Sau này con người không chỉ biết sử dụng rượu theo cách tự nhiên mà còn biết cách chưng cất rượu từ các lọai ngũ cốc.
Dù
là làm ra bằng cách nào đi nữa thì rượu ngon là loại rượu phải có đủ
ngũ kì : kỳ vị (vị ngon), kỳ hương (hương thơm), kỳ ảo (gây say), kỳ
linh (hồn của rượu), kì lực (thêm sức mạnh thể chất và tinh thần).
2. Tửu lễ:
Ngày
xưa rượu là chất xúc tác kích thích trí khôn ngoan, lòng dũng cảm, kết
nối con người thành phái, thành đoàn chống lại các thế lực tự nhiên. Còn
ngày nay, rượu đã trở thành một phần tất yếu của cuộc sống con người.
Nó không chỉ là thức uống để giải khát, để tìm cảm giác mạnh mà còn gắn
liền với các nghi lễ, là phương tiện giao tiếp.
Khi có ma chay tang chủ đều dụng tửu để thưa với làng tang sự.
Trong hôn tế, trầu cau rượu là những lễ vật không thể thiếu để dựng vợ gả chồng hoặc nói chuyện sui gia.
Tiệc tùng đình đám không thể không có rượu để nâng ly chúc mừng.
Thề ước nhau hoặc giao tiếp với thánh thần đều cần đến rượu.
Văn hóa ứng xử dần hình thành trong câu “vô tửu bất thành lễ”.
Những
ngày Tết càng không thể vắng rượu. Họ hàng, bè bạn thăm nhau ngày tết
mời nhau li rượu, mấy câu chúc mừng là đủ để đem lại niềm vui cho nhau.
Dù biết rằng “rượu bất khả ép” nhưng chén rượu ngày xuân thì “ép bất khả từ”.
Khi những người đàn ông ngồi lại với nhau, không có gì thích hợp hơn là một chút men say làm bừng khí thế bởi “Nam vô tửu như kì vô phong”.
3. Tửu đạo :
Chưa thấy ai nói đến “tửu đạo” nhưng thường thì uống rượu cũng phải tuân theo đúng “tửu pháp”. “Tửu pháp” được thể hiện trong mấy nguyên tắc sau:
- Rót rượu:
Trong cuộc rượu đãi khách, chủ thường rót mời khách uống trước, chén
rượu ấy gọi là chén thù. Uống xong, khách lại rót rượu đáp lại sự thân
tình chủ dành cho mình, gọi là chén tạc. Chén thù, chén tạc khiến cho
cuộc rượu “tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu” là vậy.
Dân uống rượu thường dùng cụm từ “chiết tửu” (chướt tửu) để gọi sự rót rượu một cách vui vẻ.
- Cụng ly:
Trước khi uống thường cụng ly bởi hành động cụng ly cũng biểu đạt nét
văn hoá. Người nhỏ tuổi không bao giờ đưa chén rượu của mình cao hơn
người đối ẩm mà thường khiêm nhường hạ miệng chén xuống.
Người
xưa lý giải rằng khi uống rượu con người phải huy động cả năm giác quan
đó là: thị giác - mắt nhìn thấy rượu; xúc giác- tay cầm chén rượu, khứu
giác - mũi ngửi mùi rượu, vị giác - lưỡi nếm vị rượu, thính giác - tai
được nghe tiếng cụng ly…
Cụng
ly tạo ra âm thanh làm cho việc uống rượu thêm vui, bạn rượu thêm gần
gũi. Ngày nay, việc cụng li dường như là chưa đủ nên người ta còn hô hào
“một … hai … ba … dzô …” để tăng hiệu ứng âm thanh cho cuộc nhậu.
- Chúc rượu:
Trước khi uống rượu, nhân vật quan trọng trong bàn rượu hoặc chủ xị
thường đứng nói lời chúc, tất cả mọi người cùng đứng giữ ly rượu trong
tay, khi nghe chúc xong mới uống. Nếu một người không thể uống được thì
cũng nên nâng li, làm ra vẻ như mình đang uống để tỏ sự tôn trọng người
chúc rượu. Nâng ly nước lã, nước ngọt thì không được nói lời chúc hoặc
mời người khác.
- Uống rượu :
Uống rượu có thể độc ẩm - uống một mình, đối ẩm - uống hai người, cộng
ẩm - nhiều người cùng uống. Tùy tình huống mà người ta chọn cho mình
cách uống : uống để giải sầu, uống để giao ước thề nguyền, uống để ăn,
uống để bày tỏ tâm tình, uống để bàn chuyện làm ăn …
Uống rượu phải có bạn thâm giao. Điều quan trọng nhất là không quá chén, không ép nhau uống tới cùng.
Nó là chất kết dính cho các quan hệ xã hội, nhất là đối với phái mạnh, người ta mời rượu nhau để thay thế “miếng trầu làm đầu câu chuyện.”
Trong
chuyện uống rượu có cả sự cao quý, sự sang trọng là những lúc uống rượu
có tính chất nghi lễ như tiệc chiêu đãi, bạn bè gặp nhau, lễ, Tết... Và
có cả dung tục khi người ta uống rượu bất kể lúc nào, bất kể ở đâu,
thúc ép nhau uống; hô hào, gào thét ầm ĩ hoặc uống xong rồi rủ nhau làm
“tăng hai …”.
Ngày nay, con người lại bổ sung nhiều “tửu pháp” để ràng buộc bạn rượu như : “vào ba - ra bảy” (nhập bàn uống ba ly – rời bàn trước phải uống bảy ly) …
Để
uống rượu cho đúng và cho đẹp, con người chúng ta cũng cần trí tuệ, tri
thức và nhất là ý thức. Phải ý thức được rằng, uống rượu cũng đòi hỏi
có văn hóa. Chỉ có văn hóa mới làm con người không bị mất mình khi uống
rượu.
4. Tửu hứng :
Rượu
là thú vui, thú chơi của người xưa. Nó còn là nguồn cảm hứng vô tận cho
thi nhân, khơi nguồn những trang thơ bất hủ. Thi hứng thường được bắt
nguồn từ tửu hứng. Trong các cuộc vui có uống rượu, người xưa thường đọc
thơ, bình thơ, nên có thàng ngữ “bầu rượu, túi thơ”.
Cổ
nhân từng viết: “Tửu - nguyệt - phong - hoa vị phẩm đề” (Rượu - trăng -
gió - hoa là những thứ không bút nào tả xiết) trong đó rượu được xếp vị
trí đầu tiên. Đã có bao nhiêu danh sĩ, thi sĩ mê rượu và sành rượu,
mượn rượu làm niềm vui thi phú, ngâm thơ vịnh nguyệt.
Lý
Bạch, nhà thơ lớn Trung Quốc đời Đường cho rằng : “Tự cổ thánh hiền
giai tịch mịch / Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh” (Xưa nay thánh hiền đều yên
lặng / Chỉ người uống rượu là để lại tên tuổi). Có giai thoại cho rằng
Lí Bạch uống rượu say mà nhảy xuống sông ôm trăng :
Trăng còn đó trên dòng Thái Thạch
Mà người thơ Lí Bạch nay đâu ?
Bóng vàng chìm đáy sông sâu
Yêu trăng thơ túi rượu bầu chìm theo (Cung Diễm)
Thi sĩ Tản Đà cũng đắm chìm trong men rượu, rượu càng say, thơ càng ngông:
“Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười”.
Nói
đến uống rượu là phải nhắc đến Lưu Linh người đời Tây Tấn, tính tình
phóng khoáng, nổi tiến về rượu và thơ. Ông yêu rượu đến mức làm bài “Tửu đức tụng” để ca ngợi cái đức của kẻ uống rượu.
5. Tửu tai :
Tản mạn về rượu không thể không nói đến mặt tiêu cực của rượu và việc uống rượu.
Chuyện
xưa kể rằng có người gặp quỉ dữ, quỉ đòi lấy mạng người ấy. Anh ta van
xin tha mạng, qủi đồng ý nếu người chọn một trong ba điều kiện mà quỉ
đưa ra là : uống một bình rượu, về đốt nhà, giết vợ. Sau một hồi suy
nghĩ anh ta chọn điều kiện uống bình rượu, xem như đó là điều nhẹ nhất,
dường như là vô hại. Uống xong quỉ tha cho anh ta về nhà. Khi về nhà
người say quá không còn làm chủ được mình nên đã cãi nhau với vợ. Rồi
nóng giận lên anhta đã đốt nhà và giết vợ, khi tỉnh rượu thì đã muộn,
hối cũng không kịp.
Câu
chuyện có ý cảnh báo rằng rượu là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Rượu làm
con người mất trí khôn, biến họ thành kẻ hung hãn, vô liêm sỉ, độc ác,
có thể làm hại cả những người thân thiết của mình...
Vì vậy con người đã khuyên nhau nên tránh xa rượu, bia.
Ấy thế mà cả nghìn năm nay, con người vẫn say mê uống rượu, nghiện rượu, bao bi kịch gia đình và cuộc sống có nguồn gốc từ rượu.
Bản thân rượu không có lỗi, chỉ có con người là có lỗi do tầm văn hóa, nhận thức để có thể làm chủ bản thân khi uống rượu.
Ngay
cả việc tồn tại của rượu trong đời sống của con người từ ngàn năm nay
đã nói lên những giá trị vật chất và văn hóa không thể chối cãi của
rượu.
Mà văn hóa thì không chấp nhận sự thái quá.
Nhân lúc hậu tàn, tản mạn chuyện rượu, nhà thơ Nguyễn Hải Triều khất khưởng nói vui với mọi người trong bàn rượu rằng :
Nhận xét
Đăng nhận xét