Trận hải chiến nhấn chìm tham vọng bá chủ Địa Trung Hải của Italy
Biên đội tàu chiến hùng hậu của Italy mở chiến
dịch tập kích đội tàu hộ tống Anh trên Địa Trung Hải nhưng hứng chịu
thất bại nặng nề.
Thiết giáp hạm Vittorio Veneto của hải quân Italy khai hỏa. Ảnh: Wikipedia.
Mùa xuân năm 1941, nhà độc tài Italy Benito Mussolini cho rằng đã
đến lúc thực hiện tham vọng biến Địa Trung Hải thành ao nhà để xây dựng
đế chế La Mã thứ hai. Ở thời điểm đó, phát xít Đức đã xâm chiếm Pháp,
còn Nga và Mỹ vẫn chưa tham chiến, theo National Interest.
Phe Đồng minh chỉ còn lại Anh, nhưng hải quân nước này phải dàn mỏng để
vừa đối phó với tàu ngầm U-boat Đức ở Đại Tây Dương, vừa phải hộ tống
các đoàn tàu tiếp tế cho lực lượng viễn chinh ở Ai Cập và Malta trước nguy cơ bị tàu chiến Đức tập kích.
Đúng thời điểm đó, Hy Lạp gia nhập phe Đồng minh. Để bảo vệ Hy Lạp trước
các quân đoàn Panzer của Hitler, thủ tướng Anh Winston Churchill quyết
định điều quân bằng đường biển đến hỗ trợ Athen và hải quân Anh được
giao nhiệm vụ hộ tống lực lượng này.
Tuy nhiên, để đến Hy Lạp, đội tàu Anh phải đi qua khu vực nguy hiểm gần
Italy. Dù là nước yếu nhất phe Trục, Italy lại có hải quân hùng mạnh tập
trung ở giữa Địa Trung Hải, có thể hoạt động gần các cảng của nước này
dưới sự cảnh giới của nhiều máy bay từ căn cứ mặt đất tại Italy và
Sicily.
Để thực hiện tham vọng bá chủ Địa Trung Hải của mình cũng như tuân thủ
yêu cầu từ phía Đức, Mussolini ra lệnh cho hải quân Italy tấn công đội
tàu hộ tống của Anh. Ngày 26/3/1941, hải quân Italy phát động
chiến dịch Gaudo, huy động lực lượng lớn gồm thiết giáp hạm Vittorio
Veneto, 6 tàu tuần dương hạng nặng và 17 khu trục hạm tham gia.
Theo chuyên gia quân sự Michael Peck, hải quân Anh giành được lợi thế
khi chặn thu và giải mã tín hiệu liên lạc giữa Đức với Italy, biết được
kế hoạch tác chiến của tàu chiến Italy trước khi chúng rời cảng.
Bản đồ trận chiến ngoài khơi đảo Crete. Ảnh: Naval History.
Vì thế, hải quân Anh cũng triển khai hai thiết giáp hạm, 7 tuần dương
hạm hạng nhẹ, 17 khu trục hạm và tàu sân bay Formidable tham gia đoàn hộ
tống. Lực lượng tình báo tín hiệu của Italy phát hiện ra tàu sân bay
Anh, nhưng đô đốc Angelo Iachino vẫn cho tiến hành chiến dịch.
Sáng 28/3, tàu tuần dương hạng nặng của Italy phát hiện nhóm tàu tuần
dương Anh ở ngoài khơi đảo Crete nên quyết định đuổi theo và bắn 535 quả
đạn pháo 203 mm, nhưng đều trượt mục tiêu do hệ thống kiểm soát hỏa lực
lạc hậu. Sợ bị rơi vào bẫy, lực lượng Italy quay đầu trở lại phía các
thiết giáp hạm, trong khi các tàu Anh chuyển hướng đuổi theo phía sau.
Đô đốc Andrew Cunningham, chỉ huy đoàn hộ tống Anh, nhận thấy
thiết giáp hạm của ông không thể đuổi kịp tàu chiến Italy nên đã ra lệnh
cho chiến đấu cơ trên tàu sân bay Formidable xuất kích. Các chiến đấu
cơ Swordfish đã đuổi kịp và phóng ngư lôi trúng chân vịt của thiết giáp hạm Vittorio Veneto khiến nó không thể tiếp tục cơ động.
Ngư lôi từ chiến đấu cơ Swordfish tiếp tục bắn nổ nồi hơi của tuần dương
hạm hạng nặng Pola, khiến con tàu chết máy trên biển. Chỉ huy hải quân
Italy quyết định điều hai tuần dương hạm và 4 khu trục hạm tới để cứu
kéo tàu Vittorio Veneto về căn cứ mà không hề biết rằng hạm đội Anh đang phục kích ở gần đó.
Phát hiện đội tàu chiến Italy tiến tới trong đêm tối, Đô đốc
Cunningham ngay lập tức ra lệnh cho ba thiết giáp hạm của mình đồng loạt
khai hỏa trực diện, bắn chìm các tuần dương hạm hạng nặng và hai khu
trục hạm Italy.
HMS Formidable góp công lớn trong chiến thắng của Anh. Ảnh: Wikipedia.
Bị mất ba tàu tuần dương hạng nặng trong một trận hải chiến là
thảm họa thực sự với hải quân Italy, khiến giấc mộng bá chủ Địa Trung
Hải của Mussolini tan thành mây khói.
Trận hải chiến ở Mũi Matapan cũng có tác động rất lớn, khiến hải quân
Italy nhận ra họ không thể dựa vào các chiến đấu cơ trên bộ nhưng lại
không có tàu sân bay để lấp khoảng trống này. Việc không được trang bị
radar cũng khiến chiến hạm Italy gặp bất lợi khi chiến đấu ban đêm. Với 4 thiết giáp hạm còn lại, hải quân Italy không đủ sức đối đầu với hải quân Anh trong thời gian còn lại của Thế chiến II.
Duy Sơn
Chiến hạm Anh 'giả chết' lừa diệt tàu ngầm Đức
Sau khi bị trúng ngư lôi, HMS Stock Force đã nghi binh để dụ tàu ngầm U-boat nổi lên trước khi tung hỏa lực tiêu diệt.
Các thủy thủ Anh trên một chiếc Q-ship
Trong thế chiến I, để đối phó với tàu ngầm U-boat của Đức, hải quân Anh
đã chế tạo lớp tàu Q-ship, chiến hạm được vũ trang hạng nặng nhưng có vẻ
ngoài giống tàu hàng. Q-ship sẽ dụ tàu ngầm đối phương nổi lên bằng
cách giả vờ sắp chìm hoặc bị hư hại, sau đó tung đòn tấn công từ hệ
thống hỏa lực áp đảo trên tàu, theo War History.
Minh chứng thành công cho chiến thuật này là tàu HMS Stock Force do
trung úy Harold Auten thuộc lực lượng dự bị hải quân Anh chỉ huy. Ngày
30/7/1918, một tàu ngầm Đức bắn ngư lôi trúng HMS Stock Force ở eo biển
Manche, cách bờ biển Devon khoảng 40 km.
Quả ngư lôi đánh trúng phía trước tàu, khiến nhiều mảnh vỡ bay lên không
trung, nhiều sĩ quan và thủy thủ bị thương, khẩu đội pháo phía trước
cũng bị vô hiệu hóa. Phần mũi tàu bị hỏng bắt đầu chúi xuống biển. Trên
boong, bác sĩ G.E Strahan cứu chữa những người bị thương giữa làn nước
ngập đến hông.
Theo sử gia Barney Higgins, sự hoảng loạn này nằm trong chiến thuật nhử
mồi của Q-ship. Một nhóm thủy thủ có nhiệm vụ giả vờ bỏ tàu để dụ chiếc
U-boat đối phương nổi lên.
Sự hoảng loạn trên tàu HMS Stock Force diễn ra như thật dưới sự chỉ huy
của một trung úy thợ máy, người bị thương trong đợt tấn công đầu tiên.
Trên các xuồng nhỏ, người thợ máy và đồng đội thoát ly khỏi tàu mẹ bị
hỏng. Khi họ chèo được 800 m, tàu ngầm Đức từ từ nổi lên mặt nước.
Tàu HMS Stock Force trước khi rời cảng. Anh: War History.
Trong khi đó, thuyền trưởng Harold Auten vẫn ở nguyên vị trí trên tàu
cùng hai khẩu đội pháo không bị hư hỏng. Ở phần mũi tàu bị vỡ, một thành
viên khẩu đội pháo bị kẹt dưới đống đổ nát. Nước vẫn dâng lên xung
quanh, nhưng trung úy Auten và đồng đội hiểu rằng tiến hành cứu hộ sẽ
làm hỏng kế hoạch nhử mồi đang rất thành công.
Người lính bị thương nằm im, dũng cảm chấp nhận số phận. Kíp tàu ngầm
Đức rất cảnh giác trước cái bẫy này, nhưng khi thấy tàu Anh đang chìm,
họ tin rằng nó chỉ là một tàu tiếp tế và là miếng mồi ngon cho chiếc
U-boat uy lực. Khi quan sát xuồng nhỏ trở lại HMS Stock Force, thuyền
trưởng tàu ngầm Đức ra lệnh áp sát tàu địch cho đến khi còn cách 274 m.
Trung úy Auten vẫn chưa ra lệnh khai hỏa. Ông chờ cho đến khi tàu ngầm
Đức tiến vào tầm bắn hiệu quả của hai khẩu pháo rồi mới phát lệnh tấn
công, 40 phút sau khi tàu bị trúng ngư lôi. Hai khẩu pháo trên HMS Stock
Force nã liên tiếp ba phát đạn, biến tàu ngầm Đức từ kẻ săn mồi trở
thành con mồi.
Phát bắn đầu tiên phá hủy một kính tiềm vọng trên chiếc U-boat, phát thứ
hai trúng tháp chỉ huy khiến nó nổ tung, làm lính Đức bên trong văng
lên cao, trong khi phát thứ ba xé rách phần thân tàu ngầm nổi trên mặt
nước.
Nước biển ồ ạt tràn vào tàu ngầm Đức thông qua lỗ thủng. Chiếc tàu ngầm
U-boat không thể bắn trả khi phần mũi bắt đầu ngóc lên khỏi mặt nước,
còn phần đuôi từ từ chìm xuống. Các khẩu pháo trên HMS Stock Force tiếp
tục dội mưa đạn vào tàu ngầm đối phương cho đến khi nó chìm hẳn.
Ụ pháo được giấu kín trên lớp Q-ship. Ảnh: War History.
HMS Stock Force trụ vững gần 4 giờ rồi mới chìm. Các thủy thủ tìm mọi
cách để giữ cho tàu nổi đến khi nhóm cứu hộ gồm một tàu kéo và hai tàu
phóng lôi đến nơi. Sau khi thủy thủ được sơ tán, chiếc tàu cũng chìm
xuống đáy biển.
Pháo thủ bị mắc kẹt dưới đống đổ nát phía trước tàu cũng được cứu kịp
thời khi gần chết đuối, sau đó được ca ngợi vì lòng dũng cảm. Với sự chỉ
huy tỉnh táo, thuyền trưởng Harold Auten giành thắng lợi nhờ kết hợp
chiến thuật nghi binh của lớp Q-ship với sự dũng cảm cá nhân và đồng
đội.
Auten được trao tặng huân chương Victoria vì thành tích chiến đấu. Tuy
nhiên, Q-ship là bí mật quân sự của Anh, điều đó khiến rất ít người biết
tới trận đánh của ông và HMS Stock Force.
Danh tiếng của Auten chỉ được biết đến sau chiến tranh. Ông đã viết một
cuốn sách về tàu Q-ship, thậm chí đóng phim câm về HMS Stock Force.
Auten trở lại phục vụ hải quân Anh trong Thế chiến II và sống sót khi
chiến tranh kết thúc, sau đó định cư ở Mỹ và qua đời năm 1964 ở tuổi 73.
Duy Sơn
Cuộc chiến bảo vệ Malta - Kỳ 1
Trong Chiến tranh Thế giới thứ 2, tháng 6/1940, hòn
đảo Malta vẫn là một vấn đề nhức nhối đối với quân Đồng minh. Một mặt,
đây là căn cứ cuối cùng của Đồng minh ở Địa Trung Hải, nằm trên tuyến
hải vận xương sống không chỉ để giúp vận chuyển quân lính mà còn giúp
triển khai các cuộc phản công phe Phát xít. Mặt khác, nó chính nơi đóng
quân của Hạm đội Địa Trung Hải Hải quân Hoàng gia Anh, những người điều
phối hoạt động hải quân Đồng minh trong khu vực.
MỤC TIÊU CỦA QUÂN PHÁT XÍT
Malta
cách đảo Sicily 117 dặm và cách đất liền Italy tới 400 dặm. Chế độ phát
xít của Benito Mussolini tuyên chiến với các quốc gia Đồng minh vào
ngày 10/6 và đứng về phía Đế chế thứ 3 của Hitler. Tình hình ấy bất ngờ
đặt hòn đảo nhỏ này vào gọng kìm của một kẻ thù mới. Thậm chí trụ sở của
Hạm đội Địa Trung Hải Hải quân Anh phải nhanh chóng rời sang Alexandria
để đảm bảo an toàn. Tới giữa thế kỷ 20, Malta không còn là một thành
trì kiên cố nữa, nó đã trở thành một trung tâm thương mại trong một khu
vực ngày càng nóng hơn về mặt kinh tế. Nói cách khác, Malta giờ rất khó
phòng thủ được.
Máy bay Savoia - Marchetti của Italy.
Tuy
nhiên, quân Đồng minh vẫn buộc phải bảo vệ hòn đảo này. Dù hòn đảo gần
với Italy, còn các lực lượng không quân và hải quân của nước này đặt
ngay tại Sicily, việc đánh mất quyền kiểm soát Malta và tuyến đường vận
tải trên biển gần như chắc chắn ngay lập tức nối giáo cho chiến dịch của
phe Trục ở Bắc Phi. Ngay khi Mussolini đưa Italy vào chiến tranh, hắn
đã cho đẩy mạnh hoạt động quân sự trên khắp Địa Trung Hải. Italy hiểu rõ
chìa khóa để nắm lấy Malta và phần còn lại của khu vực không phải là
trên biển, mà là từ trên không.
Không quân
Italy lập tức mở một chiến dịch ném bom trên khắp Malta. 55 chiếc Savoia
- MarchettiSM 79 đã dội 142 quả bom xuống Hal Far, Ta’Qali và Luqa - 3
sân bay quân sự chính trên đảo. Với 20 chiếc chiến đấu cơ Macchi C200
bay hộ tống, cuộc ném bom diễn ra đầy bất ngờ. Vài giờ sau, đợt tấn công
thứ hai bắt đầu từ Sicily khi 38 chiếc máy bay ném bom và 12 chiến cơ
gần như san bằng cả thủ đô Valletta. Diễn ra trên độ cao 6.100 m, phi
đội này gần như không gặp phải sự kháng cự nào từ trên không lẫn trên
mặt biển. Tổng cộng 8 cuộc nã bom đã được tiến hành trên khắp Malta chỉ
trong hơn 1 ngày.
Một tàu hàng bị không quân Đức tấn công ở Valleta.
Sức
kháng cự yếu kém của Malta chính là hậu quả của việc bộ chỉ huy Đồng
minh ngày càng ít ưu tiên hòn đảo này hơn khi mà chiến tranh đang bùng
nổ ở nhiều nơi khác. Chỉ có một sự hiện diện hải quân mờ nhạt xung quanh
vùng biển của hòn đảo này, bên cạnh vài chiếc máy bay Sea Gladiator cũ
kĩ đóng tại đây. Các cuộc ném bom diễn ra quá nhanh tới mức phi công của
Không quân Hoàng gia Anh (RAF) không kịp trở tay.
Cuộc bao vây
RAF
tỏ ra chậm chạp trước những cuộc tấn công chớp nhoáng của Không quân
Italy (IAF). Trong 10 ngày diễn ra cuộc vây hãm, một nhóm 4 máy bay 2
tầng Sea Gladiator được giao nhiệm vụ bảo vệ vùng trời của hòn đảo. Dù
bị áp đảo về quân số, chỉ 2 trong số này bị bắn rơi trước khi viện binh
gồm 12 máy bay ném ngư lôi Fairey Swordfish bất ngờ xuất hiện vào ngày
19/6 từ miền nam nước Pháp. Những chiếc máy bay mới này đã giúp củng cố
hàng phòng không vốn yếu ớt của Malta trước khi một nhóm máy bay Hawker
Hurricanes được điều đến nơi vào đầu tháng 7 để lập nên phi đội 261 của
RAF.
Có nhiều máy bay hơn, RAF có cơ hội đầy
lùi quân Italy rõ rệt hơn. Nhưng cuộc chiến này cũng đã khiến cả hai
tiêu hao lực lượng, chịu nhiều thiệt hại lớn. Trong tháng 8, nhiều đợt
máy bay Hawker Hurricane viện trợ đã xuất hiện, nhưng một nỗ lực đưa 17
chiếc loại này đến Malta vào ngày 17/11/1940 đã thất bại khi 8 chiếc đã
bị mất tích. Chúng không bị bắn hạ trên bầu trời, mà đơn giản là đã bay
quá xa về phía tây và không còn đủ nhiên liệu để tới Malta.
Tuy
nhiên, dù có số lượng vượt trội, IAF cũng không quá mạnh và hiệu quả
như những gì chiến dịch mở màn của họ cho thấy. Máy bay của IAF không
nhanh và cũng không chất lượng như những chiếc máy bay của Đức, vì thế
số lượng tương đối ít máy bay phòng thủ Malta vẫn có thể đứng vững trước
các cuộc tấn công của Italy. Trong khi hải quân của Mussolini cũng tỏ
ra kém cỏi tương tự trong nỗ lực đổ bộ quân, quân Đồng minh lại liên tục
tiến hành củng cố lực lượng. Như thế, dù rất nỗ lực, Italy vẫn không
chứng minh được sức mạnh đáng sợ thực sự.
Nhận
ra không quân của Mussolini không thể chiếm được Malta và khu vực xung
quanh, Hitler đã ra lệnh đặt thủy lôi trên bờ biển Tripoli để đẩy lùi
các cuộc công kích của Đại tá hải quân Anh Agnew. Tháng 12/1941, đội đặc
nhiệm Force K của Hải quân Hoàng gia Anh bị dính bẫy thủy lôi gần cảng
Tripoli và nhiều tàu đã bị đánh chìm hoặc hư hại nặng nề. Hitler tiếp đà
đó ra lệnh thành lập bộ chỉ huy Luftflotte 2 ở Sicily vào tháng 1/1942
để phá vỡ hàng phòng thủ của Malta. Những chiếc máy bay của Không quân
Đức (Lufwaffe) được điều đến và cuộc vây hãm Malta lần thứ hai nổ ra.
Trần Anh
Cuộc chiến bảo vệ Malta-Kỳ cuối
Tới lúc này, những chiếc máy bay của Anh bảo vệ vùng
trời Malta gần như không thể hoạt động tốt được nữa. Những chiếc Hawker
Hurrican đã quá đát và thiếu phụ tùng thay thế không còn ở trong tình
trạng tốt để chiến đấu. Trong khi đó, IAF có máy bay mới hơn, nhưng các
phi công của họ lại trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm hơn so với quân Anh.
CUỘC VÂY HÃM THỨ HAI
Tháng
1/1942, mọi chuyện đã có diễn biến mới. Một phi đội Messerschmitt Bf
109 E-7 của Đức xuất hiện và hủy diệt lực lượng của RAF. Chúng gần như
chẳng bị xây xước gì trong cuộc tấn công mở màn, trong khi người Anh để
mất tới 42 máy bay (20 trong số đó bị phi công nổi tiếng Joachim
Muncheberg bắn hạ).
Được
củng cố bằng sự hiện diện của máy bay Đức, chiến dịch của phe Trục nhằm
chiếm Malta lại được đẩy mạnh. Mọi nỗ lực cứu viện Malta đều bị quân
Đức nhấn chìm trước khi tới được hòn đảo. Trên bầu trời Malta, phe Trục
đã tiến hành hơn 200 cuộc tấn công trong 2 tháng.
Máy bay Spirfire ở Bắc Phi.
Hai
tháng sau, Hitler tận dụng tình hình bi đát của quân Đồng minh ở Địa
Trung Hải, ra lệnh quân đoàn số 10 bảo vệ các đường tiếp tế của phe
Trục. Họ được giao trọng trách tiêu diệt bất kỳ nỗ lực nào nhằm đưa tiếp
viện vào Malta, buộc tuyến phòng thủ của Malta phải đổ vỡ.
Sự
thống trị của quân Đức trên bầu trời Malta gần như là tuyệt đối. Trong
thời gian diễn ra chiến dịch kéo dài hàng tháng trời, Luftwaffe đã thả
2.500 tấn bom xuống hòn đảo này, đánh sập hơn 2.000 công trình dân sự
(so với chỉ 300 tòa nhà bị phá hủy do cuộc tấn công của quân Italy).
Tinh thần của người dân Malta xuống rất thấp. Theo các số liệu hồi đó,
đã có tới 60.000 người rời bỏ các thành phố lớn của Malta để tìm kiếm
nơi trú ẩn an toàn ở thôn quê. Ở lại những nơi như Valleta đơn giản là
quá nguy hiểm.
Sự trỗi dậy của quân Anh
Thành
công liên tiếp đã khiến quân Đức phần nào tự mãn. Điều này cho phép
người Anh lén tuồn vào Malta một chút quân nhu và phụ tùng cho những
chiếc máy bay không còn lành lặn của họ. Tới tháng 4, Hitler đã gọi về
phần lớn quân đoàn số 10 cho các chiến dịch ở Hy Lạp và Nam Tư.
Cảnh đổ nát ở thủ đô Valleta sau những cuộc đánh bom.
Trong
khi chiến dịch của quân Anh được tiến hành để thực hiện các cuộc phản
công nhằm lấy lại vùng biển Malta, hàng phòng thủ của RAF bất ngờ trở
nên có sức sống nhờ một loạt máy bay tăng viện mới, trong đó có cả những
chiếc Hurrican Mc IIC trang bị súng thần công. Đầu tháng 8, Malta đã có
75 máy bay chiến đấu và 230 khẩu pháo. Là một căn cứ khởi động cho các
cuộc tấn công chống phe Trục ở Bắc Phi, tổng cộng có 514 chiến đấu cơ
bay qua Malta.
Với
việc Malta giờ đây đã ổn định hơn, mục tiêu là phải phá vỡ các tuyến
tiếp vận của Đức ở Bắc Phi. Cùng với các đơn vị tàu ngầm của Hải quân
Hoàng gia Anh, RAF tập trung tấn công mọi lực lượng của Đức hay Italy
dám đi gần Malta. Vào cuối tháng 9/1941, quân Anh đã đánh chìm được 108
tàu của phe Trục.
Chiến
dịch của nguyên soái Đức Rommel ở Bắc Phi gặp khó khi quân Anh đã làm
rối loạn đường tiếp vận cho các cuộc tấn công của họ. Đáp lại, Đức cho
không quân quay trở lại một phần Địa Trung Hải. Với dự đoán mặt trận
Liên Xô sẽ sụp đổ bất kỳ lúc nào, quân đoàn số 2 của Đức đã được điều
đến Sicily vào tháng 1/1942. Tổng cộng 88 chiến đấu cơ đã tham chiến,
tiêu diệt lực lượng tấn công gồm những chiếc Hurricane của RAF. Tới
tháng 3/1942, 20 máy bay của RAF đã bị bắn hạ.
Một
lần nữa, hòn đảo Malta lại là nạn nhân của các cuộc ném bom của cả Đức
lẫn Italy. Mục tiêu của họ vừa là các địa điểm quân sự lẫn dân sự. Đặc
biệt, Ta’Qali đã hứng chịu tới 841 tấn bom vì quân Trục tin rằng người
Anh có một nhà chứa máy bay ngầm tại đó.
Vào
giai đoạn này, những chiếc Hurricane tỏ ra vô dụng. Vì thế, ngày
7/3/1942, 15 chiếc Supermarine Spitfire Mark V đã được Anh điều đến
Malta. Bất ngờ, quân Anh ở Malta lại có những chiếc chiến đấu cơ không
chỉ nhanh hơn của Đức, mà còn hữu dụng hơn. Tuy thế, nó cũng không thay
đổi được chiều hướng cuộc chiến. Máy bay của Đức và Italy thậm chí còn
tấn công dữ dội hơn. Tới ngày 21/4/1942, chỉ còn 27 chiếc Spitfire còn
sử dụng được (tới đêm hôm đó chỉ còn 17 chiếc). Quân Đồng minh không thể
cử đủ Spitfire hay các phi công lão luyện đến kịp. Tới tháng 5, Malta
đã có đủ 5 phi đội Spitfire, nhưng phe Trục thậm chí còn có lực lượng
mạnh nhất từ trước tới giờ và liên tục đánh bại quân Đồng minh.
Tuy
nhiên, những diễn biến ở các nơi khác đã khiến tình hình đổi thay, làm
ưu thế trên không của Đức giảm dần. Ở sa mạc Ai Cập, quân đoàn châu Phi
của Rommel kêu gọi viện binh để hoàn thành chiến dịch Bắc Phi. Điều này
có nghĩa sự hiện diện không quân ở khu vực Sicily của Đức dần được hạ
thấp.
Khi
tháng 8 đến, lực lượng không quân phe Trục giảm đi khi không quân Đức
chuyển hướng sang Bắc Phi và Đông Âu. Mặt khác, Malta tận dụng cơ hội
này để tăng cường sức mạnh. Tổng cộng 163 chiếc Spitfire được điều đến
hòn đảo và 120 chiếc sẵn sàng chiến đấu. Không quân Đức nỗ lực tất cả,
nhưng 46 máy bay của họ cũng bị bắn hạ, trong khi chỉ có 23 chiếc
Spitfire bị tiêu diệt. Cả hai bên đều thiệt hại, nhưng rõ ràng phe Trục
đang gặp vấn đề lớn hơn.
Khi
những chiếc Spitfire được điều đến ngày càng nhiều, cùng với uy thế của
tàu ngầm Anh trên biển, rốt cuộc hàng phòng thủ Malta đã chịu bớt áp
lực. Cuộc tấn công của Rommel ở Ai Cập đang gặp rắc rối, và việc chiếm
lấy Malta giờ trở nên quá tốn kém cho toàn bộ quân Trục. Ngày 16/10,
cuộc không kích được ra lệnh ngừng lại. Khi quân Liên Xô mở cuộc phản
công trong trận Stalingrad và khi quân Đồng minh tiến sâu vào Bắc Phi,
cuộc vây hãm Malta chấm dứt hoàn toàn. Malta, bị hành hạ trong nhiều
năm, cuối cùng đã chiến thắng.
(#wanderlusttips
#Malta) Đảo quốc xinh đẹp trên biển Địa Trung Hải chỉ cách các thành
phố lớn của Châu Âu khoảng 3h bay, là điểm đến lý tưởng cho bất cứ ai
yêu những bờ biển xanh thẳm, thích khám phá văn hóa, kiến trúc và lịch
sử lâu đời của xứ sở nắng ấm này.
Nhà thờ St. John Valleta
Đây là nhà thờ các hiệp sĩ dòng Đền, là
một nơi linh thiêng nhất của quốc đảo xinh đẹp, và cũng là một trong
những công trình kiến trúc ba rốc lộng lẫy nhất Châu Âu.
Bên ngoài được thiết kế đơn giản nhưng
trang nghiêm, bên trong, trái ngược, lấp lánh với các họa tiết phủ vàng,
đá cẩm thạch và sơn.
Nhà thờ thiết kế bởi các kiến trúc sư
quân đội những người đã xây dựng nên thủ đô Valleta như là thành lũy của
các hiệp sĩ Malta vào những năm 1570.
Thậm chí sàn nhà cũng là một tác phẩm
nghệ thuật vĩ đại vẽ vô số những hầm mộ trên mặt đá cẩm thạch nhiều màu.
Du khách nữ sẽ được yêu cầu không đi giầy cao gót vào đây để tránh làm
hư hại tác phẩm này.
Không gian bên trong được chia ra làm 8
nhà nguyện thờ 8 nhóm hiệp sĩ của Malta, nhà nguyện nào cũng nổi bật với
trang trí sang trọng. Mới được tu sửa gần đây, nên không gian bên trong
có vẻ càng thêm lấp lánh hơn.
Hướng dẫn bằng giọng nói giúp bạn tìm ra
những điểm nổi bật nhất trong vô số các trang trí và những tác phẩm thị
giác tràn ngập không gian bên trong của nhà thờ. Đừng bỏ lỡ nhà nguyện
nơi trưng bày bức tranh lớn nhất và là bức duy nhất có chữ ký của danh
họa Caravaggio, vẽ lại cảnh tượng chặt đầu thánh John.
Lưu ý: bạn sẽ không được đi lại tự do hay chụp ảnh bên trong nhà thờ.
Giá vé vào cửa: 6,3USD
Tham khảo: stjohnscocathedral.com
Đi bộ khám phá thủ đô lịch sử Valleta
Thủ đô Valleta là được xây nên bởi các
hiệp sĩ của thánh John sau khi họ suýt mất quần đảo vào tay đế chế
Ottoman trong trận chiến Great Siege diễn ra vào năm 1565.
Thành phố được xây dựng trên những tảng
đá cằn cỗi của bán đảo, là một tác phẩm nghệ thuật của kiến trúc quân sự
gồm vô số các công sự kiên cố. Cũng nhờ vậy mà hàng trăm năm sau, không
còn một đế chế nào nhăm nhe xâm lược quốc đảo bé nhỏ này. Các công sự
tạo nên một pháo đài bất khả xâm phạm bao quanh thành phố ngày nay trở
thành địa điểm thú vị để đi dạo ngắm nhìn vẻ xinh đẹp và thanh bình của
Valleta, ngắm nhìn cả cầu cảng hai bên sườn thành phố.
Đường đi bộ hình vòng cung nên bạn có
thể bắt đầu ở bất cứ đâu cũng được song thường thì hành trình dạo quanh
công sự cổ xưa của Valleta sẽ bắt đầu từ City Gate – cổng chính vào thủ
đô.
Kiến trúc Valleta tuyệt đẹp, không bị
lem nhem bởi chỉ có màu chủ đạo là màu kem của gạch đá và màu xanh lá
cây của các ban-công và khung cửa sổ bằng gỗ.
Tour đi thuyền quanh Grand Harbour
Bến cảng lịch sử này cũng là trung tâm
trận chiến Great Siege thế kỷ 16 nơi mà hơn 2.000 hiệp sĩ Malta và hàng
trăm thường dân cùng hợp sức đẩy lùi cuộc tấn công của đế chế người Thổ
Ottoman và cũng là trung tâm của những sự kiện lớn diễn ra trong Chiến
tranh thế giới II. Bến cảng này là nơi đóng quân trên biển Địa Trung Hải
của Hải quân hoàng gia Anh Quốc cho tới những năm 1970.
Không còn gì tuyệt hơn thăm thú cảng
Grand Habour bằng một chuyến taxi đường thủy – hay theo tiếng Malta thì
người ta gọi là dghajsa. Trước đây, đó là hàng trăm con thuyền gỗ nhỏ
sơn đủ màu sắc dùng để chuyển thủy thủ từ tàu lớn lên bờ. Ngày nay, chỉ
còn lại vài chiếc như thế, còn lại người ta thay thế hết bằng xuồng máy.
Những chiếc thuyền như vậy ngày nay chỉ còn phục vụ cho những nhóm du
khách nhỏ yêu thích khám phá Valleta một cách chậm rãi. A&S Water
Taxis cung cấp dịch vụ này với mỗi nhóm 6 du khách trên một thuyền, đi
thăm thú trong vòng nửa giờ. Thuyền thường xuất phát từ Customs House
(nhà hải quan) nằm cạnh cầu tàu Valletta Waterfront, hoặc cầu tàu
Birgu/Vittoriosa phía bên kia của bến cảng.
Giá mỗi tour 30 phút là 11USD
Tham khảo: maltesewatertaxis.com
Bảo tàng Chiến tranh Malta
Bảo tàng chiến tranh này nằm dưới lòng đất, gần cảng Courve, Birgu.
Đội mũ bảo hộ và len lỏi qua màn sương
khói, bạn đã bước chân vào nơi trú ngụ của hàng trăm người Malta trong
thời kỳ khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh thế giới II. Trong thời kỳ
đó, Malta là một mục tiêu quân sự thường được nhắm đến bởi bến cảng
Grand Habour là nơi sửa chữa tàu thuyền hư hỏng. Những đường hầm này là
công trình đục đẽo từ các tảng đá, là nơi nhiều người dân đã trú ẩn ngày
đêm chỉ với ánh sáng le lói của chiếc đèn dầu.
Vào mùa hè, khi xuống dưới các đường hầm
này cũng nên mang theo một chiếc áo khoác mỏng bởi nhiệt độ bên trong
bao giờ cũng thấp hơn nhiệt độ ngoài trời một chút.
Giá vé vào cửa 11USD
Tham khảo: maltaatwarmuseum.com
Phòng chứng tích chiến tranh Lascaris War Room (gần nhà thờ St. John)
Là hệ thống phòng ngầm phức hợp bên dưới
lòng đất ở ngay trên khu vườn Upper Barracca, là trụ sở tác chiến phòng
thủ của Malta trong chiến tranh thế giới II. Đây cũng là trụ sở cho hạm
đội Hải quân hoàng gia Anh trong những năm cuối của cuộc chiến tranh.
Cuối những năm 1960, nơi đây được NATO
trưng dụng làm Trung tâm truyền thông chiến lược và bây giờ, là nơi thăm
thú của nhiều du khách như một bảo tàng lịch sử.
Những căn phòng này sẽ được tích hợp vào
một công trình lớn hơn là Công viên di sản quân sự lưu giữ các di sản
của 500 năm lịch sử quân sự Malta.
Fondazzjoni Wirt Artna – Quỹ di sản Malta đang tiến hành các công việc để đưa dự án này vào thực hiện.
Giá vé vào cửa: 11USD
Tham khảo: lascariswarrooms.com
Thăm cố đô Mdina
Mdina là cố đô của Malta. Đây cũng là
một địa danh bạn không thể không thăm thú khi đặt chân đến Malta bởi di
sản tự nhiên và lịch sử phong phú của nó.
Thành phố được xây dựng lần đầu tiên bởi
người Phoenicia vào khoảng năm 700 trước công nguyên. Sau đó, người Ả
Rập và Norman đến đây xây thêm tường thành dày đồ sộ và nhiều tháp canh
cao vút. Đường phố ở Medina vừa hẹp, vừa quanh co như mê cung.
Thời xa xưa, Mdina là nơi cư ngụ của
những gia đình quý tộc bậc nhất Malta. Những dinh thự lộng lẫy của các
gia tộc được xây hoàn toàn bằng đá trắng và được quét một lớp vữa cũng
màu trắng. Phía sau cổng kín tường cao, đời sống phong phú đa dạng của
các gia tộc lớn với vườn cảnh, thư viện, nhà bếp, phòng tranh ảnh… luôn
sẵn sàng phục vụ những ai muốn nghỉ đêm tại Mdina. Tham quan Mdina ban
đêm hấp dẫn chẳng kém gì ban ngày. Dưới ánh đèn đường huyền ảo, không
khí phố đêm thời Trung cổ được tái hiện như thật.
Từ cổng thành đồ sộ phía Nam, sau mấy
giờ đồng hồ lạc bước trong quá khứ, ai nấy mới sực tỉnh khi đặt chân lên
View Point nằm ở phía bắc thành. Là là nơi quan sát toàn bộ cảnh quan
Malta và Valletta, View Point như một điểm giao thoa giữa hiện tại với
quá khứ, giữa hiện thực với những tưởng tượng xa vời.
Tham khảo: Văn phòng du lịch Mdina, số điện thoại: 00356 21454480
Nhà thờ và bảo tàng Mdina
Nhà thờ lớn Mdina còn là nhà thờ lớn đầu
tiên của giáo phận Malta, cho đến khi giáo hoàng xây dựng nhà thờ lớn
St. John năm 1816. Nhà thờ lớn St. John ở Valleta là nhà thờ của Các
hiệp sĩ dòng Đền, còn nhà thờ St. John của Mdina là sở hữu riêng của đảo
quốc Malta. Nhà thờ này được hoàn thiện năm 1701, mang kiến trúc Ba rốc
đặc trưng của Malta và cũng có không gian bên trong ấn tượng chẳng kém
gì St. John của Valleta.
Nhà thờ gốc được xây từ trước đó, nhưng
bị phá hủy gần hết bởi trận động đất năm 1693. Phần còn lại được tôn tạo
với nhà thờ mới tạo nên những gì như chúng ta thấy ngày hôm nay.
Trong nhà thờ này còn có một bảo tàng
trưng bày các đồ dùng bằng bạc, các tài liệu tôn giáo, các thanh kiếm
của các bậc sư tôn, và 50 bản khắc gỗ và bản khắc đồng của Albrecht
Dürer – một họa sĩ, một nhà đồ họa và học giả nghệ thuật danh tiếng
người Đức sống ở thế kỷ 15.
Giá vé vào cửa nhà thờ lớn và bảo tàng: 5,5USD
Tham khảo: mdinacathedral.com
Hal Saflieni Hypogeum (Hầm mộ dưới lòng đất)
Đây là địa điểm khá lạ và là điểm
must-see của Malta. Đây là một khu chôn cất phức hợp dưới lòng đất,
trong những phiến đá dưới hang sâu được phát hiện vào năm 1902. Hầm mộ
được cho biết là được xây nên bởi chính những người đã xây nên các ngôi
đền thờ thời tiền sử từ năm 3600 – 2500 sau công nguyên.
Một đặc điểm đáng chú ý của các hầm mộ
tại Malta là sự kết hợp của các nghi lễ tôn giáo, bao gồm Kitô giáo,
thực hành ngoại giáo và Do Thái giáo, tất cả trong cùng một địa bàn.
Điều này phản ánh lối chung sống của các nền văn hóa khác nhau trong xã
hội La Mã sau này.
Hầm mộ này của Malta được xếp vào một
trong 4 di sản quan trọng của UNESCO ở khu vực Địa Trung Hải. Theo
UNESCO: “đặc điểm hỗn hợp này của các hầm mộ Malta hiếm có so với bất cứ
nơi nào khác ở Địa Trung Hải”.
Hầm mộ có 3 tầng, mỗi tầng gồm nhiều
phòng khác nhau và những tầng càng sâu thì càng được xây dựng muộn hơn
những tầng phía trên.
Nơi đây được cho là nơi lưu giữ khoảng
7.000 hài cốt trong vòng gần 1.000 năm. Điện trong (Holy of Holies), nơi
linh thiêng nhất ở đây, là bản sao của những ngôi đền trong đá, do nằm
dưới lòng đất nên tình trạng của hầm mộ còn rất tốt.
Tham khảo: heritagemalta.org
Giá vé khoảng 33USD, cấm trẻ em dưới 6 tuổi
Những ngôi đền đá
Những ngôi đền đá ở Malta là một trong
những di sản lâu đời và có vai trò quan trọng trong danh sách di sản thế
giới UNESCO, gồm có đền Ggantya, Hagar Qim, Mnajdra và Tarxien. Tất cả
đều được xây dựng bằng những tảng đá khổng lồ từ 3.400 năm trước chúa
Jesus, 800 năm trước kim tự tháp (Ai Cập) và Stonehenge (Anh).
Từ 5.000 năm trước công nguyên, nơi này
đã là nơi hành lễ của rất đông các tín đồ. Đáng chú ý nhất trong quần
thể các ngôi đền này là đền Hagar Qim, ngôi đền to lớn nhất nằm trên một
ngọn đồi ở bờ biển phía Nam Malta, được xây dựng từ các khối đá sa
thạch với các khung vòm cửa bán nguyệt hoặc kiểu gác lanh-tô như các vòm
đá ở Stonehenge, nước Anh. Di chỉ Hagar Qim đã được khai quật từ giữa
thế kỷ 20 và hiện nay hầu hết các hiện vật được trưng bày ở bảo tàng
Khảo cổ Quốc gia Valletta. Ngôi đền này có các chạm khắc trang trí
mô-típ hình xoắn ốc, các loài thú và nữ thần trên tường và điều ấn tượng
nhất là tất cả chúng được tạo tác từ những công cụ hết sức giản đơn là
rìu và dao đá.
Tiếp đến phải kể là đền Mnajdra – thờ nữ
thần mùa màng. Đền được tạo dựng bằng đá có hình elip thô sơ nhưng kiên
cố, đền chưa có hình dáng hình học rõ nét, điều này phản ánh bởi vật
liệu và kết cấu cũng như công cụ chế tác nên tính chuẩn tắc của hình
thức kiến trúc còn hạn chế.
Còn đền Ggantija lại được coi là một
trong những kiệt tác của kiến trúc thế giới, một trong những địa danh
lịch sử luôn được khách du lịch ghé thăm nhiều nhất.
Giá vé vào cửa gần 10USD
Tham khảo: heritagemalta.org/index.php/museums-sites
Lặn biển
Sức hút của vùng biển nắng ấm quanh năm ở
Địa Trung Hải thật khó có thể cưỡng lại. Sở hữu nhiều bờ biển ấm áp
tuyệt đẹp, mỗi năm hơn 50.000 người du ngoạn tới đây để lặn biển, khám
phá cuộc sống kỳ thú trong lòng đại dương xanh biếc.
Trải dọc Malta là vô số các trung tâm
lặn cung cấp đồ nghề hoặc các khóa training nhỏ cho những tay người mới
lặn lần đầu, những tay lặn nghiệp dư hay cả những thợ lặn chuyên nghiệp.
Có rất nhiều sinh vật biển ở đáy đại
dương nhưng ở Malta, nếu muốn ngắm nhìn các loài cá màu sắc khác nhau
thì đây lại không phải địa điểm lý tưởng. Nơi đây là vùng biển lặn để
ngắm cánh đẹp dưới lòng biển sâu và xem xác tàu đắm.
Tham khảo các trung tâm lặn được cấp phép: visitmalta.com
Các trường dạy lặn được liệt kê tại: bsac.com
Làng chài đẹp như tranh Marsalokk
Đây thường là điểm đi cuối cùng kết thúc
chuyến du ngoạn xứ sở Malta đầy mê hoặc. Marsalokk là một làng chài
bình yên đẹp như tranh vẽ ở phía đông nam của đảo quốc Malta. Cách đây
gần 3.000 năm, người Phoenecian đã sinh sống tại đây và sáng tạo ra
luzzu, con thuyền gỗ màu sắc rực rỡ, hình ảnh đặc trưng của vùng biển
Malta đến tận ngày nay.
Gần ba thiên niên kỷ trôi qua, chiếc
luzzu với hai đầu cao, nhọn, một đầu có vẽ cặp mắt không có gì thay đổi
bởi đã đạt đến độ an toàn nhất, tiện lợi nhất. Ôm lấy vịnh biển trong
xanh là phố đi bộ xinh đẹp với hàng cây chà là cao cao tô điểm cho những
ngôi nhà cổ.
Marsaxlokk náo nhiệt nhất vào mỗi sáng
chủ nhật, khi phiên chợ hải sản truyền thống mời gọi tất cả người dân
địa phương đổ ra đường. Dưới biển, ngư dân hò reo kéo lưới. Trên bờ, các
cửa hàng lưu động bán cá, tôm, mực, rau quả… tràn ngập thứ hấp dẫn,
tươi sống.
Hồng Nhung (TH) | Wanderlust Tips | Cinet
10 điều thú vị về đảo quốc Malta
12/02/2018 13:40
Malta, đảo Anchorquốc nhỏ bé thuộc châu Âu
nhưng lại rất gần châu Phi luôn là điểm đến cho những người yêu lịch sử,
lễ hội và không khí đậm chất Địa Trung Hải. Mấy năm trở lại đây, rất
nhiều công ty du lịch Việt mở đường tour đến quốc đảo xinh đẹp này.
Malta hay còn gọi là cộng hòa Malta, có
vị trí địa lý nằm ngày phía nam của Italia và ngay trên Tunisia trong
vùng biển địa trung hải. Chỉ rộng hơn 300km vuông và dân số giao động
trong khoảng nửa triệu người, Malta là một trong những quốc gia nhỏ bé
nhất thế giới. Thủ đô Valletta chỉ 0,8km vuông và là thủ đô nhỏ nhất
trong EU. 3 đảo lớn nhất lần lượt là Malta, Gozo, Comino là có người ở,
ngoài ra còn khá nhiều đảo nhỏ hay chỉ là một mỏm đá nhô lên giữa đại
dương.
Sau đây là 10 điểm thú vị bạn sẽ có cơ hội trải nghiệm khi chu du vùng đất đầy nắng và gió này. Khoảng cách ngắn, thời gian dài
Đảo chính và mang cùng tên Malta không quá rộng lớn nhưng dân số đông
đúc khiến cho việc di chuyển chỉ vài dặm sẽ lấy đi của bạn khoảng 1
tiếng đồng hồ. Đảo nhỏ gần đó là Gozo thoáng đãng hơn chút nhưng đường
cũng có thể bị tắc bất cứ lúc nào.
Bí quyết là không di chuyển trong giờ cao điểm, nếu được, hãy sử dụng
tàu hay phà để di chuyển. Phà từ thủ đô Valletta đến Sliema nhanh và
rất giàu cảnh sắc dọc đường đi. Chặng phà khác là từ Valleta và Three
Cities (3 thành phố) sẽ đưa bạn qua cảng nổi tiếng mang tên Grand
Harbor. Một trải nghiệm có phần tốn kém hơn có thể kể đến chuyến đi qua
Grand Harbor trên chiếc dgħajsa, một loại thuyền nhiều màu sắc giống
gondola ở Venice, Ý. Tự lái xe có thể là ác mộng
Giao thông ở Malta có vẻ “hỗn loạn” hơn 1 chút so với phần còn lại
của châu Âu, bỏ qua tín hiệu đèn, bấm còi, chen lấn là điều không tránh
khỏi. Bạn có thể thuê xe ô tô hay xe máy nhưng an toàn và tiện lợi vẫn
là thẻ đi xe bus với giá cực rẻ. Điểm bất tiện là bus thi thoảng khá
đông và đến trễ. Lịch sử Malta đầy quyến rũ và say mê
Trong khi Malta được biết đến nhiều hơn với “sun and sea” – Nắng vàng
và biển xanh, bạn còn có thể làm nhiều điều hơn thế bằng cách dành thời
gian tìm hiểu lịch sử như những ngôi đền thờ được cho là có trước cả
kim tự tháp Ai Cập. Dấu ấn La Mã vẫn tồn tại giữa những khu di chỉ, nhà
thờ với kiến trúc đặc trưng, lâu đài oai phong được xây dựng bởi những
hiệp sỹ Malta và sau này là người Anh.
Thành phố thủ đô của đảo quốc là Valletta đặt rất nhiều bảo tàng như
Fort St. Elmo, bảo tàng khảo cổ quốc gia – National Museum of
Archaeology và Trung tâm trưng bày các hiện vật liên quan đến pháo đài -
Fortifications Interpretation Centre… Thủ đô Valletta - di sản Phục Hưng
Tất nhiên du khách đến Malta để tìm đến bãi biển và các resort là
phần đông, nhưng thủ đô Valletta còn rất nhiều điểm hấp dẫn như trung
tâm mua sắm, những con đường đồi dốc thanh thoát khiến bạn cảm giác mình
đang ở đâu đó trong lòng phiên bản San Francisco cổ. Các công trình
mang nét kiến trúc Ba-rốc hòa cùng nhiều tòa nhà đường vệ kiểu nhà binh
tạo nên nét đặc biệt của phố thị nơi đây. Năm 2018, Valletta sẽ là thủ
đô văn hóa của Châu Âu. Những giá trị lịch sử và văn hóa sẽ rất được
quan tâm quảng bá trong năm nay để thu hút du khách. Tiếng Anh là ngôn ngữ chính nhưng đừng bỏ qua Maltese
Malta là một phần thuộc địa của nước Anh suốt hơn 150 năm. Ngày nay,
tiếng bản địa của họ - Maltese và tiếng Anh là hai ngôn ngữ chính thống.
Maltse là ngôn ngữ Semitc có liên quan đến chữ Ả Rập nhưng được phiên
ra các ký tự alphabet.
Rất nhiều người nói tiếng Anh lưu loát tại xứ sở này nhưng họ sẽ
thích nghe du khách bật ra vài câu bằng tiếng Maltese. Bắt đầu uốn lưỡi
bằng chữ Grazzi ħafna (cám ơn rất nhiều) và Jekk jogħġbok (Vui lòng).
Còn nếu bạn đang tìm kiếm thức uống gì đó đặc trưng tại đây, hãy gọi
nước đào có cồn hay bia Cisk và nói Saħħa (cạn ly). Rất nhiều người Malta có niềm đam mê với pháo hoa
Từ những tay chơi nghiệp dư bắt các bông pháo nhỏ suốt nhiều giờ cho
đến cuộc thi quốc tế, người Malta cực yêu thích pháo hoa. Nếu muốn chứng
kiến những sự kiện lớn, hãy chọn dịp họ tổ chức lễ hội trên khắp đảo
quốc để hòa mình vào những cung bậc cảm xúc mỗi khi một bông hoa được
“nở” ra trên bầu trời. Không chỉ có pháo hoa là ồn ào
Khi bạn kết hợp với tiếng còi ô tô không ngớt, ban nhạc diễu hành qua
từng ngôi làng, những mẩu đối thoại náo nhiệt, các công trường hoạt
động suốt ngày và những người bán hàng rong say sưa rao mời bằng bộ loa
điện tử,… Malta khi đó có thể làm bạn phải đau đầu. Để đối phó với việc
này, bạn được khuyên nên kiểm tra xem những nơi mình lưu trú có bị làm
phiền bởi tiếng ồn hay không qua các review (nhận xét) của các khách đi
trước trên website hay sách báo du lịch. Một điều thú vị nữa là nếu bạn
cố chọn vùng đồng quê để “trốn” tiếng ồn đô thị thì hãy chuẩn bị tinh
thần cho các âm thanh do súng săn gây nên trong mùa săn bắt. Malta có rất nhiều ngày lễ
Cư dân Malta là những người rất giàu có về đời sống tinh thần và cơ
hội để tham gia lễ hội trong những ngày đến vùng đất này là rất nhiều.
Nhà vua xứ Maltese gọi đó là festa, với hàng tá lễ hội tổ chức hàng năm
và nhiều trong số đó là mùa hè. Các buổi lễ liên quan đến tôn giáo, pháo
hoa, ẩm thực diễn ra khắp nơi. Khi đó, làng mạc, nhà thờ, đường phố
được trang trí với các bảng biểu đầy màu sắc và những bức tượng các vị
thánh làm bằng tay. Nếu đam mê ẩm thực, bạn chắc chắn sẽ tha hồ đắm chìm
trong các lễ hội dâu, cam, olive và rượu vang. Tìm kiếm những mảng xanh
Trong khi nhiều tờ rơi thể hiện Malta là một thiên đường xanh nhưng
bạn sẽ thấy các đô thị đang được dựng lên với nhiều khối nhà bê tông và
thiếu đi bóng dánh cây cối. Dù vậy, du khách vẫn có thể thấy những thảm
thực vật Địa Trung Hải nếu chịu khó tìm đến các bãi biển, khu vườn như
Blue Flag Beach, San Anton Gardens (vé vào cửa miễn phí), Dingli Cliffs
(đảo Malta) và Ta’ Ċenċ Cliffs (đảo Gozo). Các trung tâm thông tin du
lịch ở Malta có rất nhiều tờ rơi miễn phí để bạn tìm hiểu về điểm đến. “Thánh địa Mecca” của các nhà làm phim
Cảnh trí của Malta luôn là niềm cảm hứng bất tận cho những nhà làm
phim khắp thế giới Gladiator, Popeye và Game of Thrones đều được ghi
hình tại đây. Chuyến thăm những phim trường là không thể bỏ qua từ con
đường ở Valletta được chuyển thành không gian giai đoạn Constantinople
1915 (trong phim Promis) đến Comino Watchtower (đài quan sát Comino)
từng được biến thành nhà tù trong phim The Count of Monte Cristo, … và
không ngạc nhiên nếu bạn bắt gặp một đoàn làm phim với lỉnh kỉnh máy
móc, màn hình, đèn đóm tại đâu đó trên đường du hành. An Nam (Theo Fodors)
Romario
vĩ đại bởi những khoảnh khắc kỳ diệu, bởi chức vô địch World Cup 1994,
bởi hơn 1.000 bàn thắng trong sự nghiệp. Ông còn được yêu mến vì một
cuộc sống gần gũi với người dân Brazil.
Mọi
người xem và thưởng thức bóng đá vì vô số lý do. Có những người đến với
môn thể thao này vì bản sắc của thị trấn, thành phố hay đất nước, điều
đã tạo ra những trận derby căng thẳng đến mức nghẹt thở. Có những người
thích bóng đá, chỉ vì thành viên trong gia đình tham dự vào trò chơi
này.
Số còn lại, yêu bóng đá bởi muốn tận hưởng
khoảnh khắc của sự hoàn hảo, chiêm ngưỡng những pha bóng qua lăng kính
nghệ thuật. Đối với họ, bóng đá là một loại hình nghệ thuật, là sự biểu
diễn. Những đội bóng như Brazil của World Cup 1970, Barcelona của Pep
Guardiola đã đến gần với phong cách lý tưởng như vậy. Theo dõi họ thi
đấu, người xem quên đi được những phiền muộn của cuộc sống đời thường.
Có
những thời điểm, chỉ một cá nhân trên sân cũng có thể mang lại điều đó.
“Quỷ lùn” Romario là một dạng cầu thủ như thế. Thông qua sự kỳ diệu nơi
đôi chân, Romario khiến người xem bị cuốn hút vào thứ ma thuật khó
cưỡng. Ông mang đến tính giải trí, sự hồi hộp và cảm hứng cho người xem.
Garrincha là ví dụ tốt nhất cho thứ bóng đá đẹp và phóng khoáng của
người Brazil. Romario là điển hình thứ hai.
VIDEO: Chiêm ngưỡng đôi chân ma thuật của Romario
Đối
với một đất nước như công xưởng chuyên sản xuất những tài năng vĩ đại
cho bóng đá thế giới như Brazil, Romario vẫn có một chỗ đứng vững chắc
trong ngôi đền của huyền thoại. Nhiều người tâm niệm một ngôi sao không
bao giờ vĩ đại hơn đội bóng, nhưng ở một thời điểm nào đó, một cầu thủ
quan trọng hơn cả tập thể.
Họ là những người có
thể thay đổi trận đấu bằng khoảnh khắc tức thời của ma thuật. Nhà báo
người Brazil, Hugo Naidin cho biết: “Ở Brazil, chúng tôi thích những vị
cứu tinh, một cá nhân khiến người khác ngước nhìn và gần như tôn kính.
Chúng tôi đánh giá những điều này trên cả nỗ lực tập thể”. Điều đó giải
thích vì sao họ luôn tôn vinh những huyền thoại: Didi tại World Cup
1958, Garrincha tại World Cup 1962, Pele của World Cup 1970 và Romario
tại World Cup 1994.
Cầu thủ vĩ đại thường gắn
liền với những danh hiệu và thống kê vĩ đại. Romario có cả 2 điều đó.
World Cup 1994 đưa Romario lên tầm huyền thoại và hơn 1.000 bàn thắng,
dù thống kê này còn gây nhiều tranh cãi, giúp ông trở thành một trong
những chân sút xuất sắc nhất lịch sử bóng đá thế giới.
QUỶ LÙN TRONG LÒNG NGƯỜI HÂM MỘ
Danh
xưng của Pele là “Vua bóng đá”. Nó không hoàn toàn làm cho Pele thành
một vị thần, nhưng cũng đủ khiến cho ông cao cao tại thượng. Romario thì
khác. Ông luôn được yêu mến tại quê nhà, bởi người hâm mộ luôn tìm thấy
sự gần gũi nơi huyền thoại này. Romario đơn giản được gọi là
"Baixinho", một gã lùn cao 1,67m.
Nó có thể là
biệt danh mà bạn có thể đặt cho cậu em trai, hay người bạn học. Romario
luôn được gọi là "người trong chúng ta", không có gì khác biệt trong
cuộc sống thường ngày so với người khác. Anh thường xuyên được miêu tả
là một người bình thường, vui vẻ, yêu thương. Người ta thường gọi
carioca là một người đến từ thành phố Rio de Janeiro và Romario là một
carioca đến tận xương tủy.
Khi đến Hà Lan thi
đấu cho PSV, Romario đã cải tạo ngôi nhà của mình. Ông mang cát vào khu
vườn, tạo ra một sân bóng đá như trên bãi biển ở Rio. Ông đã tạo ra
không gian đậm chất Rio giữa lòng Hà Lan. Romario còn cho thấy chất Rio
của mình trong một giai thoại đặc biệt.
Romario được yêu mến từ sự bình thường trong cuộc sống
Khi
phụ trách các buổi tập của Vasco da Gama, Romario tổ chức tập vào...
buổi tối, còn ban ngày các cầu thủ được ngủ thoải mái. Rio de Janeiro là
thành phố sống về đêm, Romario nghĩ thế và chẳng có lý do gì không tập
về đêm. Ông là huyền thoại của CLB và chẳng ai dám ngăn cản điều đó.
Những buổi tập đêm như thế kéo dài vài tháng.
Sự
phóng khoáng, dị biệt đó càng kéo Romario gần lại với quần chúng. Sau
khi kết thúc sự nghiệp, Romario trở thành một chính trị gia. Ông đã
chiến đấu vì dân chúng, giúp vé xem World Cup 2014 có giá rẻ hơn cho các
gia đình có thu nhập thấp. Nó khiến cho Romario càng được yêu mến hơn. Ở
Brazil, Pele có thể là vua, còn Romario sẽ luôn là "Quỷ lùn" trong lòng
người dân.
Những huyền thoại World Cup - Romario: Đích thực là “Vua vòng cấm”
(Thethaovanhoa.vn) - Brazil
đã phải chờ đợi 24 năm mới giành chức vô địch World Cup thứ tư của họ.
Nguồn cảm hứng ở Mỹ năm 1994 là Romario, tiền đạo của nhãn quan, kỹ
thuật cá nhân siêu đẳng và một bản năng săn bàn đáng sợ.
Romario
tuyên bố đã ghi được hơn 1.000 bàn thắng, một con số mà anh thừa nhận
phải tính cả các trận ở giải trẻ, giải giao hữu và những trận chỉ có ý
nghĩa lễ lạt. Nhưng trong một sự nghiệp kéo dài 24 năm, chỉ riêng 5 bàn
anh ghi ở Mỹ 2 thập kỷ trước đã là đủ để Romario đi vào lịch sử. Có bóng trong vòng cấm, Romario sẽ ghi bàn
Brazil
khi đó là một đội bóng mạnh, được tổ chức tốt dưới sự dẫn dắt của HLV
Carlos Alberto Parreira, nhưng họ sẽ khó lòng trở thành nhà vô địch nếu
không có chân sút cự phách quê ở Carioca.
“Anh ấy là một
sát thủ không bao giờ thất bại”, BLV bóng đá Brazil của kênh ESPN, Paulo
Vinicius Coelho, nói. “Nếu có bóng trong vòng cấm địa, Romario sẽ ghi
bàn”. Trong kỳ World Cup đích thực duy nhất của anh (Romario chỉ có vai
trò phụ ở Ý 1990), anh đã là nhân vật số 1 của ĐT Brazil vô địch từ trận
đầu tiên tới trận cuối cùng, đánh bại Ý trên chấm luân lưu sau khi hòa
0-0 ở giờ đấu chính. Romario chơi không thật hay trận đó, nhưng đã hoàn
thành nghĩa vụ trong loạt đấu súng.
“Tôi
sẵn sàng hy sinh mạng sống để vô địch World Cup lần này”, Romario nói
khi đó. Cho tới trận chung kết, chỉ đội Mỹ là ngăn được anh ghi bàn suốt
giải, và ngay cả trong trận thắng 1-0 đó của Brazil, Romario cũng là
người có đường chuyền kiến tạo cho đối tác ăn ý của anh, Bebeto. “Anh ấy
có thể khiến bạn ôm hận theo rất nhiều cách khác nhau”, Alexi Lalas, đá
trung vệ cho tuyển Mỹ ở đó, nhớ lại. “Romario đã ghi rất nhiều kiểu bàn
thắng khác nhau ở kỳ World Cup đó, từ những pha solo độc diễn cho tới
những cú vô-lê nửa nảy sau khi bóng bật ra từ một quả phạt góc. Romario
là cầu thủ giỏi nhất mà tôi từng đối mặt”.
Brazil đã gây thất vọng
lớn ở giải trước đó, và Romario hầu như không có vai trò gì. Anh dính
chấn thương khi chơi cho PSV ở Hà Lan, dai dẳng tới World Cup 1990 ở
Italy và chỉ ra sân 66 phút trong một trận đấu nhạt nhòa với Scotland mà
Brazil giành chiến thắng 1-0 sau khi Romario đã rời sân. Sau đó, đội
bóng áo vàng-xanh bị kình địch Argentina loại ngay ở lượt đấu loại trực
tiếp đầu tiên, khi Diego Maradona có đường kiến tạo cho Claudio Caniggia
ghi bàn duy nhất. “Đó là nỗi hổ thẹn với cả một thế hệ cầu thủ Brazil
tài hoa”, Coelho bình luận. Ngôi sao số 1 năm 1994
Romario
là một phần của thế hệ vàng son đó, nổi lên từ Olympic Seoul 1988 mà họ
giành HCB. Những người khác là thủ thành Claudio Taffarel, hậu vệ
Jorginho, tiền vệ Mazinho và Bebeto. Parreira, theo tiêu chuẩn một HLV
ĐT Brazil, là người thận trọng. Ông đã dùng tới 2 tiền vệ trụ, Mauro
Silva và đội trưởng Dunga, khiến ông bị chỉ trích rất nhiều ở Brazil.
“Đó
là một đội mạnh về phòng ngự, chứ không phải một đội chơi phòng ngự,
rất khó lấy bóng của họ”, Coelho nói. “Và họ có Romario. Cầm bóng nhiều
và Romario, công thức chiến thắng chỉ có vậy”. Romario ghi bàn ở vòng
bảng vào lưới cả Nga, Cameroon và Thụy Điển, cộng thêm một bàn bằng đầu
ấn định chiến thắng trước Thụy Điển ở bán kết. “Roberto Baggio cũng là
ngôi sao của giải đó, nhưng xét về sự ổn định và xứng đáng với kỳ vọng,
Romario là số 1”, Lalas kết luận.
743 Tổng số bàn thắng chính thức được ghi nhận của Romario là 743, 688 cho các CLB chuyên nghiệp và 55 cho ĐT Brazil.
4 Romario
đã lập 4 hat-trick cho ĐT Brazil. Anh cũng có một lần ghi 4 bàn trong
một trận, ở chiến thắng 6-0 trước Venezuela vào năm 2000 tại vòng loại
World Cup 2002.
10 Romario đã khoác áo 10 CLB khác nhau ở Nam Mỹ, châu Âu, Bắc Mỹ, châu Á và châu Đại Dương.
Trần Trọng Thể thao & Văn hóa
Romario: Những ngày thế giới phát cuồng đôi chân Quỷ lùn
Bài viết của CG 11/23/2017 3:10:38 PM
Bằng
cách nào chúng ta có thể định nghĩa một chân sút thực sự là vĩ đại? Khả
năng tận dụng cơ hội không một chút sai sót? Kỹ thuật điêu luyện cộng
với những pha di chuyển sắc sảo?
Hay đó là khả năng tạo ra khoảnh khắc kỳ diệu trong những tình huống
quan trọng nhất? Nếu một trong số đó, hoặc tất cả, được dùng để định
danh thì Romário của Brazil chắc chắn phải là cái tên đầu tiên được nhắc
đến trong bất kỳ cuộc tranh luận nào.
Giống như nhiều ngôi sao sáng giá khác
của Nam Mỹ, câu chuyện của Romário de Souza Faria bắt đầu bằng hình ảnh
quen thuộc: cái nghèo. Sinh năm 1966, anh ra đời ở Jacarezinho – khu ổ
chuột lớn thứ hai của Rio de Janeiro. Cha anh, ông Edevair, rất mong con
trai thoát khỏi cái đô thị nghèo nàn này và ông đã rất vui khi cậu nhóc
bắt đầu thể hiện năng khiếu ở môn thể thao mà ông yêu thích.
Romário gia nhập Olaria ở tuổi 13 và
ngay lập tức gây được sự chú ý. Dù vóc dáng nhỏ bé nhưng chàng tiền đạo
trẻ khi ấy đã sử dụng trọng tâm thấp cùng đôi chân ngắn nhưng rất khỏe
để làm lợi thế cho mình vượt qua đối thủ trước khi họ có thể trở tay. Sở
hữu khả năng kiểm soát bóng bậc thầy qua những trận đấu gồm 30 người
một đội ở trong những “khu rừng bê tông” cho tới những bãi biển cát
trắng, cầu thủ người Brazil ấy thực sự là một cơn ác mộng với các hậu
vệ.
Thật bất ngờ là hai năm sau đó, sau
khi thử việc với gã khổng lồ Vasco da Gama, một HLV đã cho rằng Romário
quá nhỏ để thi đấu chuyên nghiệp. Ở thời điểm hiện tại, điều này có thể
là một cái tát với những tài năng trẻ và khiến họ nhụt chí. Tuy nhiên,
đó không phải là Romário.
Hàng thập kỷ sau, ông nói rằng nó chính là động cơ thúc đẩy tham vọng theo đuổi giấc mơ của mình: “Hãy tìm ra ai đó chỉ trích bạn và lấy làm động lực cho chính bản thân mình vượt qua thử thách đó.” Romário ghi bốn bàn vào lưới Vasco trong một trận đấu của giải trẻ trước khi khiến họ suy nghĩ lại và chiêu mộ vào năm 1981.
Sau khi có được một chút tiền bạc, rõ
ràng địa vị xã hội của Romário đã được nâng cao. Tài năng của ông đã bị
hạn chế đi bởi tinh thần “vô chính phủ” và ngay từ những ngày tháng đầu,
đó đã là bằng chứng cho thấy cả hai sẽ đóng vai trò quan trọng định
hình nên sự nghiệp của ông.
Tiền đạo này đã bị lôi vào tranh cãi
tại World Cup trẻ 1985 khi bị bắt gặp đang đi tiểu ở ban công khách sạn ở
Moscow để rồi sau đó bị đuổi về nước trong sự nhục nhã. 3 năm sau,
chàng trai với biệt danh Baixinho (Lùn) vì chiều cao chỉ 1m65 đã tỏa
sáng trong màu áo Brazil ở Olympic 1988 khi ghi đến 7 bàn trên đường đến
trận chung kết. Giải đấu này đã chứng minh rằng Romário khi ở trạng
thái cực đỉnh thăng hoa cũng đáng để tha thứ cho những sự vô tổ chức. Và
màn trình diễn ấy đã tạo nên một bước đột phá để ông vượt Đại Tây Dương
và tới Hà Lan thi đấu cho PSV.
De Rood-Witten, và có lẽ là cả Hà Lan,
lúc này đang ở đỉnh cao sức mạnh của mình. HLV Guus Hiddink giúp đội
bóng thành phố Eindhoven giành cú ăn ba trong khi Oranje cũng giành chức
vô địch Euro năm 1988. Romário trở thành một ngôi sao sáng, một trong
những cầu thủ Brazil đầu tiên tạo nên tiếng tăm vang dội khi chuyển đến
châu Âu và không lâu sau đó ông đã mang bầu không khí carnival ở quê
hương mình tới Hà Lan, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
“Cậu ấy là cầu thủ thú vị nhất mà tôi
từng huấn luyện. Nếu tôi hơi căng thẳng trước một trận đấu lớn, cậu ấy
sẽ nói ‘Thoải mái đi sếp, tôi sẽ ghi bàn và chúng ta sẽ giành chiến
thắng.’ Điều đáng kinh ngạc là đến 8/10 lần cậu ấy đã đúng.” Ngay cả
Hiddink cũng bị mê hoặc bởi tài năng thiên bẩm ấy. Trong mùa giải đầu
tiên, Romário đã ghi được 19 bàn ở Eredivisie và giúp PSV bảo vệ thành
công danh hiệu quốc nội.
Chàng trai sinh ra ở Rio cũng mang tới
Eindhoven một cuộc sống về đêm đúng nghĩa. Những bữa tiệc trong nhà của
anh trở nên nổi tiếng và tiền đạo này thể hiện một lối sống tự do,
phóng khoáng. Anh thậm chí còn mang cát vào rải trong vườn nhà mình để
nhìn cho giản dị hơn. Nhìn ra ngoài cửa sổ, khung cảnh ở vùng đất thấp
có thể không đem lại niềm vui như khi chứng kiến những con sóng vỗ vào
Copacabana nhưng cũng đủ để Romário quên đi cảm giác nhớ nhà và tập
trung vào bóng đá.
Và quả thật đúng là như thế. 4 mùa
giải tiếp theo mang đến cho ông thêm 2 danh hiệu Eredivisie và hiệu suất
bàn thắng đáng kinh ngạc: 127 pha lập công trong 142 trận. Vũ khí của
Baixinho là những cú chích bóng bằng đầu ngón chân. Anh bình tĩnh đến
mức lạnh lùng, hết lần này đến lần khác khiến các thủ môn phải vào lưới
nhặt bóng trong bất lực.
“Khi tôi sinh ra, người đàn ông ở trên
trời đã chỉ vào tôi và nói, ‘Chính là cậu bé đó.’” Những tuyên bố táo
bạo có phần ngạo mạn như vậy hiếm khi được đón nhận nồng nhiệt. Thế
nhưng, với một thiên tài như ông, khi được Barcelona gọi thì đó không
phải là điều bất ngờ.
Johan Cruyff đang xây dựng một triều
đại ở Tây Ban Nha và với Romário, vị cha già của bóng đá hiện đại đã có
một vị ngọc quý trong tay. Đời sống sang trọng ở Catalonia hoàn toàn
khác xa so với Jacarezinho, thế nhưng Romário chưa bao giờ bị định hình
bởi môi trường xung quanh mình. Thay vào đó, ông tạo ra môi trường chứ
không phải trở thành sản phẩm của một cái gì đó.
Đáng tiếc, quãng thời gian của ông tại
đây lại chỉ kéo dài hơn 1 mùa giải vì những bất đồng mang tính hệ thống
với Cruyff về cách cư xử và tập luyện. Dù vậy, trong khoảng thời gian
này những màn trình diễn của ông không có quá nhiều khác biệt. Suốt 18
tháng, ông ghi được 39 bàn – trong đó bao gồm 1 cú hat-trick trong trận
El Clásico – và 1 danh hiệu vô địch quốc gia.
Tại Champions League cũng không khác
là bao. Ông cùng với Hristo Stoichkov tạo thành cặp đôi hủy diệt nhảy
múa trong vòng vây đối thủ, biến những hậu vệ đẳng cấp thế giới trở
thành những kẻ bình thường. Blaugrana chỉ còn thiếu một điều cuối cùng
để mọi thứ trở nên hoàn hảo thì trận chung kết năm 1994, đoàn quân mang
tên AC Milan của Fabio Capello đã phá hỏng tất cả. Nhiều người cho rằng
Barcelona đã quá tự mãn và đến Athens vào đêm đó đơn giản nghĩ rằng họ
đã có được danh hiệu thay vì quyết đấu để giành lấy nó.
Có lẽ giai thoại hay nhất của câu
chuyện này là khoảnh khắc được chính Cruyff nhớ lại. Romário đã hỏi HLV
của mình liệu ông có thể nghỉ tập để đến Carnival ở Rio hay không. “Tôi
cười và trả lời: ‘Nếu ngày mai cậu ghi 2 bàn.’ Ngày hôm sau,
Romário ghi bàn thắng thứ hai sau 20 phút của trận đấu và ngay lập tức
ra dấu hiệu cho tôi hỏi xem có được đi hay không. Cậu ta bảo tôi, ‘Huấn luyện viên, máy bay của tôi sẽ rời đi trong 1 giờ nữa!’ Tôi không còn lựa chọn nào khác và đành để cậu ta đi.”
Mùa hè năm 1994 đánh dấu đỉnh cao của
Romário. Lúc bấy giờ đã khẳng định một vị trí tại đội tuyển quốc gia mà
tiếng Brazil gọi là một “craque” – cầu thủ ngôi sao – được theo dõi ông
tung hoành trên sân suốt kỳ World Cup năm ấy có thể xem là một điều
tuyệt vời nhất. Ông mở tỷ số trong chiến thắng 3-2 ở vòng tứ kết trước
Hà Lan và giữ vững bản lĩnh trên chấm luân lưu ở trận chung kết trước
người Ý. Chẳng có giới hạn nào cho người nghệ sĩ ấy, ông đưa Brazil
giành chức vô địch thế giới lần thứ tư và sau đó ẵm luôn giải Cầu thủ
xuất sắc nhất năm của FIFA.
Thành công chói lọi đã đưa ông vào
trong những câu chuyện bóng đá. Thế nhưng với người Brazil, ông còn hơn
cả một siêu sao tầm cỡ toàn cầu. Romário là cầu thủ của mọi người, mọi
nhà. Ông sống trong giấc mơ của mọi đứa trẻ khi nghĩ đến Jacarezinho.
Ông là sự kết hợp của một kẻ bình thường và một người được tôn vinh như
một vị thánh, tất cả lại càng làm củng cố hình tượng của một á thần nơi
Romário.
Trở lại Barcelona, lối sống có phần
phóng túng của Romário dường như có phần không hợp với một người kỷ luật
như Cruyff và ông quyết định trở về quê hương. Flamengo là những người
được hưởng lợi dù phải mất quãng thời gian 2 năm ở Valencia trước khi
Mengão thực sự khai thác được sự xuất sắc ấy.
Các năm 1998 và 1999, ông thi đấu bùng
nổ với tổng cộng 81 bàn thắng. Cả thế giới được chứng kiến một Baixinho
mạnh mẽ như suốt quãng thời gian ở châu Âu. Ông cũng tạo nên một cặp
Ro-Ro mang tính biểu tượng. Một Ronaldo trẻ trung bắt cặp cùng Romário
kinh nghiệm, cả hai thi đấu bùng nổ trên sân khi đưa Brazil đến chức vô
địch Copa América 1997 và vượt qua vòng loại World Cup 1998 tại Pháp.
Thế nhưng chấn thương cơ đã lấy đi kỳ
World Cup thứ hai của Romário dù ông đã phủ nhận thông tin cho rằng mình
không đủ thể lực để thi đấu tại kỳ đại hội bóng đá lớn nhất hành tinh
cuối cùng của mình.
4 năm nữa lại trôi qua, ông đã trở về
nhà để đầu quân cho Vasco và thêm nhiều những bữa tiệc vui vẻ. Thật khó
để nói rằng ai là người sợ ông hơn, cha của những cô gái trong độ tuổi
20 hay các hậu vệ khắp Brazil. Và cuộc sống của ông tiếp tục trôi cùng
với những bàn thắng cứ xuất hiện đều đặn. Ở độ tuổi có thể ví như một
loại vang hảo hạng, Romário khiến các hậu vệ phải chết lặng bởi kỹ thuật
và tốc độ. Giống như Picasso với hội họa hay Hendrix trong guitar,
Romário thực sự là bậc thầy ở môn nghệ thuật của mình.
Thời điểm vòng chung kết World Cup
2002 diễn ra, sự quan tâm của đất nước với đội tuyển tại giải đấu thực
sự bùng nổ. Thay vì tạo ra một cuộc tranh cãi, HLV Luiz Felipe Scolari
khẳng định rằng sự vắng mặt của ông trong đội hình là vì “lý do kỹ chiến
thuật”.
Con chim quý khi đó đã 34 tuổi bị từ
chối cơ hội được cất tiếng hót thật hay lần cuối cùng. Một chiến dịch đã
được khởi xướng – thậm chí được tổng thống Brazil thời điểm đó Fernando
Henrique Cardoso ủng hộ - để khiến HLV Scolari cân nhắc lại. Thế nhưng
chẳng có ích gì cả. Romário bất đắc dĩ phải chấp nhận quyết định của
huấn luyện viên nhưng đồng thời biết được những sự ủng hộ mà mình nhận
được. Tình cảm mà ông tạo ra với người Brazil là quá lớn.
Đoạn kết với sự nghiệp bóng đá của
Romário – vì giờ đây ông là một chính trị gia – chứng kiến ông trở thành
một con người nay đây mai đó. Ông giành danh hiệu vua phá lưới
Brasileirão Série A lần thứ 3 ở tuổi 39, giúp Miami FC vào vòng play-off
USL-1 lần đầu tiên trong lịch sử và tất nhiên ghi bàn thắng thứ 1000
trong sự nghiệp cho Vasco yêu dấu. Dù cột mốc đó vẫn còn những tranh cãi
vì người ta cho rằng nó bao gồm cả những trận đấu ở giải trẻ và các
trận không chính thức, thế nhưng di sản vĩnh cửu mà Romário thì là điều
chẳng cần phải bàn cãi.
Được Cruyff miêu tả là “cầu thủ xuất
sắc nhất từng dẫn dắt” và “một thiên tài trong vòng cấm địa”, không còn
gì để nghi ngờ nữa về những dấu ấn mà “Quỷ lùn” tạo ra. Tự tin, ngay
thẳng và oai phong lẫm liệt, cho đến ngày nay Romário vẫn là một trong
những tiền đạo xuất sắc nhất của thế giới bóng đá. Ông là người tiên
phong trong việc ra nước ngoài thi đấu của các cầu thủ Brazil về sau này
và chinh phục thế giới bằng một cá tính tự nhiên cùng đôi chân siêu
phàm.
Romario khuyên cầu thủ Brazil chăm làm 'chuyện ấy' tại World Cup!
Cựu cầu thủ lừng danh của bóng đá Brazil – Romario gây tranh
cãi khi lên tiếng khuyên tiền đạo G.Jesus cứ thoải mái chuyện 'chăn
gối' nếu muốn ghi được nhiều bàn thắng tại World Cup 2018.
Romario vô địch World Cup 1994 cùng tuyển Brazil
Romario và cô bồ trẻ Dixie Pratt, vốn là bạn thân của con gái ông!
Trước
những giải đấu lớn của đội tuyển quốc gia như Euro hay World Cup, vấn
đề tế nhị của giới cầu thủ lại được đề cập tới. Phần lớn HLV đều yêu cầu
vợ, bạn gái cầu thủ tránh xa khu vực đóng quân của đội, do lo ngại việc
gần gũi có thể khiến các cầu thủ sa sút thể lực.
Vậy
nên khi có ý kiến trái chiều ủng hộ quan hệ trước khi thi đấu luôn trở
thành đề tài tranh cãi. Mới đây, huyền thoại người Brazil - Romario làm
dậy sóng dư luận khi khuyên hậu bối G.Jesus nên thoải mái chuyện chăn
gối mới có thể thi đấu tốt tại World Cup 2018.
“G.Jesus
sẽ là chân sút chủ đạo của tuyển Brazil tại World Cup 2018. Cậu ấy cần
phải biết chắt chiu mọi cơ hội. Nên nhớ World Cup là giải đấu hoàn toàn
khác biệt với các giải đấu khác của FIFA hay UEFA.
Các
cầu thủ luôn phải tập trung cao độ và sẵn sàng cống hiến 100% sức lực
và tinh thần mới mong thành công. G.Jesus có thuận lợi lớn khi đang thi
đấu tại châu Âu, nơi 80-90% cầu thủ giỏi nhất thế giới đang thi đấu.
Chắc chắn Jesus đã có không ít lần được so tài với họ.
Tuy
nhiên, điều đầu tiên G.Jesus cần nhớ đó là phải được đáp ứng đầy đủ
chuyện chăn gối mới có thể thành công. Khi có ngày nghỉ Jesus nên tranh
thủ làm việc đó nhưng trước trận đấu thì phải chăm chỉ tập luyện ”, ông
Romario nói.
Huyền thoại Romario là người hùng
giúp tuyển Brazil vô địch World Cup 1994 và ghi được 5 bàn thắng. Đây là
chiếc cúp vàng thế giới thứ tư mà “Selecao” có được. Còn cá nhân cựu
danh thủ sinh năm 1966 này đã được tôn vinh bằng danh hiệu “Quả bóng
Vàng”.
Ngoài tài năng trên sân cỏ, Romario còn
nổi tiếng về “khoản ấy”. Ông tiết lộ từng “tranh thủ” ngay cả khi đang ở
trên máy bay cùng đội tuyển Brazil!
Minh Quang (Mail)
Romario hạnh phúc bên người tình tuổi teen
Cựu danh thủ Brazil công khai những hình ảnh tình tứ bên bạn gái 19 tuổi
Dixie Pratt bất chấp khoảng cách tuổi tác giữa hai người lên đến gần
30.
Dixie Pratt là một ca sĩ trẻ người Mỹ. Cô thậm chí còn chưa từng có trên
cõi đời này, khi Romario ghi những bàn thắng quyết định giúp đội tuyển
Brazil đoạt chiếc Cup vô địch thế giới năm 1994.
Ở tuổi cận ngũ tuần, Romario ngừng ghi bàn trên sân cỏ, nhưng vẫn biết cách ghi bàn trên chốn tình trường khi cặp kè với Pratt.
Những ngày qua, tài khoản mạng xã hội Instagram của cô gái 19 tuổi này
và Romario liên tục đăng tải những bức ảnh thân mật với nhau trong dịp
hai người cùng nhau đi nghỉ tại hòn đảo Aruba ở khu vực Caribe.
Romario và Dixie Pratt bắt đầu hẹn hò vào tháng 10/2014, ngay sau khi
cựu danh thủ 48 tuổi chia tay vợ cũ Isabella Bittencourt. Những hình ảnh
bên cạnh Romario giúp tài khoản Instagram của Pratt vượt mốc 13.000 người theo dõi.
Với sự nổi tiếng của mình, khoảng cách 29 tuổi với bạn gái khiến chuyện
tình của Romario được nhiều người chú ý. Điều hài hước nằm ở chỗ, vào
năm 1994, khi Romario vô địch thế giới cùng đội tuyển Brazil và giành
danh hiệu Quả Bóng Vàng thế giới, Pratt thậm chí còn chưa chào đời.
Khoảng cách lớn về tuổi tác không thể ngăn cản cựu siêu sao bóng đá đến với nhân tình trẻ truổi.
Chơi bóng cho đến tận hơn 40 tuổi, Romario hiện đứng thứ hai trong danh
sách những cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong sự nghiệp sau Josef
Bican với hơn 1000 pha lập công. Tính trong 70 lần ra sân trong màu áo
đội tuyển Brazil, Romario ghi được 55 bàn.
Cựu danh thủ 48 tuổi gần đây bắt đầu dấn thân vào con đường chính trị.
Ông được bầu là đại biểu của Đảng Xã Hội Brazil và là một trong những
nhân vật giữ vai trò quan trọng trong chiến dịch giành quyền đăng cai
World Cup 2014 của đất nước Nam Mỹ.
Quang Huy
“Điểm danh” những người tình bốc lửa của Romario
Quốc Bảo (tổng hợp) Thứ Bảy, ngày 17/01/2015 15:36 PM (GMT+7)
(Dân Việt) Tuy
đã trải qua 3 đời vợ nhưng cựu danh thủ Romario lại rất đa tình và “sát
gái” khi có không ít chân dài “qua tay” ông. Dưới đây là 10 mỹ nhân đã
từng cặp kè với huyền thoại người Brazil.
Chỉ sau 3 tháng ly dị cô vợ Isabella Bittencourt, cựu danh thủ Romario
cặp kè với người đẹp Cibelle Ribeiro kém ông 19 tuổi. Mỹ nhân này là một
ứng cử viên nặng kí cho danh hiệu Miss Bum Bum (hoa hậu siêu vòng ba)
Brazil 2012. Thế nhưng, mối tình này chưa đầy 1 tháng đã tan vỡ.
2. Larissa Gomes (2013)
Romario tươi cười bên cô bồ Larissa Gomes.
Cuối tháng 10.2013, giới truyền thông Brazil rộ lên tin đồn, Romario
đang “đá cặp” với người đẹp có thân hình bốc lửa Larissa Gomes. Cô nàng
29 tuổi này từng tham dự cuộc thi nữ CĐV hấp dẫn nhất Brazil 2011. Tuy
nhiên, chuyện tình của “Quỷ lùn” và chân dài này cũng là “gió thoảng mây
bay” khi mà chỉ vài tuần bên nhau, cả 2 chính thức “đường ai nấy đi”.
3. Zampirolli Thalita (2013)
Romario và cô bồ chuyển giới Zampirolli Thalita.
Tháng 12.2013, Romario đã bị bắt gặp khi tình tứ đi cùng người đẹp
chuyển giới Zampirolli Thalita. Năm nay, chân dài chuyển giới này mới 25
tuổi và từng đại diện cho Flamengo tham dự Musa Brasileirao (cuộc thi
CĐV quyến rũ nhất Brazil) 2013. Đến đầu năm 2014, cựu danh thủ người
Brazil đã nói lời chia tay với người tình chuyển giới để đến với “bóng
hồng” có thân hình bốc lửa Fabiola Azevedo.
4. Fabiola Azevedo (2014)
Romario và Fabiola Azevedo tại Miami (Mỹ).
Đầu năm ngoái, danh thủ 48 tuổi đã gặp gỡ cô nàng Fabiola Azevedo trong
một buổi hòa nhạc. Sau đó, ông đã nhanh chóng “cưa đổ” và dẫn mỹ nhân có
thân hình như siêu mẫu này đến khu du lịch Miami (Mỹ) để “du hí”. Dẫu
vậy, đến cuối năm 2014, Romario và cô bồ sexy đã bị “đứt gánh giữa
đường”.
5. Dixie Pratt (2015)
Romario và cô bồ mới Dixie Pratt.
Cách đây ít ngày, Romario đã công khai chuyện tình với cô nàng Dixie
Pratt trên các trang mạng xã hội. Được biết, chân dài 19 tuổi này là một
vũ công tại Brazil và là bạn thân của con gái cựu danh thủ 48 tuổi này.
Vào thời điểm này, vẫn chưa thể khẳng định chuyện tình giữa “trai già
gái trẻ” này sẽ đi về đâu, khi mà “Quỷ lùn” là một người rất đào hoa và
đa tình.
Chiến tích tình trường sửng sốt của ‘đàn anh' Ronaldo
10:09 05/11/2013
Romario không chỉ là một tay săn bàn quái kiệt những năm thập niên 90 mà còn là một tay sát gái khét tiếng trong giới túc cầu.
Khi còn theo đuổi sự nghiệp “giày đinh, áo số”, Romario từng được xem là
một trong những sát thủ ghi bàn, là cơn ác mộng của đối phương mỗi khi
xung trận. Tuy nhiên, “quỷ lùn” cũng là một tay ăn chơi, tiệc tùng và
gái gú khét tiếng. Những thành tích lẫy lừng trên sân cỏ của cựu tiền
đạo Barca luôn song hành cùng những chiến tích tình trường nổi đình nổi
đám.
Romario, một trong những cầu thủ xuất sắc
nhất thời đại. Anh là tiền đạo chủ lực trong chiến tích vô địch World
Cup 1994 của Brazil - kỳ World Cup đầu tiên Ronaldo tham dự. Romario cũng chính là người có ảnh hưởng tới phong cách chơi bóng cũng như phong cách sống của Ronaldo sau này. Chính Ronaldo đã từng khẳng định, anh coi Romario như một người anh trai.
“Niềm tự hào trong sự nghiệp cầu thủ của tôi là ghi được 1002 bàn
thắng. Nhưng tôi ân hận vì chưa cán được mốc đó ở… trên giường”, huyền
thoại bóng đá Brazil tếu táo chia sẻ sau khi “treo giày”. “Mây mưa” trên máy bay
Sau khi tuyên bố giải nghệ chưa lâu, Romario khiến cả thế giới phải
sửng sốt khi bất ngờ tiết lộ những bí mật động trời của bản thân. Trong
lúc cao hứng, cựu tiền đạo Brazil khẳng định mình hơn hẳn huyền thoại
bóng đá Pele về “khoản ấy”. Bởi lẽ, anh từng dám quan hệ với một phụ nữ
ngay trên… toilet máy bay.
Đó có lẽ là một trong những trải nghiệm thú vị và táo bạo nhất của
ngôi sao Brazil. Romario còn nhớ như in vụ việc diễn ra trên một chuyến
bay đến Thuỵ Sỹ để nghỉ ngơi, sau khi trở về từ đội tuyển quốc gia
Brazil hồi năm 1994.
"Quả bóng vàng 1994" tiết lộ từng làm "chuyện ấy" ngay trên máy bay.
Khi ấy, Romario đi cùng một cô bạn gái. Cảm giác tù túng và bứt rứt
khi phải ngồi hàng giờ trên máy bay khiến "quả bóng vàng World Cup 1994"
nổi hứng với người tình. “Sau khi tâm sự chán chê, tôi quyết định kéo
bạn gái vào toilet để… tâm sự tiếp”, Romario tủm tỉm tiết lộ.
“Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể quên cảm giác khi đang lơ lửng
giữa không trung. Tôi dám cam đoan Pele không đủ can đảm làm điều này”,
Romario hả hê kể lại. Không tha cả phòng thay đồ
Một trong những trải nghiệm không kèm phần kịch tính của Romario diễn ra ngay trong phòng thay đồ của SVĐ Maracana.
Siêu sao Brazil nhớ lại, đó là buổi chiều muộn sau một trận đấu hồi
cuối năm 1994. Khi ấy, Romario được yêu cầu ở lại để tiến hành một cuộc
kiểm tra sức khỏe. Cả sân vận động đã về gần hết, ở khu vực thay đồ chỉ
còn lại mình anh, bạn gái cùng một nhân viên giữ chìa khóa.
“Cả sân vận động đã gần như về hết. Phòng thay đồ chính là địa điểm
lý tưởng để chúng tôi có thể thăng hoa. Tuy nhiên, điều khó chịu nhất là
chúng tôi phải hoàn toàn giữ im lặng, vì người giữ chìa khóa đang đứng
ngay ngoài cửa phòng”, Romario không ngại ngần “khoe” chiến tích.
Ngoài ra, “người hùng Selecao” cũng tiết lộ mình là chúa hay “vượt
rào” để tìm gái. Tại World Cup 1994, Romario đã không ít lần qua mặt HLV
Carlos Alberto Parreira, trốn ra khỏi đại bản doanh để thỏa mãn cơn
nghiền sex của bản thân.
“Quỷ lùn” thừa nhận: “Nhờ thế mà tôi có cậu con trai”. Cậu con trai
Romarinho, 18 tuổi đang nối nghiệp cha ở câu lạc bộ Vasco da Gama chính
là kết quả sau một đêm vụng trộm của Romario và cô vợ xinh đẹp Monica
Santoro. 3 vợ, 6 con và hàng tá bồ
Trong giới túc cầu, hiếm có cầu thủ nào lại có lắm vợ, nhiều con như
Romario. Tính tới thời điểm hiện tại, huyền thoại xứ Samba có tới 6
người con, 3 bà vợ cùng hàng tá nhân tình.
Romario và vở kịch hạnh phúc bên vợ 3 và con gái.
Thế nhưng, trong thời gian chung sống với cô vợ ba Isabella
Bittencourt, Romario không ít lần “cắm sừng” cô vợ xinh đẹp. Tháng
1/2010, Romario bị bắt quả tang đang ôm hôn một người đẹp tóc vàng nóng
bỏng trong một bữa tiệc. Giới săn tin nhanh chóng xác định được người
tình bí ẩn của “quỷ đỏ” là Silgueiros Camila de Carvalho, đã có chồng và
2 con.
Dù đã 47 tuổi, Romario vẫn luôn được vây quanh bởi những mỹ nhân đáng tuổi con mình.
Có nguồn tin cho hay, Camila là một trong số tình cũ của Romario, và
hai người đã từng có thời gian sống chung với nhau như vợ chồng khoảng 1
tháng. Ấy vậy, Romario vẫn già mồm khẳng định "trái tim chỉ dành cho
mình vợ yêu Isabella".
Tuy nhiên, những lời có cánh của Romario dường như không thể cứu vãn
được cuộc hôn nhân kéo dài 12 năm. Tháng 7/2012, Romario tuyên bố đã
chia tay vợ 3 Isabella. Nguyên nhân dẫn tới đổ vỡ chính là sự xuất hiện
của người thứ 3 - hoa hậu siêu vòng 3 Cibelle Ribeiro. Romario quen cô
này trong một hộp đêm mà không ít lần lén lút qua mặt vợ con dẫn ả về
nhà riêng để vui vẻ.
Sau khi chia tay vợ cũ, Romario công khai cặp kè người đẹp. Nhưng mối
tình cũng chỉ kéo dài vỏn vẹn vài tháng. Tìm được niềm vui bên người
đẹp khác, cựu danh thủ nhanh chóng “đá” hoa hậu vòng 3 một cách không
thương tiếc.
Romario vẫn liên tục chìm đắm trong tửu sắc, mải mê rượt đuổi theo
những bóng hồng. Denise Rocha, Sofia Vergara,... và mới đây nhất là hoa
hậu Larissa Gomes đang ghi tên vào bảng chiến tích tình trường của
Romario. Ở tuổi 47, danh sách nhân tình của “Quả bóng vàng World Cup
1994” vẫn không ngừng nối dài.