Thứ Tư, 30 tháng 8, 2017

Xem phim: "Là Chính Mình"

(ĐC sưu tầm trên NET)

Là Chính MìnhWe Are What We Are (2013)

Trạng thái:
Đã có bản HD hoặc FULL HD

Điểm Vkool:
9.6

Điểm IMDb:
5.9
(16,616 đánh giá)

Đạo diễn:
Jim Mickle

Diễn viên:

Thể loại:
Phim Kinh Dị - Ma, Phim Tâm Lý,

Sản xuất:
Belladonna Productions, Memento Films International, Uncorked Productions

Quốc gia:
Phim Mỹ - Châu Âu

Thời lượng:
105 phút
Là Chính Mình - We Are What We Are

Nội dung phim

Khi tộc trưởng của gia đình qua đời, những đứa trẻ phải chịu trách nhiệm cho các công việc vặt trong gia đình: chuẩn bị các nghi lễ, săn bắn… Những trách nhiệm mới này hết sức khó khăn với chúng, nhưng sự việc kinh hoàng hơn cả là xuất hiện 1 kẻ ăn thịt người…

Xem Phim Là Chính Mình - We Are What We Are - Vkool.Net - Ảnh 1


Xem Phim Là Chính Mình - We Are What We Are - Vkool.Net - Ảnh 2


Xem Phim Là Chính Mình - We Are What We Are - Vkool.Net - Ảnh 3
 
 

Xem tiếp...

KIẾP GIANG HỒ 186 (Ba Dương)

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                    Ba Dương – Thủ Lĩnh Bình Xuyên khét tiếng Nam Kỳ


Sự thật "giang hồ" khét tiếng trở thành vị tướng tài năng

GĐ&XH

GiadinhNet - Ba Dương, tên thật là Dương Văn Dương, sinh năm 1900, tử trận 22/02/1946. Ông sinh ra ở Bến Tre trong một gia đình lưu dân vùng Ngũ Quảng.
Thuở nhỏ, ông học một ít võ thuật từ cha và bắt đầu bôn tẩu giang hồ khi vừa 14 tuổi. Ba Dương là người trượng nghĩa hiệp, thích sống tự do thoải mái, sau khi lên Sài Gòn, mảnh đất mà ông dừng lại trú chân là Bình Xuyên.
Bình Xuyên xưa kia là một ấp thuộc làng Chánh Hưng, quận Nhà Bè. Với địa hình chi chít sông rạch, cây cỏ mọc um tùm, là vùng đất gần trung tâm Sài Gòn nhưng lại hết sức hoang sơ… Đó chính là điều kiện rất thuận lợi để trốn nã, bắt bớ của các giang hồ hảo hán thời Pháp thuộc. Vì quy tụ nhiều hảo hán giang hồ và không ít những tên tội phạm khét tiếng nên thực dân Pháp gọi vùng đất này là "ổ cướp".
Ông Dương Văn Dương.
Từ vùng đất này, một hảo hán với võ nghệ cao cường tuyệt đỉnh và cách cư xử như các thủ lĩnh Lương Sơn Bạc đã xuất hiện và liên kết thống nhất giang hồ khắp nơi, hướng họ vào công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Đó chính là Ba Dương - một thủ lĩnh đích thực, cánh chim đầu đàn của vùng đất hoang sơ Bình Xuyên. Dùng tài nghệ của mình, Ba Dương đã quy tụ và thu phục những "cọp dữ" thuộc giới giang hồ Nam Kỳ thuộc địa để tạo thành một lực lượng hùng hậu chống thực dân. Chuyện kể về hảo hán Ba Dương không nhiều, nhưng hầu hết đáng tin cậy.
Chân dung giang hồ khét tiếng
Trước khi thành thủ lĩnh, Ba Dương đã lưu lạc nhiều nơi, làm đủ thứ nghề để kiếm sống. Trong một lần khi đi vác lúa thuê về, ông chứng kiến 5 gã côn đồ tự xưng là người Kèo Vàng (Nghĩa Hòa Đoàn- Triều Châu) vây một ông già đi mua lúa. Nổi máu trượng nghĩa mặc dù còn nhỏ và võ vẽ chẳng được bao nhiêu, Ba Dương xông vào can thiệp. Tất nhiên, Ba Dương bị 5 gã kia đánh cho một trận tơi bời. Đến lúc này, ông già mới ra tay và chưa tàn nén nhang đã cho bọn côn đồ khiếp sợ hò nhau bỏ chạy. Ông già đưa Ba Dương về dạy võ và nhận làm con nuôi. Nhưng chưa đầy 2 năm sau Ba Dương lại bơ vơ do cao thủ người Hoa này bị tai nạn và chết mất xác. Ba Dương đi chăn vịt thuê, chạy đồng khắp nơi suốt 3 năm trời. Rồi Ba Dương lưu lạc lên khu bến Bình Đông, quận 8 và quận 6 bây giờ làm thuê kiếm sống qua ngày.
Lúc bấy giờ phong trào hội kín lan tỏa khắp cõi. Ở Sài Gòn mạnh nhất là hội Vạn Xe (hội của những người cùng ngành nghề). Năm 1888, Vạn Xe chính thức hoạt động với trụ sở là một ngôi miếu nhỏ vùng Tân Hưng. Phạm vi hoạt động ban đầu là khu Bình Đông, Phú Lâm, Minh Phụng ra đến An Bình Chợ Lớn. Hội Vạn Xe khống chế tất cả sinh hoạt ngầm như cờ bạc, mại dâm, bảo kê, tống tiền... Khi bành trướng hoạt động, Vạn Xe va chạm đến quyền lợi nhiều người. Nhẫn tâm thu cả tiền thẻ của phu bốc vác nghèo khổ ở các chành gạo khiến Ba Dương phản ứng và xảy ra đụng độ. Cùng với những người trượng nghĩa, Ba Dương đã đánh cho những tên được hội Vạn Xe sai đến thu tiền phải cúi đầu ra về tay không hết lần này đến lần khác. Chính điều này đã tạo nên mâu thuẫn lớn giữa ông và hội Vạn Xe vốn đang rất lộng hành.
Mới chỉ 20 tuổi, Ba Dương đã dám đối đầu trực tiếp với hội Vạn Xe, khi một thân một mình đến thẳng hội sở thách đấu theo kiểu một chọi một. Tất nhiên, Ba Dương dễ dàng thắng trận trước một cao thủ trốn từ Quảng Đông sang và cũng chẳng thèm gia nhập hay nhận chức tước của Vạn Xe. Sau trận đấu sinh tử đó, tiếng tăm ông nổi như cồn và được nhiều đại ca trong giới giang hồ nể phục.
Năm 1939, Ba Dương về ngụ ở cầu Rạch Đĩa làng Tân Quy, Nhà Bè (bây giờ thuộc quận 7, TP. HCM) và mở lớp dạy võ vì nhiều bạn bè nài nỉ. Lúc này lại xảy ra chuyện giang hồ các nơi đè cổ các chủ ghe thương thuyền đòi tiền bảo kê, Ba Dương lại một mình một ngựa xuống tận khu vực ghe thuyền neo đậu ở kênh Cây Khô giải quyết. Hàng loạt vụ chạm trán xảy ra và phải mất nhiều tháng ông mới thu phục được những giang hồ bến bãi. Người ta kể lại rằng, mỗi khi "me" thu phục một nhóm nào đó, Ba Dương không truy đuổi đến cùng mà luôn mở cho họ con đường để chọn lựa. Điều này đã làm cho nhiều kẻ có máu mặt nể trọng và đi theo ông, không ít những người trong số đó sau này là cán bộ chỉ huy nòng cốt trong liên quân Bình Xuyên.
Trở thành vị tướng tài ba
Thời điểm này, thực dân Pháp tuy đã yếu do Paris đầu hàng Đức quốc xã nhưng lại bóc lột nhân dân thậm tệ. Từ đó đã làm cho khuynh hướng chống Pháp của hảo hán Ba Dương lộ rõ. Để có phương tiện, tiền bạc, võ khí chống Pháp, Ba Dương cùng Năm Hà xin vào làm công nhân hãng đóng tàu Nichinan của Nhật. Ông lao vào việc vũ trang để có một đội quân đúng nghĩa bằng việc thành lập Thanh niên Cảm tử đoàn (hải quân Bình Xuyên) cùng với hàng loạt lãnh tụ Bình Xuyên như Bảy Viễn, Mười Trí, Hai Vĩnh, Bảy Môn, Năm Hà... tạo thành một lực lượng thống nhất và hùng mạnh. Có binh, có tướng, có vũ khí, có chiến khu... vấn đề được đặt ra và ưu tiên hàng đầu là lương nuôi quân.
Thuở ấy, bến xe bến tàu, thương thuyền, kho hàng, chành, vựa...là nơi dễ kiếm tiền nhất. Bến xe An Đông được cho là ăn nên làm ra lại thuộc quyền cai quản của thần cước tung hoành lục tỉnh khét tiếng Sáu Cường. Để có tiền xây dựng căn cứ và bảo đảm lương thực nuôi quân, Ba Dương đã thảo thư gửi Sáu Cường với lời lẽ trong thư hết sức khiêm tốn. Nhưng Sáu Cường đâu dễ chịu "chia cơm", hắn giận giữ và sai người đưa thư về báo với Ba Dương rằng: "Bình Xuyên có Ba Dương, An Đông có Sáu Cường, mỗi người hùng cứ một cõi, nếu có giỏi thì đến gặp ta... chuyện góp gạo nuôi quân, lúc đó tính". Ba Dương lại thân chinh một mình đến gặp Sáu Cường, thoạt nhìn, Sáu Cường không thể tin nổi chàng thanh niên nho nhã mặc bộ bà ba lụa lèo, tay phe phẩy quạt giấy trước mặt mình, lại là thủ lĩnh huyền thoại của Bình Xuyên. Hắn tuyên bố: "Nếu đỡ được cú đá của hắn thì chuyện nuôi quân là chuyện nhỏ".
Quả nhiên, chỉ sau vài cú thần cước kinh hoàng, Sáu Cường bất giác đình thủ vòng tay xá Ba Dương và đồng ý góp một khoản phí nuôi quân hàng tháng. Khi Ba Dương đã đi xa, Sáu Cường gật gù nói với thủ hạ: "Quả xứng đáng là hảo hán". Dù không bên nào giải thích nhưng bí mật của cuộc đấu vẫn hé lộ. Hóa ra khi lòn thấp người để tránh cú đá thần sầu của Sáu Cường, thủ lĩnh Bình Xuyên không quên dùng quạt chạm nhẹ vào hạ bộ đối thủ với dụng ý ngầm cảnh cáo: Muốn lấy mạng Sáu Cường dễ như trở bàn tay. Sáu Cường hiểu được dụng ý đó là đồng ý với yêu cầu của thủ lĩnh Bình Xuyên. Sau khi vụ đụng độ với thần cước Sáu Cường lan tỏa trong giới lục lâm thảo khấu khắp cõi Nam Kỳ, toàn bộ anh hùng ở bến xe cử người đến mời. Thế là, Ba Dương trở thành "ông trùm" của bến xe này, dù chẳng bao giờ phải lộ diện. Và tất nhiên, lương thực nuôi quân luôn được bảo đảm.
Cả nước đang sôi sục chuẩn bị cho Cách mạng tháng 8, đội quân Bình Xuyên cũng tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền. Ba Dương tổ chức lại bộ đội Ba Dương cùng các lực lượng khác thành bộ đội Bình Xuyên và đưa vào mặt trận kháng chiến chống liên quân Anh- Pháp đang lăm le trở lại cướp nước. Tài chỉ huy và đức độ của ông đã khiến cho các lực lượng kháng chiến tự phát khác tuân phục. Tháng 11/1945, ông được cử làm chỉ huy trưởng lực lượng Nhà Bè, Tân Thuận, Bình Đông... ở mặt trận số 4, bao vây mặt Nam Sài Gòn đang do liên quân Anh- Pháp chiếm giữ. Tháng 12/1945, Ba Dương được cử làm Khu bộ phó khu 7, và phân thành các chi đội. Toàn bộ được gọi là liên quân Bình Xuyên đều đặt dưới sự chỉ huy của Ba Dương. Như vậy là, từ một hảo hán giang hồ khét tiếng giới lục lâm, Ba Dương đã trở thành một chỉ huy quân sự tài năng và đức độ.
Tưởng rằng đất nước sẽ có một vị chỉ huy quân sự tài ba để lãnh đạo liên quân Bình Xuyên, nào ngờ khi liên quân Anh-Pháp đẩy mạnh tấn công ra mặt trận An Hóa-Giao Hòa hầu phá vỡ thế bao vây của Việt Minh. Do vũ khí kém và chỉ huy có hạn chế về khả năng, nguy cơ vỡ trận là chắc chắn. Nhận được tin, Ba Dương liều đưa quân đội Bình Xuyên của mình vượt sông Soài Rạp viện binh cho mặt trận An Hóa-Giao Hòa. Khi trú quân ở một ngôi nhà nhỏ tại ấp Bình Phương xã Châu Bình, bộ chỉ huy của liên quân Bình Xuyên bị chiếc máy bay Spitre của Pháp phát hiện. Ba Dương trúng một loạt đạn canon 20 ly và qua đời ngày 22/2/1946. Để ghi nhớ công ơn của ông, Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã truy phong Dương Văn Dương, tức Ba Dương lên thiếu tướng, và ông cũng là vị tướng được truy phong đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam.
Công Thư

Long tranh hổ đấu và trận thua bí ẩn của 'thần cước'

14:38 01/04/2013

Vốn là hai cao thủ trong chốn võ lâm, từng quy tụ dưới trướng cả ngàn đệ tử, tung hoành ngang dọc một thời, uy danh của "thần cước" Sáu Cường và cao thủ Ba Dương ở Sài Gòn những năm 30 - 40 của thế kỷ trước, nhớ lại, vẫn khiến nhiều kẻ yếu bóng vía sởn da gà, nổi gai ốc.

Liên hoàn cước quỷ khốc thần sầu
Từ những năm loạn ly, Sài Gòn đã là một thành phố đô hội, nơi hấp dẫn mọi thành phần xã hội. Đặc biệt là các băng phái giang hồ mã thượng. Thế giới giang hồ những năm 30 - 40 là nơi dành cho những tay yêng hùng hảo hán theo đúng nghĩa.
Nổi lên trong số đó là Sáu Cường, người về sau được biết đến như một cao thủ huyền thoại của Nam Kỳ những năm 30, 40. Về thân thế của nhân vật này có nhiều tài liệu với nhiều ý kiến trái chiều. Có tài liệu cho rằng ông vốn là người Bạc Liêu. Tuy nhiên, những ghi chép của nhà văn Đặng Tấn Đức cho biết, Sáu Cường vốn tên là Nguyễn Phước Cường quê ở huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.
Khẳng định thông tin trên, ông Tư Trinh (ấp Chợ, Tân An, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh), một trong những đệ tử cuối cùng của Sáu Cường cho biết: "Sinh thời ông sống tại Tiểu Cần nhưng sau này, khi con đường võ nghiệp đã thành danh, ông lên ở Sài Gòn nhiều năm". Cũng theo ông Trinh, huyền thoại giang hồ Sáu Cường có tuổi thơ không mấy êm ả. Ông sớm mồ côi cha mẹ và lăn lóc mưu sinh.
Số phận đen bạc khiến tuổi thơ của Sáu Cường rất nghiệt ngã, nhưng bù lại cho cậu khả năng thiên bẩm về võ học. Ông Tư Trinh kể lại: "Nhiều bậc tiền bối nói rằng, ông có một trí nhớ khác người và một sự đam mê võ học ít ai có được. Ông thường lén xem các tay võ sư mãi võ rồi tập theo.
Sau này, ông gặp được một tay cao thủ võ học người Tàu đang ẩn danh tại đây nhận làm đồ đệ". Nhiều ý kiến cho rằng, Sáu Cường chỉ học được với người võ sư trên những đòn đá kinh người. Ngoài ra, ông còn những tuyệt kỹ khác được học với nhiều bậc danh sư ẩn dật.
Cũng như "thần cước" Sáu Cường, Ba Dương sớm mất cha. Sinh ra trong một gia đình nghèo tại Bến Tre, sau ngày mất cha, ông theo mẹ tha hương khắp nơi và trụ lại Sài Gòn. Không như Sáu Cường một thân trăm nghề, lúc trẻ, Ba Dương chăn vịt chạy đồng khắp miền đồng ruộng Nhà Bè, Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công.
Tuy nhiên, tại đây, ông có dịp được mục kích những màn biểu diễn, thi thố võ thuật của những bậc võ sư thượng hạng. Vốn cũng là người có khiếu võ nghệ từ nhỏ, nhờ được cha dượng chỉ dạy, lớn lên Ba Dương đam mê võ nghệ hơn bất cứ điều gì. Đi đến đâu, Ba Dương cũng lân la tìm kiếm các bậc danh sư võ học để tìm hiểu. Gặp thầy hay, Dương xin học cho kỳ được. Nhờ đó, nghề võ của Dương sớm hơn người. 

Xã hội - Long tranh hổ đấu và trận thua bí ẩn của 'thần cước'

Chân dung huyền thoại Sáu Cường và thủ lĩnh Bình Xuyên Ba Dương.
Ngay khi còn là một thiếu niên gầy yếu, Ba Dương đã được đánh giá là một cao thủ võ học. Ông tinh thông nhiều độc chiêu của những thầy võ nổi tiếng ở Sài Gòn và miền Tây Nam Bộ như: Thầy Ba Thi ở Chợ Lớn, thầy Sáu Lầu ở Bình Chánh, thầy Bộ Dực ở Bến Tre... Rất nhanh chóng, ông trở thành thầy dạy võ gần cầu Rạch Đỉa, làng Tân Quy, Nhà Bè, kiêm nghề bảo hiểm bình dân cho các chủ ghe thương hồ trên kinh Cây Khô, ngay cửa ngõ Sài Gòn từ khi còn là một "thằng trai nhỏ xác".
Long tranh hổ đấu và trận thua bí ẩn của "thần cước" 
Một trong lãnh địa kiếm cơm lý tưởng nhất thuộc quyền sở hữu của Sáu Cường là bến xe An Đông (khu vực đường Lê Hồng Phong, quận 10, TP.HCM bây giờ). Trước khi thâu tóm bến xe này vào tay và trở thành ông trùm bảo kê hàng hóa, dàn xếp tất cả các cuộc tranh giành khách tại đây, Sáu Cường đã không ít lần đích thân ra mặt thách đấu mọi đối thủ. Với danh tiếng và uy lực của đòn liên hoàn cước, khiến quỷ khốc, thần sầu, Sáu Cường nhanh chóng dẹp yên bờ cõi, thâu tóm toàn bộ bến xe.
Trong lúc này, Ba Dương vẫn sống đời "ngọa hổ tàng long". Ông mở lớp dạy võ rồi về Nhà Bè sống cảnh phiêu bạt giang hồ. Với nghĩa khí của bậc quân tử, không ít lần Ba Dương ra mặt giải quyết những vụ đụng độ giữa đám đệ tử với các bang phái giang hồ Sài Gòn. Sự xuất hiện của tên thư sinh tay cầm quạt, tưởng chừng trói gà không chặt nhưng có thể áp đảo quần hùng khiến nhiều đàn anh, đàn chị đứng ngồi không yên. Tuy nhiên, trong các trận tử chiến với tên "thư sinh" nhiều tay anh chị bị hạ gục đều tâm phục khẩu phục. Ba Dương cũng nhanh chóng thu phục hàng loạt đàn em vốn là những tay đâm thuê chém mướn.
Được biết, lúc bấy giờ, Ba Dương đã có ý định nuôi quân, thu thập vũ khí chờ làm việc lớn. Nguồn thu từ việc bảo kê hàng hóa lương thực không đủ đảm bảo cho một số lượng lớn các anh hùng hảo hán. Thủ lĩnh Bình Xuyên có ý muốn được Thần cước Sáu Cường giúp đỡ từ nguồn thu kếch xù trong việc bảo kê bến xe An Đông. Sau chuyến về Tiểu Cần lên Sài Gòn, Sáu Cường nhận được một lá thư tay có nội dung ngắn gọn: Xin ít tiền nuôi quân. Ký tên: Ba Dương, một trong những thủ lĩnh Bình Xuyên.
Sáu Cường không mảy may suy tính, ông nhận lời hội kiến. Địa điểm là quán cà phê Hải Nam trên góc đường Vĩnh Viễn. Không phải đợi quá lâu, sau ít phút, Sáu Cường thấy một chiếc xe lôi đỗ lại trước mặt. Từ trên xe, một thanh niên bận bà ba trắng, tay cầm quạt nom có vẻ thư sinh, yếu ớt. Thoáng chút bất ngờ, Sáu Cường không tin đó là thủ lĩnh Bình Xuyên lại càng không tin hắn có thể chịu nổi thần cước vang danh của mình. Sáu Cường đứng dậy nói thẳng: "Chịu nổi thần cước của Sáu Cường rồi nói chuyện... không thì Bình Xuyên cứ tung hoành ở đất của mình, chừa đất cho anh em An Đông sống, chớ để mất hòa khí".
Ba Dương lặng lẽ gật đầu. Không cần thăm dò thực hư, như mọi lần, Sáu Cường vung chân xuất cước liên hoàn về phía Ba Dương. Người xem chỉ nghe tiếng gió vùn vụt mỗi khi "thần cước" tung chân. Trong rừng chân bủa vây, người ta chỉ thấy anh thanh niên lách người né tránh nhanh như chớp với thân thủ linh hoạt xuất thần. Sau một loạt liên hoàn cước chết người, bất thần Sáu Cường tái mặt ngừng đánh. Bất ngờ chấp nhận quyên tiền nuôi quân Bình Xuyên. Ba Dương chắp tay tỏ ý cảm tạ rồi lên xe ra về bỏ lại Sáu Cường bị vây kín trong sự tò mò của đám đàn em. Trước những câu hỏi liên tục của đám dưới trướng, Sáu Cường chỉ xua tay không trả lời, lên xe về thẳng Tiểu Cần mang theo những câu hỏi không lời giải.
Lời giải cho ảo chiêu của Ba Dương
Những bí mật về trận thua khó hiểu của ông mãi về sau khi thế giới giang hồ nghĩa hiệp bị xóa sổ mới được tiết lộ vài phần. Theo đó, khi Sáu Cường mải mê tung thần cước hòng hạ gục Ba Dương trong chớp nhoáng, thì chỉ thấy Ba Dương khi lách người, khi cúi thấp né tránh, thân pháp biến ảo khôn lường, thần cước Sáu Cường như hổ vồ, thì Ba Dương như rồng lượn. Tuy nhiên, trong khi đang say đòn đầy khí thế trước đám đàn em hô vang, ủng hộ, Sáu Cường bất thần cảm nhận được đầu quạt giấy của Ba Dương khẽ chạm hạ bộ của mình.
Không còn nghi ngờ, việc đoạt mạng "thần cước" đối với Ba Dương chỉ như trở bàn tay. Ông không ra tay là vì tôn trọng đối thủ cũng như giữ thể diện cho một bậc cao thủ võ học nghĩa hiệp.
Cho dù lý giải thế nào, thì đến nay, việc đại cao thủ Ba Dương thực chất xuất chiêu gì và thuộc môn phái nào vẫn là một ẩn số mãi mãi không có lời giải.


Anh hùng nhất khoảnh Ngay sau khi khuất phục những bậc cao thủ võ  học cùng thời, Sáu Cường nổi lên như một tay hảo hán. Ông trở thành niềm tin của những người yếu thế. Danh tiếng của thần cước càng nổi sau khi đánh bại tay đấm Hồng Sơn bảo vệ hãng xà bông thuần Việt của Trương Văn Bền. Sau trận này, "thần cước" Sáu Cường nhanh chóng quy tụ hàng ngàn đàn em, bảo kê một vùng rộng lớn các bến xe, rạp hát, khách điếm, sòng bạc...
Sau khi thu phục những tay giang hồ có tiếng, Ba Dương chuyển mình thành một tay bảo kê chuyên bảo kê cho dân buôn vận chuyển lương thực, hàng hoá từ Nam Kỳ lục tỉnh về Sài thành. Từ đây, trong giới giang hồ nghĩa hiệp, Ba Dương trở thành đối trọng với cánh của Sáu Cường, cho dù cả hai chưa hề đụng mặt nhau.

Được cách mạng cảm hóa Cuộc đời và sự nghiệp của hai tay giang hồ mã thượng Sáu Cường, Ba Dương tưởng chừng không có điểm chung nhưng lại gặp nhau trên con đường cách mạng. Sáu Cường sau những lần chứng kiến cảnh sống tủi nhục của kẻ nước mất nhà tan đã nghe theo tiếng gọi của cách mạng. Ba Dương từ rất sớm đã có ý định nuôi quân làm việc lớn và trở thành một trong những thủ lĩnh của lực lượng Bình Xuyên huyền thoại. Đáng tiếc, khi sự nghiệp chưa viên mãn, cả hai đều thúc thủ trước tội ác của giặc Pháp.
Hà Nguyễn

Dương Văn Dương, vị Tướng đầu tiên của chiến trường Tây Nam Bộ (I)

ĐS&PL

(Phunutoday) - Ở giữa ruột vùng Đồng Tháp Mười có một con kênh lớn, dài gần 50 cây số. Trước đây, người Pháp cho đào con kênh này để làm tuyến vận tải huyết mạch của vùng Đồng Tháp Mười với tên Lagrange. Từ năm 1947, nó được Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ đặt tên Dương Văn Dương, tên của một vị tướng quê Bến Tre. Tuy cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi nhưng ông được nhiều tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam tôn xưng là bậc đàn anh của các tướng lĩnh Nam bộ.
Người khai sinh Bộ đội Bình Xuyên
Vị Tướng đầu tiên của chiến trường Tây Nam Bộ- Tướng Dương Văn Dương
Thiếu tướng Nguyễn Hữu Vị, một trong 24 vị tướng của đất cù lao Bến Tre kể rằng thiếu tướng Dương Văn Dương (thường gọi là Ba Dương) sinh năm 1900 ra trong một gia đình nghèo ở cù lao Minh, tỉnh Bến Tre. Ông là con của ông Ngô Văn Mà và bà Dương Thị Biểu, nhưng do thời cuộc và mồ côi cha từ nhỏ nên Dương Văn Dương mang họ mẹ rồi theo mẹ bỏ xứ tha phương cầu thực khắp nơi.
Lúc mẹ ông tái giá, người cha dượng không rẻ rúng hắt hủi Ba Dương mà thương ông như con ruột và nuôi dưỡng, đùm bọc ông suốt thời niên thiếu ở khu vực cầu Rạch Đỉa, làng Tân Quy, huyện Nhà Bè (nay là quận 7, T.P. Hồ Chí Minh).
Sinh thời, ông Ba Dương có tính tự lập rất cao và thích ngao du khắp các vùng miền. Do nhà nghèo nên Ba Dương chỉ được học hết bậc tiểu học thì nghỉ. Thôi học, Ba Dương rời gia đình đi ngao du khắp nơi, quyết chí tìm học thêm những kinh nghiệm sống, những cách đối nhân xử thế ở trường đời và sẵn sàng làm đủ thứ nghề để mưu sinh. Trong những năm sống lăn lộn ở khắp đồng ruộng từ Nhà Bè qua Cần Giuộc, Cần Đước xuống đến Gò Công, Bến Tre, làm nghề chăn vịt chạy đồng, Ba Dương không hề ngại gian khổ, lúc nào cũng lạc quan vui sống, dù cuộc đời người chăn vịt chạy đồng đầy khổ cực.
Trên bước đường ngao du cùng bầy vịt chạy đồng, đến đâu, hễ nghe có ông thầy võ nào có miếng võ gia truyền “độc chiêu” là Ba Dương liền tìm tới làm quen, rồi xin làm đệ tử để học cho bằng được ngón võ nổi tiếng của thầy. Nhờ thế, Ba Dương giỏi võ nghệ, tinh thông nhiều môn quyền cước và giỏi sử dụng roi. Chính vì vậy, khi quay về Sài Gòn, sống cuộc đời giang hồ hảo hán mã thượng, nghề võ của Ba Dương nổi trội hơn nhiều tay anh chị ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ba Dương còn được họ nể phục vì đối xử rất quân tử. Có miếng nghề nào hay, độc đáo là ông sẵn lòng truyền lại cho các thanh niên trong vùng, không hề giấu giếm. Vì thế,hàng trăm người mến vì tài, nể vì đức mà quy phục dưới trướng của Ba Dương, dù ở Nam Bộ lúc bấy giờ có rất nhiều tay “anh chị” chọc trời, khuấy nước ngang dọc . Vậy nên, những tay anh chị này rất kính phục ông.
Vào năm 1936, Ba Dương trở về khu vực cầu Rạch Đỉa, làng Tân Quy đóng đô, mở lò dạy võ giúp những người dân lương thiện sức yếu, thế cô có được vài miếng võ phòng thân, tự vệ và ngày càng nổi tiếng trong giới giang hồ Sài Gòn - Chợ Lớn vì luôn bênh vực, giúp đỡ người nghèo, nhiều lần tung quân đi lấy của cải của những nhà giàu bất chính đem chia lại cho dân nghèo quanh vùng.
Năm 1940, Nam Kỳ khởi nghĩa, dù cuộc khởi nghĩa này thất bại và bị giặc đàn áp dã man nhưng những dư âm của cuộc khởi nghĩa đẫm máu và nước mắt đã tác động sâu sắc đến suy nghĩ của Ba Dương và là một bước ngoặt làm thay đổi cuộc đời ông. Chỉ trong năm 1941, Ba Dương bị Pháp bắt 2 lần và bị tra trấn dã man trong nhà tù của thực dân. Nhưng trong những ngày lao tù, Ba Dương đã gặp gỡ, làm quen với nhiều tù chính trị và được họ cảm hóa, giác ngộ cách mạng.
Mãn hạn tù, Ba Dương tạm lánh mặt ở một vùng quê hẻo lánh trên biên giới Việt Nam - Campuchia, đến năm 1943 mới quay trở lại vùng Tân Quy, tiếp tục cuộc sống giang hồ hảo hán nhưng trong lòng đã quyết chí hướng theo cách mạng. Để có bình phong hoạt động, Ba Dương nhận thầu bảo vệ bãi chứa gỗ của hãng đóng tàu Nichinan (Nhật Bản) để xây dựng nơi này thành điểm tập hợp, cảm hóa các nhóm giang hồ và thu thập vũ khí chờ thời cơ. Nhưng một lần nữa, Ba Dương lại bị bắt.
Đầu tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Tại Nhà Bè, được sự hướng dẫn của các Đảng viên Cộng sản, Ba Dương nhanh chóng vận động, tập hợp và thống nhất nhiều băng nhóm giang hồ hoạt động thu thập vũ khí để tự trang bị bằng cách lập tiệm cơm, quán nhậu, lôi kéo lính Pháp, lính Nhật đến ăn uống và chủ động gạ mua súng ống. Nếu mua không được, Ba Dương cho đàn em dùng mưu và sức mạnh đón đường, tước vũ khí của giặc.
Từ tháng 5/1945 đến tháng 8/1945, bọn giặc khi nghe nhắc đến tên Ba Dương là tên nào, tên nấy sợ xanh mặt vì chỉ trong một thời gian ngắn, người của ông đã phối hợp với lực lượng Thanh niên tiền phong và các nhóm giang hồ hảo hán khống chế, tiêu diệt hàng trăm mật thám, chỉ điểm, cảnh sát ác ôn, có nợ máu với nhân dân. Lúc này lực lượng của Ba Dương là nhóm giang hồ hảo hán được vũ trang mạnh nhất vùng Sài Gòn - Chợ Lớn với 70 anh em giỏi võ nghệ, thiện chiến và sử dụng thành thạo các loại vũ khí, được trang bị 50 súng, có cả trọng liên 13,2 li và đại bác nòng đôi 20 li. Cái tên Ba Dương trở thành nỗi khiếp sợ triền miên của bọn giặc.
Khi Cách mạng tháng Tám diễn ra, được lệnh của Xứ Ủy Nam Kỳ về Tổng khởi nghĩa, Ba Dương tập họp toàn bộ thủ lĩnh các băng nhóm giang hồ ở Nhà Bè, phổ biến kế hoạch và phân công phối hợp chiếm lĩnh toàn bộ các mục tiêu được phân công như Tòa án, Khám lớn Sài Gòn, Bót số 6… giải thoát được hàng trăm tù nhân bị Pháp, Nhật giam giữ. Sau đó, Ba Dương thành lập Thanh niên cảm tử đoàn bao gồm toàn dân anh chị giang hồ mã thượng tại Tân Quy (Nhà Bè).
Với tư cách là một đàn anh có uy tín, tiếng tăm trong vùng, Ba Dương tiếp xúc với các nhóm vũ trang giang hồ tứ chiếng lân cận và nhanh chóng thống nhất lực lượng lại thành một khối hùng mạnh. Lúc bấy giờ, mọi người bàn nhau lấy tên gọi cho đội quân hùng hậu này là “bộ đội Xóm Cỏ”, đồng thời thống nhất tôn Ba Dương làm thủ lĩnh. Nhưng Ba Dương chọn tên ấp Bình Xuyên thuộc làng Chánh Hưng làm tên chính thức của lực lượng mới.
Theo lý giải của mọi người, “Bình là dẹp bằng, Xuyên là ngang dọc”, rất phù hợp với tôn chỉ của dân giang hồ hảo hán và nghe có uy danh hơn tên “bộ đội Xóm Cỏ”. Danh xưng “bộ đội Bình Xuyên” ra đời từ ngày đó và xóm cầu Rạch Đỉa trở thành Tổng hành dinh của bộ đội Bình Xuyên do Ba Dương làm thủ lĩnh. Ngay sau khi thành lập, bộ đội Bình Xuyên của Ba Dương đã chủ động liên kết với bộ đội Thủ Thiêm của Mười Lực, liên quân với bộ đội Hai Vĩnh đánh nhiều trận thắng lợi giòn giã, gây được tiếng vang. Chỉ trong một thời gian ngắn, dưới sự chỉ đạo của các cán bộ cách mạng, lực lượng Bình Xuyên của Ba Dương đã phát triển thành nhiều đơn vị Vệ quốc đoàn.
Nhiều thủ lĩnh Bình Xuyên như Dương Văn Dương (Ba Dương), Huỳnh Văn Trí (Mười Trí), Mai Văn Vĩnh (Hai Vĩnh), Dương Văn Hà (Năm Hà, em ruột của Ba Dương)… là những người có uy tín, chân thành học hỏi các chiến sĩ cách mạng và quyết tâm phục vụ đất nước. Đã là bộ đội cách mạng thì hoạt động phải theo quy củ nghiêm ngặt, không còn giang hồ ngang dọc như ngày xưa, nên Ba Dương kêu gọi binh sĩ Bình Xuyên: “Hãy luôn luôn tỏ rõ mình là người chiến sĩ cách mạng trong mắt nhân dân, kẻ thù”, sau đó tước khí giới của những nhóm giang hồ nào chưa chịu vào khuôn phép, thực hiện nhiều hình phạt nặng nề đối với những người rượu chè, bê tha, ức hiếp quần chúng.
Ngày 23/9/1945, quân Pháp nổ súng tái đánh chiếm Sài Gòn. Toàn Nam bộ vùng lên kháng chiến. Phối hợp với hoạt động của các lực lượng vũ trang trong nội thành, xung quanh Sài Gòn hình thành 4 mặt trận bao vây quân địch. Cuối tháng 9/1945, mặt trận phía nam Sài Gòn - Chợ Lớn (Mặt trận số 4) được thành lập do Đảng viên kỳ cựu Nguyễn Văn Trân làm Ủy trưởng quân sự. Ba Dương trực tiếp chỉ huy bộ đội Nhà Bè, Tân Thuận, Bình Đông và kiêm trưởng ban do thám của mặt trận.
Đến tháng 11/1945, Ba Dương được cử làm chỉ huy trưởng mặt trận số 4, nhưng do binh lực quá chênh lệch so với quân đội Pháp nên Mặt trận số 4 bị vỡ trận, các lực lượng như Đệ nhị, Đệ tam, Đệ tứ sư đoàn kéo nhau chạy dài. Trong lúc nguy cấp đó, Ba Dương chỉ huy bộ đội Bình Xuyên tạm thời rút về Phước An, Long Thành để chấn chỉnh lực lượng. Sau đó, Ba Dương thống nhất các đơn vị bộ đội Thủ Thiêm, Tân Thuận, Nhà Bè, Phú Nhuận… về Rừng Sác (Cần Giờ) lập căn cứ kháng chiến chống Pháp.
Giữa lúc đó, tướng Nguyễn Bình từ chiến khu Đông Triều - Hải Phòng được lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cấp tốc hành quân ngày đêm không nghỉ vào Nam thống nhất các lực lượng vũ trang. Vào đến chiến trường Nam Bộ, tướng Nguyễn Bình rất vui mừng khi nghe tin bộ đội Bình Xuyên là một lực lượng rất mạnh trong số các lực lượng vũ trang ở miền Đông Nam Bộ. Tướng Nguyễn Bình đã nghe tiếng tăm của thủ lĩnh bộ đội Bình Xuyên Ba Dương từ lâu và lập tức tìm cách liên kết với Ba Dương để củng cố lực lượng.
Sau khi liên kết và nhận được chỉ thị từ tướng Nguyễn Bình, Ba Dương đã vạch kế hoạch và chỉ huy bộ đội thực hiện chiến thuật đột kích đánh nhanh, rút nhanh chớp nhoáng vào nhiều vị trí quan trọng của địch trong nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn khiến bọn giặc điên đảo không biết đường nào mà lần. Đến tháng 10/1945, thực hiện chủ trương của Đảng bộ, Ba Dương dùng uy tín của mình thuyết phục các nhóm vũ trang thống nhất lại thành lực lượng vũ trang Nhà Bè do đích thân ông làm chỉ huy trưởng, Đinh Văn Nhị làm ủy viên chính trị, Từ Văn Ri tham mưu trưởng, quân số lên đến 2.000 người, trang bị 1.300 súng, có 2 đại bác, 7 trọng liên 13,2 li, 15 trung liên.
Sau khi thành lập, dưới sự chỉ huy của Ba Dương, bộ đội Nhà Bè chủ động đánh nhiều trận, trong đó nổi tiếng nhất là trận Ba Dương trực tiếp chỉ huy phối hợp với bộ đội Tám Mạnh phục kích đánh địch trên kênh Cây Khô, tiêu diệt gọn đoàn tàu của giặc, diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, thu một tàu kéo, một xà lan và 4 ghe chài chở đầy ắp lương thực, thực phẩm.
Trận đánh này đã được Khu bộ trưởng Nguyễn Bình gởi thư khen bộ đội Bình Xuyên xứng đáng với tên Giải phóng quân Nam Bộ và được tặng số tiền 3.000 đồng. Đến giữa tháng 12/1945, Tướng Nguyễn Bình, Khu bộ trưởng Khu 7 đến thăm sở chỉ huy bộ đội Bình Xuyên tại Phước An và quyết định bổ nhiệm Dương Văn Dương làm Khu bộ phó Khu 7.
Thường Dân

Dương Văn Dương, vị Tướng đầu tiên của chiến trường Tây Nam Bộ (II)

ĐS&PL

(Phunutoday) - Anh hùng hảo hán đến lúc hy sinh- Những tài liệu xưa và nhiều bậc bô lão vùng Nhà Bè kể rằng, Dương Văn Dương có vóc người tầm thước, tính tình nghiêm nghị, ít nói, nhưng luôn có thái độ lễ phép, hòa nhã với mọi người, kính trên nhường dưới, chuyện phải trái rất phân minh. Chính điều đó làm cho những người từng biết ông và những tay anh chị giang hồ chọc trời, khuấy nước phải kính nể khi nghe nhắc đến tên thủ lĩnh Ba Dương.
Người ta còn truyền tụng rằng, ông hay nhắc nhở anh em giang hồ dưới trướng và những tay giang hồ bè bạn, rằng muốn làm anh chị không nhất thiết phải “hét ra khói, nói ra lửa” như những tay dao búa bến xe, bến đò. Điều căn bản để được mọi người nể phục là tài và đức phải đi đôi, không ngụy quân tử. Gặp Dương Văn Dương, ai cũng đều công nhận ông hội đủ cả tài và đức. Chính vì vậy mà lúc bấy giờ, nhiều người khẳng định, trong giới giang hồ Sài Gòn - Chợ Lớn, Ba Dương là người quân tử hiếm có. Trong những câu chuyện về con người quân tử của Ba Dương, cho đến nay vẫn còn truyền tụng nhiều câu chuyện đáng cảm kích.
Con kênh mang tên Thiếu tướng Dương Văn Dương xẻ dọc giữa ruột Đồng Tháp Mười là tuyến giao thông huyết mạch cả trong thời chiến lẫn thời bình.
Đầu năm 1945, trong lúc Ba Dương đang chỉ huy đàn em trấn giữ bến xe Pháp Ninh - Nam Vang thì quân Pháp đột ngột ban hành tình trạng khẩn cấp, tung quân gom bắt hết các phần tử mà giặc cho là nguy hiểm như Cộng sản, Cao Đài, Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh Độ Cư Sĩ và không tha đám dân giang hồ tứ chiếng. Trong lúc tình hình nguy cấp, Dương Văn Dương phải chạy về Cần Giuộc ẩn thân, nhưng vẫn không thoát khỏi mạng lưới chỉ điểm, nên ông bị bắt giải về quận.
Nghe tên ông đã lâu nhưng chỉ xem ông là một tay giang hồ vặt vãnh, tên chủ quận độc ác nghĩ ra cách buộc Ba Dương phải chết từ từ trong đau đớn, khổ sở. Tên chủ quận Cần Giuộc buộc Ba Dương phải nuốt cả một chùm tóc được cắt nhỏ vào bụng để thể hiện khí phách không sợ chết của một trùm anh chị giang hồ. Khi nghe tên chủ quận nói, Ba Dương biết ngay âm mưu thâm độc của kẻ thù, bởi tóc cắt nhỏ khi nuốt vào bụng sẽ dần phá nát bộ máy tiêu hóa, gây cái chết từ từ nhưng hết sức đau đớn, khổ sở.
Không còn đường thoái lui, hơn nữa nếu từ chối, Ba Dương sẽ bị tên chủ quận cho là hèn nhát và sẽ tung tin ra khắp giới giang hồ Nam kỳ lục tỉnh, nên ông chấp nhận nghiến răng thi hành bản án, dẫu biết nuốt xong mớ tóc kia thì cuộc đời ông ngắn chẳng tày gang. Trong thời gian chờ chết, thật may mắn là một học trò nghề võ trung thành của Ba Dương xin bảo lãnh ông về nhà. Nhờ những phương thuốc gia truyền của người học trò này, mớ tóc quái ác kia xổ ra hết và Ba Dương thoát khỏi lưỡi hái tử thần.
Sau khi mạnh khỏe, Ba Dương tiếp tục tham gia các hoạt động cách mạng và khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8/1945. Khi chính quyền cách mạng được thành lập, trong số những quan lại viên chức ra trình diện, có viên chủ quận ngày xưa cố tình ép chết Ba Dương bằng mớ tóc cắt nhỏ. Vừa giáp mặt Ba Dương, biết ông nay là Chỉ huy trưởng bộ đội, viên chủ quận mặt xanh như tàu lá, quỳ sụp xuống đất lạy Ba Dương không ngớt.
Ba Dương nhìn viên chủ quận ngày xưa một hồi, Rồi bảo viên chủ quận đứng lên và thong thả nói: “Tội của ông lẽ ra tôi phải chặt 10 cái đầu mới hả dạ. Nhưng bây giờ đổi đời rồi. Ông mất hết chức hết quyền, trả thù là khi ông còn ngon lành kia, còn bây giờ tôi trả thù ông để làm gì? Tôi tha chết cho ông đó…”.Thái độ quân tử của Ba Dương làm cho viên chủ quận thức tỉnh, khi Pháp quay lại tái chiếm Nam Bộ, ông này không những không hợp tác với giặc mà còn động viên nhiều con cháu tham gia cách mạng.
Chuyện thứ hai là việc Ba Dương thực hiện nghiêm lệnh “quân pháp bất vị thân. Trong một lần, quân Pháp bất ngờ đánh úp đơn vị bộ đội do Năm Hà (em cùng mẹ khác cha của Ba Dương), thay vì chỉ huy bộ đội chống trả, Năm Hà chưa đánh đã vội vã ra lệnh cho quân rút lui. Khi biết tin này, gặp lại em, Ba Dương nổi trận lôi đình, lớn tiếng quở trách rồi kết luận: “Bộ đội là do nhân dân che chở đùm bọc, ơn đó chưa trả được. Nay giặc Pháp kéo tới, người chỉ huy lẽ ra phải đôn đốc bộ đội quyết chiến chống giặc, bảo vệ tính mạng, tài sản của dân, nhưng chưa đánh mà đã bỏ dân để rút chạy bảo toàn mạng sống là tội đáng chết”.
Nói xong, trước sự chứng kiến của đoàn quân, ông rút súng ngắn bắn Năm Hà ngay tức khắc, không một ai kịp can ngăn. Rất may là Năm Hà nhanh nhẹn tránh kịp cho nên mới giữ toàn mạng sống.
Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời, Ba Dương vẫn giữ trọn tinh thần quân tử và khí phách anh hùng . Nhiều người còn nhớ rằng, cuối năm 1945, Ba Dương nhận lệnh của tướng Nguyễn Bình chỉ huy lực lượng Bình Xuyên xuống chi viện cho chiến trường Khu 8 ở đồng bằng sông Cửu Long theo yêu cầu chi viện của Khu bộ phó Khu 8 Trương Văn Giàu.
Đầu năm 1946, Ba Dương đưa quân xuống tăng cường chiến khu Bến Tre, ứng cứu mặt trận An Hóa - Giao Hòa đang bị Pháp uy hiếp dữ dội. Ba Dương chọn các đơn vị Bình Xuyên thiện chiến lập liên quân gồm 5 đại đội đi Bến Tre, do đích thân ông chỉ huy. Ông cho liên quân tổ chức ăn Tết trước 3 ngày và trong đêm giao thừa cho quân vượt sông Soài Rạp, xuyên qua vùng Bình Phục Nhất, huyện Chợ Gạo (Tiền Giang), sau đó vượt sông Tiền để qua An Hóa.
Trên đường hành quân, Ba Dương chỉ đạo các cánh quân vừa đi vừa đánh địch ở Cần Giuộc, Cần Đước, Chợ Trạm, sau đó hợp quân tại Chợ Gạo trước khi vượt sông vào Bến Tre. Nhưng khi đến bờ sông phía Bến Tre thì được tin mặt trận An Hóa - Giao Hòa đã mất, nên Ba Dương quyết định tổ chức đánh đoàn tàu vận chuyển lương thực thực phẩm của địch, sau đó kéo quân về xã Châu Bình (Giồng Trôm) cùng hội quân với lực lượng Cộng hòa Vệ binh, Quốc gia Tự vệ cuộc của Trương Văn Giàu và Nguyễn Văn Quạn, bàn kế hoạch mở mặt trận đánh Pháp và phối hợp giải tán Đệ Tam Sư đoàn.
Sáng sớm ngày 16/1/1946, chỉ huy Ba Dương đang họp với các chỉ huy khác thì có tin quân Pháp tấn công. Đơn vị của Ba Dương đóng ở ấp Bình Khương (xã Châu Bình) chưa kịp triển khai phòng tuyến thì đã bị bao vây tứ phía. Trước tình thế nguy ngập, cấp bách, cán bộ tham mưu đưa cho Ba Dương một xấp giấy thuế thân để ông và một số cán bộ chỉ huy khác giả dạng thường dân lánh ra vùng an toàn.
Nhưng Ba Dương cương quyết xé nát xấp giấy thuế thân, dõng dạc nói: “Cảm ơn anh đã lo cho tôi, nhưng kẻ làm tướng khi lâm trận mà bỏ quân chạy trước là tướng hèn. Tôi quyết ở lại chiến đấu cùng anh em chứ không nghe theo lời anh”. Để dọn đường cho bộ binh tiến vào, quân Pháp cho hai chiếc máy bay quần thảo trên bầu trời nơi đơn vị của Ba Dương đóng quân, bắn phá ác liệt. Ba Dương xoay quanh cây rơm ở nơi đóng quân, vừa tránh đạn của máy bay vừa chỉ huy đơn vị triển khai chiến đấu.
Khoảng 8 giờ 30 phút, trong khói lửa mịt mù, Ba Dương trúng đạn hy sinh. Thi hài của ông sau đó được an táng tại Châu Bình suốt mấy chục năm, sau ngày thống nhất đất nước 30/4/1975, hài cốt của ông mới được cải táng đưa về nghĩa trang thành phố Hồ Chí Minh yên nghỉ. Sau khi Khu bộ phó Khu 7 Dương Văn Dương hy sinh, tướng Nguyễn Bình và Ủy ban kháng chiến hành chính Nam bộ đã đề nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh truy phong cấp bậc Thiếu tướng cho ông. Ngày 5/8/1946 người sáng lập bộ đội Bình Xuyên lừng danh đã được truy phong quân hàm Thiếu tướng.
Trong những tài liệu ít ỏi về thân thế và cuộc đời binh nghiệp ngắn ngủi của Thiếu tướng Dương Văn Dương, hầu hết những người ghi chép đều nhận định ông là nhân vật tiêu biểu cho giới hảo hán trọng nghĩa khí, hết lòng vì quốc gia đại cuộc. Trong giới “giang hồ hảo hán” đi làm cách mạng, Ba Dương là người tiêu biểu cho sự tự rèn luyện, phấn đấu vươn lên và cũng là người có nhiều đóng góp cho sự thành công của sự nghiệp cách mạng, mà mọi người vẫn gọi là sự nghiệp của quần chúng. Khi Dương Văn Dương trở thành người chỉ huy quân đội, ông là vị chỉ huy gương mẫu, dũng cảm, được anh em tin yêu, kính phục.
Nhưng cuộc đời binh nghiệp của ông quá ngắn ngủi, để lại niềm tiếc thương vô hạn đối với cán bộ chiến sĩ Bình Xuyên cách mạng và nhiều người ngưỡng mộ ông. Lúc sinh thời các vị tướng nổi tiếng một thời của Nam Bộ như Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Đồng Văn Cống, Thiếu tướng Tô Ký, Thiếu tướng Nguyễn Thị Định… đều xem thiếu tướng Dương Văn Dương là bậc đàn anh của các tướng lĩnh Nam bộ.
Thường Dân

 

Xem tiếp...

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 113 (Mạc Đăng Dung)


-Không thể gọi Mạc Đăng Dung là vĩ nhân, cũng không thể gọi là phản quốc, càng không thể gọi Nhà Mạc là ngụy triều.
-Đó là chuyện thường thấy của thời đại phong kiến.
-Chính Nguyễn Kim làm cho thây ma Nhà Lê sống lại, tưởng là hành động chính nghĩa nhưng hóa ra là có tội với dân tộc. Và Trịnh Kiểm mới là kẻ cơ hội, lợi dụng thây ma Nhà Lê, duy trì cái thây ma ấy chỉ vì tin "Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong", và để mưu bá đồ vương, thỏa lòng danh lợi. Chính Trịnh Kiểm, với khẩu hiệu "phù Lê diệt Mạc" đầy giả ngụy, là kẻ mở đầu cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn "Nam - Bắc triều" và "Trịnh - Nguyễn phân tranh" suốt mấy trăm năm, gây ra biết bao núi xương sông máu.
------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

                             MẠC ĐĂNG DUNG - Vĩ Nhân Lập Quốc Bị Lịch Sử Vùi Dập

Thân oan cho Mạc Đăng Dung

Phạm Xuân Liêu (Ninh Bình): Cụ Hoàng Văn Tụng năm nay 90 tuổi ở thôn Vũ Lâm xã Ninh Thắng Huyện Hoa lư tỉnh Ninh Bình có đưa cho tôi tập sách “Thân oan cho Mạc Đăng Dung” của Giáo sư sử học Lê Văn Hoè viết năm 1952. Tôi đọc thấy rất hay. Tôi xem lại bài “Một chút cơ duyên với họ Mạc” của cố giáo sư Trần Quốc Vượng đăng trong  “Hợp biên thế phả họ Mạc” trang 7 ông cũng viết : “Trong các học giả cận-hiện đại thì có lẽ cụ Lê Văn Hoè tác giả cuốn sách xinh xắn Mạc Đăng Dung, trong nhóm Trí Tân là những người đầu tiên đứng ra chiêu tuyết cho Mạc Đăng Dung và họ Mạc”. Lần đầu tiên tôi được đọc bài viết này. Nhất là bài viết từ năm 1952 lúc đó chưa có sự đổi mới của Đảng như hiện nay đối với họ Mạc. Vì vậy tôi đã chép lại gửi các vị ở Mạc tộc Ninh Bình các vị đó đều vui mừng tiếp nhận.
Cái ưu điểm lớn nhất của cuốn Việt Nam sử lược là ở chỗ biện hộ cho vua Quang Trung và đã dám công nhiên liệt nhà Tây Sơn làm một triều vua chính thống ngang hàng với các triều chính thống như Đinh, Lý, Trần, Lê…
Cái khuyết điểm lớn nhất của cuốn Việt Nam sử lược là ở chỗ đã nặng lời biếm nhục Mạc Đăng Dung, vua Thái tổ nhà Mạc. Theo luận điệu tác giả sách ấy là ông Trần Trọng Kim, thì suốt bốn ngàn năm lịch sử nước nhà, hình như chỉ có Mạc Đăng Dung là nhân vật đáng khinh bỉ hơn hết. Sự thật khác hẳn.
                               Mạc Đăng Dung bị hiểu lầm như thế nào ?
Tác giả sách Việt Nam sử lược đã phẩm bình Mạc Đăng Dung một cách khắt khe, gay gắt như thế này: “Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp ngôi, ấy là một người nghịch thần, đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đế nỗi phải cởi trần, trói mình lại để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình, ấy là một người không biết liêm sỉ.
“Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người là không có nhân phẩm; một người như thế thì ai mà kính phục ?. Một cái cơ nghiệp dựng lên bởi sự gian ác, hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được.”
Tóm lại dưới ngọn bút của ông Trần Trọng Kim thì Mạc Đăng Dung không còn được là một con người nữa.
 Mạc Đăng Dung là một con người anh hùng lập thân trong thời loạn.
Thật ra Mạc Đăng Dung không phải là một người đáng khinh bỉ đến bậc ấy. Trước hết ta hãy xem tình thế thời bấy giờ. Sau vua Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, vua Uy Mục lên ngôi. Vừa lên ngôi Vua Uy Mục đã giết bà nội là Thái Hoàng Thái Hậu và hai quan đại thần trong triều là  Đàm Văn Lễ, Nguyễn Quang Bật vì lẽ khi vua Hiến Tông mất bà Thái Hậu và hai ông này có ý không chịu lập Uy Mục làm vua. Tàn ác như thế lại hay đắm say tửu sắc: đêm nào cũng uống rượu với cung nhân đến khi say thì đem giết đi. Người Tầu đã làm thơ gọi Uy Mục là Quỷ Vương. Uy Mục đánh đuổi tôn thất, công thần, hà hiếp dân sự lòng người ai cũng oán thán.
Đó là một thời loạn.
Tháng Chạp năm Kỷ tỵ (1501) Giản Tu Công tên là Oanh, là anh em con chú con bác với vua Uy Mục bị bắt giam. Giản Tu Công lập mưu  trốn được. Về Tây Đô hội với các quan cựu thần đem binh ra đánh bắt vua Uy Mục và Hoàng Hậu Trần Thị giết đi, rồi tự lập làm vua tức là vua Lê Tương Dực.
Đó là một thời loạn.
Vua Tương Dực tính hoang dâm, xa xỉ, sai thợ làm điện 100 nóc, xây cửu trùng đài tốn tiền và hại mạng dân, ai cũng oán giận. Bởi vậy giặc giã nổi lên khắp nơi. Ở Kinh Bắc có Thân Duy Nhạc, Ngô Văn Tổng; ở Sơn Tây có Trần Tuân, Phùng Chương, Trần Công Ninh; ở Nghệ An có Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Văn Triệt làm loạn; ở Hải Dương, Đông Triều có Trần Cao tự xưng là Đế Thích giáng sinh nhân dân hàng vạn người, tiến quân gần sát Đông Đô. Trong Triều thì Trịnh Duy Sản mưu với Lê Quảng Độ, Trịnh Chí Sâm đem binh vào cửa Bắc thành giết vua Tương Dực để lập vua khác.
Đó là một thời đại loạn.
Trịnh Duy Sản giết vua Tương Dực rồi chém giết triều thần là Phùng Mai lập con Mục Ý Vương là Quang Trị mới 8 tuổi lên làm vua. Làm vua được 3 ngày chưa kịp đổi niên hiệu thì Quang Trị bị Trịnh Duy Đại là anh Trịnh Duy Sản bắt vào Tây Đô (Thanh Hoá) rồi mấy ngày sau  bị giết chết. Bon trịnh Duy Sản bèn lập Cẩm Giang Vương tên là Ý lên làm vua tức vua Chiêu Tông.
Đó là một thời đại loạn .
Vua Chiêu Tông còn trẻ tuổi chưa quyết đoán được việc nước. Triều thần thì Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy cậy công dẹp giặc Trần Cao mỗi người đóng quân một nơi chống cự nhau, vua can không nổi. Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh Nguyễn Hoằng Dụ, Hoằng Dụ phải chạy vào Thanh Hoá.
Trong triều bọn Trịnh Duy Đại mưu làm phản, việc lộ bị giết cả đảng.
Mạc Đăng Dung được lệnh mang quân vào Thanh Hoá đánh Nguyễn Hoằng Dụ. Nhưng tiếp được thư Hoằng Dụ, Mạc Đăng Dung lại kéo quân trở về.
Quyền bính về tay Trần Chân. Vua ngờ Trần Chân mưu phản sai đóng cửa thành bắt giết đi. Tướng của Trần Chân là bọn Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng nghe tin Trần Chân bị giết đem quân về đánh kinh thành. Vua phải chạy lánh mình ở Gia Lâm sai người vào Thanh Hoá triệu Nguyễn Hoằng Dụ, nhưng Hoằng Dụ không ra. Vua đành cho vời Mạc Đăng Dung, không bao lâu Mạc Đăng Dung dẹp được hết bon giặc giã mưu phản. Quyền về Mạc Đăng Dung. Vua Chiêu Tông ngầm mưu với bọn nội giám để đánh Mạc Đăng Dung, nửa đêm bỏ kinh thành trốn lên Sơn Tây. Mạc Đăng Dung cùng triều thần lập Hoàng đệ tên là Xuân lên làm vua tức vua Cung Hoàng .
Đó là một thời loạn.
Vua Chiêu Tông chạy lên Sơn Tây. Ban đầu  hào kiệt các nơi theo về cũng đông, sau thấy chính sự nhà vua không ra thế nào, mọi người bỏ đi hết. Vua cho người vào Thanh Hoá vời Trịnh Tuy ba lần. Tuy mới chịu ra. Nhưng sau vua giết mất tướng của Duy, Tuy giận bắt Chiêu Tông về Thanh Hoá.
Năm Giáp Thân (1524) Mạc Đăng Dung đem quân vào Thanh Hoá giết được Trịnh Tuy và bắt được vua Chiêu Tông, ít lâu sau vua bị giết.
Hai năm sau Mạc Đăng Dung bắt các triều thần thảo chiếu nhường ngôi cho nhà Mạc.
Như vậy thời bấy giờ là thời thiên hạ đại loạn. Vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi. Vua ngờ vực tất cả mọi người và chỉ định giết. Tôi thì giết vua triều thần chẳng ai coi vua ra gì. Sinh vào thời đại loạn như vậy chỉ có hai đường: một là lui về nơi sơn lâm để tránh tai vạ, hai là xông ra dẹp loạn an dân giúp vua, giúp nước. Mạc Đăng Dung đã đi vào con đường thứ hai. Đăng Dung phù vua nhưng vua định hại Đăng Dung. Cuối cùng Đăng Dung mới cướp ngôi vua vì thấy vua bất lực. Kể ra thì Mạc Đăng Dung cũng không tránh khỏi cái tội giết vua  và cướp ngôi.
Nhưng trước kia thời Đinh, Lý, Trần không phải là không có người giết vua, cướp ngôi ngay thời Mạc Đăng Dung cũng có bao nhiêu kẻ hoặc đã giết vua hoặc lăm le cướp lấy ngôi báu. Đứng vào địa vị Mạc Đăng Dung bấy giờ muốn tiến thân không ai làm khác được. Giả sử Mạc Đăng Dung lui về ẩn dật, bỏ mặc việc đời, thì nhà Lê cũng không giữ nổi cơ nghiệp, ngai vàng hoặc đã về họ Trịnh, họ Trần (Trần Cao ) hay họ Nguyễn họ Hoàng. Mạc Đăng Dung chỉ là một người anh hùng lập thân ở thời loạn mà thôi. Trách Mạc Đăng Dung sao không  cúc cung, tận tuỵ thờ vua Lê thì có khác gì trách Võ, Thang sao không tận trung thờ các vua Kiệt, Trụ .
Lẽ ra Mạc Đăng Dung phải làm công việc của Võ, Thang ngay từ thời Uy Mục và Tương Dực rồi mới phải. Nhưng có lẽ Mạc Đăng Dung còn muốn đợi xem lòng dân thế nào. Đến khi thấy rõ lòng dân Sơn Tây, Thanh Hoá đối với vua Lê, bấy giờ Đăng Dung mới quyết. Như vậy kể cũng đã thận trọng chứ không phải hành động  mù quáng, lỗ mãng.
Đã không đủ lực lượng hoặc đủ lực lượng mà không muốn thì thôi, chứ đã muốn làm vua mà sợ tiếng nghịch thần thì còn làm vua thế nào được?
Nếu ai cũng sợ tiếng nghịch thần thì từ thượng cổ đến giờ, trong lịch sử Trung Hoa, Lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử các dân tộc khác, có lẽ chỉ có một dòng họ làm vua chứ làm gì còn có các nhà Tần, Hán, Đường, Tống, Lê, Lý , Trần, Hồ
                        Mạc Đăng Dung là người yêu nước thương dân
Năm Canh tý 1540 Mạc Đăng Dung thấy quân Minh sửa soạn sang đánh. Bèn cùng quần thần lên ải Nam Quan xin dâng đất 5 động Tê phù, Kim lạc, Cổ xung, Liễu cát, La phù và đất Khâm Châu để xin hàng.
Ông Trần Trọng Kim đưa vào việc này mà bảo Mạc Đăng Dung là người phản quốc vì “Cắt đất dâng cho người”.
Kể ra làm vua một nước mà phải cắt đất xin hàng giặc thì cũng đáng chê. Nhưng xét kỹ tình thế trong nước thời bấy giờ, trải mấy đời vua Uy Mục, Tương Dực hoang dâm xa xỉ lại thêm triều thần mưu phản, giặc giã đánh phá khắp nơi, nay dù họ Mạc đã dẹp yên bờ cõi, dựng nên nghiệp lớn, nhưng vết thương loạn lạc chưa hàn gắn xong, lòng người còn hoang mang, thì ta thấy họ Mạc không thể nào hành động khác được. Làm khác tức là không chịu hàng. Nghĩa là đánh. Đánh thì tất thua. Thua không vì quân Minh mà thua vì người trong nước. Vì chính người trong nước là cựu thần nhà Lê sang Vân Nam cầu xin quân Minh sang đánh họ Mạc để báo thù cho nhà Lê. Mà thua thì nước ta nhất định sẽ lại mất về giặc Minh như đời họ Hồ.
Tự lượng sức mình và muốn tránh vết xe đổ ngày trước Mạc Đăng Dung đã phải nhượng bộ, dùng chính sách ngoại giao mềm dẻo để tránh cái hoạ mất nước. Dù có phải hy sinh rất nhiều cũng không từ. Phải cắt đất mấy động giáp địa giới Tầu để xin hàng là vì thế.
Đất cát của tổ tiên quý thật, tấc đất tấc vàng. Nhưng nếu hy sinh đất cát mấy làng (Động tức là làng Thổ Mán ở thượng du) ở nơi biên cảnh mà giữ vững được giang sơn duy trì được độc lập thì tưởng cũng không nên tiếc làm gì, nhất là lại đang ở vào tình thế cheo leo như nhà Mạc buổi ấy. Vả lại cũng không tiếc được, vì tổ quốc và độc lập còn đáng tiếc hơn nhiều. Năm làng biên giới họ Mạc không thể tiếc được cũng như các vua Lê, từ Lê Thái Tổ trở xuống ba năm phải cống nhà Minh một lần hai người đúc bằng vàng gọi là “Đại thần kim nhân”.
Việc nhà Mạc nhân nhượng và đút lót vàng bạc cho quân Minh, chỉ là một thủ đoạn ngoại giao mà các triều vua trước áp dụng và sau này chính vua Quang Trung cũng phải áp dụng dù đã đại phá quân Thanh.
Nếu Mạc Đăng Dung cắt đất mấy làng biên giới nhường cho Tầu để định cuộc hoà hiếu mà là phản quốc, thì không biết  phải gọi bọn Trần Thiêm Bình sang Tầu cầu quân Minh về đánh nhà Hồ, bọn cựu thần nhà Lê sang Vân Nam xin quân Minh sang đánh nhà Mạc, vua Chiêu Thống sang cầu quân Thanh sang đánh Tây Sơn v.v.. không biết phải gọi bọn ấy là gì ? Vì bọn ấy không chỉ dâng mấy làng mà dâng tất cả giang sơn Tổ quốc cho nước ngoài, đưa cả dân tộc vào vòng nô lệ. Điều đó  hẳn tác giả Việt Nam sử lược không lạ gì.
                                   Mạc Đăng Dung có tài ngoại giao.
Ông trần Trọng Kim chê Mạc Đăng Dung không có nhân phẩm, vì “ làm vua không giữ được danh giá, phải cởi trần ra, trói mình lại để cầu  phú quý cho một thân mình”.
Điều này vị tất đã đúng. Việc Đăng Dung cởi trần trói mình xin hàng, nếu là sử Tầu chép thì không đáng tin, không đáng tin như  chuyện Triệu Ẩu vú dài ba thước và chuyện hai bà Trưng bị bắt đem về chém đầu ở Lạc Dương.
Nếu là sử ta chép  thì tất là chép trong bộ Việt sử toàn thư hay Quốc sử thực lục là những bộ sử do chúa Trịnh sai chép từ đời Lê Trang Tông đến đời Gia -Tông. Họ Mạc là địch thủ của họ Trịnh và nhà Hậu Lê do họ Trịnh đỡ đầu, nên rất có thể đã bị sử họ Trịnh thêu dệt xuyên tạc ra để bêu xấu.
Câu chuyện “Cởi trần trói tay” nếu có chép ở đâu thì rất có thể là chép theo nghĩa bóng (như ta nói bó tay chịu chết) là xin đầu hàng và chịu tội, chứ không thể tin “cởi trần bó tay” là chuyện có thực.
Nguyên từ đời Lê ba năm một lần nước ta phải cống người vàng cho Tầu gọi là “Đại thần kim nhân”. Tượng người vàng tạc người đội mũ bận đai bào như hình ông vua. Đến đời Mạc nhà Minh buộc Mạc Đăng Dung phải đúc tượng trần cúi mặt để tỏ sự ăn năn hối hận về việc tiếm ngôi nhà Lê. Sang đời Lê Trung hưng vua Trang Tôn cho đúc tượng mặc áo ngửa mặt như xưa. Tới Quảng Đông quan Tầu không nhận, buộc phải đúc tượng cởi trần cúi mặt. Ông Lê Quý Đôn biện bạch rằng họ Mạc tiếm vị mới phải đúc tượng hối lỗi chứ nhà Lê thì đường đường chính thống sao lại phải theo họ Mạc. Sau nhà Minh mới nghe.
Đến đời vua Quang Trung nước ta không chịu cống người vàng. Vua sai Ngô Thời Nhiệm biện bạch với nhà Thanh đại ý nói: sự cống người vàng khởi  từ triều Lê. Đến triều Mạc phải đúc người trần mình phủ phục vì nhà Mạc tiếm vị nên phải chuộc tội. Nay Tây Sơn được thiên hạ một cách đường đường chính chính không phải chuộc tội với ai và cũng không phải trả nợ cho ai. Có lẽ do việc này mà có chuyện nói Mạc Đăng Dung cởi trần bó tay. Cho dẫu chuyện Mạc Đăng Dung “Cởi trần trói tay” là chuyện có thực chăng nữa thì cũng không thể nói là nhằm một mục đích “Cầu cái phú quý cho một thân mình” như ông Trần Trọng Kim đã nói. Ở đây Mạc Đăng Dung đã lấy tư cách là ông vua một nước xin hàng nhà Minh. Ngoài mục đích cầu phú quý cho mình còn có mục đích giữ cho Tổ quốc, nhân dân tránh được nạn binh đao và vòng nô lệ. Trong cái việc mà ông Trần Trọng Kim bảo “cầu phú quý cho một bản thân mình” đó, có hàm cả cái nghĩa đả phá mưu đồ bán nước của bọn cựu thần nhà Lê.
Nếu không vì một lý do gì khác nữa, tất nhiên là có nhiều lý do chỉ vì một việc Mạc Đăng Dung “cởi trần trói mình xin hàng” mà giải được cái nạn vong quốc thì dễ thường ta phải ca ngợi cái đức hy sinh cao cả của Mạc Đăng Dung nó tương tự như việc vua Đại Vũ bên Tầu ngày xưa đã cởi trần làm vật hy sinh phơi mình ra giữa nắng đại hạn như con lợn cạo, để cầu trời mưa (dĩ thân vi hy sinh).
Sự hy sinh đó cao cả vô cùng vì đã biết quên cái cá nhân nhỏ bé của mình để mưu việc lợi lớn cho dân cho nước.
Nếu chỉ “cởi trần trói tay” mà giữ yên được xã tắc, thì Mạc Đăng Dung há chẳng đáng khen, đáng phục hơn biết bao nhiêu ông vua khác trong lịch sử đã xua nhân dân ra đánh giặc, vào sinh ra tử, khốn khổ điêu linh trong bao nhiêu năm trời, để cuối cùng lại dâng biểu cầu hoà và tự nguyện làm chư hầu nước ngoài năm năm theo lệ triều cống. Cái cử chỉ hy sinh đó đã hà tiện được bao nhiêu xương máu đồng bào đã cứu được giang sơn đất nước thoát nạn lầm than, khói lửa. Phương tiện nào cũng tốt nên nhằm một cứu cánh hay.
Việc Mạc Đăng Dung “cởi trần trói tay”, nếu có thật, chẳng có chi là đáng trách cả, vì nó đã đạt kết quả là duy trì được độc lập, hoà bình. Đáng trách trái lại những người xiêm vàng, hốt bạc, ăn bận chỉnh tề mà lại sang Tầu luồn cúi lạy lục, khẩn khoản kêu cầu đem quân sang đánh nước mình để báo thù cho một cá nhân.
Được vua Minh sai mang quân sang định mượn tiếng cứu nhà Lê đánh cướp lấy nước ta bấy giờ là đô đốc Cửu Loan làm tướng và Nam Xương Bá, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ. Mao Bá Ôn là một danh nho được vua Minh Gia Tĩnh kính trọng vô cùng. Trước khi cất quân đi vua Gia Tĩnh có tặng Mao Bá Ôn một bài thơ:
         Đại tướng Nam chinh đởm khí hào
          Yêu hoành Thu thuỷ Nhạn linh đao
Phong xuy đà cổ sơn hà động
Điện thiểm tinh kỳ nhựt nguyệt cao
Thiên thượng kỳ lân nguyên hữu chủng
Huyệt trung lâu nghị khởi năng đào
Thái bình đãi chiếu quy lai nhựt
Trẫm dữ tiên sinh giải chiến hào.
Lược dịch :
Đại tướng Nam chinh khảng khái sao
Lưng đeo sáng quắc Nhạn linh đao
Gió lay trống trận sơn hà chuyển
Chớp nhoáng cờ dồn nhật nguyệt cao
Trời thẳm kỳ lân sinh giống sẵn
Hang sâu kiến cỏ  trốn  đàng nào
Thái bình khi chiếu đòi về nước
Trẫm cởi giùm ông chiếc chiến bào.
Khi sang nước ta Mao đưa cho vua quan nhà Mạc bài thơ “ Bèo” như sau này:
Tuỳ điền trực thuỷ mạo ương  châm
Đào xứ khan lai thực bất thâm
Không hữu bản căn không hữu cán
Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm
Đồ  tri tụ xứ ninh trí tán
Đãn thức phù thi ná thức trầm
Đại tề trung thiên phong khí ác
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm
Lược dịch :
Ruộng nước lênh đênh nhỏ tựa kim
Nơi nơi trông thấy mọc nông mèm
Đã không cành cỗi, còn không gốc
Dám có rễ mầm lại có tim
Nào biết nơi tan, duy biết tụ
Chỉ hay khi nổi, nọ hay chìm
Giữa trời giông tố thình lình nổi
Quét bạt ra khơi, hết kế tìm .
Cụ Trạng Giáp Hải đã hoạ vận gửi lại như sau:
Cẩm lân mật mật bất dung châm
Đới điệp liên căn bất kế tâm
Thương dữ bạch vân tranh thuỷ diện
Khổng giao hồng nhựt chiếu ba  thâm
Thiên trùng lăng đả thành nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiều ngư long tàng giá lí
Thái công vô kế hạ câu tầm
Lược dịch :
Vẩy gấm ken dầy chẳng lọt kim
Lá liền rễ mọc kệ nông mèm
Mây bạc không cho soi thuỷ diện
Ánh hồng đâu để  dọi ba tâm?
Sóng đồi ngàn lớp khôn xô vỡ
Gió dập muôn cơn khó đánh chìm
Rồng cá ít nhiều nương dưới đó.
Cần câu Lã Vọng  hết mong tìm
 Tương truyền đọc thơ hoạ vần của cụ trạng Giáp Hải, Mao Bá Ôn khen nước ta có nhân tài rồi đem quân trở về không sang đánh nữa.
Chuyện đó chắc không thật. Chuyện có thật là chuyện Gia Tĩnh tiễn thơ Mao Bá Ôn và chuyện Mao Bá Ôn xướng hoạ với cụ Trạng Giáp Hải. Cụ Trạng Giáp Hải là triều thần của Mạc Đăng Dung còn dám hoạ vần với tướng Minh bằng những lời mạnh mẽ cứng cáp tỏ vẻ không sợ gì quân Minh. Như vậy dù Mạc Đăng Dung có sợ quân Minh đến thế nào đi nữa chắc  cũng không đến nỗi phải “cởi trần trói tay” thật sự xin hàng.
Nhân việc hai bên hoạ thơ ta có thể đoán rằng hồi đó nước ta dùng ngoại giao để giải quyết việc quân Minh đem binh xâm lăng và cuộc ngoại giao đó đã cho hai bên thân mật trổ tài văn thi ra với nhâu cuối cùng ngoại giao đã thành tựu: quân Minh không đánh kéo về. Việc này tỏ cho biết tài ngoại giao của họ Mạc và xoá nhoà thuyết “cởi trần trói tay”
Chính trị, quân sự đâu có phải vì một việc “cởi trần trói mình” mà giải quyết được Mạc Đăng Dung và tướng Minh đâu lại ngây thơ đến thế.
Nếu bảo rằng xin hàng quân Minh là vô liêm sỉ, là không còn nhân phẩm thì hết thảy các vua, chúa đều vô liêm sỉ, vô nhân phẩm như thế. Vì vua nào cũng vậy, dù mới đánh tan được quân Tầu, cũng đều sai sứ đem đồ cống phẩm sang Tầu cầu hoà tự nguyện là một nước thần thuộc.
Tháng 3 năm Bính thân 1596 vua Thế Tông nhà Lê sai triều thần đem 100 cân vàng, 1000 cân bạc cùng ấn phong nhà Mạc, ấn phong nhà Lê lên Nam Quan nộp cho quân nhà Minh, quan nhà Minh không nghe đòi Lê Thế Tông phải thân đến hội kiến. Đến nơi quân Minh đòi nộp người vàng như tích cũ và không chịu tiếp kiến. Vua Lê đành phải trở về. Đến tháng tư năm sau sứ nhà Minh mời vua Thế Tông lại cùng triều thần lên hội với quân nhà Minh ở Nam Quan. Vua Minh  sau cùng chỉ phong cho vua Lê làm An Nam Đô Thống Sứ như đã phong cho Mạc Đăng Dung trước kia.
Năm mậu thân 1788 theo lời thỉnh cầu của vua Lê quân nhà Thanh dưới quyền thống lĩnh của Tôn Sĩ Nghị kéo sang Thăng Long phong cho vua Chiêu Thống làm An Nam quốc vương. Nhưng các giấy tờ văn thư đều đề niên hiệu là Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong vua lại đến dinh Tôn Sĩ Nghị để chầu trực việc cơ mật quân quốc. Vua chỉ đi với mươi người lính hầu. Có khi Tôn Sĩ Nghị lại không cho vua vào yết kiến sai người đứng xa truyền ra bảo vua đi về. So với hai ông vua trên thì nhân phẩm Mạc Đăng Dung cao hay thấp hơn?  Sao lại chỉ mạt sát riêng họ Mạc ?
                            Mạc Đăng Dung Vẫn được nhân dân kính phục
Ông Trần Trọng Kim bảo  “Một người như thế thì ai mà kính phục.” Thì Mạc Đăng Dung  vẫn được người ta kính phục như mọi ông vua khác, không hơn không kém. Nếu không được người ta kính phục thì sao cơ nghiệp nhà Mạc bền lâu được hơn 100 năm từ năm 1527 đến năm 1668 mới mất hẳn.
Mấy ông quan cựu thần nhà Lê phản đối Mạc Đăng Dung như lấy nghiên mực ném vào mặt, hoặc xông vào đánh Mạc Đăng Dung rồi tự sát… là phản đối việc tiếm ngôi của Mạc Đăng Dung chứ không phải vì việc Mạc Đăng Dung cắt đất cầu hoà hay “cởi trần trói tay,” hàng Minh lúc ấy hai việc đó chưa sẩy ra. Vậy nói như ông Trần Trọng Kim chưa hẳn đã là đúng.
            Cơ nghiệp nhà Mạc có thật dựng lên bởi sự tàn ác hèn hạ?
Ông Trần Trọng Kim căn cứ vào mấy điểm nghịch thần, phản quốc, vô liêm sỉ mà kết luận rằng “Một cái cơ nghiệp dựng lên bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được.” Mạc Đăng Dung có gian ác hèn hạ hay không thì trên đã nói rồi. Và như vậy thì không thể nói cơ nghiệp nhà Mạc dựng lên trên sự  gian ác hèn hạ. Nếu cơ nghiệp nhà Mạc mà là cơ nghiệp dựng lên trên sự gian ác thì cơ nghiệp nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trân, chúa Trịnh cũng dựng lên trên sự gian ác như thế.
Nói đến sự gian ác, hèn hạ thì còn gì gian ác, hèn hạ hơn việc nhà Trần cướp ngôi nhà Lý. Trần Thủ Độ cho cháu trai vào hầu trong cung để trêu ghẹo nữ chúa Chiêu Hoàng còn nhỏ tuổi, mưu cho hai bên lấy nhau, bắt Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Thủ Độ lấy mẹ Chiêu Hoàng là bà Trần Thái Hậu làm vợ mà Trần Thái Hậu là chị em họ với Thủ Độ. Thủ Độ lập mưu giết hết tôn thất nhà Lý và sau bắt Trần Cảnh bỏ Chiêu Hoàng, để lấy chị gái Chiêu Hoàng là vợ Trần Liễu anh ruột Trần Cảnh lúc ấy có mang đã ba tháng. Thủ Độ lại ra lệnh cho trai gái họ Trần không được lấy họ ngoài.
Dựng lên trên sự  gian ác, hèn hạ, như thế vậy mà cơ nghiệp nhà Trần trái với lời ông Trần Trọng Kim bền được tới 175 năm truyền 12 đời vua.
Nói “Cơ nghiệp dựng lên trên sự gian ác thì không bao giờ bền chặt được.” tức là nói: “Cơ nghiệp dựng lên trên điều nhân nghĩa thì được bền chặt”. Cơ nghiệp nhà Tây Sơn thì hẳn là dựng lên trên điều nhân nghĩa không dựng lên trên điều gian ác, hèn hạ .Vậy sao chỉ  ngắn ngủi vỏn vẹn được có hơn mười năm trời ?
Coi đó đủ thấy cách lập luận và phẩm bình nhân vật lịch sử của tác giả Việt Nam sử lược chỉ đứng trên nền  tảng tình cảm mà thôi không căn cứ vào điều gì vững trãi cả .
Tháng 8/1952 – Lê Văn Hòe
Phạm Xuân Liêu (Ninh Bình) sưu tầm

Nhà Mạc và Thái Tổ Mạc Đăng Dung trong lịch sử dân tộc

LTS: Trong nhiều năm gần đây, giới sử học Việt Nam đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về vương triều Mạc cũng như hai vị vua đầu triều là Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) và Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh). Những nghiên cứu mới đã góp phần khẳng định công lao của nhà Mạc – cả về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội…, đưa ra cái nhìn khách quan, công bằng về vương triều Mạc nói chung.
Nhằm giúp bạn đọc có thêm cơ sở khách quan trong quá trình đánh giá về vương triều Mạc, cũng như lý giải vì sao tên của hai vị vua đầu triều Mạc đã được dùng để đặt tên cho nhiều đường phố tại Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Quảng Ngãi, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Gia Lai…, Báo Hà nội mới trân trọng giới thiệu bài viết của GS Văn Tạo – nguyên Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam, người đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về vương triều Mạc.
GS  Văn Tạo - Nguyên Viện trưởng Viện Sử học
GS Văn Tạo – Nguyên Viện trưởng Viện Sử học
Nhà Mạc – một triều đại phong kiến tồn tại hơn 150 năm, trong đó có 65 năm (1527-1592) ở Thăng Long. Trong suốt thời gian tồn tại, nhà Mạc đã có nhiều cống hiến đối với lịch sử dân tộc. Tuy vậy, theo quan điểm phong kiến thì cũng như nhà Hồ, nhà Tây Sơn, vì đã lật đổ triều đại cũ, lập nên triều đại mới cho dòng họ mình, đều bị coi là “nhuận”, là “nguỵ” (nhuận Hồ, nguỵ Mạc, nguỵ Tây Sơn).
Ngày nay, công cuộc đổi mới mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra bắt đầu từ “đổi mới tư duy”, cùng với phương châm khoa học: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã giúp cho chúng ta có cách nhìn mới về các nhân vật lịch sử, trong đó có nhà Mạc và Mạc Đăng Dung.
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA NHÀ MẠC
Đầu thế kỷ XVI, nhà Lê sơ sau một thời gian phát triển cực thịnh dưới thời vua Lê Thánh Tông đã bắt đầu suy thoái. Chính sử nhà Lê cũng đã phải thừa nhận: “Từ vua Uy Mục trở đi, cơ nghiệp nhà Lê mỗi ngày một suy dần, không có vua nào làm được việc nhân chính, lại thường hay say đắm tửu sắc, làm những điều tàn ác gây thành sự giặc giã, thoán đoạt”.
Khủng hoảng cung đình diễn ra với một hình thái chưa từng có là 5 vua bị giết, hai vụ tiếm ngôi xưng vương, nhiều phe phái tiêu diệt lẫn nhau khiến sức lực suy tàn, nhân tài cạn kiệt, dân tình khổ cực. Binh sĩ nhiều người bỏ thân nơi chiến địa không vì lợi ích quốc gia.
Trong lịch sử dân tộc cũng nhiều lần xảy ra khủng hoảng cung đình như khủng hoảng cuối Tiền Lê sang Lý, khủng hoảng cuối Lý sang Trần, hay như “Loạn ba vương thời Lý”, việc tiếm ngôi của Dương Nhật Lễ cuối Trần… nhưng chưa bao giờ khủng hoảng lại diễn ra lâu dài và trầm trọng như lần này.
Lịch sử đang cần có một nhân vật đứng ra giải quyết khủng hoảng để yên dân, dựng nước. Lịch sử đã lựa chọn Mạc Đăng Dung.
Nói “Lịch sử đã lựa chọn” là nói thực tế khách quan đã có sự giằng co giữa các thế lực, mỗi thế lực có người đại diện của mình và đều là nhằm giành ngôi nhà Lê đang suy tàn, bất lực. Nhưng sau khi loại trừ lẫn nhau, cuộc “chung kết” chỉ còn lại có hai đối thủ là Nguyễn Hoằng Dụ và Mạc Đăng Dung. Cuối cùng Mạc Đăng Dung đã thắng, tức Mạc Đăng Dung đã được lịch sử lựa chọn.
II. VAI TRÒ MẠC ĐĂNG DUNG TRONG KHỦNG HOẢNG CUNG ĐÌNH
Nguyễn Hoằng Dụ đã từng có thư riêng cầu hòa với Mạc Đăng Dung khi vua sai Đăng Dung đi đánh Hoằng Dụ. Đăng Dung không đi đánh nữa. Nhưng Hoằng Dụ, sau khi thua Trịnh Tuy và Trần Chân, đã bỏ chạy về giữ Thanh Hóa. Đến khi vua bị bọn Trần Chân chống lại, cho vời ra giúp, đã không ra. Lần thứ hai vua vời ra để cùng Mạc Đăng Dung đánh Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng… thì lại xuất binh đánh trước và thua trận, lui về Thanh Hóa. Như vậy đức, tài đã được thử thách và biểu lộ rõ là Hoằng Dụ thua kém Mạc Đăng Dung.
Còn Mạc Đăng Dung khi được Chiêu Tông vời ra giúp đã ra ngay, được Chiêu Tông trao cả binh quyền để đánh Hoàng Duy Nhạc. Mạc Đăng Dung đã thắng trận, trừ được bọn Lê Do (đã tiếm hiệu xưng vua) cùng Trịnh Tuy, Nguyễn Sư, lại đã quy hàng được Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng… nên lực lượng càng thêm mạnh.
Tài quân sự của Mạc Đăng Dung như vậy là đã rõ. Còn về đức, ông cũng là vị quan tận tâm phục vụ triều đình, nghe lời gọi của Chiêu Tông ra cứu vua, và lấy ân uy mà thu phục được Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn Kính, Nguyễn Áng… Khi đưa Cung Hoàng lên ngôi, đã vì lòng trung mà cố gắng để gần ba năm vực lại ngôi vua của nhà Lê, nhưng thấy không thể vực dậy nổi, mới quyết định nghe lời các quần thần mà lên ngôi.
III. MẤY NÉT LỚN VỀ THÂN THẾ SỰ NGHIỆP CỦA MẠC ĐĂNG DUNG
“Mạc Đăng Dung là cháu bảy đời Mạc Đĩnh Chi. Ngày trước vốn ở làng Đông Cao, huyện Bình Hà, tỉnh Hải Dương sau dời sang làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương, tỉnh Kiến An.
Mạc Đăng Dung, thời trẻ nhà nghèo làm nghề đánh cá, nhưng có sức mạnh, thi đỗ Đô lực sĩ, làm Đô chỉ huy sứ triều Lê Uy Mục, đến triều Tương Dực được phong Vũ Xuyên bá, sau vua Chiêu Tông lại phong Vũ Xuyên hầu”.
Khi quyền bính đã về tay, Mạc Đăng Dung tất yếu cũng phải tìm cách để củng cố địa vị của mình, như Trần Thủ Độ, như Hồ Quý Ly.. Ông bắt buộc phải tiêu diệt các lực lượng chống đối. Nhưng đa số các quan lại, đại thần cũ nhà Lê đều được Mạc Đăng Dung giữ lại, tiếp tục trọng dụng, thể hiện lòng nhân ái của mình. Trước thực tế một bộ phận không nhỏ các quan lại, đại thần nhà Lê bỏ theo giúp nhà Mạc, sử cũ, vì thành kiến, viết: “Thấy quyền lớn của họ Mạc cũng bỏ vua mà theo phò Mạc Đăng Dung”. Họ theo giúp nhà Mạc có lẽ do nhận thức được tính hợp lý của thời cuộc, cảm được ân đức của Mạc Đăng Dung chứ không phải chỉ vì xu thời “thấy quyền lớn..” như nêu trên.
Từ năm Giáp Thân 1524, sau khi Chiêu Tông bị giết, Cung Hoàng lên thay, nhưng mãi đến ba năm sau là năm Đinh Hợi (1527) Mạc Đăng Dung mới để các quan nhà Lê thảo chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc…
Mạc Đăng Dung lên ngôi, khủng hoảng cung đình tạm thời được giải quyết, dẫn đến cục diện Nam-Bắc (Lê-Trịnh và Mạc) phân tranh, tức “thời đại Nam-Bắc triều” (Bắc: 1527-1593; Nam: 1533-1599).
Mạc Đăng Dung làm vua 3 năm rồi truyền ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, về Cổ Trai làm Thái Thượng Hoàng.
Toàn bộ công tích của nhà Mạc cống hiến cho lịch sử dân tộc đã được sử sách ghi chép. Riêng công trạng của Mạc Đăng Dung có thể tóm tắt như sau:
Khi khủng hoảng cung đình diễn ra trầm trọng, triều chính đổ nát, kinh tế suy sụp, dân tình cực khổ, Mạc Đăng Dung đã dẹp được các phe phái phân chia, cát cứ, lên ngôi, tạo dựng được cơ nghiệp, góp phần ổn định đời sống xã hội, xây dựng và phát triển đất nước về mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội trong hơn nửa thế kỷ. Không ai có thể phủ nhận thành tựu của nhà Mạc.
Xét về sự nghiệp dựng nước thì bao giờ cũng “vạn sự khởi đầu nan”- công lao đó thuộc về Mạc Đăng Dung. Nhân dân ta, một khi đã thừa nhận là nhà Mạc có cống hiến cho dân tộc thì không thể không thừa nhận công lao của Mạc Đăng Dung.
Do hạn chế lịch sử, lại thêm tình cảm “ghét nên xấu” nên các sử gia phong kiến đã có những đánh giá lệch lạc, không đúng, thậm chí xuyên tạc bản chất chính sách ngoại giao mềm dẻo của nhà Mạc và Mạc Đăng Dung để rồi coi là “ngụy triều”, là “có tội”… và theo đó, một số nghiên cứu lịch sử sau này cũng chịu ảnh hưởng nặng nề mà tiếp tục phủ nhận công lao đối với quốc gia – dân tộc và có những nhận định sai cho nhà Mạc và Mạc Đăng Dung. Dưới ánh sáng của công cuộc đổi mới, nhiều nhà sử học trong và ngoài nước đã nghiêm túc đi sâu, chắt lọc sử liệu cũ và kết quả điền dã để minh oan, khẳng định những cống hiến cho đất nước, cho dân tộc của nhà Mạc và Mạc Đăng Dung trong thế kỷ XVI.
Nói tóm lại, với 65 năm tồn tại ở Thăng Long, nhà Mạc đã có cống hiến nhất định với lịch sử dân tộc. Công lao dựng nghiệp của Mạc Đăng Dung đối với nhà Mạc là lớn lao và sự nghiệp dựng nước của nhà Mạc đã được sử sách ghi nhận, hậu thế cần trân trọng và phát huy. Do đó, Đảng và Nhà nước đã có quyết định đầu tư xây dựng khu tưởng niệm Vương triều Mạc và các vua nhà Mạc tại xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vốn là nơi phát tích vương triều Mạc, kinh đô hướng biển đầu tiên của quốc gia Đại Việt và đưa vào công trình kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, thể hiện sự trân trọng, một biểu hiện cụ thể của đạo lý “uống nước, nhớ nguồn”.
Hiện nay, ở Hà Nội chưa có một đường phố nào mang tên các vị vua tiêu biểu của nhà Mạc. Với chiều dầy vẻ vang 1000 năm qua, lịch sử sẽ đứt đoạn, không trọn vẹn khi chúng ta quên đi giai đoạn 65 năm của vương triều Mạc với những dấu ấn hết sức riêng biệt cùng với các triều đại Lý, Trần, Lê… đã góp phần làm nên lịch sử của Thăng Long – Hà Nội. Do đó, thành phố Hà Nội cần thiết dành một số tuyến phố để đặt tên Thái Tổ Mạc Đăng Dung (hoặc Mạc Thái Tổ) và Thái Tông Mạc Đăng Doanh (hoặc Mạc Thái Tông), là hai vị vua đầu triều và cũng là tiêu biểu nhất của vương triều Mạc.
GS. Văn Tạo
 
Thái tổ Mạc Đăng Dung 

TÔN VINH TÊN PHẢN QUỐC MẠC ĐĂNG DUNG NHẰM XÓA TỘI BÁN ĐẤT BIỂN CỦA ĐẢNG CSVN

Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 30.08.2015
Facebook : Phuc Lien Nguyen

CSVN đã chính thức tôn vinh Mạc Đăng Dung bằng hai đường phố Hà Nội với  tên Mạc Thái Tổ và Mạc Thái  Tông. Việc tiếm quyền Nhà Lê có thể coi như việc thay đổi triều đại nội bộ. Nhưng cái tội lớn nhất của chính Mạc Đăng Dung là phản quốc một cách hèn hạ, nhục nhã, không xứng đáng mang tên của một con đường để nhắc nhở cho hậu thế. Suốt triều dài Lịch sử những ngàn năm, Dân Tộc Việt luôn luôn bị đe dọa, rồi bị xâm lăng bởi Bắc Phương. Dân Tộc Việt cần phải có những anh hùng bất khuất để có thể giữ gìn vẹn toàn lãnh thổ, giòng giống, tiếng nói Việt cho đến ngày nay.
Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa… bị chiếm đóng lúc này. Trên đất liền, đảng CSVN đã bán cho Tầu những khu kinh tế. Việc Tầu  chiếm đóng từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau đã rõ rệt thành hình da báo. Hội nghị Thành Đô đang đe dọa biến Việt Nam thành một tỉnh của nước Tầu. Xâm lăng Kinh tế còn trầm trọng hơn nữa : hàng hóa Tầu tràn ngập Việt Nam làm tê liệt mọi ngành sản xuất.
Mối đe dọa mất nước như gần kề khó tháo gỡ. Chính trong lúc ấy thì đảng CSVN lại muốn xây 58 tượng đài Hồ Chí Minh, một người Tầu hay một người Việt phản quốc bán đất biển. Chúng tôi nhớ lại việc con hát Việt Cộng đã sang Tầu trước đền Mã Viện, đã đóng tuồng như nhạo báng Hai Bà Trưng. Một nhà Sư quốc doanh đã công kích LÝ THƯỜNG KIỆT « vô lễ » dám mang quân tấn công địch trên đất Tầu. Rồi ngày nay, đảng CSVN lại tôn vinh Mạc Đăng Dung, một kẻ không còn thể diện đem đất và dân dâng cho quan Tầu.
CSVN như mang mặc cảm tội lỗi bán đất và biển cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc, nay sử dụng ngụy biện Lịch sử để mong xóa cái tội Trời không tha, Đất không dung của mình.
Bản Tin Lễ đặt tên đường
Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông
10h sáng 25/8, UBND Thành phố Hà Nội làm lễ gắn biển cho hai phố mới mang tên hai vị vua họ Mạc là Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông thuộc địa bàn hai phường Yên Hòa và Trung Hòa (quận Cầu Giấy, Hà Nội).
CSVN viện lẽ cho việc tôn vinh này như sau :
« Việc phản đối đặt tên đường Mạc Thái Tổ là không có cơ sở. Có chăng, đó chỉ là sản phẩm của một thứ chủ nghĩa dân tộc lạc loài, một tâm lí “chính thống” không đến nơi và một “chiêu bài” chống Trung Quốc mang màu sắc hiện tại mà thôi… »
*       một tâm lí « chính thống » không đến nơi
CSVN muốn nói tới việc trung thành với triều đại đã cưu mang, nuôi dưỡng mình. Những chữ không đến nơi ở đây phải đặt cái tâm lý ở thời đại cổ và thời đại ngày nay mới có thể phán đoán  được. Việc phán đoán này tất nhiên là tương đối.
*       sản phẩm của một thứ chủ dân tộc lạc loài
CSVN muốn phế bỏ chủ nghĩa dân tộc để đấu tranh cho chủ nghĩa đại đồng của Cộng sản quốc tế, chủ nghĩa vô tổ quốc. Điều này có nghĩa là nước Việt Nam của riêng Dân Tộc VN hay nước Việt Nam nay thuộc về Trung Cộng cũng giống nhau. Ý đồ này đang bị Dân Tộc VN phỉ nhổ.
*       một “chiêu bài” chống Trung Quốc mang màu sắc hiện tại mà thôi…
Việc chống Trung quốc là Ý chí  và cố gắng thực hiện của Dân Tộc Việt Nam chứ không phải là một « chiêu bài » mà CSVN cố gán cho một số người. Không có ý chí này của Tổ Tiên, thì đất nước Việt Nam rơi vào tay Hán Tộc đã từ lâu. Việc đảng CSVN bán đất, biển cũng là một sự thật hiển nhiên mà toàn Dân đang phải nỗ lực chống lại lúc này.
Tóm lại, những lý do đưa ra để đặt tên đường phố cho một kẻ phản quốc không đứng vững được. Việc gượng gạo đưa ra những lý do chứng tỏ CSVN đã bị mặc cảm vì tội bán nước của mình. Ngụy biên Lịch sử một cách gượng gạo không đủ để xóa được tội phản quốc của đảng CSVN. Cái tội này Trời không tha, Đất không dung và sẽ truyền lại cho con cháu sau này để tiếp tục xỉ vả cái đảng phản bội của Hồ Chí Minh.
Mạc Đăng Dung,
tên phản bội hèn hạ trước quan nhà Minh
Chúng tôi ghi lại đây Bài viết phản ứng lại của một Sử gia tại Quốc nội (muốn dấu tên) được phổ biến trên Facebook và các Diễn Đàn Internet ngày 28.08.2015 :
Sau đây là những lý do cho thấy sự hèn hạ bán nước của Mạc Đăng Dung. Những lý do này được Sử Trung quốc và Việt Nam đồng ghi chép tỏ tường.
Thứ nhất, đối sách ngoại giao của nhà Mạc dâng đất, dâng sổ hộ tịch kể cả việc xin nội thuộc nhà Minh, chấp nhận trở thành những "ty" lệ thuộc tỉnh Quảng Tây thì đó là một sai lầm, không thể coi là có công với đất nước. Sự việc ấy do 2 vị Mạc Thái Tổ, Thái Tông chủ trương, thực hiện, cho nên việc đặt tên đường cho hai vị cần phải tính đến.
Thứ hai là việc "giải mã" sự việc được gọi là "nghi án" này. Sự kiện lịch sử ấy đã được các bộ sử của ta và cả Minh sử ghi chép khá rõ ràng. Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã tham bác các sách, biện luận, dưới đây xin trích ra một số sự kiện chính từ ghi chép của bộ sử này như sau:
- Ngày 3 tháng 11 năm Canh Tí  (1540)"Bọn Mao Bá Ôn thiết lập mạc phủ và tướng đài ở Nam Quan…" "Đến kỳ đã định, Đăng Dung… cùng cháu là Văn Minh và bè đảng là bọn Vũ Như Quế hơn 40 người do đường Nam Quan đi sang; ai nấy buộc dây vào cổ, đi chân không, gieo mình vào mạc phủ tướng Minh, khúm núm, phủ phục, khấu đầu lạy, dâng tờ biểu xin hàng, nộp trình sổ sách đất đai và nhân dân do mình cai quản. (Việt sử thông giám cương mục, Chính biên XXVII, Bản dịch của Viện Sử học in năm 1959, tr. 1337). (Mạc phủ, nơi Mạc Đăng Dung và hơn bốn mươi thuộc hạ đầu hàng, về sau được gọi là Thành Thụ hàng).
- "Đăng Dung lại xin hàng, dâng đất các động Ti Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương thuộc châu Vĩnh An ở An Quảng để lệ vào Khâm Châu. Lại xin nhà Minh ban cho chính sóc và ấn chương đã làm từ trước để Đăng Dung coi giữ việc nước trong khi chờ đợi mệnh lệnh có thay đổi hoặc quyết định ra sao" (Sách đã dẫn tr. 1338).
- Cương mục cũng ghi thêm: "Năm Mạc Minh Đức thứ 2 (1528), Sử cũ chép Mạc Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn tính chuyện cắt đất đem dâng hai châu Quy, Thuận, vua Minh thu nhận. Từ đó Nam Bắc lại đi lại thông hiếu".(Sách đã dẫn tr. 1338).
- Tháng 10 mùa đông, Mạc Phúc Hải, Quảng Hòa năm thứ 1 (1541). "Nhà Minh đổi nước An Nam làm An Nam đô thống sứ ty, trao cho Đăng Dung chức Đô thống sứ, đổi đặt toàn quốc làm mười ba tuyên phủ ty, cho lệ thuộc vào đất nhà Minh" (Sách đã dẫn tr. 1340).
- "Nhà Minh bèn đổi nước An Nam làm Đô thống sứ ti, cho Đăng Dung làm Đô thống sứ, phẩm trật vào bậc tòng nhị (còn kém chánh nhị phẩm), ban cho ấn chương khác và cho đời được cha truyền con nối. Còn các nghi thức mà Đăng Dung tiếm dùng đều bắt tước bỏ hoặc cải chính lại. Trong mười ba lộ như Hải Dương, Sơn Nam vân vân đều đặt tuyên phủ ty, mỗi ty đặt một tuyên phủ đồng tri, một tuyên phủ phó sự và một tuyên phủ thiêm sự, dưới quyền cai quản của đô thống sứ. Tất cả các ty trên đây đều cho lệ thuộc vào Quảng Tây phiên ty (Sách đã dẫn tr. 1341).
Cũng theo Cương mục thì Mao Bá Ôn (nhà Minh) còn đem gấp tờ tấu lên vua Minh đề xuất việc hàng năm bắt nhà Mạc "phải lên Nam Quan lĩnh lịch được ban", lễ cống năm trước còn thiếu, kiểm tra theo lệ ngạch, "bắt năm sau phải nộp bổ sung cho đầy đủ" (Sách đã dẫn tr. 1340). Cương mục cũng ghi danh mục cống vật, Mạc Phúc Hải cống năm 1542 trích từ Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn.
Một trăm năm trước, đất nước này nhà Minh đã từng cai trị với một chính sách "bại nhân nghĩa nát cả càn khôn", đã vơ vét đến "sạch không đầm núi", đã bắt người lên rừng xuống biển tìm châu báu… và đã bị đuổi đi. Thôn tính nước này gộp vào lãnh thổ "Đại Hán" của họ là một tham vọng chưa bao giờ nguội, lẽ nào bây giờ có người tự nguyện dâng hiến chỉ để cầu một chức "đô thống" nhỏ nhoi, tiếc gì không cho để được nhận! Đã nhận rồi, chia ra để trị rồi, giao cho một tỉnh quản lĩnh rồi, lẽ nào chỉ là việc nói vu vơ? Mà thực chất họ đã tính đến cả rồi (Xem những điều tâu về cách chế tài của Mao Bá Ôn)…
Chuyện lấn đất vùng biên của Việt Nam là chuyện xảy ra "thường ngày", Việt Nam nhiều lần đã phải đòi, phải lấy lại, khi thì "hội khám", khi thì gửi thư, hội nghị tranh biện (nổi tiếng như Hội nghị Vĩnh Bình, Thư đòi đất đời Lý), khi thì không chịu được sự cai trị của các quan chức Trung Quốc, trưởng các tộc nhóm đem dân chạy về lại Việt Nam… Cho nên những đất Trung Quốc chiếm được chưa phải là lãnh thổ của Trung Quốc, bây giờ Mạc Đăng Dung đem dâng chính là đã chính thức công nhận chủ quyền của họ. Trong ngoại giao đó là một việc thất thố, tổn hại đến lợi ích quốc gia.
Nói tóm lại dâng đất, dâng sổ đất đai và dân số, tự nguyện xin nội thuộc trở thành ty quận của họ, xóa bỏ cả một đất nước đã có truyền thống mấy nghìn năm văn hóa, tổ tiên đã đổ bao máu xương tâm trí để khai thác giữ gìn, thì đó là một sai lầm không thể bỏ qua.
Trong lịch sử chưa thấy ai biện hộ cho việc làm này của nhà Mạc. Ngô Thì Nhậm trong dịp đi sứ nhà Thanh năm 1793, qua Thụ hàng thành đã viết bài thơ ghi lại sự công phẫn trước việc làm của Mạc Đăng Dung:
Thụ Hàng thành
Lộ kinh Mạc phủ nhập Bằng Tường,
Cố thụ Hàng thành thị cố cương.
Sơn tự Lạng Sơn, khê giảo thiểu,
Thạch xưng Hạ Thạch lý thiên trường.
Thủy xa chuyển trục lôi huyên ngạn,
Hỏa hiệu tiêu đài tuyết mãn đường.
Đô thống Hàng Thành thành thậm sự,
Linh nhân thiên tải mạ Nghi Dương.
(Đường đi qua phủ mạc vào Bằng Tường, Thành Thụ Hàng xưa là cương giới cũ của nước ta. Núi non giống như ở Lạng Sơn nhưng suối khe ít hơn. Đá thì gọi là Hạ thạch, riêng đường càng dài. Trục guồng nước chuyển, tiếng nước đổ như sấm huyên náo bên bờ, Trên đài pháo hiệu tàn bay như tuyết khắp nhà. Đô thống, Thành Hàng là cái trò gì vậy, Khiến người ta  nghìn năm còn chửi mắng kẻ Nghi Dương (Mạc Đăng Dung người Nghi Dương).
Vị túc nho Nguyễn Sĩ Lâm dịch thành thơ như sau:
Lối qua Mạc phủ tới Bằng Tường,
Thành Thụ Hàng xưa, dấu cố cương.
Núi tựa Lạng Sơn, dòng suối ít,
Mốc nêu Hạ Thạch, dặm đường trường.
Tuyết bay tàn pháo đồn canh khắp,
Sấm chuyển guồng xe, bến nước vang.
Đô thống xin hàng, trò khốn nạn,
Nghìn năm bán nước tiếng Nghi Dương
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (Tập 3), Nxb Khoa học xã hội, 2005.
Trong suốt Lịch sử bị xâm lăng,
Anh Hùng đất Việt mềm dẻo hay cứng rắn tuẫn tiết,
chứ không chịu bán nước cầu vinh
Năm 1982, sống xa Quê Hương, muốn biết Lịch sử Dân Tộc và đã đọc những Sách Sử. Chúng tôi cảm khái và ngưỡng mộ Tinh thần Đấu Tranh Bất Khuất của Tiền Nhân để bảo toàn Lãnh thổ và sự Trường tồn của Nói giống Việt. Chúng tôi đã viết một cuốn Sử vắn gọn lấy tên là LỊCH SỬ KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM. Cuốn sách được xuất bản năm 2006 bởi Nhà Xuất Bản DAY & NIGHT, Ventura, California, USA. Trong những lúc gây cấn nhất của cuộc xâm lăng từ Trung quốc, những Vị anh hùng Dân Tộc khi cương khi nhu : tấn công địch cho đến tuẫn tiết hay ngoại giao nhã nhặn để làm giảm căng thẳng, chứ không chịu hàng giặc, nhất là không hèn hạ bán nước cầu vinh cho cá nhân mình.
Chúng tôi xin trích ra đây  thái độ của một số những anh hùng Dân Tộc :
*          HAI BÀ TRƯNG
Năm 41, Vua Quang Vũ đời Đông Hán sai Mã Viện mang 20’0000 quân sang  tái xâm lăng nước ta. Mã Viện là danh tướng thời Đông Hán, rất nhiều kinh nghiệm chiến trường, quân sĩ lại được tập luyện tinh nhuệ.
Hai Bà Trưng, tuy đầy nhiệt huyết, nhưng còn nhỏ tuổi, quân sĩ lại mới thu nhận.
Sau mấy lần nhất quyết tấn công quân Mã Viện tại Lãng Bạc, Hai Bà yếu thế đã phải lui quân về Cẩm Khê. Mã Viện tấn công đuổi theo cho đến Hát Môn thuộc huyện Phúc Lộc tỉnh Sơn Tây. Ngày mùng 6 tháng 2 năm Quý Mão (43), thế bức quá, nhưng Hai Bà không chịu ra hàng, đã gieo mình xuống sông Hát Giang tuẫn tiết.
Đây là cái chí khí thà chết chứ không chịu đầu hàng giặc ! (Theo Nguyễn Phúc Liên :LỊCH SỬ KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM, Nhà Xuất Bản DAY&NIGHT, Ventura, California, USA, 2006, trang 14)
*          BÀ TRIỆU THỊ CHINH
Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Chinh là hai anh em ruột, người vùng Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa (quận Cửu Chân). Bà Triệu Thị Chinh đã từng tuyên bố : « Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, , đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông, quét sạch bờ cõi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước  người đời cúi đầu cong lưng làm tì thiếp người ta ! »
Sau khi được Triệu Quốc Đạt trao quân cho, Bà Triệu Thi Chinh ra trận, xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân, thống lãnh cuộc khởi nghĩa. Khi ra trận, Bà mặc áo giáp vàng, cỡi voi bành vàng, xông vào chiến địa.
Thứ sử Giao Châu là Lục Dận đem quân vây đánh Cửu Chân. Bà anh dũng chống trả trong vòng 6 tháng. Nhưng cuối cùng, vì quân số quá ít sánh với đoàn quân của Lục Dận, Bà mở vòng vây máu, đem quân lui về được xã Bồ Điền, huyện Mỹ Hóa, Thanh Hoá, và trong thế bức quá, Bà đã tự sát .
Đúng như lời Bà đã từng tuyên bố, thà tự sát chứ không chịu hàng giặc để làm tôi đòi (Sách đã trích dẫn, trang 20)
*          VUA LÊ ĐẠI HÀNH
Vua Lê Đại Hành không những là một anh quân thiện về binh bị, mà còn là một nhà chính trị giỏi về ngoại giao. Khi cương thì tấn công giặc như làm tan quân Tống xâm lăng, bắt được hai chủ tướng Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng.
Nước ta thắng quân Tống về binh bị, nhưng Vua Lê Đại Hànnh, vốn là người ưa dùng nhu về ngoại giao theo cách đối xử mà dân ta đã áp dụng đối với cây Cột Đồng Trụ thời Mã Viện, nên đã sai Sứ đem hai tướng đã bắt được Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng trả lại cho Nhà Tống và xin giao hảo. Bị thất trận nên vua Nhà Tống không hống hách nữa. Nên lưu ý là khi nhận chiếu, Vua Lê Đại Hành đã không nghiêng mình lậy, lấy cớ khi chiến tranh bị ngã ngựa đau chân không nghiêng mình được. Vua Tống biết kiểu khước từ nghiêng mình đó, nhưng không thể bắt bẻ. (Sách đã trích dẫn, trang 42)
*          LÝ THƯỜNG KIỆT
Danh tướng  LÝ THƯỜNG KIỆT là người giỏi về binh bị, về tâm lý chiến và là vị tướng duy nhất đánh sang nước Tầu để bảo vệ bờ cõi Việt Nam, nghĩa là vị danh tướng này đã áp dụng chiến thuật  BẢO VỆ bằng TẤN CÔNG.
Thời Tống Nhân Tông, Tầu lại quyết định mang quân sang chiếm nước ta. Trước thái độ quyết liệt xâm chiếm nước ta, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản được vua ta giao trọng trách chống đỡ. Chương trình chống đỡ của Lý Thường Kiệt như sau : 1) Phá hủy trước các kho dự trữ binh khí và lương thực trên chính đất địch ; 2) Chuẩn bị phòng vệ trên Lãnh thổ nước ta nơi các yếu điểm.
Thực hiện chương trình phòng thủ này, Lý Thường Kiệt  thống lãnh thủy quân đánh vào ven bể Quảng Châu, hạ được Châu Khâm , chiếm Châu Liêm. Tô Đản thống lãnh lục quân tiến lên bao vây thành Ung Châu
Thủy quân và Lục quân hợp lại lấy xong Ung Châu. Cùng lùc ấy, Lý Thường Kiệt hay tin quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết mang đại binh sang xâm chiếm nước ta. Lý Thường Kiệt và Tôn Đản thần tốc mang Thuỷ quân và Lục quân về Việt Nam bảo vệ Lãnh thổ.
Sau khi thắng được quân Tống trên đất nhà, Vua ta lại dùng mềm giẻo ngoại giao đối với Tống triều, sai Sứ sang trả lại binh sĩ đã bắt sống được để làm quà, đồng thời còn cống voi cho nhà Tống.
Mềm dẻo sử dụng ngoại giao, nhưng nhất định không hèn hạ nhận sự thống trị hay mất một tấc đất. (Sác đã trưng dẫn trang 49
*          TỪ THỜI NHÀ TRẦN & LÊ (thịnh)
Từ thời Nhà Trần & Lê (thịnh), Vua, Quan, Dân (Diên Hồng) lấy cương mà thắng giặc. Vua và các Tướng đã đưa ra những lời trừng phạt năng nề đối với những kẻ hàng giặc, mưu mô đưa giặc vào lãnh thổ.
Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn :
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Tàu Hán. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta .Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:
"Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác".
Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.“
Áp dụng hậu thế: CSVN đang bán từng hòn đảo, đã nhường cho Tầu những mảng đất liền từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu như hình da báo
Hưng Đạo Vương TRẦN QUỐC TUẤN đã viết để cảnh cáo những người có trách nhiệm mà phản bội cần phải loại trừ:
“Nay các ngươi... trông thấy quốc sỉ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức,...Chẳng những ta chịu nhục bây giờ, mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mải.“
Áp dụng hậu thế: CSVN hầu giặc Tầu mà không biết tức, không biết hổ thẹn sao ?
Lời của vua Lê Thánh Tôn đã nói như sau:
..  Một thước núi, một tấc đất của ta lẽ nào lại tự liệu vất bỏ được !  Kẻ nào dám đem một thước núi, một tấc đất của Tổ Tiên giống nòi để làm mồi cho giặc thì kẻ đó phải bị trừng trị nặng !.
VUA LE THANH TON 1460-1497
Áp dụng hậu thế : Phải trừng trị nặng đảng CSVN bán đất liền và biển đảo
Trần Ích Tắc là một hàng tướng trong cuộc chiến chống quân Nguyên. Sau này quân Nguyên lợi dụng như một cái cớ sang xâm chiếm nước ta lần thứ hai. Dầu vậy Trần Ích Tắc cũng đã bị trừng phạt. Mạc Đăng Dung là một HÈN TƯỚNG, không những phản quốc đem đất đai và sổ dân dâng cho Tầu, mà còn HÈN HẠ tự buộc dây vào cổ như chó má súc vật, đi chân đất đến phủ phục dâng đất và dân cho một quan nhà Minh. Tội bán nước Trời không  tha, Đất không dung, mà còn trở nên HÈN HẠ như chó má súc vật làm mất thể diện một Dân Tộc.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 30.08.2015
Facebook : Phuc Lien Nguyen
Mạc Triều ngàn năm công tội Kiến Hào
Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Trấn Hải Dương vốn là đất phát tích của nhà Mạc. Còn Thanh Hoa là đất thang mộc của Lê triều. Thời kỳ Nam - Bắc phân tranh (1533 - 1592), từ Ninh Bình trở ra thuộc họ Mạc, từ Thanh Hóa trở vào thuộc Lê - Trịnh. Cuộc nội chiến kéo dài đã tiêu hao biết bao sinh mạng, của cải khiến nền kinh tế kiệt quệ, vườn ruộng tiêu điều, đời sống nhân dân hai miền hết sức cơ cực. Dù triều Mạc đã lui vào dĩ vãng, chôn vùi dưới bao lớp sóng phế hưng, nhưng có lẽ nỗi niềm của con cháu vẫn còn vương vấn bao thế hệ. Hai cuộc hội thảo về nhà Mạc tại Hải Phòng năm 1994 và tại Hà Nội nhân dịp kỹ niệm ngàn năm Thăng Long 2010 có nhiều ý kiến mới mẻ , khác hẳn quan điểm của sử gia thời Lê, Nguyễn hay ngay cả giới sử học hai miền Nam Bắc hậu bán thế kỷ 20. Thường thường nếu muốn tìm sự đồng thuận để thay đổi một quan điểm chung đã định hình là hết sức khó ; trừ khi những lý lẽ phản biện phải rất thuyết phục, khách quan, khoa học và hợp lý; còn nếu chỉ lượm lặt, cóp nhặt từ trong sử cũ những sự kiện riêng lẽ không điển hình, gán ghép một cách khiêm cưỡng theo ý kiến chủ quan thì khó mà nhận được sự đồng tình của mọi người. Huống chi việc viết lại giáo trình lịch sử hay sách giáo khoa cho hàng triệu học sinh các thế hệ con cháu đời sau học hỏi là một việc hết sức hệ trọng ; không nên vì phục vụ cho quan điểm chính trị ngoại giao đương thời hoặc cục bộ địa phương mà uốn cong ngòi bút, làm vẫn đục cả bức tranh lịch sử dân tộc.
ĐẶT TÊN ĐƯỜNG ĐỂ CHẤM DỨT TRANH CÃI ?
Năm 2014, Hà Nội đã từng đề xuất đặt tên đường phố Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông nhưng đại biểu Quốc hội - nhà sử học Dương Trung Quốc đã gửi thư tới lãnh đạo Hà Nội phản đối đề xuất này. Theo ông Dương Trung Quốc, việc đặt tên đường phố Hà Nội mang tên hai nhân vật này là "chưa thích hợp". Sau đó, Ủy Ban nhân dân TP Hà Nội đã rút tờ trình để củng cố tư liệu. Năm 2015, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội tiếp tục tham mưu thành phố đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông lần hai. Lần này, nhà sử học Dương Trung Quốc chỉ đồng tình đặt tên đường Mạc Thái Tông. Quan điểm của nhà sử học Dương Trung Quốc cũng là quan điểm của nhiều học giả, nhà khoa học. Theo đó, việc chỉ đặt tên đường Mạc Thái Tông là dấu mốc ghi nhận tính chính thống và những đóng góp của vương triều Mạc với đất nước. Còn với đề xuất đặt tên đường Mạc Thái Tổ, do tư liệu về ông vẫn còn nhiều "khoảng mờ" lịch sử cùng với bối cảnh chính trị, xã hội hiện tại chưa thích hợp nên tạm gác việc đặt tên phố Mạc Thải Tổ lại.
Ngày 6.7.2015, HĐND Hà Nội đã nhất trí thông qua nghị quyết về việc đặt tên 19 tuyến đường phố mới, trong đó có hai tuyến đường mang tên hai vị vua đầu triều Mạc. Theo lời một vị lãnh đạo, "trước khi trình phương án đặt tên đường, phố lần này, hội đồng tư vấn "đặt tên, đổi tên đường phố" đã họp nhiều lần. Sau khi thống nhất, hội đồng tư vấn cũng đã lấy ý kiến của Bộ Văn hóa - thể thao và du lịch". Báo chí trong nước cũng lên tiếng ủng hộ bằng việc phỏng vấn, dẫn lời các nhà nghiên cứu Sử trong các Hội, Viện. Tuy nhiên, ngoài những ý kiến đa số là đồng tình, không phải không có những ý kiến ngược lại, thí dụ bài viết của tác giả Trần Thị Băng Thanh trên báo Tiền Phong, số ra ngày 14.6.2015. Lối lập luận khúc chiết, dẫn chứng hợp lý của tác giả bài viết khiến người đọc sáng ra nhiều mối nghi ngờ trước đó. Căn cứ vào lối hành văn, có thể đoán người viết là một nhà nghiên cứu Sử có kiến thức sâu rộng về đề tài này, có thể đã ẩn danh vì nhiều lý do.
THẦN PHỤC GIẢ VỜ, ĐỘC LẬP THẬT SỰ ?
Một số các nhà nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử Việt Nam (mà hầu hết là ở Hà Nội) hiện nay như Ngô Đăng Lợi, Lê Văn Lan, Nguyễn Danh Phiệt, Phan Huy Lê, Dương Trung Quốc, Phan Văn Các, Hoàng Lê, Phan Đăng Nhật ... đều thống nhất quan điểm: Nhà Mạc thực sự không đầu hàng, Mạc Đăng Dung không hề mắc tội phản quốc. Nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng thậm chí còn nói rõ hơn : ""Hành động "đầu hàng" của nhà Mạc do Minh sử chép là một sự phóng đại để khoe khoang. Hành động của vua Mạc chẳng qua là một hành động "tượng trưng", một sự "nhún mình" của một nước nhỏ đối với nước lớn trong điều kiện tương quan chính trị ngày xưa. Việc ông già Mạc Đăng Dung đã gánh nhục cho con, cho cháu và cho cả nước mà bị mang tiếng mãi e chừng không ổn. Tất cả ứng xử của Mạc với Minh cũng chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao thường xuyên của nước Việt nhỏ nước Hoa lớn: "thuần phục giả vờ, độc lập thực sự". Cùng quan điểm với cố GS Trần Quốc Vượng, nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tường cũng nhận xét: "Với hành động chịu nhẫn nhục của mình, Mạc Đăng Dung không chỉ tạo cho các tướng Cừu Loan, Mao Bá Ôn (tướng nhà Minh) cái cớ để rút quân mà còn làm nguội đi cái đầu bốc lửa của vị hoàng đế Trung Hoa lúc nào cũng sẵn sàng cử binh sát phạt các nước chư hầu".
Có thật Mạc Đăng Dung chỉ "hàng phục giả vờ", "tượng trưng", "nhún mình"; thực sự là không đầu hàng phương Bắc hay không ? Phải chăng Minh sử đã phóng đại để khoe khoang?
 
 
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi chép về việc này như sau : " ... đến kỳ đã định, Đăng Dung cùng cháu là Văn Minh và bè đảng là bọn Vũ Như Quế hơn 40 người do đường Nam Quan đi sang; ai nấy buộc dây vào cổ, đi chân không, gieo mình vào mạc phủ tướng Minh, khúm núm, phủ phục, khấu đầu lạy, dâng tờ biểu xin hàng, nộp trình sổ sách đất đai và nhân dân do mình cai quản. (Việt sử thông giám cương mục, Chính biên XXVII, Bản dịch của Viện Sử học in năm 1959, tr. 1337). "Đăng Dung lại xin hàng, dâng đất các động Ti Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù, An Lương thuộc châu Vĩnh An ở An Quảng để lệ thuộc vào Khâm Châu. Lại xin nhà Minh ban cho chính sóc và ấn chương đã làm từ trước để Đăng Dung coi giữ việc nước trong khi chờ đợi mệnh lệnh có thay đổi hoặc quyết định ra sao" (Sách đã dẫn tr. 1338). "Năm Mạc Minh Đức thứ 2 (1528), Sử cũ chép Mạc Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn tính chuyện cắt đất đem dâng hai châu Quy, Thuận, vua Minh thu nhận. Từ đó Nam Bắc lại đi lại thông hiếu".(Sách đã dẫn tr. 1338). "Nhà Minh đổi nước An Nam làm An Nam đô thống sứ ty, trao cho Đăng Dung chức Đô thống sứ, đổi đặt toàn quốc làm mười ba tuyên phủ ty, cho lệ thuộc vào đất nhà Minh" (Sách đã dẫn tr. 1340). "Nhà Minh bèn đổi nước An Nam làm Đô thống sứ ti, cho Đăng Dung làm Đô thống sứ, phẩm trật vào bậc tòng nhị (còn kém chánh nhị phẩm), ban cho ấn chương khác và cho đời đời được cha truyền con nối. Còn các nghi thức mà Đăng Dung tiếm dùng đều bắt tước bỏ hoặc cải chính lại. Trong mười ba lộ như Hải Dương, Sơn Nam vân vân đều đặt tuyên phủ ty, mỗi ty đặt một tuyên phủ đồng tri, một tuyên phủ phó sự và một tuyên phủ thiêm sự, dưới quyền cai quản của đô thống sứ. Tất cả các ty trên đây đều cho lệ thuộc vào Quảng Tây phiên ty (Sách đã dẫn tr. 1341).Cũng theo Cương mục thì Mao Bá Ôn (nhà Minh) còn đem gấp tờ tấu lên vua Minh đề xuất việc hàng năm bắt nhà Mạc "phải lên Nam Quan lĩnh lịch được ban", lễ cống năm trước còn thiếu, kiểm tra theo lệ ngạch, "bắt năm sau phải nộp bổ sung cho đầy đủ" (Sách đã dẫn tr. 1340).
Đại Việt Sử ký Toàn thư , tờ 3a,3b quyển XVI chép : " ... Mùa Đông, tháng 11 (1540), Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai bọn Văn Minh, Nguyễn văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh".
Xem như trên, sử Việt (chứ không phải Minh sử) thời Lê, Nguyễn đã ghi chép khá rõ : Đại Việt bị xóa tên, trở thành một đô thống sứ ty lệ thuộc Quảng Tây phiên ty, Mạc Đăng Dung được phong Đô thống sứ, hàng năm nộp cống, nhận lịch ... Một đất nước trãi hàng ngàn năm tồn tại do công đóng góp bao xương máu của tiền nhân, nay phút chốc bị xóa bỏ. Kẻ đứng đầu đất nước không còn là vua nữa mà chỉ là một viên quan cấp địa phương của nhà Minh. Cương giới Đại Việt bị chia nhỏ ra làm mười ba tuyên phủ ty, lệ thuộc vào Quảng tây phiên ty. Đất nước bị kẻ thù chia để trị như vậy mà còn ngụy biện là đầu hàng giả vờ (!) thì không biết thế nào mới là đầu hàng thực sự . Nếu Mạc triều là bên thắng trong cuộc chiến Lê-Mạc sau đó thì không biết tương lai của "An Nam đô thống sứ ty" sẽ còn lừng lẫy tới đâu. " Dân ta phải biết sử ta", lẽ nào các vị là cây đa , cây đề trong giới sử học Việt Nam lại không biết mà phải dựa vào Minh sử ?
Mạc phủ, nơi bọn tướng nhà Minh tiếp nhận sự đầu hàng của Mạc Đăng Dung và hơn 40 thuộc hạ, về sau được gọi là "Thành Thụ hàng". Hơn hai trăm năm sau, Ngô Thì Nhậm đi sứ qua đây, nhìn cảnh cũ cảm khái làm bài thơ Thụ hàng thành :
Thụ Hàng thành
Lộ kinh Mạc phủ nhập Bằng Tường,
Cố Thụ Hàng thành thị cố cương.
Sơn tự Lạng Sơn, khê giảo thiểu,
Thạch xưng Hạ Thạch lý thiên trường.
Thủy xa chuyển trục lôi huyên ngạn,
Hỏa hiệu tiêu đài tuyết mãn đường.
Đô thống Hàng Thành thành thậm sự,
Linh nhân thiên tải mạ Nghi Dương.
(Đường đi qua phủ mạc vào Bằng Tường, Thành Thụ Hàng xưa là cương giới cũ của nước ta. Núi non giống như ở Lạng Sơn nhưng suối khe ít hơn. Đá thì gọi là Hạ thạch, riêng đường càng dài. Trục guồng nước chuyển, tiếng nước đổ như sấm huyên náo bên bờ, Trên đài pháo hiệu tàn bay như tuyết khắp nhà. Đô thống, Thành Hàng là cái trò gì vậy, khiến người ta nghìn năm còn chửi mắng kẻ Nghi Dương (Mạc Đăng Dung người Nghi Dương).
Nguyễn Sĩ Lâm dịch thành thơ như sau:
Lối qua Mạc phủ tới Bằng Tường,
Thành Thụ Hàng xưa, dấu cố cương.
Núi tựa Lạng Sơn, dòng suối ít,
Mốc nêu Hạ Thạch, dặm đường trường.
Tuyết bay tàn pháo đồn canh khắp,
Sấm chuyển guồng xe, bến nước vang.
Đô thống xin hàng, trò khốn nạn,
Nghìn năm bán nước tiếng Nghi Dương
(Ngô Thì Nhậm toàn tập (Tập 3), Nxb Khoa học xã hội, 2005.
MẠC ĐĂNG DUNG CÓ DÂNG ĐẤT CHO NHÀ MINH KHÔNG ?
Nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Tường dẫn lại lời của cố giáo sư Trần Quốc Vượng : "Còn về việc "dâng đất" nhà Minh, chính sử nhà Minh có viết: "Họ Mạc nộp toàn đất khống (có địa danh mà không có thực) hoặc là đất nhà Minh từ trước rồi, mà tương kế tựu kế đem nộp. Các quan nhà Minh không hay cứ yên trí đem dâng đất về kinh sư. Khi đi kiểm tra để thu hồi mới hay sự thật là họ Mạc nộp vờ". Có thực là Mạc Đăng Dung chỉ nộp đất "khống" để lừa vua quan nhà Minh không ?
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thời Lê thì Đăng Dung cắt dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An, trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Nhưng theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục (chính biên, quyền 27) thì có thể sách trên chép nhầm vì theo Khâm Châu chí của nhà Minh và Quảng Yên sách của ta thì An Lương vẫn thuộc châu Vạn Ninh nước ta. Theo Việt Nam sử lược, năm động bị dâng là : Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sung, Liễu Cát và La Phù, có lẽ chép thep Cương mục. (Cương mục dẫn Quảng Yên sách cho rằng động An Lương là phố An Lương thuộc châu Vạn Ninh nước ta, sau đổi thành phủ Hải Ninh).
Theo Đại Việt Thông sử thì trong tờ hàng biểu, Mạc Đăng Dung tâu rõ :" ... hai đô Như Tích, Chiêm Lãng và bốn động Tư Phiêu, La Phù, Cổ Sâm, Liễu Cát là đất cũ của Khâm Châu tỉnh Quảng Đông. Nếu quả như vậy thì những đất ấy do triều trước họ Lê mạo nhận. Nay hạ thần xin tình nguyện dâng các xứ ấy lệ thuộc vào Khâm Châu... ".
Trong bản tổng kết Hội thảo khoa học về vương triều Mạc tại Kiến Thụy- Hải Phòng ( 18.7.1994), Phan Huy Lê đã nêu ra một ý mới: " Đánh giá xung quanh vấn đề này có những ý kiến khác nhau, nhất là chính sách đối ngoại của nhà Mạc đối với nhà Minh. Nhưng cuối cùng đã đi đến thống nhất : phải đặt nhà Mạc trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, nhà Mạc phải đối phó với nhiều thế lực phong kiến. Đòi hỏi phải có nhiều sách lược mềm mỏng. Sách lược đó là tránh chiến tranh bảo vệ chủ quyền của mình. Việc dâng đất nhà Minh: Nhà Mạc cắt bốn động thuộc hai châu cho nhà Minh điều đó là có thật. Vì đất đó thực chất là của nhà Minh. Về phương diện nào đó nhà Minh đòi hỏi, nhà Mạc phải trả lại. Và cũng về mặt nào đó, nhà Mạc phải trả lại cho nhà Minh. Tuy nhiên việc làm này không thể chấp nhận được. Vì đó là nguyên tắc trong mối quan hệ bang giao. Nên dù sao trong chính sách đối với nhà Minh, nhà Mạc còn một số hạn chế".
Lối nói đẩy đưa nước đôi của Phan Huy Lê khiến người đọc có thể hiểu nhầm việc cắt đất dâng nhà Minh của Mạc Đăng Dung không phải là phản quốc, vì đất đó là của nhà Minh nay Đăng Dung trả lại cho nhà Minh. Sự thực ra sao ? Vùng đất biên viễn ấy , nguyên khi xưa thời Lê sơ, động trưởng các động tự nguyện xin phụ thuộc vào nước ta . Nhà Lê nhập các đất ấy vào châu Vạn Ninh. Như vậy, đất ấy đã nội thuộc nước ta đến thời Mạc gần 100 năm rồi, nhất là bằng con đường hòa nhập chứ không phải bằng bạo lực xâm lược, không hiểu Phan Huy Lê dựa vào đâu để gọi là của nhà Minh ? Nếu đất ấy là của nhà Minh thì việc vua Quang Trung đòi nhà Thanh trả lại đất Lưỡng Quảng là sai sao ? Và miền Nam đúng là đất của Campuchia như hoàng thân Sihanouk đòi chăng ? Việc Đăng Dung đem dâng trả đất đã nội thuộc vào nước ta cho nhà Minh chính là đã chính thức công nhận chủ quyền của họ. Trong ngoại giao đó là một việc thất thố, tổn hại đến lợi ích quốc gia.
Cũng có tác giả như Phạm Văn Sơn trong Việt sử tân biên so sánh việc nộp đất của Đăng Dung với việc cắt nhượng tô giới cho các nước phương Tây của nhà Thanh mà cho rằng đó là hành động khôn khéo để bãi một cuộc binh đao tai hại, "gây chết chóc muôn vàn sinh mạng". Ở đây có một sự lầm lẫn, hoặc tác giả Việt Sử tân biên cố tình đánh đồng hai khái niệm khác nhau, bởi "nộp đất" nghĩa là trao trọn chủ quyền đất đai vĩnh viễn cho giặc, còn "cắt nhượng tô giới" là một thỏa hiệp có hạn chế về không gian và thời gian, chủ yếu khai thác về mặt kinh tế, thương mại; về một mặt nào đó bên cắt nhượng vẫn còn chủ quyền trên đất đó.
Sự kiện Đăng Dung cắt đất dâng cho giặc là một việc làm có thật, không phải nộp "vờ", dựa vào Minh sử để biện minh cho hành động bán nước của nhà Mạc là đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Hơn nữa, không dễ gì gạt được những kẻ mà lòng "tham đất" đã ăn sâu vào huyết quản, truyền từ đời này sang đời kia. Lê Thánh Tôn, một vị vua anh minh của Đại Việt (1460-1497) đã từng có câu mệnh lệnh nổi tiếng : " Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ ?...kẻ nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di".
Sự thật, gọi việc dâng đất cho giặc của Mạc Đăng Dung là "tránh chiến tranh bảo vệ chủ quyền" là một lối nói xảo ngôn, ngụy ngữ, là lập luận hết sức nguy hiểm của những kẻ có tinh thần chủ bại, chưa đánh đã hàng , khiếp hãi nước lớn, cam tâm làm nô lệ cho giặc, tay sai cho ngoại bang ; đi ngược lại truyền thống bốn ngàn năm giữ nước và dựng nước của ông cha. Sách lược ấy, tư tưởng ấy chỉ khuyến khích lớp hậu sinh trở nên hèn yếu , nhu nhược; chấp nhận cho kẻ thù lấn cướp mà không dám lên án và bảo vệ chủ quyền đất nước. Đó chính là lời ngụy biện của Trần Ích Tắc, kẻ đã đầu hàng và nhận tước An nam quốc vương của giặc Nguyên: "để tránh cảnh can qua, núi xương sông máu cho dân tộc". Đó cũng là chủ trương của Lê Chiêu Thống khi rước voi về dày mả tổ. Nếu tư tưởng chủ bại, hèn nhát này quán xuyến suốt chiều dài lịch sử thì làm sao dân Việt ta có được những vị anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ hay gương trung trinh lẫm liệt của Nguyễn Biểu, Trần Bình Trọng...
SỰ THẬT ĐẰNG SAU VIỆC LẬT LẠI LỊCH SỬ :
Hành động đầu hàng nhục nhã của Mạc Đăng Dung là một vết nhơ trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử xếp Mạc Đăng Dung vào hàng nghịch thần, hoặc Phan Huy Chú trong Lịch triều Hiến chương loại chí xem nhà Mạc như một dị biệt. Phan Bội Châu trong Việt Nam Quốc sử khảo cũng lên án Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, lấy đất đai, nhân dân dâng lên nhà Minh là tội đáng chém. Quyển " Khâm định Việt sử thông giám cương mục" của Quốc sử quán triều Nguyễn cũng liệt nhà Mạc vào hạng triều đại tiếm nghịch, thí vua tiếm ngôi, không được kể là chính thống , nên gọi là ngụy triều, chức quan gọi là ngụy quan hoặc ngụy chức.
Nặng lời phê phán nhất là sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử lược : " ... Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ. Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục ? Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp dựng lên bởi sự gian ác hèn hạ như thế, thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê mới trung hưng lên được".
Sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Ủy ban Khoa học-Xã hội Hà Nội xuất bản năm 1971, tái bản năm 1976 đã ghi như sau : "... Họ Mạc còn dựa vào thế lực của ngoại bang, đầu hàng , thỏa hiệp với nhà Minh để hòng đổi lấy sự " ủng hộ" của nước ngoài. Độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và thanh danh của đất nước, đó là những điều thiêng liêng đối với người Việt Nam từ ngàn xưa, nay bị xúc phạm vì sự bất lực và hèn nhát của tập đoàn thống trị họ Mạc."
Như vậy, cho tới hậu bán thế kỷ 20, giới Sử gia hai miền Nam Bắc dù khác quan điểm chính trị nhưng vẫn cùng chung một nhận xét đánh giá về Mạc Đăng Dung, xác định đó là nhân vật lịch sử đã nộp nước đầu hàng vì khiếp sợ thế lực phương Bắc, kẻ đã đem dâng đất đai cho giặc để củng cố ngai vàng, kẻ đã cố chịu nhục để giữ cho được ngai vàng họ Mạc bằng bất cứ giá nào chứ không phải hy sinh chịu nhục vì nước vì dân gì cả. Sách giáo khoa lịch sử hai miền Nam Bắc đều thống nhất Mạc Đăng Dung là kẻ giết vua cướp ngôi gây ra họa nội chiến nồi da xáo thịt làm suy yếu sức mạnh Đại Việt, tội nặng nhất là cắt đất dâng giặc đến nay vẫn chưa đòi lại được (trong lúc ấy các chúa Nguyễn đã mở cõi đến Phú Yên). Nếu gọi sử là tấm gương sáng soi rọi hành vi tiền nhân, người viết sử phải giữ lòng trung trinh khách quan để hậu thế nhìn vào đó mà noi theo hoặc xa lánh thì những ghi chép về trường hợp Mạc Đăng Dung nói riêng và dòng họ Mạc nói chung, toàn bộ các nhà viết sử Đại Việt -Việt Nam hơn 500 năm qua đều không có dị biệt.
Tuy nhiên đến những năm cuối của thế kỷ 20 (chính xác là sau mật nghị Thành Đô 1990), bắt đầu xuất hiện những nổ lực nhằm "minh oan" cho Mạc Đăng Dung và chế độ nhà Mạc của các sử gia Việt Nam và Hội Sử học Hải Phòng , qua việc liên kết tổ chức các cuộc "hội thảo khoa học về vương triều Mạc ". Nếu việc "trăn trở" của các thế hệ con cháu nhà Mạc còn có thể hiểu được (cùng với việc trùng tu những di tích nhà Mạc thời gian gần đây) thì quan điểm của các quan Thái sử thời nay là hết sức nguy hiểm vì nó cổ võ cho tư tưởng thần phục nước lớn, chấp nhận những nhượng bộ thiệt hại về đất đai, chủ quyền dưới chiêu bài " giữ vững ổn định, tránh chiến tranh", thực chất là hy sinh quyền lợi dân tộc để bảo toàn lợi ích phe đảng.
Ngày nay, công cuộc bảo vệ chủ quyền quê hương biển đảo Việt Nam đang bị uy hiếp trầm trọng vì tham vọng bá quyền của Trung Quốc, muốn nuốt trọn Biển Đông trong đường lưỡi bò 9 khúc, hàng ngày trên báo chí đầy dẫy những tin "tức" về những vụ tàu cá của ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc đâm chìm, ngư cụ bị trấn lột, thiết bị bị đập phá; đồng thời Trung Quốc quân sự hóa các đảo chìm trong quần đảo Trường Sa chuẩn bị hướng tới việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên vùng trời Biển Đông. Khác với phản ứng quyết liệt của Philippine , Việt Nam giữ thái độ hòa hoãn, thậm chí "hợp tác" với nước đàn anh XHCN trong việc giải quyết tranh chấp lãnh hải song phương và đa phương. Các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc đều bị cấm đoán nghiêm ngặt.
Đến đây thì có lẽ bạn đọc đã biết tại sao Hà Nội lại đặt tên đường cho Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh rồi !
Xem tiếp...