CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 34
(ĐC sưu tầm trên NET)
Những bí mật về tình báo Trung Hoa (Kỳ 1)
(
An ninh quốc tế) -
Đối
với nghề gián điệp thì các phương thức, thủ đoạn hoạt động của các cơ
quan tình báo Trung Quốc chẳng có gì mới mẻ. Tuy nhiên, Trung Quốc đã
vận dụng các kiểu mẫu này một cách độc đáo.
Để thu thập tin tức tình báo, Bộ An ninh Quốc gia tuyển dụng một số
lượng các công dân Trung Quốc sống ở nước ngoài hoặc đi ra nước ngoài.
Các quan chức phản gián cao cấp Mỹ đã so sánh kỹ thuật tình báo kinh
điển của Liên Xô thấy rằng nước này sử dụng rất ít người để thu thập tin
tức, còn với Trung Quốc thì lại khác. Phương thức hoạt động của Trung
Quốc đặt ra khá nhiều vấn đề cho các cơ quan hành pháp Mỹ.
Harry Godfey III, Giám đốc cơ quan phản gián FBI Mỹ nói: “Bạn thấy
đấy, với các mục tiêu nhắm tới, họ đã kiếm chác thu lượm một cách riêng
rẽ, gặm nhấm dần dần lúc này, lúc khác và bạn không có chứng cứ rõ ràng
để nói rằng chúng ta phải tố cáo những vụ gián điệp này.”
Hầu hết các hoạt động thu thập tin tức của Trung Quốc không có gì
tinh vi, phức tạp, nhưng những yếu điểm này đã được bù đắp bằng số lượng
đông đảo của các điệp viên. Để tiến hành các hoạt động gián điệp tại
Hoa Kỳ, Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc đã ném vào chiến trường này:
– 1.500 các nhà ngoại giao và cán bộ thương vụ.
– 70 cơ sở văn phòng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
– 15.000 sinh viên Trung Quốc tới Mỹ hàng năm.
– 10.000 khách du lịch trong 2.700 đoàn hàng năm.
– Một cộng đồng người Hoa đông đảo.
Trong những năm gần đây, các hoạt động thu thập tin tức bí mật của
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ở Hoa Kỳ đạt được một số cao điểm là khoảng
50% số vụ chuyển giao kỹ thuật, công nghệ kiểm tra hàng năm ở bờ biển
phía Tây có liên quan tới Trung Quốc. Con số này rất có ý nghĩa khi kiểm
tra những sổ sách thống kê của đơn vị tăng cường kiểm tra xuất khẩu,
thuộc Vụ Bảo vệ nội vụ, Bộ Tư pháp và được xuất bản trong cuốn “Những
trường hợp kiểm tra xuất khẩu đáng lưu ý” từ 1-1981 đến 5-1992.
Những con số thống kê của cuốn sách này đã chỉ ra rằng chỉ 6% của 272
trường hợp đáng chú ý có liên quan tới Trung Quốc và 62,5% của các
trường hợp này xảy ra ở bờ biển phía Tây. Hơn nữa, 13,4% những vụ đã xảy
ra được liệt kê trong cuốn “Những trường hợp cưỡng chế xuất khẩu”, từ
cuối tháng 1/1986 đến 31/3/1993 đều có liên quan đến Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa.
Phần lớn những cố gắng của gián điệp Trung Quốc tại các nước công
nghiệp phát triển là nhằm vào việc lấy trộm kỹ thuật loại trung bình mà
các nước này chưa cho phép xuất khẩu. Song những thứ mà tình báo Trung
Quốc tìm kiếm được một cách bất hợp pháp này đã ít được các cơ quan bảo
vệ luật pháp và tòa án (như Cơ quan công tố cũng như Tòa án bang và liên
bang) chú ý bằng các vụ mất cắp công nghệ quốc gia. Do đó các hoạt động
thu thập tình báo công nghệ – kỹ thuật của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
đã diễn ra tương đối suôn sẻ, ít gặp cản trở.
Qua việc phân tích trên máy điện toán các hoạt vụ đánh cắp công nghệ
đã bị vạch trần trên đất Mỹ khiến ta nhận ra 3 kiểu hoạt động cơ bản của
họ.
Thứ nhất: Người cộng tác được tuyển chọn ngay tại
Trung Quốc yêu cầu người này giành lấy kỹ thuật công nghệ trong mục tiêu
khi ra nước ngoài.
Thứ hai: Các công ty nhà nước Trung Quốc mua thẳng
của các công ty Mỹ những loại kỹ thuật công nghệ mà Trung Quốc đang tìm
kiếm. Trong làng tình báo người ta gọi kiểu này là hành động táo bạo và
liều lĩnh.
Thứ ba: Đây là kiểu hoạt động phổ biến nhất. Trang thiết bị kỹ thuật cao cấp được các điệp viên mua thẳng ở Hongkong.
Phương pháp hữu hiệu nhất của Trung Quốc trong việc tìm kiếm công
nghệ tiên tiến của nước ngoài là gửi các nhà khoa học đi ra nước ngoài
theo các chương trình trao đổi kỹ thuật. Mỗi năm có hàng ngàn công dân
Trung Quốc đến Mỹ để buôn bán, hợp tác khoa học và những chuyện tương
tự. Thủ tục khai thác tình báo công khai là để những người đi về khai
báo tình hình để xem liệu có tin tức gì hữu ích qua quá trình quan sát
hay không.
Song Bộ An ninh quốc gia cũng như cơ quan tình báo quân sự đã khai
thác mạnh hơn qua những cơ hội này bằng cách tuyển mộ một số trong những
người ra đi để thực hiện những hoạt vụ đặc biệt cho họ. Thường thì
những người ra đi được giao nhiệm vụ thư từ hoặc thu thập tin tức.
Phương pháp thu tin bí mật này trở nên công khai tại Hoa Kỳ vào ngày
29/9/1988 này Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho nổ quả bom hạt nhân đầu
tiên của mình. Theo điều tra của FBI sau đó cho biết, công nghệ dùng để
chế tạo thiết bị này không phải của Trung Quốc mà kiếm từ phòng thí
nghiệm quốc gia Lawrence Livermore ở Livemore, California.
Vào những năm giữa thập kỷ 80, việc bảo vệ phòng thí nghiệm này khá
sao nhãng, lỏng lẻo khi mà có khá nhiều đoàn – trong đó có cả đoàn được
gọi là các nhà khoa học Trung Quốc – tới thăm mà không có việc kiểm tra
theo dõi thỏa đáng. Bản điều trần của FBI đã khẳng định có mấy nhà khoa
học Trung Quốc hoặc có quan hệ chặt chẽ với Bộ An ninh quốc gia, hoặc
chính họ là các sỹ quan tình báo. Bộ An ninh quốc gia rất dễ dàng tuyển
dụng điệp viên tại Lawrence Livermore trong thời gian đến thăm nơi này.
Quá trình thu tin qua các chuyến đi của các nhà khoa học hoặc các nhà
thương mại chính là phương thức gián điệp cấp thấp. Song qua vụ
Lawrence Livermore cho thấy phương thức này cũng rất hữu hiệu nên làm
kiểu khác khó lòng thắng lợi. Hơn nữa, sự hiện diện của các sỹ quan tình
báo trong các chương trình trao đổi khoa học kỹ thuật còn có nhiều mục
đích khác nữa.
1/ Thu thập xác minh tiểu sử một người nào đó được coi là cần cho thu tin tình báo và người này sẽ là mục tiêu tuyển chọn.
2/ Thu thập tin tức về chính phủ nước nhà, cũng như về kế hoạch trang thiết bị công nghiệp nước này.
3/ Kiểm tra, giám sát hoạt động của Hoa Kiều trong công tác đảm bảo an ninh, cũng như sự quan tâm, theo dõi của cơ quan phản gián.
Sự khác biệt giữa sỹ quan tình báo chuyên nghiệp và cộng tác viên
thường dễ nhận ra. Những sỹ quan tình báo thường kém hiểu biết về kỹ
thuật trong mục tiêu tìm kiếm, trong khi một cộng tác viên lại chẳng có
mấy kỹ xảo thu thập tin tức bí mật.
Ví dụ, tại một hội chợ thương mại ở Paris, những tình báo viên quân
sự đã theo dõi các đoàn viên của một phái đoàn các nhà khoa học Trung
Quốc đang thận trọng nhúng những ca-vát của họ vào một bình dựng dung
dịch rửa ảnh do hãng AGFA Đức sản xuất. Mục tiêu của hoạt động gián điệp
vụng về này là sau đó các nhà phân tích tình báo nhận được mẫu vật về
thuốc rửa ảnh.
Các hoạt động tình báo kỹ thuật bằng việc gửi các đoàn khoa học và
thương mại ra ngoài là không hạn chế. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tìm
cách để mua kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến của các công ty Hoa Kỳ,
trong khi những thứ này không được phép chuyển nhượng ra ngoài.
Tháng 2-1990, với lý do bảo vệ an ninh quốc gia, Hoa Kỳ đã thông báo
cho các công ty xuất nhập khẩu kỹ thuật hàng không Trung Hoa (CATIC)
phải tách khỏi công ty cổ phần chế tạo máy Mamco, một công ty sản xuất
linh kiện máy bay ở Seattle.
Chính quyền Bush đã giải thích công khai rằng CATIC đã có một “lịch
sử hiềm nghi”, đã tìm kiếm công nghệ hàng không để cung cấp cho lực
lượng không quân quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc những khả năng tiếp
dầu trên không. Các nhà chức trách bị bối rối hơn khi nghĩ rằng công ty
xuất nhập khẩu kỹ thuật hàng không Trung Hoa đã sử dụng Mamco như một
đội xung kích để thâm nhập vào lĩnh vực công nghệ bảo mật nhiều triển
vọng hơn.
Không thể gắn thẳng việc mua hàng của Mamco với Bộ An ninh quốc gia
khi mà hoạt động của cơ quan này đặt trên cơ sở những nguồn tin đã được
công bố. Tuy nhiên, cơ quan tình báo Trung Quốc đã xác định rằng, những
ưu tiên trên trong việc thu tin là nhằm đáp ứng những nhu cầu đặc biệt
của chính phủ và của giới quân sự. Để tránh phải có những cố gắng gấp
bội, họ phải thường xuyên nắm vững những hoạt động thu thập tin tức đang
diễn ra.
Vì vậy, sẽ là điều không thể hiểu được nếu có chuyện mua kỹ thuật –
công nghệ cao của công ty nước ngoài với quy mô hoạt động rộng lớn, với
những tiềm năng tình báo quan trọng mà lại không có sự hiểu biết và chấp
thuận của Bộ An ninh quốc gia.
Điều cần thiết là phải tiến hành nghiên cứu lịch sử của công ty và
những tiềm năng có thể cung cấp được những nguồn tin quý giá mà không
thể kiếm được từ các nơi khác.
(Còn tiếp)
(Theo PetroTimes)
(PetroTimes) - Điệp viên được nhắc nhở rằng sau khi tới nhà trường bên
Mỹ, sẽ gửi về trụ sở liên lạc ở tỉnh nhà một lá thư xác nhận đã đến nơi.
Và từ đó về sau, cứ 3 tháng lại gửi về đây một lá thư. Trong lá thư đó
phải giả vờ viết về tình hình sức khỏe và tài chính.
Lớp học đã bế giảng hai tháng, trước khi giáo sư lên đường đi Mỹ. Ông
đã nghỉ lại trong nhà khách của Bộ An ninh quốc gia ở Bắc Kinh và trong
một vài buổi tiếp xúc ban đầu, ông đã được mang cái tên gọn lỏn: "ngài
Xu". Vì thời gian quá bức bách, ông chỉ được một tuần lên lớp. Cán bộ Bộ
An ninh quốc gia rất hay co giãn về thời gian biểu và họ bảo cho ông
biết các bài giảng chỉ có nghĩa là "giúp bạn hiểu được nước Mỹ".
Nội dung học tập là một bản tổng kết về cuộc sống tại Mỹ, những ưu việt
của Trung cộng và công cuộc hợp tác giữa các bên và những quy tắc và
kinh nghiệm về an toàn cá nhân khi ở nước ngoài.
Loạt bài giảng đầu tiên là về hệ thống thông tin đại chúng Mỹ. Các
giảng viên đã giới thiệu cơ cấu tổ chức của các hệ thống báo và tạp chí,
cũng như quan hệ giữa quyền sở hữu của các ấn phẩm này với ảnh hưởng,
tác động của nó đối với các thế lực bảo thủ và tự do nước Mỹ. Những con
người hoạt động trong giới truyền thông này cũng được chia thành hai
hoặc ba loại tự do hoặc loại bảo thủ. Ông giáo sự cảm thấy những bài
giảng này đã vẽ lên một bức chân dung khá chính xác về hệ thống truyền
thông Hoa Kỳ.
Loạt bài giảng thứ hai là về các tổ chức sinh viên Trung Quốc ở Mỹ. Các
nhóm chống đối, bất đồng chính kiến đều thuộc loại chống chính phủ. Các
sinh viên nằm trong các tổ chức này là chống cộng sản và sẽ "không có
tương lai". Ông giáo sư được giới thiệu sơ lược về tác động của các tổ
chức đấu tranh đòi dân chủ, nhưng không đi sâu vào chi tiết.
Các cán bộ của Bộ An ninh quốc gia được gợi ý nên dùng các biện pháp
khoan hồng, khuyến khích học tập tránh cho thanh niên, sinh viên sa vào
các hoạt động chống đối. Ông cũng được cảnh cáo, nhắc nhở không được
tham gia vào các tổ chức chống chính phủ.
Loạt bài giảng thứ ba là về nền chính trị Hoa Kỳ. Chủ đề này bao gồm
những cơ sở của hệ thống đa đảng, những nguồn gốc của quyền lực chính
trị và tệ nạn tham nhũng, hủ bại lan tràn ở nước này. Ông giáo sư thấy
những bài giảng này có phần nào thành kiến hằn học, nhưng cũng thể hiện
một cái nhìn chính xác về nền chính trị nước Mỹ.
Những bài giảng cuối cùng là về các mục tiêu tình báo ngắn hạn và dài
hạn, cách xử sự trong quan hệ, các vấn đề về giao thông, liên lạc, về an
ninh trong hoạt động và những điều chỉ dẫn về các cuộc gặp gỡ khẩn cấp.
Và ngày cuối cùng của khóa học, người ta đã truyền đạt với ông về nghề
nghiệp và chế độ nghỉ hưu của cán bộ Bộ An ninh quốc gia.
Cái phương pháp mà người ta dùng để tuyển mộ vị giáo sư này, cũng như
lượng thông tin của các bài giảng rất đáng để chúng ta lưu ý. Các sĩ
quan của Bộ An ninh quốc gia đã giới thiệu với người được tuyển mộ rằng
ông ta được cơ quan lựa chọn, vì ông ta vừa có học vấn giỏi, lại vừa
nhạy bén về các mặt xã hội. Họ đề cao phẩm chất của họ, trong khi lại
coi học sinh, sinh viên "chỉ có kiến thức sách vở".
Điệp viên được khuyến khích cần nắm chắc mọi cơ hội để gặp gỡ, tiếp xúc
với những nhân vật có (hoặc sẽ có) ảnh hưởng rộng lớn. Những điều được
phô bày này đã chỉ ra rằng mục tiêu của cơ quan này của Trung Quốc là
đào tạo những điệp viên hoạt động dài hạn. Những người này có khả năng
thâm nhập sâu vào các mục tiêu đã định.
Mặc dù Bộ An ninh quốc gia đã động viên giáo sư tăng cường các cuộc
tiếp xúc, song thành tích học tập, nghiên cứu cũng luôn được trọng thị
như một ưu tiên ngang bằng. Ông đã được bảo cho biết rằng những kiến
thức thu lượm được trong quá trình nghiên cứu và phát hiện ở nước ngoài
là những thành tựu quan trọng, rất có ý nghĩa, sẽ được phục vụ cho Trung
Quốc.
Các viên sĩ quan tình báo này đã cảnh cáo điệp viên rằng có một số học
viên trước ông có những "hành vi kém cỏi". Họ đã phản bội Trung Quốc
bằng cách trình báo quan hệ bí mật giữa họ và Bộ An ninh quốc gia, với
chính phủ Mỹ. Giống như với những phần tử chống đối, bất đồng chính
kiến, các viên sĩ quan này cũng nói họ sẽ không có tương lại tại Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa.
Điệp viên được tuyển dụng lại được nhắc nhở thêm rằng điều quan tâm
hàng đầu của họ là sự an toàn của cá nhân điệp viên và rằng không một
nguồn tin nào có tầm quan trọng đủ để đem ra đánh đổi bằng an nguy của
điệp viên. Việc không tiết lộ với bất kì ai về nhiệm vụ bí mật của mình
sẽ đảm bảo an toàn cho các bên hữu quan.
Điệp viên được nhắc nhở rằng sau khi tới nhà trường bên Mỹ, sẽ gửi về
trụ sở liên lạc ở tỉnh nhà một lá thư xác nhận đã đến nơi. Và từ đó về
sau, cứ 3 tháng lại gửi về đây một lá thư. Trong lá thư đó phải giả vờ
viết về tình hình sức khỏe và tài chính. Ngoài ra, phải báo tin ngay về
nhà nếu có quyết định thay đổi chuyên đề nghiên cứu.
Trong trường hợp khẩn cấp, điệp viên sẽ được đảm bảo cho biết sẽ sử
dụng một trong hai số điện thoại để gọi về tỉnh nhà. Những máy này được
nối vào trợ sở của Ủy ban khoa học kĩ thuật và công nghiệp quốc phòng
tỉnh. Các sĩ quan đã cảnh cáo rằng phải thận trọng nếu không người Mỹ có
thể xác định được địa chỉ gặp gỡ tại Trung Quốc, cũng như nghe được các
cuộc điện đàm. Chỉ trong trường hợp khẩn cấp duy nhất, uy hiếp đến tính
mạng sống, thì điệp viên mới được tiếp xúc với sứ quán Trung Quốc ở
Washington.
Các sĩ quan Bộ An ninh quốc gia đã thông báo với điệp viên rằng trong
khi ông ta đi công tác, thì họ đã chăm sóc gia đình ông. Vào những ngày
lễ, Tết, gia đình điệp viên đã nhận được thức ăn và tặng phẩm của cơ
quan tình báo gửi cho. Điệp viên đã gọi loại tặng phẩm này là "mấy thứ
mà tôi không muốn bạn bè tặng cho". Ông được hứa là trong thời gian phái
khiển, cứ 2 năm một lần được về nước nghỉ phép. Nếu ông muốn, ông có
thể gặp gia đình tại Hongkong hoặc Macao, phí tổn cho việc đi lại ăn ở
do cơ quan tình báo thanh toán.
Sau nhiều tuần học tập, ông giáo sư được bảo cho biết ông đã được chọn
làm một điệp viên dài hạn và sau khi hoàn thành chương trình nghiên cứu,
ông có thể suy nghĩ tới việc xin cư trú lâu dài ở Mỹ và Bộ An ninh quốc
gia sẽ giúp đỡ trong việc này. Nếu ông muốn lựa chọn nghề tình báo này,
ông sẽ được trả lương và có thể tính thêm các khoản thù lao vào lương
hưu và lĩnh ở Trung Quốc.
Sau khi kết thúc khóa huấn luyện, người ta đã dành cho người điệp viên
mới này mấy ngày dạo chơi Bắc Kinh, nhưng ông đã khước từ vì thời gian
eo hẹp. Ông trở về nhà và sau đó tham dự buổi gặp gỡ thứ năm (bữa tiệc
chia tay) với các cán bộ tình báo tỉnh nhà và từ Trung ương xuống. Điệp
vien nhận vé xe lửa đi Bắc Kinh và 2.500 đô la Mỹ sau khi kí vào một tờ
biên lai.
Điều khá hấp dẫn là kế hoạch của Bộ An ninh quốc gia bố trí cho điệp
viên xin nhập cư vào Mỹ. Đây cũng là biện pháp dành cho các điệp viên
dài hạn. Nếu điều này xảy ra thì Trung Quốc sẽ có một mạng lưới điệp
viên mang quốc tịch Mỹ ra đời ở nước này. Và một trong những mục tiêu
của mạng lưới này là làm nhiệm vụ đỡ đầu, bảo trợ cho những người Trung
Quốc khác nhập quốc tịch vào Mỹ.
Song điều này phải cần tối thiểu 5 năm, một người mới được được nhập
thường trú. Trong khi sử dụng biện pháp tuyển dụng điệp viên ở trong
nước rồi gửi đi nước ngoài như trình bay ở phần trên, Bộ An ninh quốc
gia đã đưa được các điệp viên dài hạn vào Hoa Kỳ ít ra là từ năm 1986.
Nếu Bộ An ninh quốc gia chỉ cần tuyển mộ 1% của 15.000 sinh viên Trung
Quốc vào Mỹ mỗi năm, thì đã có tối thiểu là mấy trăm điệp viên dài hạn
hoạt động ở đây rồi.
Năm 1991, Hội sinh viên Trung Hoa học ở Havard là các đại diện của Ủy
ban phối hợp quốc gia về công tác học tập và nghiên cứu của sinh viên và
học giả Trung Quốc đã tiến hành một đợt điều tra, thẩm vấn 600 sinh
viên và học giả, cho thấy 30% được hỏi ý kiến đã cho biết họ đều có kế
hoạch định cư tại Hoa Kỳ.
Sẽ là điều hợp lý khi ta nghĩ rằng Bộ An ninh quốc gia sẽ tìm cách khai
thác, lợi dụng những cơ hội này để tuyển mộ điệp viên trong số những
người này. Bộ An ninh quốc gia sẽ dễ dàng sử dụng phương pháp tuyển mộ
bằng gây sức ép đối với số sinh viên đang còn người thân ở đại lục.
Cung cách tuyển dụng điệp viên trong đám người đào thoát trên các vùng
biên giới cũng diễn ra tương tự: đe dọa, uy hiếp và hành hạ về thể xác
nếu không chịu hợp tác và ưng thuận thì sẽ có tiền thưởng, tiền thù lao.
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã xây dựng nhiều trạm tình báo dọc theo
đường biên giới với Việt Nam.
Theo báo chí Việt Nam thì có tới 24 trạm như vậy đã đồng thời hoạt
động. Các tổ chức của người tị nạn Việt Nam và quốc tế đã mô tả ý đồ của
Trung Quốc tiến hành tuyển mộ những điệp viên cấp thấp từ dòng người tị
nạn đang rời bỏ Việt Nam ra đi này. Những trung tâm tái định cư tại
Trung Quốc như các trại Đông Hưng và Phòng Thành đã trở thành mảnh đất
màu mỡ cho các hoạt động tuyển mộ điệp viên của Trung Quốc.
Các nguồn tin công khai cho thấy việc tuyển dụng điệp viên trên đường
biên giới là do các cán bộ của Bộ Công an và các sĩ quan quân đội Trung
Quốc tiến hành. Công việc này diễn ra ở mức độ cấp huyện phản ánh tư
tưởng "chiến tranh nhân dân" của Mao Trạch Đông, các hoạt động phần lớn
diễn ra ở cơ sở.
Tại các vùng xa xôi hẻo lánh, dân cư địa phương thường bị các đường
biên nhân tạo chia cắt, như dọc theo biên giới Việt - Trung và Miến -
Trung. Kết quả là dân chúng địa phương ở bên này biên giới được tuyển mộ
để thu thập tin tức từ những người thân thích, bạn bè của mình ở bên
kia biên giới.
Quá trình tuyển dụng điệp viên trên biên giới tương đối giản đơn nhưng
lại có hiệu quả. Báo chí Việt Nam năm 1980 đã đưa tin về số vụ cụ thể
các gián điệp được phía Trung Quốc tuyển mộ hoặc sống gần cận đường biên
giới hoặc chạy trốn từ Việt Nam sang. Hà Nội đã buộc tội Trung Quốc lợi
dụng các chợ đường biên làm phương tiện để bẫy người Việt Nam sang để
tuyển chọn, chiêu mộ. Việc huấn luyện điệp viên được biết là khá đa dạng
trên cơ sở nhu cầu thu tin cụ thể.
Các cơ quan tình báo Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tỏ ra có tính đa
dạng và tính thích nghi cao trong các phương pháp tuyển mộ điệp viên. Nó
luôn luôn thay đổi để thích ứng với từng cá nhân điệp viên cũng như
những điều kiện hoạt động vào thời điểm đó. Tuy vậy, Bộ An ninh quốc gia
Trung Quốc vẫn chưa quen với quá trình tuyển mộ các điệp viên là người
phương Tây. Lý do chủ yếu là hai nền văn hóa Đông - Tây có những cách
biệt ngày càng lớn.
Tóm lại, Bộ An ninh quốc gia Trung Quốc là một cơ quan tình báo năng nổ
đang ở tuổi trưởng thành trên võ đài quốc tế. Việc kết hợp giữa một tốc
độ phát triển kinh tế cao và sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng
gay gắt đã buộc Trung Quốc phải dựa nhiều vào việc tìm kiếm bất hợp pháp
công nghệ cao của nước ngoài nhằm đáp ứng công cuộc hiện đại hóa của
họ.
Việc lấy cắp kĩ thuật tiên tiến, việc tiến hành các hoạt động phong phú
của Bộ An ninh quốc gia qua ngả Hongkong được coi là an toàn, hợp lý và
hiệu quả. Nhà nước yêu cầu Bộ An ninh quốc gia đóng vai trò tíc cực
trong việc tìm kiếm kĩ thuật, công nghệ cho công cuộc hiện đại hóa kinh
tế và quân sự.
(Còn tiếp)
P.V (tổng hợp)
(PetroTimes) - Là một nhà phân tích
tin đối ngoại của CIA và là một người nói thạo tiếng Trung Quốc, Chin có
khả năng truyền đi những tin tức kể trên như là chuyển những bản tin
tình báo về Trung Quốc và Đông Á, những bản tiểu sử và sự nhận định,
đánh giá của những nhân viên CIA đồng sự và những tên gọi, cũng như đặc
điểm nhận biết của một cơ quan, một sở, một hãng làm vỏ bọc cho điệp
viên.
Chin cũng ở vào một vị trí thuận lợi để cung cấp những nguồn tin về các
điệp viên được tuyển mộ ở Trung Quốc. Vì những nguyên tắc ngăn cách
bảo mật của CIA khiến Chin không thể biết chắc tên gọi, đặc điểm của các
cơ quan ngụy trang và điệp viên đó. Tuy nhiên, Chin có thể dựa vào
những nguồn tin mà họ cũng cấp để suy ra địa chỉ, chủ nhân và mức độ
đánh giá của sự kiện, sự vật này. Tiếp đó, cơ quan phản gián và bảo vệ
nội bộ Trung Quốc sẽ xác minh lại bằng cách biệt phái người của họ tới
Mỹ để khẳng định lại sự việc. Mỗi khi điệp viên bị phía Trung Quốc phát
giác và thường là bị bắt hoặc mớm những tin giả để những người này
chuyển về cho CIA.
Những giả thiết tương đối chắc chắn về các hoạt động tình báo của Mỹ có
được xây dựng trên cơ sở những kết quả hoạt động của Chin, cộng với
nguồn tin thu được và chuyển về Trung Quốc.
1- Bộ An ninh quốc gia có thể quyết định được những phân tích, đánh giá
của tình báo Mỹ chính xác đến mức nào về hoạt động tình báo, về cơ sở
của nền chính trị, kinh tế, quân sự của Trung Quốc.
2- Bắc Kinh rất quan tâm thu lượm các nguồn tin về hệ thống truyền
thông an ninh của Hoa Kỳ. Điều này đã được chứng thực bằng một phản ứng
thuận lợi rằng Chin đã xác nhận với Bộ An ninh quốc gia rằng ông ta có
một hợp đồng làm việc tại Cơ quan an ninh quốc gia và đã viết một bản
tóm tắt cho cuốn sách có tên là “Lâu đài hư ảo”.
3- Số lượng các hoạt vụ của hai cơ quan tình báo và phản gián Mỹ đã được dàn xếp thỏa thuận.
4- Những người làm thuê cho CIA luôn nằm trong mục tiêu tuyển dụng của các cơ quan tình báo Trung Quốc.
5- Trước năm 1981, những cố gắng của tình báo Mỹ và đồng minh của họ đã
không mấy thành công trong các hoạt động thâm nhập vào cấp cao của Bộ
Công an hoặc Bộ An ninh quốc gia Trung Quốc để có thể phát hiện ra những
hoạt động của Chin.
Các hoạt động thâm nhập rất có hiệu quả của các cơ quan gián điệp Trung
Quốc là điều rất khó hiểu đối với các tổ chức tình báo nước ngoài bao
gồm cả cơ quan tình báo của Liên Xô trước đây. Từ thập niên 70 đến giữa
thập niên 80, Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô (KGB) đã bị mất nhiều địa
điểm hoạt động ở nước ngoài (những trạm cố định làm căn cứ hoạt động) để
tuyển dụng một vài điệp viên ít ỏi nằm trong nội bộ các tổ chức tình
báo và chính trị Trung Quốc. Những thất bại này thường được giải thích
rằng các hoạt động phản gián và bảo vệ nội bộ của Trung Quốc rất có hiệu
quả.
Vì chế độ cảnh sát tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quá ư hà khắc và vì
hệ thống giám sát ngặt nghèo của những viên chức thuộc các cơ quan đặc
biệt đối với dân chúng trong nước cũng như người sống và làm việc tại
các cơ quan đặt ở nước ngoài làm cho hầu hết dân chúng Trung Quốc phải
sống cuộc sống khổ hạnh để tránh bị trả thù và cũng không đi chệch khỏi
những nguyên tắc hành vi đạo đức trước đồng bào của mình.
Những nhận định đánh giá của KGB về hành vi đạo đức của các viên chức
Trung Quốc vẫn còn giá trị. Một quy tắc an ninh sơ đẳng mà Bộ An ninh
quốc gia đặt cho tất cả các quan chức chính phủ đang làm việc ở nước
ngoài là đi lại phải có từ hai người trở lên. Trước khi được cử ra nước
ngoài công tác, tất cả mọi người đều phải thông báo về trách nhiệm của
họ là phát hiện và khai báo những người không tuân thủ triệt để những
quy định về an ninh. Mục đích của chính sách này là giám sát suốt ngày
đêm mọi viên chức chính phủ và hạn chế các cơ hội tuyển dụng của tình
báo nước ngoài.
Dựa trên những hiểu biết của chúng ta về những quy tắc bảo vệ nội bộ
của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là sự phân tích nhận định của chúng ta
về trường hợp của Chin, chúng ta có thể suy luận ra rằng công tác an
ninh đặc nhiệm của các cơ quan tình báo và chính trị của Trung Quốc là
rất có hiệu quả. Công tác an ninh đặc nhiệm, giải thích một cách ngắn
gọn là việc áp dụng các thủ tục cho mọi loại hoạt động. Các thủ tục này
được đặt ra là nhằm ngăn chặn không để kẻ thù hiểu rõ các việc đang làm
hoặc nắm được những tin tức tối mật.
Các nguồn tin công khai đã cho rằng các hoạt động gián điệp của Chin bị
tiết lộ là do sự phản bội của Yu Zhensan, một trưởng phòng ngoại vụ Bộ
An ninh quốc gia gây ra.Vì Chin đã nghỉ hưu và việc giải ngũ đúng hạn
định theo các tiêu chuẩn an ninh sẽ không cần phải đưa ra ánh sáng các
hoạt động trước đây của ông ta. Hơn nữa, trong một buổi phỏng vấn tháng
11/1995, Chin đã lưu ý Mark R.Johnson, một nhân viên của FBI rằng những
tin tức chi tiết cụ thể mà FBI nắm được chỉ có thể đến từ một nguồn cao
cấp trong chính phủ Trung Quốc mà thôi. Nhưng các biên bản tòa án đã chỉ
ra rằng những cuộc điều tra của FBI và Bộ Tài chính đã được tiến hành
vào năm 1982.
Trên thực tế, Cục thuế quan Hoa Kỳ đã ghi lại số khóa nhà của Chin nhân
khi khám xét va ly lúc ông này từ Bắc Kinh trở về vào tháng 2 năm 1982.
Các thủ tục quá ư tỉ mỉ này được coi như là “cuộc khám xét hải quan
triệt để” sẽ không cần đến nếu như không có ai đó bị hiềm nghi và nằm
trong danh sách điều tra hình sự được ghi trong máy điện toán tại sân
bay của Cục hải quan. FBI đã tiến hành mấy lần kiểm tra nhận diện Chin
tại hải quan năm 1981. Cho nên hoặc là Yu Zhensan được Mỹ tuyển mộ làm
một điệp viên kiểm tra trước năm 1982 hoặc là Mỹ hay một chính phủ đồng
minh nào đó của Mỹ đã có điệp viên cao cấp khác năm trong cơ quan tình
báo Trung Quốc. Vì lý do an ninh nên chỉ có rất ít nhân viên tình báo
cao cấp được biết về Chin không khác gì Yu được Mỹ tuyển mộ năm 1981
vậy.
(Còn tiếp)
P.V (tổng hợp)
(PetroTimes) - Khi phân tích kỹ hơn
trường hợp của Chin, người ta thấy được những kỹ xảo thông dụng trong
hoạt động gián điệp của Bộ An ninh quốc gia Trung Quốc.
Việc phân tích trường hợp của Chin, đã làm bộc lộ khá nhiều chuyện về
nhu cầu tin tức của Trung Quốc về Hoa Kỳ. Dựa trên những tiêu chuẩn văn
kiện, tư liệu thu thập được và chắc chắn hoặc có khả năng đã gửi về Bắc
Kinh cho thấy những mục tiêu chủ yếu trong hoạt động này như sau:
1. Các nguồn tin về chính sách ngoại giao, chính trị và kinh tế đối với Trung Quốc.
2. Sự hiểu biết về các hoạt động tình báo ở nước ngoài được chỉ đạo tại Trung Quốc.
3. Những tin tức về nhu cầu nắm bắt tình hình Trung Quốc của Hoa Kỳ.
4. Tiểu sử của các viên sĩ quan tình báo Mỹ.
5. Những chi tiết về khả năng thông tin an toàn.
Khi phân tích kỹ hơn trường hợp của Chin, người ta thấy được những kỹ
xảo thông dụng trong hoạt động gián điệp của Bộ An ninh quốc gia Trung
Quốc. Ví dụ, Chin đã gửi những tin tức, tài liệu mật về Trung Quốc khi
ông ta qua Canada và Hongkong. Đây chính là phương pháp trong đó có một
điệp viên hoặc một cán bộ hoạt động bất hợp pháp chuyển tin tức tình báo
và nhận chỉ thị qua nước thứ 3, có nghĩa là một hoạt động đã diễn ra ở
nước thứ 3 hoặc là một mạng lưới hoạt động gián điệp ở bên ngoài. Thực
ra mạng lưới này thường hoạt động tại chính quốc gia mục tiêu. Song
trường hợp này, viên sĩ quan tình báo đã chuyển chỗ tạm trú và các hoạt
động của mình tới nước thứ 3 để có được mức độ an ninh cao cho mình.
Thường thì điệp viên này chỉ lui tới nước thứ 3 trong một thời gian ngắn
ngủi để che mắt cơ quan phản gián nước mục tiêu không phát hiện ra hoạt
động gián điệp của mình. Chin thường chỉ gặp người hẹn - ngài Li - của
mình trong cửa hàng ở Toronto bình quân 5 phút mỗi lần. Dấu vết công
khai duy nhất của phương thức hoạt động tình báo qua nước thứ ba là các
lần đi lại này thường được giải thích là đi nghỉ.
Việc chuyển tài liệu mật và nhận chỉ thị là các hoạt động nghiệp vụ
hàng ngày của Chin lại thường diễn ra ở những nước khác hơn là tại Trung
Quốc đại lục. Tối thiểu đã có 6 trường hợp chin đã chuyển những cuốn
phim chưa tráng cho Bộ An ninh quốc gia của ông ta trong cùng một cửa
hàng ở Toronto. Trong những lần khác, ông dựa vào các sĩ quan Trung Quốc
tại Hongkong. Trong thông tin liên lạc bí mật, Bộ An ninh quốc gia
thích dùng các cộng tác viên hơn là các hộp thư chết.
Khi có được cái gì đó cần gửi về, Chin trước hết phải gửi thư cho một
hộp thư ở một trong ba nơi là Quảng Châu, Quảng Đông hoặc Hongkong. Lá
thư bí mật báo trước ông ta sẽ tới một nước thứ ba khi nào và ở đâu.
Phương thức hoạt động gián điệp kiểu này thường không cho phép chuyển
tài liệu một cách nhanh chóng, nhưng lại an toàn hoàn thiện hơn so với
chuyển thẳng mục tiêu từ trong nước đi. Tuy nhiên, trong trường hợp văn
kiện phản ánh chính sách của Nixon thì Chin lại có cách chuyển nhanh tin
tức trong trường hợp khẩn cấp. Hơn nữa, việc dùng kỹ thuật kiểm tra qua
nước thứ ba gợi ý cho thấy các cơ quan tình báo Trung Quốc đã biết rõ
khả năng nghề nghiệp của các lực lượng phản gián Mỹ.
Việc các hoạt động được kiểm tra từ nước thứ ba là một nhân tố cơ bản
của phương thức hoạt động gián điệp của Trung Quốc. Từ những năm 1950
cho tới nay, các cơ quan tình báo kế tiếp nhau của Trung Quốc đã chỉ đạo
các hoạt động ngụy trang chống Hoa Kỳ từ các bàn đạp ở Anh và các nước
châu Âu khác. Một phần của các kế hoạch hoạt động ngụy trang là công
việc một số người Mỹ và châu Âu đã cộng tác với các cơ quan an ninh
Trung Quốc để gây ảnh hưởng tới công luận Mỹ. Trong gần ba thập kỷ qua,
nhiều tài liệu tuyên truyền đã từ nhà xuất bản Ngoại văn Bắc Kinh, Hiệu
sách quốc tế, qua trạm bưu điện số 88 ở Bắc Kinh gửi sang Anh, Mỹ qua
tay các điệp viên được tuyển mộ ở nhiều thành phố châu Âu.
Các hoạt động này đã diễn ra đặc biệt tích cực thời gian có cuộc chiến
tranh Việt Nam. Trong các chiến dịch tuyên truyền rộng lớn, nhiều người
Mỹ đã hoạt động như những điệp viên Trung Quốc thực thụ trong việc tổ
chức ra không biết bao nhiêu cuộc biểu tình rầm rộ, các cuộc học sinh,
sinh viên ngồi lì trong các khuôn viên để chống chiến tranh trên khắp
nước Mỹ. Theo yêu cầu của Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, cơ quan
tình báo Trung Quốc đã tuyển mộ được một số nhà bác học, các giáo sư và
sinh viên trong các hoạt động nhằm ngăn chặn Hoa Kỳ can thiệp vào Đông
Nam Á. Nhiều lãnh tụ của các nhóm này đã thảo luận về các chiến lược
hoạt động tại các cuộc họp thường kì ở Bắc Kinh.
Đã có những kiến nghị về việc ghi những tiết mục vào đĩa và gửi sang
Bắc và Nam Việt Nam. Tại Nam Việt Nam, các đĩa này có thể đem phát thanh
lại cho lính Mỹ nghe. Những đề nghị khác là việc viết thư, truyền đơn
và gửi sang Mỹ qua nhiều con đường. Họ muốn thu hút ngày càng nhiều giáo
sư và sinh viên vào những mắt xích này càng tốt. Người Trung Quốc đã
hình dung ra rằng những gì đã xảy ra sẽ được tiếp tục trong các khuôn
viên. Những người cộng sản Trung Quốc đang chứng kiến cuộc chiến đang
trên đà tàn lụi vì có phong trào phản chiến như thế này đang đang cao ở
Mỹ.
Hơn nữa, để kiến tạo các hoạt vụ ngụy trang, các cơ quan tình báo Trung
Quốc rất tích cực thu thập các nguồn tin công khai từ Mỹ qua các cá
nhân hoặc bưu phẩm tại châu Âu. Trước khi Trung Quốc kiến lập quan hệ
ngoại giao với Mỹ và chính sách mở cửa đối với phương Tây, tình báo
Trung Quốc đã tuyển mộ các điệp viên tại châu Âu để thu thập tài liệu về
thương mại, công nghiệp, tình hình các trường đại học, các nhà xuất bản
và các Hội khoa học kĩ thuật Mỹ.
Thông thường các nguồn tin này không phải là tin mật, nhưng vì các điều
thảo luận ở trên nên các loại sách báo xuất bản từ nguồn công khai và
các loại tài liệu về thương mại, về khoa học kĩ thuật đã được các cơ
quan tình báo Trung Quốc tiến hành gạn lọc.
Nếu đem so sánh với kỉ nguyên Việt Nam thì các hoạt vụ ngụy trang và
những cố gắng thu thập tin tức công khai trong vụ Chin cho thấy những
khác biệt lớn lao trong các mục tiêu tình báo. Một mặt nó phơi bày rõ
rệt những mưu đồ thâm nhập vào các cơ quan tình báo Hoa Kỳ của Bộ An
ninh quốc gia. Mặt khác là những hoạt vụ gián điệp thuyết min cho những
mưu đồ đó. Tháng 12 năm 1987, hai nhà ngoại giao Trung Quốc đã bị trục
xuất khỏi Hoa Kỳ vì các hoạt động không tương xứng với thân phận họ. hai
người này, gồm có Hoa Desheng, một tùy viên quân sự ở Washington và
Zhang Weichu, một nhân viên tòa lãnh sự Trung Quốc ở Chicago đã bị bắt
tại một khách sạn ở Washington khi đang mua những tài liệu mật mà họ tin
chắc đó là những văn kiện mật của cơ quan an ninh quốc gia, cơ quan này
là cơ quan hàng đầu của Hoa Kỳ chuyên tổ chức việc nghe trộm tin tức
trên hệ thống thông tin liên lạc của người nước ngoài và tiến hành bảo
vệ mạng lưới thông tin về ngoại giao và quốc phòng Mỹ. Hai viên sĩ quan
này đã tiếp xúc nhầm với một điệp viên hai mang FBI chứ không phải một
nhân viên cơ quan an ninh quốc gia.
Một mưu đồ khác của Bộ An ninh quốc gia định thâm nhập vào cộng đồng
tình báo Mỹ đã xảy ra vào tháng 11/1988. Một viên sĩ quan thông tin
thuộc Bộ Ngoại giao đã bị thuyên chuyển khỏi nhiệm sở trong sứ quán Mỹ ở
Bắc Kinh sau lần tuyển mộ của Bộ An ninh quốc gia. Những cố gắng này
của Bắc Kinh là rất đáng giá bởi vì nếu vụ này mà trót lọt thì đây là
chiếc chìa khóa mở tung các cửa phòng thông tin liên lạc ở tất cả các sứ
quán Mỹ.
Khái quát lại, qua những hoạt động tuyển dụng này cùng với những gì mà
Larry Chin đã làm cho thấy các cơ quan tình báo Trung Quốc đang hoạt
động điên cuồng nhằm thâm nhập vào các hệ thống thông tin liên lạc được
bảo mật của Mỹ. Những điều này tiêu biểu cho một lĩnh vực nhạy bén nhất
(và cũng là lĩnh vực được bảo vệ chặt chẽ nhất) trong các hoạt động
ngoại giao, tình báo quân sự. Một điệp viên đơn lẻ ngồi đúng chỗ của
mình trong cơ quan thông tin đối ngoại có thể cung cấp những nguồn tin
cần thiết cho việc giải mã hàng triệu mật thư.
Những vụ này cũng chỉ ra xu thế hoạt động tình báo của Trung Quốc. Các
viên chức làm luật và tình báo Mỹ thường được khuyến dụ rằng Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa chủ yếu tuyển dụng những người Mỹ gốc Hoa để thu thập
tin tình báo và tiêu điểm của các hoạt động này là công nghệ cao.
Song những vụ kể trên đã chứng minh một cách đáng thuyết phục rằng
không có quan điểm riêng biệt nào là hoàn toàn đúng. Bộ An ninh quốc gia
Trung Quốc đang tích cực tìm kiếm mọi con đường để thâm nhập vào các cơ
quan tình báo và hoạch định chính sách Mỹ. Hơn nữa, với số lượng các
hoạt vụ tình báo mới được phơi bày gần đây cho thấy tại Hoa Kỳ, Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa ít ra cũng thu được một số thành tựu trong việc
tuyển mộ điệp viên và kiểm soát mạng lưới điệp viên này trong lòng những
cơ quan kể trên.
(Còn tiếp)
P.V (tổng hợp)
Để tìm kiếm thị trường buôn bán vũ khí cho Trung Quốc, các sỹ quan Cục II đã tuyển mộ những người đại lý vũ khí.
Các hoạt vụ tình báo chiến lược
Không giống như các hoạt vụ tình báo chiến thuật, các hoạt vụ tình
báo chiến lược thu tin bằng con người của Quân giải phóng nhằm thỏa mãn
nhu cầu tin tức của các lực lượng cấp chiến thuật và của các khách hàng
công nghiệp quân sự trên một phạm vi khá rộng lớn.
Tuy nhiên, các hoạt động tình báo ở cấp độ quốc gia này luôn bị giới
hạn bởi đối tượng quân đội và các khách hàng liên quan, nên phạm vi hoạt
động bí mật và ngụy trang của nó thường nhỏ hẹp hơn nhiều so với Bộ An
ninh quốc gia. Cục II đã bỏ ra một số tiền tài vật chất lớn đầu tư trên
cấp độ quốc gia để tiến hành 4 loại hoạt động tình báo chiến lược là:
Thu thập tin tức về các lực lượng quân sự nước ngoài.
Tìm kiếm công nghệ quân sự quốc phòng.
Tìm kiếm thị trường xuất khẩu vũ khí.
Triển khai các chiến dịch hành động ngụy trang.
Một trong những công cụ cơ bản mà Bắc Kinh dùng để thu thập tin tức
quân sự cấp quốc gia là đội ngũ tùy viên quân sự. Như đã trình bày ở
phần đầu, vai trò thông thường của các tùy viên quân sự trên thế giới
đâu đâu cũng đều là thu thập tin tức công khai. Qua một số vụ gián điệp
gần đây cho thấy các tùy viên quân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cũng
có nhiệm vụ thu thập tin tình báo bí mật.
Có thể dẫn ra những ví dụ như vụ Hou Desheng sĩ quan tình báo Cục II,
tùy viên quân sự ở Washington bị bắt. Vụ Zhang Weichu dưới vỏ bọc cán
bộ lãnh sự quán Trung Quốc tại Chicago cũng thế. Cả hai người này đều bị
bắt vào lúc đang tìm cách mua tài liệu mà họ tin là tuyệt mật về nguyên
vật liệu về NSA.
Tầm quan trọng của vụ gián điệp này rơi đúng vào vùng nhạy cảm nhất
của loại nguyên liệu sản xuất các thiết bị tình báo tín hiệu (thông tin
liên lạc, điều khiển từ xa, phát xạ và phát sóng). Khi mật mã và tấn số
thông tin rơi vào tay cơ quan tình báo đối phương thì chắc chắn cơ quan
này sẽ tiến hành nghe trộm và giải mã. Nếu là thông tin quân sự thì
những tài liệu thu được qua nghe trộm có thể bao gồm quân số, hoạt động,
địa điểm đóng quân, chỉ huy, nhân sự và tín hiệu liên lạc.
Trường hợp John Walker bị buộc tội gián điệp đã bán mật mã thông tin
của hải quân cho Liên Xô đã trở thành tiếng kèn báo động về thảm họa của
loại gián điệp này gây ra. Nhờ mua được bí mật của Mỹ từ Walker mà Liên
Xô đã “mở được hàng triệu mật điện của hải quân Mỹ”, biết được những
xung đột có thể có trên đại dương.
Qua việc phân tích trường hợp của Hou Zheng cho thấy sự thiếu vắng
các biện pháp an ninh tình báo trong suốt quá trình từ khi vạch kế hoạch
cho đến các khâu thực hiện sau đó. Vụ Hou Zheng và vụ Zhang Weichu bị
bại lộ làm cho một số người cho rằng đó là do việc tuyển mộ điệp viên đã
tiến hành không thỏa đáng. Do sai lầm này mà cả hai viên sĩ quan đó đã
bị FBI điều tra thẩm vấn. Hơn nữa, cả hai người này gặp gỡ điệp viên rất
có thể là vờ vĩnh của họ tại một quán ăn Trung Hoa cho thấy họ đã không
thấy được một thể thức, một thủ tục liên lạc bí mật được đảm bảo giữa
điệp viên và sĩ quan chỉ huy.
Trên thực tế, FBI hoàn toàn có khả năng thâm nhập, phát giác và bắt
giữ cả hai viên sĩ quan Trung Quốc có nghĩa là các điệp viên của cơ quan
này đã chực sẵn trong quán và vồ họ đúng lúc. Hoặc là các sĩ quan Cục
II hoặc là một người thứ ba đã bị theo dõi, bám sát ngay tại địa điểm
hẹn và FBI đã có mặt và làm phá sản hoạt vụ này.
Chắc chắn Hon và Zhang đều đang thu thập tin tức trong mục do Cục III
thuộc Bộ tổng tham mưu vạch ra, vì thu thập tình báo tín hiệu là nhiệm
vụ của Cục này. Vào thời gian năm 1983 - 1984, Hon là Bí thư thứ ba đại
diện thường trực của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc ở New
York. Trên cương vị này, ông ta không được thừa nhận là một sĩ quan
quân đội. Song vai bình phong trong năm đó của ông ta là một tùy viên
quân sự ở Washington.
Có thể nghề gián điệp của ông ta không phải là bắt đầu từ khi ông
được phân công làm cán bộ trong sứ quán Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại
Washington, chắc chắn hơn ông ta được tuyển mộ hoạt động tình báo bí mật
khi còn đang công tác tại Liên Hợp Quốc.
Những vụ bị vỡ lở khác cũng hỗ trợ cho quan điểm cho rằng Cục II đã
cử các sĩ quan hoạt động gián điệp dưới bình phong là đại diện ở Liên
Hợp Quốc. Ít nhất có một vụ về việc Cục này định chiếm lĩnh những bí mật
về sản xuất vũ khí cũng như công nghệ cao áp dụng cho sản xuất quốc
phòng. Tháng 10 năm 1987, Chi Shangyao và Charles Chang đã bị bắt tại
Newark, New Jersey về mưu đồ xuất khẩu bất hợp pháp cho Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa 10 ống phóng, kính ngắm, bộ điều khiển của tên lửa rắn
đuôi kêu và bản thiết kế máy bay chiến đấu F1 của Hải quân Mỹ.
Chi và Chang là cư dân của thành phố New York và đương nhiên là công
dân Hoa Kỳ. Trong vụ này còn nêu ra ba tên tuổi là các sĩ quan quân đội
Trung Quốc: Fan Lianfeng, tùy viên không quân; Zhang Naicheng, Trung
tướng trưởng đoàn tùy viên quân sự và Fang Xianfan, cố vấn khoa học kĩ
thuật.
Các cuộc tiếp xúc giữa phái đoàn Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Liên
Hợp Quốc và Charles Chang là do Chi Shangyao đứng ra tổ chức. Chi vốn
là người Đài Loan và đến Hoa Kỳ 30 năm trước. Chi và Chang đã gặp Fan
mấy lần, họ đã thảo luận với nhau về giá tên lửa (250.000 đô la Mỹ) và
chứng từ mua bán, vận chuyển hàng giả mạo. Theo kế hoạch thì những món
hàng lấy cắp được sẽ được chở từ Seatle, Washington sang Trung Quốc qua
ngả Hongkong. Theo chứng từ của nhân viên hải quan Frank Ventura thì Chi
nói rằng ông ta trông chờ các quan chức Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sẽ
yêu cầu ông bán hộ tên lửa con tằm do Trung Quốc chế tạo sang các nước
Trung Đông nếu công việc đang diễn ra hiện nay trót lọt.
Qua việc phân tích vụ này đã minh họa phương pháp hoạt động của Cục
II hoàn toàn ăn khớp với các mục tiêu thu tin của Quân giải phóng. Trong
khi tùy viên không quân Quân giải phóng xuôi ngược hoạt động thì Zhang
Naicheng giám sát kỹ tiến trình, còn Fang Xiaofan, trợ lý cố vấn khoa
học kỹ thuật thì xác định đặc tính kỹ thuật của món hàng đang mặc cả.
Trong khi các nhà chức trách bảo vệ pháp luật Mỹ gọi cả ba cá nhân này
là những kẻ cộng mưu không bị buộc tội, chỉ có một mình Fang Lianfeng có
thể bị buộc tội tiến hành các hoạt động công khai dính vào tội ác.
Kết quả ông ta đã phải rời khỏi Hoa Kỳ ngay tức khắc sau khi các nhân
viên hải quan Mỹ bắt giữ Charles Chang và Chi Shangyao. Còn Zhang
Naicheng tiếp tục là tùy viên quân sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại sứ
quán Trung Quốc ở Washington từ 1988 đến 1990. Rồi ông ta lại trở lại
chức vụ này vào năm 1992.
Cũng như vụ của Hou và Zhang, hoạt động của Fan Lianfeng cũng tỏ rõ
các biện pháp an ninh tình báo khá vụng về, kém cỏi. Nhân viên hải quan
Mỹ đã có thể thâm nhập vào nhóm Fan và ghi các cuộc đàm thoại. Chứng tỏ
các điệp viên lẫn sỹ quan chỉ huy đều không sử dụng phương tiện thông
tin liên lạc bí mật. Các điệp viên được giới thiệu với cả ba sỹ quan
tình báo thay vì chỉ cần một người quán xuyến công việc nên đã đặt những
người này trước những rủi ro nguy hại. Cuối cùng thì các điệp viên được
tuyển mộ - Chi và Chang cũng như viên thanh tra Cục hải quan Mỹ được
giao điều tra vụ này đều có thể xác định được ba hoạt vụ tình báo của
Trung Quốc, địa vị của từng người trong họ cũng như mục tiêu thu tin
tình báo của họ (tìm kiếm các nguyên vật liệu).
Một thảm bại hiếm thấy về công tác an ninh tình báo trong hoạt vụ của
Fan Liangfeng biểu hiện thực chất của những tin tức tình báo mà các
điệp viên có thể thu lượm được. Lời tuyên bố của Chi về khả năng bán tên
lửa Con tằm do Trung Quốc sản xuất cho Trung Đông nếu là thật thì đã
khẳng định được việc Cục II sử dụng các điệp viên ở nước thứ ba để tiến
hành chuyển giao vũ khí. Thủ thuật họa động này xem ra khá giống với
cung cách của Bộ An ninh quốc gia sử dụng các công ty nước ngoài để tìm
kiếm kỹ thuật công nghệ.
Tuyên bố của Chi cũng ám chỉ rằng Bắc Kinh có ý định bán vũ khí theo
kiểu này. Iran được biết đã nhận được tên lửa Con tằm của Trung Quốc.
Ngoài ra mục tiêu tìm kiếm đã bị phơi bày công khai của Quân giải phóng
là tên lửa TOW II và rắn đuôi kêu, thiết kế máy bay F-14. Qua đây xác
định được những yếu điểm của tình báo quân đội, những ý đồ quân đội và
những trọng điểm phát triển vũ khí của Trung Quốc.
Sự lựa chọn của Fan Lianfeng về vũ khí và kỹ thuật công nghệ cho thấy
mức độ trách nhiệm của Cục II đối với quân nhu của Quân giải phóng. TOW
II là loại tên lửa chống tăng cá nhân tiên tiến nhất của Mỹ. Giả dụ,
Trung Quốc tìm cách kiếm được, tháo ra nghiên cứu và thiết kế lại, tiến
hành sản xuất và triển khai chiến đấu thì khả năng phòng ngự biên giới
sẽ nâng cao đáng kể.
Nhớ lại vào giữa thập kỷ 80 khi có vụ gián điệp nổ ra, Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa phải đương đầu với các sư đoàn Hồng quân trên sông Amua
mạnh hơn gấp 12 lần trên đường biên phía Bắc Trung Quốc (phương diện
quân Viễn Đông và Mông Cổ). Hơn nữa,, việc nâng cao khả năng quân sự của
Trung Quốc, sản xuất tại chỗ tên lửa TOW II theo lối nhại lại, Bắc Kinh
sẽ thêm vào bảng danh mục vuc khí của mình mặt hàng mới để xuất khẩu
kiếm ngoại tệ mạnh.
Giống như với TOW II, việc tìm kiếm tên lửa tầm ngắn không đối không
Rắn đuôi kêu sẽ nâng cao khả năng không chiến và phòng không của Quân
giải phóng. Chưa cần đề cập đến các lĩnh vực kỹ thuật trong những tính
năng của tên lửa Rắn đuôi kêu mà chỉ với việc sản xuất nhại lại tên lửa
này cũng đủ để nói rằng Quân giải phóng đã có thêm một nắm đấm khá mạnh
trong một không lực ước khoảng sáu ngàn máy bay. Việc phân tích mổ xẻ
mặt kỹ thuật công nghệ của tên lửa này sẽ tìm ra được những đặc tính và
khả năng thao tác của chúng và từ đó sẽ dẫn tới việc Trung Quốc sẽ sản
xuất được một loại vũ khí chống lại tên lửa này.
Việc tìm kiếm thiết kế máy bay F-14 cũng sẽ giúp cho Quân giải phóng
tìm hiểu kỹ thuật thao tác của máy bay và trên cơ sở này sẽ tiến hành
sản xuất các thiết bị phòng không chống lại. Máy bay F-14 được thiết kế
để cất cánh và hạ cánh trên tàu sân bay. Hải quân Trung Quốc vẫn có hy
vọng kiếm được loại công nghệ này nếu Bắc Kinh tích cực trước những mong
muốn còn đang tranh cãi về việc chế tạo hay mua một tàu sân bay.
Việc giải thể của Liêng bang Xô Viết có thể đưa lại khả năng mua cái
gì đó đại loại như một tàu sân bay vì các nước cộng hòa mới này đang tìm
cách bán ra một số tàu thuyền của mình để kiếm ngoại tệ mạnh. Theo báo
chí đưa tin gần đây thì Trung Quốc đang định mua tàu sân bay Varyag,
67500 tấn loại Đô đốc Kuznetsov của Ukraina. Giá tàu sân bay này là 200
triệu USD, có thể chở được 8 máy bay SU-27 hoặc 25 máy bay MIG. Trung
Quốc đang tìm cách mua của Nga 24 máy bay SU-27.
Nhiệm vụ tình báo hàng đầu của Cục II là thu thập tin tức tình báo
hoặc kỹ thuật công nghệ áp dụng cho quân sự và sản xuất quân sự. Nhưng
việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu vũ khí cũng không kém phần quan
trọng. Nhưng việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu vũ khí cũng không kém
phần quan trọng. Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã bán nhiều hệ thống
vũ khí hiện đại hoặc kỹ thuật công nghệ sản xuất quân sự cho hàng loạt
nước như Argentina, Pakistan, Brazil, Ấn Độ, Iran, Iraq, Bắc Triều Tiên,
Ả rập Xê-út, Nam Phi, Siria… trong một số thương vụ bán ra, có thể được
dùng để chế tạo thiết bị hạt nhân.
Để tìm kiếm thị trường buôn bán vũ khí cho Trung Quốc, các sỹ quan
Cục II đã tuyển mộ những người đại lý vũ khí. Sau khi đã được tuyển
dụng, những đại lý này đã tìm cách che dấu sự liên quan của chính phủ
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào việc chuyển giao vũ khí bất hợp pháp -
hoặc đưa vào Trung Quốc qua nước thứ ba hoặc đưa vào nước thứ ba là nước
tiêu thụ.
Quá trình diễn ra và tiếp cận những đối tượng sẽ được chọn làm điệp
viên là khá lý thú trước sự thận trọng đặc biệt của nó. Môi trường, hoàn
cảnh của những đối tượng này được nghiên cứu kỹ càng, thận trọng trước
lúc đưa ra quyết định tuyển chọn. Vượt lên sự lựa chọn theo ý thích là
những người có quan hệ qua lại lâu dài với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Các sỹ quan phụ trách các đặc vụ này của Cục II luôn tìm cách tránh tiếp
cận những đối tượng còn xa lạ.
Qua chủ trương này cho ta thấy tính hiện thực của phòng tùy viên biết
trước được khả năng và giới hạn trong hoạt động của mình. Việc xác định
và tuyển dụng một số đối tượng nào đó có quan hệ lâu dài với Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa sẽ dễ dàng và an tòan gấp ngàn lần so với việc lựa
chọn một người còn tương đối xa lạ.
Trong quá trình tuyển chọn các đại lý buôn bán vũ khí thì việc tiếp
xúc thận trọng là hoàn toàn tương phản với những gì đang diễn ra trong
hoạt động hiện nay, Báo chí nước Mỹ thường xuyên đưa tin về việc người
này người nọ bị bắt khi đang chuyển chở vũ khí trên danh nghĩa Cộng hòa
nhân dân Trung Hoa, phải chăng đây là một bản chúc thư gửi cho các sĩ
quan Cục II đã vận dụng các biện pháp an ninh tình báo hết sức hớ hênh
và vụng về.
Có lẽ Trung Quốc hiện vẫn còn thiếu một khả năng hoạt động tình báo
hữu hiệu và chưa nắm vững được khả năng và phương pháp hoạt động của các
cơ quan bảo vệ pháp luật Hoa Kỳ. Trên thực tế, các hoạt động bí mật của
Cục II còn xa mới có hiệu quả cao nếu như cán bộ của họ mới chỉ hiểu
biết lơ mơ, hời hợt về những giới hạn về theo dõi giám sát, nghe trộm
điện thoại và bắt giữ ở Hoa Kỳ.
Việc Trung Quốc bị phơi bày các hoạt vụ gián điệp, bán tên lửa và hạt
nhân đã gây ra những phản ứng tiêu cực từ những người làm luật ở Mỹ và
chính phủ các nước phương Tây khác. Vào đầu năm 1991, vấn đề chuyển giao
vũ khí của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã hầu như làm nguy hại đến quan
hệ Trung - Mỹ. Tháng 6 năm đó, Hoa Kỳ đã đe dọa trừng phạt Bắc Kinh về
tội chuyển giao tên lửa cho Pakistan. Chỉ sau đó, các nhà đương cục
Trung Quốc mới có phản ứng công khai trước sức ép của Mỹ là ngăn chặn
một cách phiến diện, hình thức luồng trao đổi vũ khí và kỹ thuật. Tháng
11, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đồng ý tôn trọng Hiệp ước không phổ biến
vũ khí hạt nhân và chế độ kiểm soát kỹ thuật tên lửa. Trung Quốc đã ký
Hiệp ước này vào ngày 9/3/1992.
Tháng 8/1993, Hoa Kỳ lần nữa đặt ra những hạn chế về việc bán kỹ
thuật công nghệ tiên tiến ứng dụng trong sản xuất vũ khí cho Trung Quốc.
Việc Mỹ đưa ra sự trừng phạt này là do Trung Quốc vẫn tiếp tục vi phạm
chế độ kiểm soát kỹ thuật tên lửa, bán công nghệ sản xuất tên lửa M-9 và
M-11 cho Pakistan. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chỉ có thể tránh được
những hạn chế này bằng các nguồn cung cấp từ nước ngoài cũng như bằng
các biện pháp bí mật.
Bất chấp những tuyên bố công khai của Bắc Kinh về thái độ trung thành
với nguyên tắc quốc tế về phổ biến vũ khí hạt nhân và tên lửa, song sứ
mệnh của các sĩ quan tình báo Cục II vẫn không thay đổi. Các cán bộ phụ
trách các đặc vụ tình báo quân sự đã tỏ ra thận trọng hơn bao giờ hết và
càng tích cực hơn trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu vũ khí ở
nước ngoài.
Thay vì bán trọn vẹn hệ thống vũ khí, Trung Quốc sẽ cung cấp công
nghệ lưỡng dụng, tên lửa và nguyên vật liệu kèm theo, đồng thời các nhà
khoa học Trung Quốc tham gia trợ giúp các chương trình tên lửa cho nước
ngoài trong khi vẫn tuyên bố đeo đuổi chế độu kiểm soát kỹ thuật tên
lửa. Mọi hành vi và việc làm của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đều tỏ ra
bị thúc đẩy bởi những toan tính thương mại thuần túy: từ năm 1985 đến
1988, với số tên lửa CSS-II bán cho Ả rập Xê-út đã thu lợi khoảng 3,5 tỷ
USD. Và ảnh hưởng của Trung Quốc về mặt chính trị đối với quốc gia nhận
vũ khí sẽ tăng lên.
(
Còn tiếp)
Theo P.V (tổng hợp)
PetroTimes
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét