiến tranh
Mahakali của Ấn Độ. Nó được hệ thống hóa một cách có bài bản thành quyền phổ
Sutra (kinh truyền khẩu có vần điệu, tương tự như Kinh Vê đa, kinh Upanisad…) từ
cách đây đã hơn 3000 năm. Thường thì các võ sư Kalari thời cổ đại đều là những
bậc minh triết, trong đó người đời sau cho rằng có Bồ Đề Lạt Ma.
Võ Kalari được
truyền dạy và rèn luyện trong các ngôi đền thờ Tổ sư nữ thần Mahakali bởi các võ
sư bậc thầy. Quyền pháp Kalari được diễn uyển chuyển, mềm mại như múa, gợi nhớ
những động tác trong lúc thực hành nghi lễ thờ phụng. Tuy nhiên, trong chiến đấu,
nó tỏ ra cực kỳ công hiệu. Về công phu nội, ngoại công, các võ sĩ Kalari trình độ
cao có thể biểu diễn đi chân không trên than hồng, nằm lưng trần trên mảnh chai
vỡ, nằm cho ô tô chạy qua tấm ván đặt ở bụng, dùng kìm kẹp vào các cơ bắp mà không
hề hấn… Có những kỳ tích như võ sư Rummuati dùng ngực đỡ nguyên một con voi, võ
sư Xixila biểu diễn khí công tĩnh tọa hoa sen lơ lửng trên không với chỉ một
tay níu nhẹ sợi dây mảnh bện từ đay mà hai đầu cột vào hai cây sào trồng thẳng đứng.
Võ Kalari cũng sử dụng các loại binh khí như đao, kiếm, gậy… Gậy ngắn, gọi là
Silam ban rất được ưa chuộng vì đó là thứ binh khí dễ kiếm, tấn công hoặc tự vệ
đều hữu hiệu. các cao thủ múa Silamban kín đến mức cách xa chừng ba thước, ném
gạch đá cũng khó lọt trúng người. Ngoài ra còn có loại vũ khí đặc thù gọi là
Onta, hình thù như ngà voi, dùng để điểm huyệt. Ngay chiếc khăn quàng cổ, đội đầu,
dùng lau mồ hôi cũng trở thành vũ khí lợi hại.
Một bộ phận không
thể tách rời trong môn võ Kalari nói riêng cũng như của võ học phương Đông nói
chung là “y võ”. Y võ là kiến thức về các vị trí huyệt đạo trong cơ thể người mà
khi tác động vào đó có thể đả thương ngay, tiêu diệt đối phương hoặc chữa lành
chấn thương, chữa bệnh tật mà không cần thuốc thang; là những bài thuốc có từ cây
lá thiên nhiên cũng nhằm mục đích chữa trị cứu người… Trong quyền phổ Sutra, có
mô tả vị trí, chức năng của 108 huyệt đạo trên cơ thể con người, gồm 96 yếu huyệt
khi bị tác động vào sẽ gây thương tích trầm trọng hay liệt bại, 12 hiểm huyệt
khi bị tác động sẽ gây tử vong.
Người Anh khi đến
xâm chiếm Ấn Độ, biết được sự lợi hại của môn võ truyền thống này của người bản
địa và cũng muốn thủ tiêu tinh thần thượng võ, niềm tự hào dân tộc của người Ấn,
nên đã ra lệnh cấm phổ biến, truyền dạy môn võ này. Năm 1804, người Anh cấm Kalaripayattu ở Kerala để đối phó với Chiến tranh Kottayathu, một cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của người Anh ở Kerala
do vua Keralite là Pazhassi Raja lãnh đạo. Lệnh cấm có hiệu lực ngay
sau cái chết của Pazhassi Raja vào ngày 30 tháng 11 năm 1805, dẫn đến
việc đóng cửa hầu hết các sân tập kalari lớn ở Kerala.
Sau lệnh cấm, nhiều giáo viên Keralite ở Kalaripayattu đã chống lại
lệnh cấm và tiếp tục bí mật dạy Kalaripayattu cho học sinh của họ.
Thế nhưng cũng như ở tất cả
các nước Châu Á có nền võ thuật cổ truyền khác, môn võ Kalari rút vào bốn bức
thường của gia đình, dòng họ và tiếp tục được truyền dạy theo kiểu cha truyền
con nối. Mãi đến năm 1920, môn võ Kalari mới thực sự được phổ biến trở lại, tạo
nên một làn sóng phục hưng khắp Ấn Độ, đặc biệt là ở miền Nam. Có một người rất nổi tiếng
trong giới võ học Ấn Độ những năm 90 của thế kỷ XX, đó là Belyram Nait, chưởng
môn phái Kalari (nhiều sách cũng gọi là Kalaripayat). Ông đã nhiều lần đi biểu
diễn ở nước ngoài và được khán giả thán phục.
Có một nhân vật
tên là Jeet Singh, năm 21 tuổi, sang định cư ở Mỹ. Dân ghiền xem đô vật ở đây vô
cùng thích thú và trầm trồ khen ngợi một võ sĩ thượng đài với cái tên lạ hoắc,
nhưng to khỏe, có những chiêu thức lạ mắt, rất linh hoạt, dũng mãnh. Họ liền đặt
cho anh chàng một biệt danh là “Mãnh hổ” (Tiger). Đến khi báo chí tiết lộ, mọi
người mới biết Jeet Singh là vô địch đô vật toàn Ấn Độ trước khi sang Mỹ thi thố.
Người ta còn biết Jeet Singh chính là con một đại đệ tử của Belgram Nair, được
huấn luyện từ năm mới lên 6 tuổi. Khi 17 tuổi, Jeet Singh chuyển sang luyện đô
vật theo kiểu Mỹ (Wrestling) mà ở Ấn Độ thời bấy giờ cũng rất ưa chuộng. Chính
nhờ có căn bản võ Kalarima mà Singh đã nhanh chóng đạt trình độ cao trong võ vật.
Ernie Ladd là một đô vật Mỹ thuộc loại khổng lồ (cao 2m, nguyên là cựu cầu thủ
bóng chày), đã từng là sát tinh của nhiều võ sĩ lừng danh, vậy mà khi đụng độ với
Jeet Singh ở Buffalo, đã phải chịu thua. Với những đòn lạ của Singh, Ladd đã hết
đường chống trả! Về sau, có lần Singh thổ lộ: “Những thế võ tôi áp dụng trong đô
vật là đòn thế của các kiếm sĩ Kalaripayat…”
Trung Hoa là đất
nước có nền võ học cổ truyền hết sức rực rỡ. Xét về mặt lịch sử thì nền võ học đó
cũng đã có từ lâu đời, xâm nhập mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc đến hầu hết các nền
võ học cổ truyền của các nước phương Đông khác, thậm chí là nguồn gốc cốt lõi của
không ít nền võ học cổ truyền đó, chẳng hạn như của Triều Tiên, Nhật Bản…
Ngày nay, qua
quan sát võ thuật Thiếu Lâm Trung Hoa và võ thuật Kalari Ấn Độ, thấy giữa hai môn
võ này có nhiều động tác chân tay, đòn thế giống nhau, nên nhiều nhà nghiên cứu
võ học cho rằng có thể võ học Trung Hoa thời sơ khai bắt nguồn từ võ Kalari Ấn Độ.
Điều này có thể đúng, nhưng chỉ đúng một phần, vì sự giống nhau ấy cũng có thể
là môn võ Kalari đã học hỏi trở lại từ nền võ học Trung Hoa trong suốt hàng ngàn
năm giao lưu.
Tương truyền rằng
Bồ Đề Lạt Ma, vị sư tổ đời thứ 28 của Phật giáo Ấn Độ là người đã sang Trung Quốc
truyền giáo và lập nên phái Thiền tông (người Nhật gọi là Zen), ảnh hưởng sâu
xa đến toàn bộ tư tưởng Phật giáo Phương Đông.
Vào năm 495, hoàng
đế Hiếu Văn đã cho xây dựng ngôi chùa tại vùng núi Trung Sơn, Trung tâm Trung
Hoa, đặt tên là Thiếu Lâm (Thiếu Lâm Tự). Người trụ trì chùa Thiếu Lâm đầu tiên
là một vị sư gốc Ấn, tên là Bạt Đà (người Trung Hoa gọi là Phật Đà). Ông này có
vẻ mặt vui vẻ, thân hình mập mạp. Khoảng phần tư thể kỷ sau, Bồ Đề Lạt Ma đến
trụ trì tại đây, giảng dạy Phật pháp và đề xướng ra phái Thiền Tông. Để đảm bảo
sức khỏe cho các vị sư ở đây trong quá trình tụ tập, thiền định, chịu đựng được
điều kiện thời tiết, khí hậu những lúc khắc nghiệt, Bồ Đề Lạt Ma đã truyền dạy
cả môn võ Kalari và kỹ thuật luyện khí (hít thở) tăng cường sức đề kháng cho các
đệ tử.
Kỹ thuật luyện khí ấy, Bồ Đề Lạt Ma rút tỉa từ đâu? Từ môn Yoga chăng?
Thế còn Yoga? Theo một cuốn sách thì Yoga có nguồn gốc chìm sâu trong buổi tối
sơ của đất nước Ấn Độ, vào khoảng 4000 năm trước Công Nguyên, tức là trước khi
có cuộc xâm nhập của người Aryen vào tây - bắc nước Đông Á này, thuộc vùng
Penjab, thượng lưu sông Indus. Yoga là phương pháp rèn luyện tâm - thân bằng kỹ
thuật thở (điều tức) cùng với kỹ thuật chế ngự ý nghĩ (điều tâm), kết hợp với
những động tác chân tay, tư thế thân thể (điều thân), nhằm tăng cường sức đề kháng
ẩn chứa tiềm tàng trong con người, để từ đó có thể thích nghi được với những khắc
nghiệt của môi trường, điều trị bệnh tật, sống khỏe sống vui. Về sau, Yoga còn được
sử dụng như phương pháp khổ luyện để làm hình thành nên những công năng đặc dị ở
con người (và thực tiễn đã chứng tỏ nó thực sự có khả năng đó), để đưa tâm thần
lên trạng thái tỉnh thức cao độ mà thấu tỏ chân lý (?). Hay có thể nói rằng phương
châm của rèn luyện Yoga là trừu xuất bản thân mình ra ngoài thế tục để nối
liền, để liên kết, để hợp nhất con người với vũ trụ, để tìm lại sự quân bình
trong chính nó, nghĩa là hướng tinh thần về phía nội tâm, thay vì để nó bị cuốn
hút về phía ngoại giới, tập trung và phóng xuất tất cả năng lượng hàm chứa
trong nó lên chính nó (lên từng bộ phận của nó), để nó học biết được cái bản chất
đặc hữu của nó, phát hiện được cái bí mật thầm kín nhất, sâu xa nhất, ẩn dấu nhất
của nó; để thẩm thấu đến tận cùng tâm thức nó mà tự nó chiêm nghiệm, kiến nhận
ra chân lý thực sự là chân lý (không bị sự nhiễu loạn của ngoại giới làm cho mê
lầm, che khuất!).
Đức Phật Thích Ca, dựa trên nền tảng của phương pháp rèn luyện
Yoga, đã cải cách thành phương pháp tu thiền - nhập định trong việc tiếp cận,
giác ngộ chân lý nhà Phật (về vấn đề này, chúng ta có ý kiến khác, nhưng nếu có
điều kiện, sẽ trình bày sau hoặc cũng có thể là không bao giờ vì… không đủ thời
gian!). Cũng có thể xem Yoga như là kỹ thuật nhập thần (entase), (khác với phép
xuất thần (extase) của người lên đồng với những cơn co giật cơ thể…), tức là
thu hút tinh thần trở lại bản thân nó, lấy chính nó làm đối tượng chiêm nghiệm
tiếp xúc của nó (nghe khó hiểu thế nhưng thực ra đó là sự hàm chứa cái tư tưởng
siêu phàm “vô vi vô bất vi” của Lão Tử!).
Võ thuật có nguồn
gốc từ thiên nhiên hoang dã và buổi đầu là nhờ học hỏi thiên nhiên hoang dã. Một
trong những yếu tố cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và phát triển võ học
phương Đông cổ truyền là bắt chước những động tác của muông thú trong hoạt động
sinh tồn của chúng, phỏng theo những động tác, những hành động ấy mà nghiền ngẫm,
rút tỉa, sáng tạo thành những động tác, chiêu thức, đòn thế, bài quyền cước chiến
đấu đầy hiệu quả trong thực tiễn áp dụng.
Trong thời gian
vị tổ sư Bồ Đề Đạt Ma trụ trì, truyền thụ võ thuật và khí công, tại chùa Thiếu
Lâm dần xuất hiện những yếu tố đầu tiên, làm cơ sở cho nền võ học Trung Hoa sau
này, được gọi là Thiếu Lâm quyền pháp cổ thức. Những cơ sở võ học và khí công đầu
tiên đó ngày một được nghiên cứu sâu rộng, nhanh chóng phát triển thành một hệ
thống quyền pháp - võ thuật hoàn chỉnh mang tên Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hành Quyền
(khí công đã phát triển song đôi với võ thuật, trở thành bộ phận trọng yếu, không
thể thiếu được trong võ học Trung Hoa, làm nên cái thần diệu của võ thuật Trung
Hoa). Chúng ta cho rằng Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hành Quyền chính là nền móng võ học
Trung Hoa ngày nay.
Nguồn gốc xuất
xứ võ thuật Ngũ Hành Quyền có hai truyền thuyết. Truyền thuyết thứ nhất: tương
truyền Bồ Đề Đạt Ma thấy dân Trung Quốc bấy giờ có tập luyện Ngũ Cầm Hí (năm loài
cầm thú: gấu, hạc, hổ, nai, vượn), mới theo đó cải biên, kết hợp với võ thuật
hiện có mà thành. Nhiều người nghiên cứu lịch sử võ học cho rằng truyền thuyết
thứ hai có tính thuyết phục hơn.
Cuối đời Tống, một công tử đất Nghiêm Châu xuống
tóc tu học ở chùa Thiếu Lâm với pháp danh Giác Viễn Thượng Nhân. Bình sinh vốn đam
mê võ thuật, nhận thấy học võ công ở chùa chưa đủ, bèn xuống núi tầm sư học thêm
trong dân gian. Vị này gặp được một danh sư tại Lan Châu, đất Thiểm Tây tên là
Lý Tẩu, học một thời gian lại được Lý Tẩu giới thiệu đến Lạc Dương thọ giáo
danh sư khác tên là Bạch Ngọc Phong. Về sau, sư Giác Viễn vời cả hai người Lý Tẩu
và Bạch Ngọc Phong về chùa Thiếu Lâm để truyền thụ tuyệt kỹ công phu (kungphu)
cho sư tăng. Bạch Ngọc Phong trở thành đại sư của chùa Thiếu Lâm và chính trong
thời gian này Bạch Ngọc Phong đã hệ thống hóa võ thuật, đúc kết thành Ngũ Hành
Quyền (võ thuật mang hình tượng năm con thú: long, xà, hổ, báo, hạc). Trong lịch
sử của chùa này còn ghi lời dạy của đại sư Bạch Ngọc Phong: “Tinh lực khí cốt của
con người tích tụ theo thể ngũ hình: Long luyện thần, hổ luyện cốt, báo luyện lực,
xà luyện khí, hạc luyện tinh. Con người phải hằng tâm tu luyện cho năm hình
giao thoa hòa nhập mới đạt được thượng thừa thần hóa”.
Nhưng Ngũ Cầm Hí
là một bài luyện võ công hay là cái gì? Chúng ta đều biết Hoa Đà là một danh y
thời Tam Quốc, người Đông Hán, ở đất Tiều Quân, nước Bái (tức Nguyên Hóa). Ông
nổi tiếng về nghề bốc thuốc, thuật châm cứu… trị bệnh cứu người. Sách “Tam Quốc
chí” có ghi: “Hoa Đà có thuật vận khí hô hấp để chữa bệnh”. Thuật đó chính là
Ngũ Cầm Hí công pháp. Như vậy Ngũ Cầm Hí là phương pháp luyện thở (điều tức) kết
hợp với vận động thân thể (điều thân) để có sức khỏe tốt phòng chống bệnh tật và
cũng là biện pháp trị liệu chữa bệnh.
Ngũ Cầm Hí đã được
lưu truyền phổ biến trong dân gian từ rất lâu, đến hàng ngàn năm, nên nó cũng có
nhiều dị bản. Các bản đó có những nét khác nhau nhưng tựu trung thì vẫn đồng nhất
về nội dung cốt yếu, lấy ý dẫn khí thông qua các động tác thân thể tay chân.
Tuy nhiên, người ta cho rằng bản giống nhất với Ngũ Cầm Hí công pháp của Hoa Đà
là bản đời Nam Bắc Triều trong sách “Dưỡng tính điều mệnh lục” của Đào Hoằng Cảnh,
được trước tác sau Hoa Đà 300 năm.
Có sách nói thuật
Ngũ Cầm Hí là sáng tạo của Hoa Đà, nhưng cũng có những sách khác, khi bàn về dưỡng
sinh lại nói nó có trước thời Hoa Đà, là sáng tạo của những hiền triết lập nên
phái Đạo gia, thậm chí là có trước cả thời Lão Tử. Không biết thuyết nào đúng,
nhưng chắc chắn rằng Ngũ Cầm Hí nếu là của Hoa Đà thì ít ra cũng phải có một tiền
thân ở thời Tiên Tần và sự luyện thở (điều tức) dưới những dạng thức sơ khai sẽ
còn sớm hơn nữa, rất sâu về phía cội nguồn.
Ai đã từ đọc
“Tam Quốc chí” đều biết câu chuyện Hoa Đà chữa cánh tay bị thương do tên độc bắn
trúng của Quan Công, một danh tướng thời đó. Một thời gian sau khi chữa lành vết
thương cho Quan Công, Hoa Đà được Tào Tháo, vì nghe danh tiếng, vời đến chữa bệnh
cho mình. Bệnh của Tào Tháo là đau đầu dữ dội sau khi đến Đàm Dược Long cho đốn
cây (trong đó có cây lê thần!) để xây dựng điện Kiến Thủy. Chỉ vì quá đa nghi,
nghĩ Hoa Đà định lợi dụng việc chữa trị để giết mình mà Tào Tháo đã ra tay sát
hại một thần y. Trong khi Hoa Đà bị giam cầm ở cấm ngục, có người coi ngục tên
là Ngô Áp Ngục vẫn hàng ngày lén mang rượu thịt vào thết đãi. Hoa Đà vô cùng cảm
kích, biết mình trước sau cũng chết, liền nói với coi ngục họ Ngô:
- Ta sắp chết đến
nơi, chỉ tiếc bộ sách Thanh Nang chưa truyền lại cho đời. Hậu tình của ông, chẳng
biết lấy gì báo đáp. vậy tôi viết một bức thư để ông trao lại cho vợ tôi ở nhà.
Vợ tôi sẽ đưa ông bộ sách ấy, coi như tôi tặng ông để ông nối lấy nghề thuốc.
Ngô Áp Ngục mừng
rỡ nói:
- Nếu được bộ sách
Thanh Nang, tôi sẽ bỏ đây, đi khắp thiên hạ chữa bệnh giúp người, để truyền cái
đức của tiên sinh.
Mười ngày sau
Hoa Đà chết. Ngô Áp Ngục mua quan tài về khâm liệm, đem mai táng tử tế rồi bỏ
việc, y lời Hoa Đà dặn, nhận được bộ sách Thanh Nang. Học chưa kịp nghề thuốc
thì một hôm về đến cổng nhà thấy vợ đang đốt bộ sách. Ngô Áp Ngục thất kinh, chạy
vào dập lửa thì bộ sách đã cháy gần hết, chỉ còn vài trang. Họ Ngô mắng vợ thì
vợ đáp:
- Mình có học được
nghề thuốc giỏi như Hoa Đà rồi cũng đến chết trong ngục thất, quí báu gì thứ sách
này mà giữ!
Do vậy, toàn bộ
kinh nghiệm y thuật của Hoa Đà đã bị mai một. Rất may trong vài trang còn sót lại
đó, còn nguyên phần chỉ dạy về phương pháp luyện khí công Ngũ Cầm Hí.
Trong mục “Nghệ
Văn Chí” của sách “Hán Thư”, phần “Phương Thuật liệt truyện” có ghi lời Hoa Đà:
“Con người vốn ham muốn vận động nhưng chớ quá sức. Có vận động thì khí cốc mới
trao đổi, máu huyết mới lưu thông, bệnh tật nhờ thế mới không dễ dàng xâm nhập,
như bản lề của cánh cửa thường xuyên đóng mở, không kẹt rít vậy. Cho nên bậc thần
tiên ví vận động như hình ảnh con gấu uốn vặn mình mẩy để được mạnh khỏe. Nay
ta có thuật Ngũ Cầm Hí gồm một là gấu, hai là hạc, ba là nai, bốn là hổ, năm là
vượn. Bắt chước năm con này mà độ dẫn, sẽ tiêu trừ mọi bệnh tật, tay chân lại
thêm linh hoạt nữa. Nếu thấy trong người phần nào không khỏe, có thể lựa lấy
con thú hoặc cầm thích hợp mà tập luyện theo, đến đổ mồ hôi. Tập xong sẽ thấy
người nhẹ nhàng khoan khoái và có khi còn thèm ăn nữa. Tập đều đặn liên tục,
cho dù tới tuổi 90 thì người vẫn khỏe, tai mắt vẫn tinh tường, răng lợi vẫn y
nguyên”.
Ngày nay, các
nhà khí công dưỡng sinh đã giảng giải như sau về công dụng của phương pháp rèn
luyện thân thể theo thuật Ngũ Cầm Hí:
- Gấu là biểu tượng
hồn hậu, yên lắng của tâm hồn. Trông bề ngoài có vẻ phục phịch, nặng nề, nhưng
thực ra gấu vận động mềm mại, xoay sở linh lợi. Bắt chước gấu rùng mình và đưa đẩy,
ta luyện sự thâm hậu của nội lực. Trong lúc làm các động tác, ta vận động được
toàn thân, vận kình rung các cơ khớp của vai, tay, mông, háng, và cả chân. Vận động
theo loại hình gấu kết hợp nhịp nhàng với hơi thở có tác dụng trung hòa khí mạch,
tăng cường chức năng tì vị.
- Khi nói đến hạc,
chúng ta thường nghĩ tới sự nhẹ nhàng, bay bổng liệng đáp trong những bức tranh
thủy mặc, sự thanh thoát trong hình tượng hạc đứng một chân bên cội tùng, trên
lưng rùa, thường thấy trước bệ thờ ở đình chùa. Hạc tiêu biểu cho sự tĩnh mặc,
thanh thoát, nên khi luyện loại hình này, động tác không gò bó, nặng nề, cương
cơ mà trái lại là tinh thần an nhiên tự tại, dụng ý nhẹ nhàng. Ý nhẹ nhàng thì
khí không trì trệ, kinh mạch thông thoáng, khí huyết điều hòa.
- Nai là biểu tượng
của sự hồn nhiên. Nai tơ “ngơ ngác” giữa đồng cỏ, thanh thản uống nước bên bờ
suối, nhưng một tiếng động nhỏ cũng làm nó nghểnh cổ lắng nghe. Khi tập luyện
theo loại hình nai, toàn thân phải buông lỏng, thoải mái, thư giãn hoàn toàn thân
tâm. Các động tác kết hợp với nhịp thở trong loại hình này có tác dụng giãn gân
cốt, an thần.
- Hổ là biểu tượng
của sư uy nghi, dũng mãnh. Hổ là chúa sơn lâm, có trí tuệ và sức mạnh vô địch,
lúc động như vũ bão, lúc tĩnh như đêm trăng vắng lặng. Vì thế các động tác của
loại hình này trông mềm mại mà có kình lực “miên lí tàng kim” (bông gòn bọc thép).
Nếu dày công luyện tập sẽ tăng cường nội lực, tạo sự tự tin, loại bỏ những tư tưởng
yếu hèn.
- Trong cầm thú,
vượn được coi như tương cận với con người về nhiều mặt. Vượn khôn ngoan hơn nhiều
loài vật, có thể bắt chước người dễ dàng. Cho nên con vượn là biểu tượng của sự
khôn lanh. Vượn luôn táy máy, động đậy chân tay mình mẩy. Đó là biểu thị của “động”.
Nhưng trong động có tĩnh, có sự tỉnh táo của trí khôn để ứng phó kịp thời. Vượn
cũng như khỉ, là một loài khỉ, có tiếng lanh lợi. Động tác của loại hình này gọn
gàng, có tác dụng làm cho thần kinh minh mẫn, thân thể tứ chi linh hoạt, khai
thông huyết mạch, thần thái tươi tắn, lạc quan.
Trên cơ sở nền
móng Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hình Quyền, cũng như sự xuất hiện của nó đóng vai trò
kích thích như chất xúc tác, nền võ học Trung Hoa đã có những bước phát triển
nhanh chóng, mạnh mẽ và rộng khắp với đủ các trường phái, môn phái, đủ các cách
thức tu luyện công pháp, quyền cước, binh khí, phong phú về nội dung và đa dạng
về chiêu thức, đòn thế. Sau này, thường khi bàn về võ học Trung Hoa, người ta
chia ra thành hai nhánh lớn là Nam
phái và Bắc phái hoặc Nội gia quyền và Ngoại gia quyền. Sự phân chia đó chỉ là
tương đối vì sự phát triển của võ học là học hỏi, giao lưu, lan tỏa, đan xen
nhau.
Thiếu Lâm
Kungfu Ngũ Hình Quyền vẫn tiếp tục sự phát triển của nó và trong sự phát triển
sôi động của nền võ học Trung Hoa nói chung, nó dần chỉ còn đóng vai trò như một
trong nhiều môn phái võ thuật của đất nước Trung Hoa. Nhưng dù có thế nào chăng
nữa thì Thiếu Lâm Kungfu vẫn luôn được người đời ngợi ca là ngôi sao bắc đẩu trên
nền trời võ học Trung Hoa.
Chùa Thiếu Lâm,
với lịch sử bi hùng của nó; đã trở thành hiện tượng có một không hai: vừa là nơi
xuất phát của Thiền tông, phái Phật Giáo có ảnh hưởng bao trùm không riêng gì ở
đất nước Trung Hoa mà còn ở nhiều nước Đông Á, vừa là cái nôi của một nền võ học
lớn nhất thế giới và cũng vô cùng thâm hậu, nguồn gốc của không ít nền võ học
hiện tại ở các nước khác.
Vào thời cực thịnh
của mình, cách nay khoảng 1300 năm, chùa Thiếu Lâm có đến khoảng 1500 vị sư tăng
tụ tập, trong đó ít nhất có 500 vị được học võ nghệ đạt đến tuyệt luân. Hoàng đế
Thái Tông nhà Đường đã cho phép nhà chùa được truyền dạy võ học cho các sư tăng.
Điều này được ghi trên một bia ký còn lưu giữ được tại chùa Thiếu Lâm.
Được vậy là vì
khi đó, Trung Quốc bị rợ Bắc xâm lăng, các nhà sư đã đến tiếp cứu Hoàng đế. Họ
gồm 13 người và sau khi chiến thắng đều về lại chùa, tứ chối ân huệ của Hoàng Đế.
Hoàng Đế đã ban thưởng cho chùa Thiếu Lâm bằng cách đó. Khoảng gần một ngàn năm
sau, một vị Hoàng đế khác (có lẽ thuộc triều đại nhà Minh) lại cậy nhờ đến chùa
Thiếu Lâm. Khoảng 128 vị sư lên đường xông pha vì Hoàng đế. Chiến tranh kết thúc,
họ lại quay về chùa và cũng từ chối bổng lộc của Hoàng đế. Theo truyền thuyết
thì để tưởng thưởng, Hoàng đế đã ban cho chùa Thiếu Lâm một thanh kiếm báu, một
vòng cẩm thạch và một ngọc tỉ. Nghe nói ngọc tỉ này tượng trưng cho quyền lực Hoàng
Đế, nghĩa là khi trưng nó ra thì lời nói của kẻ sở hữu nó có quyền lực như mệnh
lệnh của Hoàng Đế.
Vài năm sau, quân
Mãn Thanh xâm lược đánh đổ triều đại nhà Minh, lập nên triều Thanh. Tỉnh Hồ Nam có
tri phủ mới. Tên này thèm muốn những báu vật mà tiên đế đã ban cho chùa, nhất là
viên ngọc tỉ, đã tìm mọi cách mong có được nhưng không thành, đâm thù oán, trình
tấu giả dối lên nhà vua. Vị Hoàng Đế trẻ tuổi lầm tưởng trong chùa có âm mưu gây
biến loạn bèn cho quân lính đến đàn áp. Quân triều đình, nhờ có một sư thoái hóa
bị đuổi khỏi chùa, tên là Mã Nhất Phu biết mọi ngóc ngách trong chùa, chỉ vẽ, đã
bao vây chặt và đánh thốc vào chùa. Các sư, tăng cố chống cự và chết dần mòn. Vị
phương trượng ra mệnh lệnh cuối cùng: “Phải có vài sư sống sót để tiếp nối truyền
thống chùa Thiếu Lâm, số còn lại phải hy sinh để bảo vệ cho các vị đó đào thoát”.
Cũng theo truyền thuyết thì có 5 vị sư thoát được là Lưu, Hồng, Thái, Lý, Mạc.
Sau cuộc tàn sát và đốt phá đó, họ trở lại ngôi chùa và tìm thấy thi hài phương
trượng, bên cạnh có cây kiếm gỗ, trên kiếm có dòng chữ viết bằng máu: “Phản
Thanh phục Minh”. Năm vị sư đã minh thệ thực hiện theo ý nguyện cuối cùng của sư
phụ. Trước khi chia tay đi các nơi tìm kiếm, truyền dạy lớp đệ tử mới cho chùa
Thiếu Lâm. Họ qui định mật hiệu nhận ra nhau bằng động tác: nắm tay phải tượng
trưng cho ánh mặt trời được bao lại bằng bàn tay trái mở ra, tượng trưng cho mặt
trăng. Theo chiết tự, hai bàn tay “nắm - mở” mang ý nghĩa của chữ “Minh”. Năm vị
tổ sư đó cũng chính là những người sáng lập ra Thiên Địa hội, một hội kín có tôn
chỉ là “Phản Thanh phục Minh”
Trên thực tế,
chùa Thiếu Lâm không bị thiêu hủy hoàn toàn, về sau, thời Hoàng đế Khang Hi, đã
được trùng tu trên nền cũ, nhưng không còn đóng vai trò là trung tâm Thiền Tông
và Võ thuật nữa.
Năm 1908, chủa
Thiếu Lâm bị đốt lần nữa. Nhiều tài liệu võ thuật quí giá đã bị tiêu hủy.
Ngày nay, muốn đến
thăm chùa Thiếu Lâm, khách du lịch sẽ được tập kết ở làng Thiếu Lâm. Từ đó, tiếp
tục đi đến núi Tung Sơn, nơi tọa lạc Thiền viện. Ở khoảng cách khá xa, khách đã
có thể thấy cánh cổng lớn quen thuộc trong phim Trung Quốc “Thiếu Lâm Tự”. Trước
cửa đầy người bán hàng rong.
Hai bên bậc
thang trên bệ cao là hai con sư tử bằng đá, ngày xưa vẫn chào đón các tăng lữ
viếng thăm. Phía trong cổng là tượng hai ông hộ pháp bằng đồng, hàm ý về một nơi
giàu truyền thống võ thuật. Lòng tôn kính của người Trung Hoa giành cho Đạt Ma
sư tổ được biểu hiện bằng pho tượng đồng của vị này ngay trong cổng chùa. Bức tượng
mô tả tổ sư đang ngồi thiền theo thế liên tọa, mũi to, mắt lồi, râu quai nón,
trông tương phản hẳn với tượng một đệ tử người Hoa ở bên phải.
Kiến trúc kế bên,
ngày xưa vốn là nơi ở của phương trượng Chưởng môn, nay dùng đặt hai bệ thờ Đạt
Ma sư tổ. Tượng thứ nhất cổ hơn, tạc vào năm 1624, đã trở thành biểu trưng chính
thức cho hình đáng vị tổ sư: lông mày rậm với đôi mắt lồi và tia nhìn thấu suốt,
áo cà sa che phủ tay nhưng để lộ bộ lông ngực. Phía trước bức tượng khắc nổi trên
một phiến đá dày là bức tượng thứ hai, màu đen có hình đáng tương tự, do Hiệp hội
Thiếu Lâm Nhật Bản kính tặng vào năm 1980.
Không phải bất
cứ học giả nào cũng tin như các tín đồ nhiệt thành người Nhật rằng Bồ Đề Lạt Ma
đã có công lớn trong sự phát triển võ thuật Thiếu Lâm. Nhiều cuộc tranh luận đã
xảy ra. Phái hoài nghi cho rằng có rất ít chứng cứ trực tiếp chứng tỏ vị tổ sư
này đã truyền thụ võ nghệ, thậm chí có người còn nghi ngờ về sự hiện hữu thực sự
Lạt Ma sư tổ. Những người bên vực thì bảo rằng chính “Dịch Cân Kinh” là do Bồ Đề
Lạt Ma viết trong thời gian vị này ở chùa Thiếu Lâm, đó là bằng chứng hiển nhiên
nhất. Tuy nhiên, hàng nhiều thập niên sau khi Bồ Đề Lạt Ma viên tịch (khoảng năm
535), người ta mới tìm thấy cuốn “Dịch Cân Kinh” này trong một đình thờ (sự thật
cuốn này cũng chỉ dạy các phép thở và luyện cơ để cho khí huyết lưu thông mà thôi!)
Những bức bích
họa trên hai bức tượng lớn phía trong Thiền viện mới là di sản quan trọng và nổi
tiếng nhất của chùa Thiếu Lâm. Chúng được vẽ vào khoảng thời gian từ năm 1640 đến
năm 1800. Những bích họa này mô tả những thế võ tuyệt kỹ của Thiếu Lâm Kungfu,
do biết bao nhiêu thế hệ sư tăng sáng tạo nên. Bức tường thứ nhất mô tả quyền cước.
Hai nhà sư cong ngón tay lại thành “trảo” sử dụng trong “Hổ quyền”. Cặp khác đang
áp lòng bàn tay trao đổi khí công. Bức vẽ khác vẽ một cao tăng, có thể là chính
Lạt Ma sư tổ đang giao đấu với ba người, một người bị ném sang bên, người thứ
hai bị vặn cổ tay trong khi người thứ ba đang tổ chức tấn công từ phía sau. Rồi
hình vẽ các vị sư bá, sư thúc đang đứng ở xa quan sát, chỉ dẫn cho chư đệ tử… Bích
họa ở tường đối diện mô tả sự luyện tập binh khí gồm thiết bảng, kích, song kiếm,
những cao tăng có nước da sẫm màu (có thể là những nhà sư Ấn Độ) đang chỉ dẫn đệ
tử tấn công và phòng phủ.
Thiên Phật Tự nằm
trên thế đất cao nhất trong chùa Thiếu Lâm. Nhìn từ xa, nơi này chỉ có vẻ như một
kiến trúc bình thường với màu xám, sẫm của gỗ, đá, có vẻ kỳ lạ khiến mọi người
chú ý, tò mò. Quan sát kỹ sẽ thấy những vết lõm này có kích thước và hình dáng
giống như bàn chân người, được xếp thành cặp, thẳng hàng. Đó chính là dấu tích
của biết bao nhiêu thế hệ sư tăng, qua biết bao nhiêu năm tháng dậm chân trong
khi luyện tập võ nghệ, đã làm mòn đá đi. Đây cũng là nơi trưng bày các bộ sưu tập
đao thương bằng thép rèn lắp cán gỗ. Có lẽ số vũ khí này là do các nhà sư chùa
Thiếu Lâm đã tịch thu được của kẻ thù từ những trận đụng độ xưa kia.
Một cánh cửa kín
đáo ở phía đông Thiền viện dẫn đến một cái sân nhỏ. Ở đó có 200 pho tượng kích
thước bằng người thật, mô tả tiến trình phát triển của võ thuật phái Thiếu Lâm
Kungfu. Các tượng được xếp thành nhóm xung quanh sân theo chiều kim đồng hồ như
một biên niên sử của môn phái, gồm 12 cảnh diễn tả những biến cố quan trọng của
ngôi chùa. Không có bảng ghi chú rõ rệt nào về thời gian xảy ra các sự kiện, có
lẽ để tránh sự tranh cãi của các học giả. Hai cảnh đầu là sinh hoạt thường nhật
của các chư tăng, niệm kinh và nghiên cứu sách vở. Sự tập trung tu hành làm cơ
thể họ có vẻ yếu đi, căng thẳng. Vài cảnh kế tiếp là lúc Lạt Ma sư tổ đã đến và
khởi xướng việc luyện tập võ nghệ. Các nhà sư được chỉ dạy cách co giãn các bắp
thịt và cách thở bằng bụng để dẫn khí lưu thông; những bước luyện tập ban đầu về
các bộ tấn, pháp làm nền tảng cho giai đoạn kế tiếp, những đòn quyền sơ khởi cũng
được phô diễn ở đây.
Quang cảnh bốn mùa được thể hiện tuần tự ở những cảnh tiếp
theo; sự luyện tập cần mẫn của chư tăng ngay cả giữa băng tuyết với trình độ
quyền cước và các bộ tấn thủ đã được nâng cao, đã mang những nét đặc thù của
Thiếu Lâm Kungfu; cảnh các nhà sư được chia thành cặp một để luyện công, thủ. Rồi
đến cảnh luyện công, người thì luyện “Hổ du tướng” (bám vào tường cao 4m chỉ bằng
đầu ngón tay, chân), kẻ thì đang khổ công với “Kim cương” (thọc đầu ngón tay vào
các bao tải đựng hạt đậu). Cảnh sau nữa là thời gian các sư tăng Thiếu Lâm giúp
Hoàng Đế Trung Hoa dẹp các tướng lãnh nổi loạn, họ chỉ dùng gậy gộc để chống lại
gươm giáo và đã chiến thắng; Thiền viện bắt đầu có kẻ thù và đã phải cắt cử người
canh gác. Sự hỏa thiêu chùa Thiếu Lâm được diễn tả ở các cảnh sau: thi thể của
chư tăng và lính triều đinh rải rác khắp nơi trong khi những vị sư khác đang cố
gắng chiến đấu, tiếp cứu huynh đệ. Quần thể tượng cuối cùng được bày trí như muốn
nói rằng Thiếu Lâm Kungfu đã được dùng như nền tảng của võ thuật Trung Hoa hiện
tại. Hậu cảnh là một tượng nhà sư Thiếu Lâm cầm gậy với bộ tấn trước các thiếu
niên nam nữ không phải giới tu hành đang võ vẽ tập theo như là bức thông điệp:
15 thế kỷ nay, Thiếu Lâm Kungfu vẫn luôn là phương tiện hữu hiệu để tự vệ.
Trung Hoa quả là
một đất nước vĩ đại vì không những đã sản sinh ra biết bao nhiêu những thánh hiền,
minh triết, với những triết thuyết vừa kỳ bí vừa tuyệt diệu, mà còn sản sinh ra
biết bao nhiêu những vị sư phụ, cao đồ có võ học tuyệt luân với những sáng tạo
võ thuật thượng thừa, khí công siêu phàm. Các dân tộc phương Đông láng giềng đã
học hỏi được rất nhiều từ nền văn hóa của dân tộc Trung Hoa.
Đi xem chọi gà,
quan sát hai con gà chọi nhau, chúng ta thấy gì? Thấy chúng không phải gặp nhau
là xông vào “đấu đá” túi bụi một cách mù quáng cho đến chết, mà chúng cũng biết
“gầm ghè”, thủ thế, lừa thời đánh trúng mục tiêu, chọn kiểu đánh nào (mổ hay đá,
đánh tạt ngang, dưới lên hay trên xuống…) và cũng biết né tránh, biết gan lỳ chịu
trận hay thấy thua bỏ chạy, có con đá rất hay, nổi tiếng trong giới “võ lâm” và
có con cũng rất dở. Xét riêng về hiện tượng thôi thì có thể cho rằng mọi con gà
chọi đều có “võ” và chúng chọi nhau một cách có đòn thế võ thuật, được không? Tạm
cho là được đi, thì chúng học võ nghệ từ lúc nào?
Có thể thấy rằng khả năng “võ
nghệ” của một con gà chọi đã thể hiện ra ngay từ trận đầu “chiến đấu” và quá trình
“học hỏi” của nó qua mỗi trận đấu hầu như là không có, mà trước đó nó cũng chẳng
được ai dạy cả, những trận đấu thử may ra chỉ là sự tập dợt, ôn luyện lại. Nhưng
ôn luyện cái gì nếu chưa có học? Vậy có thể nào cho rằng những con gà chọi đã ôn
luyện những “thế võ” mà chúng đã “học” được từ tổ tông bằng con đường di truyền
sinh học? Và có lẽ như thế nên dân gian vẫn thường cố “lấy giống” để duy trì giống
nòi những con gà chọi hay, chọi giỏi? Không thể phủ nhận là trước sự chuyển biến
của đối phương, một con gà chọi giỏi sẽ biết lựa chọn “cước pháp”, nghĩa là biết
lựa chọn cách đánh mà nó cho là phù hợp. Đó là lý trí hay bản năng? Thật nực cười
nếu cho rằng đó là lý trí! Nhưng cũng nực cười không kém nếu cho rằng con gà chọi
là một cái máy đã được lập trình sẵn! Vậy thì phải hiểu thế nào về hiện tượng
chọi gà, một trò chơi được hàng ngàn thế hệ của biết bao nhiêu con người phương
Đông say mê và trong đó đã không ít kẻ khuynh gia bại sản vì trò chơi đó?! Trò
chơi đó có tính trí tuệ hay không trí tuệ, chỉ là may rủi đơn thuần?
Không thể phủ
nhận được một thực tế là mỗi con gà chọi đều có lối đánh “sở trường” của nó, mỗi
giống gà chọi đều có những “độc chiêu” “tuyệt kỹ” mang tính “cổ truyền”, và vì
thế phải cho rằng gà chọi có võ thuật, khi chiến đấu nó biết công thủ một cách
có phương pháp. Trước một gã gà chọi với “tướng tá” thường rất nghênh ngang và
“vũ phu”, những gã gà thường bao giờ cũng lép vế, ít dám đối đầu và nếu gã nào
có gan cóc tía mà gây hấn thì chỉ cần lãnh đủ một hoặc đôi “chiêu” chí mạng là đã
hiểu ngay ra vấn đề để chỉ còn cách “dĩ đào thượng sách”, cắm cổ chạy dài.
Trong làng chơi chọi gà ở Nam Bộ vẫn còn lưu truyền câu thơ:
Gà nào hay bằng gà
Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng
gái Mỹ Tho.
Nghe kể tromg dân gian đại khái thế này:
Trước đây ở Sài
Gòn, trong làng mê thú trò gà chọi (còn gọi là gà đá, gà nòi), không ai không
biết đến những địa danh nuôi gà chọi nổi tiếng như Bà Hom, Bà Điểm, Thủ Đức, xa
hơn một chút là Cao Lãnh, Tây Ninh, hay ra miền Trung thì có Phan Rang, Tuy Hòa,
Quảng Ngãi… Vào thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX, nức tiếng giống gà chọi tốt là:
Mái Chín Cầu ở Xuân Hiệp Thủ Đức, Mái Thợ Bạc và sau này là Gà Năm Sô ở Bình Dương.
Tại sao muốn có gà chọi hay phải chọn giống là “mái” chứ không phải “đực”? Di
truyền học nói thế nào không biết, chứ theo lưu truyền trong dân gian thì “chó
giống cha, gà giống mẹ”. Đó là lý do vì sao tên những nhân vật nuôi gà chọi giỏi
thường được “vinh dự” đặt thêm chữ “mái” ở đằng trước.
Tuy nhiên có gà
mái giống tốt thì trong bầy gà con không phải con nào cũng tốt. Chỉ có thể chọn
được một, hai hoặc có khi là không được con nào vừa ý. Ở đây, tính trội, lặn
trong sinh học di truyền vẫn phát huy tác dụng!
Nếu không phải
là dân chuyên nghiệp thì không thể biết cách chọn, hoặc đơn giản hơn là thấy được
con gà chọi nào gọi là hay. Khi chọn gà, người ta chú ý tới ngoại hình của nó,
từ đầu, cổ, mỏ, móng, chân cách, dáng đi… và cả màu lông. Dân sành điệu thường
dựa vào những tiêu chí sau để chọn gà:
- Mồng gà: phải
nhỏ, thường người ta hay chọn mồng Trích (giống mồng chim trích), hay mồng dâu(?).
Gà mồng dâu đá và né rất nhanh.
- Mỏ gà: phải
to và ngắn, có màu ngà là tốt nhất, kế đến là màu chì.
- Đầu gà: không
to quá, so với cổ; chọn được đầu dẹp là tốt vì gà đầu dẹp đá và né giỏi.
- Mặt gà: những
gà đá hay thường có mặt chữ điền, chữ nhật; gà mặt tam giác giống mặt rắn thường
rất dữ.
- Mắt gà: tinh
anh, sâu, màu vàng, con ngươi nhỏ; cũng có thể màu bạc hay hồng, có nhiều tia máu,
mí mắt phải mỏng. Gà mà hai mắt có màu khác nhau là loại…
- Cán gà (phần
cổ dưới đầu gà): to, khỏe.
- Chân gà: phải
cứng chắc, có ngón cứng mà cong (gọi là chân rọm, đá rất đau).
- Vảy: chọn kỹ
hơn nữa thì phải biết coi cả vảy. Ngón chúa (ngón giữa) phải có 19 vảy trở lên,
hai ngón ngoại và nội (ở hai bên ngón chúa) phải có 14 vảy trở lên, rồi ngón thối
(ngón phía sau) phải có 7 vảy trở lên. Thường mỗi chân gà có hai hàng vảy xếp
hình chữ nhân (). Nếu giữa hai hàng đó xen vào hàng vảy như
những lát nhỏ, chạy từ gối đến sát chân gọi là vảy qui, rất quí, chỉ có ở gà
linh (linh kê). Vảy ba hàng lỡ giống vảy qui nhưng chỉ có ba vảy từ gối xuống.
Vảy ba hàng lỡ ở vùng cựa gà gọi là vảy tam tài. Tùy hình dáng vảy mà trong vảy
tam tài còn được phân ra: vảy án thiên, vảy vấn khâu, vảy khai dương. Những gà
có các loại vảy nói trên đá dữ, rất hay.
- Màu lông: Đối
với người rành gà chọi thì màu lông rất quan trọng. Một con gà chọi dù hội đủ các
tiêu chuẩn phía trên mà màu lông không đạt thì coi như bị loại. Chẳng hạn như lông
có “gián cánh” (tức là trong hai cánh có một lông màu trắng) thì khi lâm trận
chắc chắn sẽ bị đối phương đâm đui mắt. Người ta chia màu lông thành 5 loại là:
đen huyền (gà ô), đỏ sậm pha xám (gà điều), trắng (gà nhạn), xám tro (gà xám),
giống lông chim ó hay hung đỏ giống lông diều hâu (gà ó). Ngoài 5 loại màu cơ bản
đó, còn có loại lông ngũ sắc (5 màu). Gà ó Mã Lai có lông toàn thân như lông gà
mái không có lông mã. Loại gà này thường đá (chọi) rất hay.
Điều lạ lùng là
không biết căn cứ vào đâu mà dân chơi gà chọi cũng lấy năm màu lông cơ bản nói
trên lập thành Ngũ hành, cung tương sinh, tương khắc đàng hoàng:
Gà ô thuộc mạng Thủy
Gà điều thuộc mạng
Hỏa
Gà nhạn thuộc mạng
Kim
Gà xám thuộc mạng
Mộc
Gà ó thuộc mạng Thổ,
Và:
Gà điều kỵ gà ô (Hỏa
khắc Thủy)
Gà xám kỵ gà diều
(Mộc khắc Hỏa)
Gà ô kỵ gà ó (Thủy
khắc Hỏa)
Nhiều người chơi
gà chọi rất tin vào chuyện trên. Vì vậy khi mang gà ra “trường độ” (chọn gà đá
cặp, đá cược…), gặp phải gà có màu lông kỵ với màu lông gà “nhà”, người ta thường
từ chối.
- Dáng: tiêu chí
cuối cùng để chọn gà chọi hay là dáng đi, dáng đứng của nó nữa. Thú vị là ở chỗ
người ta phân dáng gà ra làm 2 dạng: dáng tướng (võ) và dáng quan (văn). Gà dáng
tướng thường xông xáo, đá rất hay, nhưng gà dáng văn tuy “hiền” hơn nhưng cũng
không phải là dở.
Thường mỗi con
gà chọi “thủ đắc” một đòn đá riêng (mà nó cho là độc chiêu?!). Người ta tổng kết
được ba thế đá và đặt tên cho chúng: Đá ngọn (là tung chân cao đá từ cổ đến đầu),
Đá ức (là tung hai chân từ dưới lên đá vào ức đối phương), Đá lưng (là nhảy lên
cao, tung chân đá xuống lưng đối phương)…
Chuyện gà chọi,
kể sơ qua như thế nghe đã thấy khoái rồi, huống hồ là tham gia vào cuộc chơi. Đúng
thật là “nghề chơi cũng lắm công phu” và thảo nào mà có nhiều người “ghiền” đến
độ “thẫn thờ”, bỏ ăn bỏ uống, đến độ “tan nhà nát cửa”…
Chọi gà là một
thú vui dân gian đã xuất hiện từ thời cổ xưa. Ngay đời Trần đã rất phổ biến rồi,
vì trong “Hịch tướng sĩ”, đã thấy Trần Hưng Đạo nhắc nhở quân, tướng mình: “Hoặc
lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển… Nến có giặc
Mông tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc
không thể dùng làm mưu lược nhà binh…” Bên Trung Hoa, trò chọi gà chắc chắn vào
thời Trang Tử đã phổ biến rồi vì trong “Nam Hoa Kinh” có chép truyện Kỷ Sảnh Tử
luyện gà đá cho vua.
Ngày nay vì
quan niệm “cờ bạc là bác thằng bần” nên người ta cấm cờ bạc. Như thế cũng tốt.
Nhưng họ đâu biết rằng có đàn áp thì cũng không cấm tiệt được nó, khi trong mỗi
con người vẫn còn thèm muốn danh lợi, buồn vui theo mất - được danh lợi. Không
chừng làm thế lại chỉ có lợi cho “kẻ gian”, còn người ra lệnh cấm thì “thất
thu” và dân đam mê thì “buồn quá”. Nên chăng là không cấm mà “tiết chế” cá độ ở
mức phù hợp, cho phép tổ chức đá gà công khai như một nghề kinh doanh để ai cũng
“được” cả, kẻ nào phạm luật thì “mất” ráng chịu. Hãy cố gắng giữ gìn và duy trì
những trò chơi dân gian truyền thống, dù có tính cờ bạc một chút, cho hôm nay và
cho mai sau! Vì làm như thế cũng chính là phụng sự đời sống con người, giúp cho
con người có thêm được những niềm vui thú nho nhỏ, trong cuộc đời vốn nhiều buồn
khổ trần gian, tạm bợ và ngắn ngủi của mình…
Có một giai thoại
về Tả quân Lê Văn Duyệt liên quan đến gà chọi, thế này:
Vào khoảng năm
1808, Lê Văn Duyệt làm trấn thủ Đế Đô, có đôi lúc vào chầu trễ. Có lời xì xầm đến
tai vua Gia Long. Lần ấy, Lê Văn Duyệt cũng trễ chầu. Vua nói cạnh, giọng nghiêm:
- Khanh bận xem
đá gà chứ gì?
Duyệt thưa:
- Muôn tâu bệ hạ!
Hôm nay thần khó ở, cũng cố gượng vào chầu…
- Nhưng khanh có
ham mê chọi gà không? - Vua gắt.
- Muôn tâu bệ hạ,
quả có như vậy! Nhưng xin bệ hạ thứ cho, thần hạ trước nay nếu có làm được vài
việc nhỏ trong quân binh giúp bệ hạ đều nhờ học hỏi chọi gà mà ra cả…
- ?!
- Dạ thưa: người
xưa nói gà chọi là loài cầm thú hội đủ năm đức tính lớn: đầu nó có mồng như đội
mão gọi là Văn; chân nó có cựa nhọn như giáo gọi là Võ; nó thấy kẻ địch thì xông
vào quyết chiến gọi là Dũng; khi có gì ăn thì gọi đồng loại đến hưởng cùng gọi
là Nhân; hàng đêm tới canh thì gáy vang nhắc, báo gọi là Tín. Văn thì đi liền với
Lễ, với Trí; có Nhân thì cũng ắt có Nghĩa. Vậy, thần hạ thiển nghĩ, đã là tướng
thì phải như gà chọi: “Văn - Võ song toàn”, tròn Dũng mà cũng vẹn Nhân; đã là bậc
trượng phu thì cũng phải như gà chọi, nghĩa là gồm đủ “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín”…
Vua nghe tới đó,
bật cười hỉ xả!
Chuyện tiếp theo là chuyện tiếu lâm: "Trạng Quỳnh chọi gà":
"Nguyễn Quỳnh (1677-1748) là danh sĩ thời vua Lê - chúa Trịnh ở
đàng Ngoài. Ông từng thi đỗ hương cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Ông
nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo ra nhiều giai thoại nên trong
dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh dù không đỗ trạng nguyên.
Thuở nhỏ, ông học với ông nội và cha. Năm 1696, Nguyễn Quỳnh thi đỗ giải
nguyên, nhưng đi thi hội nhiều lần bị hỏng.
Về sau, triều đình bổ nhậm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất,
Phúc Lộc (Sơn Tây), tiếp đến làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở kinh thành
Thăng Long. Năm 1718, ông thi đỗ khoa Sỹ vọng được bổ làm Tri phủ Thái
Bình, rồi về làm Viên ngoại lang ở bộ Lễ. Về sau bị giáng xuống chức Tu
soạn ở Viện Hàn lâm. Tuy không đỗ cao, nhưng ông vẫn nổi tiếng là người
học hành xuất sắc. Do tính cách trào phúng nên dân gian thường đồng hóa
ông vào nhân vật Trạng Quỳnh - một ông Trạng dân gian nổi tiếng với tính
trào lộng. Trong dân gian ngày nay còn lưu truyền nhiều giai thoại về
ông và sau đây là một trong số đó:
Chuyện xưa kể lại rằng, tên cầm đầu thị thần và bọn hoạn quan trong
phủ chúa rất ghét Quỳnh. Chúng bèn bàn nhau tìm cách hại Quỳnh. Chọi với
Trạng thế nào nổi về mặt đối đáp nghĩa lý, văn chương, bọn chúng bày ra
chọi gà. Chúng nuôi nhiều gà nòi nổi tiếng, có con “ăn” giải mấy năm
liền, nức tiếng cả kinh kỳ, phố Hiến. Lúc đầu chúng đến gạ, Quỳnh từ
chối. Sau thấy chúng nài nỉ năm lần, bảy lượt, Quỳnh chặc lưỡi: “Ừ thì
chọi”. Bên kia mừng rơn, vội về phục thuốc, phục sâm cho gà đẫy lực
trước khi ra sân đấu. Chúng còn dẻo miệng tán tỉnh mời được cả chúa nhận
lời đến ngự tọa cuộc vui.
Sới chọi mở vào một buổi sáng tại sân nhà Trạng. Không kể nhà chúa và
lũ lâu la hầu cận, hôm ấy nhiều quan văn, quan võ trong triều cùng dân
chúng kinh thành nghe tiếng, chen chúc đến xem chật như nêm. Một hồi ba
tiếng trống vừa dứt, cả hai đều tung gà ra sới. Gà của bọn quan thị
thoạt trông đủ biết là gà chiến lão luyện. Da nó trần trụi đỏ au, đôi
mắt là hai hòn than lửa, mỏ thì quặp xuống, trông còn dễ sợ hơn mỏ đại
bàng. Nó chưa rướn cổ, dang cánh, chỉ mới ướm cựa đặt những ngón chân
xuống nền bằng mà bụi cát đã vẩn lên từng đám... Trong khi đó, trông đến
gà của Trạng, ai cũng phải cười. Không những nó thiếu khí thế oai
phong, ngay đến cốt cách bình thường của một con gà chọi cũng không có
được. Nhìn kỹ, nó như loại gà trống thiến, nhưng ở đây, chưa có ai có
thể bất ngờ tới điều đó. Biết đâu “tẩm ngẩm đá ngầm chết voi” thì sao?
Hai “đấu thủ” gặp nhau ở vòng giao chiến thứ nhất. Người ta thấy gà
của Trạng không thu thế gì, đập cánh phành phạch nhảy chồm ngay lên mổ
vào đầu đối phương. Số đông khán giả vốn có cảm tình với Trạng ghét lũ
nịnh thần quan hoạn, đã vỗ tay reo hò. Vừa ngay đấy, con gà thiện chiến
kia ra miếng. Chỉ một loáng, nó xỉa cựa chân trái vỡ ức con gà của
Trạng... Kẻ “chiến bại” rũ lông cánh nằm giẫy đành đạch... Trên chòi
cao, chúa cả mừng cười khoái trá. Người đứng xem chán ngán bỏ về, còn
bọn quan thị thì hò reo đắc thắng. Một tên đến trước mặt Trạng, nói
khiêu khích: Thế mà có kẻ dám bảo gà của Trạng chọi thắng gà của xứ Tàu.
Té ra chỉ toàn đồn hão! Quỳnh làm bộ buồn phiền đáp lại: Vâng, các ông
nói phải. Trước kia gà của tôi cũng cứng cựa, nhưng từ khi nó bị thiến
mới đâm ra đổ đốn thế này.
Bấy giờ nhà chúa và lũ tay chân mới biết Trạng chơi xỏ, đem gà thiến
ra chọi với gà chính cống. Thầy tớ chúa tôi bẽ mặt, nháy nhau rút quân
cho nhanh. Trạng vẫn không tha, cứ lễ mễ ôm con gà chết, chạy theo đám
quan gia, cờ, quạt... mà khóc: Khốn nạn thân mày gà ơi! Mày đã bị thiến
thì còn đua đòi làm gì? Tao đã bảo, mày không nghe, mày cứ ngứa nghề mà
tranh chọi... Hu... hu... Mày chết nhục nhã, hèn hạ cũng là đáng đời
mày, chỉ thương tao tốn cơm, phí thóc, mất công toi nuôi mày, gà ơi
là... con gà... bị thiến... kia ơi! Tiếng Trạng khóc gà “đuổi” tận vào
cung cấm. Bọn quan lại đóng chặt mấy lần cửa vẫn còn nghe văng vẳng câu
chửi mỉa đau như hoạn.
Lời bàn:
Thái giám, hay trong dân gian thường gọi là hoạn quan, là những
người nam giới bị khiếm khuyết bộ phận sinh dục có thể do bẩm sinh tuy
họ cũng có dương vật nhưng không có tinh hoàn, hoặc không có cả dương
vật lẫn dịch hoàn, hoặc mất đi do việc hủy hoại hay làm tổn thương đến
bộ phận sinh dục. Những người này được sử dụng để làm việc trong cung
vua chúa thời phong kiến. Và thời đó, hoạn quan vốn chỉ là quan trong
nội đình, không có quyền can dự chính sự, nhưng là người hầu cận thường
ngày gần nhất của hoàng đế, được hoàng đế tin dùng, nên có không ít
người lộng quyền, nắm được đại quyền chính trị, thậm chí có thể phế lập
hoàng đế.
Là người thông minh, hài hước nhưng ngang tàng nên Nguyễn Quỳnh
đã nhiều lần đứng ra chống lại bọn sứ thần phương Bắc để bảo vệ quốc
thể, chơi khăm tất cả kẻ hà hiếp dân lành, từ vua chúa đến quan lại...
Những truyện kể về Trạng Quỳnh vừa thâm thúy vừa trào phúng, là tiếng
cười của người dân dành cho những kẻ có chức quyền nhưng tham lam, ngu
dốt. Chính vì thế, với người dân đương thời, ông là nhân vật đại diện
cho khát vọng tư tưởng của nhân dân. Và dưới con mắt của ông, quan lại
dưới là những kẻ mất nhân cách, dốt nát, vào luồn ra cúi. Và chính ông
đã thay mặt nhân dân lao động làm một cuộc “khởi nghĩa” bằng tiếng cười
để từ giã chế độ phong kiến suy tàn một cách hài hước nhất."
Còn giai thoại
nữa (dựa theo “Hương Giang cố sự”):
Võ Liêm Sơn
(1888-1949) là nhà văn, nhà giáo yêu nước, đậu bằng Thành Chung (1911), cử nhân
hóa học (1912), giáo viên trường Quốc Học ở Huế, ông hay qua lại với Phan Bội
Châu, làm cố vấn cho học sinh trong lễ truy điệu Phan Chu Ttinh (1926), tham
gia Tân Việt (1927) và có chân trong Ban biên tập Quan hải tùng thư do Đào Duy
Anh phụ trách. Chính ông là người lãnh đạo bí mật cuộc bãi khóa của học sinh Huế
tháng 4-1927. Ông là người không đồng tình với đường lối cách mạng cải lương của
giới mang tư tưởng dân chủ tư sản.
Trong đời sống
hàng ngày, Võ Liêm Sơn có óc châm biếm khôi hài và có hai cái thú: viết văn làm
thơ và đá gà. Một hôm, ông dắt hai học trò Quốc học là Nguyễn Chí Diểu và Nguyễn
Khoa Văn đi đá gà ở Thành nội. Con gà của ông Sơn nhỏ con, bộ móng, mỏ của nó
do thiếu chăm sóc nên không bén nhọn bằng gà của đám nhà nghề; bộ mã cũng bình
thường. Người xem không ai nghĩ nó có thể chịu nổi một hiệp (một hiệp là cháy tàn
một cây nhang). Ấy vậy mà khi xáp trận, gà của ông Sơn tỏ ra bình tĩnh, dai sức,
biết tránh né những cú đá hiểm, biết tạo những sơ hở giả để đối phương đá cho mất
sức. Suốt hiệp thứ nhất, gà của ông Sơn không một lần được vỗ tay, nhưng ai cũng
công nhận nó khôn. Sang hiệp hai, nó bắt đầu “phản kích”, nhưng sức có hạn nên
không tạo được thế áp đảo, làm người xem đến đây cũng không hy vọng nó thắng. Đến
hiệp ba, gà ông Sơn không “công” nổi, đành “thủ”, nhưng vẫn linh hoạt tiến lui
giữ thế. Còn gà đối phương có vẻ nổi nóng bởi phải giằng co mãi với “thằng oắt”.
Nó đột nhiên trương cánh dùng hết sức bình sinh tung một cú đá song phi. Con gà
ông Sơn đưa lưng ra đỡ rồi thừa cơ đối phương mất thăng bằng, mổ một nhát vào đúng
hành tủy nó. Gà đối phương lảo đảo rồi gục xuống. Hàng trăm bạn gà đứng xem vỗ
tay reo rần rần.
Ông Sơn vào sân
ôm gà ra, nhận 5 đồng tiền thưởng. Ông bế con gà dính đầy máu me vào lòng, vuốt
lông cho nó, hôn vào đầu và cái mỏ đã ra một đòn làm nên trận thắng vẻ vang.
Trên đường về,
hai anh học trò khoái quá, thay nhau ôm con gà thắng trận cho thầy, mặt đầy vẻ
hân hoan. Lúc chia tay, ông Sơn mời:
- Mai mấy con lên
ăn cháo gà nghe!
Với 5 đồng tiền
thưởng trong túi thầy, chỉ cần bỏ ra 2 đồng thôi là được bữa cháo gà “phè phỡn”.
Diểu và Văn nghĩ vậy, nhận lời ngay.
Hôm sau, hai trò
lên ăn cháo. Nhai thịt thấy dai dai, cả hai đều nghi nghi. Đến lúc thấy cái đầu
gà trống hiện lên trong nồi cháo, họ mới biết là thịt gà chọi. Diểu hỏi ông Sơn:
- Thịt gà đá mô
ri (nào đây), thưa thầy?
Ông Sơn đáp gọn
lỏn:
- Thì con gà thắng
hôm qua đó!
Ngạc nhiên quá,
hai người trương mắt lên, một người hỏi rụt rè:
- Con gà đá hay
vậy sao thầy lại thịt nó đi?
Lúc này, ông Sơn
mới chậm rãi, ôn tồn:
- Con gà cũng
như con người vậy, chỉ hay được một thời. Hóa kiếp để giữ khí tiết cho nó, âu cũng
là việc nên làm. Chắc chi đá thêm một trận nữa mà nó còn thắng nổi, không khéo
lại thân bại, danh liệt, chỉ làm khổ nó…
Hai trò hiểu ý
thầy, lặng lẽ cùng quay nhìn ra cửa. Bên kia đường lộ là nhà của Phan Bội Châu
- ông già Bến Ngự…
Trong khi chờ đợi
ý kiến của các nhà nghiên cứu chuyên môn và thực sự uyên bác về gà chọi và sự
chọi gà, chúng ta cứ thuận theo tâm hồn vừa nhẹ nhàng vừa hồn nhiên của dân
gian là gà chọi có võ thuật. Thế nhưng trong thế giới gà chọi có tồn tại một nền
võ học nào không? Sẽ không có một học giả đứng đắn nào thèm trả lời câu này vì
theo họ như thế là thiếu nghiêm túc. Thậm chí là họ không dám vì theo họ, nếu
ai cố tình trả lời câu hỏi này một cách có lý luận, kẻ đó sẽ mất ngay cái danh
vị “học giả” và lập tức trở thành “lẩm cẩm thật”. Đúng là việc trả lời câu hỏi đó
tương tự như gặm một khúc xương cứng mà chẳng được chút bổ béo gì. Nhưng câu hỏi
đã được đặt ra và đòi hỏi một lời giải thích và sẽ có người quan tâm đi tìm câu
trả lời, dù người đó không phải là học giả mà chỉ là kẻ điên rồ. Điên rồ thì cũng
hành động vì danh lợi. Và danh lợi ở đây là danh lợi được quan niệm trong thế
giới ấy, nên chúng ta thấy rõ một kẻ điên rồ thường rất thích thú tìm cách trả
lời những câu hỏi đại loại như trên và trong trường hợp may mắn nhất, kẻ đó cũng
có thể đạt đến một “vinh quang đời đời”, nghĩa là đoạt được giải thưởng cao quí
nhất mà người tỉnh táo gọi là Ig Noben!
Nghề chơi thật lắm công phu! Nghề chơi gà chọi cũng vậy!
Năm 2019 chúng ta có đọc bài báo kể về gà chọi (do Lục Tùng kể). Thấy hay hay, lục lại chép ra đây hầu độc giả:
"Cách đây đúng 12 năm, tôi về Bến Tre công tác thì được đồng nghiệp giới
thiệu đến ông Nguyễn Văn Xuân (SN 1920) tên thường gọi là Bảy Lương -
người được suy tôn là “Kê sư” xứ Cái Mơn. Đây cũng là vùng đất nổi tiếng
về giống gà nòi dang tiếng xứ Nam bộ. Quả là danh bất hư truyền, đại
lão kê sư không chỉ giỏi nghề mà đức độ thì thuộc hàng cao thủ. Giờ ông
đã là người thiên cổ, nhưng những câu chuyện của ông vẫn như còn tươi
nguyên trong tôi. Theo kê sư, ngày xưa, việc chọn gà đá rất công phu.
Phải bắt đầu từ đời bố - mẹ với chuỗi công đoạn rất khắt khe.
Quan trọng nhất là gà mẹ” (chó giống cha, gà giống mẹ - PV) - ông Bảy
Lương đúc kết kinh nghiệm từ hơn nửa thế kỷ lăn lộn trong giới đá gà -
“Gà mái mặt nhỏ, chân thon, bắp cánh to và gọn. Kế đến mới lựa gà trống
có nước đá hay và ăn độ để phối theo quy tắc: mái tơ thì trống già và
ngược lại”. Anh Mai Hồng Thảo - tay “đỗ gà nòi nổi tiếng ở Cái Mơn, mỗi
năm xuất chuồng hàng trăm chiến kê, cũng là môn đồ của ông Bảy Lương -
cho biết thêm: “Thông thường nếu gà mái thuộc loại gân xương thì phải
tìm gà trống có bộ lông dầy và ngược lại”. Riêng với việc phối màu lông
và màu chân gà là cả nghệ thuật mà chỉ có người giàu kinh nghiệm mới có
khả năng thành công từ việc chọn màu sắc của cặp gà cha – mẹ. Theo anh
Thảo, tuy còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng nếu chọn lọc màu của gà
cha – mẹ hợp lý, khả năng tạo ra màu lông, da chân của gà con như mong
muốn rất cao.
Đứng đầu trong danh sách màu sắc này là gà có màu tam hợp: lông, chân
và mắt cùng màu. Kế đến là gà có màu lông “hạp” với màu chân: Gà ô -
chân trắng, gà nhạn - chân xanh da cam... Gà có sắc lông xám, hoặc ô
cũng được xem là màu tốt. (“Nhất xám khô, nhì ô ướt”- PV). Chọn gà bố mẹ
xong, việc nuôi dưỡng gà giống cũng cực kỳ quan trọng. Ngoài khẩu phần
ăn hàng ngày giàu dinh dưỡng như: lươn, thịt bò, nghêu, sò, đậu xanh...
theo ông Bảy Lương, ngày xưa, người ta còn làm ổ trên cao cho gà đẻ để
trứng nở ra nhiều gà trống. Thậm chí, có người còn sắm thêm lồng rắn hổ
đặt phía dưới ổ để trứng hấp thụ nộc rắn mà sản sinh ra gà có nết đá
cũng như tính tình “dữ” y như rắn hổ.
Khi gà được 45 - 50 ngày
tuổi thì tiến hành sơ tuyển. Để vượt qua vòng này, gà phải hội đủ các
yếu tố: Da mặt mỏng; đầu nhỏ, mỏ gọn và mỏng; mắt lanh; khoé miệng sâu,
cổ dài và liền với thân hình, mình nhiều lông gân. Chân gà phải thon,
khô; vảy mỏng và đóng thắt vào nhau; phao câu lớn, xương ghim thật khít,
lườn sâu và thẳng.... Khi gà được 1 năm tuổi, tiếp tục chọn lựa và loại
thải lần cuối. Lần chọn lựa này khắc khe hơn. Chỉ riêng chuyện lông
cũng có nhiều tiêu chí. Ngoài tiêu chí chung là phải dầy và gân, ở từng
bộ phận đòi hỏi chất lượng lông khác nhau. Đối với lông cánh phải khít
rậm và dài tận phao câu (dân trong nghề gọi là cánh vỏ trai), lông đuôi
phải nhỏ bản và dài, lông gối phải phũ kín đầu gối và lông mã phải diềm
lớt phớt chân gối... Rồi chuyện vị trí đóng và màu cựa, chuyện giọng
gáy, nết đá và quan trọng nhất là chuyện vảy. Vảy gà là một yếu tố then
chốt và phức tạp. Ngoài vảy độ vị trí mặt trước và mặt sau ống chân, vảy
tiền và hậu, người chơi chuyên nghiệp càng không thể bỏ qua số vảy ở
các ngón chân và độ dài của móng. Ngay cả ngón chân nhỏ nhất (thới) cũng
là nơi biểu hiện chất lượng đá của gà. Nếu gà có ngón thới được xếp sát
bàn chân là gà dữ. Nếu cả 4 ngón đều có vảy nứt ra hình chữ nhân thì gà
thuộc vào hàng linh kê (bát chỉ nhân tự). Vì thế, thông thường một bầy
chỉ chọn được một đến hai con. Còn nếu nuôi theo dạng đại trà, thì cả
ngàn con mới chọn được một.
Công nghệ “o”(o bế) gà:
Ông Lương cho biết, ngày xưa, đá gà như cách
giải trí cao cấp. Ăn thua tiền bạc là chuyện nhỏ, quan trọng là qua
trận đá, người ta đánh giá “năng lực” chủ gà. Hơn thế nữa, đó còn là nơi
để người chơi gà học chuyện đời. Vì vậy, khác với nhiều miền vùng, ở
Nam bộ xưa, người ta gọi nơi đá gà là trường gà.
Nếu mình chọn
được gà tốt, đá hay, người ta nhìn mình bằng con mắt kính trọng. Ngược
lại, cho dù tiền đầy túi mình vẫn khó được kính trọng. Vì thế với người
đá gà, kỹ thuật huấn luyện, o gà quan trọng như việc bảo vệ uy tín của
người chơi”. Theo ông Lương, khi đạt 1,5 tuổi, gà trống được nhốt vào
bội, rồi cắt tỉa lông. Kế tiếp vô nghệ, quần sương cho gân cốt cứng cáp
và áp dụng chế độ ăn đặc biệt: ngoài lúa, cần bổ sung lươn, thịt bò,
trứng gà, thằn lằn... Anh Mai Hồng Thảo, bật mí – “Lúa phải mang ra sông
rút cho hết lép, chà xát cho rụng hết chất dơ bám bên ngoài, sau đó
mang ra phơi rồi cho gà ăn”. Buổi trưa cho gà ăn chuối chín, hoặc đu đủ
chín, giá sống hoặc sà lách tươi để bổ sung dinh dưỡng và tránh táo bón.
Khi thấy da gà ửng đỏ, căng tròn thì đem đá thử (xổ). Xổ gà vào buổi
sáng, trước khi xổ không cho gà ăn no, đá xong phải “vỗ hen” (cho nước
bào miệng rồi dùng tay vỗ nhẹ lên bên dưới cổ cho nước giãy chảy ra) rồi
vò nát lá trầu với chút muối cho gà ăn để tránh bị khò khè.
Lần xổ đầu tiên, lựa hai gà bằng nhau, cho đá thật lâu để phát hiện
hết ngón nghề. Sau đó, tuỳ vào ưu, khuyết điểm của gà mà tìm đối thủ
thích hợp. Tỷ như gà xạ (tấn công bằng cú bay người) dở thì xổ với gà xạ
hay để gà mình làm quen và học tập. Mỗi trận chỉ cho đá chừng 10-15
phút, cách 10 ngày đá một nhằm để cho gà “luyện tập” gân cốt, điều chỉnh
nết đá. Sau đó tiếp tục vô nghệ, phải đôi ba lần “thử lửa” như thế mới
nắm được nết đá của gà mà cáp độ thích hợp.
Bí quyết nhất là kỹ
thuật “o” gà ban đêm. Hàng đêm, người nuôi chủ động đổ nước cho gà uống
để nở phần cổ và đá lâu không bị hốc (mệt). Thông thường đổ nước bằng
ống trúc, nhưng có người dùng cả linh vật: “nanh cọp bọng”, hoặc “nanh
sấu bọng”. Nếu kỹ tính, sau đó chủ còn phải ngồi rình xem để phát hiện
gà mình có biểu hiện chiến kê hay linh kê gì không. Nếu là linh kê thì
khi ngủ bộ dạng xoãi ra như gà chết, gọi là “tử mỵ”, còn nếu khi gáy từ
miệng phát ra luồng sáng gọi là gà ngọc... Đến 6 giờ sáng tiếp tục mang
gà ra bãi cỏ trống cho gà quần sương như VĐV tập nâng cao thể lực. Trước
khi thả, phun nhẹ chút rượu để dẫn máu cho gà ấm trong người. Nắng lên,
dùng nước ấm tắm xả nghệ, sau đó tiếp tục mang ra sân cho gà tắm nắng.
Nhiều bậc thầy trong nghề còn dùng nước trà để tắm gà và sau đó dùng om
“thuốc” được chế từ ngãi cứu, nghệ nấu trong nồi đất với đồng tiểu (nước
tiểu trẻ em) pha thêm chút rượu thuốc gia truyền.
“Đạo” đá gà của ở Nam bộ xưa:
Sau khi nuôi đủ sức, đủ tài, gà
được đưa ra trường đá. Cáp gà cũng là nghệ thuật, thể hiện bản lĩnh của
người chơi. Thông thường là phải bằng chạn, nhưng nhiều lúc gà nhỏ lại
thách đấu với gà lớn. Ông Bảy Lương bật mí: “Nếu gà mình có vảy tốt hơn,
mặt lanh hơn, hoặc có sắc lông hay hơn thì chấp nhận cho người ta dư
chạn hơn mình”. Ngoài cân nặng, hình dáng, người giỏi cáp độ còn căn cứ
đến nhiều yếu tố khác. Theo ông Bảy Lương, “sách vở” trong cáp độ là gà
điều (đỏ) sung sức vào buổi sáng, gà ô (đen) mạnh vào buổi chiều. Mặt
khác, dân sỏi nghề cũng rất chú ý đến thế mạnh của từng thời điểm“mùa
chơi”. Đầu mùa, tháng 7 – 9 (âl), lông mới thay, gà đá nhờ sức nên gà
đòn chiếm ưu thế hơn gà lông. Đến giữa mùa, tháng 10 đến sau tết, lông
già, gà lông sẽ lanh lợi hơn gà đòn. Tuy có sự cao - thấp, nhưng phần
lớn người chơi ngày xưa vốn rất quý gà nên không ai muốn “chơi ép” đối
phương để làm gà bên kia bị thiệt. Chính vì thế nhiều lúc qua một trận,
các đối thủ lại kết thâm giao. Ông Bảy Lương kể: “Năm 1970, có thầy Năm
Nhỏ bên Vĩnh Long ôm gà điều chân màu chì, cựa màu bạc sang đá với gà
điều vàng của tôi mà sau này bác sĩ Cát trên Sài Gòn xuống nài chia lại
với giá 4 lượng vàng. Thấy gà đối phương quá hay, nếu cáp đá thì sẽ có
một trong hai con bị chết. Sau một hồi suy nghĩ, tôi kéo thầy Năm ra
ngoài thú thiệt sự tình và đề nghị ngưng đá. Nghe xong thầy Năm Nhỏ vui
vẻ ôm gà ra về. Ngày hôm sau ông chạy tắc - ráng chở một cặp Kim Quýt
trên 50 năm tuổi sang làm quà kết thâm giao. Từ đó hai người thân thiết
như anh em ruột”. Năm 1997, vợ ông Bảy mất, thấy bạn đang bệnh nặng phải
nằm bệnh viện nên ông Bảy không báo tin. Đến hôm mở cửa mả, không kềm
được, bà Năm cho chồng biết sự thật. Nghe xong, ông Năm khóc và trách
móc vợ đã làm cho ông lỗi đạo...
Ngoài việc chọn nhân vật nổi tiếng đương thời hay tướng tài trong
truyện Tàu để đặt tên cho chiến kê, như: Út Bạch Lan, La Thành, Triệu tử
Long... giới chơi gà xưa còn đặt chuyện tình cảm lên hàng đầu. Đến nay,
giới chơi gà đá Nam Bộ vẫn còn lưu truyền câu chuyện về “tình bạn” cảm
động của hai thầy gà. Vào khoảng 1930, có ông Hội đồng Tiến ở Cái Mơn đá
gà nổi tiếng, về sau bệnh già, sức khoẻ yếu dần, thương chồng, bà Hội
đồng làm gà xé phai ăn lấy lại sức.Vừa thấy dĩa thịt gà, ông Tiến khóc
nức nở và cương quyết không ăn.
Đá gà là thứ “Văn minh miệt
vườn” mà ông cha ta đã dày công sáng tạo trong những năm tháng “mang
gươm đi mở cõi” đất phương Nam. Ở đó, người chơi không chỉ tìm phút thư
thái mà còn học nhiều chuyện để ứng dụng vào đời sống..."
Ở một góc độ
quan sát dị thường, chúng ta nói rằng trong thế giới gà chọi cũng có một nền võ
học! Nền võ học ấy cũng phát triển, nâng cao qua quá trình dạy - học từ thế hệ
này đến thế hệ khác, qua sự đúc kết kinh nghiệm từ những lần “thượng đài”, từ
quá trình “thượng đài” liên tục hết đời này đến đời khác, bằng con đường di
truyền sinh học đồng thời với sự nuôi nấng, dung dưỡng, vỗ về, rèn luyện của những
con người say mê, thấy được ở con gà chọi và cuộc chọi gà một trong những thú
vui “tuyệt hảo” nhất trần gian. (Loài người sẽ chẳng bao giờ dẹp được nạn cờ bạc
một khi vẫn phải dung dưỡng nỗi thèm khát danh lợi trong lòng nó! Các nhà đạo đức
có thấy được điều này?)
Ở thế giới loài
gà đã như thế thì ở thế giới loài người có suy nghĩ phải hơn như thế, nghĩa là
con người đã biết đến võ nghệ từ rất sớm, có thể là từ khi đã có thể trao đổi với
nhau bằng ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ mà những động tác tấn công - tự vệ tỏ ra hữu
hiệu ở mỗi con người cụ thể được truyền đạt qua lại, được chắt lọc, đúc kết, được
cố định lại như một sự thừa nhận là cách thức chiến đấu hiệu quả nhất và được
phổ biến trong cộng đồng. Võ thuật sơ khai đã ra đời như thế. Cuối cùng quá trình
tìm tòi sáng tạo để vươn lên đảm bảo sự sống còn tốt hơn, khả năng sinh tồn chắc
chắn hơn, võ thuật phát triển ngày một hoàn thiện hơn, tinh tế hơn và do đó mà
cũng ngày một trở nên đa dạng, phong phú hơn (mức độ phức tạp cao hơn). Sự
phong phú và đa dạng của võ thuật làm cho việc lưu nhớ và truyền thụ ngày càng
khó khăn, do đó lại đòi hỏi đúc kết lại, sắp xếp lại cho có gốc có ngọn, có bài
bản, tạo nên một cơ sở võ học để truyền thụ và rèn luyện võ thuật. Cơ sở võ học
là hình thức sơ khai, manh nha của cái gọi là nền võ học”.
Chăn nuôi và trồng
trọt tạo điều kiện cho sự định cư lâu dài. Sự định cư lâu dài tạo nên cộng đồng
xã hội. Cộng đồng xã hội là một lực lượng dân cư bao gồm những bộ phận như gia đình,
bộ tộc, dân tộc… sống tương đối độc lập nhau trong một tổng thể đan xen nhau, có
mối quan hệ nội tại khăng khít với nhau, hay nhìn theo góc độ ở đây là gồm những
cộng đồng người nhỏ hơn, mang tính địa phương hợp thành. Mỗi cộng đồng người nhỏ
hơn ấy đều có một cơ sở võ học. Sự va chạm, giao lưu, loại trừ, học hỏi lẫn
nhau giữa các cơ sở võ học đó dần làm nên một nền tảng võ học chung cho cả cộng
đồng xã hội đó. Cũng như những hiện tượng xã hội khác, một nền võ học được hình
thành và phát triển từ tản mạn, manh mún đến thống nhất tập trung để rồi lại ngày
càng đa dạng phong phú, tạo tiền đề cho một tiến trình phát triển có tính lặp lại
mới. Điều này cho thấy trước khi xuất hiện Thiếu Lâm Kungfu, trên đất nước
Trung Hoa đã tồn tại một nền võ học, dù có thể nền võ học đó chưa rõ nét. Phải
chăng sự kiện hình thành nên Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hình Quyền đã đóng vai trò như
một cuộc cách mạng, mở đầu cho một chu kỳ phát triển mới của võ học Trung Hoa và
là cơ sở của nền võ học Trung Hoa hiện tại?
Nếu thế, trên lãnh
thổ Việt Nam, vào thời rất sâu trong tiền sử, có thể đã từng tồn tại một cơ sở
võ học và con người thời cổ xưa đó đã biết đến võ nghệ, biết chiến đấu công -
thủ bằng võ thuật. Kết quả khảo cổ đã làm cho các nhà nghiên cứu nhân loại - xã
hội học tin rằng cách đây chừng 10.000-20.000 năm và có thể là lâu hơn nữa, ở Bắc
Bộ - Việt Nam đã có hiện tượng định cư lâu dài. Có như vậy là vì con người thời
đó đã phát hiện một cây lương thực cực kỳ quan trọng cho đến tận ngày nay, đó là
cây lúa nước. Sự định cư lâu dài và tương đối ổn định ấy đã làm hình thành nên
một nền văn hóa khu vực, gọi là nền văn hóa Hòa Bình (theo một tài liệu thì vùng
đất Hòa Bình xưa kia thuộc trấn Hưng Hóa, đến năm 1866, dưới triều Nguyễn, thành
ra một tỉnh gọi là Bờ, năm 1887 đổi tên thành Phương Long, từ năm 1897 mới được
gọi là Hòa Bình).
Nền văn hóa tối
cổ đó có võ không? Chắc là có! Thứ võ đó có dựa trên một cơ sở võ học nào không?
Chắc là có luôn, dù cơ sở võ học đó là thô sơ với vài phân thế chiến đấu giản đơn,
rời rạc. Tuy nhiên cũng có thể giả định rằng cơ sở võ học đó đã đạt đến tinh tế,
đã phô bày ra cái công phu sáng tạo thực sự và bao trùm của trí tuệ, do đó mà đã
mang sắc thái một nền võ học đích thực, nếu chúng ta cho rằng nền văn minh Hòa
Bình là bộ phận còn sót lại không đáng kể, là một tàn dư nhỏ nhoi của một nền văn
minh lúa nước vĩ đại hơn nhiều đã bất ngờ phải hứng chịu một đại họa thiên nhiên
bi thảm, nền văn minh Mẫu - La, nền văn minh cội nguồn của mọi nền văn minh sau
này…
Dù có thể là nhỏ
bé nhưng nền văn minh Hòa Bình đã có một thời cực thịnh, rực rỡ vàng son của nó,
để rồi cũng lại thăng trầm tan rã: một bộ phận rút lên cao trụ lại, phần lớn
phiêu bạt dần lên bắc, phần khác xuôi nam ven sườn Trường Sơn và số còn lại thì
vượt núi sang tây. Bộ phận nào cũng mang theo giống lúa nước, cách trồng cây lương
thực quan trọng này và gieo trồng tại nơi họ đặt chân đến. Việc trồng cây lúa nước
như một phương thức tạo miếng ăn ổn định, vì thế mà trở nên phổ biến, lan tỏa
ra khắp nơi. Trình độ võ học cao cường của nền văn minh Mẫu - La mà văn hóa Hòa
Bình còn lưu giữ được phần lớn, có thêm những sáng tạo mới, cũng theo đó mà được
truyền bá rộng rãi…
Nền tảng của khí
công hay Yoga là kết hợp giữa điều tức, điều tâm và điều thân. Trong ba cái đó
thì điều tức (cách thở) là yếu tố cơ sở mang tính cốt lõi. Thở không đúng cách
thì cũng không điều tâm được và như vậy cũng không thể tạo và lưu chuyển “khí”
một cách có ý thức được (dù khí vẫn lưu chuyển tự nhiên không ngừng nghỉ!). Do đó
việc luyện thở phải được đặt lên hàng đầu, phải là bước đầu tiên của quá trình
tập luyện của khí công hay Yoga. Nhưng ai là con người đầu tiên nghĩ ra sự luyện
thở. Cụ thể là ai thì không thể biết được, nhưng cư dân đầu tiên nghĩ đến việc điều
khiển hơi thở phải là người sống ở vùng sông biển, thường xuyên ngập nước. Cuộc
sống chống chọi với lũ lụt, cũng như đòi hỏi phải bơi lặn dưới sông, biển để săn
bắt các loại thủy sản đã đặt ra yêu cầu phải làm sao không bị ngạt nước, phải
nhịn thở được lâu… Sự tìm tòi, nghiên cứu và rèn luyện cách thở, cách ém hơi thở
để có thể lặn được dài hơi đã là bước đi đầu tiên làm hình thành nên Yoga và khí
công. Quá trình thực hành các cách thở đã dẫn đưa đến cho dân cư sông nước sự cảm
nhận những biến đổi, những biểu hiện khác lạ trong cơ thể. Việc chiêm nghiệm những
biểu hiện như có “cái gì đó” truyền trong cơ thể ấy, cũng như những biểu hiện tương
tự từ những lần rùng mình tự nhiên của cơ thể, những lần cơ thể phản ứng khi bị
đột ngột tác động từ bên ngoài như bất ngờ bị hù dọa, bị sét đánh gần… đã làm
cho cư dân sông nước đi đến quan niệm về “khí”: thứ không thấy được, không hình
dung được nhưng thực sự là có, là cảm nhận được sự lan truyền của nó trong cơ
thể. Từ đó, sự từng trải đã cho họ “thấy” được nhiều điều, biết được cách thở tạo
cảm giác về sự lưu thông của khí và biết được mỗi lần như thế thì cơ thể họ có
vẻ mạnh khỏe hơn, tâm hồn họ thấy sảng khoái hơn. Hơn nữa, dần dà họ còn biết
chủ động điều chuyển được “ dòng” lưu động của khí. Và cuối cùng là những bài học
đầu tiên về khí công cũng như Yoga ra đời.
Người ta vẫn
cho rằng khí công được rút tỉa ra từ Yoga và người thực hiện hành động đó là Đức
Phật Thích Ca. Chứng cứ là về thời gian ra đời thì Yoga xuất hiện sớm hơn khí công
nhiều. Chúng ta không hoàn toàn nhất trí bởi ngay cả Đức Phật Thích Ca cũng chỉ
tồn tại ở dạng huyền thoại nhiều hơn là sự thực lịch sử. Trong tranh luận tôn
giáo và cả trong tranh luận lịch sử về những sự kiện có tính mở đầu nguồn gốc của
một hiện tượng nào đó, thường nhiều học giả vì danh dự của giáo phái mình, của
dân tộc mình đã tùy tiện nâng khống tuổi của sự kiện lên cho nó “già” hơn sự kiện
của giáo phái khác, của dân tộc khác. Ngay bản thân chúng ta cũng mắc phải bệnh
này và vì thế, chúng ta cho rằng Yoga và khí công là hai nhánh khác nhau xuất
phát từ một gốc chung tạm gọi là khí công Mẫu - La. Sau này hai nhánh ấy, trong
quá trình phát triển tương đối độc lập đã biểu hiện ra những nét đặc thù. Tuy vậy
chúng đã từng giao lưu học hỏi lẫn nhau; tiếp thu và cũng loại trừ nhau trên
quan niệm dù cốt lõi là thống nhất nhưng cũng đã mang nhiều dị biệt của mỗi trường
phái…
Đến thời kỳ biển
thoái, cuộc sống con người ở vùng Bắc Bộ - Việt Nam lại bước vào chu kỳ “rộn ràng”,
đổi mới. Một nền văn minh kế thừa văn minh Hòa Bình xuất hiện. Đó là thời kỳ
Kinh Dương Vương cùng “bầu đoàn thê tử” từ phương bắc kéo xuống. Một cộng đồng
xã hội gồm nhiều cộng đồng thành phần bắt đầu hình thành và tiếp theo quá trình
ấy là xuất hiện nền văn hóa Văn Lang, kèm theo nền võ học của nó dần lộ diện.
Nhờ có nền võ học ấy mà sau này Phù Đổng Thiên Vương mới có thể “múa” được roi
sắt (có sách nói là gươm sắt, nhưng “công nghệ” thời đó không biết đã rèn ra được
gươm sắt chưa?), mới có thể nhổ cả bụi tre ngà lên làm vũ khí đánh tan giặc Ân!...
Chúng ta tin rằng, võ nghệ nước ta có từ rất sớm. Có lẽ, ngay từ thời mở nước, do đã phải sớm đấu tranh với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm (Thánh Gióng) dân ta đã biết đến võ thuật. Có thể rằng, vào thời Văn Lang, Âu Lạc nước ta đã có một nền võ học. Chúng ta tạm gọi nền võ học đó là võ học Văn Lang.
Thoát thai từ nền
võ học Văn Lang, và qua giao lưu học hỏi cái hay, cái đẹp từ nền võ học mà đại
diện tuyệt vời của nó là Thiếu Lâm Kungfu Ngũ Hình Quyền, một nền võ học thứ
hai xuất hiện có tính kế thừa và là nền tảng của võ học Việt Nam lúc đó, đó là võ học Đại Việt.
Nền võ học Đại Việt cùng với người anh em ruột thịt của nó là nền nghệ thuật quân
sự Đại Việt, đã làm rạng danh non sông đất nước Việt, dân tộc Việt. Thời gian đã làm cho lịch sử thời kỳ đầu lu mờ nhiều điều. Về võ nghệ cũng vậy! Phải chăng võ Hét là những gì còn lưu lại được của võ Đại Việt xưa mà dân ta vẫn thường gọi chung là võ Ta, võ Kinh để phân biệt vói võ Tàu?
Theo nghiên cứu, tìm hiểu của các võ sư môn phái Nhất Nam, thì có một
dòng võ đặc dị của người Việt, còn được gọi với tên võ Hét, hoặc Héc
(tùy theo khẩu âm địa phương), được sản sinh từ vùng đất châu Hoan, châu
Ái, nay là các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Do những biến cố, thăng trầm
của lịch sử, trong một thời gian dài môn võ này gần như bị thất truyền,
lãng quên. Từ năm
2012 đến nay, võ sư Trần Văn Dũng đã nỗ lực bền bỉ đưa môn võ này trở
lại xứ Thanh.
Từ hàng nghìn năm trước, trên vùng lưu vực sông Mã, sông Lam (châu Ái,
châu Hoan cổ), dòng võ Hét dân gian đã ra đời trong lao động và đấu
tranh sinh tồn với muông thú, giặc giã của cư dân địa phương. Qua bao
thế hệ, võ Hét không ngừng được sáng tạo, trở thành thứ vũ khí đặc dị
của các chiến binh Đại Việt trên sa trường. Trong làng võ cổ truyền Việt Nam hiện nay, Nhất Nam (hậu thân của võ
Hét miền Thanh - Nghệ) là một môn phái lớn về tính quy mô và tổ chức,
gắn liền với tên tuổi của vị Chưởng môn là Giáo sư, Viện sĩ Ngô Xuân
Bính. Nhìn võ sĩ Nhất Nam vận khố, mình trần, tung quyền cước như vũ bão
trong tiếng hét quái dị, người xem hình dung về những tráng binh Đại
Việt “tả xung hữu đột” trong những cuộc chạm trán trực diện với quân thù
trên sa trường thuở trước, hay là những sân võ, sới vật chốn thôn dã
mọi miền mỗi dịp tết đến xuân về.
Tương truyền, dưới thời Hậu Lê, võ Hét được vị thủy sư đô đốc Lê Trung
Giang tại xã Hoằng Ngọc (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) tập hợp và sáng tạo thêm
trên nền tảng võ dân gian vùng lưu vực sông Lam, sông Mã. Trong cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, “võ hét” có vai trò rất lớn trong việc rèn luyện
binh sĩ.
Võ sư Ngô Xuân Nhuần tóm tắt về “hồn cốt” của võ Nhất Nam (hậu duệ của võ Hét): “Đó là dòng
võ mang tinh thần “nhại công”, nghĩa là phỏng theo muôn vật, rút ra cái
hay, cái đẹp, cái cứng, cái dẻo, cái biến hóa để chế thành quyền”. Ông cho biết cách đánh của người Việt là dùng “đoản binh chế trường
trận”. Binh pháp “nắm chắc thắt lưng địch mà đánh” trong kháng chiến
chống Mỹ cũng đi ra từ yếu lĩnh này. Có thể nói, tinh diệu “Lấy ít địch
nhiều, lấy khéo chống mạnh” của nghệ thuật quân sự Việt Nam, đã chứa
đựng phương châm tự vệ chiến đấu từ hàng ngàn đời nay của tổ tiên người
Việt và được phản ánh rất rõ trong “võ ta".
Mùa xuân năm1789, khi qua đất Thanh - Nghệ, Hoàng đế áo vải Quang Trung
đã tuyển mộ nhiều võ sỹ của phái võ Nhất Nam vào cuộc tấn công tiêu diệt
quân Thanh. Nhiều nghĩa sỹ đã xông pha trước mũi tên hòn đạn, tận trung
báo quốc. Ghi nhớ công lao vị liệt tổ liệt tông, phái võ Nhất Nam lấy
ngày chiến thắng Ngọc Hồi, Đống Đa làm ngày giỗ tổ môn phái. Hằng năm,
đến ngày mùng 5 Tết những môn sinh của phái võ Nhất Nam lại kính cẩn
dâng hương lên bàn thờ tổ môn phái.
Giải thích về sự khác biệt về kỹ thuật chiến đấu của “võ ta”với những
môn phái võ ngoại lai có nguồn gốc Trung Hoa, Nhật Bản hay Hàn Quốc, võ
sư Ngô Xuân Nhuần nói:
“Người phương Bắc thể trạng to khỏe hơn dân phương Nam, nên võ của họ
thiên về dùng sức mạnh, với những đòn đánh cương mãnh, có lề luật và
trường đòn. Trong khi dân ta vốn bé nhỏ hơn, nên không thể khoa trương,
bay nhảy... mà cách đánh hết sức thực dụng. Có thể nói võ ta độc địa,
mang tính khắc sát rất cao và không có “niêm luật”, kỷ cương như họ, tức
là lấy hiệu quả chiến đấu làm thước đo, chứ không quá chú trọng hình
thức. “Một thế chứa trăm vạn thế, trăm vạn thế thu về một thế”. Yếu lĩnh của võ ta là tận dụng lợi thế của tầm vóc nhỏ dễ tránh né để
thoát đòn, chứ không chủ trương đối lực, rồi tận dụng thời cơ địch sơ hở
để áp sát và bung ra những seri đòn bằng kỹ thuật cận chiến gật lắc cổ
tay, xoay đảo các khớp để tạo lực công phá, tiết kiệm tối đa khoảng cách
và thời gian khi ra đòn. Ta đã chạm vào địch thủ là công ồ ạt như mưa
dội, đá lăn vào các huyệt đạo như mắt, hạ bộ, yết hầu... để dứt điểm
ngay, chứ để địch thủ thoát được ra thì rất nguy hiểm”.
Võ ta là một môn võ cổ truyền Việt Nam, có nguồn gốc từ công cuộc khai khẩn xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn và đã trở thành môn thi tuyển quan võ thời nhà Nguyễn và dùng trong huấn luyện quân đội. Võ ta còn được gọi là võ Kinh. Ngày nay tên gọi "Võ Ta" với ý nghĩa là "Võ Kinh" vẫn còn được thông dụng ở vùng Huế - Quảng Nam, điển hình là Bạch Hổ võ phái. Theo võ sư Võ Kiểu, nguyên tổng thư ký Liên đoàn Quyền thuật miền Trung: "Võ
ta đã gắn bó với dân tộc ta từ hàng ngàn năm qua, nó mang một vẻ đẹp
không môn phái nào trên thế giới có được, nó không chỉ là một môn võ
phòng thân, chống lại bao giặc thù hàng ngàn năm qua mà còn là một lối
sống, một nhân sinh quan, một tư tưởng vô cùng quan trọng trong hệ thống
tư tưởng Việt Nam. Đánh mất tên gọi "võ ta", thay thế danh xưng "Võ Ta" bằng tên gọi võ cổ truyền Việt Nam là chúng ta đã vô tình
đánh mất luôn cả cái hệ tư tưởng Việt Nam quý giá ẩn chứa trong môn võ
vô cùng đẹp này!".
Sau một lần nói chuyện với võ sư Trần Văn Kim (con trai út của võ sư Trần Khương
(1880 – 1968) tục danh là thầy Tư Phụng, chưởng môn nhân sáng lập võ
phái Tứ Phụng – một võ phái nổi tiếng có nguồn gốc từ Gò Nổi, và là điểm
xuất phát của hầu hết các môn phái võ ta sau này ở Quảng Nam – Đà Nẵng), Hồ Trung Tú (nhà văn, nhà báo) viết: “Các môn võ nổi tiếng trên thế giới thì các đòn đá của chân bao giờ chân
cũng cứng như một chiếc gậy, chỉ riêng võ ta thì chân lại mềm như chiếc
roi, nó không cứng nhắc là thứ để tấn công mà còn có thể dùng để khều,
móc, đạp, hất... (gồm 24 thế cước)! Các môn võ của thế giới thì bay cao,
đánh xa; võ ta thì trườn sát đất, thoắt đã áp sát đối phương và những
thế đòn quyết định nhất lại là cùi chỏ, đầu gối, gót chân! Chính vì vậy
các môn võ như karate, taekwondo thường thất bại trong thi đấu tự do với
võ ta. Xin đừng bắt các bạn gái phải lao lên kẹp cổ đối thủ như của
vovinam. Biểu diễn đã khó coi, mà trong thi đấu cũng có hại!”.
Chính vì là môn võ dùng để đánh giặc, cứu nước nên các đòn của võ ta vô
cùng hiểm, hạ gục đối phương càng nhanh càng tốt bất kể đó là bộ phận
nào trên cơ thể. Chính vì vậy các thầy dạy võ ngày xưa bao giờ cũng chú ý
đến việc rèn luyện nhân cách của học trò và chỉ truyền những đòn hiểm
nhất cho người học trò chín chắn nhất, từ đó hình thành nên nền tư tưởng
võ học vô cùng sâu sắc. Tiếc là nền võ học này chỉ truyền miệng và đến
nay thì những người nắm được tinh hoa của nó đã vắng dần.
Lúc còn sinh thời võ sư Trần Văn Kim kể: “Năm 17 tuổi, tôi đã hạ gục ngay trên võ đài
một võ sĩ Thái Lan trong dịp sang thách đấu với Việt Nam. Võ sĩ này đã
thắng anh tôi, tức nhà vô địch Trung kỳ lúc đó. Rất thoả mãn với chiến
thắng này, tôi hỏi cha tôi:
– Thưa cha, con đã thắng được võ sĩ vô địch Thái Lan, liệu con đã là người vô địch không?
Cha không đáp và cấm tôi vào sàn tập chín tháng vì tội lên võ đài mà
không xin phép. Sau đó, khi trở lại tôi đã tiếp tục hạ ba học trò giỏi
nhất của thầy, và tôi lại hỏi ông:
– Thưa cha con đã thắng võ sĩ vô địch Thái Lan, lại thắng cả anh Khanh
vô địch Bắc kỳ, anh Phúc vô địch Trung kỳ, vậy con đã trở thành nhà vô
địch được chưa?
Cha tôi gọi anh Sơn, là một võ sinh học võ chưa đầy năm nhưng thân hình thì to như hộ pháp ra đứng giữa sân rồi bảo tôi:
– Con muốn được công nhận là nhà vô địch thì con đánh thằng Sơn đây trào máu họng cha xem.
Đến lúc đó tôi vẫn chưa hiểu ý cha mình. Tôi thừa sức đánh cho Sơn
hộc máu nhưng mấy lần hạ thủ tôi vẫn không thể ra được đòn độc. Và khi ý
nghĩ chém vào yết hầu của Sơn vừa loé lên thì tôi chợt hiểu tất cả. Tôi
quỳ sụp dưới chân cha mình. Ông nói:
– Con mê cái danh vô địch mà làm cái gì. Cao nhơn tất hữu cao nhơn trị.
Một phát súng của thằng khùng cũng có thể khiến con bỏ mạng. Nhà vô địch
chỉ là con gà đá không hơn không kém. Học võ là để làm nhân chứ không
phải để đi đấu như gà. Hơn nữa, muốn vô địch thì phải độc. Bất độc bất
anh hùng. Cái danh đó không đáng để ta đánh đổi cả cuộc sống thanh thản
của phần đời còn lại của mình đâu.
Tôi nghe đó, hiểu cũng nhiều lời cha lúc đó, nhưng cả cuộc đời còn
lại của mình cho đến lúc này tôi mới ngày càng hiểu được rằng học võ,
đấu võ là để hoà chứ không phải để thắng! Sống ở đời cũng vậy, hãy tìm
cái hoà trong các mối quan hệ chứ đừng cố công tìm lấy sự chiến thắng,
trả giá lớn lắm!”
Kể xong câu chuyện, ông đọc:
Ngày thường đừng có tự cao
Khiêm cung lễ độ khác nào văn nho
Gặp quân hung hãn đừng lo
Nghệ cao, đảm đại đều do ở mình
Khuyên ai luyện võ cho tinh
Giữ thân giữ nước công trình nghìn thu...
Võ Ta đôi khi được hiểu là những môn võ có nguồn gốc phát sinh lâu đời của dân tộc Việt (Kinh) trên đất nước Việt Nam luôn cả những môn võ mới hình thành mang phong cách võ Việt. Năm 1991, sau bao năm bị lãng quên, liên đoàn Võ thuật cổ truyền
Việt Nam được thành lập và cũng có nghĩa từ đó, tên gọi “võ ta” được
hoàn toàn thay thế bằng tên gọi mới là “võ cổ truyền”.
Tỉnh Bình Định là nơi môn Võ Ta được phát triển rực rỡ nhất và cũng đa dạng nhất. Suốt hai thế kỷ 19 và 20,
không nơi nào võ Ta được phổ biến rộng rãi bằng xứ võ Bình Định. Ngay
tại các địa phương khác, số lượng các thầy dạy võ có gốc từ Bình Định
(hoặc học từ Bình Định) bao giờ cũng là nhiều nhất. Vì lý do đó Võ Ta
còn được gọi là võ Bình Định. Người các tỉnh khác khi nghe những câu thiệu của các bài Ngọc trản ngân đài (Mộc thiếu thảo pháp), Roi Ngũ Môn, Lão Mai (Quyền Nhất, Thảo Quyền)… đều luôn nghĩ đến Võ Bình Định.
Có thể nói, một nền võ học đã hình thành nên từ việc rút tỉa tinh hoa từ nhiều môn phái võ của các dân tộc khác với nền tảng là võ Ta, võ Kinh trên mảnh đất Bình Định từ thời chúa Nguyễn khẩn hoang mà sôi nổi nhất là vào thời "Tây Sơn tam kiệt".
Do nhiều nguyên
nhân lịch sử mà vào thế kỷ XVIII, Bình Định trở thành “miền đất võ”. Có thể nói
Bình Định thời bấy giờ đã là nơi hội tụ của nhiều trường phái võ như võ Tàu, võ
Chăm, võ Khơme… và trên cơ sở lấy võ Đại Việt làm trung tâm, một trào lưu võ học
mới ra đời, đóng vai trò như nền tảng võ học Việt Nam ngày nay.
Con người đã có
mặt từ rất lâu trên dải đất duyên hải Trung Bộ - Việt Nam. Trước công nguyên, trên dải đất
này ít ra cũng có một nền văn hóa gọi là văn hóa Sa Huỳnh (xấp xỉ cùng thời với
văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ). Cư dân Sa Huỳnh thời đó đã đạt đến giai đoạn phát
triển sơ kỳ đồ sắt, có công cụ, khí giới bằng sắt, đã biết làm đồ gốm bằng bàn
xoay, và đã làm nông nghiệp trồng lúa nước. Quá trình phát triển, quần tụ và hội
nhập dân cư đã dần dần làm xuất hiện dân tộc Chăm cùng với nền văn hóa Chămpa.
Nền văn hóa Chămpa chủ yếu vẫn là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa
nước nhưng chịu ảnh hưởng rất sớm và rất mạnh từ nền văn hóa Ấn Độ. Và cũng từ
rất sớm, khoảng thế kỷ I-II sau công nguyên, người Chăm đã tạo dựng nên một vương
quốc có nền văn hóa Chăm độc đáo và rực rỡ, gọi là vương quốc Chămpa (ta quen gọi
là nước Chiêm Thành).
Quân đội của nước
Chiêm Thành được duy trì khá mạnh và cũng khá thiện chiến, nhiều lần lấn Nam phá
Bắc và vào thời cực thịnh, đã từng ngự trị một khu vực lãnh thổ khoảng từ Quảng
Trị đến Bình Thuận. Dân tộc Chăm, cũng như dân tộc Việt, chắc chắn phải có một
truyền thống võ thuật không kém phần tinh tế và đặc sắc. Những bức chạm khắc biểu
hiện đầy tinh thần thượng võ còn lưu lại đã nói lên điều đó.
Đất Bình Định xưa,
thời Trịnh - Nguyễn, thuộc tỉnh Quảng Nam. Chuyện kể rằng sau khi đánh
tan quân Cảnh Thịnh, chiếm được thành Hoàng Đế, Nguyễn Ánh đặt tên lại là Bình Định.
Vùng tỉnh Bình Định
ngày nay (với tỉnh lị là thành phố Qui Nhơn), vào thế kỷ X, khi Chiêm Thành cho
xây thành Đồ Bàn và đặt kinh đô ở đây, trở nên sôi động như một trung tâm văn hóa
- thương mại.
Năm 1471, vua Lê
Thánh Tông thân dẫn binh đi chinh phạt Chiêm Thành, đánh chiếm được thành Đồ Bàn.
Từ đó Chiêm Thành suy yếu hẳn. Tuy nhiên, vùng cảng Thị Nại (Qui Nhơn) vẫn là nơi
giao thương nhộn nhịp. Đến thời Trịnh - Nguyễn, Bình Định trở thành một trong
những vùng thuộc trung tâm kinh tế giàu có nhất Đàng Trong.
Thời Tây Sơn,
Chiêm Thành chỉ còn là một cát cứ nhỏ hẹp mang tính hình thức (của Bà chúa Chăm?)
mà ở phía Bắc, Bình Định được coi như vùng giáp ranh. Từ khi thuộc Đàng Trong dưới
sự cai quản của chúa Nguyễn, nơi đây trở thành đích đến của dân tứ xứ, đủ hạng,
kể cả đám lục lâm, hải tặc…
Theo các nhà
nghiên cứu võ học, trước thế kỷ XVIII ở Bình Định đã có những môn phái võ hoạt động,
nhưng chỉ tới khoảng những năm cuối của nửa đầu thế kỷ XVIII, hoạt động võ thuật
ở đây mới bắt đầu trở nên sôi nổi và đặc biệt rầm rộ dưới trào Tây Sơn. Trong dòng
người tìm đến định cư ở miền đất này, có một số võ sư nổi tiếng Bắc Hà và cả những
võ sư danh tiếng từ Trung Quốc sang. Chẳng hạn như võ sư Trương Văn Hiến từ xứ
Thanh Nghệ, mở lớp dạy võ ở An Thái (An Nhơn), đã là người đào tạo phần lớn những
người chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn. Chẳng hạn như võ sư Diệp Kim Tòng từ Phúc Kiến
(Trung Quốc), võ sư Đinh Văn Nhưng (có cha là người Ninh Bình phiêu dạt đến Bằng
Châu - An Nhơn) đều là những người đã từng dạy võ cho anh em Tây Sơn… Có thể nói
là vào nửa sau thế kỷ XVIII, trong sự giao thoa giữa các võ phái đã tồn tại từ
trước và du nhập đến, giữa võ Đại Việt, võ Tàu, võ Chăm…, và trước yêu cầu cấp
bách phục vụ chiến đấu của khởi nghĩa Tây Sơn, tại đây đã kết tinh, hun đúc nên,
làm xuất hiện dòng võ Tây Sơn rất đặc sắc, rất mạnh, với những đòn đánh hiểm
hóc, thế đánh biến hóa thần kỳ, dứt điểm nhanh chóng.
Như đã trình bày, kỹ thuật phổ biến nhất trong võ thuật Bình Định là võ Ta, tức võ thuật của triều Nguyễn phổ biến ở Đàng Trong. Còn võ Ta thực sự được truyền vào và phổ biến ở vùng này từ thời nào lại là điều rất cần được nghiên cứu về mặt lịch sử. Sự ảnh hưởng của võ học thời Tây Sơn chỉ gói gọn trong một vài
dòng võ và trong một vài bài bản riêng biệt không phổ biến, không nên
xem võ thuật của Tây Sơn là nguồn gốc của tất cả các dòng phái võ thuật
Bình Định.
Nhận định về vai trò của võ học Tây Sơn đến Võ Bình Định, Võ sư Nguyễn Vĩnh Hảo có viết:
"...Hầu như tất cả các thầy võ ở Bình Định đều cho rằng bài
thảo bộ NGỌC TRẢN là bài thảo mực thước nhất, hoàn chỉnh nhất trong hệ
thống tập luyện võ nghệ vùng Bình Định. Về chuyên môn chúng tôi đồng ý.
Nhưng về lịch sử, tại sao chúng ta vừa cho rằng "đó là bài thảo thi của
nhà Nguyễn" vừa lại khẳng định "đó là bài võ thuộc dòng Tây Sơn"? Sự võ
đoán, hời hợt trong nghiên cứu là không thể chấp nhận được.
Nhiều người cho rằng nhà Tây Sơn có phát sinh ra một dòng võ.
Theo tôi việc phong trào Tây Sơn có phát sinh hay không phát sinh ra
một dòng võ không hề giảm đi giá trị mà nhà Tây Sơn đã cống hiến cho dân
tộc, cho đất nước. Chúng ta cũng đừng lợi dụng uy tín của nhà Tây Sơn
để nêu lên những điều chưa được nghiên cứu rõ ràng, chính xác hoặc xác
định một cách vội vã, phi khoa học. Làm thế là có tội với tiên nhân và
cả với lớp người sau. Phong trào nông dân ở thế kỷ 18 do anh em nhà Tây
Sơn lãnh đạo là một phong trào rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử lớn. Bởi
vậy, dù muốn tìm hiểu một góc độ nào cũng cần có những kiến thức và hiểu
biết cơ bản về dân tộc học, xã hội học, quân sự học… trong giai đoạn
lịch sử đó. Được như vậy chúng ta mới giải quyết vấn đề xác đáng, cụ thể
hơn..."
Mặc dù rất nhiều người học võ thuật Bình Định từng thọ giáo các danh sư có gốc từ Trung Quốc như Khách Bút, hoặc Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Tuy nhiên, những bài bản võ thuật phổ biến ở Bình Định không hề có trong các bài bản của võ thuật Trung Quốc kể cả danh từ lẫn kỹ thuật. Vì vậy, việc phát biểu của một số võ sư học võ Trung Quốc như "Võ Bình Định là võ Thiếu Lâm" hoặc "Võ Bình Định bắt nguồn từ võ Thiếu Lâm" là không có cơ sở.
Theo một số người, "miền đất võ" Bình Định về cơ bản, là sự hợp thành của các dòng võ sau đây:
-Dòng họ Trương (xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ): Ông tổ dòng họ Trương là Trương Đức Thường từ xứ Thanh Hà, Hải Dương vào khai sơn phá thạch ở vùng đất Tú Dương (thuộc xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, Bình Định) vào đầu thế kỷ 17 (khoảng năm 1605).
Sau đó dồn đến định cư ở thôn Phú Thiện, xã Mỹ Hòa, Phù Mỹ, Bình Định
cho đến ngày nay. Theo gia phả của dòng tộc để lại, dòng họ này có nhiều
người học giỏi, thi đỗ cử nhân, cả văn lẫn võ trong thời nhà Nguyễn và
hầu như đều theo nghiệp văn chương và nghiệp võ. Trong số đó có ông cử
nhân võ Trương Trạch, thầy dạy của võ sư Trương Thanh Đăng, người sang lập ra võ đường Sa Long Cương ở Sài Gòn.
-Dòng họ Đinh (thôn Thanh Liêm, xã Nhơn An, huyện An Nhơn): Ông Thủy tổ của dòng họ Đinh là Đinh Viết Hòe, sinh năm 1710
từ đất Ninh Bình phiêu bạt vào sinh cơ lập nghiệp tại ấp Thời Đôn (nay
thuộc thôn Thanh Liêm, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, Bình Định) vào khoảng
năm 1730 và lấy thêm vợ thứ (ông Hòe đã có vợ ở quê nhà) là bà Nguyễn
Thị Quyền, sinh năm 1715 và sinh được 3 người con Đinh Văn Diệm, Đinh Văn Nhưng, Đinh Văn Triêm. Đinh Văn Nhưng (còn gọi là Ông Chảng) chính là thầy dạy võ cho ba anh em Tây Sơn.
Hiện nay dòng họ này đã đổi sang họ Đào (sinh Đào tử Đinh) và tất cả
các tài liệu, hiện vật đều bị tiêu huỷ sau khi phong trào Tây Sơn thất
bại. Tài liệu duy nhất của dòng họ này truyền lại đến nay được biết là
một tập tư liệu cổ do võ sư Phan Thọ cung cấp trong đó có ký tên Đào Thống.
-Dòng họ Trần (thôn Trường Định, xã Bình Hòa, huyện Tây Sơn): là võ sư Trần Kim Hùng có nguồn gốc từ xứ Nghệ An, người dạy võ cho ba anh em Tây Sơn. Sau này, trong "Tây Sơn ngũ phụng thư" có Trần Thị Lan, bà Lan được ông nội là võ sư Trần Kim Hùng truyền dạy võ nghệ, bà có biệt tài về kiếm thuật và luyện thân lanh lẹ như chim én, nên tự hiệu là Ngọc Yến. Người chị của Trần Thị Lan là Trần Thị Huệ, vợ của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc.
-Roi Thuận Truyền (thôn Thuận Truyền, xã Bình Thuận, huyện Tây Sơn): "Roi Thuận Truyền" trước xa nữa không rõ ông tổ là ai, nhưng đến đời ông Ba Ðề thì truyền cho Hồ Ngạnh. Hồ Nhu
là tên thật của Hồ Ngạnh, sinh năm 1891, mất năm 1976. Ông nguyên quán
thôn Háo Ngãi, xã Bình An, huyện Tây Sơn, trú quán ở Thuận Truyền, xã
Bình Thuận cùng huyện. Cha là ông Ðốc Năm, một võ quan của triều Nguyễn.
Mẹ cũng là con nhà võ. Ngay từ lúc bé, ông đã được cha mẹ dạy võ gia
truyền. Lớn lên, ông học roi của cao sư Ba Ðề, học nội công của ông Ðội
Sẻ, tiếp đến học roi của ông Hồ Khiêm. Ðường roi kết hợp tinh hoa của
nhiều thầy, lại thêm nội công nên cứng cáp và sâu hiểm vô cùng. Từ roi
thế, roi đấu, roi chiến đến roi trận, ông đều tinh thông và độc đáo.
Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông đã vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngãi,
Bình, Phú. Nghe danh, học trò đến thọ giáo rất đông. Con trai chết sớm,
ông truyền nghề cho cháu nội là ông Hồ Sừng.
Học trò lớp lớn có ông Mười Mỹ (sinh năm 1912) ở Trường Úc, xã Phước
Nghĩa, huyện Tuy Phước được riêng dạy ngón võ bí truyền. Học trò lớp sau
có Ðinh Văn Tuấn ở Quy Nhơn, đang độ sung sức, nối nghiệp làm vẻ vang cho làng võ Thuận Truyền. Hồ Ngạnh được gọi là "võ sư huyền thoại"
-Quyền An Vinh (xã Tây Vinh, huyện Tây Sơn): "Quyền An Vinh" có từ lâu, nhưng cũng chỉ biết từ đời ông Hương Mục Ngạc. Lò võ này còn có ông Năm Nghĩa
(một số tài liệu viết ông Năm Nghĩa tên thật là Võ Dực), cũng là bạn
đồng môn đồng khóa, nhưng sau lại chuyên về roi. Hương Mục Ngạc học
quyền Bình Định (cô tổ của ông vốn là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân)
rồi học thêm quyền Tàu của ông Khách Bút. Ông nổi tiếng nhờ tổng hợp
được nhiều nguồn võ khác nhau, tạo nên tay quyền xuất sắc nhất trong
làng võ thuật Bình Định đương thời. ông có ba người con: Bảy Lụt, Tám
Cảng (nữ) và Chín Giác đều tinh thông võ nghệ. Ông dạy nhiều học trò, có
người nổi tiếng như Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ, Sáu Hà... Bảy Lụt chẳng
những xuất sắc về võ thuật mà còn gan dạ và có sức mạnh đáng kể, với tay
không có thể vật ngã một con trâu đực đang sung sức. Bảy Lụt truyền
nghề cho ông Phan Thọ. Sau này ông Phan Thọ còn học thêm võ trận Tây Sơn với ông Sáu Hà nên đã tiếp thu được cả tinh hoa quyền An Vinh từ mạch võ Hương Mục Ngạc lẫn võ chiến của Tây Sơn.
-Quyền An Thái (xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn): An Thái vốn có
những dòng võ truyền thống nổi tiếng nhưng đến năm 1924, một biến cố xảy
đến cho làng võ Bình định nói chung và dòng võ truyền thống của làng An
thái nói riêng. Ðó là sự xuất hiện của môn phái quyền Tàu. Người sáng
lập ra môn phái này là ông Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát,
sinh năm 1896 tại An thái. Tuy là người Tàu nhưng dòng dõi ba đời đều ở
An thái, bà nội và mẹ ông đều là người Việt. Ở quê mẹ, gia đình và bản
thân Tàu Sáu đã hấp thụ tinh thần thượng võ nên khi được 13 tuổi, ông
được gửi về Tàu để học võ từ những cao sư Bắc phái Thiếu Lâm.
Sau 15 năm ròng rã tầm sư học võ, ông Tàu Sáu lúc bấy giờ đã 28 tuổi,
trở lại An Thái, mở trường dạy quyền Tàu, sở trường hai môn Hổ quyền và
Long quyền. Ông dạy võ gần 50 năm, môn đệ rất đông, không bao lâu phái
quyền Tàu Thiếu Lâm
của ông đã rải khắp miền đất võ và riêng ở An Thái, võ quyền truyền
thống đã bị quyền Tàu lấn át làm lu mờ. Có người vì thế mà sửa lại câu
truyền tụng từ xưa là "Roi Thuận Truyền, Quyền An Vinh" thành ra câu
"roi Thuận Truyền, quyền An Thái".
Dân Bình Định đến với lò võ Tàu Sáu, có người vì xuất thân chuyên
về quyền Tàu như Ðào Hoành, Hải Sơn; có người chỉ để bổ túc cho tay roi
võ truyền thống được cứng cáp thêm như Mười Mỹ. Sau này con của ông, võ
sư Diệp Bảo Sanh
viết quyển "Võ thuật Bình Định chân truyền" trong đó gọi ông là tổ sư
của võ phái An Thái. Võ thuật phái An Thái được truyền vào Sài Gòn với tên gọi Bình Thái Đạo. Ngày nay môn phái này có chưởng môn là bà Diệp Lệ Bích (cháu nội của ông Diệp Trường Phát).
Dưới triều Gia
Long, võ Tây Sơn bị cấm, nhất là đối với các môn: kỳ (cờ), cổ (trống), kiếm, đao.
Việc cấm kiếm, đao, nói chung là cấm các binh khí kim loại (và cấm luôn cả việc
tàng trữ chúng) thì dễ hiểu rồi, thế còn sao phải cấm cả cờ, trống? Cấm cờ, trống
là sợ gợi nhớ về Tây Sơn. Chúng ta biết dòng võ Tây Sơn có môn gọi là Võ trận,
tập luyện đánh theo hiệu cờ và nhịp trống, rất hào hùng (ngày nay nếu ai đó chỉ
cần nghe một bài trống nổi lên thôi đã thấy lòng thúc giục rồi, huống hồ…!!).
Tuy bị cấm nhưng
võ Tây Sơn vẫn được lưu truyền ngấm ngầm trong lòng dân gian, phân tán vào các
làng quê, được truyền thụ theo lối cha truyền con nối (gọi là võ gia truyền), ẩn
dật trong các ngôi chùa. Thời kỳ này võ Tây Sơn vẫn được tiếp tục nghiên cứu,
phát triển, làm xuất hiện những chi phái, và dòng võ Tây Sơn với những chi phái
đó được gọi chung là võ Bình Định. Ngoài 18 môn binh khí truyền thống phương Đông,
võ Bình Định còn có nhiều môn công cụ đặc dị, trong đó nổi tiếng nhất là quyền
chiến và roi chiến. Hệ thống kỹ thuật chiến đấu này được hình thành từ thời Tây
Sơn do yêu cầu phải huấn luyện cấp tốc cho nghĩa quân. Hai môn này không có những
bài thảo như thường lệ mà bao gồm một số đòn thế được sắp xếp lại theo một ý đồ
chiến thuật được gọi là đường quyền, đường roi, học một đường thì chỉ sử dụng được
một đường, không cần phải thành thạo hết những kỹ thuật cơ bản. Do đòi hỏi của
bản thân võ thuật cũng như yêu cầu phải triệt hạ nhanh đối phương trong chiếu đấu
của một xã hội ở thời kỳ chiến tranh khốc liệt và loạn lạc, nhất là về sau này
những môn võ sử dụng binh khí kim loại như đao, kiếm bị cấm ngặt, nên hai môn này
đã có những bước phát triển vượt bậc. Nhiều đòn thế hiểm, độc xuất hiện, những
kỹ thuật tấn công nhằm vào các yếu huyệt, quăng quật, khóa khớp, bẻ khớp, rút gân,
nhất là điểm huyệt định giờ (đối phương khi bị trúng đòn sẽ chết trong khoảng
thời gian do người đánh ấn định)… cũng được sáng tạo ra.
Do mức độ quá
nguy hiểm của nó nên các võ sư trước đây rất thận trọng trong khi truyền thụ vì
nếu kẻ vô đức, bạo liệt lĩnh hội được thì thật khó lường. Những tuyệt kỹ ghê gớm
thuộc loại này, ngày nay đã bị thất truyền do tính sát thương hiểm độc cao độ của
chúng.
Có một loại quyền
pháp đặc dị của võ Bình Định gọi là Kê quyền (võ gà) tương truyền do Nguyễn Lữ
sáng tạo ra khi quan sát các trận đá gà, mang nhiều nét phảng phất kiểu gà đá
nhau bằng cựa, những cú mổ bằng mỏ vào nơi hiểm yếu, những cú quạt cánh… Một
trong những đặc trưng của quyền chiến Bình Định là đòn đánh xoay. Những đòn đá
xoay, đấm xoay phối hợp với thân pháp di chuyển theo kiểu làn sóng, thoạt cao
thoạt thấp, từ trên ập xuống, từ dưới bật lên, thường làm cho môn đồ của những
võ phái khác kinh ngạc vì bất ngờ.
Roi chiến Bình Định
thật ra là một biến thể của côn pháp. Điểm khác biệt chính của roi và côn là đánh
côn thiên về dụng lực, xả nhiều mà ít đâm, còn khi đánh bằng roi thì thiên về tốc
độ, ít xả mà thường đâm nhiều bằng cả đầu roi và đốc roi. Thân roi có thể bằng
mây hay những loại gỗ chắc và dai. Ở Bình Định, roi thường làm bằng một loại
tre to cỡ cổ tay, mọc nhiều tại đây. Roi tre được bịt đồng ở hai đầu để chống dập.
Người xưa thường chọn tre làm roi chiến vì có lợi là dễ kiếm, nhẹ nhưng chắc dẻo,
khi đánh đụng vật cản thì có sức bật trở lại dễ biến đòn, dùng roi quá nặng hoặc
cứng quá bị tốn lực do thiếu tính đàn hồi, khi đánh ra gây hiện tượng chìm đòn.
Cây roi, chỉ cần gắn đầu nhọn vào sẽ trở thành giáo mác, lợi hại vô cùng. Có trường
hợp người ta đào cả gốc tre, đóng đinh vào, sử dụng như trùy. Xưa kia, cá biệt,
những người có thần lực, vác cả bắp cày đánh như roi, có thể làm bật cả bụi
tre, sập cả nhà. Muốn sử dụng roi chiến thành thạo phải có thân pháp cực nhanh,
đòn đánh ra phải như chớp giật, luyện tập công phu có thể dùng roi đâm xuyên
bao cát.
Còn một đặc trưng
nữa của võ Bình Định là phép dùng lực. Người Việt vốn nhỏ con, yếu sức mà trong
giao chiến thường phải lấy nhỏ chống lớn, yếu địch mạnh, nên phương châm của võ
Bình Định là mưu chước và sự lanh lẹ để bù đắp nhược điểm về thể trạng. Trong
thực tế chiến đấu, võ Bình Định không dùng sức chọi sức mà nương theo đòn đánh
của đối phương, tập trung sức mạnh đột kích vào những chỗ sơ hở, nhằm tạo thế đánh
dứt điểm. Nếu như Thiếu Lâm võ phái chú trọng lấy động chế tĩnh, đòn thế cương
mãnh; Võ Đang võ phái chú trọng lấy tĩnh chế động, đòn thế nhu nhuyễn, thì ở võ
Bình Định lại chủ trương lấy động chế động, đòn thế phát ra theo lối nhu kình
“cứng tối thiểu, mềm tối đa”, cơ bắp luôn thả lỏng, chỉ căng cứng chốc lát đúng
lúc va chạm mục tiêu.
Trong võ Bình Định,
cũng không thể thiếu rèn luyện khí công. Khi võ sinh đã đạt đến trình độ cao thì
được truyền dạy môn khí công nhằm hoàn thiện thể chất và tinh thần, cũng như để
đủ khả năng thi triển được những kỹ thuật đặc dị, siêu phàm.
Có một ý lóe lên
trong đầu chúng ta thế này: ở con người Nguyễn Huệ, thiên tài quân sự là sự thăng
hoa từ năng khiếu võ thuật bẩm sinh, cùng với bộ não tinh nhạy, thông sáng đã
nhận ra được để rồi thấm nhuần được những giáo huấn trác tuyệt của truyền thống
binh pháp dân tộc Việt, ẩn chứa tiềm tàng trong tư tưởng của nền võ học Đại Việt
mà dòng Võ Tây Sơn và sau đó là Võ Bình Định kế thừa một cách xuất sắc và đầy sáng
tạo.
Gắn liền với võ
cổ truyền Bình Định là ba địa danh nổi tiếng: Thuận Truyền, An Thái, An Vinh qua
câu: “Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh - An Thái”, hay “Trai An Thái, gái An
Vinh” vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay.
Thuận Truyền xưa
thuộc Bình Khê trong phần đất Tây Sơn Hạ, là một bộ phận của đất võ Tây Sơn, lừng
tiếng ở thế kỷ XVIII. Nay Thuận Truyền thuộc xã Bình Tây, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình
Định. Là một làng nhỏ, song Thuận Truyền được nhiều người biết đến nhờ đường
roi vang danh cả nước.
Đầu thế kỷ XIX,
võ binh khí kim loại bị cấm ngặt, chỉ có thể sử dụng gậy hay còn gọi là côn (trường
côn, đoản côn), nhưng để tránh hẳn phiền phức và cũng do cây tre dùng làm côn có
đặc tính dẻo dai nên người Thuận Truyền gọi trại đi là roi, “ngọn roi”, để rồi
tập trung trau chuốt kỹ thuật đến thượng thừa thành “roi Thuận Truyền” trong ngôn
ngữ làng võ. Họ Hồ ở Thuận Truyền (có thể cũng là họ gốc của anh em nhà Tây Sơn?)
đã cùng các họ khác trong vùng âm thầm rèn luyện ngọn roi gia truyền, mai danh ẩn
tích suốt thế kỷ XIX. Sang thế kỷ XX, một nhân vật võ lâm lừng lẫy là Hồ Ngạnh
với tài võ do chính bà mẹ truyền dạy cho từ khi còn nhỏ, được triều đình Huế mời
về kinh đô dạy côn - quyền cho một số thanh niên hoàng tộc.
Cùng thời với Hồ Ngạnh
có Dư Đành cũng nổi tiếng khắp huyện Bình Khê với ngọn roi tuyệt vời. Nghe kể,
lúc đầu Hồ Ngạnh đấu roi thua Dư Đành, sau về học thêm một thầy võ cũng họ Hồ
trong vài năm, cuối cùng thắng Dư Đành và từ đó nổi tiếng khắp vùng Qui Nhơn.
Khi Hồ Ngạnh đã là thầy võ hoàng gia, tại Huế có nhóm võ sĩ Sơn Đông (Trung Quốc)
tới hành nghề mãi võ, trong đó có một võ sư thượng thặng về trường đao, cựu vô địch
Sơn Đông (vùng nổi tiếng về võ nghệ của Trung Quốc) tên là Trịnh Hùng Trí. Do sự
sắp xếp của hoàng gia, một cuộc thượng đài tranh tài cao thấp xảy ra. Hồ Ngạnh
hai lần thay roi đều bị đao của Trịnh Hùng Trí phạt đứt, nhưng chính đó là đòn đánh
gia truyền được gọi là “Trí hoặc”, nhờ đối phương vát hộ đầu ngọn roi thành nhọn
như mũi giáo, để rồi chớp thời cơ, bằng thế võ “Ưng Trảo quyền”, Hồ Ngạnh đã đoạt
được trường đao của Trịnh Hùng Trí, khẳng định: “Hồ Ngạnh danh bất hư truyền”.
Hồ Ngạnh được
giới võ lâm tôn là “Tổ sư phái võ Thuận Truyền” và đầu thập niên 30, ông có mở
võ đường để truyền dạy.
An Thái thuộc
huyện An Nhơn, An Vinh thuộc huyện Tây Sơn. Tuy khác huyện nhưng cả hai đã gắn
bó nhau trong môn võ quyền (võ tay không), tạo thành một trung tâm nổi tiếng của
quyền Bình Định. An Thái từ giữa thế kỷ XVIII đã được biết đến với võ đường của
võ sư Trương Văn Hiến. Ngay từ thời ấy, ở đây đã có sự gặp gỡ của ba dòng võ Việt
- Hoa - Chăm để rồi kết tinh lại trong võ Tây Sơn.
Võ quyền An
Vinh gắn bó với dòng họ Đinh mà tổ sư là Đinh Văn Nhưng, người gốc Bắc, đã từng
dốc lòng võ học cho nhà Tây Sơn. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, tự xưng Gia Long và
trả thù nhà Tây Sơn thì Đinh Văn Nhưng đã mất. Họ Đinh ở Bằng Chân (An Nhơn) phải
đổi sang họ Đào để tránh nạn (đến khi chết lại trở về họ Đinh, “sinh Đào, tử Đinh”).
Trước đó có một nhánh nhỏ đến Kim Tài (cũng thuộc An Nhơn) tạo nên một chi, và ở
đây họ Đinh được giữ nguyên. Đinh hay Đào thì cả về dòng họ lẫn nghiệp võ đều cùng
chung một vị tổ là Đinh Văn Nhưng.
Như đã nói, An
Thái - An Vinh lúc đầu là một trung tâm thống nhất, nổi tiếng về quyền thuật Bình
Định, cùng dựa trên một nền tảng võ học với những cái tên làm nên niềm tự hào của
nó như: Đinh Khải (tức Đinh Cát), Năm Nghĩa (tức Hứa Nghĩa), Hương Mục Ngạc…, rồi
vào những thập niên trước năm 1945 nổi lên những cái tên như: Hương Kiếm Mỹ (tức
Đinh Hề), Bảy Lụt, Tám Cảng (nữ), Sáu Sanh (nữ)… Về sau, một võ sư là Tàu Sáu xây
dựng được một môn phái riêng gọi là võ phái An Thái. Để rồi võ truyền thống của
trung tâm được gọi để phân biệt là võ phái An Vinh (nơi hội tụ chủ yếu của võ
phái?). Nhiều người tỏ ra tiếc nuối về sự phân ly này. Nhưng thiết nghĩ xu hướng
phát triển (hay đúng hơn là vận động) của bất cứ nền võ học nào cũng phải vậy:
hội tụ để phân tán, phân tán để lại hội tụ. An Vinh hay An Thái thì cũng là Bình
Định và sự phân kỳ ấy có lẽ mang lại lợi nhiều hơn hại cho võ Bình Định đang trên
đà tàn lụi, thất truyền.
Tàu Sáu có tên
thật là Diệp Trường Phát (1896-1962), sinh tại làng An Thái, có cha là người gốc
Hoa. Năm 13 tuổi, Tàu Sáu về quê nội ở Trung Quốc học võ 10 năm, rồi sang Hồng
Công học thêm 5 năm nữa. Có thể trước khi sang Trung Quốc, Tàu Sáu đã từng học
võ Bình Định và đã tiếp thu được ở mức độ nhất định, có tính chất khai mở. Năm
1924, ông trở về An Thái mở trường dạy võ. Tàu Sáu đã tiếp thu, chọn lọc tinh
hoa võ thuật lâu đời của cả vùng rộng lớn An Thái, An Vinh, Thuận Truyền, Kiến
Mỹ, Cảnh Nàng, Vân Sơn, Háo Lệ, Vân Quang (Nước Mẫu), Hữu Pháp, Kỳ Sơn… (có cùng
gốc gác là võ Tây Sơn trước đây) và trên cơ sở võ học truyền thống đó, đã phối
chế với tinh hoa võ học Trung Hoa cũng như của các nước láng giềng, với quyền cước
của cả ba miền Việt Nam, cải tiến, tổng hợp, tạo nên võ phái An Thái. Nghe đâu,
Tàu Sáu từng tự xưng là ông tổ của võ thuật Bình Định chân truyền. Nếu có thế
thì kể cũng hơi quá. Khi võ sư Tàu Sáu mất, con là võ sư Diệp Bảo Sanh lên kế vị,
làm Chưởng môn. Lúc này võ phái An Thái có thêm danh xưng là Bình Thái Đạo, võ đường
có tên hiệu là Tây Sơn võ đường Bình Thái Đạo.
Khi An Thái tách
ra, phá vỡ tính thống nhất của trung tâm quyền An Thái - An Vinh thì gia phái họ
Đinh càng trở thành võ phái An Vinh độc lập, tiếp tục lưu truyền nhiều nơi ở vùng
Qui Nhơn - Bình Định. Đinh Văn Tuấn (tức Bốn Trân) sinh ra và lớn lên ngay tại
An Vinh, là học trò của cả ba thầy võ ở Bình Định là Hương Kiểm Mỹ (An Vinh), Ấm
Hổ tức Sáu Hổ (An Thái) và Hồ Ngạnh (Thuận Truyền) nên đã tiếp nhận được tinh
hoa của cả quyền và roi, am tường khá rộng về võ Bình Định cổ truyền và cũng đã
mở võ đường để tận tâm truyền bá cho thế hệ sau. Võ sư Bảy Tòng (tức Từ Tâm),
quê gốc An Thái, song đã tìm sang đất quyền An Vinh định cư, học võ thầy Sáu Hà,
tiếp nhận một vốn võ Võ Bình Định cổ ở ngay tại đây. Ông cho biết: quyền An
Vinh là lối đánh chậm nhưng kín và chắc đòn, biết nhu - cương đúng lúc, đúng chỗ,
lại có những né tránh, phản đòn rất lợi hại, tiêu biểu là “thế dồn”. Trong võ
quyền An Vinh còn phải kể gia phái võ sư Mười Đậu ở Trường Úc (Tuy Phước), võ sư
Mười Đậu là bạn võ của Hương Mục Ngạc và Năm Nghĩa, đã truyền dạy cho Xã Hào (tên
thật là Trần Trọng). Xã Hào cũng là một võ sư nổi tiếng ở vùng Tuy Phước những
thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Ông lập võ đường khoảng đầu thập kỷ 30, đặc biệt chú
trọng đến việc truyền dạy đạo đức con nhà võ.
Rất có thể võ
phái An Thái “cương” hơn nên phù hợp với nam giới hơn, võ phái An Vinh vì đậm nét
truyền thống hơn nên “nhu mì” hơn, hợp với nữ giới hơn. Đó phải chăng cũng là một
nguyên nhân và có khi là nguyên nhân chủ yếu để làm xuất hiện trong dân gian câu
lưu truyền: “Trai An Thái, gái An Vinh”?
Như vậy, võ Thuận
Truyền đi sâu và nổi trội ở “múa roi”, võ An Vinh - An Thái đi sâu và nổi trội ở
“đi quyền”. Nhưng quyền chiến, roi chiến đều gắn bó thống nhất trong nội dung võ
Bình Định cổ truyền với câu đúc kết “Quyền tay đấu, roi đấu”. Tiêu biểu cho đặc
sắc về roi là võ sư Hồ Ngạnh, tiêu biểu cho đặc sắc về quyền là võ sư Hương Kiểm
Mỹ. Sự đặc sắc của hai môn này là có những nét riêng mà làng võ Bình Định đã tổng
kết rất cô đọng, đúng “khẩu khí” truyền thống của dân gian. Chẳng hạn: “Roi tiên,
quyền tiếp”, hay “Roi tiên, quyền liếp”. “Roi tiên” là người cầm roi vào trận đấu
phải chủ động ra đòn trước để chiếm trên cơ, dồn đối phương vào thế đối phó, bị
động. “Quyền tiếp” là khi đấu quyền thì đòn thế phải ra liên tục, không dứt, chỉ
dừng lại khi thắng bại đã phân. Còn “quyền liếp” là người đi quyền phải dựa
theo thế đánh của đối phương mà liệu tìm thế đánh lại sao cho hợp lý nhất. Tuy
roi, quyền là hai môn võ đặc thù, khác nhau về kỹ thuật, nhưng đều phải tuân
theo nguyên tắc chung là công thủ đi liền, đối với bộ tấn thì “túc bất ly địa”
(chân không rời đất) hay “Đi như lá, đứng như đá” (nghĩa là khi đứng thì phải vững
như bàn thạch, khi di chuyển thì phải gọn gàng, nhẹ nhàng, nhanh chóng). Cả quyền
và roi đều đòi hỏi phải rèn luyện thể lực, sự phản ứng nhanh nhạy trong phân thế
chiến đấu và tinh thông kỹ thuật, nghĩa là: “Nhất mạnh, nhì lanh, ba giỏi”.
Còn một bộ phận
nữa của võ cổ truyền Bình Định, vẫn âm thầm lưu chảy qua thời gian dưới triều
Nguyễn đến tận ngày nay mà chúng ta không thể không nhắc đến, đó là, như nhân
gian thường gọi: Võ nhà chùa, hay Võ chùa. Võ chùa Bình Định vừa mang nét riêng
của một vùng đất võ, vừa có nét chung của truyền thống võ Đại Việt. Trong võ chùa
Bình Định, nếu tinh ý sẽ thấy còn đọng lại nhiều nét thời ban sơ hình thành nên
dòng võ Tây Sơn, cũng như sẽ phảng phất hình bóng xa xưa của võ Đại Việt. Đối với
những ai muốn quan tâm tìm hiểu lịch sử của truyền thống võ học nước nhà thì đối
tượng nghiên cứu đem lại nhiều bất ngờ lý thú nhất, theo chúng ta, đó là Võ chùa.
Từ TP Quy Nhơn chạy dọc tuyến quốc lộ 19 đến đoạn cầu Đại Giang, nhìn
về hướng Đông Bắc đỉnh tháp của ngôi chùa Long Phước, hiện ra ngay
trước mắt. Đến gần hơn chút nữa, toàn cảnh ngôi chùa thanh tịnh hiện ra
giữa nơi làng quê xanh ngát. Chùa Long Phước tọa lạc tại thôn Tân
Thuận (xã Phước Thuận, Tuy Phước, Bình Định). Đây là nơi đã sản sinh ra
nhiều nhân tài võ học nổi tiếng trong nước và cả nước ngoài như: Vạn
Thanh, Văn Tính, Kim Huệ, Trần Di Linh, Nguyễn Văn Cảnh… Nơi đây hiện đang cất giữ báu vật võ học Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp - cuốn bí kíp được sư tổ Hư Minh (1518 - 1590) ghi chép lại hơn 150 bài võ
cổ, quý hiếm truyền lại cho các đời sau, đến nay đã là đời thứ 13. Cuốn
bí kíp hiện đang được Viện chủ là Đại võ sư quốc tế Hòa thượng Thích
Hạnh Hòa nắm giữ.
Những bài võ quý của các danh tướng các triều đại được ghi chép lại vào trong cuốn bí kíp như: "U linh thương" (thời nhà Đinh), "Động địa thủy tiên" (của Đinh Tiên Hoàng), "Tru hồn kiếm" (thời Lý), "Tây quy kinh môn tiên" (của Lý Công Uẩn), "Mai hoa quyền" (của Phạm Ngũ Lão), "Vệ la thành thương", "Đằng vân sát kiếm", "Sa vân kiếm pháp"…Hiện tại cuốn bí kíp còn rất nhiều bài võ quý mà chưa được dịch và khám phá hết. Cuốn bí kíp là kho tàng võ thuật vô giá của võ
phái chùa Long Phước nên được gìn giữ rất kỹ lưỡng, chỉ có
người đức cao vọng trọng và có kiến thức uyên bác về võ đạo, võ học mới
được truyền lại. Các bài võ được dịch
và chân truyền cho các đời đệ tử tiêu biểu sau này. Điều đặc biệt ở
đây, cách truyền lại và ghi chép đều mang những nét riêng biệt, nếu
không phải là đệ tử của chùa thì khó có ai dịch được.
Ngày nay chùa Long Phước còn là một nơi của một phái võ chùa đặc sắc,
do thầy Thích Hạnh Hòa và sư Vạn Thanh đảm nhận việc dạy võ các môn sinh, tạo
ra lực lượng võ sĩ, võ sinh nòng cốt của huyện trong những cuộc tổ chức biểu diễn
và thi đấu ở cấp tỉnh và khu vực. Trong khuôn viên nhà chùa, thường xuyên có hàng
chục thanh thiếu niên tập luyện những môn võ nghệ cổ xưa. Ngoài việc dạy hai môn
võ cổ truyền đặc sắc của Bình Định là quyền và roi, nhà chùa còn dạy một số môn
võ binh khí như thương, kiếm, đạo…được lưu truyền lại từ ngàn xưa với những bài song đấu lạ lẫm như: Sa Vân Kiếm
Pháp, Đằng Vân Sát Kiếm, Xích Kiếm Ô Long Tiên, Uất Linh Tiên, Tây Qui Kim Môn
Tiên. Hai nhà sư - thầy võ Hạnh Hòa và Vạn Thạnh biểu diễn các bài kiếm, đao,
thương của võ chùa, trông uy mãnh đến là lạ thường! Có những bài múa võ có lẽ
chỉ ở đây mới có (?) như: các bài thương tương truyền là của Trần Quốc Tuấn, có
bài Hàn Kiếp Trùng Dương, bài Lữ Đáo Thương (hay còn gọi Đông Địa Chung Thương)
của Trần Quốc Toản, các bài đại đao của Lý Thường Kiệt, các bài kiếm có nét đao
bên trong, các bài võ của Phạm Ngũ Lão tập luyện trên những gò cao…
Ngoài việc dạy
các môn võ nghệ, chùa Long Phước còn có những qui pháp từ lâu đời, rất gần dân
dã mà cụ thể là đòi hỏi môn sinh phải thực hành được 5 điều:
-
Hiếu hạnh với cha mẹ
-
Ân tình và trọng nghĩa
-
Không bất nhã với người trên, phải tôn sư trọng đạo
-
Khiêm tốn, không tham lam, không lộ tướng oai hùng
-
Không được đem lòng hiểm độc
Ngược lại với điều trên là 5 điều cấm kỵ nữa.
***
Hệ thống kinh sử
và chùa chiền thường vẫn lưu giữ được những vết tích cổ xưa một cách lâu dài và
“chân truyền” đó là nói chung, như chúng ta đã từng đề cập, có lẽ là huyền sử về
nguồn gốc, về sự mở đầu của bất cứ dân tộc nào, bất cứ tôn giáo nào, do bị “nhiễm”
tình cảm ưu ái (rất dễ thương thôi!), muốn đề cao dân tộc mình, tôn giáo mình của
những nhà xây dựng nên huyền sử ấy, bao giờ cũng được “ưu tiên chiếm thế thượng
phong”, và thời gian xảy ra các sự kiện thường dễ bị “đẩy” xa hơn một chút(!) về
hướng “cổ hơn”, “lấy của người làm của mình” dù có thể chỉ là vô tình. Truyền
thuyết hay những điển tích Phật giáo cũng không thể ngoại lệ. Dù sao thì nhiều
khi do tính duy nhất của tư liệu lịch sử, chúng ta vẫn phải sử dụng vì không còn
cách nào khác. Tốt thôi! Chỉ có điều cần nói là nên dè dặt, nghĩa là đừng quá cả
tin như Quan Vân Trường mà cũng đừng quá đa nghi như Tào Tháo!
Theo Phật sử thì
Phật giáo truyền vào nước ta từ rất sớm. Vào khoảng thế kỷ III TCN, vua Asoka
(273-286 TCN), vị anh hùng đã thống trị toàn bộ Ấn Độ và đồng thời rất sùng đạo
Phật đã phái những đoàn truyền giáo Ấn Độ đến Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam.
Sách “Thủy kinh chú” nói rằng: vua Asoka đã cho xây dựng một ngôi Phật tháp
(Stupa) tại thành Nê Lê (thuộc Đồ Sơn - Hải Phòng) của nước ta. Theo “Lĩnh Nam chích
quái” thì dưới thời Hùng Vương thứ 18, Chử Đồng Tử đã theo khách buôn nước ngoài
ra đảo Quỳnh Viên học đạo Phật của một nhà sư Ấn Độ và khi về còn được trao cho
một cây gậy cùng một chiếc nón lá có thể làm phép gây mưa. Câu chuyện này làm
chúng ta có cảm giác nhà sư Ấn Độ nọ mang hình bóng của nhà truyền Đạo Giáo hơn
là Đạo Phật.
Có một câu hỏi đặt ra: tại sao các đoàn truyền giáo đó không “tiện
thể ghé vào” lãnh thổ của dân tộc Chăm để truyền thụ Phật Giáo ở đó luôn? Vì
sao Phật Giáo lại chừa khu vực đó ra cho Đạo Bà la môn “chiếm chỗ”? Đạo Bà la môn
xâm nhập vào dân tộc Chăm lúc nào? Tại sao Đạo Bà la môn lại không xâm nhập được
vào Bắc - Việt Nam,
hoặc nếu có xâm nhập vào thì cũng mờ nhạt, không “thịnh” lên được? Theo chính sử
thì đầu Công Nguyên, đạo Bà la môn đã đến với cư dân Phù Nam và cư dân Chămpa trên đất nước
ta. Sau này, thông qua con đường Chămpa, đạo Bà la môn đã ảnh hưởng đến vùng đất
Đại Việt: nhiều vua Lý cho làm chùa để thờ các tượng thần Phạm Vương và Đế Thích.
Các Gatuda, Nandin và Apsara được điêu khắc và trang trí trong một số công trình
kiến trúc thời Lý. Lẽ nào đạo Bà la môn đến vùng Bắc bộ - Việt Nam sau khi đạo
Phật đã phổ biến ở đây, để chỉ tạo được vài dấu ấn trong kiến trúc thời Lý, rồi
lại “ra đi”? Hay Bà la môn đến trước đạo Phật từ lâu và sự xuất hiện của đạo Phật
đã làm nó suy vi và đến thời Lý chỉ còn là sự hửng lên cuối cùng của ngọn lửa
leo lét trước khi phụt tắt?
Thế còn Đạo Giáo
xuất hiện sớm nhất ở nước ta vào thời kỳ Văn Lang hay sau Công Nguyên, trước
hay sau Phật Giáo, trước hay sau Bà la môn? Vì sao những nhà sư đầu tiên đặt chân
lên mảnh đất này truyền giáo phải thi triển nhiều phép lạ để mê hoặc, thu phục
nhân tâm? Phải chăng là để “cạnh tranh” với những đạo sĩ của Đạo Giáo đã có mặt
từ trước? Có một lạ lùng là Phật Giáo và Đạo Giáo, trong dân gian nước ta hình
như đã hòa quyện làm một vào thời kỳ đầu: đạo sĩ cũng có thể là cao tăng và nhiều
cao tăng “kiêm luôn” cả vai trò đạo sĩ. Ngày thơ ấu, chính thế hệ chúng ta, khi
nghe những câu chuyện cổ tích, thần thoại đều không thể phân biệt được đâu là cõi
Bồng Lai, đâu là cõi Niết Bàn và đều cho rằng Bụt (đại diện cho Phật Giáo) và
Tiên (đại diện cho Đạo Giáo) là hai nhân vật của cùng một thế giới. Mà hình như
chuyện thần tiên, hóa phép… vẫn là những câu chuyện hay nhất (ở hầu hết các dân
tộc trên thế giới) và đều răn dạy con người: ở hiền gặp lành, trời không phụ người
nghèo khó…
Câu hỏi cuối cùng:
tại sao vua Asôka chỉ quan tâm đến việc truyền Đạo Phật vào vùng Đông nam Á và
có thể là cả Đông bắc Á mà sao không quan tâm tới những vùng khác cũng rất “gần”
Ấn Độ, chẳng hạn như Pakistan, Iran, Ả Rập…, hay đã cố truyền mà dân những xứ đó
không “thụ” được?
Lịch sử tôn giáo
phương Đông và sự lan truyền của nó quả là mập mờ!
Lặn hụp mệt phờ
trong khối mập mờ đó, trong bộ não hoang tưởng hết sức phong phú và đa tạp của
chúng ta bỗng lóe lên một ý nghĩ nổi da gà: phải chăng quá trình truyền đạo vào
khu vực Bắc Bộ - Việt Nam trong giai đoạn trước - sau Công Nguyên chừng 200-300
năm là quá trình quay trở về nguồn cội, về nơi đã tạo tiền đề tư tưởng cho những
giáo phái đó phát sinh, mà “dư luận” đương thời đều “sùng bái” như thế? Lúc đầu
là Bà la môn Giáo, kế đến là Phật Giáo, lần lượt đến như về một thánh địa hoặc
cũng có thể chỉ là Phật Giáo đến nơi đã có sẵn một tín ngưỡng mà cốt lõi của nó
là đa thần, tự do, hồn nhiên, làm cơ sở cho Bà la môn Giáo và Đạo Giáo. “Gan cùng
mình” mới có thể suy luận liều mạng như thế! Nhưng, biết đâu đấy!
Qua những nhận
xét của các nhà khảo cổ học, chúng ta thấy rằng xã hội (?) tối cổ trên đất nước
ta đã đạt được những thành tựu lớn lao để có được nền văn hóa Hòa Bình, một nền
văn hóa có thể là rực rỡ hơn chúng ta thấy rất nhiều, nếu tất cả những hiện vật
của thời đó, (giả dụ như đồ gỗ, đồ đất sét chưa nung hoặc nung chưa “đủ lửa” để
thành đồ gốm…) tồn tại nguyên vẹn qua thời gian đến ngày nay.
Chỉ qua những vật
dụng với số lượng tất nhiên là hạn chế, phát hiện được nhờ khảo cổ, người ta đã
có những lời nhận xét về trình độ nhận thức của con người ở thời kỳ tối sử này,
rằng: đã có những nhận thức khá sâu sắc về thế giới tự nhiên, về qui luật sinh
trưởng của thực vật; đã xuất hiện quan niệm về sự tồn tại của linh hồn, tư duy
về tín ngưỡng vật tổ, tín ngưỡng nông nghiệp, tư duy về mĩ cảm, về hình học, về
chữ viết, về số đếm, về thiên văn, về lịch pháp, các loại hình nghệ thuật như hội
họa, điêu khắc cũng đã được biết đến; đã nhận ra sự biến động có tính tuần hoàn
của thiên nhiên, tính phân lập, đối xứng của các sự vật hiện tượng, tư duy về sự
hiện diện cũng như sự trôi của thời gian, về vũ trụ.
Vậy thì với trình
độ về vật chất và tinh thần như trước đây đã nói và vừa nói đó, văn hóa Hòa Bình
so với các trình độ văn hóa ở những vùng lãnh thổ láng giềng và cả trên thế giới,
lúc đương thời đã có thể được gọi là một nền văn minh đích thực chưa? Phải chăng,
vùng đất xuất hiện văn hóa Hòa Bình, do có những điều kiện thiên nhiên thuận lợi
như khí hậu, thổ nhưỡng… đã là nơi quần tụ dân cư từ rất sớm và vì đã từng ở rất
gần Địa Đàng nên so với những khu vực khác, đã là nơi tiếp thu sớm nhất, nhiều
“điều tốt lành” nhất từ nền văn minh Địa Đàng, thậm chí đó là nơi tiếp tục lan
tỏa ra thế giới nền văn minh Địa Đàng sau khi thời đại Địa Đàng đã đột ngột kết
thúc, nghĩa là nhiều khu vực tiền văn minh cổ đại đã hấp thụ không ít nét về
tinh thần và vật chất của văn minh Địa Đàng một cách gián tiếp thông qua văn hóa
Hòa Bình?
Chính nền văn hóa Hòa Bình, cùng với những nền văn hóa kế thừa sau đó,
có tính chuyển tiếp đã làm nên nền văn hóa Phùng Nguyên và tiếp theo là văn hóa
Đông Sơn…, và cũng với những nền văn hóa đó đã xây dựng nên một quan niệm tươi
tắn, hồn nhiên, khoáng đạt, đậm tính phồn thực về thế giới đa thần, có phân có
hợp, tuần hoàn biến đổi không ngừng. Có thể rằng trước khi Kinh Dương Vương có
mặt tại khu vực Bắc Bộ - Việt Nam, nơi đây đã có một nền văn hóa bản thổ với những
nhận thức có tính mầm mống về một thế giới lưỡng phân lưỡng hợp, tam phân tam hợp
để rồi sau đó làm hình thành nên một quan niệm chính thống hết sức tài tình về
Tự Nhiên. Tục thờ những bộ phận sinh dục nam, nữ, coi chúng là những vật linh
Linga (dương vật), Yoni (âm vật), cũng như tính phân hợp nhưng thống nhất Lưỡng
Nghi, Âm - Dương tương phản mà tương đồng rất có thể đều xuất phát từ quan niệm
này…
Sự suy tưởng
thiếu chứng thực có thể đúng mà cũng có thể sai. Mặc lòng! Vì chúng ta biết rằng
bản thân đã cố gắng đạt đến lương tri cao nhất có thể, đã cố gắng đạt đến trình
bày khách quan nhất trong thế giới chủ quan của mình. Với một núi bằng chứng “rõ
như ban bày”, được sử dụng bởi một quan niệm thiên kiến, “tối như mực” thì cũng
phỏng đã hơn gì?
Nhưng có một chắc
chắn: trước khi có sự xâm nhập của Phật Giáo, Đạo Giáo, Bà la môn Giáo, tổ tiên
dân tộc Việt đã có sẵn một… “Giáo”: một nền văn hóa, một tín ngưỡng, một trình độ
võ học - khí công hoàn toàn độc lập và đặc sắc, có tính truyền thống, có gốc rễ
lâu đời, tại chỗ. Và có một lạ thường: Bà la môn, Phật, Đạo, sau này là Nho khi
xâm nhập vào Tổ Quốc Văn Lang đã không những không bài trừ gay gắt nhau, mà còn
nương nhau, học hỏi nhau, và hòa hợp cùng tín ngưỡng dân gian tại chỗ, tất cả
những Tổ, Tiên, Bụt, Thần, Thánh đều vui vẻ bên nhau trong cùng một thế giới. Hình
như đó có vẻ như là một sự hội ngộ, tương phùng cuả những tư tưởng dù cũ dù mới,
dù đã có nhiều sai biệt, nhưng đều có chung một gốc sâu xa (?). Cốt lõi của những tư
tưởng ấy, xét về nhận thức tự nhiên, là trong sáng, phù hợp cho việc giải thích
những sự vật - hiện tượng thiên nhiên, xét về nhận thức xã hội, là nhân hậu,
bao dung, giản dị, dân dã, thỏa mãn ước vọng Đại chúng, mà Phật Giáo, trong thời
đại cực thịnh của nó, đã đóng vai trò đại diện một cách xứng đáng.
Sự trường tồn
và tiếp tục phát triển trong dân dã của Phật Giáo, cũng như của vài tôn giáo khác
trên thế giới không phải vì nguyên nhân là tốt đẹp. (Phật Giáo không thể giữ chính
quyền được vì tính quá “hiền như ngu” của nó, Chủ Nghĩa Xã Hội không “sống” hồn
nhiên và bền như Đạo Phật trong lòng dân dã được vì tính “dữ như ác” của nó. Chủ
Nghĩa Xã Hội sẽ không được “thờ phụng” nếu không có sự bênh vực của chính quyền,
dù khẩu hiệu mà nó dương ra là tốt đẹp, dù nó cũng muốn điều tốt đẹp cho Đại Chúng
giống như Đạo Phật!)…
Đạo Phật đã là
như thế nên không ai “nỡ” và “dám” tàn phá nhà Phật, trừ thằng điên, hôn quân bạo
chúa và trừ… Ngô Đình Diệm, Trần Lệ Xuân. Vì lẽ đó mà chúng ta cho rằng trong cõi nhà Phật ở
Việt Nam còn tiềm ẩn rất nhiều sự thật thời cổ xưa, trong đó có võ học Đại Việt,
một nền võ học vừa mang tính riêng của dân tộc Việt, vừa mang tính chung của võ
học Đông Á, được hun đúc nên từ kế thừa có chắt lọc vốn cũ, học hỏi lựa chọn các
nền võ học láng giềng, đồng thời với nghiền ngẫm sáng tạo thêm.
Đọc lại những
truyền thuyết, huyền tích trong các sách “Lĩnh Nam chích quái”, “Việt điện u
linh”, “Nam Hải dị nhân”… ai cũng biết rằng trước cả thời tiền Lý, ở nước ta đã
xuất hiện hiện tượng nhiều nhà sư cũng đồng thời là võ sư thượng thặng, nhiều đạo
sĩ đồng thời là những nhà có công phu cao siêu. Điều đó cho thấy có khả năng từ
rất xa xưa, trong một số điện, chùa nước ta đã có hiện tượng tương tự như chùa
Thiếu Lâm sau này: bên cạnh việc truyền thụ Phật pháp, tu hành, còn có truyền
thụ võ nghệ (gồm võ thuật, y võ, khí công). Sự truyền thụ võ học trong nhà chùa
từ đó được lưu truyền âm thầm tạo nên một mạch võ cho đên nay gọi là Võ Chùa.
Theo lời kể của
Mai Văn Muôn thì ngày nay, trong bầu không khí xã hội có nhiều cởi mở, người ta
dễ dàng nhận thấy tại miền đất võ Bình Định có một số chùa vẫn thường xuyên dạy
võ bởi các thầy dạy là các hòa thượng, thượng tọa. Chẳng hạn như thượng tọa Thích
Huyền Ấn ở Qui Nhơn (viên tịch năm 1989) rất giỏi võ, có giao du rộng với các võ
sư ngoài đời cũng như trong giới, trong đó có võ sư là nhà sư trụ trì đời thứ
38 của một ngôi chùa cổ thuộc phái Tiểu Thừa (thường tiến hành dạy võ sinh và võ
đạo trước khi dạy võ nghệ).
Huyên thuyên,
liến thoắng về đề tài “võ nghệ” đến đây có lẽ cũng tạm gọi là ổn. Nhưng trước
khi kết thúc, chúng ta nên kể thêm vài ba giai thoại của làng võ nữa cho đủ vẻ,
xôm tụ hơn:
- Chuyện thứ nhất
Trong khoảng thời
gian lập căn cứ địa chống Pháp ở Đồng Tháp Mười, có lần trong một buổi nhậu vui
vẻ với thuộc hạ, mọi người nài nỉ Thiên Hộ Dương biểu diễn tài nghệ võ học. Thiên
Hộ Dương hứng khởi bèn cởi áo ra, cầm roi múa. Lúc đầu còn thấy bóng người, sau
chỉ nghe tiếng gió vù vù và bóng cây roi che phủ kín người ông Thiên Hộ suốt nửa
tiếng đồng hồ. Ông tới lui giáp vòng sân, rồi tiến vào giữa sân, nhảy lên một gò
cao cả thước gần đó mới đột ngột ngừng roi. Tiếng vun vút đến ghê người phát ra
từ ngọn roi lúc đó mới chấm dứt.
Mọi người vỗ
tay rần rần, khen ngợi hết lời. Ông Thiên Hộ nói với họ rằng đó là đường roi
song đôi, dùng khi bị lọt vào giữa vòng vây để “thượng bảo kỳ nhân, hạ bảo kỳ mã”
(trên thì bảo vệ mình, dưới thì che đỡ cho ngựa). Rồi ông nói với ba thủ hạ
giỏi võ của mình là Thủ Chiếu, Nhiêu Chấn và Thông Phụng:
- Nếu muốn biết
sự lợi hại của đường roi song đôi, tôi sẽ cưỡi trâu từ dưới kinh lên, chấp ba ông
ở trên bờ ra roi đánh cản, tôi sẽ đội roi đi qua cho coi.
Dưới ánh trăng
soi mờ mờ, Thiên Hộ Dương cầm roi, cưỡi trâu ra bờ kênh thúc nó lao ùm xuống nước.
Ba ông kia trên bờ cũng cởi áo ra, cầm roi thủ sẵn. Thiên Hộ Dương kẹp hai dây
vào hàm trâu quấn vào hai ngón chân cái rồi thúc trâu xông lên bờ. Cả ba ông
Chiếu, Chấn, Phụng nhất tề ra roi tấn công tới tấp. Đêm đang thanh vắng bỗng dội
lên tiếng va chạm rốp rốp liên hồi của gậy gộc xen lẫn với tiếng nước ào ào làm
nhiều nghĩa quân thức giấc, tưởng có chuyện, cầm binh khí chạy ra bờ kênh. Đến đó
họ thấy các vị thủ lĩnh của mình đang trổ tài cao thấp với những đường roi ào ạt
đẹp mắt nên thích thú quá, đứng xem luôn.
Đột nhiên ông
Chiếu tung ra một đường roi liên hoàn ba đòn làm Thiên Hộ Dương phải thúc trâu
lùi lại và khen:
- Đòn đó khá lắm!
Khen xong rồi ông
cười, lại thúc trâu tiến lên. Đoán chừng ba ông kia đã thấm mệt, ông ra đòn tuyệt
kĩ. Thấy trâu xông lên dũng mãnh, hai ông Chấn, Phụng ra sức đấu roi với ông
Thiên Hộ, kêu ông Chiếu tìm cách đánh vào giò trâu cho ngã. Những đường roi đầy
uy lực của Thiên Hộ Dương càng lúc càng linh động, biến ảo lạ thường. Cuối cùng,
sau khi vừa đánh gạt roi ông Phụng, ông Chấn, ông Thiên Hộ nhứ tới như ra đòn công
làm hai ông này dạt ra. Nhưng chủ tâm của ông Thiên Hộ là dùng thế hồi, đót roi
dọa ông Chiếu làm ông Chiếu vội thu roi lại không dám đánh vào giò trâu. Thừa lúc
ông Chiếu thu roi còn lỡ bộ, nhanh như chớp, ông Thiên Hộ ra tiếp một đòn, đánh
văng roi ông Chiếu ra xa đến hơn 10 thước rồi cũng nhanh như chớp chuyển roi
sang đòn đỡ hai đòn của ông Chấn và ông Phụng rồi đánh dấn tới, đồng thời thúc
mạnh cho trâu vọt lên bờ.
Ông Chấn, ông
Phụng thấy vậy, thu roi trở lại, nhảy lui. Mọi người đứng xem vỗ tay rần rần bái
phục ông Thiên Hộ Dương. Ba ông Chấn, Phụng, Chiếu lắc đầu, le lưỡi. Một người
nói với ông Thiên Hộ:
- Ngài quả là bậc
kỳ tài trong thiên hạ!
- Chuyện thứ
hai:
Tám Cảng (em gái
của Hương Mục Ngạc) có võ nghệ cao cường mà hồi trẻ cũng rất xinh gái. Tám Cảng
nói với cha là chỉ chịu lấy người có võ nghệ hơn mình. Nhiều chàng trai đã đến
thử sức võ nghệ kén chồng của chị đều thua. Có một anh chàng tên là Dư Hựu đã đến
xin đấu, mấy lần bị Tám Cảng đạp nhào vô bể cá. Dư Hựu về tầm sư học thêm vài năm
rồi quay lại đấu nữa. Lần này anh ta tóm chân được Tám Cảng ném luôn vô bể cá,
trả được món nợ năm xưa. Và cũng từ đó hai người thuận tình nên vợ nên chồng. Tám
Cảng tính bướng bỉnh lại hay nói châm chọc nên họ thường hay cãi nhau. Tuy vậy
họ cũng chung sống yên ổn với nhau được 3 năm. Lần nọ Dư Hựu nổi nóng, lại coi
bị chọc ngang làm cho điên tiết, chụp luôn cái chén ném vào mặt Tám Cảng. Tám Cảng
chụp được, bỏ xuống chiếu nói tửng: “Cái chén sứ này mà vỡ thì cũng uổng”. Anh
chàng chụp tiếp cái chày tiêu quăng vào đầu chị chàng. Chị cũng chụp bắt được, đặt
xuống chiếu, lại nói: “Cái đầu mà lầm là cái cối tiêu thì có lẽ đã hóa quáng”.
Không kiềm nổi nữa, Dư Hựu rút luôn con dao phay phóng vào ngực Tám Cảng. Chị
ta ngửa người ra tránh được lưỡi dao. Dư Hựu vùng bỏ chạy về nhà cha vợ, chắp
tay lạy, kể đầu đuôi câu chuyện rồi xin cho vợ chồng được ly dị vì sợ với tính
khí của vợ như thế có ngày rồi anh cũng sẽ gây án mạng. Sau khi ly dị, Tám Cảng
bỏ nhà, lưu lạc giang hồ.
- Chuyện thứ
ba:
Võ sư Hồ Ngạnh
có một đứa con trai mà ông hết lòng dạy võ cho anh ta từ tấm bé lớn lên, người
con trai đó giỏi võ vô cùng, đấu với ai cũng thắng. Dù thế, anh ta vẫn chưa thỏa
mãn vì nghĩ rằng thân phụ chưa truyền hết nghề cho. Ngày xưa thầy dạy võ cũng
hay giữ lại một vài thế võ hiểm phòng học trò trở mặt, làm phản. Nghĩ vậy nhưng
anh con trai không dám hỏi. Một đêm kia, Hồ Ngạnh đang ngủ bỗng nghe có tiếng
tháo cổng chuồng bò. Nghĩ có kẻ trộm, ông choàng dậy, đi ra, vừa tới chuồng bò,
ông đã bị một kẻ bịt mặt tấn công tới tấp bằng toàn những đòn hiểm. Túng cùng,
Hồ Ngạnh đành sử dụng miếng võ phòng thân. Quả nhiên, tên kia trúng đòn gục xuống.
Ông lột khăn bịt mặt của nó ra thì thấy chính là con trai ông. Hồ Ngạnh thở dài,
bảo người nhà: “Có gì ngon cho nó ăn, ba ngày nữa nó chết”. Đúng thật, ba ngày
sau, người con trai xấu số đó qua đời.
- Chuyện thứ tư:
Một người học
trò cũng nghi ngờ thầy mình còn giấu đòn độc, bữa nọ cầm cây rựa ra đón đường
thầy, bảo: “Nếu thầy không chỉ, tôi chém thầy thành hai khúc”. Ông thầy thật sự
đã tận tình dạy hết, chẳng còn ngón đòn nào nữa, nhưng dù có nói thế nào thì người
học trò cũng không tin. Lúc này trong tay ông thầy chỉ có cái gậy, trong khi người
học trò võ nghệ cũng chẳng kém gì ông, đang sức trai, lại đang cầm cây rựa bén,
thật thất thế vô cùng. Biết phân trần nữa cũng vô ích, ông thầy chống cây gậy
xuống đất, bảo người học trò: “Được rồi! Nhưng trước tiên, mày ôn luyện võ nghệ
tới đâu, có chém đứt nổi cây gậy này không?”. Anh học trò lập tức vung rựa phạt
đứt phăng cây gậy. Lưỡi rựa vừa lướt qua, với khúc gậy còn lại trong tay mà đầu
đã được phạt nhọn, nhanh như cắt, ông thầy đâm ngay vào cổ họng người học trò,
kết liễu đời một kẻ phản sư.
- Chuyện thứ năm:
Võ sư Trương
Thanh Đăng, trưởng môn phái Sa Long Cương. Nhân khi một môn sinh đi côn hay đụng
vào ghế, vào máng xối nơi võ đường, sư trưởng giảng giải: phải đi cho gọn vì
trong thực tế chiến đấu, có thể phải hành động trong đường hẻm, trong hành lang
chật hẹp hoặc nơi rậm rạp. Rồi ông kể:
Một võ sư rất
giỏi côn. Một đêm, nghe có tiếng kẻ trộm khoét vách, ông ta xách côn chạy ra ngoài
nhà, len lén đến chỗ tên trộm đang lom khom đào, giơ côn lên đập xuống một cái
bằng trời giáng. Rủi thay, vì vườn nhà có nhiều cây ăn trái nên cây côn của ông
võ sư bị vướng một cành ổi, không xuống tới người ăn trộm. Tên trộm giật mình,
sẵn cây xà beng, thúc ngược lên. Ông võ sư trúng đòn, lăn ra chết.
- Chuyện thứ sáu:
Do nhu cầu cấp
thiết về võ tướng nên vào năm Đinh Mão (1851), vua triều Nguyễn đã chỉ dụ mở những
cuộc thi võ để tuyển nhân tài. Thời ấy, cả nước có 4 trường thi võ mở ở 4 khu vực
là Hà Nội, Thanh Hóa, Huế và Bình Định. Trường thi võ Bình Định nằm ở phía tây -
nam thành Hoàng Đế cũ, thuộc xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn. Thi tiến sĩ võ cũng
theo qui chế từ thấp lên cao như thi tiến sĩ văn, cũng gồm thi Hương, thi Hội,
thi Đình, cũng có những danh vị như tú tài (võ), cử nhân (võ)… Thí sinh giỏi võ
mà không giỏi về binh pháp; trận đồ thì cũng không được công nhận là tiến sĩ võ.
Năm 1884, dưới áp lực ngăn cản của Thực dân Pháp, việc tổ chức thi quan võ bị
triều đình Huế đình chỉ, bãi bỏ luôn.
Ở huyện Tuy Phước
(cách thành phố Qui Nhơn khoảng 10 km), có làng Lê Tuyên. Làng mang tên đó là để
tưởng nhớ công lao đối với một võ tướng tên Lê Tuyên, thường được gọi “ông Bá Mười”,
một thời theo Mai Xuân Thưởng tham gia phong trào Cần Vương kháng Pháp.
Có người kể rằng:
sau khi đã đỗ cử nhân võ, ông Mười tiếp tục ra kinh đô Huế thi Đình và đạt danh
hiệu tiến sĩ võ. Vị tân tiến sĩ võ được vua cho về quê “vinh qui bái tổ” rồi ra
lại triều đình để nhậm chức. Khi đi ngang qua địa phận đèo Nhung (huyện Phú Mỹ)
thì ông Mười bị một con cọp đột ngột nhảy ra tấn công. Ông phải quần thảo với
con cọp dữ từ lúc nửa đêm đến gần sáng mới giết được nó. Dân trong vùng vừa nể
phục vừa hàm ơn ông Mười vì trừ được mối họa luôn rình rập ở đoạn đèo này. Tuy
nhiên, các quan võ triều đình nghe tin đã kết tội vị tân tiến sĩ là “phản sư”,
vì giết cọp, theo họ, là điều cấm kỵ của con nhà võ. Nhà vua sau khi nghe tâu lên
đã giáng ông Mười xuống hàng thứ dân (có ý kiến cho rằng ông không bị tước học
vị tiến sĩ võ mà chỉ bị “treo” nhằm cảnh cáo mà thôi).
- Chuyện thứ bảy:
Thuở ấy có ông
Bầu Đê rất giỏi võ, tiếng tăm lan xa ra ngoài vùng Bình Định. Được khuyến khích,
ông ra Huế ứng thi một phen. Ngay trong phần thi đầu tiên là mang vật nặng đi
200 m, Bầu Đê xách tạ chạy một mạch giáp vòng trường thi đến cả ngàn mét không
nghỉ. Ban giám khảo triều đình hội ý, lập tức đề cử Bầu Đê đạt thủ khoa, không
cần thi tiếp các môn đao, kiếm, côn, quyền. Nhiều ý kiến trong giới võ sinh
không phục, họ nại rằng “võ gia dõng vi bán”, nghĩa là sức mạnh chỉ mới là một
nửa của nhà võ, và đề nghị Bầu Đê đấu với từng người trong số 10 thí sinh đạt điểm
cao nhất khóa, thắng mới phục. Ban giám khảo đồng ý. Cử nhân võ thứ nhất ra đấu,
chỉ với một chiêu của Bầu Đê, roi của anh ta đã gãy. Cử nhân võ thứ hai ra đấu,
ngay hiệp đầu đã bị Bầu Đê cướp roi, quật ngã. Tám vị cử còn lại thấy thế, bái
phục, xin được miễn thi đấu.
Viên quan chủ
khảo, vốn đã là tiến sĩ võ, nổi tiếng với môn trường côn, “ngứa nghề”, đòi thử
tài với Bầu Đê. Thời ấy nếu ở Bình Định có câu “Roi Thuận Truyền, quyền An
Vinh” thì cũng có câu “Roi kinh (đô), quyền Bình Định”. Quan chủ khảo đề nghị đấu
10 hiệp. Mọi người xung quanh đều chắc mẩm Bầu Đê sẽ thua. Ngày xưa, khi đấu
roi, để tránh sát thương, người ta thường bọc vải bôi lọ nồi ở đầu roi và khi đâm
thì nương tay, chỉ tạo vết lọ trên cơ thể đối thủ để dựa vào đó mà tính điểm,
phân thắng bại. Lúc mới vào trận, Bầu Đê có phần e ngại, vì nể nên chỉ né đỡ là
chính. Quan giám khảo thấy vậy mở lời động viên Bầu Đê đấu cho thực tình. Thế là
Bầu Đê trổ tài. Ông la lớn: “Xin phép quan lớn cho tôi ra tuyệt kỹ thứ nhất”, rồi
nhanh như chớp đánh văng cây trường côn của quan chủ khảo. Quan chủ khảo có phần
“quê độ”, vào hiệp mới cẩn trọng hơn và cũng quyết chiến hơn, giở nhiều chiêu
hiểm tấn công tới tấp Bầu Đê.
Bầu Đê đánh đỡ một lúc rồi lại đột ngột la lớn:
“Xin phép quan lớn cho tôi ra tuyệt kỹ thứ hai”. Quan chủ khảo thủ thế chờ đối
phó độc chiêu của Bầu Đê, chẳng thấy gì lại ra chiêu mới. Hai người quần nhau đến
hết hiệp đó mà không phân thắng bại. Quan chủ khảo thắc mắc: “Sao ta không thấy
anh ra tuyệt kỹ thứ hai?”. Bầu Đê từ tốn thưa: “Dạ, bẩm quan lớn, tôi ra rồi, và
đã đâm trúng nách ngài!”, Quan chủ khảo vội dơ tay lên để lộ ra một vết lọ nồi
trên áo, ngay nách. Lúc này, mọi người mới ồ lên kinh ngạc. Vị quan võ đó đành
thoái bộ, xin ngưng cuộc đấu, chịu phục và khen hết lời Bầu Đê…
Bầu Đê chính là
đệ tử chân truyền của ông Bá Mười!
- Chuyện thứ tám:
Gần đây hơn là
câu chuyện của võ sư người Bình Định, tên là Lý Xuân Hỷ (sinh năm 1940), với thành
tích: từ năm 18 tuổi đến năm 35 tuổi đã thượng đài 300 cuộc mà chỉ để thua đúng
một trận.
Năm 1969 có tay
người Việt, học võ Đại Hàn, tên Long, là võ sư bậc tứ đẳng với huyền đai Thái Cực
Đạo. Tay này kênh kiệu, nghe Lý Xuân Hỷ vô địch Cao nguyên Trung phần, luôn bắn
tin khiêu khích, thách đấu, và có lần tuyên bố huênh hoang: “Đêm nay hạ Lý Xuân
Hỷ, đêm mai hạ Minh Cảnh” (võ sĩ Minh Cảnh, vô địch quyền Anh Đông Dương, từng được
mệnh danh là “võ sĩ quyền Anh không đối thủ”, luôn phải đấu “chấp” với những đối
thủ nặng “ký” hơn nhiều…). Do điều kiện ngoại cảnh mà phải ba năm sau, cuộc đấu
mới diễn ra. Lý Xuân Hỷ kể là khi thượng đài, “hắn tấn công liên tục, mình giả đò
dựa dây, hắn chạy tới công thẳng vào mặt mình. Mình gục xuống, đánh vào chấn thủy
của hắn, khi hay hắn sụp rồi, mình câu đầu đối phương đập chỏ…”. Trận đó, võ sư
Long bị trọng thương, gãy răng và “bay” hàng chân mày.
Năm võ sư Hỷ 62
tuổi, có một võ sư người Ý, 42 tuổi, nặng 120kg, với 3 năm học thêm võ Tàu, đến
gặp để phân cao thấp. Ông Hỷ kể: “Người đó rất hay. Tôi không công mà chỉ né.
Những người đứng xem nói ông Tây hay quá, còn ông Hỷ thì né cũng lẹ quá. Tới chừng
anh ta đá ngang mặt tôi, tôi đá một đòn phá chân trụ làm đối phương ngã chúi xuống
đất và… hạ nốc-ao (knock out) luôn”.
Theo võ sư Hỷ:
“Khi đấu đối kháng, không có thế võ nào thắng thế võ nào mà quan trọng là võ sĩ
chiến thắng đã tinh nhuệ hơn đối phương của mình mà thôi!... Phải làm thế nào để
đánh đối phương mà đối phương tránh không kịp, đứng yên cho mình đánh…”. Và ông
thổ lộ: “Thật ra, tôi giỏi chỏ, ngoài sự chỉ dạy của cha, còn có sự trợ giúp của
sư phụ… Năm 1966, tôi có gặp ông thầy người Tàu, gọi là Tám Tàu, từ Thiếu Lâm Tự
ra, rất giỏi võ. Tôi học thêm tuyệt chiêu của ông… Ông thầy thứ hai là thầy
Minh Cảnh. Tôi học thêm ba tháng về quyền Anh… Bởi thế, tôi được lĩnh hội nhiều
cái hay trong võ thuật…”
Gia phái võ họ
Lý mà Lý Xuân Hỷ đang đại diện, cũng nổi tiếng khắp làng võ Bình Định về roi,
quyền và cũng vì có một tuyệt kỹ công phu rất đáng nể. Đó chính là bài quyền
“Miêu tẩy diện” (Mèo rửa mặt), do ông nội võ sư Hỷ sáng tạo ra, mô phỏng theo
thế đánh nhu nhuyễn, linh hoạt của loài mèo, tính đến nay đã trên trăm năm. Mèo
cũng như hổ, có cách tự vệ giống nhau, có lối “rửa mặt” bằng lưng bàn chân trước,
hai lòng bàn chân hướng ra ngoài, nhờ thế mà khi chống đỡ chúng rất linh hoạt, đối
với hổ thì còn chụp được cả gươm giáo, khi tấn công thì vồ, tát cực kỳ lợi hại.
Xưa nay, hiếm khi người đánh được hổ, ai đánh được là thành nổi tiếng. Bởi vậy,
người ta mới xếp hổ đứng đầu trong hàng võ; mới có câu “Mãnh hổ tướng quân”.
Mèo, hay hổ cũng
vậy, “công - thủ” hữu hiệu được là nhờ sự quyền biến của hai chân trước. Tập
“Miêu tẩy diện” là phải tập cho được đôi tay. Đôi tay phải thật lanh lẹ, kết hợp
nhuần nhuyễn với nhau và với chỏ tay. Ngón chỏ cũng là một tuyệt kỹ của võ sư Hỷ.
Đòn chỏ, nếu biết sử dụng điêu luyện sẽ trở nên biến hóa khôn lường, rất lợi hại
khi phản đòn. Ngón chỏ được sáng tạo mô phỏng theo cách húc sừng của động vật,
của con trâu, nên cũng được gọi là ngọn “ô du”:
“Ô du là ngọn trâu
dằn
Xê ra cho khỏi khéo
lâm vào mình”
Với lối đánh kết
hợp quyền thế “Miêu tẩy diện” để né tránh và nhanh nhẹn phản công bằng những ngọn
ô du tuyệt kỹ, võ sư Lý Xuân Hỷ đã từng một thời được mệnh danh là “Hùm xám cao
nguyên”. Ông đưa ra nhận xét: “Võ Đại Hàn rất hay ở bộ chân. Nhưng bộ chân không
đáng sợ bằng bộ tay vì chân ít khi đánh được huyệt đạo, còn tay thì biến hóa khôn
lường…”
Võ sư Hỷ vẫn còn
nhớ được lời tiền bối dặn dò là: “Võ gia ngũ luyện pháp”, gồm:
“Phong dạ đăng sơn
Hắc dạ đả quyền
Nguyệt dạ luyện kiếm
Vũ dạ cán binh
Trí dạ tọa tĩnh”
Nghĩa là: nhà võ
phải luyện rèn theo 5 cách, gồm:
Đêm gió thì lên núi
(luyện công?)
Đêm tối thì đánh
quyền
Đêm trăng thì luyện
kiếm (đao, côn…)
Đêm mưa thì đọc
binh (thư)
Thiền định hàng đêm
để đạt thông tuệ.
-Chuyện thứ chín:
Võ sư Phan Thọ không bao giờ chấp nhận ai coi thường người dân Việt,
nhất là trong lĩnh vực võ học. Vì vậy, ông đã hơn một lần mang cả tính
mạng của mình ra để khẳng định võ Bình Định không thua kém bất kỳ môn
phái võ thuật nào. Cho đến nay, những võ sư gạo cội và
những người yêu võ không chỉ ở Bình Định vẫn truyền miệng những giai
thoại về 3 lần hạ gục các võ sĩ người Hàn của ông Phan Thọ, dù lão võ sư
đã về gặp các huyền thoại võ học Tây Sơn tối 27/4/2014.
Câu
chuyện 3 lần đấu, 3 lần thắng 3 võ sĩ người Hàn tôi được nghe võ sư
Phan Minh Hải - cháu ngoại cố võ sư Phan Thọ, Chưởng môn đời thứ ba Võ
đường Phan Thọ - kể lại.
…Một ngày
rất nóng của năm 1970. Cái nóng dường như không phải từ thời tiết mà
hừng hực phát ra từ những người dự khán ở trại huấn luyện Phú Tài. Hơi
nóng còn bốc lên từ hai cỗ quan tài phía trước võ đài. Trước
trận đấu, dân đất võ và các võ sư, võ sinh đã nóng từ sự bực bội, uất
ức trước sự coi thường, miệt thị của một sĩ quan Đại Hàn của sư đoàn
Mãnh Hổ tên Lee. Là một võ sư Taekwondo tứ đẳng huyền đai, ông ta lớn
tiếng thách thức cả làng võ Bình Định.
Các
võ đường sôi sục phản ứng, nhưng rồi họ lại thở dài vì biết chọn ai ra
đấu với kẻ kiêu ngạo. Hơn nữa, áp lực tâm lý cũng đè nặng lên các võ sư.
Nếu thắng thì bảo vệ được uy tín võ Bình Định, nhưng liệu rồi võ đường
có an ổn vì những đòn đánh trả thù dưới thắt lưng? Còn thua, mọi người
không dám nghĩ đến…Sự bức bối ấy
cũng bao trùm cả võ đường của võ sư Phan Thọ. Nhiều đêm, vị võ sư ở tuổi
tứ thập không ngủ. Dưới bóng trăng đêm huyền ảo, các võ sư và võ sinh
của võ đường thấy bóng thầy mình nhấp nhô, luồn lách giữa những hình nộm
ra quyền, tung cước.
Rồi cả miền đất
võ bừng bừng khí thế khi võ sư Phan Thọ của mình chấp nhận lời thách
đấu. Vui mừng, lo lắng cứ theo nhau trào lên lặn xuống như những đợt
sóng con sông Côn nối hai bờ đất võ lúc êm đềm chảy, khi gầm réo bởi lũ
về. Và rồi, họ được chứng kiến trận
đấu có một không hai của hai kỳ phùng địch thủ. Võ sư nổi danh từng hạ
con lợn rừng hung hãn nặng hơn 2 tạ và viên sĩ quan với những đòn chân
sấm sét đặc trưng của phái võ lừng tiếng xứ Hàn.
Hai võ sĩ bước lên sàn đấu. Mọi người
nín thở chứng kiến họ cùng nhau ký vào lá Sinh tử trạng - tờ cam đoan
trong trận đấu rủi ai chết thì người ấy chịu, không được khiếu nại,
không được gây khó khăn cho phái võ đối phương. Người
dân Bình Định tin thì tin đấy, hy vọng cũng tràn trề nhưng họ trĩu nặng
lo âu khi chứng kiến một trận đấu không cân sức. Một bên là võ sĩ Đại
Hàn cao lừng lững tới 1,8 mét nặng 75 kg. Còn bên kia, niềm hy vọng Phan
Thọ của họ kém hẳn 20 cm chiều cao và 20 kg cân nặng. Bên
kia, lính Đại Hàn ào lên những tiếng hét vang khích lệ. Bên này, những
người dân Bình Định siết tay nhau trong im lặng, nín thở chờ đợi...
Hiệp
đầu, võ sư Phan Thọ bị dồn ép liên tục bởi các đòn chân uy lực, hiểm
hóc và liên hoàn của người đã luyện tập Taekwondo tới mức ảo diệu. Ông
bình tĩnh né đòn làm hao sức đối phương và cố gắng tìm điểm yếu của đối
thủ. Hiệp hai, Phan Thọ đã tìm được
bí quyết chế ngự đối phương. Trong một khoảnh khắc, tận dụng được sơ hở
khi võ sĩ Hàn tung cú đá liên hoàn mà phòng thủ không chắc, ông áp sát
đối thủ theo bí quyết "Tấn đả tam chiến", rồi dùng thế "Yến tử khuynh thân" đánh vào thái dương đối phương. Vào giây quyết định, ông dùng thế "Độc xà thám nguyệt"
(hiểu nôm na là con rắn ngóc đầu nhìn trăng) hụp xuống tránh đòn chân
sinh tử, rồi húc thẳng vào bụng dưới làm võ sư Đại Hàn ngã nhào, chết
điếng.
Lúc này, từ phía những người
dân ào lên những tiếng hô như muốn hất tung võ đài. Họ đã được tận mắt
chứng kiến một trận đấu mà người võ sĩ dám lấy mạng sống của mình để giữ
gìn thanh danh của miền đất võ Tây Sơn Bình Định.
Dừng lại một chút như để tâm mình lắng
lại, người cháu ngoại tiếp tục hồi tưởng về trận đấu sau đó 2 năm, khi
võ sư Phan Thọ ở vào tuổi 45.
…Nhân
dịp giỗ Tổ vua Hùng tổ chức tại Pleiku, những sĩ quan Đại Hàn đưa một số
võ sĩ theo học Teakwondo từ Sài Gòn lên vùng đất cao nguyên để đấu võ.
Đoàn võ cổ truyền Tây Sơn gồm có 20 võ sĩ, trong đó có Phan Thọ cũng
được mời lên tham gia.
Qua các trận
tỷ thí, nhiều võ sĩ Đại Hàn liên tiếp bị đánh bại. Nhưng, họ bất phục!
Trong đoàn của họ có cây át chủ bài là võ sĩ Joo - Huyền đai ngũ đẳng -
còn chưa thượng đài. Với họ, dù có thua tất cả trận thì trận đấu phục
thù cuối cùng mà chiến thắng thì chung cuộc họ vẫn thắng.
Cuối
cùng, võ sĩ nổi danh xứ Hàn bước từng bước vững chãi lên võ đài. Võ đài
như rung rinh trước sức nặng và chiếc đai đen năm đẳng của ông ta. Joo
lên tiếng thách đấu. Những lời thách đấu ngạo mạn như muốn chỉ thẳng vào
người võ sư từng chiến thắng đồng hương của ông ta. Vút
một cái, võ sư Phan Thọ thanh thoát nhảy lên võ đài. Một tiếng thét
vang lên, những đòn chân vũ bão phần phật tiếng gió. Mọi người tưởng như
Phan Thọ đã nằm xuống đo ván. Nhưng không, trước những cú đá vun vút, Phan Thọ nhanh nhẹn "lặn" người xuống tránh đồng thời dùng độc chiêu Độc xà thám nguyệt
làm đối thủ té nhào xuống sàn, hai khuỷu tay bị chống xuống sàn khiến
xương vỡ nát, máu tuôn ra lênh láng. Vị Ngũ đẳng huyền đai Teakwondo
không thể tiếp tục thi đấu và ra hiệu xin dừng trận đấu.
Chưởng
môn Phan Minh Hải - người thừa kế cả kho tàng võ thuật của ông từ thơ
bé - chia sẻ: “Làng võ thuở ấy và hôm nay vẫn trầm trồ kể lại hai trận
thắng để đời của ngoại. Nhưng ngoại luôn nhắc nhở tôi và các đệ tử trong
võ đường: Môn phái nào cũng có những tinh hoa. Người thua một trận đấu,
không có nghĩa là môn phái kia kém cỏi. Điều quan trọng là võ sĩ đã
tiếp thu được hết những tinh hoa võ thuật ấy chưa, đặc biệt là biết áp
dụng những tinh hoa ấy để giành chiến thắng hay chưa. Vì thế, thắng đừng
kiêu, bại chớ nản!”.
Năm 1998, một đoàn võ sư, võ sĩ của Hàn
Quốc đến Bình Định với mong muốn giao lưu, học hỏi võ cổ truyền Bình
Định. Khi tới Võ đường Phan Thọ nằm giữa cánh đồng lúa trải dài của thôn
Thủ Thiện (xã Bình Nghi, Tây Sơn, Bình Định), họ được diện kiến lão võ
sư Phan Thọ, khi ấy đã 72 tuổi.
Thăng
hoa trong câu chuyện võ, một vị trong đoàn vô tình ngỏ ý coi thường võ
Bình Định. Câu nói chạm đúng lòng tự ái của võ sư Phan Thọ. Một
lần nữa, lão võ sư với những nét hằn thời gian trên khuôn mặt bình thản
bước xuống sân nhà với mong muốn giới thiệu những tinh hoa của miền đất
võ, để các vị khách hiểu hơn võ và người Bình Định.
Vào
trận, võ sĩ Hàn Quốc tung ngay cú đá cực mạnh nhắm vào đầu lão võ sư.
Người ta chỉ thấy loang loáng bóng trắng của mái đầu bạc chìm xuống.
Ngay sau đó, tiếng “Bụp” khô khốc vang lên, cây cột bật ra những mảng xi
măng. Đôi chân như chày sắt không
dừng lại, nó tiếp tục xé gió với đích đến là người võ sĩ già thân hình
nhỏ thó, đã sắt lại theo thời gian. Đối lại với những cú đá hiểm hóc và
dũng mãnh, chiêu Độc xà thám nguyệt một lần nữa được lão võ sĩ sử dụng. Và, một lần nữa rắn đã mổ trúng trăng. Một
lần nữa, tinh hoa võ học Bình Định lại được phát tiết, những yếu tố Đức
- Tài của người luyện võ nói chung và người võ sĩ Bình Định lại được
bộc lộ.
Khi tập tuyệt chiêu này, võ sư Phan Thọ
bố trí các hình nộm xen kẽ nhau, đồng thời buộc dây chằng chịt ngang tầm
thắt lưng chúng. Sau đó ông tập né tránh, luồn qua dây, lách qua các
hình nộm cho thật lanh lẹ, nhuần nhuyễn. Đây là chiêu thức cúi hụp người xuống để né đòn đá của đối phương rồi dùng đầu húc thẳng vào các yếu điểm để hạ gục đối phương.
Tuyệt chiêu Độc xà thám nguyệt
chia làm 3 bộ: Trung, Thượng, Hạ. Bộ Thượng đánh từ chấn thủy trở lên,
bộ Trung - từ chấn thủy xuống đan điền, bộ Hạ - từ đan điền trở xuống. Nét độc đáo trong chiêu thức này là đòn quyết định nhanh, mạnh, dứt khoát, trong đó yếu tố lấy nhu thắng cương làm tiền đề. Để
làm được điều này, đôi mắt phải cực tinh và bình tĩnh quan sát ưu nhược
điểm của đối phương. Từ công sang thủ, thủ sang công hoàn toàn linh
hoạt theo cách đối phương ra đòn.
Môn phái nào cũng có những thế
võ, bài võ bí truyền mang lại sự tồn tại cho võ đường và luôn chỉ được
truyền dạy cho con em trong dòng học, hoặc các đệ tử ruột. Tuy nhiên,
với Võ đường Phan Thọ thì không như thế. “Các thế võ mà ông
truyền dạy cho tôi không phải chỉ có con em trong gia tộc Phan Thọ mới
được học. Ông dặn có thể truyền dạy cho bất kể người nào hội tụ tròn Đức
- trọn Tài” - Võ sư Phan Minh Hải, Chưởng môn Võ đường Phan Thọ nói.
-Chuyện thứ mười:
Năm 1924, trong những ngôi làng nằm dọc 2
bờ sông Côn, không biết bao nhiêu ấm trà đã cạn trong các cuộc thảo
luận rôm rả của người dân từ đầu làng đến cuối xóm về trận thư hùng sắp
diễn ra giữa hai võ sư nổi danh miền đất võ là Đệ nhất roi Hồ Ngạnh và
Đệ nhất quyền Tàu Sáu.
Đã lâu lắm
làng võ mới lại có sự kiện mà nam, phụ, lão, ấu đều háo hức mong chờ đến
độ quên ăn, quên ngủ. Anh tài làng võ tìm đến nhau tỉ thí thì chắc chắn
không thể là khoảnh khắc tầm thường.
Võ sư Hồ Ngạnh (Hồ Nhu) sinh năm 1890
vang danh làng võ Thuận Truyền (xã Bình Thuận, Tây Sơn, Bình Định) vì
nắm giữ tuyệt kỹ Roi đánh nghịch uyên thâm, cực kỳ lợi hại, có tính sát
thương cao. Danh tiếng của ông vang
xa đến nỗi thường xuyên có những người trong giới võ thuật tìm đến thách
đấu. Thậm chí, có nhiều cao thủ nghe những lời đồn đại về ông Hồ Ngạnh
mà “nhức tai” nên tìm đến tỉ thí. Tuy nhiên, vốn là người điềm tĩnh nên không mấy khi Hồ Ngạnh bị cuốn theo những lời khiêu chiến.
Còn
Tàu Sáu (tên thật là Diệp Trường Phát, SN 1896) là người gốc Hoa, gia
đình sinh sống ở làng An Thái (nay thuộc xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn,
Bình Định) đã được mấy đời. Năm 13
tuổi, Tàu Sáu được gia đình gửi về Trung Quốc để học võ Thiếu Lâm Bắc
phái. Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, ông trở lại An Thái, tiếp tục
học hỏi thêm các môn võ Bình Định, rồi san định và thiết lập thành võ
phái An Thái - Bình Định.
Trận đấu
sắp tới, một bên là Đệ nhất roi Thuận Truyền Hồ Ngạnh, bên còn lại là Đệ
nhất quyền An Thái Diệp Trường Phát. Luận về tài năng hay sức vóc đều
“kẻ tám lạng, người nửa cân”, thật khó mà đoán định thắng thua. Cuộc tỉ thí võ thuật, giao lưu bạn bè
của 2 cao thủ đệ nhất diễn ra dưới sự chứng kiến của hàng ngàn người.
Không chỉ dân 2 làng Thuận Truyền - An Thái mà dường như tất cả cư dân
các làng võ hai bên bờ sông Côn đều có mặt để được chứng kiến cuộc so
tài ngàn năm có một.
Trận thư hùng
được chia làm 2 hiệp: Hiệp một đấu quyền và hiệp hai sẽ đấu roi. Bởi đây
là cuộc thí võ kết bạn, ấn chứng võ công nên hai bên giao ước không đả
thương nhau, mà chỉ dùng mực ghi dấu trên võ phục đối phương để phân
định thắng thua.
Ở hiệp đấu quyền, dù
là các vết mực trên áo của 2 người bằng nhau, nhưng Hồ Ngạnh nhận thua
Tàu Sáu một bậc. Ông lý giải rằng các vết mực trên y phục mình do Tàu
Sáu đánh vào có vài phần nhạt hơn, chứng tỏ võ sư làng An Thái khống chế
được công lực khi ra đòn, không làm ảnh hưởng đến đối phương. Điều đó
cho thấy nội công quyền pháp của Tàu Sáu đã đạt ở cảnh giới cao siêu,
thâm hậu.
Đến trận đấu roi, cây roi
bọc đệm bông trắng thấm mực xanh do Hồ Ngạnh cầm, cây kia thấm mực đỏ do
Tàu Sáu giữ. Tàn một nén nhang, võ phục người nào ít bị điểm mực hơn
thì người đó thắng. Võ sư Hồ Ngạnh dùng đường roi nghịch tấn công liên tiếp làm võ sư Tàu Sáu không kịp phản công mà chỉ lo chống đỡ. Nén
nhang sắp tàn, thì Tàu Sáu nhảy ra ngoài vì biết đòn roi của Hồ Ngạnh
đã in hằn lên y phục quá nhiều. Tại các điểm tương ứng với huyệt đạo
trong thân thể ông chi chít những chấm mực xanh.
Võ sư Tàu Sáu chắp tay bái phục: “Đoản côn Thuận Truyền duy hữu nhất” (Roi Thuận Truyền chỉ có một). Võ sư Hồ Ngạnh cũng cười mà đáp: “Thủ vũ An Thái ngã vô song” (Tay quyền An Thái cũng không hai). Từ đây mà có câu "Roi Thuận Truyền, quyền An Thái".
Trong
suốt quá trình diễn ra trận tỉ thí, ngoài tiếng động của binh khí, cả
võ đài đều im phăng phắc, đến nỗi tiếng những đường quyền xé gió cũng
nghe rõ mồn một. Chỉ đến khi hiệp đấu kết thúc, tiếng vỗ tay tán thưởng,
tiếng trầm trồ thán phục mới vang lên. Người
làng An Thái không tiếc lời khen võ sư Hồ Ngạnh, dân làng Thuận Truyền
cũng chẳng ngại ngần buông lời thán phục đối với tài năng của võ sư đến
từ làng An Thái. Đối với những người dân làng võ, tinh thần thượng võ
luôn chảy trong huyết quản.
Nằm sâu trong con ngõ nhỏ ngoằn ngoèo ở
làng Thuận Truyền là võ đường Hồ Gia của võ sư Hồ Sừng (SN 1938). Đây
cũng là ngôi nhà xưa của cố võ sư Hồ Ngạnh (mất năm 1976), ông nội của
võ sư Hồ Sừng. Hiện nay, võ đường Hồ Gia do võ sư cao cấp Hồ Sỹ (SN 1979) con trai thứ 10 của võ sư Hồ Sừng làm Chưởng môn đời thứ 5.
Từ
nhỏ Hồ Ngạnh được mẹ cho theo học các danh sư nổi tiếng bấy giờ ở Tây
Sơn, như các ông: Ba Đề, Đội Sẻ và Hồ Khiêm. Khi thấy con đã thạo ngũ
hành, thất bộ, bà mới bắt đầu dạy roi. Những
đêm trăng sáng, bà dẫn con ra khu đất vắng, chọn một khoảnh đất bằng,
chỉ dẫn từng chiêu thức. Người mẹ dùng than vẽ một vòng tròn trên mặt
đất, chỉ cho phép con di chuyển trong phạm vi vòng tròn đó. Bà xem con đánh roi rồi chỉ ra những
điểm mạnh, yếu trong các chiêu thức và chỉnh sửa các chiêu thức cho con
hiệu quả nhất. Bà có yêu cầu rất cao về sự chuẩn xác trong đường nét,
thân pháp và rèn tính cẩn trọng. Để
thử uy lực trong đường roi của Hồ Ngạnh, xung quanh vòng tròn, bà lấy 4
cái đĩa lớn đựng dầu phụng, cắt miếng vải nhỏ làm thành ngọn bấc, rồi
châm lửa vào đầu bấc. Hồ Ngạnh đứng trong vòng tròn đánh roi, khi nào
ngọn gió từ đường roi phát ra làm cả bốn đầu bấc tắt phụt cùng lúc là
đạt.
Trong võ thuật, vũ khí không chỉ
để công mà còn là để thủ. Công hay thủ đều đòi hỏi sự tinh nhạy của
người đánh. Lúc Hồ Ngạnh đã tiến bộ, mỗi khi cậu múa roi, bà Hà di
chuyển xung quanh, dùng sỏi ném vào. Ban
đầu Hồ Ngạnh còn vụng về, sỏi trúng vào roi, trúng cả vào người kêu cắc
cắc, bụp bụp. Sau cậu phản ứng nhạy bén dần, đường roi vun vút, chỉ còn
tiếng sỏi va vào roi kêu cắc cắc mỗi lúc một giòn. Bà luyện cho con đến khi ném cả vốc sỏi vào mà đường roi của Hồ Ngạnh gạt rụng rào rào, không viên nào động được đến người.
Roi là một loại binh khí tiêu biểu của võ thuật cổ truyền Bình Định,
là một trong thập bát ban binh khí. Roi thường được làm bằng gỗ dẻo, tre
đặc, to nhỏ tùy theo người sử dụng. Roi đánh nghịch là bài
roi rất khó luyện. Thông thường các võ đường khác dùng bài roi thuận,
nhưng bài roi này là lấy đòn nghịch chế đòn thuận, mượn đối
phương để đánh đối phương. Trong thi đấu, có những chiêu thức đối phương đánh thì ta đỡ, nhưng với Roi đánh nghịch
thì khác, đối phương ra đòn, mình lấy đó để đánh lại đối phương, đối
phương càng lao vô đánh mạnh ắt sẽ nhận lại đòn đánh mạnh tương tự. Người
luyện được bài roi này, phải tinh thông tất cả các bài roi khác, nhận
ra được từng chiêu thức, từng điểm yếu, điểm mạnh mà đối phương sử
dụng, lấy đó làm tâm, để khắc chế từng chiêu thức. Phải thật kiên trì
trong khi luyện và sự tư duy về chiêu thức.
“Cha
tôi từng dạy, luyện võ nên luyện những gì chưa ai làm được và phải
luyện cho đến khi thuần thục. Luyện cái nào người khác không luyện
được, thì khi đó mới thành tài. Cũng giống như Roi đánh nghịch, phải
luyện làm sao đòn Roi đánh nghịch thành đòn “roi đánh thuận”
của riêng mình thì khi đó mới thành công” - Võ sư Hồ Sỹ chia sẻ.
Thời ấy, quê võ sư Hồ Ngạnh có tướng
cướp Dư Đành tác oai tác quái nổi tiếng khắp vùng. Dư Đành dáng người
lực sĩ, võ nghệ rất cao cường. chính quyền đương thời không sao bắt
được. Có lần, để diễu võ dương oai,
một tay y cắp cả một con nghé hệt như người ta nhẹ nhàng bồng trên tay
đứa trẻ. Vì vậy, thời ấy nhiều người khi nghe thấy tên của Dư Đành là
hồn xiêu phách tán.
Tung hoành khắp vùng không có đối thủ, bỗng dưng cái tên Hồ Ngạnh nổi lên làm Dư Đành như bị “vả vào mặt”. Tuy
nhiên, rất có lợi nếu chiêu mộ được ông vào băng đảng của mình, nên Dư
Đành ngỏ lời mời mọc. Bị từ chối, y tức khí, nhắn tin khiêu chiến, ra
điều kiện nếu thua ông Hồ Ngạnh phải gia nhập đảng cướp của y.
Từ chối mãi không được, cuối cùng võ sư Hồ Ngạnh phải nhận lời thách đấu. Đến ngày hẹn, ông một mình một roi đến điểm đấu. Trận quyết đấu nảy lửa diễn ra vào một đêm trăng, tại bãi đất trống cạnh thôn Thuận Truyền. Dưới
ánh trăng vằng vặc, những đường roi nghịch của võ sư Hồ Ngạnh loang
loáng như rồng bay phượng múa giữa đám lâu la của Dư Đành. Những đòn roi
vun vút uy hiếp cả toán cướp, tiếng gió phần phật nghe lạnh người. 11
tên cướp võ nghệ cao cường bậc nhất trong băng đảng của Dư Đành chỉ biết
yếu ớt chống đỡ và bại trận. Nhìn
đám đệ tử ruột lần lượt ngã sóng soài dưới đường roi của võ sư Hồ Ngạnh,
Dư Đành nộ khí xung thiên nhảy vào trận, lia thanh đao sáng loáng tới
tấp tấn công.
Tuy nhiên, ngọn roi múa
tít như thành trì bất khả xâm phạm, lưỡi đao của Dư Đành không tài nào
động đến người đối thủ. Đánh mãi mà vẫn không tìm được chút kẽ hở để
“triệt hạ” đối phương khiến Dư Đành ngày càng nao núng. Biết
đã đến lúc cần phải xuất chiêu tuyệt kỹ để kết thúc trận đấu, sau khi
dùng cước đá văng lưỡi đao của Dư Đành, võ sư Hồ Ngạnh lia những đòn roi
nghịch áp đảo đối phương. Sau nhiều
đòn đánh hiểm vô phương chống đỡ, Dư Đành ngỡ là mình đã phải mất mạng,
thế nhưng ngọn roi của ông Hồ Ngạnh vừa chạm áo đối thủ đã thu về. Trong
trận này, Dư Đành nợ ông Hồ Ngạnh một mạng sống.
Không
biết ơn thì chớ, tướng cướp còn ôm hận, rắp tâm trả thù. Vốn dĩ có bụng
dạ tiểu nhân, nên lần này Dư Đành nghĩ cách đánh lén. Hắn áp dụng kế
“điệu hổ ly sơn”, bằng cách nhổ sạch đám khoai mì của nhà họ Hồ, nhưng
không lấy mang đi mà để lại trên rẫy.
Nghe người nhà báo tin, võ sư Hồ Ngạnh biết đó là trò của Dư Đành, ông chỉ mỉm cười và ra gánh khoai mì về nhà. Vừa
gánh đi được một đoạn thì Dư Đành tay cầm bắp cày từ bụi rậm nhảy ra
vung một đòn đánh chí mạng về phía võ sư Hồ Ngạnh. Nghe tiếng gió, võ sư
né kịp, đường cày vụt qua đầu, văng vào cây bời lời làm thân cây gẫy
gập. Tận dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ
Ngạnh tức tốc áp sát, nhanh như chớp, chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng
thế lạc côn, không những hóa giải mà còn biến sức đối phương thành lực
của mình, dùng chiếc đòn gánh làm roi hất thẳng Dư Đành vào bụi tre gần
đó.
Lần này, Dư Đành chắp tay xin tha mạng và thề độc không khiêu chiến, không về làng Thuận Truyền quậy phá nữa.
-Chuyện cuối cùng:
Nền
võ thuật ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975 từng chứng kiến một thời kì
dài phát triển cực kì sôi động. Nhiều lò võ mở ra, nhiều sàn đấu được
dựng lên, nhiều cuộc tỉ thí khốc liệt diễn ra đã tạo dựng nên những tên
tuổi lớn, đưa khả năng thực chiến của võ Việt bước lên một đỉnh cao mới. Khi
đó, các làng võ cổ truyền ở Bình Định nổi lên như cái nôi đào tạo và
cung cấp võ sĩ chuyên nghiệp cho các sàn đấu ở khắp các tỉnh miền Nam.
Tại đây, nhiều tên tuổi lớn đã xuất hiện. Đặc biệt, giai đoạn thập niên
60, cái tên Phi Long nổi lên như một hiện tượng lạ. Trên sàn đấu ông
được mệnh danh là “độc cô cầu bại” với 87 lần thượng đài, 68 trận thắng
knock out, chỉ 1 trận hòa, không có trận thua, vô địch Việt Nam năm
1966, vô địch Đông Dương năm 1968. Ngoài sàn đấu, cuộc đời của võ sĩ tài
hoa, lãng tử này cũng ẩn chứa rất nhiều điều thú vị.
Đại
võ sư Phi Long tên thật là Trần Quốc Long, sinh năm 1944, người Đồng
Phó (Tây Sơn, Bình Định). Ông sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp
trung nông, có truyền thống võ học. Ông nội, cha và bác của ông đều là
những người giỏi võ nổi tiếng trong vùng. Vì thế, ngay từ năm lên 6 ông
đã theo bác học những thế quyền cước vỡ lòng đầu tiên. Năm lên 10 ông
được cha đưa lên Kon Tum theo học ở trường dòng La San Kim Phước. Những
tưởng mọi việc an bài, ai ngờ đến cuối năm đệ tam (lớp 10 bây giờ), Phi
Long lại bỏ học về quê xin phép cha rước thầy võ về nhà để học.
Suốt
mấy năm trời, Phi Long theo học võ với các võ sư giỏi như thầy Nguyễn
Thái Sơn, người được mệnh danh là “Thần heo” vì nổi danh với trận tay
không hạ thủ một con heo rừng lớn, hay như thầy Trịnh Thiếu Anh, người
giỏi rất nhiều môn võ, kể cả quyền anh. Dường như vẫn thấy chưa đủ, Phi
Long lại khẩn khoản xin cha tìm thầy giỏi hơn để học. Thấy con quá đam
mê, ông Trần Nghĩa Sỹ đâm ra lo lắng. Ông cấm không cho Phi Long học võ
và dọa: “Nếu học võ nữa sẽ chặt tay”. Thế nhưng, chỉ ít lâu sau, Phi
Long đã lặng lẽ trốn nhà sang huyện Phù Cát tìm võ sư Huỳnh Liễu (tức
Hương Kiểm Kính) bái sư.
Thời
đó thầy Hương Kiểm Kính rất nổi, học trò theo học rất đông. Theo thầy
được 5 năm, Phi Long bắt đầu tham gia vào những trận thượng đài và sớm
mang danh về cho môn phái bằng những trận thắng đầu đời. Hồi đó ở đất
Bình Định, tiếng tăm của Phi Long nổi như cồn, nhiều võ sĩ đàn anh có
thể trạng to khỏe như Minh Tinh, Thành Công, Trần Can, Thái Bình… nhưng
khi so găng đều không qua được ông. Ví như Thái Bình, võ sĩ này nặng
82kg, còn Phi Long chỉ 62kg nhưng cũng không phải là đấu thủ của ông.
Loanh
quanh mãi ở đất Bình Định cũng chán, Phi Long rời quê đi đầu quân cho
các lò võ ở xa tận Tây Nguyên, Sài Gòn, thậm chí vào cả miền Tây với một
mục đích là được đi đấu. Cũng cần phải nói thêm, thời đó phong trào đấu
võ đài phát triển rất mạnh nên các lò võ thường tuyển võ sĩ giỏi về thi
đấu cho mình, võ sĩ đánh cho võ đường nào thì mang họ của võ đường đó. “Khi đi đánh cho võ đường Lý Xuân Tạo ở các trận đài cánh Bắc Bình Định
và Tây Nguyên thì tôi mang tên Lý Quốc Long. Từ Phú Yên trở vào đến Bình
Thuận người ta biết tôi với tên Huỳnh Long vì tôi đánh cho người thầy
Huỳnh Tiền biệt danh “cáo già miền Nam”. Còn vùng Sài Gòn đi xuống miền
Tây, tôi mang tên Minh Long vì đánh cho võ đường của “võ vương” Minh
Cảnh… Nói tóm lại, Phi Long, Lý Quốc Long, Minh Long hay Huỳnh Long đều
là tôi cả”, võ sư Phi Long nói.
Võ
sư Phi Long cho hay, lúc ấy, mỗi trận đấu của ông tiền bồi dưỡng của lò
võ thì ít, nhưng tiền lèo (tiền thưởng của khán giả) thì rất nhiều. Có
những trận đánh tiền ông kiếm về có thể mua được 10 chiếc xe Honda 67,
loại xe máy nhập khẩu từ Nhật rất thịnh hành và có giá trị vào thời đó.
Những
năm 60 là thời kì đỉnh cao sự nghiệp đấu đài của võ sư Phi Long. Đặc
biệt, năm 1966, khi về đầu quân cho võ đường của “võ vương” Minh Cảnh,
trong trận thượng đài tranh ngôi vô địch tại sân Tinh Võ ở Sài Gòn ông
đã đánh bại võ sĩ Trần Cường người Biên Hòa và giành ngôi Vô định Việt
Nam hạng Rồng (ngoại hạng). Hai năm sau, năm 1968, chính võ sư Minh Cảnh
đưa ông sang Phnompenh (Campuchia) đấu với võ sĩ nước chủ nhà và giành
danh hiệu Vô địch Đông Dương. Cũng sau trận thắng đó ông chính thức treo
găng, giã từ sự nghiệp đấu đài và về quê Bình Định mở võ đường dạy võ.
Tâm sự về quãng đời lừng lẫy của mình, võ sư Phi Long cho biết có rất
nhiều kỉ niệm, vui có, buồn có. Đáng nhớ nhất là có lần ông vào sân Tinh
Võ thách đấu với Mã Thành Lèo, trung úy quân cảnh chế độ Sài Gòn, tay
đấm người Hoa nổi tiếng vùng Sài Gòn – Chợ Lớn. Cuộc thách đấu bất thành
nhưng sau này ông và Mã Thành Lèo trở nên thân thiết, hay trao đổi võ
học với nhau. Ngoài
những chuyện vui cũng có những chuyện không hay khiến ông nhớ mãi. Ví
như chuyện năm 66 ở Cam Ranh, năm 67 ở Biên Hòa, chỉ vì ông thắng đối
thủ mà bị đám lính tráng Việt Nam Cộng hòa thua độ cay cú quăng lựu đạn
và bắn súng mưu sát tưởng chết. Hay như năm 68, khi ông lên Kon Tum
thách đấu võ sĩ người gốc Campuchia, người này là lính binh chủng tăng
thiết giáp Việt Nam Cộng hòa, chưa hết hiệp 1, Phi Long đã hạ đối thủ
nằm sàn. Điên tiết, đám lính bạn bè chiến hữu của võ sĩ này kéo nhau ra
phong tỏa Quốc lộ 14 tìm bắn Phi Long khiến ông phải lánh nạn ở Kon Tum
hơn 1 tháng sau mới về được đến nhà. Hoặc có những võ sĩ đấu thua đem
lòng oán hận đã thuê giang hồ tìm cách xử ông. Những chuyện kiểu như vậy
võ sư Phi Long gặp nhiều và cũng đã lường trước trong cuộc đời bôn ba
khắp các sàn đấu của mình nên ông thấy bình thường, không trách giận hay
thù oán ai, nhờ đó mà về sau có người hối hận tìm đến xin lỗi, có người
trở thành bạn thân.
Cả
cuộc đời lừng lẫy khắp các sàn đấu và cống hiến nhiều cho sự nghiệp
phát triển võ thuật đỉnh cao của Bình Định nói riêng và Việt Nam nói
chung, nay tuổi đời đã cao, đại võ sư Phi Long chọn đỉnh đèo An Khê
(Bình Định) xây dựng Tổ đường để vui với gió, làm bạn với trăng sao, dồn
sức nghiên cứu và truyền bá võ học. Sở dĩ võ sư Phi Long chọn đèo An
Khê bởi theo ông đó là điểm giữa của hai vùng Tây Sơn thượng và Tây Sơn
hạ, hai vùng đất có ý nghĩa rất đặc biệt trong việc khởi dựng nên cái
nôi võ cổ truyền Bình Định quê hương ông. Và cũng từ ngày về đây ông
được giới võ lâm yêu mến đặt cho biệt hiệu “rồng đen quy ẩn”.
***
(Hết chương XXVII)
Nhận xét
Đăng nhận xét