Thứ Ba, 2 tháng 11, 2021

TT&HĐ V - 43/o

 
Động lượng và Định luật bảo toàn Động lượng 

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 

"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
                                                                                                                               Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
                                                                                                                                       Upanishad       

CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE


“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab

“Nếu toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi

“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
 MARTIN LUTHER KING 

"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT

"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".  
 


 

(Tiếp theo)

Có thể nói rằng, cơ học Niutơn là một chân lý vĩ đại mà loài người đã khám phá và sáng tạo ra được từ hiện thực khách quan của mình, bởi vì nó không những được thí nghiệm của cả một thời đại xác nhận mà còn vượt qua được một thử thách “ghê gớm” hơn nữa, đó là thực tiễn ứng dụng sục sôi của thời đại vũ bão đã như một “lò lửa thử vàng” đối với nó. Vật lý học cổ điển là sự hợp thành của những bộ phận chủ yếu là: cơ học, điện học, nhiệt học mà trong đó, cơ học đóng vai trò nòng cốt (là bệ đỡ cho những bộ phận khác triển khai). Hãy tưởng tượng rằng, sau khi hoàn thành vật lý học cổ điển (và nói chung là khoa học cổ điển) thì loài người dừng lại, không “thèm” tiếp tục nhận thức tự nhiên nữa vì cho rằng như thế là đã đủ, hay không còn gì mới để nhận thức nữa. Lúc đó, tình hình sẽ ra sao? Bình thường thôi, vì vật lý cổ điển hoàn toàn đủ khả năng lý giải thỏa đáng mọi hiện tượng xảy ra trong hiện thực khách quan “ở tầm trực giác” của loài người.
Ví dụ tưởng tượng trên không hẳn là ngẫu hứng “vớ vẩn”, phi thực tế. Cần nhớ rằng các nhà toán học theo chủ nghĩa duy lý của thế kỷ XVIII đã đưa cơ học Niutơn lên thành mẫu mực của mọi khoa học. Nhà toán học Lagrăngiơ, người tham gia thiết lập hệ thống đo lường trong thời kỳ cách mạng Pháp, đã viết: “Niutơn không chỉ là một bộ óc vĩ đại nhất từ trước đến nay, mà còn là một người may mắn nhất, bởi vì chỉ có một thế giới tồn tại, và thế là trong lịch sử của nhân loại chỉ một người duy nhất tìm ra các định luật của thế giới”. Còn Laplaxơ (1749-1827), nhà thiên văn và toán học nổi tiếng người Pháp thì khẳng định mạnh mẽ hơn nữa: “Nếu có một con vật thông minh mà mọi lúc nó biết lực gây ra chuyển động của tự nhiên, và biết chính xác trạng thái của tự nhiên ở một thời điểm cho trước, khi đó nếu trí thông minh của nó có khả năng phân tích các dữ kiện này với một sự tỉ mỉ cần thiết, thì nó biết biểu diễn chuyển động của các thiên thể lớn nhất, cũng như của các nguyên tử nhỏ nhất trong Vũ Trụ chỉ bằng một phương trình. Đối với nó, không còn cái gì là không biết được, chỉ một chớp mắt là nó bao quát hết cả quá khứ lẫn tương lai”. Đến khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, không ít nhà khoa học đã nghĩ rằng vật lý học chỉ còn vài điều chỉnh không đáng kể nữa là đạt đến hoàn thiện. Kiêckhốp (G. R Kirchhoff, 1824-1887), nhà vật lý người Đức, khi nghe tin có một phát hiện vật lý mới, đã rất ngạc nhiên: “Ủa, cũng còn có điều để phát hiện nữa cơ à?”. Hay có chuyện, sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở Muychen (Đức) vào năm 1879, Max Plank, sau này là một trong những nhà vật lý đặt nền móng cho cơ học lượng tử, đã lập tức đến gặp người thầy của mình là M. Von Jolly để hỏi ý kiến về ý định dấn thân vào nghiên cứu vật lý lý thuyết của mình. Và đây là lời khuyên của Jolly: “Này anh bạn trẻ, tội vạ gì làm hỏng cả cuộc đời minh. Vật lý lý thuyết giờ đây về cơ bản đã hoàn chỉnh rồi… Chỉ còn vài trường hợp riêng biệt cần xem xét thôi. Lao vào một lĩnh vực không có tương lai như thế liệu có đáng không?”. Ngày 27-4-1900, bá tước Kenvin (William Thompson, 1824-1907), nhà vật lý học xuất sắc người Anh, chuyên nghiên cứu trong lĩnh vực nhiệt động học đã đưa ra bài phát biểu chào mừng thế kỷ mới, với đại ý rằng sự nghiên cứu vật lý đã đến hồi hoàn thành và tất cả những gì cần làm đối với các nhà vật lý thuộc thế hệ sau là trau chuốt các phép đo và kéo dài thêm các số lẻ thập phân. Hết sức cả tin, Kenvin đã nhìn nhận rằng: “Tuy nhiên, vẻ đẹp và sự rõ ràng của lý thuyết động học vẫn còn bị vài ánh mây đen làm lu mờ. Nhưng chúng cũng không đáng để chúng ta quá bận tâm”. Ông đâu có thể ngờ được, chính từ vài áng mây đen không đáng bận tâm ấy đã nổi lên một khối vần vũ khổng lồ, gây ra một trận phong ba dữ dội, làm chao đảo niềm tin đối với vật lý lý thuyết đã được xây dựng cho đến lúc đó, thứ đã từng không thể nghi ngờ được, để rồi khi trận cuồng phong qua đi, bình minh của một ngày mới xuất hiện thì nền vật lý ấy cũng bị “gông xiềng” vào hai tiếng “cổ điển”.
Joseph Lagrange

Joseph Louis Lagrange
Sinh 25 tháng 1 năm 1736
Torino, Ý
Mất 10 tháng 4 năm 1813
Paris, Pháp
Nơi cư trú Ý
Pháp
Phổ
Tôn giáo Thiên chúa giáo
Ngành Toán học
Vật lý học
Nổi tiếng vì Cơ học giải tích Cơ học thiên thể Giải tích toán học Lý thuyết số

Gustav Robert Kirchhoff

Gustav Kirchhoff
Sinh 12 tháng 3, 1824
Königsberg, Đông Prussia
Mất 17 tháng 10, 1887 (63 tuổi)
Berlin, Đức
Nơi cư trú Đức
Ngành Nhà vật lý

Nổi tiếng vì Định luật mạch Kirchhoff
Định luật Kirchhoff cho bức xạ nhiệt

Định luật Kirchhoff cho Phổ
Lord Kelvin

William Thomson, 1st Baron Kelvin (1824-1907)
Sinh 26 tháng 6, 1824
Belfast, Co. Antrim, Northern Ireland
Mất 17 tháng 12, 1907 (83 tuổi)
Largs, Ayrshire, Scotland
Nơi cư trú Cambridge, Anh
Glasgow, Scotland
Tôn giáo Christianity
Nơi công tác Đại học Glasgow
Alma mater Đại học Glasgow
Không như thuyết địa tâm của Ptôlemê, chỉ là sự ngộ nhận “đáng yêu” của loài người, dù đã từng đóng vai chân lý trong một thời kỳ rất dài thì rốt cuộc cũng trở nên lỗi thời và phải rút khỏi tri thức của nhân loại, mà tương tự như hình học Ơclít, vật lý cổ điển vẫn mãi mãi được truyền thụ từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nền vật lý mang tiếng “cổ điển” không có nghĩa là nó đã trở thành như một cung điện cổ xưa chỉ còn được sử dụng làm viện bảo tàng mà trong đó gồm những hiện vật chẳng còn công dụng nào khác ngoài việc giúp cho hiện tại hoài niệm về một thời sôi động đã lùi sâu vào quá khứ. Theo chúng ta hiểu thì vật lý cổ điển mang hai tiếng “cổ điển” để phân biệt thế giới quan vật lý của thế kỷ XIX với thế giới quan vật lý của thế kỷ XX. Chúng ta cho rằng thế giới quan vật lý của thế kỷ XIX là một trong vài nhận thức trác tuyệt nhất và cũng xác đáng nhất của loài người về môi trường thiên nhiên mà họ đang sống trong đó, đang quan chiêm và cả tiếp xúc được những hiện tượng xảy ra trong đó. Không có vật lý cổ điển thì cũng không có thời đại cơ giới hóa và điện khí hóa với tốc độ phát triển và sức lan tỏa trên phạm vi toàn thế giới có tính đột biến như thế. Tính xác đáng của vật lý cổ điển còn thể hiện ở chỗ thông qua quá trình sáng tạo trong ứng dụng thực tiễn dựa trên những nguyên lý, qui luật tự nhiên mà nó phát hiện ra làm xuất hiện một nền công nghiệp đồ sộ, phi thường, chưa từng có trong lịch sử loài người trước đó, mà bản thân vật lý cổ điển cũng được làm cho sâu sắc thêm và nội dung của nó cũng nhanh chóng được bổ sung đến mức hoàn thiện.
Như vậy, rõ ràng có thể nhận định, vật lý cổ điển không phải là một ngộ nhận mà là một nhận thức không sai lầm của loài người, là thế giới quan vật lý đúng đắn về hiện thực khách quan “ngày hôm qua” chính là hiện thực của môi trường tự nhiên mà con người đã, đang và sẽ mãi sống ở đó (chừng nào loài người còn tồn tại!), trong phạm vi con người còn trực quan được, trực giác được và “nắm bắt” được. Cũng chính vì lẽ đó mà vật lý cổ điển mang tính vĩnh cửu trong lòng nó, mãi mãi là cứu cánh của loài người trong thực tiễn ứng dụng và nhận thức vật lý, là bộ phận có tính cơ sở, thiết yếu, không thể thiếu được của vật lý hiện đại trong việc truyền thụ kiến thức.
Chúng ta nghĩ rằng vật lý hiện đại đã gặt hái được nhiều thành quả tuyệt vời. Tuy nhiên, trong đó cũng tồn tại không ít những “áng mây mù” và cả những ngộ nhận “chết người”. Những tồn tại bất cập đó làm cho vật lý hiện đại hàm chứa nỗi hoang mang và có thể đoán được nó đang bước vào một sự hoang mang toàn diện mà dấu hiệu dễ thấy nhất là sự mất kiên định trong tư tưởng khoa học của một số nhà vật lý hàng đầu ở thế kỷ XX, là hiện tượng không ít người trong số họ đi tìm sự “cứu rỗi” bằng những “niềm tin” tôn giáo, nhất là Phật giáo, đầy bất ổn và cũng thiếu minh bạch.
Dù sao thì cũng chắc chắn là trước sau gì rồi những khuất tất, hoang mang của vật lý hiện đại sẽ được sẽ được khắc phục, vì quá trình nhận thức vật lý tất yếu phải xảy ra như vậy. Điều đáng nói là trong nội dung của “vật lý ngày mai” có thể sẽ không còn thấy rất nhiều những quan niệm , những biểu diễn toán học của “vật lý ngày hôm nay” nữa hoặc thấy ở dưới dạng đã được chỉnh sửa của chúng, nhưng nội dung cơ bản của vật lý cổ điển thì vẫn không hề hấn gì và vẫn “có mặt” trong đó như một bộ phận cơ sở, hợp thành không thể thiếu được. Có thể nói trình độ nhận thức về mặt vật lý của loài người ngày càng sâu sắc thì thế giới quan vật lý của họ càng mở rộng. Nhưng dù có mở rộng bao nhiêu chăng nữa thì thế giới quan vật lý “ngày hôm qua” được xây dựng trên nền tảng vật lý cổ điển vẫn là điểm khởi đầu, là chỗ dựa xuất phát và tồn tại của cái thế giới quan vật lý đã được mở rộng ấy…
“Hùng biện lớn tiếng” đến sùi bọt mép như thế là đủ rồi! Chúng ta quay lại tiếp tục “thủ thỉ” những cảm nghĩ “ngơ ngác” của mình.
Khi thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh ra đời thì khái niệm về lực vẫn hầu như không thay đổi nhưng khái niệm về khối lượng đã có những thay đổi lớn lao. Khối lượng giờ đây không chỉ là “thước đo” quán tính vật mà còn là đại lượng đặc trưng cho năng lượng (toàn phần) của vật, hơn nữa khối lượng không còn bất biến mà tăng lên một cách tỷ lệ theo sự tăng lên của vận tốc vật.
Chính cái quan niệm mới của vật lý hiện đại nói trên đã làm cho chúng ta phải suy tư rất nhiều về ý nghĩa của khối lượng để rồi… không hiểu gì cả!
Theo Anhxtanh thì:
                              
Qua đó, ông cho rằng khi v=0, nếu quan sát trong hệ O’ (chuyển động với vận tốc v so với hệ O) thấy khối lượng của một vật đứng yên là mo thì quan sát từ hệ O sẽ phải thấy khối lượng của nó là m, hệ cũng sẽ thấy khối lượng đó là bằng mo nếu hệ O’ đứng yên so với hệ O, và ông gọi mo là khối lượng nghỉ của vật. Anhxtanh kết luận rằng khối lượng nghỉ của một vật là bất biến và trên cơ sở đó dẫn đến nhận định khối lượng của một vật tăng theo sự tăng vận tốc. Do đó mà một vật chuyển động bao giờ cũng phải thỏa mãn:
               m>mo
Quan niệm đó dẫn đến một “phi thường” là, vì thành phần trong dấu căn hai có thể cho phép nhỏ đến bao nhiêu cũng được miễn là không bằng 0, cho nên có thể “cho phép” khối lượng của bất cứ vật nào, kể cả những hạt vi mô, tăng lên “xấp xỉ” vô hạn. Trong hiện thực khách quan có thấy được hiện tượng đó không?
Theo Niutơn, khối lượng m của một vật là biểu thị lượng vật chất của vật đó, làm nên vật đó. Khi lượng vật chất đó chuyển động với vận tốc v thì được gọi là “động lượng”. Nếu ký hiệu động lượng là P thì cũng theo Niutơn, động lượng của một vật là một đại lượng véctơ mà biểu diễn toán học của nó là:
              
Nếu không chú ý tới phương chiều chuyển động thì có thể viết:
               P = mv
Nên hiểu động lượng như thế nào? Rõ ràng khi một vật đứng yên thì vì v=0 nên không có động lượng (nhưng vẫn có khối lượng). Muốn có động lượng thì nó phải chuyển động. Nhưng làm gì có chuyện một vật đang đứng yên tự dưng chuyển động được? Vậy thì phải có cái gì đó từ bên ngoài tác động đến nó. “Cái gì đó” ấy được Niutơn qui kết về một mối và gọi chung là “lực”. Khi bị lực tác động thì có thể có một trong hai hiện tượng xảy ra. Nếu lực được cho là “chẳng thấm thía gì” so với khối lượng m (khả năng bảo toàn trạng thái chuyển động hay cũng còn gọi là số đo quán tính) của vật thì vật vẫn đứng yên, thậm chí là không hề nhúc nhích. (Chúng ta cho rằng không có tác động nào lại không gây ra “hậu quả”. Tuy nhiên, trong trường hợp này, phải nhìn “hậu quả” ở một góc độ khác, trên một bình diện khác và coi như đối với tình trạng động học của vật có khối lượng m đang xét ở đây, tác động lực là “hoài công, vô ích”). Nếu lực tác động mạnh đến nỗi vận động nội tại vật không còn khả năng tự điều chỉnh thích nghi để bảo toàn trạng thái trong điều kiện mới (nghĩa là “sức ì” hay quán tính của vật đã “chào thua” trước tác động lực), và nếu vật không bị biến dạng hay phá vỡ thì nó phải chuyển động với vận tốc v nào đó. Vì sự chuyển biến từ O đến v không phải tức thời (không có thời gian!) mà là một quá trình “kéo dài” làm xuất hiện ý niệm “thời gian” đối với quan sát và như thế cũng coi như xảy ra “trong” thời gian, cho nên một cách trung bình, như Niutơn chỉ ra, có thể viết:
              
   Với:       là lực
               T là thời gian để vật đạt vận tốc
                là gia tốc: độ tăng vận tốc trong thời gian t
Từ đó có thể suy ra:
              
Vế trái của biểu diễn được gọi là xung lực (hay xung lượng). Có thể phát biểu: độ lớn của xung lượng bằng tích của cường độ lực và khoảng thời gian tác động lực.
Vậy để làm xuất hiện một động lượng thì điều kiện tiên quyết là phải có một xung lực. Theo nguyên lý tác động - phản ứng, khi xung lực tác động vật thì vật phản ứng nhằm duy trì sự cân bằng vận động nội tại vốn có của nó theo xu thế “cố gắng” trở về trạng thái vận động ban đầu, trước khi bị tác động bởi xung lực. Trong trường hợp khả năng phản ứng không thể “chịu nổi” xung lực tác động thì vật phải bị biến đổi dưới nhiều hình thức như bị biến dạng không phục hồi, bị xuyên thủng, bị phá vỡ, bị di dời (chuyển động)… Sự biến đổi của vật do tác động của xung lực có thể xảy ra theo một hay hai hình thức ấy hay cũng có thể theo tất cả các hình thức ấy cùng một lúc. Giả sử rằng dưới tác động của xung lực, vật không biến đổi theo hình thức nào khác ngoài hình thức chuyển động (hoặc có thể qui những biến đổi khác nhau, về thành lượng chuyển động) thì về mặt lý thuyết, biểu diễn toán học giữa xung lực và động lượng viết ở trên là hoàn toàn chính xác.
Nhưng làm thế nào để có được xung lực, hay hỏi cách khác là xung lực được hình thành như thế nào? Nhớ đến cú đấm của vị thiền sư, chúng ta cho rằng một trong những cách tạo ra lực để cho mũi anh chàng nọ phải chịu một xung lực, là dù thế nào thì cũng phải có một lượng vật chất (khối lượng) nào đó chuyển động đóng vai trò như một vật “mang” lực đến đối tượng bị tác động lực (vật khác). Nghĩa là có thể biểu diễn xung lực như động lượng của vật chuyển động nhưng giữa hai đại lượng ấy là có sự khác nhau, không thể đồng nhất được.
Khi có một xung lực tác động vào vật đứng yên có khối lượng m, làm cho nó chuyển động với vận tốc v thì như đã nói, vật đó từ không có động lượng sẽ biến đổi thành có động lượng mv. Quá trình đó cho thấy, để có được một động lượng mv thì phải tiêu tốn một lượng xung lực là F.t, hay có thể nói một lượng F.t đã chuyển biến thành động lượng mv. Động lượng này là một đại lượng thể hiện theo phương chiều nên cũng hàm chứa một “mầm mống” lực (chứ không phải lực thực sự) theo phương chiều ấy và khi va chạm với một vật khác thì làm xuất hiện lực và tạo nên một xung lực nào đó mà trong trường hợp chuyển biến hoàn toàn thì có lượng đúng bằng F.t (dù cường độ lực và thời gian tác động lực này là có thể khác). Vậy điều kiện tiên quyết để làm cho vật có động lượng mv trở về trạng thái đứng yên như cũ là phải chặn trực diện nó lại. Nhưng chặn như thế nào? Có thể dùng một bức tường đứng yên để chặn nó được không? Trong hiện thực, khi bị bức tường gây ra một lực tác động trong thời gian, nghĩa là một xung lực vào bức tường. Khi vật tác động vào bức trường thì quá trình chuyển biến động lượng của vật thành xung lực cũng xuất hiện. Quá trình này không những tác động đến trạng thái vận động nội tại của bức tường mà còn tác động đến chính bản thân trạng thái vận động nội tại của vật chuyển động. Trong sự biểu hiện tính tương đối của mối quan hệ đứng yên - chuyển động thì nếu vật chuyển động vận tốc v so với bức tường thì cũng có thể coi bức tường chuyển động vận tốc -v với vật, và nếu vật tác động đến bức tường một xung lực Ft thì đồng thời bức tường cũng tác động đến vật một xung lực –Ft. Trong biểu hiện tính tuyệt đối của mối quan hệ đứng yên - chuyển động thì độ lớn của xung lực ấy phải bằng chính xác là Ft (hay –Ft) chứ không thể là một lượng nào đó bằng Mv (với M là khối lượng của bức tường) được. Đó chính là nguyên lý tác động - phản ứng của vận động vật chất biểu hiện cụ thể trong tương tác cơ học là Niutơn đã phát hiện ra và phát biểu thành định luật tác động tương hỗ về lực (định luật III Niutơn). Khi vật chuyển hóa hết động lượng của nó thành Ft và truyền trọn vẹn cho bức tường (làm ảnh hưởng không nhiều thì ít đến nội tại bức tường) thì vì v=0 nên nó lúc này được cho là đứng yên. Song, vì bức tường đồng thời cũng tác động đến vật chất xung lực là –Ft nên, nếu không bị bất cứ sự hủy hoại nào thì nó phải chuyển động ngược lại với vận tốc –v. Nếu so với giá trị động lượng lúc đầu (trước khi va chạm với bức tường) thì động lượng lúc này của vật có giá trị âm còn nếu không chú ý đến phương chiều thì coi như động lượng của nó vẫn bảo toàn sau khi xảy ra va chạm với bức tường. Do đó, nếu quan niệm trên là đúng thì trong hiện thực không thể dùng một bức tường đứng yên để “tiêu diệt” động lượng của một vật chuyển động. Hay nói thỏa đáng hơn: bức tường đúng thực đã “tiêu hóa” hết động lượng của vật nhưng đồng thời cũng “sản sinh” ra một động lượng khác (cùng độ lớn nhưng trái chiều so với động lượng cũ) cho vật. Nếu vật đâm vào bức tường theo một phương không vuông góc với mặt tường và  có sự đàn hồi hoàn toàn thì nó sẽ bị bật trở lại theo phương mà về hình thức, hoàn toàn tương tự như trong hiện tượng phản xạ ánh sáng (góc phản xạ bằng góc tới).
Tình hình sẽ như thế nào nếu chúng ta thay bức tường bằng một vật đứng yên, cũng có khối lượng m, để chặn trực diện vật có động lượng mv?  (Ở đây luôn có sự ngầm qui ước, vật đứng yên nhưng không bị cố định luôn có thể chuyển động khi có tác động lực; khi xảy ra tác động lực thì phương chiều của lực luôn hướng đến trọng tâm vật; những ảnh hưởng ngoại lai như ma sát, lực hút Trái Đất… đều bị loại trừ). Khi vật có động lượng mv va chạm với vật chặn thì vật chặn bị chịu một xung lực tác động làm cho nó phải chuyển động và đồng thời nó cũng tác động lại một xung lực làm biến đổi trạng thái chuyển động của vật chủ động theo hướng giảm dần động lượng mv. Xung lực ấy có đúng bằng Ft (hay –Ft) không, hay hỏi cách khác là mv có chuyển hóa trọn vẹn thành xung lực hay không? Không thể ! Bởi vì đây là quá trình phát sinh và tăng dần vận tốc ở vật chặn đồng thời với sự giảm dần vận tốc v của vật chủ động. V hay vận tốc là cùng phương chiều nên đến một thời điểm nào đó, khi mà sự giảm và tăng vận tốc đạt đến cùng một giá trị nào đó thì tương tác lực giữa hai vật sẽ chấm dứt. Dễ suy ra được rằng, giá trị vận tốc đó chính bằng và như vậy chỉ có một nửa động lượng mv chuyển biến thành xung lực. Rõ ràng là chặn theo kiểu này cũng không làm cho vật có động lượng mv chuyển sang đứng yên được mà chỉ làm giảm vận tốc của nó (trong trường hợp chặn bằng bức tường, vận tốc của vật coi như không giảm mà chỉ đổi chiều).
Có thể coi hai vật có khối lượng m nêu trên hợp thành một hệ cô lập (nghĩa là không có bất cứ sự tương tác với “bên ngoài” nào). Theo định luật bảo toàn động lượng trong cơ học cổ điển (suy ra từ các định luật Niutơn): tổng động lượng của các vật trong một lượng của hai vật là:
              
nên sau khi va chạm, dù có sự phân phối lại động lượng, chỉ có thể là:
              
           
(Vật có động lượng mv không thể truyền hết động lượng cho vật đứng yên được chính là vì phải tuân theo định luật tác động tương hỗ)
Khi thay vật chặn có khối lượng m đứng yên bằng vật chặn có động lượng thì lúc này, tổng động lượng của chúng trước khi va chạm là:
              
Theo định luật bào toàn động lượng, tổng động lượng của chúng sau khi va chạm cũng phải bằng 0. Nhưng quá trình đó diễn ra như thế nào? Nếu có hai quan sát đặt ở hai vật thì do có sự chi phối của tính tương đối trong mối quan hệ chuyển động - đứng yên giữa hai vật thì tùy vào quan sát từ vật nào mà có thể thấy tổng động lượng của hai vật đó là  hoặc  và trong hai vật đó phải có một vật được đánh giá là đứng yên so với vật kia. Như vậy, sau khi va chạm, do có sự phân bố lại động lượng, nên phải thấy:
        
Nghĩa là theo tính toán của một trong hai quan sát ấy, khi hai vật va chạm nhau, đã xuất hiện hai xung lực trực đối đồng thời tác động lên hai vật là và - (với ).
Tuy nhiên, kết quả đó chỉ là sự ngộ nhận, vì lúc đầu chúng ta đã nói hai vật chuyển động có vận tốc lần lượt là và - . Nói như vậy có nghĩa chuyển động của chúng là so với quan sát đứng yên so với cả hai vật ấy và theo quan sát đứng yên thì tổng động lượng của chúng bằng 0. Chúng ta đã từng nói trước một hiện tượng duy nhất trong thực tại, quan sát ở những góc độ khác nhau sẽ thấy khác nhau, nhưng đều có thể qui về một mối.
Trong hiện thực có xảy ra hiện tượng đó không? Khi hai vật va chạm nhau thì sẽ xuất hiện quá trình từ động lượng mv của vật này chuyển biến thành một xung lực nào đó tác động đến vật kia và vật này cũng bị vật kia tác động lại một xung lực bằng như thế nhưng trái dấu. Cùng lúc đó, từ động lượng m(-v) của vật kia chuyển biến thành một lượng xung lực đúng bằng xung lực của vật này, tác động lên vật này, và đồng thời cũng bị vật này tác động lên nó một lượng xung lực bằng xung lực của nó nhưng trái dấu. Sự chuyển biến từ động lượng  (hay ) thành xung lực có thể nói là: triệt để, hoàn toàn, vì một khi không hoàn toàn triệt để thì hai vật đó vẫn còn động lượng và vẫn còn khả năng “tiến lên phía trước”. Hai “đòi hỏi tiến lên phía trước” bằng nhau thì rốt cuộc phải triệt tiêu nhau và cùng đứng yên. Từ sự phân tích đó có thể thấy, khi xảy ra va chạm giữa hai vật đang xét, mỗi vật sẽ phải chịu một xung lực   tác động. Kể cả hai vật, khi một vật phải chịu một xung lực tương đương với hai lần động lượng của nó thì trước hết một nửa lượng xung lực đó sẽ làm triệt tiêu động lượng vốn có của vật và vật vẫn còn phải chịu tác động của một nửa lượng xung lực còn lại. Ngay tại thời điểm đứng yên “tế nhị” đó; cả hai vật đều phải “lựa chọn” một trong hai cách, đứng yên tại chỗ hay chuyển động ngược lại với chiều chuyển động trước khi va chạm hoặc cũng có thể là đồng thời cả hai cách ấy, sao cho định luật bảo toàn động lượng không bị vi phạm. Với qui ước hai vật là giống hệt nhau về khối lượng và cấu tạo vật chất thì khi vật này “chọn” một cách nào đó, vật còn lại cũng “chọn” cách ấy. Giả sử hai vật “chọn” cách “biến” xung lực còn lại ( hay - ) thành động lượng hoàn toàn ( hay ) thì chúng ta viết lại tổng động lượng của chúng trước khi va chạm:
              
Do đó mà sau khi va chạm sẽ là:
              
(Về mặt toán học, quá trình đó chỉ như một sự giao hoán của phép cộng. Xét về mặt vật lý thì ở đây, muốn thực hiện được phép giao hoán ấy phải có điều kiện, hay phải có một lời giải thích rõ ràng. Nếu tổng trên mô tả hai vật tiến đến nhau làm xuất hiện va chạm thì tổng dưới (đã giao hoán) lại mô tả hai vật rời xa nhau sau khi va chạm. Như vậy, không phải lúc nào giao hoán trong phép cộng cũng thực hiện được!)
Nếu hai vật đó chọn cách đứng yên “luôn” ở đó thì có thể biểu diễn:
               m.0+m.0=0
Muốn được đứng yên như thế trước một xung lực tác động thì cả hai vật phải “trừ khử” được xung lực đó mà không gây chuyển động cho chúng, hay nói đúng hơn là không gây chuyển động đối với điểm trọng tâm của chúng. Điều đó chỉ có thể xảy ra bằng cách vận động nội tại vật tiếp thu trọn vẹn xung lực đó và biến đổi một cách không hồi phục được (biểu hiện ra như vật biến dạng không đàn hồi, tăng nhiệt độ, phân rã…)
Chú ý đến vận động nội tại vật, có thể thấy quá trình hai vật đứng yên do va chạm rồi sau đó chuyển động với vận tốc ban đầu nhưng ngược chiều là kết quả và cũng là bộ phận của quá trình va chạm. Khi hai vật va chạm và đạt đến trạng thái đứng yên (tạm thời) thì nội tại của chúng đã buộc phải biến đổi cho phù hợp với tình trạng ấy. Nếu sự biến đổi nội tại ấy vẫn trong giới hạn phục hồi lại được như cũ, nghĩa là mối liên kết nội tại chỉ bị “làm căng”, tạo nên một cái tạm gọi là “thế lực” tác động trở lại vật gây tác động để trở về trạng thái cũ (hiện tượng đàn hồi hoàn toàn), thì vật gây tác động, từ trạng thái đứng yên tạm thời sẽ chuyển sang chuyển động và sẽ đạt một động lượng có độ lớn bằng với động lượng ban đầu của nó nhưng ngược chiều.
Trong hiện thực, hai vật đó chẳng chọn lựa gì cả mà thông thường, tùy thuộc vào bản chất của chúng, sau khi va chạm, chúng vừa phải chuyển động ngược lại, vừa phải biến dạng không hồi phục (hoặc hồi phục không hoàn toàn) theo “tỷ lệ” nào đó để không xâm phạm đến định luật bảo toàn động lượng.
Dựa trên tinh thần “cổ điển”, chúng ta đã huyên thuyên “một lèo văng mạng” nào là khối lượng, động lượng, nào là lực, xung lực… cứ như một nhà vật lý “chính qui”, nhưng đến đây, thực ra chúng ta vẫn “ầu ơ ví dầu”, vẫn… chẳng hiểu gì cả. Nhắc đến từ “chính qui” lại nhớ đến câu: “Dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Chúng ta đã từng là kẻ “tại chức” là bạn của mấy gã “chuyên tu”, và vì thế mà trở thành hoang tưởng lẩm cẩm, đầu óc rối mù như canh hẹ chăng?
Thôi kệ, dù có thể những ai đó sẽ gọi chúng ta là “lũ lẩm cẩm rỗi hơi”, thì chúng ta cũng phải trở lại từ đầu cái công việc “bới lông tìm vết” vừa làm nhưng chắc “bới lông” còn chưa kỹ nên vẫn chưa thấy “vết” nào cả. Có lẽ chúng ta đã trở thành “lũ lẩm cẩm rỗi hơi” đang chờ bác sĩ tâm thần cho uống thuốc rồi cũng nên!

(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------


Xem tiếp...

EM VỀ THẬT KHÔNG? (ĐL)

 

 
Hai lối mộng – Quang Nghị | Ca sĩ thần tượng 2019

henho2-6846-1416021074.jpg

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

EM VỀ THẬT KHÔNG?

Đêm qua anh mơ thấy em về
Nép vào lòng anh như xưa trời mưa gió
Một chút vợi đi niềm thương nhớ
Sáng nay bần thần tiếc đêm đã qua

 Thế nào là mơ,
Sao không là thật?
Ôi đêm qua em về chân chất!
Quá khứ xa mờ, anh lại ngỡ giấc mơ...

Những ký ức thời thơ trẻ dại khờ
Cố mãi quên, để bây giờ mãi tiếc? 
Nếu gạt bỏ những than phiền, mắng nhiếc
Là mặt hồ xanh, trong vắt tuổi đôi mươi. 

Đến chặng cuối đường đời
Ngoảnh lại...mới biết mình lầm lỡ
Cho tuổi già mênh mang khốn khổ
Thương thương, nhớ nhớ khôn nguôi!

Đêm qua anh chào đón em về
Anh, tự đáy lòng, xin lỗi em, rất thật.
Tỉnh giấc mơ đời, anh cầu Trời khấn Phật
Cho chúng mình sống lại thuở đôi mươi!...


                                                                                           Trần Hạnh Thu 

 
Xót Xa - Ngọc Diệu | GIỌNG CA ĐỂ ĐỜI

Những câu nói hay về tuổi 20

Tuổi 20, cái tuổi một số người vẫn đang miệt mài ngày đêm trên giảng đường thì có những người đã bắt đầu phải tự lập, tự lo cho bản thân. Tuổi 20, cột mốc buộc con người ta phải thay đổi, đối diện với chính mình, mông lung và vô định. Đây cũng là độ tuổi đẹp nhất trong cuộc đời, chúng ta không có gì để mất ngoài một đôi chân rất khỏe, một trái tim ít sợ những điều gì chưa đến. Chính vì lẽ đó, đây là độ tuổi thích hợp nhất để thể hiện bản thân, làm những điều ngông cuồng nhất làm nên một thanh xuân tươi đẹp và là thời điểm thích hợp nhất để bắt đầu tạo dựng mọi thứ từ con số không. Tuy nhiên, đây chỉ là bước đầu của những ngày chông chênh và cô đơn sắp tới. Hãy cùng ThuThuatPhanMem xem qua những câu nói hay nhất viết cho tuổi 20 dành cho các chàng trai, cô gái trong bài viết dưới đây.

Những câu nói hay về tuổi 20

  1. Tuổi 20 bấp bênh là lúc chẳng có gì trong tay, sự nghiệp không có, tình cảm không ổn định, là lúc phải tạo dựng tất cả mọi thứ bằng con số không. Tuổi 20 là thời điểm cho sự bắt đầu.
  2. 20 – cái tuổi nhiệt huyết có thể xách ba lô lên và đi khắp mọi nơi, đặt chân lên những vùng đất chưa từng đến, gặp những con người xa lạ và thử làm những điều xa lạ. Đi chỉ để đi và thỏa mãn đôi bàn chân tù túng không chịu đứng yên một chỗ. Nhưng 20 cũng lại là lúc phải phác cho mình những mũi tên chỉ đường đầu tiên cho chiếc la bàn tương lai xem nơi nào sẽ là chốn dừng chân, trú ngụ? Vì cả cuộc đời sẽ không thể rong ruổi như những tuổi 20…
  3. 20 tuổi, ta vùng vẫy trong những lựa chọn. Nếu năm 18 tuổi, ta chọn lựa con đường để đi, năm 22 tuổi ta đã biết con đường mình phải đi, thì năm 20 tuổi, ta băn khoăn tự hỏi: Con đường mình đang đi có phải là con đường mình muốn đi? Con đường mình muốn đi có phải là con đường dễ đi nhất? Ta không biết dừng lại, bước tiếp hay rẽ sang một hướng khác? Và khi ấy ta rơi vào hoang mang.
  4. Tuổi 20 của tôi, là biết yêu thương, không chỉ một người. Đừng băn khoăn rằng chỉ có tình yêu lứa đôi mới tôi lại sự trọn vẹn cho tuổi trẻ. Mà này, hãy cứ yêu thương đi, hãy cứ khóc cho quên muôn phiền người con gái. Chẳng ai phán xét mình ngu ngốc khi biết yêu thương người khác hơn chính bản thân ta.

Tuổi 20 của tôi, là biết yêu thương, không chỉ một người

  1. Tôi 20, không phải cô gái 17 để bẻ gãy sừng trâu, không phải học sinh trung học để chơi những trò nghịch ngợm chọc thầy trêu bạn, nhưng cũng không phải 25 để ổn định, để chấp nhận mình là 1 cá thể bắt-buộc-phải-là-như-thế trong cộng đồng này.
  2. Tuổi 20 không phải là quá sớm, cũng không phải là quá muộn để nhận thức ra được nhiều điều trong cuộc sống. Và có một điều tôi nhận ra rằng: tình yêu thương chân thành là một thứ tình cảm thiêng liêng, rất đáng trân trọng. Khi ta cho đi cũng là lúc ta nhận lại được rất nhiều.
  3. Tuổi 20 đừng tự làm mình đau. Đừng ủy mị cầu xin yêu thương của người khác. Tha thứ, im lặng và lãng quên là cách trả thù tốt nhất cho ai đó đã từng làm tổn thương bạn. Cứ "im thin thít và lặn mất tăm" biến kẻ ấy thành số 0 trong cuộc đời bạn. Dẫu có yêu thương, cũng không bao giờ cho một người có cơ hội làm đau bạn đến lần thứ 2.
  4. Tuổi 20 – cái tuổi đẹp nhất cuộc đời mỗi con người, cái tuổi đầy khao khát, đầy mơ mộng nhưng cũng đầy lo âu. Tuổi 20, đã qua cái thời mơ mộng, ta thấy mình lớn hơn, không làm việc theo cảm tính, ta thấy cuộc sống phức tạp hơn ta nghĩ rất nhiều, ta thấy mình nhỏ bé, chông chênh giữa cuộc đời rộng lớn. Nhưng không phải vậy mà ta quên đi cái khát khao tuổi trẻ, tuổi 20 ta vẫn có hoài bão, có mơ ước, vẫn muốn làm những gì mình muốn.
  5. 20 – cái tuổi muốn hét thật to "tôi trẻ, tôi tự do". Cái tuổi khát khao vẫy vùng và mò mẫm. Cái tuổi không muốn cột chặt mình vào những phép quy, lề lối. Chỉ muốn rẽ ngang con tàu đang đi thẳng để tìm cái gì đó cho chính mình, để ghi dấu thanh xuân. Nhưng cuộc đời vẫn chỉ là cuộc đời thôi. Có những thứ cũ kỹ nhưng cứ lỳ lợm đứng đó chắn đường như những con mọt ăn sâu, những ánh mắt xét soi, vật cản đôi khi còn đến từ người ta thương nhất…
  6. Tuổi 20, tất cả những gì ta có là tuổi trẻ, nhiệt huyết, niềm tin, sự năng động… chỉ cần mở lòng, nhìn thế giới bằng tất cả những gì tốt đẹp nhất, bạn sẽ thấy cuộc sống thật đẹp và còn rất nhiều điều thú vị mà ta chưa khám phá, rồi bạn cũng sẽ thấy những hoài bão, những khó khăn, gập ghềnh trên con đường phía trước.
  7. 20 tuổi, cuộc sống đá cho ta một cú. Ta đã tưởng mình khá ổn trong việc tìm cách cân bằng mọi chuyện, giữa việc học, chuyện tình cảm, cuộc sống và các mối quan hệ… Nhưng có lẽ ta đã nhầm. Không còn trẻ con để dựa dẫm mãi vào người khác như tuổi 18, nhưng lại chưa đủ trưởng thành để bắt đầu tự đứng trên đôi chân của mình như tuổi 22. Ta loay hoay giữa những rắc rối, không biết hỏi ai, không biết làm gì.
  8. Tuổi 20 là độ tuổi bắt đầu sự nghiệp, bắt đầu của sự chông chênh, mạo hiểm và tình cảm cũng vậy. Cuộc đời là những lời chào gặp mặt và tạm biệt, cho đến khi chúng ta có duyên để gặp nhau lần nữa.
  9. Tuổi 20 – độ tuổi mà chúng ta đang từ thế giới tuổi teen trở thành người lớn thực thụ, độ tuổi mà chúng ta không phải dành suốt thời gian chỉ để nghĩ hôm nay mặc gì cho đẹp, hôm nay ăn gì cho ngon mà mọi thứ đã thực sự khác.

Tuổi 20 – độ tuổi mà chúng ta đang từ thế giới tuổi teen trở thành người lớn thực thụ

  1. Vào tuổi 20, người ta chẳng có gì, ngoài một đôi chân rất khỏe mạnh và một trái tim ít sợ điều gì chưa đến. Đó là những ngày tháng tốt nhất để đi và học về thế giới. Đi và chăm chú ngắm nhìn.
  2. Khi em tuổi 20 là em bắt đầu bước vào ngưỡng cửa của cuộc đời với đầy bỡ ngỡ và sự thử thách. Có những người bước vào tuổi 20 với một công việc ổn định, là bước đầu của sự thành công, nhưng có người bước vào tuổi 20 mà chẳng biết đi đâu về đâu. Nhưng dù sao đi nữa, tuổi 20 là tuổi đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người, nên hãy nâng niu, trân trọng nó, vì một khi nó qua đi thì chúng ta không thể lấy lại được.
  3. Tuổi 20 của tôi, là bước chân chập chững một mình tiến vào đời. Tự lập, xa gia đình, cô đơn như vay kín. Công việc, mối quan hệ, cơm áo gạo tiền, quá nhiều mối bận tâm làm con đường về nhà dần trở nên xa lạ hơn. Mà này, đừng lo lắng bởi gia đình mãi là điểm dừng chân khi tôi mệt mỏi, là nơi luôn có những người sẵn sàng yêu thương tôi vô điều kiện.
  4. Tuổi 20 của em, là biết yêu, biết thương một người, biết dành sự quan tâm không chỉ cho riêng mình. Em dẫu có băn khoăn, dẫu có lo lắng thì vẫn tự nhủ lòng mình về những tháng năm sau này còn dài, tuổi trẻ đâu hẳn chỉ có tình yêu mới trọn vẹn là tuổi trẻ. Em – cô gái tuổi 20, hãy cứ yêu đi, thương đi, hãy cứ khóc cho những hờn ghen của một thời con gái. Chẳng ai phán xét em ngu ngốc khi em biết cách yêu thương người khác hơn chính bản thân mình.
  5. Tuổi 20 là thời điểm tốt nhất để học. Cho dù bạn đang theo đuổi một chương trình đào tạo chính quy hay đã lập nghiệp, khởi sự cho công việc riêng của mình thì ở 20, điều tốt nhất vẫn là học. Học bởi đào tạo hay bởi thực nghiệm đều tốt. Cứ tập trung mê mải vào việc mình đang làm, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm mà không quá đặt nặng vấn đề tiền bạc. Sau 10 năm, cơ hội kiếm tiền sẽ tự đến với bạn. 20 là tuổi để học, ấp ủ để 30 nói chuyện làm giàu.
  6. Tuổi 20. Chúng tôi đều đang cùng nhau ở trong giai đoạn chẳng có gì chắc chắn về tương lai. Lẽ thường, người ta vốn đã không nói trước được về ngày mai đã đành. Chúng tôi – những người 20 và sau 20 một vài nấc, lại biết lờ mờ về đoạn đường mình sắp đi nhưng chông chênh, gấp khúc. Bởi vì một cú hích tay của cuộc đời thôi, tất cả sẽ lại quay về con số không.

Chúng tôi đều đang cùng nhau ở trong giai đoạn chẳng có gì chắc chắn về tương lai

  1. 20 – cột mốc đánh dấu bước ngoặc mới của cuộc đời tôi. Ừ thì khi 20, tôi tự mình biết luyến lưu những năm tháng tuổi trẻ, dù có tiếc nuối thì thời gian cũng một đi không trở lại.
  2. 20 tuổi, ta muốn yêu. Nhưng ta lại sợ yêu. Tình yêu tuổi 20 dẫu đã phải bớt đi cái hồn nhiên của tuổi 18 nhưng vẫn chưa với nổi tới sự già dặn của tuổi 22. Cảm xúc tròn trịa hơn nhưng lại vẫn chưa liền thành một nét để ta tin thứ tình cảm đó sẽ kéo dài mãi mãi. Khi tình yêu tan vỡ, ta không còn hồn nhiên để dễ dàng quên đi, cũng không thể lạnh lùng mà chẳng quên đi như khi ta đã lớn. Ta chỉ biết ôm nhớ thương, hờn dỗi, vùi mình trong nỗi buồn miên man. Và khi ấy ta rơi vào cô đơn.
  3. Tuổi 20 mà, em hãy làm tốt ước mơ của em đi. Đừng bao giờ hối hận cũng đừng bao giờ từ bỏ. Tuổi tác không nói lên độ trưởng thành, điểm số không nói lên năng lực và những lời đồn đại không nói lên bạn là ai. Tại sao những người khác có thể làm được, em lại không làm được. Hãy thử thách bản thân vì không thử làm sao biết bản thân có thể làm tốt đến mức nào.
  4. Cô gái 20, em chênh vênh! Em tiếc nuối điều gì, em hoài niệm quá khứ? Em có đôi lần ngồi thẫn thờ suy nghĩ, nhớ lại trước đây, em cùng bạn bè nói không thôi về ước mơ, em vẽ lên một tương lai hoàn hảo, con đường đi đến đó em nghĩ nó bằng phẳng dễ đi. Nhưng cô gái, nhìn lại ngày xưa ấy, bây giờ em thấy được điều gì?
  5. Tuổi 20 cũng là lúc nhận ra, cần phải yêu bản thân mình hơn. Mình yêu bản thân mình rồi mới có thể yêu mọi người, yêu người khác. Lúc đó đã biết sống hơn cho mình, thực hiện mọi thứ có kế hoạch hơn. Và cũng sẵn sang dành tình yêu của tuổi thanh xuân ấy cho một người.

Tuổi 20 cũng là lúc nhận ra, cần phải yêu bản thân mình hơn

  1. Tuổi 20 – cái tuổi sẵn sàng lật tung thế giới để tìm người mình yêu. Nhưng cũng là cái tuổi bỏ rơi tình yêu chỉ vì tin rằng định mệnh của mình đang nằm một nơi khác.
  2. Tuổi 20 của em, là những chập chững bước vào cuộc sống mới, cuộc sống của sự tự lập, cuộc sống của việc phải làm quen với những cánh cửa khác cánh cửa "gia đình". Em sẽ lại có thêm nhiều mối quan hệ mới, nhiều bận tâm mới. Quãng đường trở về nhà sẽ dần trở nên xa lạ hơn. Thời gian để ở bên gia đình sẽ dần trở nên ít ỏi hơn. Nhưng em ơi, đừng lo lắng, bởi đơn giản, gia đình vẫn mãi luôn là điểm dừng chân khi em mệt mỏi, khi em thực sự chẳng biết phải đi đâu. Cuộc đời này nhiều bão giông đến vậy, em hãy cứ quay về chốn bình yên, quay về nơi luôn có những người yêu thương em vô điều kiện.
  3. Chúng tôi, những tuổi 20 đang tập tành để lớn, muốn bẻ cong thời gian để vĩnh viễn đứng yên, không phải đuổi kịp đời.
  4. Tuổi 20. Ở cái tuổi mới đi chưa hết một ít quãng đường của cuộc đời, tôi mãi bận rộn vui đùa, bay nhảy nhìn ngắm thế giới bên ngoài. Tôi đặt chân đến những vùng đất lạ, khám phá những chân trời mới đang rộng mở chào đón. Lên đại học tôi bắt đầu có nhiều mối quan hệ, nhiều điều bận tâm hơn.
  5. Hai mươi tôi không muốn giam mình trong bốn bức tường chỉ ăn và ngủ, tôi muốn xách ba lô lên và đi đến nơi xa xôi của đất nước để yêu người yêu mình, để chia sẻ và vươn lên, ở cái tuổi hai mươi tôi chẳng có gì ngoài sức trẻ và tình yêu thương đối với những con người nghèo khổ, vậy nên tôi đi để sức trẻ không bị hoài phí để tình yêu thương kia không chỉ là lời nói.
  6. Tuổi 20, tất cả những gì ta có là tuổi trẻ, nhiệt huyết, niềm tin, sự năng động… chỉ cần mở lòng, nhìn thế giới bằng tất cả những gì tốt đẹp nhất, bạn sẽ thấy cuộc sống thật đẹp và còn rất nhiều điều thú vị mà ta chưa khám phá, rồi bạn cũng sẽ thấy những hoài bão, những khó khăn, gập ghềnh trên con đường phía trước.

Tuổi 20, tất cả những gì ta có là tuổi trẻ, nhiệt huyết, niềm tin, sự năng động

  1. Hai mươi, bạn nên học cách đối mặt với vấn đề của chính mình thay vì cố gắng trốn tránh nó.
  2. Tuổi 20, ta thấy cuộc sống không chỉ toàn màu hồng như những gì ta tưởng tượng. Đã có lúc ta khóc hết nước mắt khi bị hiểu lầm, cũng có lúc ta thấy giận chính mình vì không tin tưởng vào bản thân, có lúc ta chỉ biết im lặng khi gặp khó khăn, cũng chẳng muốn chia sẻ cùng ai, và cũng có lúc chỉ muốn biết mất khỏi thế giới này. Nhưng mọi chuyện rồi cũng qua vì bên cạnh ta luôn có bạn bè và những người yêu thương ta.
  3. Tuổi 20- cái tuổi lưng chừng, nhìn vào đâu cũng thấy sợ. Sợ mình khờ… Sợ mình ế… Sợ ra trường thất nghiệp…
  4. 20 tuổi cũng là lúc bạn thấy mình chênh vênh giữa dòng đời tấp nập này. Bạn thấy sợ mốc thời điểm quan trọng này. Nhưng vẫn luôn hy vọng tuổi 20 sẽ là thời gian đẹp nhất của cuộc đời. Cõ lẽ vì vậy, bản thân nhận ra rằng: gia đình là số 1, là quan trọng nhất và nhận ra nhiều điều khác nữa.
  5. Tuổi 20 không phải là quá sớm, cũng không phải là quá muộn để nhận thức ra được nhiều điều trong cuộc sống. Và có một điều tôi nhận ra rằng: tình yêu thương chân thành là một thứ tình cảm thiêng liêng, rất đáng trân trọng. Khi ta cho đi cũng là lúc ta nhận lại được rất nhiều.
  6. Tuổi 20 là lúc tôi thôi đọc những bài học do người khác viết mà tự đi tìm kiếm và học hỏi những bài học của riêng mình.
  7. Hai mươi tôi cũng yêu, yêu theo cách riêng của mình đam mê và hết mình, có thể nó không được như ý muốn nhưng với tôi đó là thứ tình cảm đẹp nhất không hẳn đã chính chắn cũng không hẳn còn bộng bột. Tình yêu đó không phải là vết hằn trong tim mà là cơn gió mát thoảng qua cuộc đời nhẹ nhàng và man mác.

Hai mươi tôi cũng yêu, yêu theo cách riêng của mình đam mê và hết mình

  1. Tuổi 20, em đang tập tành lớn, em muốn bẻ cong thời gian để vĩnh viễn đứng yên, để không phải đuổi theo dòng đời tấp nập kia.
  2. Tuổi 20, tuổi thanh xuân tươi đẹp ấy tôi mắc kẹt giữa những hoài bão, ước mơ của mình. Trước khoảng chông chênh của cái tuổi mới lớn tôi mơ hồ con đường mình đang bước bởi muôn vàn ngã rẽ phía trước kia, chẳng biết đôi chân nên đi về hướng nào. Những mục tiêu tôi vẫn vẽ sẵn đó nhưng chẳng có chút động lực nào để cố gắng đạt được.
  3. Tuổi 20 – em từng khóc vì ai đó làm tổn thương em chưa? Em đã từng can đảm theo đuổi tình yêu của mình chưa? Đừng vì những người không xứng đáng với tình yêu của em dành cho họ mà khép lòng lại như thế!
  4. Tuổi 20, tuổi để thả mình vào những ước mơ ngông cuồng. Không ai đánh thuế ước mơ và cũng chẳng ai cho bạn ước mơ. Ước mơ có thể ngông cuồng, càng ngông càng hay, càng hấp dẫn và hứng thú, càng chông gai và thử thách. Có thể ta sẽ không thể chạm vào nó nhưng dù sao thì bạn cũng đã đi qua được nhiều ước mơ của người khác rồi.
  5. Vào tuổi 20, người ta chẳng có gì, ngoài một đôi chân rất khỏe mạnh và một trái tim ít sợ điều gì chưa đến. Đó là những ngày tháng tốt nhất để đi và học về thế giới. Đi và chăm chú ngắm nhìn.
  6. Tuổi 20 cần một chút ngông. Hiếu thắng, đó không hẳn là nhược điểm. Đôi lần tính cách đó sẽ giúp bạn tiến rất nhanh. Nhưng để tiến dài hơn, nhớ học một chút "Khôn". Khôn trong chữ khôn ngoan… Rồi 20 sẽ biết khôn sau những lần dại dột, ngông nghênh.
  7. Hai mươi tôi có những người bạn tốt có xấu có, nghèo có giàu có, mỗi người một tính cách mỗi người một cá tính khác nhau nhưng ở sâu trong họ tôi thấy có một sức trẻ dồi dào, một sự nhiệt huyết của cái tuổi hai mươi. Và chúng tôi cùng đi cùng lao động cùng cười và cùng thương người, thương nhau.

Hai mươi tôi có những người bạn tốt có xấu có, nghèo có giàu có

  1. Tuổi 20, đa phần không có nhiều nghị lực. Chưa đủ trầm để tích lũy nghị lực. Để có những bước đi dài, cần kiên trì tạo áp lực cho bản thân. Những việc bạn làm trong khoảng thời gian 20 giờ đến 22 giờ hằng đêm, sau 10 năm sẽ quyết định bạn là ai. 20 hãy dành thời gian đó cho việc mà bạn biết là quan trọng nhất.
  2. Tuổi 20 cần phải đi, kiếm đủ để đi. Hãy một lần dọc theo chiều dài đất nước, một lần lang bạt vô định làm kẻ lữ hành cô độc. Đi để thấy những con người khác với thế giới bạn sống. Để thấy quê hương hùng vĩ mà yêu thương. Để va vấp mà trải nghiệm. Và để cảm nhận cô đơn và biết nhớ nhà. Nhớ góc nhỏ thân thương, nhớ người thân ruột thịt. Nhớ nơi bình yên mà quay trở về… Rồi 20 sẽ hiểu gia đình là nơi yêu thương, bao dung nhất.
  3. Tuổi 20, bạn được phép xốc nổi, bồng bột, sống với cá tính của mình, bạn còn được phép sai lầm. Vì sao ư? Vì bạn vẫn còn thời gian để sửa sai, tuổi 20 – hư một chút cũng chẳng sao!
  4. Tuổi 20, ta không cần quá nhiều bạn bè, ít thôi nhưng chân thành với nhau là đủ, cũng không cần phải có nhiều người tán tỉnh, chỉ cần một người hiểu ta, thương ta, bên ta những lúc ta cần là quá đủ rồi.
  5. Thanh xuân không chờ đợi bất cứ 1 ai, em đang trưởng thành, em đã là cô gái đang dần chín chắn để đối đầu với mọi khó khăn. Hãy sống những ngày tuổi 20 một cách nhiệt huyết nhé cô gái! Yêu em, tuổi 20!
  6. Tuổi 20 của em, là một tuổi 20 thật đẹp. Em vẫn sẽ ước mơ và theo đuổi ước mơ, chứ đừng nên vì nản lòng mà buông xuôi tất cả. Hãy nhớ đến lý do vì sao em bắt đầu để tiếp tục, để bước đi. Người chiến thắng là người không bao giờ bỏ cuộc, cô gái tuổi 20 ạ!

Tuổi 20 của em, là một tuổi 20 thật đẹp

  1. Hai mươi là tuổi đẹp nhất của đời người nên hãy cứ sống và đam mê theo cách riêng của mình, hãy cứ để sóng gió táp vào mặt đường hoàng mà bước tới. Để làm gì? Để lớn hơn!
  2. Vào 20 tuổi bạn có sức khỏe một đôi chân dẻo dai có thể đi tới những nơi mình thích, bằng một trái tim nóng hổi luôn nhiệt huyết. Trên những cung đường đó bạn sẽ gặp vô vàn những điều thú vị, những câu chuyện xúc động, đầy đủ trải nghiệm nhất của một con người tò mò muốn tìm kiếm những điều mới lạ.
  3. Tuổi 20. Chúng tôi đã sống đến đoạn bắt đầu thấy mệt lòng như người ta đồn thổi. Là gặp người quen cũ không chào, là hợt hời với mọi thứ… Là ấn nút tắt nguồn điện thoại để bỏ trốn vài ngày… Là lướt những dòng trạng thái chia sẻ của mọi người trong hững hờ, không buồn lòng muốn quan tâm để ý. Là than vãn, kêu ca nhiều hơn những nụ cười đúng nghĩa.
  4. 20 rồi, hãy biết lựa chọn những cuộc chiến của riêng mình và theo đuổi đến cùng lựa chọn đó. Đừng mất thời gian quá nhiều cho những thứ vô bổ.
  5. Tuổi 20 là độ tuổi mà con người ta mạnh mẽ nhất, kiên cường nhất thì cũng chính là độ tuổi mà sức khỏe bị tàn phá nhất. Đôi khi ta tưởng chừng như sẽ chẳng có sao đâu vì bạn vẫn cảm thấy bình thường nhưng thật ra bạn đang ngày càng yếu mòn đi thật đấy. Hãy tập làm quen với những thói quen tốt để bảo vệ sức khỏe của mình.
  6. Tuổi 20- cái tuổi đầy mơ mộng, mơ về một cuộc sống màu hồng luôn tải ra trước mắt, mơ về những điều tốt đẹp trong tương lai.
  7. Vào 20 tuổi bạn có sức khỏe một đôi chân dẻo dai có thể đi tới những nơi mình thích, bằng một trái tim nóng hổi luôn nhiệt huyết. Trên những cung đường đó bạn sẽ gặp vô vàn những điều thú vị, nhũng câu chuyện xúc động, đầy đủ trải nghiệm nhất của một con người tò mò muốn tìm kiếm những điều mới lạ.

Vào 20 tuổi bạn có sức khỏe một đôi chân dẻo dai có thể đi tới những nơi mình thích

  1. Tuổi 20- cái tuổi nhận ra được nhiều thứ từ bài học cuộc sống, nhận ra rằng bản thân phải học cách đối mặt với những gì mà mình sợ nó, nhận ra rằng gia đình là tất cả, và nhận ra rất rất nhiều điều khác nữa.
  2. Cô gái tuổi đôi mươi, đâu cần phải mạnh mẽ trong những vỏ bọc cứng rắn làm gì, em hãy cứ buồn, hãy cứ vui, cứ hờn giận như thể chưa từng phải chịu đựng những uất ức nào… miễn là em thấy nhẹ lòng hơn. Em không sợ bị ai đó bỏ rơi mà phải biết thời điểm nào mình nên buông bỏ những thứ không xứng đáng.
  3. Hai mươi tôi dám mơ ước đến một tương lại tốt đẹp có tiền bạc có tình yêu. Mỗi ngày thức dậy là một sự cố gắng tôi không cố gắng vì hôm nay mà cố gắng vì ngày mai, ngày mai của tôi tròn vẹn và đầy hi vọng.
  4. "Đừng bao giờ đặt hết trứng vào một rổ." Đó là câu nói không dành cho tuổi 20. Tuổi 20 có một thế lực hẫu thuẫn vô cùng lớn lao: Thời gian! Thời gian có thể cho bạn làm lại tất cả nếu thất bại, giúp bạn hàn gắn mọi vết thương, cho bạn sự trải nghiệm. Và nếu may mắn, thành công ngay từ những bước đi đầu tiên, bạn sẽ có những bước vọt thần kỳ mà không lứa tuổi nào có được. Hà cớ gì phải rụt rè? 20 hãy "tất tay, tẩy sòng, dồn tất cả vào một rổ".
  5. Tuổi 20 là thời điểm tốt nhất để gầy dựng mối quan hệ. Nên biết đàn ông trên 30 đều có thể là kịch sĩ tài ba. Môi trường tốt nhất để kết giao quan hệ chính là ghế nhà trường. Nơi đó, ai cũng như ai, những gã trẻ trai vẫn còn tay trắng, những gì thể hiện sẽ là nhân hiệu của bạn trong suốt đời người. 20 hãy sống chân thành với bè bạn.
  6. Tuổi 20 là thời điểm tốt nhất để yêu. Có người con gái đã cùng bạn đi từ 20-25. Phải biết trân quý… Ở tuổi đó các chàng trai có gì? Một nửa đang loay hoay tìm việc, một nửa vẫn còn ngồi ghế nhà trường, có đôi gã khờ dại phải làm lại từ đầu… Và hết thẩy – vẫn còn mê chơi.
  7. Tuổi 20. Có những buổi sáng tỉnh dậy rồi chẳng biết cuộc đời sẽ đẩy mình đi đến đâu. Bao nhiêu hỗn loạn của cái tuổi già chưa sang nhưng trẻ con không muốn giữ cứ thi nhau cuốn vào đầu rồi giằng co, chật vật.

Có những buổi sáng tỉnh dậy rồi chẳng biết cuộc đời sẽ đẩy mình đi đến đâu

  1. 20 dù chưa thật sự lớn nhưng tôi chẳng còn là đứa con nít vô tâm vô tư ỷ lại vào người khác, chẳng còn khóc lóc mỗi lần bị mắng, đủ lớn để tự mình qua đường phố đông đúc hay ở nhà một mình không sợ hãi.
  2. Tuổi 20 nhất thiết tìm cho mình một người thầy – một người đỡ đầu. Đó có thể là một người thầy đúng nghĩa, một người anh trải nghiệm, hoặc một cá nhân nổi tiếng… Thật tuyệt nếu đó là một người thầy thực thể, cận kề bên bạn. Nếu không có được may mắn đó, hãy chọn một nhân vật trong tiểu thuyết yêu thích làm thầy.
  3. Phụ nữ 20 thường tin vào duyên phận. Đàn ông 20 nên tin vào sắp đặt. Tin vào duyên phận, phụ nữ được nhẹ lòng. Biết sắp đặt, đàn ông làm chủ cuộc đời. Cách nhanh nhất chinh phục một người phụ nữ là sắp đặt cho họ tin rằng định mệnh đã cho anh gặp em, rằng đôi ta là kết hợp của Chúa trời. Đàn ông cần biết sắp đặt để có được người phụ nữ của đời mình. Hãy sắp đặt sớm để trở thành duyên số của nhau. Vì hết 20, sắp đặt và duyên số có khả năng trở thành… đàm phán.
  4. Tuổi 20 của tôi, nó đặc biệt lắm, nó như một cột mốc thần tiên biến tôi thành một người hoàn toàn khác. Từ một cô bé ngây thơ, xấu xí, chả có gì nổi bật và suốt ngày than thở với lũ bạn rằng: "Tao chán quá" và mỗi lần chúng thấy tôi lại có thể đoán ra là tôi chuẩn bị thở dài, giờ đây tôi như một người mà chính tôi vẫn chưa nhận ra.
  5. Tuổi 20, tuổi để thả mình vào những ước mơ ngông cuồng. Không ai đánh thuế ước mơ và cũng chẳng ai cho bạn ước mơ. Ước mơ có thể ngông cuồng, càng ngông càng hay, càng hấp dẫn và hứng thú, càng chông gai và thử thách. Có thể ta sẽ không thể chạm vào nó nhưng dù sao thì bạn cũng đã đi qua được nhiều ước mơ của người khác rồi.
  6. Sẽ thật thiếu sót khi một ngày ta muốn nhìn lại tuổi trẻ của bản thân mà ta lại quên béng tuổi 20. Quên những gì mà tuổi 20 đã trải qua, tuổi 20 chưa làm được. Sẽ thật hạnh phúc khi ta biết được rằng tuổi 20 của ta thật tươi đẹp biết bao!

Trên đây là những câu nói hay về tuổi 20. Hy vọng, những câu nói trên đây sẽ góp phần làm cho tuổi 20 của bạn trở nên tươi đẹp và đáng nhớ nhất. Ai rồi cũng phải một lần nếm trải mùi vị tuổi 20, quan trọng là bạn chuẩn bị để đón nhận nó ra sao. Hãy sống sao cho những năm tháng này trở nên ý nghĩa nhất để khi nhìn lại không còn chỗ cho sự nuối tiếc bạn nhé.

Xem tiếp...

TT&HĐ V - 43/p


 
Năng lượng Thành phần cơ bản nhất của vũ trụ | Phim khoa học khám phá (thuyết minh)
 
 

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 

"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
                                                                                                                               Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
                                                                                                                                       Upanishad       

CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE


“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab

“Nếu toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi

“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
 MARTIN LUTHER KING 

"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT

"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".  
 

 

(Tiếp theo)

***
Trước tiên, chúng ta đặt lại câu hỏi mà đối với một số người, đã trở thành “đồ cổ” và đối với một số người khác, vẫn nóng bỏng tính thời sự: Khối lượng là gì?
Theo cách trả lời truyền thống thì khối lượng của một vật là lượng vật chất mà vật có (hay: là lượng vật chất tạo nên vật). Trực quan cũng thấy, lượng vật chất của một vật càng nhiều, nghĩa là khối lượng của nó càng lớn (trọng lượng càng nặng) thì càng khó làm biến chuyển trạng thái chuyển động của nó, cho nên khối lượng cũng đóng luôn vai trò là đại lượng đặc trưng cho khả năng bảo toàn trạng thái chuyển động (hay còn gọi là số đo quán tính, sức ỳ) của một vật. (Theo biểu thức E=mc2 của Anhxtanh, khối lượng còn đóng thêm vai trò là đại lượng đặc trưng cho năng lượng toàn phần chứa trong vật, đồng thời là một thành tố làm nên năng lượng đó).
Định nghĩa trên về khối lượng là dựa vào cơ sở đã biết được bản chất của vật chất. Cho nên những ai muốn hiểu thấu đáo khái niệm khối lượng hơn nữa mà vẫn chưa nắm bắt được bản chất vật chất thì cần phải đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: vậy thì, vật chất là gì? Đối với khái niệm “vật” thì có thể tạm hiểu nôm na: cái gì mà có quảng tính (tạm hiểu là có tính kích thước, còn tính kích thước là gì thì cũng dễ hình dung) thì gọi là “vật”. (Vậy thì cái bóng của một người, vì cũng có diện tích nên có thể được gọi là vật không? Có mà cũng không, hay cũng có thể gọi là vật ảo để phân biệt với những vật thật hay thực thể - những vật tồn tại và vận động tương đối độc lập trong môi trường chứa chúng). Còn “chất”? Một vật bao giờ cũng hàm chứa một thứ hay nhiều thứ gì đó tạo nên nội tại vật hay đúng hơn là tạo nên bản thân vật, làm cho vật tồn tại, hiện hữu một cách có quảng tính, có lượng. Về hình thức thể hiện thì trước quan sát, nội tại của vật này có thể giống mà cũng có thể khác nội tại của vật kia cho dù chúng có cùng một cách thể hiện quảng tính và có cùng một lượng. Để phân biệt nội tại của các vật “theo hướng ấy”, hoặc phân biệt những thứ gì đó đóng vai trò làm nên nội tại vật, người ta đã đưa ra thuật ngữ “chất” và đi đến khái niệm về “chất”. Thuật ngữ “chất” được dùng một cách rất linh động trong đời sống hàng ngày. Có khi “chất” được dùng theo nghĩa mở rộng như: chất lỏng, chất khí, chất rắn, chất tẩy rửa, chất nhờn…; theo nghĩa hẹp hơn thì chẳng hạn: chất gỗ, chất sắt, chất thép…, hẹp hơn nữa thì chẳng hạn: chất nước, chất axit, chất clo, chất nitơ… Người ta còn phân loại chất theo kiểu nữa là chất vô cơ và chất hữu cơ, hợp chất và đơn chất. Hợp chất là chất được tạo thành từ hai hay nhiều đơn chất (như axit, nước…). Đơn chất là giới hạn cuối cùng của chất, được cấu thành nên từ sự liên kết của các vi hạt gọi là phân tử, nguyên tử. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Hóa học là các chất và sự biến đổi, chuyển hóa giữa chúng với nhau. Đến đây, chúng ta có thể nêu định nghĩa: Chất là một khái niệm được dùng trong việc định tính về mặt lý – hóa đối với nội tại của các thực thể (hay các vật) nhằm phân biệt chúng với nhau, phục vụ đời sống cũng như nghiên cứu khoa học.
  Thế giới mà chúng ta đang sống thật kỳ dị! Có những điều chúng ta tưởng đã thấy rành rành trong hiện thực, biết mười mươi, con nít thuộc lòng, nhưng nằm ngẫm kỹ, thì lại thấy rất hoang mang, cực khó hiểu. Chẳng hạn biểu thức toán học: 1 + 1 = 2,  ai mà không "biết tỏng", nhưng để nhận thức nó một cách đúng đắn, ngay cả đối với học giả uyên bác ngày nay cũng không phải là dễ dàng, vì thực ra nó chỉ là biểu tượng phản ánh không đầy đủ hiện thực, chứ không hề "có" theo đúng nghĩa đen, nghĩa là không hề tồn tại trong thực tại khách quan trước khi có toán học. Sở dĩ có nó là vì có con người biết tư duy trừu tượng trong quan sát, suy tưởng thành biểu tượng, thành một tồn tại trong thế giới ảo toán học. 
  Theo chúng ta,  trên đời này không có gì khác ngoài Tự Nhiên Tồn Tại, ngoài Tồn Tại theo nguyên lý Tự Nhiên. Tồn Tại có nghĩa là "Có", Tự Nhiên có nghĩa là phải "Có kiểu như thế" chứ không thể "không có", không thể "có kiểu khác". Chẳng hạn, trong hiện thực Trái Đất,chỉ thấy có những hòn đá lăn xuống chân núi chứ không hề có hòn đá nào tự nhiên (!) lăn từ chân núi lên đỉnh núi. Vì Tồn Tại là cái "Có" duy nhất nên nó phải bảo toàn và vì nó phải liên tục thể hiện đến "chân tơ kẽ tóc" để phân biệt được nên nó phải biến đổi, chuyển hóa không ngừng. Nói cách khác, bản chất của Tồn Tại là vận động. Khi ta nói Tồn Tại (viết hoa), thì nên hiểu rằng đó là danh từ chung, nói về tồn tại tuyệt đối, khi ta nói tồn tại (viết thường), thì có nghĩa ta đang nói đến tồn tại cụ thể (như sông, núi, rừng, biển, không gian, thời gian,...), là tồn tại tương đối. Có thể phân tồn tại tương đối thành hai loại là tồn tại thực và tồn tại ảo. Tồn tại thực là cái có thực trong thực tại, không cần qua tư duy trừu tượng. Ví dụ: một cái cây là một tồn tại thực. con vật tuy không có tư duy trừu tượng thì cũng phải biết có chướng ngại ở đó mà tránh. Còn tồn tại ảo là tồn tại phải thông qua tư duy trừu tượng mới có. Chẳng hạn toán học, vật lý học, thời gian... Từ đó, chúng ta rút ra được nguyên lý Tự Nhiên. 
   Như vậy, không có tồn tại thực thì không có tồn tại ảo, nói cách khác, tồn tại ảo là phản ánh hay là thể hiện của tồn tại thực. Không có tư duy trừu tượng thì không có thời gian, hay thời gian là cảm giác lâu, mau của một quá trình vận động hoặc chuyển hóa nào đó của tồn tại thực. Toàn bộ thế giới này đều vận động tuân theo tuyệt đối và duy nhất nguyên lý Tự Nhiên. Có thể nói nguyên lý Tự Nhiên được coi như tiên đề nguyên lý- là nguyên lý cội rễ chung nhất của mọi nguyên lý, qui luật của thế giới này. Nó phát biểu rằng, Tự Nhiên Tồn Tại là không thể bị tiêu diệt (nghĩa là không có Hư Vô). Mọi vận động, chuyển hóa phải đảm bảo bảo toàn Tự Nhiên Tồn Tại. Ba nguyên lý lớn nhất (luật tự nhiên): nguyên lý Nhân Quả (tồn tại "chỉ" nảy sinh từ Tồn Tại chứ không thể từ Hư Vô), nguyên lý Tác dụng tương hỗ (mọi tồn tại đều cố gắng tồn tại, nghĩa là đều cố gắng duy trì trạng thái "đang" tồn tại) và nguyên lý bảo toàn (số lượng Tồn Tại là vốn dĩ và bất biến) được coi là ba hệ quả chi phối toàn bộ sự tồn tại và hoạt động của thế giới tự nhiên, được rút ra trực tiếp từ nguyên lý Tự Nhiên...
     Có thể thấy, những vấn đề nêu ra ở trên không hoàn toàn vô lý, thậm chí rất đáng phải suy nghĩ. Trong lịch sử, thiếu gì những quan niệm điên rồ trở thành chân lý và ngược lại, thiếu gì những quan niệm vĩ đại một thời, hóa ra lại là đồ bỏ! 
   Như chúng ta đã từng quan niệm, không thể có Hư Vô, chỉ có Tồn Tại. Làm sao biết được Tồn Tại? Vì Tồn Tại thể hiện ra. Muốn  quan sát nhận biết được Tồn Tại thì Tồn Tại phải biến đổi không ngừng, phải vận động, chuyển hóa. Từ đó mà có kết luận: vận động là đặc tính cốt lõi của Tồn Tại. Hay nói khác đi, vận động và Tồn Tại là hai góc nhìn về cùng một Tự Nhiên Tồn Tại thống nhất, không thể tách rời, như hình với bóng, là hai trong một. Nói đến Tự Nhiên Tồn Tại phải nghĩ đến vận động, nói đến vận động phải nghĩ đến Tự Nhiên Tồn Tại. Để thể hiện thì Tồn Tại phải thường xuyên biến đổi. Nói chính xác hơn, tuân theo nguyên lý Tự Nhiên, Tồn Tại là thường biến tuyệt đối, tồn tại (tương đối) là bất biến trong thường biến, thường biến để bất biến. Bất biến để duy trì trạng thái vốn có, đang có của Tồn Tại, thường biến để đảm bảo sự tồn tại vốn dĩ, thường hằng của Tồn Tại, để tuyệt đối không có Hư Vô. Từ đó xuất hiện một đặc tính cơ bản nữa của Tồn Tại là tính "cố gắng duy trì tồn tại" hay còn gọi là "sức ỳ tồn tại". Sức ỳ tồn tại là tính cố gắng duy trì trạng thái ("cũ") vốn có của tồn tại, chống lại mọi biến đổi. Đại lượng đặc trưng cho sức ỳ tồn tại mà con người đã phát hiện ra chính là khối lượng (m). Còn đại lượng đặc trưng cho mức độ làm biến đổi trạng thái của tồn tại là năng lượng (E).  Có thể phân Tồn Tại thực ra hai loại là tồn tại có khối lượng (vật chất...), năng lượng và tồn tại phi khối lượng (không gian...), phi năng lượng. Từ đây chúng ta rút ra một kết luận có thể là khác với quan niệm đương thời: đã là vật chất thì phải có khối lượng và đã là tồn tại thực thì phải có năng lượng! Vì vật chất có nguồn gốc từ không gian, được không gian hun đúc nên, và xét trên phương diện nào đó, vật chất cũng làm nên không gian, vì vật chất, khi không còn tồn tại nữa lại sẽ  chuyển hóa thành không gian, về với Tồn Tại. Yếu tố cơ bản nhất làm nên Tồn Tại (mọi tồn tại phi vật chất và vật chất) là "khoảng cách" không gian (sự xa - gần) và yếu tố cơ bản nhất  để có thể nhận biết vận động là "khoảng khắc" thời gian (sự lâu-mau). Sự kết hợp và qui ước lẫn nhau của yếu tố thể tích, tức "khoảng cách" không gian sẽ làm hình thành nên "thể tích" và sự biến đổi, chuyển hóa thể tích ấy sẽ làm nên "khoảng khắc". Thể hiện cơ bản nhất của vật chất là tính thực thể. Vì vật chất được sinh ra từ không gian nên thực thể phải có tính không gian, nghĩa là có thể tích. Mọi vận động của mọi thể tích (sự biến dạng, sự thay đổi,...) xét cho cùng, đều là tập hợp của các "khoảng khắc" và vận động đơn giản nhất của vật chất được cho là sự xê dịch, di dời vị trí, mà đại lượng đặc trưng cho sự nhanh, chậm của di dời vị trí là vận tốc (v). Đơn vị nhỏ tuyệt đối của Tồn Tại là lượng không thời gian kích thích hf (f là tần số lớn nhất của sóng điện từ, h là hằng số Planck) lan truyền khắp Vũ Trụ như những thực thể xoáy cực nhanh với vận tốc chu vi v = c (với c là hằng số Vũ Trụ, đồng thời cũng chính là trị số vận tốc cực đại mà nó có) và hàm chứa một giá trị năng lượng toàn phần cực tiểu e = mc2. Thực thể là tính có thể tích (tính không gian), không có thực thể nào lại không có thể tích, có kích thước (có bề dài, bề rộng và bề sâu). Thực thể vật chất nhỏ nhất, đơn vị tuyệt đối làm hình thành nên vật chất của thực tại khách quan được cho là (hay được qui ước là) điểm không gian (hay còn gọi là hạt không gian, ký hiệu: hạt KG). Mọi thực thể đều phải vận động và chuyển hóa không ngừng nhằm thể hiện và "nắm bắt" thể hiện sự duy trì tồn tại của nó đối với thực thể xung quanh đồng thời "biết" được sự tồn tại của thực thể xung quanh. Chính vì vậy mà có nguyên lý nhân quả, nguyên lý Tác động tương hỗ, nguyên lý bảo toàn, và Tự Nhiên Tồn Tại được thấy như một hệ cân bằng động vĩ đại. Tóm lại, có vẻ như sự kích thích không gian sẽ hun đúc, làm nên đại lượng gọi là "khối lượng" (thường ký hiệu là "m") và sự kết hợp của khối lượng, khoảng cách, khoảng khắc sẽ làm nên cái gọi là "năng lượng".
Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học, duy vật và duy tâm, về có Thượng Đế hay không có Thượng Đế, nảy sinh từ ngàn xưa đến nay vẫn chưa hề chấm dứt. Dù trường phái duy vật đã chứng minh được nhiều điều rằng không có Thượng Đế, dù khoa học đã có những bước tiến vĩ đại, vẫn chưa trả lời được cân hỏi cuối cùng có tính chung cục, quyết định này: đâu là nguyên nhân cuối cùng của vận động (?). Nhờ có quan sát mà loài người ngày nay đã đi đến nhận định, Vũ Trụ là một khoảng không gian bao la và vật chất vận động không ngừng. Vận động tồn tại tuân thủ tuyệt đối nguyên lý nhân quả và nguyên lý tác động - phản ứng hay chuyển động theo qui luật tác dụng tương hỗ mà Niutơn đã khám phá ra. Nghĩa là một vật (nói rộng hơn là vật chất) muốn chuyển động được (nói rộng hơn là vận động được) thì phải tương tác với một hay nhiều vật khác.Từ đó suy ra, phải có "cú huých đầu tiên" tạo ra chuyển động (vận động) vật chất. Vậy "cú huých đầu tiên" đó (lực tác động đó) từ đâu mà có nếu không phải do Thượng Đế?
  Theo quan niệm của chúng ta thì việc khám phá ra năng lượng toàn phần và tính tương đối của chuyển động hình như đã trả lời được câu hỏi hóc búa đó. Vận động là tồn tại tự thân của Tự Nhiên Tồn Tại, vừa là kết quả, vừa là nguyên nhân của chính nó!
   Trong vật lý, khối lượng là đặc trưng về tính thống nhất của vật chất. Hai vật có khối lượng bằng nhau thì bằng nhau về lực lượng vật chất. Vì không thể có Hư Vô nên tương tự như Tự Nhiên Tồn Tại, khối lượng tồn tại "trong" vật chất một cách vốn dĩ nhằm cố gắng duy trì tồn tại, thể hiện ra như sức ỳ tồn tại. Mặt khác, bản chất của Tồn Tại là thường biến và đặc trưng cho khả năng biến đổi ấy chính là năng lượng toàn phần. Bất cứ thực thể vật chất nào cũng phải có khối lượng và năng lượng toàn phần. Cái gọi là "lực" ẩn chưa tiềm tàng trong năng lượng toan phần. Sự chuyển hóa năng lượng toàn phần sẽ bộc lộ ra lực. Có thể nói, lực là đại lượng được hun đúc nên từ vận động nội tại của vật chất, chứ không phải từ ngoại lai, do Thượng Đế tạo ra.
   Đặc trưng cho mỗi thực thể vật chất đơn vị (hạt không gian) là một năng lượng toàn phần ký hiệu là  e = mc2. Nếu có một thực thể có khối lượng M thì nó phải được hun đúc nên từ n hạt không gian, có năng lượng toàn phần E = Mc2 = n.mc2 (với n là số tự nhiên). Như vậy, một thực thể bao giờ cũng có hai đại lượng đặc trưng cơ bản là khối lượng và năng lượng toàn phần và được biểu diễn gộp:  E = Mc2 = M0c2 + Mv2. Theo chúng ta nhận định, đây là biểu diễn cơ bản nhất của một vật trước quan sát của con người. Người ta vẫn tưởng biểu diễn đó là Mv (hay Mv2), nhưng không phải. Vì khi v=o, tức vật đứng yên, thì biểu diễn đó biến mất khỏi hiện thực quan sát (Mv (hay Mv2)=o). Điều đó là phi thực tế! Một chiếc ôtô đang chạy (v khác o) bỗng dừng lại (tức đứng yên, v=o) thì quan sát vẫn phải thấy nó. Biểu diễn E = Mc2 = M0c2 + Mv2 chỉ ra rằng, khi v=o, thì còn lại vẫn là chiếc ôtô (E = Mc2)!

   Năng lượng là khái niệm nói về khả năng sinh công của vật, nghĩa là khả năng làm biến dạng vật chất, làm biến đổi trạng thái vận động của một vật. Có lẽ khám phá vĩ đại nhất, quan trọng bậc nhất của loài người là phát hiện ra khối lượng nhờ sống trong môi trường trọng lực. Khối lượng là thể hiện cơ bản của "sức ỳ" tồn tại vật chất và vận tốc cùng với "lực" là những khái niệm thuộc hàng đầu tiên mà con người nhận thức được trong quá trình tìm hiểu sự tồn tại, vận động và tương tác biến đổi vật chất. Mặc dù không có cách nào để xác định khối lượng của một vật, nhưng theo Niutơn, một vật (thực thể) không chịu bất cứ tác động lực nào từ bên ngoài thì sẽ giữ nguyên trạng thái đứng yên hoặc chuyển động thẳng đều của nó. Ngược lại, một vật khi chuyển đổi từ trạng thái v khác 0 sang trạng thái v =0 (đứng yên) hoặc từ trạng thái v = 0 sang trạng thái v khác 0, thì vật đó đã chịu một tác động lực có giá trị xác định, Niutơn khám phá bằng F = m.a. Nhưng đúng thật thế không? 
   Như đã biết, mỗi thực thể trong thế giới vật chất đều được đặc trưng bằng một năng lượng toàn phần là  E = Mc2, mà lượng nhỏ nhất, đóng vai trò đơn vị là của hạt không gian, nó bằng mc2. Nếu thực thể được coi là tổng hợp (tích hợp) của số nguyên lần hạt không gian thì Mc2= n.mc2 (n là số tự nhiên). Nhưng biểu diễn tổng quát hơn phải là: Mc2 = M0c2 + Mv2. Với M0 = M.(1 - v2/ c2). Không có cách nào triệt tiêu được biểu thức ấy, và đó chính là Tồn Tại! Khi v<M0 , khi v = o thì thực thể  được coi là đứng yên tuyệt đối trong Vũ Trụ với E = Mc2, khi v = c thì thực thể bị coi là đã phân rã hết thành n sóng bức xạ điện từ (hạt không gian) với: Mc2= n.mc2. Theo định luật tác dụng tương hỗ của Niutơn, khi vật chịu lực F tác dụng thì đồng thời nó cũng triển khai một lực cùng độ lớn, đồng phương nhưng ngược chiều (-F). Điều khó hiểu nhất là hai lực đó tuy đồng phương ngược chiều nhưng không triệt tiêu nhau, vì nếu chúng triệt tiêu nhau sẽ coi như không có tác động lực, do đó cũng không có sự thay đổi trạnh thái nào cả, thế giới trở nên Hư Vô! Nhưng chính sự tương tác cơ học tuân theo nguyên lý làm xuất hiện cặp lực trực đối mà con người đã ngộ nhận động năng là 1/2Mv2 thay vì Mv2. Lực -F từ đâu mà có? Phải thừa nhận rằng nguyên nhân sâu xa nhất gây ra -F là F. Có thể gọi F là ngoại lực nhưng phải hiểu đó là lực nội tại của một thực thể vật chất khác. 
  Thực tiễn cho thấy không phải với bất cứ giá trị nào của ngoại lực (dù không có ma sát) cũng làm thay đổi trạng thái vận động của thực thể bị tác động. Điều khẳng định là mỗi thực thể tồn tại trong tự nhiên đều có một năng lực tiềm ẩn (Mc2) cũng như một sức ỳ (m) cưỡng lại sự thay đổi trạng thái chuyển động nhất định. Một vật đang đứng yên (có v = o), chỉ khi chịu một lực có độ lớn xác định, thì mới chuyển sang trạng thái chuyển động được, nghĩa là muốn chuyển vật đó sang trạng thái có khả năng sinh công (có v) thì phải cần một ngoại lực F* > F = ma, hay F*= F + f  =  ma + ma*, với f là tác động làm cho vật thay đổi phương chiều và trạng thái và gọi là "lực quán tính". Có tính được f trực tiếp không? Đến nay thì không, dù biết rằng nó phải bằng m.a* xác định đối với mỗi thực thể và a* là một hằng số Vũ Trụ có thứ nguyên gia tốc (hoặc lực/khối lượng). Có thể hình dung, vì năng lượng E cũng được hiểu là khả năng sinh công tiềm ẩn của vật nên có thể viết: E = F.S = M0c2 + Mv2 => F = M.(1 - v2/ c2).c2/s + Ma , với c2/s = a* là hằng số vũ trụ mới (?). Khi một vật đứng yên bị tác động lực mà không vào trạng thái chuyển động, nghĩa là có v = o, thì F < Ma*. Khi v <Nếu suy luận vừa nêu là có lý, tương lai được thực nghiệm xác nhận, và nếu cho rằng, một vật là một khối tích hợp bức xạ điện từ, mà thu phát bức xạ điện từ là hiện tượng phổ biến của tự nhiên, thì cả định luật I , II Niutơn và cả thuyết tương đối hẹp của Anhstanh đều cần phải được xem xét lại!...
 Quan niệm đó nghe có lý không? Nhưng hình như Niutơn vẫn đúng, vì  trong thực tế có thể f đã có trong Ma rồi, nghĩa là một vật đang chuyển động với gia tốc a, đã có một ngoại lực  đúng bằng F = F* + f = m.a tác động, và  không còn lực nào khác tác động nữa.
   Nếu như thế (nghĩa là Niutơn đúng!), thì bức tranh Vũ Trụ sẽ rất hỗn loạn, quĩ đạo chuyển động của Trái Đất không thể ổn định như hiện nay! Vì nếu Trái Đất không có lực quán tính, nghĩa là không có khối lượng, thì khi bị tác động với bất kỳ một xung lực F.t nào khác không, Trái Đất cũng phải chuyển động không theo quĩ đạo cũ nữa. Với bất kỳ thiên thạch nào "rơi xuống" Trái Đất, cũng làm cho Trái Đất rời khỏi quĩ đạo trong Thái Dương Hệ để "lạc" vào Vũ Trụ mênh mông từ lâu rồi!
     Nói năng bạt mạng và dễ dãi như vậy đã thỏa đáng chưa? Có thể rằng chưa! Nếu chưa thì cũng đành chịu vì thực lòng, chúng ta đã “vét cạn” khả năng rồi.
   Mà sự thô phác thường hoặc là sự vạch trần ngay lập tức cái ngớ ngẩn, dở hơi của kẻ học đòi làm hiền triết, hoặc là sự thấu triệt trong suy tư của đứa con nít ngô nghê! Phải chăng chúng ta đã lên cơn điên dại, muốn vĩ đại hơn ông Niutơn và ông Anhxtanh!?...
Thật là rợn người với suy nghĩ ngông cuồng và kỳ quặc ấy!
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------


Xem tiếp...