KHÁM PHÁ | Những Cây Cầu Kỳ Lạ Và Độc Đáo Nhất Thế Giới
Con đường kỳ lạ nhất hành tinh, ngày nào cũng "tàng hình" 2 lần
Thứ Sáu, ngày 16/08/2019 01:00 AM (GMT+7)
Với những
người yêu thích du lịch, những nơi thu hút họ chính là cảnh quan thiên
nhiên hoang sơ hay những kiến trúc đẹp hoặc những hiện tượng kỳ lạ, khơi
dậy sự tò mò. Và con đường Le Passage Du Gois ở Pháp này chính là một
địa điểm độc đáo như vậy.
Kết nối Vịnh Burnёf với đảo Noirmoutier, đường Passage du Gois mang
lại cho du khách một số khung cảnh rất đẹp nhưng cũng cực kỳ nguy hiểm.
Bạn sẽ chỉ được phép lái xe trên con đường này trong vài giờ mỗi ngày vì
thủy triều dâng cao sẽ làm ngập đường trong suốt thời gian còn lại.
Con đường này là một lối đi tự nhiên đã tồn tại từ thế kỷ 16 và lần
đầu tiên được có mặt trên bản đồ vào năm 1701. Nó được bắt đầu sử dụng
từ năm 1840 cho đến nay.
Con đường dài hơn 12km và cứ 2 lần một ngày nó lại bị chìm sâu 4m dưới dòng nước Đại Tây Dương.
Vì đường không được giám sát nên tùy thuộc vào các tài xế tự xác định
xem đường có đủ an toàn để đi không thông qua những tấm bảng đặc biệt
được lắp ở ven đường.
Mặc dù đã có những tấm biển hiệu này nhưng hằng năm vẫn có rất nhiều
tài xế bị mắc kẹt trên đường vì thủy triều dâng cao khá nhanh.
Có thể do các tài xế không nhận ra sự nguy hiểm đang đến hoặc giao
thông quá dầy đặc trên đường và họ bị kẹt ở giữa khi nước dâng lên.
Người ta cũng thiết kế những tháp cứu hộ nằm dọc theo con đường, vì
vậy nếu bạn bị mắc kẹt khi nước dâng cao, thì chỉ cần leo lên tháp và
chờ đợi được giải cứu. Tuy nhiên xe của bạn có thể sẽ bị cuốn trôi.
Sau khi mực nước rút, lối đi được bao phủ trong rong biển nhầy nhụa,
khiến con đường trở nên vô cùng trơn trượt. Tuy nhiên, Le Passage Du
Gois vẫn được sử dụng như một phần của tuyến Tour De France.
Vốn là một làng chài cổ nằm ở phía tây của thành phố Tromso (Na Uy) và nằm ở phía bắc Vòng Bắc Cực, đảo Sommaroy trở...
Theo Hàn Ly (Theo themindcircle) (Báo GT)
Bí mật khó tin về những ngọn đèn vĩnh cửu trong cổ mộ
Thứ Năm, ngày 15/08/2019 10:00 AM (GMT+7)
Những ngọn
đèn vẫn sáng rực sau cả ngàn năm thắp sáng bên trong những di tích cổ
đại khiến cho giới khoa học không khỏi đau đầu. Và cho đến tận bây giờ,
họ vẫn chưa có lời lý giải thỏa đáng về những ngọn đèn vĩnh cửu ấy...
Những ngọn đèn cháy sáng suốt cả ngàn năm
Những ngôi mộ cổ thường được chôn theo vàng bạc châu báu nên luôn bị
dân đào trộm mộ nhòm ngó, dùng “trăm phương ngàn kế” để đột nhập ăn
trộm. Luôn cách biệt với thế giới bên ngoài nên dù trải qua nhiều thế
kỷ, những báu vật trong mộ cổ vẫn được bảo quản khá tốt. Đám “mộ tặc”
thường cho rằng, ở nơi quanh năm không thấy ánh mặt trời ấy thường rất
tối tăm, giơ tay trước mặt cũng chẳng thể trông rõ năm ngón ngắn dài.
Nhưng thực tế không hoàn toàn như những gì chúng nghĩ.
Theo một số ghi chép còn lại tới ngày nay, bên trên vòm của một số
ngôi mộ cổ xuất hiện những ngọn đèn rọi ánh sáng mờ ảo xuống lòng mộ.
Chính điều ấy đã khiến đám trộm mộ nhiều phen ngỡ ngàng, kinh ngạc.
Vào năm 527, khi Syria còn nằm dưới sự thống trị của Đế quốc Đông La
Mã, các binh sĩ Đông La Mã đồn trú tại lãnh thổ Syria lúc đó đã phát
hiện trong một hốc tường nọ tồn tại một ngọn đèn, bên ngoài được che
bằng chiếc chụp rất tinh xảo. Chiếc chụp này dường như được thiết kế để
chắn gió.
Theo văn khắc được phát hiện vào thời điểm ấy, ngọn đèn đã được thắp
từ năm 27, đồng nghĩa với việc, nó đã bền bỉ sáng suốt… 500 năm. Nhưng
thật đáng tiếc vì đám binh sĩ đã làm hỏng ngọn đèn, khiến hậu thế không
thể lý giải nguyên lý hoạt động kỳ diệu của nó.
Một nhà sử học Hy Lạp cũng đã ghi chép về ngọn đèn thần luôn thắp
sáng trên cửa đền thờ thần Mặt Trời tại Ai Cập. Ngọn đèn này không dùng
bất cứ nhiên liệu gì nhưng vẫn chiếu sáng trong vài thế kỷ. Theo miêu tả
của nhà thần học người La Mã là Saint Augustin, tại ngôi đền Isis của
Ai Cập cũng có một ngọn đèn tương tự, thắp sáng vĩnh cửu bất chấp tác
động của mưa gió.
Vào năm 1.400, người ta lại phát hiện bên trong mộ phần của Pallas,
con trai Vua Evandra thời La Mã cổ đại tồn tại một ngọn đèn cháy sáng
trong hơn 2.000 năm. Gió và nước không thể dập tắt ánh sáng vĩnh cửu của
nó. Có lẽ, cách duy nhất để phá hủy ngọn đèn chính là trút sạch thứ
chất lỏng đặc biệt có trong nó.
Tới năm 1.534, đội quân của Vua Henry VIII xông vào giáo đường Anh,
giải tán các đoàn thể tôn giáo và khai quật rất nhiều ngôi mộ. Khi đào
bới mộ phần của cha Hoàng đế La Mã Constantin tại Yorkshire, họ phát
hiện ra một ngọn đèn đang cháy sáng. Cha của vị vua này mất vào năm 300,
cũng có nghĩa, ngọn đèn được tìm thấy đã có tuổi thọ đến 1.200 năm.
Đó chỉ là một vài trong số rất nhiều những ngọn đèn ngàn năm không
tắt được phát hiện. Các ghi chép cho thấy, khắp các nơi trên thế giới
đều có hiện tượng kỳ bí này, điển hình là tại những quốc gia, khu vực có
các nền văn minh cổ xưa như Ấn Độ, Trung Quốc, Ai Cập,...
Ngay cả Italy, Anh, Ireland và Pháp cũng tồn tại những ngọn đèn bí ẩn
tương tự. Chúng được tìm thấy trong cổ mộ và các đền thờ trên khắp thế
giới. Điều đó cho thấy, ngọn đèn ngàn năm không tắt là sản phẩm sáng tạo
tuyệt vời của người dân ở nhiều quốc gia, khu vực, chứ không riêng gì
những mảnh đất vốn được mệnh danh là huyền bí như La Mã, Ai Cập,...
Ảnh minh họa: Những ngọn đèn vĩnh cửu (trường minh đăng) trong những lăng cổ mộ vẫn thách thức giới khoa học tới tận hôm nay.
Công nghệ hiện đại cũng bó tay
Theo các ghi chép thực tế, người cổ đại đã bảo quản những ngọn đèn
này, nhưng lạ lùng thay, ít lâu sau khi được tìm ra, chúng nhanh chóng
bị phá hủy theo cách này hoặc cách khác. Vào giữa thế kỷ 17, tại vùng
Grenoble của Pháp, một người lính Thụy Sĩ đã tình cờ phát hiện lối vào
một ngôi mộ cổ.
Sau khi vào được bên trong, chàng trai trẻ đã không tìm được những
thứ vàng bạc châu báu mà anh ta thèm muốn. Nhưng điều khiến người lính
Thụy Sĩ kinh ngạc là trong ngôi mộ cách biệt hoàn toàn với thế giới bên
ngoài ấy tồn tại một ngọn đèn đang cháy sáng và được bảo vệ bởi một chụp
đèn bằng thủy tinh.
Anh ta đã đem tặng cây đèn cho tu viện. Các tu sĩ tại đây cũng ngạc
nhiên chẳng kém khi đón nhận nó. Ít nhất ngọn đèn bí ẩn ấy đã cháy sáng
suốt cả ngàn năm. Họ gìn giữ, bảo quản nó như gìn giữ một báu vật. Đáng
tiếc thay, vài tháng sau đó, một vị tu sĩ vì không cẩn thận đã làm vỡ
cây đèn.
Một câu chuyện thú vị khác được cho là đã xảy ra tại Anh khi khai
quật một ngôi cổ mộ. Người ta phát hiện ra rằng, trên nóc cổ mộ có treo
một ngọn đèn soi sáng cả không gian. Khi người khai quật tiến về phía
trước, một phần nền bỗng rung lắc theo bước chân anh ta rồi đột nhiên,
bức tượng mặc áo giáp bắt đầu di chuyển.
Pho tượng di chuyển tới gần chỗ ngọn đèn và dùng vũ khí trong tay đập
vỡ nó. Tại Trung Quốc cũng có những ghi chép về hiện tượng này. Sử ký
chép rằng, trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng có bố trí loại đèn thắp sáng
“vĩnh cửu”. Người Trung Quốc vốn có truyền thống đối đãi với người chết
như người sống còn các bậc đế vương rất coi trọng lăng mộ của mình.
Họ xem đó là nơi cư trú của linh hồn khi đã “nhắm mắt xuôi tay” và hy
vọng lăng mộ sẽ được trang hoàng bởi những ngọn đèn cháy sáng bền bỉ
giống như những gì đã có trong chốn hoàng cung. Một ngọn đèn như vậy
thường có kết cấu hai tầng, khoang chứa bên trong đổ đầy dầu thắp, bấc
đèn được ngâm trong dấm, tầng ngoài chứa nước, có tác dụng làm mát dầu.
Đây là một phát minh vĩ đại, bởi lượng dầu thắp tiêu hao nhanh không
phải vì bị đốt cháy nhiều, mà chủ yếu là do gặp nhiệt và bay hơi. Ngoài
ra, bấc đèn được ngâm trong giấm cũng có thể duy trì mức nhiệt thấp,
nước bao bên ngoài giúp dầu không tăng nhiệt.
Trong quá trình khai quật di tích Định Lăng thuộc Bắc Kinh, người ta
cũng phát hiện thấy trong chính điện của lăng mộ này có một chiếc vại
lớn bằng sứ men xanh đựng đầy dầu thắp và một chiếc bấc đèn. Nhưng ít
lâu sau khi lăng mộ được bịt kín, ngọn đèn này đã tắt lụi, bởi lăng mộ
quá kín mít làm thiếu đi lượng không khí cần thiết để duy trì ngọn lửa
của đèn…
Sau nhiều năm, bí ẩn về những ngọn đèn không tắt chưa hề được giải
mã. Hậu thế vẫn miệt mài tìm kiếm lời giải cho những câu hỏi hãy còn bỏ
ngỏ. Vào năm 1610, người ta đã khai quật ngôi mộ của một nhà giả kim có
tên là Los Cruz sau khi ông này qua đời được 120 năm. Trong mộ cũng có
một ngọn đèn kỳ bí như vậy. Do đó, người ta ngờ rằng, chính những nhà
giả kim và thợ đúc kim loại thời xưa là những người nắm rõ kỹ thuật chế
tạo loại đèn ngàn năm không tắt này.
Liệu thứ ánh sáng huyền bí và bền bỉ ấy thực sự có mối tương liên với
kim loại? Các nhà khoa học đã cố gắng phát minh ra ánh sáng vĩnh cửu.
Tuy nhiên, chưa ai thành công, ngay cả khi họ sử dụng công nghệ hiện
đại. Với các loại nhiên liệu được biết đến ngày nay, việc chế tạo một
chiếc đèn có thể cháy liên tục trong một ngàn năm là điều không khả thi.
Với các ghi chép về những chiếc đèn “sáng mãi mãi” được phát hiện
trên khắp thế giới như vậy, có lẽ xác nhận được rằng những chiếc đèn bí
ẩn này thực sự có tồn tại. Tuy nhiên, việc chế tạo và sử dụng chúng vẫn
còn là một ẩn số với nhân loại và giới khoa học.
Nghiên cứu mới dẫn đầu bởi giáo sư khoa học địa chất Bradley
Singer từ Đại học Wisconsin-Madison (Mỹ) đã khám phá ra thời kỳ dài hết
sức đặc biệt trong lịch sử nhân loại, khi trái đất đảo ngược cực từ lần
cuối cùng. Công trình bắt nguồn từ những khám phá tận năm 1993, khi giáo
sư Singer và các cộng sự nghiên cứu một núi lửa ở Chile và phát hiện
những dòng dung nham cổ xưa bất thường.
Quá trình phân tích cho thấy những dòng dung nham kỳ lạ là bằng chứng
về một lần trái đất đảo ngược 2 cực từ. Đó là một quá trình khó khăn và
chậm chạm, kéo dài tới 22.000 năm chứ không phải 1.000 hay 10.000 năm
như giả thuyết trước đây.
Trái đất từ từ đảo ngược cực từ trong một giai đoạn kéo dài suốt 22.000 năm - ảnh: SPACE
Đảo ngược cực từ là quá trình xảy ra khi các phân tử sắt ở lõi ngoài
trái đất (một lớp vật chất lỏng bao quanh lõi trong ở trạng thái rắn)
bắt đầu di chuyển theo hướng ngược lại với các phân tử sắt khác xung
quanh chúng. Khi "đội quân" ngược dòng này tăng lên, các phân tử này đã
tác động mạnh mẽ đến từ trường từ lõi trái đất, làm 2 cực từ của hành
tinh dần đảo chiều.
Trong 22.000 năm trái đất đảo ngược, từ trường trái đất – vốn là lớp
lá chắn bảo vệ hành tinh khỏi nhiệt lượng và bức xạ từ mặt trời – đã bị
suy yếu, khiến cuộc sống của các sinh vật trở nên khó khăn hơn rất
nhiều, bao gồm tổ tiên của chúng ta. Ước tính, lần đảo ngược cực từ cuối
cùng của trái đất xảy ra vào khoảng 773.000 về trước.
Vào thời điểm đó, loài Homo Sapiens (người tinh khôn hay người hiện
đại, chính là chúng ta), đại diện duy nhất của chi người còn tồn tại cho
đến ngày nay, chưa xuất hiện. Tuy nhiên những vị tổ tiên thuộc các loài
đã tuyệt chủng của chi Người đã ra đời và sinh sống ở "cái nôi" Châu
Phi hàng triệu năm trước đó.
Bình luận về công trình, giáo sư địa vật lý John Tarduno từ Đại học
Rochester (Mỹ), người không tham gia nghiên cứu, nói: "Hiệu ứng thực tế
của điều đó vẫn còn gây tranh cãi, và chúng không bi thảm hay cực đoan
như nhiều người đã dự đoán".
Đã có những nghiên cứu cho thấy trái đất đã đảo ngược cực từ nhiều
lần trong 2,5 triệu năm nay, và lần đảo ngược tiếp theo sẽ sớm đến trong
vài ngàn năm nữa. Nhiều người e sợ đó có thể là tận thế với loài người.
Nhưng theo những dữ liệu mới này, lần đảo ngược cuối cùng không hề gây
tận thế.
Tác giả Singer cho rằng các hiệu ứng có thể xảy ra khi trái đất đảo
cực là sự đột biến gene, stress cho một số loài động thực vật, trong đó
mội số loài có thể tuyệt chủng do không thích nghi được với sự gia tăng
của tia cực tím có hại của mặt trời.
Rất may, tổ tiên thuộc chi Người đã vượt qua giai đoạn khó khăn, tiếp
tục sinh sôi và tiến hóa thành nhiều loài mới, trong đó có chúng ta.
Trong bối cảnh ngày nay, sự đảo ngược cực từ còn có thể làm hỏng hóc
nhiều hệ thống thông tin liên lạc. Vừa qua, các nhà khoa học cũng phát
hiện sự thay đổi nhẹ của cực Bắc trái đất: từ khu vực Bắc Canada, Bắc
Cực ngày nay đã "chạy" sang vị trí của Siberia (Nga).
Người đẹp và Xe ▶ TOP Siêu xe bên giàn Chân dài tại Auto Expo 2018
Irene đẹp xuất sắc trong tạo hình mỹ nữ cổ trang Hoa ngữ
26/02/2020, 16:00 GMT+07:00
Nhan sắc thường ngày đã xinh đẹp rồi
nhưng khi hóa thân thành mỹ nữ cổ trang, Irene lại càng khiến người ta
mê mẩn hơn bao giờ hết.
Nổi tiếng là nữ
idol có vẻ ngoài xinh đẹp “vạn người mê”, Irene dù diện phong cách nào
cũng khiến dân tình đổ gục. Tuy nhiên, sẽ thật lạ lẫm nếu thành viên của
RED VELVET diện đồ cổ trang Hoa ngữ, ví như những bộ trang phục đời Thanh của màn ảnh xứ Trung.
Được biết, những hình ảnh của Irene
hóa thân thành mỹ nhân cổ trang Hoa ngữ xuất hiện trên mạng xã hội xứ
Trung gần đây. Dĩ nhiên, “nữ thần nhà SM” vẫn xinh đẹp xuất sắc khi diện
những bộ trang phục này, song sự thật chắc chắn sẽ khiến người hâm mộ
phải... bất ngờ.
Irene ngày thường đã rất xinh đẹp rồi. (Ảnh: Pinterest).
Irene hóa mỹ nữ cổ trang Hoa ngữ?
Trên mạng xã hội xứ Trung gần đây đăng tải
khá nhiều hình ảnh của Irene diện đồ cổ trang. Cô nàng không chỉ hóa
thân thành mỹ nữ đời nhà Thanh mà còn diện khá nhiều bộ trang phục thuộc
các thời đại xưa khác nhau.
Irene đẹp xuất sắc trong tạo hình mỹ nữ cổ trang Hoa ngữ
Tạo hình cổ trang khác cũng đẹp không kém. (Ảnh: Weibo).
Hầu hết, trong mỗi tấm hình, Irene đều thể
hiện được nhan sắc lẫn khí chất thanh cao ngút ngàn của mình. Cô đẹp
trong mọi bức ảnh, mọi tấm hình và đương nhiên dân mạng không ngớt lời
khen ngợi thành viên của RED VELVET. Dù vậy, không ít netizen tỏ ý nghi
ngờ khi bỗng dưng xuất hiện loạt ảnh Irene diện đồ cổ trang Hoa ngữ và
họ bắt đầu tìm hiểu sự thật.
Irene xinh đẹp trong tạo hình cổ trang. (Ảnh: Weibo).
Việc bỗng dưng xuất hiện loạt hình Irene
diện đồ cổ trang Hoa ngữ đã khiến dân tình “đứng ngồi không yên”. Ai
cũng khen cô nàng xinh đẹp cả nhưng thực tế vẫn hoài nghi về độ chân
thực của những tấm hình. Sau một hồi lần mò, fan cũng phát hiện ra đây
chỉ là ảnh ghép được dân mạng làm ra bởi... Photoshop.
Thật ra đây chỉ là ảnh Photoshop mà thôi. (Ảnh: Weibo).
Mặc dù là ảnh ghép thôi, song nhìn qua
cũng khá thật và mượt mà đấy. Nếu không để ý kỹ, có lẽ sẽ chẳng ai biết
sự thật đâu mà còn nghĩ Irene sắp đi đóng phim cổ trang Hoa ngữ đấy chứ.
Hóa thân thành tân nương cũng đẹp lắm chứ. (Ảnh: Weibo).
Dẫu biết là ảnh ghép, song nhan sắc của
“nữ thần nhà SM” vẫn xứng đáng được fan gửi lời khen ngợi. Không chỉ
khen đẹp, Irene còn được netizen nhận định là có khí chất để hóa thân
thành mỹ nhân cổ trang Hoa ngữ, thậm chí có người còn mong chờ cô nàng
sẽ nhận được lời mời đóng phim từ các nhà sản xuất xứ Trung. Cùng xem
qua một vài bình luận của cư dân mạng nhé:
Nhan sắc của Irene đúng là không thể đùa được. (Ảnh: Weibo).
- “Ôi xinh quá đi mất, nhìn muốn mê đi được ấy”.
- “Thật sự quá hợp với tạo hình cổ trang luôn, này mà đóng phim cung đấu của Trung Quốc là xuất sắc”.
- “Khí chất cổ trang ngút ngàn thế kia mà không được mời đi đóng phim Trung đúng uổng”.
- “Hiện đại đẹp, cổ trang đẹp, Irene à chị bảo em phải làm sao đây”.
- “Xuất sắc, vừa thanh cao, kiều diễm lại mê mẩn người nhìn. Đúng là nữ thần nhà SM quả không phải hư danh mà”.
Đúng là người đẹp thì ảnh ghép cũng đẹp, phải không nào? (Ảnh: Weibo).
Sở hữu vẻ ngoài xinh đẹp, khí chất ngút
ngàn, Irene lại một lần nữa khiến dân tình phải đổ gục khi hóa thân
thành “mỹ nữ cổ trang Hoa ngữ”. Dù chỉ là ảnh ghép thôi, song điều này
cũng chẳng làm Irene bớt xinh, phải không nào?
Cùng đón đọc những tin tức ngôi sao mới nhất từ YAN nhé!
IRENE - MỸ NHÂN NHÀ SM CHỈ MỘT CÁI LIẾC MẮT CŨNG KHIẾN DÂN TÌNH ĐỔ ĐỨ ĐỪ
Sinh năm 1991, tưởng như Irene sẽ thua
thiệt hơn về ngoại hình do cô là thành viên lớn tuổi nhất của RED
VELVET, thế nhưng sự thật lại chẳng phải vậy.
Irene gần như là visual xuất sắc của nhóm
khi liên tiếp khiến người hâm mộ mê mệt bởi vẻ ngoài xinh đẹp, vô cùng
cuốn hút của mình.
Trong một vài khoảnh khắc trên sân khấu
thôi, với cái liếc mắt của mình, Irene cũng đủ làm fan Kpop đổ rạp vì vẻ
ngoài quá xuất sắc.
Bởi thế mà Irene không chỉ được khen ngợi
xinh đẹp mà còn được mệnh danh là “nữ thần nhà SM”, cho thấy vẻ đẹp của
cô đã vượt qua rất nhiều nữ idol cùng công ty, thậm chí là trong làng
giải trí Kpop.
Phụ nữ Nhật Bản ngày nay thoải mái hơn trong chuyện ăn mặc. Mori là một ví dụ.
Theo
news.ltn, đài truyền hình Fuji TV từng có chương trình khá thú vị là
phỏng vấn ngẫu hứng người đi đường về trang phục phóng khoáng mùa hè của
phụ nữ và họ nghĩ sao về việc phụ nữ mặc áo nhưng thấp thoáng lộ đồ
lót. Nhiều người tỏ ra e ngại khi trả lời. Nhất là cánh đàn ông, có
người nói xấu hổ khi thấy phụ nữ để lộ áo lót. Họ cũng không dám nhìn vì
sợ bị nghĩ là kẻ biến thái.
Ngược lại, câu trả lời của một cô
gái trẻ đã khiến cộng đồng mạng bất ngờ và gây nhiều tranh cãi. Đó
là Mori (nghề nghiệp huấn luyện viên thể hình). Mori nói: "Tôi có khuôn
ngực nhỏ, không có gì đẹp để nhìn nhưng nhìn thì cũng không sao. Tôi cảm
thấy nếu mặc lộ áo lót nhiều hơn thì thế giới sẽ hòa bình hơn".
Nhiều
ý kiến cho rằng ý kiến của Mori thật hài hước. Trong khi đó, người mẫu
Pan cho hay nếu mặc áo để lộ đồ lót thì thế giới sẽ bị hỗn loạn.
Pan còn gây chú ý khi cởi cúc áo ngay trên phố và nói rằng: "Để lộ đồ lót nhiều hơn sẽ khiến thế giới hỗn loạn mất".
Pan
Jiayi (tên tiếng Anh - Vanessa Pan) là người mẫu thời trang, người mẫu
thể hình kiêm người đẹp cosplay có tiếng ở Nhật Bản. Cô sở hữu vòng một
đầy đặn nên khá tự tin với câu trả lời trên của mình, khiến cộng đồng
mạng xôn xao. Rất nhiều người gật gù với phát biểu của Pan vì nếu ai
cũng gợi cảm và mặc sexy như Pan thì thật khiến người khác phân tâm.
Chân
dài sinh năm 1991 là người gốc Đài Loan, hoạt động nghệ thuật với nghệ
danh Kazimi nhiều năm nay. Khi 12 tuổi, Pan đã bắt đầu chơi cosplay,
được mệnh danh là "nữ hoàng quyến rũ" trong lĩnh vực này. Đến năm 16
tuổi, cô trở nên nổi tiếng với vai trò người mẫu, được các tạp chí lớn
như Cool Girl, FHM Men Gang và Desire săn đón.
Pan
cũng tự giới thiệu mình là một "grauve idol" ở Nhật - hiểu nôm na là
thần tượng áo tắm. Đây là cụm từ nói về các người mẫu Nhật thường mặc
bikini trên các tạp chí, đặc biệt là tạp chí dành cho nam giới, sách ảnh
hay DVD. Trong hầu hết mọi hoàn cảnh, họ đều mặc đồ bơi hoặc đồ lót
sexy. Ngoài việc chụp photoshot tạp chí là chủ đạo, thần tượng áo tắm
còn thường phát hành sách ảnh chuyên nghiệp của mình cho người hâm mộ.
Nhờ
ngoại hình nóng bỏng, các trang mạng xã hội của Pan hiện nay thu hút
khoảng 400.000 lượt theo dõi. Ngoài ra, cô còn sở hữu kênh Youtube
riêng, thực hiện các clip hướng dẫn phối đồ, chuyện ăn mặc, chụp hình và
tập luyện thể dục thể thao. Những hoạt động này đều rất sôi nổi và thu
hút fan.
-Trong tình trạng chiến tranh đầy chết chóc và tan hoang, bản chất sống của loài người trở nên cực hạn về mọi phía: +Yêu thương vô vàn mà cũng hận thù vô song +Thông minh trí tuệ bao nhiêu thì cũng ngu ngốc, mù quáng bấy nhiêu. +Tuyệt đỉnh dũng cảm thì cũng tột cùng hèn nhát. +Vừa là thánh thần vừa là quỉ dữ. ... -Chiến
tranh mang bộ mặt gớm ghiếc, tởm lợm đến khủng khiếp, không thể tả được,
dù bôi son trát phấn như thế nào, tung hô ra sao. -Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người. -Chiến
tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy
diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính
nghĩa là chiến tranh nảy sinh từ việc giải phóng hoặc chống chiến tranh phi nghĩa, được
hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?). -Tóm
lại, bộ mặt thật của chiến tranh nhìn từ mọi phía nói chung là độc ác,
thiểu năng trí tuệ đến ngỡ ngàng của con người khôn ngoan, có lý trí. -Ngày
chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng
sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ
tướng Võ Văn Kiệt, người cộng sản có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói,
đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn. -Lão
Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại
nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang
lễ mà xử". -Giống
như bóng tối không thể làm tiêu tan bóng tối, thì hận thù không thể xoa
dịu được hận thù, và chiến tranh không thể xóa bỏ được chiến tranh. -Chỉ
có sự thấu hiểu ý nghĩa thiêng liêng của cuộc sống, sự thấu hiểu về
tính bất hạnh, vô nghĩa tột cùng của cái chết và sự cảm thông, yêu
thương sâu sắc đồng loại mới có thể ngăn chặn được chiến tranh! -Một khi còn tình cảm dân tộc hẹp hòi, lòng tham vị kỷ và cái tâm hận thù của con người, thì vẫn còn chiến tranh.
Michael Jackson - Earth Song | Immortal Version
-------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nhìn Lại Cuộc Chiến Đẫm Máu Nhất Giữa TRIỀU TIÊN Và MỸ Khiến Cả Châu Á Hoảng Loạn
Những Cuộc Chiến ‘Tranh Đoạt Tình Yêu’ Kinh Hoàng Nhất Lịch Sử Tưởng Chỉ Có Trong Thần Thoại
Chiến tranh là một cuộc chiến bởi một quốc gia hoặc một nhóm các quốc
gia chống lại một quốc gia khác nhằm đạt được một mục tiêu nào đó thông qua
việc sử dụng vũ lực. Các cuộc chiến tranh cũng có thể diễn ra trong một quốc
gia dưới dạng nội chiến hoặc cách mạng.
Theo Từ điển Anh ngữ Oxford, “Chiên
tranh” được định nghĩa là:
1. Một trạng thái mẫu thuẫn có mục
đích dữa các quốc gia khác nhau hoặc các nhóm khác nhau trong một quốc gia.
2. Một trạng thái cạnh tranh hoặc
chống đối giữa những người hoặc những nhóm khác nhau.
3. Một chiến dịch được duy trì
liên tục chống lại một tình huống hay một hành động không mong muốn.
Chiến tranh là một phần của lịch
sử loài người hàng ngàn năm nay, và sự tàn phá của nó ngày càng nặng nề bởi
công nghiệp hóa và công nghệ ngày càng tiên tiến.
Điều gì đã gây nên những mâu thuẫn?
Hiếm khi chỉ có một nguyên nhân
duy nhất, rõ ràng gây ra mâu thuẫn, và cuối cùng là chiến tranh. Một cuộc chiến
tranh thường do hàng tá điều gây ra, và các nguyên nhân có thể liên quan đến nhau một cách chằng chịt và phức tạp.
Rất nhiều lý thuyết đã được đưa
ra qua nhiều năm để giải thích nguyên nhân tại sao chiến tranh lại diễn ra.
Trong bài báo bên dưới, tôi sẽ
cung cấp một cái nhìn tổng thể về tám nguyên nhân chính gây ra chiến tranh.
Tám nguyên nhân chính gây ra chiến tranh
1. Lợi ích kinh tế
2. Lợi ích lãnh thổ
3. Tôn giáo
4. Chủ nghĩa dân tộc
5. Sự trả thù
6. Nội chiến
7. Cách mạng
8. Cuộc chiến phòng thủ
Hãy tiếp tục đọc thêm các thông
tin về mỗi nguyên nhân của chiến tranh
1. Lợi ích kinh tế
Thông thường các cuộc
chiến tranh gây nên bởi một quốc gia mong muốn kiểm soát sự giàu có của
quốc gia khác.
Bất kể những nguyên nhân khác là gì, vẫn luôn có một động lực về kinh tế
nằm ẩn
sâu dưới hầu hết các mâu thuẫn, thậm chí nếu mục tiêu của chiến tranh
của các quốc gia thường được truyền bá là nhầm mục đích cao thượng.
Trong thời kỳ tiền công nghiệp
hóa, những thèm khát của một quốc gia gây chiến có lẽ là những nguyên liệu quý
hiếm như vàng và bạc, hay những vật nuôi như gia súc và ngựa.
Trong thời hiện đại, những nguồn
được mong đợi kiếm được từ chiến tranh chính là dầu mỏ, khoáng sản hay nguyên
liệu dùng cho sản xuất.
Một vài nhà khoa học tin rằng khi
dân số thế giới tăng lên và nguồn cung căn bản trở nên thiếu hụt, các cuộc
chiến ra tranh giành những nhu cầu thiết yếu, như là thức ăn và nước uống, sẽ
nổ ra nhiều hơn.
Ví dụ trong lịch sử về các cuộc chiến tranh giành lợi ích kinh tế
• Các cuộc Chiến tranh Anh-Ấn (1766-1849)
– Các cuộc Chiến tranh Anh-Ấn là một chuỗi những cuộc chiến diễn ra giữa Cộng
đồng người Anh ở Đông Ấn và những vùng lãnh thổ khác nhau của Ấn Độ. Những cuộc
chiến tranh này đã dẫn đến việc thiết lập sự thống trị của thực dân Anh ở Ấn
Độ, khiến cho người Anh không bị hạn chế tiếp cận các nguồn tài nguyên kỳ lạ và
có giá trị ở lục địa Ấn Độ.
• Chiến tranh Phần
Lan-Liên Xô
hay “Cuộc chiến mùa đông” (1939-1940) – Stalin và đội quân Liên Xô muốn
khai thác Niken và Phần Lan, nhưng khi người Phần Lan từ chối, Liên Xô
đã
tiến hành cuộc chiến tranh trên đất nước này.
2. Lợi ích lãnh thổ
Một quốc gia có lẽ quyết định
rằng nó cần nhiều đất đai hơn, để làm nơi sinh sống, sử dụng cho nông nghiệp,
hoặc dành cho những mục đích khác. Lãnh thổ có thể được sử dụng như “vùng đệm”
giữa hai bên địch thủ.
Liên quan đến những vùng đệm đó
là các cuộc chiến ủy nhiệm. Đây là những xung đột được đấu tranh gián tiếp giữa
các cường quốc đối lập ở một nước thứ ba. Mỗi cường quốc hỗ trợ phe phù hợp
nhất với lợi ích hậu cần, quân sự và kinh tế của họ.
Các cuộc chiên tranh ủy nhiệm đặc
biệt phổ biến trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Ví dụ trong lịch sử về các cuộc
chiến tranh vì lợi ích lãnh thổ
• Chiến tranh Mỹ-Mexico
(1846-1848) - Cuộc chiến này đã diễn ra sau sự sáp nhập Texas, về phía Mexico
vẫn tuyên bố vùng đất này là của riêng họ. Hoa Kỳ đã đánh bại người Mexico, giữ
lại Texas và sáp nhập nó như một tiểu bang.
• Chiến tranh Serbo-Bulgaria
(1885-1886) - Bulgaria và Serbia đã chiến đấu tại một thị trấn biên giới nhỏ
sau khi dòng sông tạo ra biên giới giữa các quốc gia dịch chuyển.
• Chiến tranh Ả Rập-Israel hoặc
"Chiến tranh sáu ngày" (1967-1988) - Các lực lượng Israel đã chiếm
các lãnh thổ của Bờ Tây, bao gồm Đông Jerusalem, từ Jordan.
3. Tôn giáo
Xung đột tôn giáo thường có nguồn
gốc rất sâu xa. Chúng có thể âm ỉ trong nhiều thập kỷ, chỉ để nổ ra trong vài năm với hậu quả khôn lường.
Các cuộc chiến tôn giáo thường có
thể được gắn liền với các lý do khác để gây nên xung đột, chẳng hạn như chủ
nghĩa dân tộc hoặc trả thù cho sự nhận thức lịch sử trong quá khứ.
Mặc dù các tôn giáo khác nhau
chiến đấu với nhau có thể là nguyên nhân của chiến tranh, nhưng các giáo phái
khác nhau trong một tôn giáo (ví dụ, Tin lành và Công giáo, hoặc Sunni và
Shiite) chiến đấu với nhau cũng có thể gây ra chiến tranh.
Ví dụ trong lịch sử về các cuộc
chiến tranh vì tôn giáo
• Thập tự chinh (1095-1291) -
Thập tự chinh là một loạt các cuộc chiến tranh bị Giáo hội Latinh trừng phạt
trong thời trung cổ. Mục đích của quân thập tự chinh là trục xuất Hồi giáo và
truyền bá Kitô giáo.
• Chiến tranh ba mươi năm
(1618-1648) - Khi Hoàng đế La Mã Ferdinand II cố gắng áp đặt Công giáo La Mã
lên những người thuộc lãnh địa của mình, một phe Tin lành từ phía Bắc đã cùng
nhau gây ra chiến tranh.
• Nội chiến Lebanon (1975-1990) -
Nội chiến Lebanon chủ yếu bắt nguồn từ các cuộc xung đột giữa người Hồi giáo
Sunni, Hồi giáo Shiite và Kitô giáo Lebanon.
• Chiến tranh Nam Tư (1991-1995)
- Chiến tranh Nam Tư bao gồm Chiến tranh Croatia và Chiến tranh Bosnia. Các
cuộc chiến đã diễn ra giữa cộng đồng Công giáo chính thống và Hồi giáo ở Nam Tư
cũ.
• Nội chiến Sudan lần thứ hai
(1983-2005) - Cuộc chiến tranh tôn giáo này bị gây ra bởi sự lựa chọn của chính
quyền trung ương Hồi giáo để áp đặt luật sharia đối với người miền Nam không
theo đạo Hồi.
4. Chủ nghĩa dân tộc
Chủ nghĩa dân tộc trong bối cảnh
này về cơ bản có nghĩa là cố gắng chứng minh rằng đất nước của bạn vượt trội so
với quốc gia khác bằng sự khuất phục bạo lực. Điều này thường biểu hiện bằng hình thức của
một cuộc xâm lược.
Tiến sĩ Richard Ned Lebow, Giáo
sư Lý thuyết Chính trị Quốc tế tại Khoa Nghiên cứu Chiến tranh, Đại học King,
cho rằng trong khi các nguyên nhân khác của chiến tranh có thể có trong đó, nhưng
chủ nghĩa dân tộc hoặc tinh thần dân tộc, gần như luôn luôn là một yếu tố.
Trong bài tiểu luận "Hầu hết các cuộc chiến không xảy ra vì lý do an ninh
hoặc lợi ích vật chất, mà thay vào đó phản ánh tinh thần của một quốc
gia", ông viết:
"[Văn học về chiến tranh và
nguyên nhân của nó] cho rằng an ninh là động lực chính của các quốc gia và sự
không an toàn là nguyên nhân chính của chiến tranh. Sau Plato và Aristotle, tôi
thừa nhận tinh thần dân tộc, lòng hàm muốn và lý trí là những động lực cơ bản
với những mục tiêu riêng biệt. Có chút nghi ngờ rằng tinh thần dân tộc là
nguyên nhân chính của chiến tranh trong nhiều thế kỷ. "
Liên quan đến chủ nghĩa dân tộc
là chủ nghĩa đế quốc, được xây dựng trên ý tưởng chinh phục các quốc gia khác
là vinh quang và mang lại danh dự và sự quý trọng cho người chinh phục.
Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc
cũng có thể được liên kết với chủ nghĩa dân tộc, như có thể thấy ở Hitler của
Đức. Adolf Hitler đã gây chiến với Nga một phần vì người Nga (và người Đông Âu
nói chung) được coi là người Slav, hoặc một nhóm người mà Đức quốc xã tin là
một chủng tộc thấp kém.
Ví dụ trong lịch sử về các cuộc chiến tranh vì chủ nghĩa dân tộc
• Chiến tranh Chichimeca
(1550-1590) - Chiến tranh Chichimeca là một trong nhiều cuộc chiến tranh trong
cuộc chinh phạt của Tây Ban Nha đối với nền văn minh Aztec ở Mexico ngày nay.
• Chiến tranh thế giới thứ nhất
(1914-1918) - Lòng trung thành và lòng yêu nước cực độ đã khiến nhiều quốc gia
tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Nhiều người châu Âu trước
chiến tranh tin vào uy quyền tối cao về văn hóa, kinh tế và quân sự của quốc
gia họ.
5. Chiến tranh trả thù
Tìm cách trừng phạt, giải quyết sự
bất bình, hoặc đơn giản là đánh trả lại sự xem thường có thể là một yếu tố
trong việc tiến hành chiến tranh. Sự trả thù cũng liên quan đến chủ nghĩa dân
tộc, vì người dân của một quốc gia đã bị thúc đẩy một cách sai lầm phản kháng
lại bởi niềm tự hào và tinh thần dân tộc.
Thật không may, điều này có thể
dẫn đến một chuỗi các cuộc chiến trả đũa bất tận rất khó để dừng lại.
Trong lịch sử, sự trả thù là một
yếu tố trong nhiều cuộc chiến ở châu Âu,
Ví dụ trong lịch sử về các cuộc chiến tranh để trả thù
• Chiến tranh thế giới thứ hai
(1939-1945) - Sự trỗi dậy của Đảng Xã hội Đức Quốc xã và sự thống trị cuối cùng
của Đức đối với lục địa châu Âu là kết quả trực tiếp của Hiệp ước Versailles,
áp đặt các hình phạt nghiêm khắc đối với Đức.
• Chiến tranh chống khủng bố -
Cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 vào Trung tâm Thương mại Thế giới năm 2001 đã
thúc đẩy Tổng thống George W. Bush khởi xướng một cuộc chiến chống khủng bố.
Cuộc chiến toàn cầu này bắt đầu với một cuộc xâm lược Iraq và đang diễn ra.
6. Nội chiến
Điều này thường diễn ra khi có sự
bất đồng nội bộ gay gắt trong một quốc gia. Sự bất đồng có thể là về ai cai
trị, đất nước nên được điều hành như thế nào hay quyền lợi của người dân sẽ ra sao. Những
rạn nứt nội bộ này thường biến thành những kẽ hở dẫn đến xung đột dữ dội giữa
hai hoặc nhiều nhóm đối lập.
Nội chiến cũng có thể được châm
ngòi bởi các nhóm ly khai muốn thành lập quốc gia độc lập của riêng họ, hoặc,
như trong trường hợp Nội chiến Hoa Kỳ, các bang muốn ly khai khỏi một liên minh
lớn hơn.
Ví dụ trong lịch sử về cuộc nội chiến
• Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865) -
Nội chiến Hoa Kỳ đã được chiến đấu bởi Liên bang miền Bắc và Liên minh miền Nam
do hậu quả của cuộc tranh cãi lâu dài về chế độ nô lệ.
• Nội chiến Nga (1917-1923) - Nội
chiến Nga diễn ra ngay sau Cách mạng Nga, với Hồng quân và Bạch vệ ganh đua để
xác định tương lai chính trị của Nga.
• Nội chiến Tây Ban Nha
(1936-1939) - Nội chiến Tây Ban Nha đã diễn ra giữa những người Cộng hòa, những
người trung thành với Chính phủ Đệ nhị Cộng hòa Tây Ban Nha, và những người
theo chủ nghĩa dân tộc, một nhóm bảo thủ chủ yếu là quý tộc do Tướng Francisco
Franco lãnh đạo.
• Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)
- Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến tranh giữa Bắc Triều Tiên, được Trung
Quốc hỗ trợ, và Hàn Quốc, chủ yếu được Hoa Kỳ hỗ trợ.
7. Chiến tranh cách mạng
Điều này xảy ra khi một bộ phận
lớn dân số của một quốc gia nổi dậy chống lại cá nhân hoặc nhóm thống trị đất
nước vì họ không hài lòng với sự lãnh đạo của họ.
Các cuộc cách mạng có
thể bắt đầu
vì nhiều lý do, bao gồm khó khăn kinh tế giữa các bộ phận dân cư nhất
định hoặc
nhận thấy sự bất công do nhóm cầm quyền không thực hiện đúng cam kết.
Các yếu tố khác cũng có thể gây nên chuến tranh cách mạng, chẳng hạn như
các cuộc chiến không được ủng hộ với các quốc gia
khác.
Chiến tranh cách mạng có thể dễ
dàng trở thành cuộc nội chiến.
Ví dụ trong lịch sử về cuộc chiến tranh cách mạng
• Chiến tranh phục hồi Bồ Đào Nha
(1640-1668) - Cuộc cách mạng Bồ Đào Nha chấm dứt sự cai trị 60 năm của Bồ Đào
Nha của Tây Ban Nha.
• Cách mạng Mỹ (1775-1783) - Cách
mạng Hoa Kỳ trao cho 13 thuộc địa Bắc Mỹ độc lập khỏi ách thống trị của Anh và
thành lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
• Cách mạng Pháp (1789-1799) -
Cách mạng Pháp là một trận chiến đại diện cho sự trỗi dậy của giai cấp tư sản
và sự sụp đổ của tầng lớp quý tộc ở Pháp.
• Cách mạng Haiti (1791-1804) -
Cách mạng Haiti là một cuộc nổi dậy nô lệ thành công, thành lập Haiti là nước
cộng hòa tự do cho người da đen đầu tiên.
8. Chiến tranh phòng thủ
Trong thế giới hiện đại, nơi mà
sự xâm lược của quân đội được đặt câu hỏi rộng rãi hơn, các quốc gia thường sẽ
tranh luận rằng họ đang chiến đấu trong khả năng phòng thủ hoàn toàn chống lại
một kẻ xâm lược, hoặc kẻ xâm lược tiềm năng, và do đó, cuộc chiến của họ là chiến tranh "vì chính nghĩa" hay "vì công lý".
Những cuộc chiến phòng thủ này có
thể gây tranh cãi đặc biệt khi chúng được phát động sớm, lập luận chủ yếu là: “Chúng
tôi sẽ tấn công chúng trước khi chúng chắc chắn tấn công chúng tôi”.
Ví dụ trong lịch sử về chiến tranh phòng thủ
• Chiến tranh Lạnh (1947-1991) -
Nhiều cuộc diễn tập trong Chiến tranh Lạnh có thể được coi là phòng thủ hoặc
phòng ngừa. Một ví dụ cụ thể là cuộc xâm lược Vịnh Con Heo thất bại, khi các
lực lượng Hoa Kỳ cố gắng xâm chiếm Cuba để ngăn chặn việc thành lập các đầu đạn
hạt nhân ở đó.
(*) Bản quyền bài dịch thuộc về ToMo. Khi chia sẻ, cần
phải trích dẫn nguồn đầy đủ tên tác giả và nguồn là "Dịch Giả: Nguyễn
Kim Phượng - Nguồn: ToMo: Learn Something New".
Các bài viết trích nguồn không đầy đủ, ví dụ: "Theo ToMo" hoặc khác
đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.
(**) Follow Facebook ToMo: Learn Something New để đọc
các bài dịch song ngữ và cập nhật thông tin bổ ích hàng ngày!
(***)Trở thành Cộng tác viên, Thực tập sinh Part-time
tại ToMo để rèn luyện ngoại ngữ và đóng góp tri thức cho cộng đồng tại: http://bit.ly/ToMo-hiring
Ba máy bay quân sự tệ hại nhất của Liên Xô trong Thế chiến 2
Trung Hiếu |
0
(Ảnh: Sputnik)
Các phi công Liên Xô từng phải nỗ lực xoay sở trong những chiếc
máy bay lạc hậu này để có thể bắn hạ được các đối thủ "hạng ace" của Đức
Quốc xã.
1- “Hải âu” I-153 Máy bay
“Hải âu”, biệt danh của tiêm kích Polikarpov I-153, gia nhập lực lượng
không quân Liên Xô vào năm 1939, ngay trước thềm Thế chiến 2. Máy bay
này thể hiện phong độ tốt trong các trận đánh Khalkhin Gol với quân phát
xít Nhật nhưng lại không là đối thủ của máy bay phát xít Đức khi Đức
tiến hành xâm lược Liên Xô.
Tiêm kích Liên Xô này thua đối thủ
chính của mình là phi cơ Messerschmitt Bf 109 về hầu hết các đặc điểm kỹ
thuật, đặc biệt là về tốc độ (434km/h so với 515km/h). “Hải âu” thậm
chí không thể đuổi theo và đón đánh oanh tạc cơ Đức như là Ju-88 (có tốc
độ là 466km/h).
Phi công Alexander Ryazanov thuộc trung đoàn
không quân Tiêm kích Cận vệ số 10 nhớ lại: “Bạn không thể thoát khỏi
cận chiến, không thể đuổi theo Bf 109. Bạn chỉ có thể cố gắng cơ động và
tự vệ mà thôi”.
Trên 1.300 chiếc I-153 đối mặt với không quân phát xít Đức trên biên giới phía tây của Liên Xô vào mùa hè năm 1941.
Mặc
dù đôi lúc các phi công giàu kinh nghiệm của Liên Xô sử dụng máy bay
“Hải âu” có tính cơ động cao này để gây bất ngờ cho đối phương trên bầu
trời, về sau mục đích của các máy bay tiêm kích này đã được thay đổi và
chúng chủ yếu được sử dụng cho việc tấn công các mục tiêu trên mặt đất,
cũng như hộ tống oanh tạc cơ bay đêm.
Năm 1944, những chiếc phi cơ
I-153 chậm chạp và lỗi thời này không thể tham gia các cuộc tấn công
nhanh chóng của Hồng quân. Được rút khỏi không chiến, các máy bay tham
gia tuần tra và bảo vệ các đoàn tàu hải quân. 2- Tupolev SB
Một
trong những oanh tạc cơ tốt nhất của Liên Xô trong thập niên 1930, máy
bay Tupolev SB (ANT-40) thực sự là vua bầu trời trong Nội chiến Tây Ban
Nha. Với tốc độ 450km/h, máy bay vượt qua tầm với của tiêm kích đối
phương như là Fiat CR.32 (tốc độ 354km/h) của Italy và Heinkel He 51
(tốc độ 338km/h) của Đức.
(Ảnh: Public domain)
Tốc
độ nhanh như vậy cho phép máy bay SB tham gia hoạt động ném bom ban
ngày mà không cần máy bay tiêm kích hộ tống. Thế thượng phong đó chấm
dứt vào mùa xuân năm 1937 khi máy bay Đức siêu nhanh fast Messerschmitt
Bf 109 (tốc độ 520km/h) xuất hiện trên bầu trời Tây Ban Nha.
Bất
chấp thực tế vào năm 1941, máy bay này đã hoàn toàn lỗi thời, đây vẫn
là oanh tạc cơ chủ lực của không quân Liên Xô khi ấy. Khi Đức xâm lăng
Liên Xô, máy bay SB hứng chịu tổn thất lớn khi đối đầu với “bạn cũ” là
Bf 109.
Cuộc
giao tranh chính cuối cùng của SB là trong trận đánh Stalingrad. Sau
năm 1943, các máy bay ném bom này đã được sử dụng chủ yếu làm máy bay
trinh sát cũng như máy bay vận tải cung cấp hàng cho các lực lượng du
kích hay thả các đơn vị phá hoại vào sau chiến tuyến địch.
Khi Đức
sáp nhập Tiệp Khắc vào năm 1939, Đức thu được 32 máy bay SB được người
Séc chế tạo theo giấy phép thành máy bay Avia B.71. Trong Thế chiến 2,
số máy bay này được Đệ tam Đế chế giao cho đồng minh Bulgaria. Hơn 24
chiếc SB đã được người Phần Lan sử dụng để chống lại Liên Xô nhưng chúng
đã bị thu lại trong cuộc Chiến tranh Mùa Đông. 3- “Con lừa” I-16
“Nếu
bạn học lái được một chiếc I-16 thì bạn có thể lái được mọi thứ. Đây là
một máy bay rất “nghiêm khắc” nhưng cơ động cao” – phi công Vladmir
Tikhomirov thuộc Trung đoàn Tiêm kích số 12 nhớ lại.
(Ảnh: Public domain)
Chiếc tiêm kích Liên Xô này không nể nang ai, và đòi hỏi phi công phải có kỹ năng bay thượng hạng.
Chiến
đấu cơ này đã khẳng định được mình trong Nội chiến Tây Ban Nha và trong
trận chiến với quân Nhật ở Viễn Đông. Tuy nhiên, vào năm 1941, máy bay
đã trở nên lỗi thời dù nó đã có một số hiện đại hóa.
Trước khi máy
bay Yak và La đầy uy lực cất cánh lên bầu trời trong vinh quang, chiếc
I-16 được cho là đã giúp răn đe đòn tấn công ồ ạt của Đức
Trên
1.700 “Con lừa” (biệt danh của I-16) đã được bố trí ở khu vực mặt trận
phía Tây của Liên Xô khi Đức mở chiến dịch Barbarossa. I-16 chiếm trên
40% trong tổng số các máy bay tiêm kích của Liên Xô trong khu vực này.
I-16
cơ động hơn đối thủ chính của nó là Bf 109. Nhưng I-16 lại kém đáng kể
về tốc độ và hỏa lực. Các “chú lừa” này chỉ có thể cố gắng cơ động và
yểm hộ lẫn nhau. Cơ hội xuất hiện khi tấn công theo kiểu du kích. Ngày
16/1/1943, một chiếc I-16 bất ngờ từ trong mây lao ra và bắn hạ máy bay
của phi công hạng ace của Đức là Alfred Graslawski./.
-Chế độ Việt nam cộng hòa là chế độ "lộng giả thành chân" thứ thiệt. -Quân tướng VNCH mạo danh là quân tử nhưng thực ra chính danh là ngụy quân tử. Hầu hết tướng lĩnh VNCH đều bắt đầu đường binh nghiệp bằng việc đầu quân cho Thực dân Pháp, phản quốc. Đó là lũ "tướng tiền" chứ không phải "tướng tài". -Việt Cộng sinh ra nhằm giải phóng đất nước, thống nhất giang sơn. VNCH do ngoại bang nhào nặn ra nhằm vì danh lợi mà làm tay sai cho chúng, yêu Tổ Quốc bằng cách cam tâm và cả mù quáng "cõng rắn cắn gà nhà", âm mưu chia cắt giang sơn của giống nòi mình, gieo rắc hận thù Dân Tộc cho chính giống nòi mình.
Không nỗi đau nào bằng nỗi đau "nồi da xáo thịt" Không nỗi buồn nào bằng nỗi buồn chia cắt giang sơn Yêu Tổ Quốc là phải biết thương tận lòng Tổ Quốc Thật bụng khen chê, thà ngây như kẻ thất phu.
---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
"LỘNG GIẢ THÀNH CHÂN"
Thành
ngữ Việt Nam có câu "lộng giả thành chân” có nghĩa là “bỡn quá hóa
thật”. Trước khi tìm hiểu định nghĩa này, tôi và nhiều người thường hiểu
câu thành ngữ này nôm na là, biến cái giá thành cái thật, hay lời nói
dối được nói đi nói lại nhiều lần lâu ngày ngưòi ta sẽ tin là thật.(...)
Tóm Tắt 10 Trận Chạm Trán Lớn Nhất Mà QUÂN GIẢI PHÓNG Thắng VNCH Giúp Mỹ Dần Nhận Ra Cục Diện
Trận đánh và chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam”
98 trang sau nằm trong thể loại này, trên tổng số 98 trang.
Ngay sau khi Mỹ chính thức đưa quân vào miền Nam Việt Nam, theo gót họ xâm lược nước ta là hàng loạt các nước chư hầu đồng minh.
Hàn Quốc là một trong những nước chư hầu của Mỹ
gửi quân sang tham chiến tại đông nhất trong thời kỳ diễn ra chiến
tranh Việt Nam. Số lượng quân lính Hàn Quốc được gửi sang Việt Nam nhiều
thứ hai, chỉ sau Mỹ. Nguồn ảnh: Wiki.
Vào
năm 1961, Tổng thống Hàn Quốc Park Chung-hee đã đề nghị Tổng thống Mỹ
lúc bấy giờ là John F. Kennedy về việc gửi quân Hàn Quốc sang Việt Nam
hỗ trợ Mỹ. Tuy nhiên Kennedy đã từ chối lời đề nghị này vì cho rằng
"thời điểm chưa thích hợp".Tới năm 1964, Tổng thống Lyndon Johnson đã đề
nghị Hàn Quốc nối gót Mỹ đổ quân vào chiến trường Miền Nam Việt Nam. Nguồn ảnh: Webdoc.
Tổng
cộng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam đã có 320.000 lính Hàn Quốc
tham chiến với thời gian thực hiện nghĩa vụ tại Việt Nam tối thiểu 1
năm, quân số lính Hàn Quốc cao nhất tại Việt Nam vào khoảng 50.000 quân
vào năm 1968. Đi theo các đợt hành quân của lính Hàn Quốc là sự tột cùng
của tội ác mà chúng gây ra cho nhân dân miền nam. Nguồn ảnh: Frame.
Tuy
nhiên, chúng cũng đã phải trả giá cho những hành động phi nhân tính của
mình khi có đến 5.099 lính Hàn Quốc thiệt mạng tại Việt Nam, 10.962
người bị thương. Mỹ đã trả cho Hàn Quốc tổng cộng 236 triệu USD (tương
đương với 1,4 tỷ USD ngày nay) bao gồm lương cho binh lính, tiền điều
trị thương tật và tiền tử tuất cho lính Hàn Quốc tham chiến tại Việt
Nam. Nguồn ảnh: Frame.
Ngoài
Hàn Quốc, Úc và New Zealand cũng có gửi quân sang Việt Nam tham chiến
cùng Mỹ trong thời kỳ này. Các cố vấn quân sự Úc đã có mặt tại Việt Nam
từ năm 1962 và những binh lính Úc đầu tiên đặt chân đến nước ta từ năm
1965. Nguồn ảnh: Australia.
New
Zealand cũng nối gót Úc và Mỹ bắt đầu gửi các đơn vị công binh và pháo
binh đầu tiên của mình tới Việt Nam từ năm 1965. Sau này, khi thời kỳ
chiến tranh ở Việt Nam leo thang, phía New Zealand còn gửi cả các đơn vị
đặc nhiệm tinh nhuệ sang tham chiến. Nguồn ảnh: Anzac.
Số
lượng lính Úc đông nhất tại miền Nam Việt Nam được ghi nhận là 7672
người trong khi đó ở phía New Zealand là 552 người. Tổng cộng có khoảng
60.000 lính Úc và 3500 lính New Zealand từng tham chiến trên chiến
trường Việt Nam. Nguồn ảnh: Alpha.
Con
số thương vong của lính Úc là 521 người thiệt mạng và hơn 3000 người bị
thương. Trong khi đó phía New Zealand có 37 lính thiệt mạng và 187 lính
bị thương. Phần lớn các lực lượng Úc và New Zealand đóng quân ở khu vực
Tuy Phước, nay là Bà Rịa - Vũng Tàu. Nguồn ảnh: Alpha.
Một
điều ít ai biết đó là Philippines cũng đã từng gửi lính tới miền Nam
Việt Nam tham chiến. Tổng cộng có khoảng 10.450 lính Philippines đã từng
được gửi tới miền Nam Việt Nam để thực hiện các nhiệm vụ nhân đạo, biểu
diễn nghệ thuật. Nguồn ảnh: Webdoc.
Binh lính Philippines đang xây dựng boong-ke trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Nguồn ảnh: Webdoc.
Binh lính Philippines biểu diễn nghệ thuật ngoài đường phố. Nguồn ảnh: Webdoc.
Quân
đội Thái Lan cũng đã từng gửi quân sang tham chiến tại chiến trường
miền Nam Việt Nam trong những năm từ 1965 tới 1971. Thực tế, quân đội
Thái Lan được cho là có nhiều hoạt động quân sự tại Lào hơn là tại miền
Nam Việt Nam. Nguồn ảnh: Vietnamwar.
Binh lính Quân đội Hoàng gia Thái Lan trong
Chiến tranh Việt Nam. Nguồn ảnh: Pinterest.
Ngoài
các nước kể trên, còn có Đài Loan, Brazil và Canada đã từng gửi quân
lính sang tham chiến trên chiến trường miền Nam Việt Nam với nhiều vai
trò và nhiệm vụ khác nhau. Nguồn ảnh: Wiki.
Nhật Vi
Các Tỉnh Trưởng VNCH Tại Miền Tây Nam Bộ Đã Tử Thủ Ra Sao Trong Ngày Giải Phóng Miền Nam
Chuyện 'tử thủ' sau thời khắc lịch sử 30/4/1975 tại miền Tây Nam Bộ
23:59 29/04/2015
Bản chất hiếu chiến, ngoan cố, chống đối đến giờ phút cuối
cùng của địch bằng việc tiếp tục gây tội ác, bắn giết, đổ máu đối với
đồng bào và chiến sĩ cách mạng ta là một thực tế diễn ra tại miền Tây
Nam Bộ sau thời khắc Tổng thống Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng quân
Giải phóng. Trong số những người con của miền Tây anh dũng đã ngã xuống
sau thời khắc ấy, có đồng chí Trần Văn Trầm – cán bộ Đoàn thanh niên
nhân dân Cách mạng Hồ Chí Minh TP Mỹ Tho (nay là Thành đoàn Mỹ Tho, Tiền
Giang). Người cán bộ kiên trung ấy đã ngã xuống vào lúc 20h30 ngày
30/4/1975 (xin xem bài viết Nước mắt ngày vui thống nhất trên số báo đặc
biệt CAND kỷ niệm 40 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước).
Trung tướng Đinh Văn Cai – Chính ủy Quân khu 9, cho biết, hơn
40 năm trước, Mỹ Tho là trọng điểm của QK8 (nay thuộc QK9). Vào lúc 11
giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Đội biệt động TP và cơ sở mật phát động quần
chúng nổi dậy. Song, đến 16 giờ cùng ngày, cờ giải phóng mới phất phới
tại Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu. Lực lượng chủ lực QK và bộ đội
tỉnh tiếp tục tiến công các mục tiêu mà địch ngoan cố chống cự. Đến 24
giờ cùng ngày, Dinh tỉnh trưởng bị ta đánh chiếm. Và đến 5 giờ sáng
1/5/1975, Mỹ Tho hoàn toàn giải phóng.
Đối với Cần Thơ – nơi được xem là “thủ đô thứ hai” sau Sài Gòn, Thiếu
tướng Hà Nghĩa Lộ - nguyên Giám đốc Công an TP Cần Thơ cho biết, theo
phương án Gavin của Mỹ - ngụy, nếu Sài Gòn thất thủ thì khu vực cuối
cùng phải án giữ là vùng Tây Nam Bộ, lấy Cần Thơ làm trung tâm. Ngày
28/4/1975, bọn tướng tá, nhân viên cao cấp của Mỹ - ngụy tại Tòa lãnh sự
Mỹ tại Cần Thơ, hoang mang cực độ, kéo nhau xuống tàu hải quân chạy ra
biển, trong số này có Đại tá Huỳnh Ngọc Diệp – Tỉnh trưởng. Trung tướng
Nguyễn Khoa Nam – Tư lệnh Quân đoàn 4 và vùng IV chiến thuật, chỉ định
Đại tá Trần Cửu Thiên lên nắm quyền Tỉnh trưởng, kiêm Thị trưởng TP Cần
Thơ. Tướng Nam ra lệnh tử thủ, ban hành lệnh giới nghiêm 24/24 toàn TP,
đồng thời gấp rút điều lực lượng (gồm 4 trung đoàn chủ lực, 1 trung đoàn
bảo an, 2 thiết đoàn xe thiết giáp M113) về giữ tuyến Lộ Vòng Cung,
chống trả quyết liệt các cánh quân của ta, nhằm bảo vệ cơ quan đầu não.
Về phía ta, lúc 15 giờ ngày 30/4/1975, ngay sau khi chiếm được Đài
phát thanh, đã phát đi bản tuyên bố của chính quyền Cách mạng. 18h30
cùng ngày, lực lượng An ninh TP chiếm lĩnh Ty cảnh sát Phong Dinh và Bộ
tổng tham mưu vùng IV chiến thuật, tước vũ khí bắt tại chỗ trên 100 tên
cảnh sát…. Song, tướng Nam vẫn ngoan cố. Khi kiểm tra kế hoạch “tử
thủ”, ông ta mới biết trợ lý thân cận nhất trước khi cùng vợ con “hớt
tay trên” bằng việc lên chiếc máy bay trực thăng dành riêng cho tư lệnh
để bay ra Hạm đội 7 của Mỹ ở ngoài khơi, tháo chạy, đã vứt kế hoạch tử
thủ đó vào sọt rác, không triển khai đi các nơi. Tướng Nam thực sự bị
“sốc” và hoang mang tột độ.
Nhân dân Mỹ Tho nổi dậy giành chính quyền.
Ba ngày sau khi Sài Gòn giải phóng, đài BBC loan tin cả 2 viên tướng
Tư lệnh Vùng IV đều đã… tự sát. Chuẩn tướng, Tư lệnh phó Lê Văn Hưng đã
tự sát trước mặt vợ con và nhiều thuộc cấp chiều tối 30/4/1975. Còn
tướng Nam “tự sát”, BBC dẫn từ một cấp dưới của ông ta xác định điều
này. Sau đó, trong hồi ký của trung úy chính quyền Sài Gòn Lê Văn Danh -
một trong những thuộc cấp có mặt bên “chủ tướng” Nam vào đêm 30/4/1975,
đã tả lại khá tỉ mỉ khoảnh khắc tướng Nam tự sát. Đến sáng sớm
1/5/1975, khi trinh sát của ta vào thì được biết, tướng Nam đã tự sát
bằng khẩu K45.
Tại Chương Thiện (nay là Hậu Giang), Tỉnh trưởng Hồ Ngọc Cẩn và Trung
tá, Trưởng ty cảnh sát Võ Văn Đường vẫn quyết “tử thủ”. Đến 5 giờ sáng
1/5/1975, các trinh sát An ninh ta đã mưu trí bắt sống tên Đường, nhiều
sĩ quan phụ tá đặc biệt và 289 tên cảnh sát; tiến hành đánh chiếm Tòa
hành chính, bắt sống được tên Cẩn.
Nhân dân Rạch Giá (Kiên Giang) chào đón quân giải phóng. Ảnh Tư liệu .
Tại Cà Mau, tên Đại tá, Tỉnh trưởng An Xuyên là Nhan Nhựt Chương chấp
nhận đầu hàng ta lúc 18 giờ ngày 30/4/1975 nhưng tìm cách trì hoãn để
chạy trốn. Lúc đó, bọn địch tại Chi khu Đầm Dơi do tên Thiếu tá quận
trưởng Huỳnh Tuý Viên (33 tuổi) cầm đầu, thay vì đầu hàng tại chỗ, chúng
lại mở đường máu bán sống bán chết kéo hết quân về Cà Mau… Với bản chất
ngoan cố, tàn bạo, trong lúc tháo chạy vào đêm 30/4/1975, bọn Viên đã
bắt mấy chục người dân đi trước dẫn đường làm “bia thịt” cho chúng. Khi
tới Hoà Thành, bọn chúng đã nổ súng khiến 2 chiến sĩ thuộc Tiểu đoàn U
Minh 3 của ta, hy sinh. Chúng đã bắt sống 2 cán bộ của ta dẫn ra tới lộ 4
(nay là QL1) và tên Viên đã trốn thoát (sau đó đã bị ta truy bắt,
tuyên xử tử hình). Cả tiểu đoàn địch như rắn mất đầu, và bị ta bắt hết
vào sáng 1/5/1975.
Tại tỉnh Long Châu Tiền (gồm một số huyện của Đồng Tháp và An Giang
ngày nay), Tiểu khu trưởng Sa Đéc, Tiểu khu trưởng Châu Đốc và một số sỹ
quan Việt Nam Cộng hòa đã tập hợp trên 10.000 lính bảo an từ các nơi
dồn về Tổ Đình ở xã Hòa Hảo, huyện Phú Tân tuyên bố “tử thủ”. Trong hai
ngày 1 và 2/5/1975, chúng ra thông báo đòi lập “khu tự trị” ở Long Xuyên
và Châu Đốc; sau đó, tại huyện Phú Tân. Đến Thông báo thứ 5, chúng đòi
giữ một trung đội bảo an để bảo vệ Tổ Đình. Đêm 2/5, lực lượng ta đến Tổ
Đình, phát động quần chúng nổi dậy cùng LLVT vây ép và sẵn sàng tiêu
diệt các tiểu đoàn bảo an ngoan cố, hỗ trợ quần chúng tín đồ trực tiếp
đấu tranh với TW Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, buộc chúng phải đầu hàng vô
điều kiện. Cuối cùng chúng phải ra Thông báo số 6 kêu gọi binh sĩ nộp
vũ khí, trình diện Cách mạng.
7 giờ ngày 3/5, lực lượng ta vào Tổ Đình, tiếp nhận bàn giao vũ khí
của hơn 8.000 lính bảo an. Trước sự chứng kiến của quần chúng, ta tổ
chức khui 6 hầm vũ khí chôn giấu trong trụ sở Giáo hội.
Sau khi Tổ Đình được giải phóng, một số tàn quân của bảo an tiếp tục
co cụm về Chợ Mới, tập trung tại chùa Tây An, coi đây là nơi tử thủ cuối
cùng. Tỉnh Sa Đéc điều lực lượng đến và phát động quần chúng bao vây,
tiến công làm tan rã đám tàn quân ở chùa Tây An. Ngày 6/5/1975, cờ giải
phóng tung bay trên chùa Tây An, mảnh đất cuối cùng của miền Tây Nam bộ
được hoàn toàn giải phóng.
Thái Bình
Quân Đội VNCH Được Tổ Chức Như Thế Nào – Có Thực Sự Đứng Thứ 4 Thế Giới
Ngày 1-5-1975: Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục tiến công và nổi dậy giành chính quyền
Thứ Sáu, 17/09/2010, 03:27:00
Ngày 30-4 và 1-5-1975, lực lượng ta ở các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục phối hợp quần chúng nhân dân tiến công và
nổi dậy đồng loạt giành chính quyền.
Ðặc biệt, sau khi được tin Sài Gòn đã giải phóng, nhân đà quân địch suy sụp,
hầu hết các huyện, tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long đã tiến hành giải phóng địa
phương mình hết sức mau lẹ.
Trong ngày 30-4, nhân dân và lực lượng vũ trang các tỉnh Cần Thơ, Gò Công, Mỹ
Tho, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Sa Ðéc, Long An kết hợp
tiến công và nổi dậy giải phóng quê hương. Ngày 1-5, các tỉnh còn lại là Chương
Thiện, Cà Mau, Long Xuyên, Châu Ðốc, Kiến Tường, Bến Tre hoàn toàn giải phóng.
Ở đảo Phú Quốc, các chiến sĩ cách mạng bị địch giam giữ cùng với lực lượng
vũ trang nhân dân trên đảo nổi dậy chiếm đảo, giải phóng ngày 30-4.
Tại Cần Thơ, thủ phủ miền Tây, căn cứ của Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 ngụy, Quân
khu 9 sử dụng Sư đoàn 4 lần lượt đánh chiếm sân bay Trà Nóc, Bộ Tư lệnh Sư đoàn
4 không quân ngụy; sau đó tiến vào khu trung tâm thành phố, đánh chiếm các mục
tiêu: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4, các đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân... Cùng lúc
đó, lực lượng vũ trang địa phương và biệt động thành phối hợp quần chúng cách
mạng nổi dậy làm chủ các vị trí quan trọng trong thành phố. Thành phố Cần Thơ
được hoàn toàn giải phóng ngày 30-4-1975.
Cùng ngày tại Trà Vinh, từ nhiều hướng LLVT tỉnh tiến vào thị xã, phối hợp
lực lượng tại chỗ và nhân dân tước vũ khí, bức hàng các tiểu đoàn bảo an 404,
407, truy bắt ác ôn. Ðến trưa, Trà Vinh đã được hoàn toàn giải phóng.
Tại Vĩnh Long, sáng 30-4, các đơn vị vũ trang của khu và của tỉnh đồng loạt
đánh chiếm thị xã theo kế hoạch. Ðịch ngoan cố dùng pháo bắn ngăn chặn và chiến
đấu định tử thủ ở các đồn bốt ven thị xã. Ðến 15 giờ chiều 30-4, lực lượng vũ
trang phối hợp lực lượng chính trị quần chúng chiếm sân bay, diệt đồn phòng vệ
dân sự, buộc các chi khu đầu hàng. Ðến chiều 30-4, Vĩnh Long được giải
phóng.
Tại Sóc Trăng, đêm 29 rạng ngày 30-4, các lực lượng chủ lực và địa phương ta
đồng loạt tiến công vào thị xã Sóc Trăng. Lực lượng vũ trang kết hợp lực lượng
quần chúng nổi dậy chiếm các mục tiêu quan trọng trong thị xã như: cầu An Hòa,
chùa Năm Ông, Ty Cảnh sát, dinh Tỉnh trưởng, khu Hoàng Diệu, trại Lý Thường
Kiệt, sân bay... Ðịch chống trả quyết liệt. Tới 14 giờ ngày 30-4, thị xã và toàn
tỉnh Sóc Trăng được hoàn toàn giải phóng.
Tại Bạc Liêu, do làm tốt công tác binh vận từ trước, sáng 30-4, cán bộ ta cắm
cờ mặt trận lên xe chạy thẳng vào dinh Tỉnh trưởng. Trên các đường phố quần
chúng nhân dân hưởng ứng tập trung trước tòa hành chính buộc đại tá tỉnh trưởng
phải tuyên bố giao chính quyền cho cách mạng lúc 11 giờ 30 phút.
Tại Hà Tiên, 17 giờ 30 -4, LLVT kết hợp quần chúng tiến công và nổi dậy giải
phóng hoàn toàn thị trấn Hà Tiên và thị trấn Kiên Lương.
Tại Long Xuyên, trưa 30-4, lực lượng chính trị vũ trang binh vận tại chỗ sau
khi nghe tin Dương Văn Minh đầu hàng đã cùng đông đảo giáo chức và học sinh
chiếm trường học, trừng trị ác ôn, rồi chiếm đài truyền tin, kho bạc và trận địa
pháo. Sau đó, Trung đoàn 101 của quân khu cấp tốc hành quân chiếm lĩnh thị xã
Long Xuyên, Châu Ðốc và các chi khu Thốt Nốt, Châu Phú, Châu Thành. 8 giờ sáng
1-5, bộ đội ta tiến về giải phóng thị xã Long Xuyên.
Tại Châu Ðốc, sáng 1-5, hai tiểu đoàn của tỉnh và một bộ phận Trung đoàn 101
do khu điều tới, tiến vào thị xã Châu Ðốc, tước khí giới của các đơn vị, các căn
cứ còn lại của địch. Thị xã Châu Ðốc được giải phóng hoàn toàn lúc 8 giờ 30 phút
ngày 1-5-1975.
Tại Cà Mau, đêm 30-4, ta tập trung lực lượng tiến công thị xã, kết hợp lực
lượng quần chúng nổi dậy chiếm các vị trí quan trọng. 5 giờ sáng 1-5, các mũi
tiến công của ta đã vào nội ô thị xã kết hợp phong trào quần chúng nổi dậy giải
phóng thị xã lúc 10 giờ ngày 1-5.
Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và
Bộ Quốc phòng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là
Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử của quân và dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn,
giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất Tổ quốc. Toàn Ðảng, toàn quân và toàn
dân ta đã thực hiện xuất sắc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Dù khó khăn gian
khổ đến mấy nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Ðế quốc Mỹ nhất định
phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Ðồng bào Nam Bắc nhất
định sẽ sum họp một nhà".
Trung Đoàn 56 Tinh Nhuệ Nhất VNCH Tại Sao Thua - Số Phận Của PHẠM VĂN ĐÍNH Sau Khi Hàng QGP
Hình ảnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong mắt lính Mỹ
Nguồn: Carie Uyen Nguyen, “Whose War Was It?”, The New York Times, 18/08/2017. Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Có lẽ chẳng ai bước ra khỏi Chiến tranh Việt Nam với danh tiếng bị
hủy hoại nhiều như Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Từ rất lâu trước
khi chiến tranh kết thúc, các binh sĩ QLVNCH đã trở thành vật tế thần
dễ dàng và luôn sẵn sàng cho những thất bại của Mỹ, một hình mẫu điển
hình trong các nghiên cứu học thuật và văn hóa đại chúng. Chúng ta được
nghe kể rằng họ là bọn hèn nhát bất tài, hay trốn tránh nhiệm vụ, để lại
mọi việc khó khăn cho người Mỹ.
Là một người nghiên cứu Việt Nam tại một trường đại học Mỹ với kho
tài liệu lớn lưu trữ lịch sử qua lời kể (oral history) về thời kỳ Việt
Nam, cả bằng văn bản và băng ghi âm, tôi may mắn có cơ hội đặc biệt để
đào sâu hơn và để minh chứng rằng câu chuyện kể trên là mơ hồ và bất
công. Đây là cơ hội đặc biệt bởi vì tôi không muốn nói rằng lính Mỹ đã
sai – thay vào đó, tôi đã tình cờ tìm được những câu chuyện từ các cựu
binh Mỹ nói về sự can đảm và hiệu quả công việc của những chiến hữu đồng
minh của họ, những người lính Nam Việt Nam.
Tất nhiên, tôi cũng đã gặp nhiều người Mỹ có thái độ tiêu cực về
QLVNCH. Nhưng nhiều người trong số họ là nhân viên hậu tuyến, những
người chưa một lần chiến đấu bên cạnh QLVNCH ở tiền tuyến và, tôi cho
rằng, họ đã rút ra kết luận không chính xác từ những câu chuyện của
người khác mà họ được nghe. Những câu chuyện tiêu cực còn lại thì tập
trung chủ yếu vào khác biệt văn hóa hơn là bất cứ điều gì khác. Có nhiều
hơn một trường hợp người được phỏng vấn đã nói về thói quen của lính
QLVNCH khi cầm tay nhau ra chiến trường. Một chuyên gia phát thanh người
Mỹ từng phục vụ tại Bình Dương hồi năm 1967 đã chẳng thể hiểu được điều
ấy, thậm chí là nhiều năm sau đó: “Việc này đại loại là kỳ lạ đối với
chúng tôi. Tôi chẳng thể nghĩ được gì hơn ngoài việc cho rằng họ là
những người bạn thân, và đó là những gì họ đã làm tại đó, nhưng nó trông
cứ thật kỳ lạ.”
Các cựu binh Mỹ khác thì thấy kỳ lạ khi gia đình của những người lính
VNCH thường theo họ đến trại. Như lời một lính G.I.: “Những binh sĩ này
phần lớn là lính nghĩa vụ. Họ bước ra chiến trường cùng với vợ con trên
đường mòn. Khi chốt dựng vị trí phòng thủ ban đêm, giống như là cả đại
gia đình đều ở đó vậy. Trong nhiều trường hợp, họ chẳng muốn ra ngoài
chiến đấu. Họ chỉ muốn sống sót mà chăm sóc gia đình mình.”
Nhưng trong nghiên cứu của tôi, bên cạnh các đánh giá tiêu cực của
người Mỹ cũng có thể dễ dàng tìm thấy những câu chuyện tích cực, và có
phần cảm thông, về QLVNCH. Chẳng hạn, nhiều cựu binh thực sự thích có
các gia đình QLVNCH ở bên cạnh và ca ngợi việc các bà vợ sẵn sàng mạo
hiểm mạng sống của họ để tìm thực phẩm tươi sống từ các khu làng gần đó,
nấu thành bữa ăn thịnh soạn cho chồng và lính Mỹ. Số khác nhận ra rằng
việc sống cùng các thành viên gia đình có thể là nguồn hỗ trợ tinh thần
vững chắc cho các binh sĩ QLVNCH, như một lời nhắc nhở về mục tiêu chiến
đấu của họ.
Nhìn chung, tôi thấy rằng thái độ tích cực và sự hiểu biết sâu sắc
hơn của người Mỹ đối với các đồng minh QLVNCH của họ thường xuất hiện
sau một thời gian sống chung, cùng làm việc và cùng chiến đấu với nhau,
như trong “kỷ nguyên của những trận đánh lớn”
(era of big battles) vào năm 1967, khi các đơn vị lính Mỹ và lính Nam
Việt Nam chiến đấu sát cánh bên nhau. Sau một ngày chiến đấu khó khăn,
nhiều chàng lính G.I. sẽ ngồi xuống với các đồng nghiệp Việt Nam để kể
về gia đình, lấy từ túi áo những bức hình chụp người thân yêu của mình.
Rồi cũng những người lính G.I. ấy nhận ra rằng: không giống như chuyến
đi chỉ kéo dài 1 năm hoặc 18 tháng của họ, hầu hết các binh sĩ Nam Việt
Nam phải phục vụ một thời gian dài không xác định. Những người đàn ông
địa phương này buộc phải chiến đấu cho đến khi kết thúc chiến tranh, mà
chẳng hề biết rằng ngày chiến tranh kết thúc cũng là ngày họ phải xa
cách gia đình một lần nữa.
Hai bên cũng gắn kết trong cuộc chiến đơn vị nhỏ
tiêu biểu cho phần lớn Chiến tranh Việt Nam. Cứ mỗi câu chuyện về việc
lính trinh sát VNCH vội vàng rút lui sau loạt súng đầu tiên, để người Mỹ
lại một mình trong rừng, thì cũng có một câu chuyện khác, tích cực hơn,
nói về một người lính VNCH cõng theo một cố vấn người Mỹ bị thương trên
cơ thể nhỏ bé của mình đến nơi trú ẩn an toàn. Và cũng có cả những câu
chuyện ở bên còn lại, như khi một cố vấn người Mỹ quyết định phá vỡ mọi
quy tắc để gọi trực thăng Mỹ đến di tản một binh sĩ QLVNCH bị thương
nặng. (Nếu ông chờ trực thăng Nam Việt Nam như đáng ra ông phải làm, thì
mọi chuyện có lẽ sẽ quá muộn.) Hoặc câu chuyện khác về một trung sĩ
lính thủy đánh bộ người Mỹ hồi tưởng lại việc suýt chút nữa phải ra tòa
quân sự vì dám ăn chung với lính VNCH. Với giọng nói run lên vì xúc
động, người này nhớ lại khi ông thách thức cấp trên của mình, “Nếu chúng
ta không bẻ bánh ăn chung với họ, làm sao chúng ta có thể chiến đấu bên
cạnh họ?”
Nếu tình bạn quả thật tồn tại trong chiến đấu, vậy thì những hình ảnh
tiêu cực đến từ đâu? Gác lại định kiến chủng tộc, chúng ta có thể xác
định một nguyên nhân nằm trong mối quan hệ chiến đấu giữa lực lượng Mỹ
và QLVNCH. Người Mỹ giúp nâng cao tinh thần chiến đấu của QLVNCH nhưng
đồng thời đã tạo ra sự phụ thuộc quá mức vào hỗ trợ quân sự của họ. Các
cố vấn Mỹ được giao về các đơn vị QLVNCH là những người duy nhất có thẩm
quyền yêu cầu hỗ trợ chiến thuật trên không khi bị tấn công nặng nề. Vì
vậy, theo thời gian, một số sĩ quan QLVNCH dần trở nên quá phụ thuộc
vào sự vượt trội về công nghệ của các đối tác Mỹ, và một số người Mỹ có
thể đi đến kết luận rằng các sĩ quan của QLVNCH thiếu sức chịu đựng và
tính kiên cường.
Tất nhiên, nhiều đội quân tác chiến của Mỹ chưa bao giờ gặp lính
QLVNCH trên chiến trường, bởi hai bên thường thực hiện các vai trò chiến
lược rất khác nhau: Người Mỹ chỉ huy các hoạt động chiến đấu, trong khi
QLVNCH chịu trách nhiệm về bình định và an ninh lãnh thổ. Dù các nhà
lãnh đạo Mỹ ở Sài Gòn đã cho thành lập các đội huấn luyện cơ động để
hướng dẫn các đơn vị QLVNCH kể từ năm 1967, thời gian họ sống cùng các
đơn vị Nam Việt Nam vẫn rất hạn chế.
Có lẽ nguyên nhân gây chia rẽ và hiểu lầm lớn nhất là chính cuộc
chiến. Binh sĩ cả hai bên đều phải chiến đấu giữa những rối loạn xã hội,
bất ổn chính trị và áp lực quân sự lớn. Cả hai phía đều tự hỏi rằng,
đây là cuộc chiến của ai? Chúng ta đang chiến đấu vì điều gì? Và điều
này thực sự khó cho lính Mỹ, những người luôn bối rối và thường trong
tình trạng mất tinh thần, khiến họ không phân biệt được giữa những người
cộng sản ủng hộ Bắc Việt và những người địa phương đang là ‘đồng minh’
của họ.
Đối với một số người Mỹ, câu trả lời đến một cách dễ dàng và đầy cảm
thông. Họ tin rằng lính VNCH là những người lính tốt, đã chiến đấu hết
sức có thể để bảo vệ mảnh đất của mình. Họ là những đồng minh trong cuộc
chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản toàn cầu. “Tôi sẽ làm điều tương tự
cho đồng bào tôi trên đất Mỹ,” một cựu binh Mỹ nói. Nhưng những người Mỹ
khác lại phẫn nộ với những gì họ cho là một gánh nặng bất công. H.
Norman Schwarzkopf, cựu binh từng chiến đấu ở Việt Nam và sau đó lãnh
đạo liên quân Mỹ và các đồng minh trong Chiến dịch Bão táp Sa mạc, nói:
“Đây là đất nước của họ, là trận chiến của họ. Sau cùng thì họ sẽ phải
gánh vác lấy. Tôi nghĩ ta chỉ nên cung cấp cho họ các kỹ năng, sự tự tin
cùng các thiết bị họ cần và khuyến khích họ chiến đấu. Tuy nhiên, ngay
cả khi lập trường chính thức là chúng ta gửi các lực lượng đến hỗ trợ
Nam Việt Nam chiến đấu, sự thật là ngày càng có nhiều trận chiến được
tiến hành bởi chỉ riêng người Mỹ, thay vì bởi các đơn vị Mỹ và VNCH cùng
chiến đấu cạnh nhau.”
Chúng ta biết rất ít về các cựu binh của chính mình (Mỹ), và lại càng
biết ít hơn về các cựu binh Nam Việt Nam đã chiến đấu bên cạnh họ.
Chúng ta không biết những trải nghiệm hàng ngày của họ là như thế
nào, khi chỉ được trang bị rất ít vũ khí và thường phải chiến đấu ở rìa
ngoài của tuyến phòng thủ, đôi khi vai trò chỉ nhỉnh hơn một chút so với
bia đỡ đạn. Khoảng 254.250 lính miền Nam đã chết trong chiến trận từ
năm 1960 đến 1975, gần gấp năm lần số người Mỹ, ở một đất nước chỉ có 15
triệu dân. Chúng ta đã không nghe thấy những gì họ nghe, không cảm nhận
những gì họ cảm nhận, cũng không thấy những gì họ thấy nơi chiến trường
tuyệt vọng. Ta là ai mà dám phán xét các cựu binh Mỹ trong Chiến tranh
Việt Nam và các đồng minh địa phương của họ, những người họ xem là bạn
bè, là anh em, dù là để lãng mạn hóa hay nạn nhân hóa, ca ngợi hay phỉ
báng họ? Và rồi khi họ nói về những trải nghiệm của mình, liệu chúng ta
có thực sự lắng nghe?
Ngày nay, lòng dũng cảm và sự hy sinh của những người lính VNCH đã
hoàn toàn rơi vào quên lãng – ở Việt Nam, mọi chuyện đã bị xóa sạch bởi
bên thắng cuộc; ở Mỹ, đơn giản là do lịch sử bỏ bê. Một trong số ít nơi
họ được vinh danh là Công viên Tưởng niệm Cựu chiến binh Việt Nam tại
Angel Fire, New Mexico, mà tôi đã đến thăm trong Ngày Tưởng niệm. Bên
cạnh những viên gạch ghi tên một số cựu binh Úc và Đại Hàn, xuất hiện
một vài cái tên người Việt, không phải ai trong số họ cũng có thể đến
nơi an toàn và biến đất Mỹ thành ngôi nhà thứ hai của mình.
Một trong những cái tên đó thuộc về cha tôi. Ông là một lính VNCH,
qua đời khi tôi vừa 14 tuổi. Ngay cả sau cuộc chiến, tôi chưa từng nghe
ông một lần nói xấu người Mỹ, hay phía Cộng sản. Đứng bên cạnh viên gạch
mang tên cha mình, tôi đã khóc, tôi trân trọng nơi duy nhất trên trái
đất này ghi nhận những đóng góp của cha tôi – không phải trong sỉ nhục
và ghét bỏ, mà là trong danh dự và tình yêu. Nơi linh thiêng này không
chỉ ghi nhớ và tôn vinh sự hy sinh của những người phục vụ cho đất nước
của họ dù thuộc phe nào, mà còn kêu gọi hòa giải thực sự và hòa bình lâu
dài.
Nghiên cứu góc nhìn của những người lính Mỹ về lính VNCH, mà một
trong số họ là cha tôi, và lắng nghe những câu chuyện của cựu binh Mỹ đã
giúp tôi thêm mở mang, cũng như hỗ trợ hành trình học tập của tôi. Mối
quan hệ Mỹ – QLVNCH rất phức tạp và là một ví dụ cảm động về trải nghiệm
của con người trong một tình huống cực đoan. Câu chuyện của họ đã bị
lãng quên, bị hiểu lầm, bị đơn giản hóa và chính trị hóa quá lâu. Chúng
ta có thể nghĩ rằng mình hiểu câu chuyện đó, nhưng thật ra ta biết rất
ít về các cựu binh của mình. Chúng ta nên và cần tìm hiểu thêm. Nếu các
cựu binh ấy lên tiếng, chúng ta phải lắng nghe. Carie Uyen Nguyen là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành lịch sử quân sự tại Đại học Texas Tech.
"Lệnh Đầu Hàng Tức Tử 1975" Biệt Động Quân - Quân Lực VNCH, Đại Hội Toàn Quốc lần thứ 56
Những Giờ Phút Cuối Cùng Của VNCH Tại Sài Gòn Trước Ngày GPMN
Mỹ có phạm tội ác chiến tranh ở Việt Nam?
Nguồn: Cody J. Foster, “Did America Commit War Crimes in Vietnam?”, The New York Times, 01/12/2017. Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Ngày 01/12/1967, ngày cuối cùng trong phiên xét xử thứ hai của Tòa án
Tội ác Chiến tranh Quốc tế, các nhà hoạt động chống chiến tranh từ khắp
nơi trên thế giới đã tập trung tại Roskilde, Đan Mạch. Ban bồi thẩm –
còn được gọi là Tòa án Russell theo tên người sáng lập, nhà triết học
Bertrand Russell – đã dành một năm để điều tra hành động can thiệp của
quân đội Mỹ ở Đông Nam Á và lúc này đã sẵn sàng công bố phát hiện của
mình. Các thành viên của phiên tòa nhất trí cho rằng Mỹ “có tội trong
mọi cáo buộc, bao gồm diệt chủng, sử dụng vũ khí bị cấm, ngược đãi và
giết tù nhân, di chuyển tù nhân một cách bạo lực” tại Việt Nam, cũng như
các nước láng giềng Lào và Campuchia.
Russell thường tuyên bố rằng mình đã được truyền cảm hứng từ Tòa án
Nuremberg. Nhưng Tòa án Russell không phải là một cơ quan chính phủ hay
tổ chức hiệp ước; nó không có thẩm quyền pháp lý cũng như phương tiện để
thực thi công lý sau những phát hiện của mình. Nhiệm vụ của nó là nâng
cao nhận thức về tác động của chiến tranh đối với thường dân Việt Nam.
“Tòa án Nuremberg đã yêu cầu và bảo đảm việc trừng phạt các cá nhân,”
Russell tuyên bố trong các phiên xét xử. “Còn Tòa án Tội ác Chiến tranh
Quốc tế kêu gọi các dân tộc trên thế giới, quần chúng, hành động để ngăn
chặn tội ác.”
Nhà triết học Jean-Paul Sartre đã chủ tọa các phiên tòa và giúp thu
hút 23 học giả, nhà khoa học, luật sư, cựu nguyên thủ quốc gia và các
nhà hoạt động hòa bình được quốc tế công nhận, những người mà ý thức đạo
đức đã khiến họ nhận lời mời tham dự. Xuyên suốt hai phiên tòa riêng
biệt, từ ngày 02 đến ngày 10 tháng 05/1967 tại Stockholm, và từ ngày
20/11 đến 01/12/1967 tại Roskilde, các thành viên đã cân nhắc, xem xét
các bằng chứng mà mỗi người tự thu thập trong những chuyến đi thực tế
đến Việt Nam trong khoảng thời gian giữa hai phiên tòa.
Các chuyến đi này cho phép các thành viên ban bồi thẩm đánh giá thiệt
hại mà cuộc chiến đã gây ra cho dân thường và trực tiếp xác minh những
tuyên bố họ được nghe trong phiên tòa đầu tiên. Trong một chuyến đi kiểu
này, nhà hoạt động xã hội Lawrence Daly, nhà báo Tariq Ali và nhà văn
Carol Brightman, đã mang về bằng chứng không thể chối cãi rằng Không
quân Hoa Kỳ đã cố tình ném bom các cơ sở và hạ tầng dân sự, bao gồm bệnh
viện, trường học, nhà thờ và làng mạc.
Các thành viên khác, khi đến vùng nông thôn, đã gặp được nhiều dân
thường đồng ý tới Đan Mạch để phát biểu trước phiên tòa thứ hai. Nhân
chứng đầu tiên, một nông dân Việt Nam 37 tuổi, đã phơi bày phần thân thể
cháy sém của mình trước bồi thẩm đoàn, và giải thích, thông qua một
phiên dịch viên, rằng một chiếc máy bay Mỹ đã thả bom cháy xuống khu
ruộng của gia đình anh ở Quảng Nam khi anh đang cày ruộng.
Anh không chỉ có một mình. Nạn nhân này tiếp nối nạn nhân kia, tất cả
đều mô tả cách các “thẩm vấn viên” Mỹ càn quét khắp làng, tìm kiếm kẻ
thù và tra tấn thường dân để lấy thông tin. Một cựu thẩm vấn viên người
Mỹ, Peter Martinsen, đã xác nhận với tòa án rằng Trường Tình báo Quân
đội đã dạy họ các chiến lược thẩm vấn vi phạm Công ước Geneva. “Thẩm vấn
viên cũng tham gia tra tấn thực tế,” ông nói, trước khi thú nhận rằng
những phương pháp đó đôi khi dẫn đến cái chết của tù binh chiến tranh
Việt Nam. Sau đó, vào năm 1970, các thẩm vấn viên và thường dân Việt Nam
khác đã xác nhận rằng họ đã bị nhấn chìm trong nước, bị sốc điện và bị
đốt. Một số thậm chí còn tiết lộ bị tấn công tình dục thông qua việc đưa
rắn và gậy vào cơ thể. “Thật kinh khủng khi nhớ lại một cuộc thẩm vấn
mà bạn phải đánh đối phương để lấy lời khai, sau đó đánh anh ta vì tức
giận, cuối cùng bạn đánh anh ta chỉ để thỏa mãn sự hưng phấn,” Martinsen
nói thêm.
Những lời khai này cũng tiết lộ rằng Mỹ đã di dời dân thường một cách
thô bạo để cô lập kẻ thù. Ví dụ, chương trình ấp chiến lược đã buộc một
số lượng lớn người dân vào sống trong các ấp/huyện được cách ly, nhằm
bình định làng mạc và ngăn chặn cộng sản xâm nhập nông thôn. Các nhân
chứng cũng khai rằng lính Mỹ đã sát hại bất kỳ ai dám kháng cự và thiêu
rụi các ngôi làng khi họ di dời dân thường Việt Nam. Máy bay ném bom và
pháo binh của Mỹ sau đó sẽ được thống báo làng đã “trống” để có thể
thoải mái bắn phá trước khi bao phủ toàn bộ khu vực bằng chất độc màu da
cam. Chiến thuật kiểu này đã xóa bỏ vô số sinh kế; những người sống sót
chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài việc từ bỏ hy vọng và đưa gia đình
của họ vào sống trong các ấp được chuẩn bị sẵn.
Các thành viên của Toà án Russell cũng lo lắng không kém về việc quân
đội sử dụng vũ khí tối tân trong các khu vực dân thường. Một quả bom
đặc biệt đã khiến họ chú ý, bởi thiết kế của nó chỉ nhằm mục đích gây
thương vong hàng loạt. Chuyên gia vũ khí Jean-Pierre Vigier thuộc Đại
học Paris, đã làm chứng trước tòa rằng cái gọi là bom ổi (guava
bomb) – một loại bom chùm – có thể bắn ra 300 viên bi sắt theo mọi
hướng khi nổ. Loại bom này ít gây thiệt hại cho bê tông và thép, ông
nói; thay vào đó, nó như thể được tạo ra để xé rách da thịt người. “Kết
luận duy nhất của tôi là việc đánh bom dân thường là một chính sách có
chủ ý của Lầu Năm Góc, có lẽ với hy vọng khiến họ gây áp lực buộc chính
phủ phải đầu hàng,” Daly đã kết luận sau khi nghe các lời chứng.
Chỉ trong một thời gian ngắn, những phát hiện của Tòa án Russell đã
giúp tiếp thêm sinh lực cho phong trào phản chiến toàn cầu nhằm gây áp
lực buộc chính quyền Johnson kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Bị ảnh hưởng
bởi những gì họ chứng kiến ở Việt Nam trong thời gian giữa hai phiên
xét xử, hai thành viên của ban bồi thẩm, nhà hoạt động chống chiến tranh
Dave Dellinger và nhà văn Carl Oglesby, đã cộng tác với các nhà hoạt
động phản chiến khác để lên kế hoạch biểu tình hòa bình trên khắp thế
giới vào tháng 10/1967. Tháng đó, hàng ngàn người biểu tình chống chiến
tranh đã đối đầu với quân đội bên ngoài Lầu Năm Góc và trước các đại sứ
quán Mỹ trên khắp Tây Âu, Trung và Nam Mỹ, cũng như khắp châu Á. Chiến
dịch Giải trừ Vũ khí Hạt nhân của Russell và Hội đồng Hòa bình Anh tại
Việt Nam đã tổ chức các cuộc biểu tình ở Washington và bên ngoài số 10
phố Downing ở London. Chiến dịch Đoàn kết với Việt Nam, một tổ chức khác
do Russell tài trợ, đã hợp tác với Tariq Ali để tổ chức tuần hành ở
Quảng trường Trafalgar song song với việc biểu tình trước đại sứ quán
Úc, New Zealand và Mỹ.
Tòa án Russell và các cuộc tuần hành đã không làm kết thúc chiến
tranh, nhưng vẫn giúp thúc đẩy sự phản đối quốc tế đối với chủ nghĩa
thực dân và chủ nghĩa đế quốc: chẳng hạn, những người theo chủ nghĩa dân
tộc Puerto Rico, đang tìm cách giải phóng đất nước của họ khỏi chủ
nghĩa đế quốc Mỹ, coi người Việt là đồng minh tinh thần, ngay cả khi
người Puerto Rico buộc phải đi nghĩa vụ quân sự để chiến đấu nhân danh
Mỹ tại Việt Nam.
Tòa án cũng gây được tiếng vang ở Mỹ. Stokely Carmichael, một thành
viên của ban bồi thẩm, và các nhà lãnh đạo người da đen trẻ tuổi khác đã
tham gia cùng các nhà cách mạng này khi nhận định tội ác chiến tranh
của Mỹ ở Việt Nam chỉ là một sản phẩm khác của bản chất áp bức chủng tộc
của chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Họ lập luận rằng cộng đồng người Mỹ gốc Phi
tồn tại như một thuộc địa trong lòng nước Mỹ bị chi phối bởi hận thù
chủng tộc và bạo lực.
Tội ác chiến tranh được phát hiện bởi Tòa án Russell, cùng với các
chi tiết về Thảm sát Mỹ Lai sau đó, đã hạ thấp uy tín của Mỹ ở nước
ngoài và gây ra một cuộc khủng hoảng bản sắc quốc gia ở trong nước.
Những phát hiện này đã buộc các công dân Mỹ phải thừa nhận cách tiếp cận
“giết bất cứ thứ gì di chuyển” của quân đội Mỹ trong Chiến tranh Việt
Nam. Thế nhưng những sự thừa nhận ấy chẳng tồn tại được lâu; thực tế tội
ác của Mỹ ở Việt Nam đã bị che đậy bởi các tổng thống, chính trị gia và
nhiều nhà lãnh đạo khác đang tìm cách hàn gắn đất nước – ngay cả khi
điều đó có nghĩa là phớt lờ lịch sử – nhằm thúc đẩy một thứ chủ nghĩa
dân tộc ái quốc mới. Những khẩu hiệu tập đoàn được chính phủ ủng hộ như
Chiến dịch “The Pride Is Back” (Niềm tự hào đã quay trở lại) hồi thập
niên 1980 đã thao túng ký ức tập thể bằng cách làm ngơ các tội ác chiến
tranh và vi phạm nhân quyền mà Tòa án Russell đã giúp vạch trần.
Di sản quan trọng nhất của Tòa án Russell là sự xuất hiện của những
“tòa án nhân dân” (people’s tribunals) rất lâu sau khi Chiến tranh Việt
Nam kết thúc. Các tòa án nhân dân, cũng được gọi là các “Tòa án
Russell”, đã điều tra các chế độ độc tài ở Thế giới Thứ ba, đảo chính
Chile năm 1973, xung đột giữa Israel và Palestine và cuộc xung đột ở
Đông Ukraine. Gần đây nhất, Tòa án Thế giới về Iraq đã được mở năm 2003
để buộc tội Mỹ về các tội ác chiến tranh và sự vi phạm Công ước Geneva.
Một lần nữa phiên tòa buộc thế giới phải lắng nghe những câu chuyện mới
về ném bom dân thường và các chiến thuật tra tấn mới của lực lượng vũ
trang Mỹ.
Hy vọng của Russell là các phiên tòa của ông sẽ tạo ra động lực hướng
tới một phong trào hòa bình quốc tế lấy người dân làm trung tâm, một
phong trào đã làm được nhiều hơn ngoài các cuộc biểu tình. Ông cho rằng,
nhân dân – nếu được tổ chức và huy động đúng cách – có thể kiểm soát
được các chính phủ. Đó là một ý tưởng cấp bách ở thời điểm năm 1967 và
ngày nay cũng thế. Cody J. Foster là nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành lịch sử tại Đại học Kentucky. Hình: Simone de Beauvoir và Jean-Paul Sartre (ở giữa)
tham gia một phiên tòa xác định rằng Mỹ đã vi phạm nhân quyền và luật
pháp quốc tế ở Việt Nam.
Tướng Kỳ: "Chống Cộng hải ngoại chỉ là lũ hề"
Chiến tranh Việt Nam qua hồi ức của một lính Mỹ
Nguồn: Marsh Carter, “At Quang Nam, a Raid and a Reckoning”, The New York Times, 24/01/2017. Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Tháng 01/1967, tôi 26 tuổi, là Đại úy Thủy quân lục chiến Mỹ, chỉ huy
một đại đội súng trường 224 người – Đại đội C, Tiểu đoàn I, Trung Đoàn
I, Sư Đoàn I – đóng quân gần Đà Nẵng, gần biên giới với Bắc Việt Nam.
Khi ấy, tôi đã ở đó được bốn tháng và đã dần có kinh nghiệm với các trận
đánh nhỏ. Ở trong một đại đội súng trường – rõ ràng là mũi nhọn trong
lưỡi dao chính sách của Mỹ – không tồn tại nhiều tư duy chiến lược.
Những nhiệm vụ chiến thuật hàng ngày, được thiết kế để giúp chúng tôi
đạt được các mục tiêu quân sự, đã chi phối hoạt động của đại đội.
Cuộc sống hàng ngày chỉ xoay quanh những cuộc tuần tra nhỏ và liên
tục của các nhóm 15 đến 45 người, với nhiệm vụ tìm và diệt hoặc bắt sống
du kích Việt Cộng. Chúng tôi thường lập ra một khu trại có thể được
phòng vệ bởi một phần ba đại đội; những người còn lại sẽ đi tuần tra,
hoặc nếu là mùa gặt, thì đảm bảo an ninh cho nông dân trong làng.
Chúng tôi dùng mũ nồi để lấy nước tắm gội và ăn các suất ăn chiến
trường làm từ đồ hộp, không cần phải nấu hay hâm nóng. Các thực phẩm này
được tăng cường protein; ba bữa ăn chính mỗi ngày cung cấp khoảng 3.500
calo. Cứ vài ngày, xe bọc thép sẽ lại đem đến cho chúng tôi thức ăn,
quần áo sạch và thư tín, cũng như đạn dược, lựu đạn, mìn sát thương, kẽm
gai, túi cát và các phụ tùng thay thế cho vũ khí bị hỏng.
Đại đội chúng tôi chịu trách nhiệm về an ninh ở một huyện rộng khoảng
10 dặm vuông và thực hiện mọi công việc, gồm chăm sóc y tế cho người
dân, hỗ trợ lính địa phương, lực lượng cảnh sát và quân đội thường trực
của Việt Nam (Cộng hòa). Nhưng nhiệm vụ chính của chúng tôi là tìm kiếm
Việt Cộng. Và một trong những chìa khóa cho các hoạt động này là sự di
động: Chúng tôi mang tất cả mọi thứ mình cần trên lưng.
Đầu năm 1967, tôi cảm tưởng rằng chiến tranh đang bước sang một giai
đoạn nguy hiểm mới. Chúng tôi đã gặp những toán lính chiến Bắc Việt đi
theo đường mòn Hồ Chí Minh bắt đầu từ giữa năm 1965, sau khi Tổng thống
Lyndon B. Johnson tuyên bố ông không có kế hoạch xâm lăng miền Bắc. Vậy
nên thách thức của đại đội lại càng nhân lên: Chúng tôi phải đối mặt với
lính du kích Việt Cộng – những người là mối đe dọa đáng kể đối với
thường dân – đồng thời phải sẵn sàng tham gia vào các trận đánh truyền
thống với các đơn vị chính quy Bắc Việt. Mục tiêu của Hồ Chí Minh vẫn
luôn là thống nhất đất nước, và ông cần binh lính chính quy của mình ở
miền Nam chống lại các chiến thuật tấn công của Mỹ và lực lượng Việt Nam
Cộng Hòa.
Leo thang chiến tranh đã trở nên rõ ràng vào giữa tháng 1, khi đại
đội của tôi được giao nhiệm vụ nằm ngoài khu vực hoạt động bình thường
của chúng tôi — đột kích vào một ngôi làng của kẻ thù và là an toàn khu
nơi hơn 100 chỉ huy Việt Cộng dự dịnh sẽ nhóm họp. Vài ngày trước đó,
một giao liên địch đã bị giết trong một cuộc phục kích; các tài liệu của
anh ta cho thấy buổi họp sẽ được tổ chức vào trưa ngày 14/01 tại làng
Ban Lãnh, tỉnh Quảng Nam. Khai thác tình báo một cách nhanh chóng và khả
năng đưa lính vào địa bàn căn cứ của đối phương là hai nguyên tắc của
các chiến dịch chống du kích. Để giết hoặc bắt giữ được nhiều du kích
nhất, chiến dịch này sẽ phải làm cả hai điều đó.
Vì vậy, vào trưa ngày 14/01/1967, 176 thành viên của đại đội đã lên
12 trực thăng và bay đến khu vực được chỉ định. Khoảng 20 phút sau,
chúng tôi đã lọt vào một “điểm nóng”. Toàn bộ trực thăng đều bị bắn khi
chuẩn bị hạ cánh để thả chúng tôi xuống, và vẫn tiếp tục bị bắn cho đến
khi chúng cất cánh trở lại.
Sau đó chúng tôi bắt đầu nhiệm vụ của mình, chiến đấu để tìm đường
vào làng, trong khi máy bay Mỹ tiến hành không kích, xả súng và phun
khói để kiềm chân kẻ thù. Đó là một ngôi làng đã được tăng cường; mỗi
nhà đều có các vị trí chiến đấu và các hầm trú ẩn, và cả làng được bảo
vệ bởi các lũy tre vốn làm hạn chế sự di chuyển của chúng tôi.
Ngay trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương chống Pháp (1946-1954) nơi
này đã được coi là một thành trì của Cộng sản. Khi chúng tôi tấn công và
bắt đầu có thương vong, thì chúng tôi nhận thấy rõ ràng là lực lượng
địch lớn hơn nhiều so với dự đoán; chúng tôi cần nhanh chóng hoàn thành
sứ mệnh rồi rút quân. Tôi vẫn nhớ rõ lúc nhìn về các ngọn núi ở phía tây
nam — tôi biết rằng quân địch có lực lượng yểm trợ ẩn náu trên những
ngọn núi đó, vì chúng nằm ngoài khu vực mà người Mỹ đã đánh dấu để bình
định.
Toàn đại đội đều bị ấn tượng trước mức độ kỷ luật, quyết tâm và sự
hung hãn của kẻ thù. Vài tuần sau, chúng tôi mới biết rằng khu vực này
đã được bảo vệ không chỉ bởi Việt Cộng mà còn bởi các đơn vị lớn thuộc
Quân đội Bắc Việt, khi họ thấy chỉ có 12 trực thăng thả quân xuống, họ
đã bắt đầu tăng viện cho ngôi làng. Chính vào lúc ấy, chương trình huấn
luyện thủy quân lục chiến và lập kế hoạch tiền chiến đấu của chúng tôi
đã phát huy hiệu quả – khi các chỉ huy cấp thấp bị thương, các hạ sĩ và
trung sĩ của họ đã tiếp quản mà không hề nao núng.
Chịu hỏa lực mạnh nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đến được điểm hẹn –
đó là một ngôi chùa, vào khoảng 4 giờ chiều, nhưng lúc đó thì gần như
tất cả các chỉ huy Việt Cộng đều đã sơ tán. Chẳng còn việc nào khác
ngoài tập hợp lại để rút quân. Chúng tôi đã phải hứng chịu nhiều thương
vong trên đường mòn và trong làng, và phải mất thời gian để gom đủ những
người thương vong. Thậm chí đã có lúc, một người trong số chúng tôi đã
phải bò dưới làn đạn của kẻ thù để cứu một người lính khác bị thương.
Cuối cùng, chúng tôi đã giết hơn 50 lính Bắc Việt và bắt giữ một cán
bộ cấp cao. Khi gọi trực thăng đến đón 32 người lính bị thương và 5
người khác đã chết, chúng tôi cần các cuộc không kích để chặn kẻ địch và
để bảo vệ máy bay trực thăng. Chúng tôi biết rằng mình không thể ở lại
qua đêm vì chúng tôi thiếu đạn, và đang không ở trong khu vực mà chúng
tôi có thể được các đơn vị thủy quân lục chiến khác tiếp viện.
Vào thời điểm đó trong cuộc chiến, chúng tôi vẫn tự tin rằng mình có
thể đánh bại lính du kích và các đơn vị quân đội Bắc Việt. Nhưng rõ ràng
là chính phủ miền Nam đã không làm đủ để loại bỏ các nguyên nhân gây ra
nổi dậy, hoặc những điều kiện khiến nhiều người Việt Nam muốn sống dưới
chế độ cộng sản. Sau đó, khi tôi có một thời gian để nghĩ về chiến
lược, một suy nghĩ khó chịu bất ngờ xuất hiện: Chúng ta có thể thắng
trên chiến trường, nhưng liệu chừng đó có đủ để giành chiến thắng trong cuộc chiến?
Tôi tự hào được phục vụ trong lực lượng Thủy quân lục chiến tại Việt
Nam, và tôi tin tưởng vào sứ mạng của mình. Sau này, tôi đã có một sự
nghiệp 35 năm trong lĩnh vực tài chính, bao gồm các vị trí như Giám đốc
Điều hành một công ty thuộc danh sách Fortune 500 và Chủ tịch Hội đồng
quản trị Tập đoàn Giao dịch Chứng khoán New York. Nhưng tôi chưa bao giờ
cảm thấy mình có nhiều trách nhiệm như khi là chỉ huy của 224 lính thủy
quân lục chiến của Đại đội C, những người đã đặt niềm tin của họ vào
khả năng lãnh đạo của tôi và giao phó cho tôi sinh mạng của họ. Marsh Carter tốt nghiệp trường West Point. Ông đã từng làm sĩ
quan Thủy quân Lục chiến hai năm ở Việt Nam. Ông còn là cựu Giám đốc
Điều hành State Street Bank and Trust và cựu Chủ tịch Tập đoàn Giao dịch
Chứng khoán New York (New York Stock Exchange Group) từ năm 2005 đến
năm 2013.
SaiGon Vinh Biet - Ngoc Lan
Khánh Ly | Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên | Trịnh Công Sơn