Tên tù nhân có lối PHẾ QUÂN DÃ MAN NHẤT đã đại náo làng cờ tướng Trung Quốc ra sao?
Trong lịch sử cận đại làng cờ tướng TQ, người ta không thể không nhắc
đến kỳ vương bốn tỉnh Đổng Văn Uyên, đó là một kỳ thủ khét tiếng sau Chu
Đức Dụ, đã xưng hùng xưng bá suốt một thời gian dài tại Thuợng Hải và
Hồng Kông trong thập niên 30, 40 thế kỷ truớc.
Chúng ta hãy cùng chứng kiến những ván đấu để đời của danh thủ nổi tiếng
quái chiêu này.
Kỳ thủ Đổng Văn Uyên - Lời cảnh tỉnh cho những người đánh cờ nhưng không có phẩm hạnh.
Cờ
tướng là một môn nghệ thuật trí tuệ, thông qua việc học, chơi, thưởng
lãm mà rèn luyện nhân cách , nhân phẩm con người. Cờ cao chưa đủ, phải
có phẩm hạnh tốt đi đôi. Chúng ta chơi cờ làm sao cho đúng với tôn chỉ
của Hội Thân Hữu Cờ Tướng Úc Châu : LẤY CUỘC CỜ LÀM ĐẸP CUỘC ĐỜI !
Mượn
mặt trái của kỳ thủ để tự cảnh giác bản thân KỲ VƯƠNG BỐN TỈNH ĐỔNG VĂN
UYÊN KỲ NGHỆ THẬT CAO NHƯNG PHẨM HẠNH THẤP ( Lược dịch từ nguồn
gdchess. Tác giả Từ Thanh Tường )
Trong lịch sử cận đại làng cờ
tướng TQ, người ta không thể không nhắc đến kỳ vương bốn tỉnh Đổng Văn
Uyên, đó là một kỳ thủ khét tiếng sau Chu Đức Dũ, đã xưng hùng xưng bá
suốt một thời gian dài tại Thuợng Hải và Hồng Kông trong thập niên 30,
40 thế kỷ truớc.
Cuối Thập niên 50 ông còn là tuyển thủ cờ vây
đại diện TQ nghênh chiến đội Nhật . Năm 1964 ông giành được hạng 5 trong
giải cờ vây toàn quốc , nhưng sau đó nguời ta không còn nghe gì về ông
ta nữa là vì phẩm hạnh tồi tệ đã khiến ông tự đánh mất hết tất cả….
1.Khí Thế Bá Vương Của Kỳ Vương Bốn Tỉnh Đổng Văn Uyên.
Đổng
Văn Uyên sanh năm 1918 tại Hàng Châu, cha là Đổng Á Lâm, nguyên nghề
nông , sau lánh thiên tai từ Chiết Giang sang Hàng Châu. Sau vài năm làm
lụng vất vả dành dụm đuợc ít vốn đã hợp tác với người ta mở tiệm làm
đồng. Đổng tỏ ra có thiên phú cao về cờ ngay từ nhỏ. Lúc 10 tuổi học
nghề đồng trong tiệm của cha, giờ rỗi thì đánh cờ cùng hàng xóm; 12 tuổi
theo học cờ thầy Râu Bạc Phan Tuyển Tử, chỉ hai năm tài nghệ đã vượt
hơn thầy; sau theo học thêm nơi thầy Quan Xuân Lâm trong một một thời
gian ngắn và kỳ nghệ càng lên. Năm 16 tuổi đã lên đánh cờ trên kỳ lầu Hỷ
Vũ Đài. Đổng học cờ tướng trước rồi sau chơi thêm cờ vây, nhờ sáng dạ
nên tiến bộ thần tốc , chẳng bao lâu sau đã đánh ngang ngửa với các danh
thủ Thái Á Phúc, Từ Xuân Toàn, Lý Gia Xuân v.v…
Sở dĩ cờ của
Đổng đã sớm vượt qua ranh giới tỉnh và tiến quân sang Hồng Kông là nhờ
sự giúp đỡ của nhà doanh nghiệp Trương Đạm Như( em ruột Trương Tịnh
Giang, chủ tịch tỉnh Chiết Giang lúc đó ). Trương là đại gia thường lui
tới làm ăn ở hai địa hạt Hàn Châu và Thuợng Hải nên có nhiều dịp lên
đánh cờ trên Hỷ Vũ Đài, nơi nhiều danh thủ đương thời tụ họp kiếm sống.
Trương thích cờ vây, thường đánh với Lý Hữu Tam hoặc Quan Xuân Lâm trong
” Ngũ Hổ”. Ông hay cầm quân trắng, một biểu hiện kỳ nghệ cao hơn đối
thủ và ưa để thua cờ tỏ sự rộng rãi trong việc chung tiền độ.
Một
hôm Trương lên Hỷ Vũ Đài nghe nói có một thiếu niên giỏi cờ nên tìm
đến, Trương chấp Đổng ba quân, kết quả thua ba ván. Vì là cờ chấp nên
Trương thua cũng chẳng bận tâm còn Đổng thì mừng lắm vì có tiền vô túi.
Sau đó có người bảo Đổng rằng Trương là Đại gia, nên gìn giữ phép tắc
lịch sự khi giao tiếp. Lại một hôm Trương dợt cờ vây với Đổng, sau ván
cờ Đổng lễ phép thưa với Trương : – Thưa ông chủ, con có thể hầu ông chủ
một vấn cờ tướng trong tương lai không? Trương cho người đi tìm hiểu về
trình độ cờ tướng của Đổng, thấy thằng nhỏ rất có thiên tư cờ cao nên
khởi tâm nâng đỡ tài năng trẻ. Trương Đạm Như biết Đổng đã học đến tiểu
học lớp 5, nên tặng cho cây viết máy Parker, $20 tiền mặt và một quyển
“Từ Điển Cờ Vây” tiếng Nhật, hy vọng Đổng siêng năng luyện chữ và sau
này có dịp sẽ dẫn Đổng đi giang hồ hải ngoại.
Mùa thu năm 1936,
Hàn Châu tổ chức giải cờ toàn Thị, mời các danh thủ trong “Ngũ Hổ Nhất
Báo” và hai kỳ thủ mới là Lưu Ức Từ và Đổng Văn Uyên tham dự. Kết quả
Đổng đứng nhất, Lưu về nhì. Từ đó Đổng trở thành ngôi sao mới của làng
cờ Giang Nam.
Mùa Xuân 1937, hội Thanh Niên đạo Thiên Chúa Hàn
Châu đứng ra tổ chức giải “Danh Thủ khu vực bốn tỉnh Hoa Đông” gồm các
danh thủ lừng danh thời bấy giờ, là Giang Tô Đậu Quốc Trụ, Sơn Đông
Thiệu Thứ Minh, Phúc Kiến Liên Học Chính và Chiết Giang Đổng Văn Uyên.
Trong giải này Hội mời kỳ đàng tư lệnh Tạ Hiệp Tốn về dự với tư cách là
quan khách danh dự; vé vào cửa 2 cắc và treo bàn cờ lớn thuyết minh. Và
một lần nữa Đổng cho thấy thực lực phi phàm , đã giựt cúp Vô Địch một
cách vẻ vang, từ đó được tôn lên là ” kỳ vương bốn tỉnh” !
Lúc
chưa thành danh, Đổng hay đánh độ ở quán trà Thiên Thiềm Thượng Hải, vì
tuổi trẻ sáng dạ, kỳ phong sắc bén, nước cờ quỷ dị và thường có những
diệu thủ xuất quỷ nhập thần khiến nguời ta khó chống đỡ nên có biệt danh
là “Tiểu Hàn Châu” cùng “Tiểu Thế Đầu”(Cạo đầu) Lâm Vinh Hưng , “Tiểu
Sát Tinh” Diệp Cảnh Hoa và “Tiểu Hồ Bắc” Lôi Hải Sơn hợp xưng là ” Tứ
Tiểu” của làng cờ Thuợng Hải. Từ đó Đổng lấy cờ làm nghề sinh nhai của
mình.
Năm 1939 Trương Đạm Như cho nguời đến Thượng Hải đón Đổng
Văn Uyên về Hồng Kông để đánh giải “Lục Vương”. Lục vương tức sáu danh
thủ gồm Chu Đức Dũ, Chung Trân, Tô Thiên Hồng, Lô Huy, Phương Thiệu Khâm
và Đổng Văn Uyên. Giải đuợc tổ chức bởi đại gia Trương Đạm Như , gồm
một Cúp vàng bự và 100 đồng tiền thưởng, dụng ý chính của ông là để Đổng
Văn Uyên có dịp khiêu chiến với Chu Đức Dũ. Kết quả Chu đứng nhất, Đổng
về nhì.
Chẳng bao lâu sau Trương lại bảo trợ “Tam Vương Bôi” gồm
một Khánh vàng thuần độ 24 k , chỉ mời Chu Đức Dũ, Đổng Văn Uyên và
Chung Trân dự giải. Đấu theo thể chế đơn tuần hoàn, mỗi người phân tiên
đánh với hai đấu thủ kia hai ván, điểm tích lũy người cao nhất sẽ đoạt
giải.
Sau khi bắt thăm Đổng đụng Chung và thắng cả hai ván. Trước
tình hình bất lợi Chu Đức Dũ không chịu thi đấu tiếp với lý do là Đổng
đã bỏ tiền mua chuộc Chung (thua Đổng hai ván dễ dàng), rồi để khi đụng
Chu , Chung sẽ đánh hết mình để tạo điều kiện cho Đổng đoạt giải ( Trình
độ Chung Trân một tám một mười với Chu). Mặc dầu Chu không có bằng
chứng rõ ràng, nhưng với “phong khí ” bán độ thời bấy giờ chuyện này
hoàn toàn có thể xảy ra. Việc tẩy chay của Chu đã khiến giới hâm mộ cờ
giận dữ, họ tụ tập trước nhà hàng Văn Viên la lối đòi trả lại tiền vé ,
ban tổ chức điên đầu không biết phải xử lý thế nào. Truớc tình cảnh vô
cùng hỗn loạn này, Đổng thách thức Chu : – Ông bảo là tôi mua độ , thế
hai ván thắng Chung tôi không kể, Ông dám đánh riêng với tôi 10 ván để
phân cao thấp không?
Chu là danh thủ hàng đầu bấy giờ ở HK, ngoài
việc lo chuyên mục cờ tướng trên các báo Hoa văn, ông còn mở lớp dạy cờ
tướng cho lớp trẻ. Quyển sách 48 pháp khai cuộc của Chu Đức Dũ rất đuợc
phổ biến và nhiều nguời ưa thích. Với tiếng tăm, kinh nghiệm, kỳ nghệ
đang ở đỉnh cao không lý do nào Chu từ chối cơ hội giựt Khánh vàng nên
đồng ý ngay.
Chẳng biết là cờ Đổng đang trong giai đoạn tuổi trẻ
nhuệ khí ngút trời hay là cái khí thế bá vương của Chu đã không còn ,
hoặc có thể là Chu đang “thiếu thuốc” ( hút á phiện) nên ngày đầu Chu
thua liền hai ván, hôm sau lại thua thêm hai ván nữa. Mười ván đã mất
bốn, Chu rơi vào tình thế vô cùng khắc nghiệt. Khán giả đến càng đông
hơn vào ngày thứ ba để xem Chu có thể xoay chuyển càn khôn, trùng hiển
hùng phong đuợc không. Trong cái không khí nặng nề, căng thẳng trước
trận thứ 5, Đổng Văn Uyên bổng xoè lòng bàn tay ra đưa ngay trước mặt
Chu, trên đó ghi năm chữ : ” Thề chém Chu Đức Dũ !”.
Đại phàm
tuyệt đỉnh cao thủ truớc khi giao chiến luôn phải giữ tâm thái bình yên,
nếu tâm thần bị giao động thì chưa đánh cũng đã rơi vào thế hạ phong
rồi. Là tay cờ quen dùng bàng môn tà chiêu, Đổng chơi đòn khích tướng cố
ý chọc cho địch thủ điên tiết lên để thừa cơ nuớc đục thả câu. Quả
nhiên Chu giận tím mặt nhưng vì trước mặt nhiều người không tiện làm lớn
chuyện, nhưng cơn giận ngút trời ấy đã làm ông mất bình tỉnh, chỉ muốn
“dạy cho thằng tiểu tử một bài học” cho biết tay ( Chu lớn hơn Đổng mười
mấy tuổi ) . Nhưng giận quá mất khôn, Chu bực bội trong nguời và nóng
lòng muốn ” thịt” thằng tiểu tử vô lễ nên nuớc đi không đuợc liên hoàn ,
đã bị thua ván thứ 5 dễ dàng và ván 6 lại rơi vào thế bị động; trong
lúc khó khăn Chu đi nước X2 tấn 4 ( lúc bấy giờ dùng ngón trỏ đẩy Xe chứ
không bốc con cờ), đến nơi phát hiện không ổn liền kéo lùi lại một nấc
(tấn 3).
Đổng không chờ phản ứng của trọng tài, liền quay đầu về phía nhân viên treo cờ trên bảng la lớn :
- Xe 2 tấn 4 ! Treo lên mau ! Treo lên mau !
Chu nạt Đổng:
-“Mày
la om sòm cái gì, trọng tài chưa lên tiếng mày quyền gì bắt tao phải đi
Xe tấn 4 ?” Hai người không ai nhượng ai cứ la rùm beng lên. Đúng ra
Chu lỗi, nếu Đổng yêu cầu trọng tài xử lý thì tất Chu phải tấn 4, nhưng
vì không tôn trọng quyền quyết định tối cao của người phán quyết , nên
trọng tài cũng để mặc họ làm gì thì làm. Cuối cùng Ông Hà Lỗ Âm, tổng
trọng tài phải ra mặt khuyên giải ,trưng cầu đuợc sự đồng ý của Đổng để
Chu đi tấn 4. Tưởng sự việc đã êm xuôi, nhưng Chu vẫn còn ấm ức chuyện
Đổng chọc giận mình truớc đó , chỉ thẳng vào mặt Đổng nói:
-Mày là thằng thiếu phẩm hạnh, tao không muốn đánh với mày nữa !”
Thế
là khẩu chiến lại bùng nỗ, càng dữ đội hơn trước. Cũng may nhờ sự điều
giải của Ông Hà, nếu không thì ngoài việc đấu “võ mồm” sẽ còn đấu thêm ”
võ Thiếu Lâm” . Cuộc chiến tiếp diễn, Chu vì đã thất thế ,trạng thái
tâm giao động cộng thêm sự bực tức ,nóng nảy cuối cùng thua luôn ván cờ.
Là một danh thủ siêu đẳng, tiếng tăm lừng lẫy mà để thảm bại 6 ván liền
là chuyện không thể tưởng tượng được! Không khí cả hội trường sôi sụt
lên như vỡ chợ, mọi người bàn tán xôn xao, thật là chuyện không ngờ!
Không ngờ!
Chu thua Đổng 6 ván trắng, tiếng tăm xuống dốc thê
thảm chỉ trong một đêm. Sự tức giận và buồn bực đã khiến ông ngã bệnh
nằm liệt giường nhiều tháng, suýt nữa là theo bước cha ông cưởi hạc quy
Tây.
2. Kỳ Vương Thiếu Phẩm Hạnh
Chu Đức Dũ lúc đó 39
tuổi đang độ sung sức, là “kỳ vương 7 tỉnh ” cũng là nhân vật số 1 kỳ
đàng Hoa Nam; trong khi Đổng Văn Uyên mới tròn 20 nhuệ Khí xung thiên
với danh hiệu” kỳ vương 4 tỉnh” và là tay cờ đệ nhất của Hoa Đông ( Lâm
Vinh Hưng, Diệp Cảnh Hoa đã chết khi Nhật đổ bộ Thượng Hải ). Kẻ Tám
Lạng ,người nửa cân, cho nên cuộc thử lửa giữa Chu và Đổng năm 1939
chẳng những là cuộc tranh tài của làng cờ Hoa Nam ,Hoa Đông, cũng là
cuộc tranh hùng xem ai là bá vương thiên hạ.
Nguyên nhân nào đã
khiến Chu thua thậm tệ trong giải “Tam Vương” ?Có phải vì chiêu” bẩn”
của Đổng ? Không hẳn thế. Để chuẩn bị cho giải “Tam Vương”, Đổng đã
nghiên cứu nhiều thế khai cuộc mới, cái mà ta thuờng gọi là phi dao, đã
đánh cho Chu trở tay không kịp.
Nhà bình cờ nổi tiếng Giả Đề Thao
tiên sinh đã có nhận định như sau: ” Đổng Văn Uyên khi đánh với những
cao thủ Hoa Nam, Hoa Đông, Hoa Bắc thường thắng nhiều hơn là vì Đổng đã
chơi những bố cục mới mẻ và giàu tính sáng tạo”. Sau này Chu Đổng có
đánh thêm và Chu gỡ lại được phần nào danh dự đã mất. Chính Đổng cũng có
lần công nhận cờ Chu rất cao vậy.
Cuộc khiêu chiến của Đổng với
Chu dưới sự sắp xếp của Đại gia họ Trương đuợc xem là thành công vượt
mức. Lúc đó Đổng ăn dầm nằm dề ở nhà Trương, mỗi tháng còn được Đại gia
phát cho $100 đồng tiêu xài, tiền ăn cờ độ thuộc riêng Đổng. Cuộc sống
vật chất đầy đủ, cơm no cờ đánh, tiền bạc dư thừa, Đổng quả thật là
nguời rất may mắn trong thời cuộc tranh sáng tranh tối lúc bấy giờ.
Đúng
ra Đổng phải tri ân người quý nhân, nhưng vì thắng lợi đã làm Ông mù
quáng ,kiêu ngạo cộng thêm tiền túi rủng rỉnh nên cuộc sống bắt đầu sa
đọa. Ông mê trò Đỏ Đen và thuờng xuyên lui tới nhà thổ, sau còn làm mất
lòng Trương Đại gia và từ đó mất chỗ nương tựa. Phẩm hạnh tồi tệ của ông
khiến làng cờ nhăn mặt, chê trách, khinh miệt.
Lần nọ, Trương
đại gia sai Đổng mang chiếc nhẫn kim cương đi bán. Sau khi cầm tiền
trong tay, Đổng không về nhà mà lại vào sòng bài đánh Tài Xỉu, cuối cùng
làm bay luôn chiếc nhẫn hột soàn!
Thế bây giờ phải ăn nói làm
sao với Đại gia đây? Đổng lại phạm thêm một sai lầm là bỏ trốn về quê.
Ông không hề nghĩ đến việc có lỗi với người ta, không nghĩ đến chuyện
chủ đang lo lắng chờ ông về…Mãi nhiều năm về sau khi nhắc lại chuyện
này, Đổng vẫn nuối tiếc là dại dột làm mất chỗ nương thân chứ không hề
tỏ sự ăn năn hối lỗi về những hành vi sai trái của mình. Ông nói:
“Trương Đại gia giàu có, chiếc nhẫn không đáng gì với ông, lúc đó tôi
chỉ cần nói rõ sự việc , ổng vẫn sẽ giữ tôi lại thôi!”. Đúng là con
người không biết liêm sĩ là gì.
Đổng trốn về quê, lúc bấy giờ Hàn
Châu và Thượng Hải đều rơi vào tay Nhật, cuộc sống người dân khổ cực.
Với tư cách đệ nhất cao thủ, dù kỳ nghệ và tiếng tăm cao nhưng Đổng cũng
chỉ kiếm sống tạm đủ. Sau thắng lợi chống Nhật, nền kinh tế dần dần ổn
định, sinh hoạt của Đổng có phần khá hơn truớc, nhưng đã quen lối sống
bệ rạc, tiêu xài phung phí, có tiền dư thì đi tìm bồng lai tiên động,
nên tiền bạc cũng chẳng dư dả gì.
Thượng Hải là nơi ngọa hổ tàng
long sau ngày giải phóng, nhiều danh gia cao thủ đến đây dựng lôi đài
hoặc đi Giang Hồ kiếm sống. Là cao thủ hàng đầu trong “Hoa Đông Tam Hổ”,
Đổng đã một thời làm mưa làm gió trên vùng đất này, thu nhập rất khả
quan. Kỳ thủ Đổng văn Uyên, thiên tài lắm tài nhiều tật Năm 1951,
một thanh niên nhà quê ốm, nhỏ người đến từ Quảng Châu, đó là Dương Quan
Lân, người mà sau này được làng cờ tôn là bá chủ trong thập niên 50, 60
thế kỷ trước, đến dựng lôi đài ở Cung Văn Hóa Thượng Hải. Dương khiêu
chiến Đổng trong trong bốn ván đấu với kết quả 2 thua,1 thắng, 1 hoà (
Đó là lần thua thứ hai và kể từ đó Đổng không còn cơ hội thắng Duơng nữa
).
Dương Quan Lân trở về Quảng Châu chuyên tâm khổ luyện kỳ nghệ
để tính chuyện phục thù, trong khi Đổng cứ ăn chơi , ngoài việc đánh độ
không nghiên cứu kỳ nghệ.
Năm 1952 Dương trở lại Thượng Hải
thách đấu Đổng trên lôi đài tại Night club Michael Mei trong 10 ván đấu
và thắng hơn hai ván . Từ đó bắt đầu một thời đại mới của làng cờ TQ,
thời đại vàng son rực rỡ của bá vương Dương Quan Lân!
Đổng bấy
giờ ba lần đánh với Tạ Tiểu Nhiên Bắc phương đều huề, so với ” Nhị Hổ”
kia vẫn còn chiếm chút ưu thế, sinh hoạt cũng tương đối dễ thở. Nhưng
vì tác phong cuộc sống không lành mạnh, năm 1955 ông bị đày về Hắc Long
Giang lao cải vì tội ” bại hoại thuần phong mỹ tục, lường gạt đàn bà con
gái” ( chắc tội chơi lường? )
Đầu thập niên 60, sau khi mãn hình
Ông được thả về Chiết Giang. Gần 5 năm không đụng đến cờ nhưng không
ngờ Ông vẫn đánh rất tốt . Năm 1964 đứng hạng 5 trong giải cờ vây toàn
quốc. Và cũng trong giải này, Đổng chứng nào tật nấy, lại lần nữa xử
dụng bàng môn tà chiêu. Vì nhân phẩm, kỳ phẩm xấu xa nên bị Thể Uỷ Tỉnh
kiểm điểm phê bình và cấm dự giải từ đó. Đó là lý do ta không thấy tên
Đổng trong những giải cờ tướng toàn quốc thời bấy giờ, vì với trình độ
cao siêu của ông việc giựt giải không phải là chuyện không làm đuợc .Thế
là một thiên tài cờ tướng, một thời vang bóng, nay đã phải đi giang hồ
lang thang kiếm sống bằng cờ độ trong cuộc đời còn lại. Phải chăng đó
là cái giá phải trả của người thiếu phẩm hạnh?
Tác giả (Từ Thanh
Tường ) đã 6 lần phỏng vấn Đổng trong những năm từ 1991 đến 1995, ông có
cái nhìn về sự rơi rụng của ngôi sao cờ Tướng này như sau : Điều kiện
thiên phú cờ của Đổng rất cao được thể hiện qua lối đánh sắc bén, quỷ dị
và giàu tính sáng tạo; bản tính Ông có mặt bướng bỉnh, ngang ngạnh,
không chịu vào khuôn phép nên khiến kỳ nghệ Ông càng sắc sảo khi lâm
chiến. Sự sa sút của Đổng khởi nguồn từ phẩm hạnh xấu, đó là do ảnh
hưởng thiếu giáo dục trong xã hội cũ.
Cuối đời ( 70 tuổi ) của
Đổng rất khổ cực, không bà con bạn bè, một mình lẻ loi , được hội người
già thâu nạp tạm có chỗ dung thân. Ông thường mang theo bộ cờ ra công
viên bày cờ thế để kiếm chút cháo. Gặp công an thì tìm chỗ nấp, nếu bị
bắt cũng chỉ vứt cờ xuống Hồ Tây, người ta cũng chẳng làm khó ông già tứ
cố vô thân này làm chi.
Kỳ hữu ở quê nhà sợ ông như sợ ma quỷ,
kính nhi viễn chi, ai cũng xa lánh. Khi hỏi có nên giúp đỡ gì ông không
thì hầu như ai cũng lắc đầu. Bụng làm dạ chịu chớ có trách than!
Nửa
thế kỷ đã qua đi, trăng Tây Hồ tròn rồi khuyết , liễu Tây Hồ vàng rồi
lại xanh, nhưng ông già Đổng Văn Uyên của Hàn Châu không còn trở lại
nữa, ông đã ra đi trong sự âm thầm, lặng lẻ không ai nuối tiếc !
Mặc
dầu phẩm hạnh Đổng Văn Uyên không tốt, nhưng tại Hồng Kông lại có một
số người rất sùng bái kỳ nghệ ông. Vài năm trước có người đến từ Hồng
Kông đã gom được 200 ván cờ của Đổng và tính tự bỏ tiền ra in lại để lưu
truyền hậu thế. Năm 2007 Nhật báo Thiên Thiên của HK đã cho in lại
nguyên trang 6 ván đấu của Đổng trong giải ” Bốn Tỉnh Hoa Đông 1937″ với
tiêu đề :” Những ván đấu tuyệt vời của danh thủ Đổng Văn Uyên 70 năm về
trước “, có thể nói rằng đó là một sự hồi báo nho nhỏ dành cho sanh
nhai kỳ nghệ của Đổng vậy. Dù sao đi nữa Đổng cũng là danh thủ của một
thời đại, lịch sử cờ tướng phải ghi lại cống hiến của ông, còn công hay
tội thì chờ sự đánh giá của hậu thế . HẾT
-Cách mạng Việt Nam gồm hai cuộc cách mạng hợp thành: Cách mạng giải phóng dân tộc và Cách mạng vô sản -Cách mạng giải phóng dân tộc đã hoàn thành một cách vẻ vang và đầy tự hào. -Thực
tế xã hội đã phơi bày: Cách mạng vô sản đã không những bên bờ thất bại
không thể cứu vãn, mà còn có "thành tựu" làm hình thành tầng lớp "tư sản
đỏ" từ những người cộng sản lứa hậu duệ do chính cách mạng đào tạo, không những
không tạo ra được những nét ưu việt nổi bật của hình thái kinh tế xã hội
mới (chủ nghĩa cộng sản),mà còn phải duy trì hình thái kinh tế xã hội
cũ (chủ nghĩa tư bản) để mưu cầu tồn tại. -Mục đích của định hướng XHCN là làm cho dân chúng có cuộc sống ngày càng ấm no hạnh phúc. Nhưng giải tỏa qui
hoạch Thủ Thiêm lại có hiệu ứng ngược lại. Như thế có phải là phản cách
mạng và những kẻ chủ mưu (gồm các đảng viên cộng sản) có phải là bè lũ
phản động? -Tội
lỗi lớn nhất của những kẻ cộng sản thoái hóa là bản thân chúng không những không tin, mà còn phá vỡ không thể phục
hồi được lòng tin phải tốn biết bao xương máu mới bồi đắp nên được của
quần chúng cần lao đối với Đảng cộng sản. -Điều
đó gợi ý cho những người cộng sản chân chính phải xét lại nền tảng lý
luận của triết học Mác - Lênin và tìm con đường khác để đến với chủ
nghĩa cộng sản. -Muốn
thế, điều trước tiên là phải để trí não thoáng đãng, tâm hồn rộng mở,
suy tư trên tinh thần tất cả là của dân, do dân và vì dân. -Trong
khi chưa tìm được con đường nào khác, vẫn đi trên con đường này để tiến
lên CNXH, thì điều cấm kỵ không được làm số một là không được để sự uất ức, hận thù của họ
dâng cao. Không được để xảy ra thêm những vụ tương tự Tiên lãng, Đồng Tâm, Thủ
Thiêm...Phải tích cực, nỗ lực xây dựng
lại lòng tin của quần chúng. -Phải
nghiêm trị những kẻ phản dân, hại nước, những kẻ đã thành "tư sản đỏ"
làm suy đồi đạo đức xã hội, những kẻ gây tội ác trong thời bình. -Phải
loại bỏ khỏi đội ngũ những kẻ mà lòng tham đã nhấn chìm hoàn toàn đức
tính thiêng liêng nhất của một con người: lòng nhân ái, và lời thề số
một của một đảng viên cộng sản: "Vì Nhân dân quên mình"! -Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. (Nguyễn Du) -Ngày xưa đi cướp chính quyền Là vì muốn sống trong miền ấm no Ngày nay thấp thỏm âu lo Lũ tư sản đỏ xông vô cướp nhà! Chúng là một đám ba hoa Đội trên đạp dưới, thành ma hại người.
Ông T.Q.T có đơn tố cáo ông Phạm
Minh Xem, Phó bí thư thành ủy, Chủ tịch HĐND TP.Kon Tum (Kon Tum) và vợ
mình có quan hệ bất chính
UBKT Tỉnh ủy Kon Tum kết luận ông Phạm Minh Xem vi phạm về đạo đức lối sống
Ảnh: Đức Nhật
Ngày 22.7, UBKT Tỉnh ủy Kon Tum đã
có thông báo kết luận vi phạm của ông Phạm Minh Xem, Phó bí thư thành
ủy, Chủ tịch HĐND TP.Kon Tum về quan hệ tình cảm với phụ nữ đã có gia
đình.
Theo đó, UBKT Tỉnh ủy Kon Tum kết luận ông Xem đã vi phạm về đạo
đức lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm, gây ảnh hưởng
đến uy tín của tổ chức, gây mất đoàn kết nội bộ, gây hoang mang dư
luận, làm ảnh hưởng xấu đến cơ quan, tổ chức.
UBKT Tỉnh ủy Kon tum đã yêu cầu tiến hành quy trình xử lý kỷ luật đối với ông Xem theo quy định.
Trước đó, ông T.Q.T (35 tuổi, TP.Pleiku, Gia Lai) có đơn tố cáo ông Xem và vợ mình là bà T.T.L.P. (31 tuổi) có quan hệ bất chính.
Theo nội dung đơn, ông T. và bà P. đã kết hôn với nhau, có 1 con chung.
Đến tháng 4.2018, ông T. phát hiện vợ mình có quan hệ tình cảm với ông
Xem. Ông Xem đã nhiều lần hẹn hò, đưa bà P. đi du lịch.
Nhận đơn tố cáo, UBKT Tỉnh ủy Kon Tum đã tiến hành xác minh. Theo
UBKT Tỉnh ủy Kon Tum, sau khi xác minh đơn tố cáo của ông T.Q.T, thì có
một phần nội dung đúng sự thật.
Cụ thể, những hình ảnh, tin nhắn và những lần đi chơi của ông Phạm
Minh Xem và bà P. tại TP.Đà Nẵng và Hà Nội là đúng. Tuy nhiên, một số
nội dung khác do không xác minh được nên UBKT Tỉnh ủy không có căn cứ để
kết luận.
Đâm chết người do ghen với hạnh phúc của vợ cũ
Ly hôn đã hai năm, thấy vợ có bạn trai mới, Khanh mang dao đến gây sự và đâm chết người.
Công an huyện Trạm Tấu (Yên Bái) đang tạm giữ Trần Đình Khanh (46 tuổi) để làm rõ hành vi giết người.
Khoảng 18h ngày 21/7, Khanh đến tổ 2, thị trấn Trạm Tấu chơi và gây sự
với anh Nam (44 tuổi) - người đang chung sống với vợ cũ của Khanh.
Theo nhà chức trách, trong lúc to tiếng, Khanh ra cốp xe máy lấy dao đâm
anh Nam nhiều nhát khiến chết tại chỗ. Khanh trốn khỏi hiện trường và
bị bắt vào tối cùng ngày.
Hiện trường vụ án mạng. Ảnh: H.C.
Theo lãnh đạo UBND thị trấn Trạm Tấu, vợ chồng Khanh ly hôn từ hai năm
trước. Gần đây, thấy vợ cũ có người yêu mới, Khanh thường ghen và dọa
giết cả hai.
"Nạn nhân Nam chưa lập gia đình, có ý định gắn bó lâu dài với vợ cũ của Khanh", vị lãnh đạo nói.
Phạm Dự
Khởi tố vụ án sai phạm đất đai nghiêm trọng tại Phan Thiết
(PLO)- Quyết định khởi tố hình sự được chuyển cho VKSND cùng cấp
chiều nay.
Chiều 23-7, theo nguồn tin của PLO, Đại tá Phạm Thật, Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra, Phó Giám đốc Công an tỉnh Bình Thuận đã ký Quyết định Khởi tố vụ án vi phạm các quy định về quản lý đất đai theo khoản 3, Điều 229 BLHS xảy ra tại thành phố Phan Thiết.
Chiều cùng ngày, Quyết định nói trên đã được chuyển đến VKSND tỉnh Bình Thuận.
Đất đai ven biển Phan Thiết đang nóng lên từng ngày.
Trước đó vào tháng 5-2019, UBND tỉnh Bình Thuận đã có kết luận thanh tra
công tác quản lý nhà nước về đất đai, quy hoạch đô thị tại TP Phan
Thiết giai đoạn từ năm 2016 đến tháng 9-2018. Theo Kết luận thanh tra,
UBND TP Phan Thiết có biểu hiện tùy tiện trong việc lập, phê duyệt quy
hoạch sử dụng đất hằng năm không phù hợp với quy hoạch sử dụng đất giai
đoạn 2011-2020 đã được UBND tỉnh phê duyệt.
Việc UBND TP Phan
Thiết tùy tiện lập, phê duyệt quy hoạch, không xin ý kiến tỉnh được thể
hiện qua dấu hiệu sửa chữa bản đồ. Cụ thể, đối chiếu giữa bản đồ số trên
máy tính đã được UBND tỉnh phê duyệt với bản đồ được UBND TP Phan Thiết
phê duyệt quy hoạch sử dụng đất của các xã Thiện Nghiệp, Tiến Lợi và
Phong Nẫm thì nhiều vị trí, khu vực có sự sai lệch về diện tích, mục
đích sử dụng đất.
Bản kết luận nêu rõ: Từ tùy tiện trong
lập, phê duyệt quy hoạch và tự chỉnh sửa bản đồ, UBND TP Phan Thiết đã
cố ý, tùy tiện trong việc xác định khu vực, vị trí thửa đất, mục đích sử
dụng đất trước khi chuyển mục đích không đúng thực tế, không đúng quy
định (xác định vị trí thửa đất trước khi chuyển mục đích, thay đổi, điều
chỉnh thông tin bất thường, luôn xác định thấp hơn quy định) gây thất
thoát cho ngân sách nhà nước…
Đối với Sở TN&MT, khi cho tách thửa đất ở nông thôn (ở ba xã Tiến
Lợi, Thiện Nghiệp và Phong Nẫm) đã không kiểm tra việc cho chuyển đổi từ
đất nông nghiệp sang đất ở, dẫn đến việc để cho UBND TP Phan Thiết tự ý
chuyển đổi mục đích sử dụng đất trái với các quy định của pháp luật.
Điều này khiến nhiều cá nhân lợi dụng kẽ hở xin chuyển mục đích sử dụng
đất để phân nền, chia lô bán đất thương phẩm trái pháp luật tràn lan ở
ba xã trên.
“Từ đó, các cá nhân chuyển nhượng đất ở
nộp tiền sử dụng đất thấp hơn so với quy định, gây thiệt hại cho ngân
sách nhà nước” - bản kết luận nêu.
Phần cuối bản kết luận nêu rõ những việc làm sai phạm trên của UBND TP
Phan Thiết, Sở TN&MT đã tạo điều kiện, giúp sức cho một số cá nhân
tách thửa đất, hợp thửa hình thành điểm dân cư tạo mới, phân lô, bán nền
đất, thu lợi bất chính số tiền lớn, gây thất thoát cho ngân sách nhà
nước, gây bức xúc trong dư luận.
Kết luận thanh tra đã chỉ ra hàng loạt cơ quan, cá nhân đã làm trái, giúp các đại gia thâu tóm đất.
Cụ thể, qua kiểm tra ngẫu nhiên 65/160
hồ sơ thực hiện nghĩa vụ tài chính khi chuyển mục đích sử dụng đất từ
đất nông nghiệp sang đất ở trên địa bàn các xã Tiến Lợi, Phong Nẫm và
Thiện Nghiệp thì toàn bộ 65 hồ sơ đều được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai Phan Thiết ghi thiếu thông tin vị trí đất.
Tiếp theo, Chi cục Thuế Phan Thiết không chuyển trả lại để bổ sung thông
tin theo quy định mà vẫn tính tiền sử dụng đất và ra thông báo nộp tiền
sử dụng đất với các mức thấp hơn quy định. Có nhiều hồ sơ đóng tiền rất
ít, thậm chí là 0 đồng.
Chỉ trong giai đoạn từ năm 2016 đến
tháng 9-2018, UBND TP Phan Thiết đã có quyết định cho chuyển mục đích sử
dụng đất đối với 139 thửa đất, tổng diện tích 176.815 m2 đất trồng cây
sang đất ở không đúng các quy định của pháp luật.
Theo bản kết luận, những hạn chế, sai
phạm về đất đai ở Phan Thiết trách nhiệm thuộc về Sở TN&MT, UBND TP
Phan Thiết, Phòng TN&MT TP Phan Thiết, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai Phan Thiết, Chi cục Thuế TP Phan Thiết, UBND các xã Thiện
Nghiệp, Phong Nẫm, Tiến Lợi và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan.
Từ đó, UBND tỉnh đề nghị Thanh tra tỉnh
chuyển toàn bộ hồ sơ sang cơ quan CSĐT cùng cấp để điều tra dấu hiệu vi
phạm các quy định về quản lý đất đai; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong
khi thi hành công vụ.
PHƯƠNG NAM
Lãnh đạo PVN lo mất trắng 32.000 tỷ nếu dừng dự án Trịnh Xuân Thanh sai phạm
"Nếu
dừng dự án nhiệt điện Thái Bình 2 thì tất cả chi phí chúng ta bỏ ra
không thu hồi được. 32 nghìn tỉ đã giải ngân là giá trị sổ sách. Còn
tính giá trị thực tế khi đang dở dang, là đống sắt vụn thì giá trị
giảm..."
Theo Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN)
nếu dừng dự án nhiệt điện Thái Bình 2 vì lý do thiếu vốn sẽ gây lãng phí
lớn do dự án đã tiến hành giải ngân 32.000 tỉ đồng.
Không thể dừng dự án nhiệt điện Thái Bình 2?
Trước tình trạng chậm tiến độ của dự án nhiệt điện Thái Bình 2, nhiều ý
kiến cho rằng nên dừng dự án để tránh lãng phí thêm tiền.
Song theo ông Đinh Văn Sơn, thành viên Hội đồng thành viên PVN:
"Nếu dừng dự án nhiệt điện Thái Bình 2 thì tất cả chi phí chúng ta bỏ ra
không thu hồi được. 32 nghìn tỉ đã giải ngân là giá trị sổ sách. Còn
tính giá trị thực tế khi đang dở dang, là đống sắt vụn thì giá trị
giảm... Đó là chưa nói lấy nguồn thu nào để trả nợ vay dự án. Dự án đó
dù chậm, nhưng nếu không đi vào vận hành được thì trước tình hình cả
nước sau 2020 thiếu điện, nguồn nào thay thế?”, ông Đinh Văn Sơn nói.
Ngoài ra, ông Sơn cũng lo ngại các vấn đề về an ninh trật tự, xã hội khi
dự án dừng lại. Bởi các nhà thầu phụ bị nợ tiền thi công sẽ có những
phản ứng gay gắt.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Vượng cho biết, dự án nhiệt điện
Thái Bình 2 là dự án quan trọng quốc gia nhằm đảm bảo an ninh năng lượng
với quy mô lớn về vốn gần 42.000 tỉ đồng. Nếu được đưa vào vận hành,
mỗi năm nhiệt điện Thái Bình 2 sẽ cung cấp 7 tỉ KWh điện cho cả nước.
Theo Thứ trưởng Vượng, nếu không có những dự án lớn thì từ năm 2021, Việt Nam dự kiến sẽ thiếu điện.
Cụ thể, năm 2021 thiếu 6,6 tỉ KWh điện, năm 2022 thiếu 11,8 tỉ KWh điện
và đỉnh điểm năm 2023 sẽ thiếu 15 tỉ KWh điện. Cứ 1 KWh điện chạy dầu
thì ngành điện phải bù đắp thêm 5.000 đồng, như vậy để có 7 tỉ KWh điện
bằng chạy dầu sẽ tiêu tốn 35.000 tỉ đồng.
"Nếu dự án này vận hành đúng thời gian thì nguy cơ thiếu điện năm 2020 sẽ không còn", Thứ trưởng Bộ Công Thương nói.
"PVN đảm bảo quản lý dòng tiền"
Để đảm bảo hoàn thành dự án đúng tiến độ đề ra đến cuối năm 2020, PVN
cho hay đã nhiều lần kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương xem xét báo cáo
Thủ tướng Chính phủ, chấp thuận chủ trương cho phép PVN sử dụng nguồn
vốn chủ sở hữu để giải ngân cho Dự án, với điều kiện không vượt tổng mức
đầu tư điều chỉnh.
Tuy nhiên kiến nghị này của PVN vẫn chưa được chấp thuận.
Hiện tại, PVN tiếp tục gửi đơn kiến nghị đến các bộ ngành yêu cầu được sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu để "cứu" dự án nghìn tỉ.
Thừa nhận những yếu kém của Tổng Công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt
Nam (PVC), tổng thầu EPC của dự án, song theo ông Sơn, qua nhiều cuộc
họp, PVN thống nhất không thể thay thế tổng thầu PVC lúc này. PVN xác
định phải vào cuộc, điều hành trực tiếp để tiếp tục triển khai dự án
nhiệt điện Thái Bình 2.
Theo đó, PVN đảm bảo kiểm soát dòng tiền vào dự án, tiền cấp từ trên
xuống PVC và xuống các nhà thầu phụ được dùng để phục vụ cho dự án. PVN
yêu cầu Ban quản lý dự án, Tổng thầu PVC và nhà thầu phụ ký hợp tác 3
bên để thống nhất hoàn thành công việc này vào ngày giờ cụ thể mới có
thể nhận được tiền.
"Tôi tin tưởng việc quản lý đồng tiền hoàn toàn chắc chắn, đảm bảo đúng
mục đích... Tôi tin rằng, dự án Thái Bình 2 là một trong ít dự án sau
khi kết thúc dự án thì việc hoàn thành hồ sơ ở mức cao nhất", ông Sơn
khẳng định.
Dự án Nhiệt điện Thái Bình 2 do PVN làm chủ đầu tư và
Tổng Công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) làm tổng thầu EPC.
Tổng mức đầu tư dự án là 41.799 tỉ đồng. Đến thời điểm này, dự án đã
tiến hành giải ngân 32.000 tỉ đồng và đang có nguy cơ bị dừng do thiếu
tiền.
Nguồn: Thùy Dung/laodong.com.vn
Yêu cầu thi hành kỷ luật Phó chủ tịch huyện Vân Đồn
(PLO)-
Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh
uỷ Quảng Ninh yêu cầu Huyện ủy Vân Đồn kỷ luật đối với ông Châu Thành
Hưng, Phó chủ tịch UBND huyện này vì vi phạm trong quản lý đất đai.
UBKT Tỉnh uỷ Quảng Ninh vừa họp, yêu
cầu Huyện uỷ Vân Đồn xem xét xử lý kỷ luật phó chủ tịch UBND huyện và
hai cán bộ thuộc huyện này.
Theo đó, qua kiểm tra dấu hiệu vi phạm tại huyện Vân Đồn, UBKT Tỉnh uỷ Quảng Ninh xác định vi phạm của tổ chức đảng, cá nhân liên quan.
Theo đó, UBKT Tỉnh uỷ Quảng Ninh yêu cầu Huyện uỷ Vân Đồn kỷ luật đối với ông Châu Thành Hưng
(Phó chủ tịch UBND huyện), ông Đặng Tiến Sĩ (Trưởng phòng TN-MT), ông
Trần A Hùng (Bí thư Đảng uỷ thị trấn Cái Rồng, nguyên giám đốc Trung tâm
phát triển quỹ đất huyện Vân Đồn).
UBKT Tỉnh uỷ Quảng Ninh yêu cầu kiểm
điểm, rút kinh nghiệm đối với Ban Thường vụ Đảng ủy xã Hạ Long và một số
cá nhân liên quan, là tổ chức, cá nhân có vi phạm nhưng chưa đến mức
phải thi hành kỷ luật.
UBKT Tỉnh uỷ Quảng Ninh yêu cầu UBKT Huyện ủy Vân Đồn thực hiện kiểm
tra, xem xét trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân có liên quan đến sai
phạm, Thanh tra huyện thực hiện thanh tra toàn diện hoạt động của BQL
dự án công trình huyện Vân Đồn.
Cụ thể ông Hưng bị kiểm tra do đã ký quyết định công nhân trúng đấu giá sáu lô đất tại xã Hạ Long cho tổ chức sai quy định.
Ngoài ra ông Hưng còn bị “tố” đã có phát
ngôn gây khó dễ, ép một người dân xin chuyển mục đích sử dụng đất phải
để lại khu đất đó cho mình. Nội dung ông này o ép gây khó dễ đối với
công dân tại phòng làm việc đã bị ghi âm lại.
Trong thế đường cùng, tổng
binh Vương Thông của nhà Minh buộc phải tham gia Hội thề Đông Quan theo
yêu sách của Lê Lợi, chấp nhận rút quân về nước.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta
những thắng lợi quân sự oanh liệt, đã đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù,
buộc chủ tướng của “thiên triều” phải chính thức và công khai tuyên bố
đầu hàng, thề từ bỏ dã tâm xâm lược, xin rút quân về nước.
Hội thề Đồng Quan cũng được đánh giá là hình thức kết thúc chiến
tranh sáng tạo, độc đáo trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc ta, thể
hiện ý chí, sức mạnh, truyền thống nhân đạo của người Việt Nam.
Theo sách Lam Sơn thực lục, tháng 10/1426, Vương Thông bị
đánh bại ở trận Tốt Động, Chúc Động, buộc phải rút vào Đông Quan cố thủ.
Ở thế cùng, Vương Thông muốn cầu hòa để tìm lối thoát trong danh dự.
Tuy nhiên, sau đó, y lại thay đổi ý định, đào hào, đắp lũy, gọi thêm
viện binh.
Cuối năm 1427, vua nhà Minh sai Liễu Thăng đem 100.000 quân, Mộc
Thạnh 50.000 quân, chia làm hai đạo tiến vào nước ta để cứu viện cho
Vương Thông.
Hùng hổ tiến vào Đại Việt, tuy nhiên, khi vừa đến biên giới nước ta,
Liễu Thăng đã bị chém mất đầu ở Quỷ Môn Quan (Lạng Sơn). Nghe tin này,
“quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân” .
Tranh minh họa quân Minh đầu hàng. Nguồn: Sỹ Hòa/Báo Bình Phước.
Trong thế đường cùng, tổng binh Vương Thông và nội quan Sơn Thọ của
nhà Minh sai sứ giả mang thư đến giảng hòa, xin mở cho đường về. Biết có
thể dễ dàng diệt địch, tuy nhiên vì muốn giữ tinh thần hòa hiếu, sớm
kết thúc chiến tranh để tránh cảnh lầm than cho nhân dân, Lê Lợi chấp
nhận lời thỉnh cầu của kẻ địch, đồng thời gửi tặng cho chúng một số thổ
sản và hải sản.
Được Lê Lợi chấp nhận, lại ở thế đường cùng, Vương Thông vẫn do dự
chưa quyết. Sau đó, y lại đem hết quân trong thành ra đánh. Thấy kẻ địch
bội ước, nghĩa quân Lam Sơn đặt phục binh rồi vờ thua chạy, quân Minh
đuổi theo, rơi vào trận địa mai phục, bị đánh tan.
Trên đường bỏ chạy, Vương Thông ngã ngựa suýt bị bắt, nghĩa quân tiến
đến cửa Nam thành, đắp bờ lũy chống giữ. Lê Lợi đốc các tướng đem quân
đắp lũy từ phường Yên Hoa thẳng tới cửa Bắc thành Đông Quan “bốn mặt vây
thành”. Trước khí thế của nghĩa quân Lam Sơn, quân Minh chỉ cố thủ,
không dám ra.
Đầu hàng nhục nhã để giữ mạng về nước
Trong thế cùng quẫn, không còn cách nào khác, Vương Thông lại xin
giảng hòa lần hai. Lê Lợi đồng ý nhưng buộc chúng phải tham gia Hội thề
Đông Quan vào ngày 10/12/ 1427.
Để buộc kẻ địch phải rút quân về nước, từ bỏ hoàn toàn âm mưu xâm
lược nước ta, bài văn hội thề đã được Lê Lợi, Nguyễn Trãi cùng các tướng
lĩnh chuẩn bị chu đáo. Nội dung bài thề đến nay còn được lưu giữ cẩn
thận trong nhiều tài liệu, trong đó có đoạn:
"Chúng tôi cùng nhau phát tự lòng thành, ước hẹn thề thốt với
nhau: Từ sau khi lập lời thề này, quan tổng binh Thành sơn hầu là Vương
Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời bàn, đem quân về nước, không thể
kéo dài năm tháng, để đợi viện binh đến nơi. Lại phải theo đúng sự lý
trong bản tâu, đúng lời bàn trước mà làm...
...Về phía bọn quan Tổng binh Thành sơn hầu là Vương Thông, nếu không
có lòng thực, lại tự trái lời thề, không làm theo lời bàn, lập tức đem
quân về nước, còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh;
Trong thế cùng, Vương Thông và đồng bọn buộc phải chấp nhận đầu hàng. Ảnh: NXB trẻ.
Cùng là ngày về đến triều đình, lại không theo sự lý trong bản tâu,
không sợ thần linh núi sông ở nước An Nam lại bàn khác đi, hoặc cho quan
quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân, thì trời, đất cùng là danh sơn, đại
xuyên và thần kỳ các xứ tất đem bọn quan Tổng binh Thành sơn hầu là
Vương Thông, tự bản thân cho đến cả nhà, thân thích, làm cho chết hết,
và cả đến quan quân cũng không một người nào về được đến nhà".
Cuối bài có đoạn: "Nếu cả hai bên đều do lòng thành cả thì trời, đất
thần minh đều phù hộ để bản thân mình mạnh khỏe, trong nhà mình vinh
thịnh, cùng hưởng lộc vị, đều được bình yên. Trời, đất thần kỳ cùng soi
xét cho!".
Theo những điều cam kết trong hội thề, hơn 100.000 quân Minh rút từ
ngày 29/12/1427. Ngày 3/1/1428, Vương Thông cùng toán quân Minh cuối
cùng ra khỏi nước ta, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hoàn toàn thắng lợi.
Hội thề Đông Quan được xem là hình thức kết thúc chiến tranh sáng
tạo, độc đáo trong lịch sử chống xâm lược. Nó thể hiện ý chí, sức mạnh,
truyền thống nhân đạo của người Việt Nam.
Theo đánh giá của nhiều sử gia, quyết định của Lê Lợi vừa tránh gây
tổn hại về nhân mạng cho cả quân ta và địch, bảo vệ được tính mạng, tài
sản của nhân dân trong kinh đô Thăng Long, góp phần bảo vệ rất nhiều
công trình kiến trúc khỏi chiến tranh tàn phá như thành lũy, chùa chiền,
miếu mạo và nhiều công trình văn hóa quan trọng khác.
Video: VTV
Trận Tụy Động Vương Thông Thất Thế tháng 10/1426
Từ khi Bình Định Vương ở Lư Sơn vào đánh Nghệ An đến giờ,
đánh đâu được đấy, thanh thế lừng lẫy, quân Minh khiếp sợ, đem tin về
cho Minh Triều biết, Minh Đế liền sai Chinh Di Tướng Quân là Vương Thông
và Tham Tướng là Mã Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan. Trần Trí và
Phương Chính thì phải cách hết cả quan tước bắt phải theo quân đi đánh
giặc, còn Trần Hiệp thì cứ giữ chức Tham Tán Quân Vụ.
Vương
Thông sang đến đất Đông Quan hội tất cả quân sĩ lại được mười vạn, cùng
với bọn Trần Hiệp chia làm ba đạo đi đánh Bình Định Vương.
Vương
Thông đem quân đến đóng ở bến Cổ Sở (thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc
Oai, Sơn Tây). Phương Chính đóng ở Sa Thôi (thuộc huyện Từ Liêm), Mã Kỳ
đóng ở Thanh Oai, đồn lũy liên tiếp nhau một dãy dài hơn mấy mươi dặm.
Bọn
Lý Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở Cổ Lãm, rồi cho
quân đến đánh nhữ Mã Kỳ. Mã Kỳ đem tất cả quân đuổi đến cầu Tam La (ở
giáp giới huyện Thanh Oai và huyện Từ Liêm), quân phục binh của Lý Triện
đổ ra đánh, quân Minh thua chạy, nhiều người xuống đồng lầy, chạy không
được, bị chém hơn 1.000 người. Lý Triện đuổi quân Minh đến Nhân Mục,
bắt được hơn 500 người. Mã Kỳ một mình một ngựa chạy thoát được.
Bọn
Lý Triện thừa thắng tiến lên đánh đạo quân Phương Chính. Nhưng Phương
Chính thấy Mã Kỳ đã thua cũng rút quân lui, rồi cùng Mã Kỳ về hội với
Phương Thông ở bến Cổ Sở.
Vương Thông liệu tất
thế nào quân An Nam cũng đến đánh, bèn phục binh và phòng bị trước cả.
Chợt có quân của Lý Triện đến. Quân Minh giả ra đánh rồi bỏ chạy, nhử
quân ta và chỗ hiểm có chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông đi
không được, rồi lại có phục binh đổ ra đánh, Lý Triện thua chạy về giữ
Cao Bộ (ở vùng Chương Đức, Mỹ Lương) và cho người về Thanh Đàm (tức là
huyện Thanh Trì bây giờ) gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu.
Đinh
Lễ và Nguyễn Xí đem 3.000 quân và hai con voi lập tức đêm hôm ấy đến
Cao Bộ, rồi phân binh ra phục sẵn ở Tụy Động (thuộc huyện Mỹ Lương) và ở
Chúc Động (thuộc huyện Chương Đức). Chợt bắt được tên thám tử của quân
Minh, tra ra thì biết rằng quân Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo
quân đi lẻn ra đường sau quân Lý Triện để đánh tập hậu, đại quân sang
đò chỉ chờ lúc nào nghe súng thì hai mặt đổ lại cùng đánh.
Biết
mưu ấy rồi, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng làm
hiệu để đánh lừa quân giặc. Quả nhiên quân giặc nghe tiếng súng đều kéo
ùa đến đánh. Bấy giờ phải độ trời mưa, đường lầy, quân Minh vừa đến Tụy
Động thì bị quân ta bốn mặt đổ ra đánh, chém được quan Thượng Thư là
Trần Hiệp, và Nội Quan là Lý Lượng. Còn những quân sĩ nhà Minh thì chết
hại nhiều lắm: phần thì giày xéo lẫn nhau mà chết, phần thì ngã xuống
sông chết đuối, cả thảy đến hơn năm vạn người; còn bị bắt sống hơn một
vạn người, các đồ đạc khí giới thì lấy được không biết bao nhiêu mà kể.
Trận Tụy Động đánh vào tháng mười năm bính ngọ (1426).
Phương Chính và Mã Kỳ chạy thoát được, rồi cùng với Vương Thông về giữ thành Đông Quan.
Bọn Đinh Lễ thừa thắng đem binh về vây thành và cho người về Lỗi Giang báo tin thắng trận cho Bình Định Vương biết.
Vương
liền tiến binh ra Thanh Đàm, rồi một mặt sai Trần Nguyên Hãn đem 100
chiếc thuyền đi theo sông Lung Giang ra cửa Hát Giang (cửa sông Đáy
thông với sông Cái) rồi thuận dòng sông Nhị Hà xuống đóng ở bến Đông Bộ
Đầu ; một mặt sai bọn Bùi Bị đem hơn 1 vạn quân đi lẻn ra đóng ở Tây
Dương Kiều, Vương tự dẫn đại quân đến hạ trại ở gần thành Đông Quan.
Quân Minh giữ ở trong thành không ra đánh, bao nhiêu chiến thuyền thì
Vương lấy được cả.
Kể từ ngày Bình Định Vương
đem binh vào đánh Nghệ An đến giờ, tuy rằng đánh đâu được đấy, nhưng
chưa có trận nào quan hệ bằng trận Tụy Động này. Bởi vì việc thắng bại
trong 10 phần, đánh xong trận này, thì đã chắc được 7, 8 phần rồi. Quân
thế nhà Minh chỉ còn ở trong mấy thành bị vây nữa mà thôi, mặt ngoài thì
viện binh lại chưa có, mà dẫu cho có sang nữa, thì thế của Bình Định
Vương cũng đã vững lắm rồi.
Nhưng cứ trong Việt
Sử thì quân của Lý Triện và Đinh Lễ chẳng qua chỉ có mấy nghìn người mà
thôi, làm thế nào mà phá được hơn 10 vạn quân tinh binh của Vương Thông
? Vả lại sử chép rằng đánh trận Tụy Động quân An Nam giết được hơn 5
vạn quân Minh, lại bắt được hơn 1 vạn người, như thế chẳng hóa ra quân
Minh hèn lắm ru! E rằng nhà làm sử có ý thiên vị, cho nên sự thực không
được rõ lắm. Nhưng dẫu thực hư thế nào mặc lòng, đại khái trận Tụy Động
là một trận đánh nhau to, mà Vương Thông thì thua, phải rút quân về giữ
thành Đông Quan rồi bị vây, còn Bình Định Vương thì ra bắc thu phục các
châu huyện. Việc ấy chắc là thật có.
Bước đường cùng của Tổng binh Thành sơn hầu Vương Thông
Từ khi được cử làm tổng binh đi đàn áp lực lượng
Lam Sơn, Vương Thông mắc ba lần đại nhục. Ba lần ấy đủ để thiêu huỷ
toàn bộ uy danh của tướng quân thiên triều.
Mùa Đông năm Bính Ngọ (1426), quân Minh trên đất
nước ta lâm vào tình thế rất khốn quẫn. Để cứu nguy, tháng 10 năm đó,
vua Minh liền sai Thành sơn hầu Vương Thông làm tổng binh, cùng với bọn
tham tướng Mã Anh, đem năm vạn quân và năm ngàn con ngựa, tiến thẳng
sang Thăng Long. Nhưng, vừa sang đến nơi, Vương Thông đã bị thất bại
thảm hại trong trận Tốt Động – Chúc Động. Vương Thông bị trọng thương,
sau đó, cố thủ trong thành Thăng Long và kêu cứu thảm thiết. Sách Đại
Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 10, tờ 25 a-b) chép rằng:
“Vua (chỉ Lê Lợi – ND) thân đốc suất tướng sĩ vây đánh thành Đông
Quan (tức thành Thăng Long – ND) suốt cả ngày đêm. Bọn tướng nhà Minh là
Vương Thông, Sơn Thọ đánh trận nào thua trận đó, lấy làm lo sợ lắm.
Thấy hết cả mưu hay chước lạ, viện binh thì không đến, chúng bèn cho
người mang thư tới xin hoà, mong được an toàn về nước. Vua nói:
- Lời ấy đúng với ý ta. Vả chẳng, binh pháp nói là không đánh mà khuất phục được đối thủ mới là kế hay nhất.
(Nói rồi), bèn bằng lòng cho giảng hoà, lại hẹn ngày cho gọi quân sĩ ở
khắp các thành tề tựu để kịp trở về một lúc. Vua sai bề tôi bàn với
quân Minh, cho chúng được phép đi lại, mua bán như dân thường.
Bấy giờ, bọn nguỵ quan là Đô ti Trần Phong, Tham chính Lương Nhữ Hốt,
Đô chỉ huy Trần An Vinh… đã can tội bán nước làm tay sai cho giặc, sợ
rằng sau khi quân Minh rút về, chúng sẽ không còn sống sót, nên cố ngấm
ngầm làm kế phá hoại. Chúng nói với quân Minh rằng:
- Trước kia, Ô Mã Nhi bị thua ở sông Bạch Đằng, phải đem quân về
hàng. Hưng Đạo Vương cũng cho hàng, nhưng lập mưu dùng thuyền lớn chở họ
về nước, xong, lấy người giỏi bơi lặn làm phu chèo thuyền. Thuyền ra
đến ngoài biển, nhân lúc mọi người ngủ say, đang đêm, bọn phu thuyền lặn
xuống, đục thủng đáy thuyền, làm cho những người đầu hàng đều bị chết
đuối cả, không một ai sống sót trở về.
Bọn Vương thông tin lời ấy, bèn ngờ vực mà nảy ý khác, sai quân đắp
thêm thành luỹ, đào hào và thả chông để tính kế chống đỡ, ngoài mặt nói
hoà hiếu nhưng bên trong thì toan đánh lại. Chúng bí mật sai người mang
thư bọc sáp, theo lối tắt mà về nước để xin viện binh. Vua bắt được
người đưa thư, ghét chúng nuôi lòng tráo trở, liền bí mật mai phục khắp
bốn phía thành Đông Quan, đón bọn giặc do thám, bắt được hơn ba ngàn tên
và hơn năm ngàn con ngựa. Từ đấy, quân Minh đóng chặt cửa thành, không
dám ra ngoài, sứ giả hai bên qua lại cũng dứt”. Lời bàn:
Từ khi được cử làm tổng binh đi đàn áp lực lượng Lam Sơn, Vương Thông
mắc ba lần đại nhục. Lần thứ nhất là lần bị thảm bại ở Tốt Động – Chúc
Động, thân bị trọng thương, quân bị vây chặt trong thành Đông Quan, tiến
không được, thoái cũng không xong, bi đát không thể tưởng tượng được.
Lần thứ hai là lần này, trong thì trí quẫn lực kiệt, ngoài thì bọn nguỵ
quan vì quá lo cho số mạng của bản thân mà xúi đông giục tây, kế cùng
đâm ra phản trắc, hao binh tổn tướng mà chẳng thu được lợi lộc gì, thê
thảm lại càng thêm thê thảm. Lần thứ ba là lần phải cúi đầu kí vào văn
kiện đầu hàng không điều kiện và cút khỏi nước ta. Ba lần ấy đủ để thiêu
huỷ toàn bộ uy danh của tướng quân thiên triều.
Vương Thông và các tướng phụ tá cùng bọn nguỵ quan quá bất tài chăng?
Cứ như sử Trung Quốc chép mà xét thì chínhVương Thông là tướng tài
trong số những tướng tài chứ chẳng phải là thường. Có chăng thì chỉ là ở
chỗ, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cùng các tướng lĩnh Lam Sơn tài hơn. Vả
chẳng, đã là đội quân bất nghĩa thì làm gì có diệu kế để tự cứu mình. (Theo Việt sử giai thoại của Nguyễn Khắc Thuần - NXB Giáo Dục)
Sau chiến thắng vang dội ở trận đánh Chi Lăng – Xương Giang,
tiêu diệt và tóm gọn 15 vạn quan quân nhà Minh ngay từ miền biên viễn,
không cho bè lũ viện binh có cơ hội tiến sâu vào nước ta, bẻ gãy ý đồ
tập hợp lực lượng trong đánh ra, ngoài đánh vào của quân Minh, Bình Định
vương Lê Lợi cùng quân đội Lam Sơn ở thế thượng phong, đưa Vương thông
vào thế “kế cùng, viện tuyệt”, càng như cảnh “chim lồng, cá chậu”, không
có quyền tự định đoạt mạng sống cho mình.
Vua Lê Lợi và Nguyễn Trãi
Cũng sau chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang, Bình Định vương Lê Lợi
chỉ cần tung một đòn đánh nhẹ cuối cùng là có thể hạ được thành Đông
Quan dễ như trở bàn tay. Tuy vậy, Lê Lợi vẫn kiên định với chiến lược
“Viện binh bị phá thì thành tất phải hàng, làm một việc mà được cả hai,
đó mới là kế vẹn toàn”. Người được Lê Lợi tin cậy ủy thác việc chiêu dụ
Vương Thông không ai khác, chính là Nguyễn Trãi, người đã đề xuất và
kiên trì với giải pháp chiêu hàng quan quân nhà Minh đang cố thủ trong
thành Đông Quan.
Để Vương Thông nhìn rõ đại cuộc và tình thế nguy hiểm của hắn, Nguyễn
Trãi nói thẳng vào mặt tên tướng gian xảo: “Nay lấy một thành Đông Quan
cỏn con, ta đem cả nước lại vây đánh quả là rất dễ”. Vương Thông vốn đã
nao núng tinh thần, nhưng vẫn còn dùng dằng chưa quyết bởi tiếc nuối
mảnh đất Đại Việt mà tập đoàn phong kiến phương Bắc bao phen dòm ngó xâm
lược chưa thành.
Để Vương Thông dứt hẳn tơ tưởng đến viện quân và tăng cường thị uy
hắn, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cho giải tướng giặc trong đoàn viện binh bị
bắt giữ làm tù binh là Thôi Tụ và Hoàng Phúc, lại cho bày cả song hổ phù
của Liễu Thăng cùng hàng loạt vật dụng của các tướng Minh bị giết trong
trận Chi Lăng – Xương Giang dưới chân thành Đông Quan cho Vương Thông
và tay chân của hắn thấy rõ. Cùng với đó, Lê Lợi cho quân tiếp tục siết
chặt vòng vây Đông Quan, lại cho đắp thêm lũy đất ở Cửa Nam và Cửa Bắc,
làm như sắp đánh hạ thành Đông Quan đến nơi, khiến cho Vương Thông khiếp
vía mà phải xin hàng.
Cuối cùng, mặc dù vẫn còn tiếc nuối, nhưng không còn cách nào khác,
Vương Thông đành phải cúi đầu xin hàng trước đội quân Lam Sơn, kết thúc
7.629 ngày quân Minh nện gót chân trên đất Đại Việt.
Để buộc Vương Thông phải cúi đầu xin hàng, dâng thành Đông Quan cho
Bình Định vương Lê Lợi, ngoài việc đẩy mạnh chiến dịch quân sự, chặt hết
đường viện binh và viện lương của giặc, còn phải kể tới tài năng thuyết
khách của Nguyễn Trãi. Chính bản thân Nguyễn Trãi đã 5 lần đích thân
vào thành Đông Quan để chiêu dụ Vương Thông. Trước một Vương Thông gian
xảo, đa nghi (hắn luôn lo sợ quân đội Lam Sơn cũng sẽ hành động lật lọng
giống như hắn, giả vờ hòa hoãn để tiêu diệt hắn nếu hắn đồng ý kéo quân
ra ngoài thành), Lê Lợi sẵn sàng đưa con trai của mình là Tư Tề cùng
Lưu Nhân Chú vào thành để trao đổi con tin. Đây là bằng chứng cao nhất
khẳng định sự chân thành của lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn, sẵn sàng mở con
đường sống cho đoàn quân xâm lược bại trận.
Cuộc chiến giành độc lập cho đất nước của nghĩa quân Lam Sơn chính
thức đi đến hồi kết khi Vương Thông đồng ý uống máu ăn thề xin rút quân
khỏi Đại Việt. Sự kiện uống máu ăn thề, sử sách vẫn gọi là Hội thề Đông
Quan, có một không hai trong lịch sử sẽ được chúng tôi giới thiệu tới
quý bạn đọc trong bài tiếp theo…
Nguyễn Tào
Tha chết cho 10 vạn giặc Minh – Người Việt đã từng là một dân tộc “đại nghĩa”
Trần Hưng
• 49.8k lượt xem
Một
dân tộc sau 20 năm chịu cảnh nô lệ, thế nhưng sau khi giành được chiến
thắng đã đại nghĩa tha chết cho hơn 10 vạn đội quân của triều đình
phương Bắc đã từng đô hộ mình. Không chỉ thế dân tộc đó còn sửa sang
đường xá, cung cấp ngựa, thuyền cũng như lương thực đầy đủ để đội quân
này về nước.
Tấm lòng đại
nhân đại nghĩa ấy tưởng như chỉ là chuyện hoang đường, nhưng đã được
người dân Đại Việt thực hiện, khiến kẻ xâm lăng chỉ có thể cảm kích đến
chảy nước mắt, dù nhục nhã thua trận vẫn chỉ có thể cúi đầu tâm phục
khẩu phục. Đó chính là cái kết “đại nghĩa” và “chí nhân” mà Nguyễn Trãi
nói đến trong câu thơ:
ADVERTISEMENT
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Bối cảnh
Cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra bắt đầu từ năm 1418. Giai đoạn đầu của cuộc
khởi nghĩa, Lê Lợi cùng các nghĩa quân nhiều lần phải rút về núi Chí
Linh trước sức mạnh của quân Minh.
Đến
năm 1420, Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa quân, ra mắt chủ tướng Lê Lợi với
cuốn sách “Bình Ngô”, nêu những kế sách để đánh đuổi quân Minh. Được Lê
Lợi tin tưởng, ông đã vạch ra kế sách chiến lược đánh quân Minh, từ đó
nghĩa quân Lam Sơn giành được nhiều thắng lợi quan trọng và ngày càng
lớn mạnh, hết tiến về phía Nam lại tiến ra Bắc, tiến quân đến đâu giành
thắng lợi đến đó.
Trước
tình hình này, vào tháng 9/1426, nhà Minh cử Vương Thông làm tổng binh
đưa 5 vạn viện binh sang, hợp với hơn 5 vạn quân ở Giao Chỉ thành hơn 10
vạn, tiến đánh quân Lam Sơn. Quân Minh bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại ở
Tốt Động – Chúc Động. Vương Thông thua trận phải chạy vào thành Đông
Quan (tức thành Thăng Long) cố thủ rồi cho người về nước xin thêm viện
binh.
Nguyễn Trãi nhiều lần viết thư
cho Vương Thông đề nghị nghị hòa, nhưng Vương Thông chỉ đồng ý nhằm kéo
dài thời gian chờ viện binh, mặt khác cho đào hào cắm chông để cố thủ.
Nguyễn Trãi biết được điều này nên cho quân vây thành chặt hơn, đồng
thời gửi tiếp thư cho Vương Thông nói rõ nếu muốn hàng thì quân Minh
phải ra hàng ngay.
Biết quân Minh
không hàng vì còn hy vọng quân cứu viện, Nguyễn Trãi bèn tính kế đánh
bại 15 vạn viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh.
10
vạn quân của Liễu Thăng đến ải Chi Lăng thì bị phục binh xông ra đánh
úp khiến bị tan rã hoàn toàn, Liễu Thăng cũng bị tử trận.
Mộc
Thạnh đưa 5 vạn quân đóng ở biên giới, chần chừ chưa vội tiến quân nhằm
nghe ngóng cánh quân của Liễu Thăng. Quân Lam Sơn đưa một số tù binh
mang sắc thư, phù ấn của Liễu Thăng đến báo cho Mộc Thạnh biết Liễu
Thăng đã tử trận.
Cánh quân của Mộc
Thạnh hay tin thì kinh hoàng, phút chốc cả 5 vạn quân tan vỡ quay đầu
chạy về nước. Quân Lam Sơn thừa thắng đuổi theo khiến hàng vạn quân Minh
bị tiêu diệt.
15 vạn viện binh thoáng
chốc đã bị diệt sạch. Việc đánh thành Đông Quan lúc này là quá dễ với
nghĩa quân Lam Sơn. Nhiều tướng bàn nên tấn công hạ thành, nhưng Nguyễn
Trãi muốn chiêu hàng để đỡ hao tổn binh sĩ hai bên.
5 lần một thân một mình vào thành khuyên hàng
Để
chiêu hàng Vương Thông, Nguyễn Trãi không chỉ nhiều lần viết thư khuyên
nhủ, mà ông cũng đã phải 5 lần một mình vào thành Đông Quan nhằm phân
tích tình hình khuyên nhủ các tướng quân Minh nên đầu hàng. Đồng thời
ông cũng đảm bảo sẽ cung cấp đủ ngựa, thuyền, lương thực để toàn bộ 10
vạn quân Minh được an toàn trở về nước.
Thế
nhưng quân Minh biết rằng, trong thời gian thống trị ở Giao Chỉ, họ đã
gây rất nhiều nợ máu cho người dân nơi đây. Việc tha thứ cho 10 vạn quân
gây bao nhiêu tội ác an toàn về nước được xem là điều không thể, nhất
là các tướng chỉ huy. Vì thế mà các tướng Minh đều liều chết quyết giữ
thành chứ không hàng.
Vương
Thông một mặt trả lời sẽ xem xét nhằm giảng hòa, một mặt cho quân dò la
tình hình vây thành. Quân Minh tìm ra được điểm yếu, liền đem quân bất
ngờ vượt thành đánh ra để phá vây. Thế nhưng quân Lam Sơn đã chuẩn bị
trước tình huống này, nên giả thua bỏ chạy. Quân Minh đuổi theo thì rơi
vào trận địa mai phục, Vương Thông bị ngã ngựa suýt nữa thì bị bắt, phải
chạy tháo thân trở vào thành.
Vương Thông viết thư về báo với vua Minh về việc giảng hòa với quân Lam Sơn, trong thư có đoạn sau:
Chớ
tham đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm, giả sử dùng quân được
như số quân đi đánh khi đầu, lại được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương
Phụ thì mới có thể đánh được, tuy nhiên có đánh được cũng không thể giữ
được…
Đại Việt sử ký toàn thư
Nguyễn Trãi dùng nhân nghĩa, kiên trì thuyết phục quân Minh đầu hàng, đúng như những gì ông viết trong “Bình Ngô đại cáo”:
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công
Trước
sự kiễn nhẫn cùng sự chân thành của Nguyễn Trãi, lại đang lâm cảnh
đường cùng, Vương Thông đồng ý nghị hòa. Ông ta liền đưa một số tướng
làm con tin giao cho quân Lam Sơn. Người dân cùng các tướng sĩ đến xem
đều đề nghị xin cho giết bọn chúng, nhưng Lê Lợi đáp rằng:
Trả
thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng không thích giết người
là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng, mà mình lại giết
thì là điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt để hả nỗi căm giận trong chốc
lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng tha
mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử
xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao?
Đại Việt sử ký toàn thư
Tội ác quân Minh gây ra cho người dân Giao Chỉ
Nói đến đây, phải nhắc lại tội ác mà quân Minh từng gây ra cho người dân Giao Chỉ.
Năm
1407, sau khi đánh bại nhà Hồ, nhà Minh đã vơ vét mang về phương bắc
235.900 con voi, ngựa, trâu bò; thóc gạo 1,36 triệu thạch, thuyền bè
8.677 chiếc, cùng hơn 2,5 triệu khí giới. Đó là chưa kể số kim loại quý,
cùng các mỏ vàng, bạc, ngọc trai, gỗ quí, lâm sản, hồ tiêu, v.v.
Nhằm
thực hiện nền thống trị lâu dài, nhà Minh không ngừng xây thành lũy,
cầu cống, đường sá. Hàng chục vạn dân đinh từ 16 đến 60 tuổi phải ra các
công trường với chế độ lao dịch cưỡng bức và sinh hoạt rất thiếu thốn.
Các công trường khai mỏ và mò ngọc trai cũng nhiều nhân công. Những
người thợ phải làm việc trong điều kiện khắc nghiệt, nguy hiểm đến tính
mạng.
Chính
sách thuế khóa nhà Minh áp dụng với Giao Chỉ rất nặng nề, trong đó có 2
ngạch chính là thuế ruộng đất và thuế công thương nghiệp. Nhà Minh cử
nhiều hoạn quan sang Việt Nam để tiến hành thu thập thuế, cống gửi về
kinh đô, đồng thời vơ vét thêm chừng ấy nữa cho riêng mình.
Ngoài
ra, quân Minh còn liên tục đàn áp những nghĩa quân kháng Minh với những
tội ác như chém giết, cướp bóc, mổ bụng đàn bà có thai, để khủng bố
lòng người. Họ cũng không nhân từ với những người nổi dậy. Cuốn sách sử
của Trung Quốc là “Minh sử bản mạt kỷ sự” có ghi chép về thời kỳ này
rằng quân Minh đã “chôn sống hàng ngàn tù binh rồi chất xác họ thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy dầu”.
Nguyễn Trãi đã mô tả trong “Bình Ngô đại cáo” như sau:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế, Gây binh kết oán trải hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc. Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng, Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ; Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những núi phu phen, Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được?
Các
thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn như Lê Lợi, Nguyễn trãi cùng các tướng sĩ
khác đều có thù nhà với quân Minh. Hầu hết người dân Giao Chỉ đều khổ sở
dưới sự áp bức của nhà Minh. Ấy vậy mà dân tộc ta lại có thể làm ra một
quyết định “đại nghĩa”: tha cho và giúp đỡ toàn bộ đội quân từng gây
tội ác thấu trời xanh như vậy trở về nước.
Hội thề Đông Quan
Ngày
22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427), toàn bộ quân Minh ra đầu hàng, các thủ
lĩnh của hai bên tham gia hội thề ở phía Nam thành Đông Quan, ngay bên
bờ Nhị Hà (nay là sông Hồng).
Rất
nhiều người nhắc lại với chủ tướng Lê Lợi về sự thống khổ mà người dân
từng chịu đựng, cũng như tội ác của quân Minh đã từng gây ra, thế nhưng
Lê Lợi đáp rằng:
Việc
dùng binh lấy sự toàn quân là hơn cả. Nay hãy để cho lũ Vương Thông về
nói với vua Minh, trả lại đất cho nước ta, không còn trở lại xâm lấn,
thì ta còn cầu gì hơn nữa, hà tất phải giết hết, để kết mối thù với nước
lớn.
Đại Việt thông sử
Tại
hội thề lịch sử Đông Quan, Vương Thông đại diện cho các tướng sĩ quân
Minh đọc “bài văn hội thề”, thề rằng sẽ ngừng chiến mà rút quân về nước,
việc rút quân về nước sẽ hoàn tất trong vòng 5 tháng, trên đường rút về
không thực hiện việc cướp bóc sách nhiễu dân chúng, không tái diễn xâm
lược Giao Chỉ.
Về phía nghĩa quân Lam Sơn cũng hứa cung cấp đủ ngựa, thuyền và lương thực cho hơn 10 vạn quân Minh rút về nước.
Kết
thúc hội thề các tướng nhà Minh phải cúi đầu thực hiện đúng các cam kết
mà nghĩa quân Lam Sơn đặt ra. Quân “thiên triều” cảm kích xấu hổ chảy
nước mắt, dù nhục nhã nhưng phải tâm phục khẩu phục.
Lê
Lợi lệnh cho các lộ ở Bắc Giang và Lạng Sơn tu sửa đường xá để quân
Minh rút về nước. Quân Lam Sơn cũng cung cấp 500 thuyền và hơn 2 vạn
ngựa cho quân Minh sử dụng, cũng như lương thực đầy đủ, các quan lại đô
hộ của nhà Minh cũng được thả về nước sau đó. Các quân tướng nhà Minh
trước khi về nước đã vô cùng cảm kích đến trước dinh Bồ Đề mà lạy tạ.
Sách
“Đại Việt thông sử” có ghi chép rằng các tướng Minh là Phương Chính, Mã
Kỳ tới dinh Bồ Đề cáo biệt Lê Lợi, ở lại chơi suốt cả buổi chiều, Lê
Lợi sai sắm trâu ngựa, trướng vẽ và lễ phẩm hậu tặng.
“Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi chép rằng: “Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về. Bọn Phương Chính vừa xúc động vừa hổ thẹn đến rơi nước mắt.”
Vương
Thông nói chuyện với Lê Lợi suốt đêm rồi mới về nước, Lê Lợi cho đem
trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn chân rất hậu.
Về sự việc này Nguyễn Trãi có mô tả trong “Bình Ngô đại cáo” như sau:
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
Về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay.
“Minh sử kỷ sự bản mạt” ghi chép rằng: “Vương
Thông lực yếu mà phải xin hoà, Liễu Thăng lại sang rồi bị thua chết.
Sau đó lại xuống chiếu sai sứ sang giao hảo và rút quân về, nhục nhã
thực bằng Tân, Trịnh hội thề dưới chân thành, hổ thẹn ngang với Kính
Đường cắt đất giảng hoà vậy”
Từng là một dân tộc “đại nghĩa”
Một dân tộc suốt 20 chịu cảnh nô lệ, người dân bị đô hộ rên xiết thấu cả trời xanh, như những gì Nguyễn Trãi đã mô tả:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Thế
nhưng một dân tộc được xem là nhược tiểu ấy sau khi chiến thắng đội
quân hùng mạnh của “thiên triều”, vẫn bao dung không chấp vào tội ác,
không chỉ tha cho toàn bộ đội quân hơn 10 vạn trở về nước, mà còn tu sửa
đường xá, cung cấp ngựa xe, thuyền, và lương thực đầy đủ, đúng như
những gì Nguyễn Trãi mô tả:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đội
quân được gọi là “thiên triều” ấy chỉ có thể cảm kích, “hổ thẹn đến rơi
nước mắt”, thua trận phải tâm phục khẩu phục, sau này không còn có ý
tưởng dòm ngó nước nam. Đó cũng chính là dùng đức để cảm hóa nhân tâm.
Có
người bình rằng việc tha chết cho 10 vạn quân Minh chỉ là do vua quan
Đại Việt muốn yên ổn, nhưng sự thật không phải là như vậy. Trong lịch sử
nước ta đã rất nhiều lần người Việt đánh bại quân xâm lược mà không hề
chùn bước vì muốn yên ổn. Hơn nữa, mối thù sâu đậm do quân Minh gây ra
không phải là chỉ cần mấy chữ “muốn yên ổn” là có thể xóa nhòa được.
Tư
tưởng của Nguyễn Trãi – “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, “đem đại nghĩa
để thắng hung tàn” – đã thể hiện tấm lòng đại nghĩa của người dân Đại
Việt, ghi lại một điểm sáng chói lọi nhất trong sử Việt. Thời khắc huy
hoàng ấy không có được nhờ một chiến thắng, không đánh đổi bằng máu và
nước mắt, mà đạt tới nhờ lòng vị tha.
Tiếc
thay đến nay tư tưởng “chí nhân”, “đại nghĩa” của cha ông ta xưa kia đã
bị thay thế bởi những điều xa lạ. Rất nhiều người Việt ngày nay vừa
bình luận về một mâu thuẫn nào đó thì câu cửa miệng là “phải đấu tranh”
để đạt được cái này cái kia. Áp dụng “đấu tranh giai cấp” vào trong xã
hội, giáo dục “đấu tranh giai cấp” trong nhà trường, những sai lầm đó đã
và đang hủy hoại phần quý giá nhất trong tâm hồn người Việt. Quan hệ
giữa người với người ngày nay quả thật là quá căng thẳng.
Nếu
xã hội Việt Nam ai ai cũng có thể bao dung tha thứ cho nhau, đối xử với
nhau đều dùng Nhân, Nghĩa, vứt bỏ thứ “học thuyết đấu tranh” tồn tại
bấy lâu nay, thì mối quan hệ xã hội mới có thể bền chặt, chúng ta mới có
được cơ sở để xây dựng một đất nước hùng cường.