- Gần một phần tư thế kỷ làm thư ký, ông
Vũ Kỳ không chỉ là "chú tiểu đồng" của Bác Hồ mà còn tâm huyết dành trọn cuộc đời
còn lại gìn giữ và phát huy di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ông Vũ Kỳ, tên khai sinh là Vũ Long Chuẩn, sinh
năm 1921 ở Hương Canh, Vĩnh Phú, nguyên quán ở xã Mễ Sơn, nay là xã Nguyễn Trãi,
huyện Thường tín, Hà Tây. Ngày 28/8/1945 là ngày đưa
ông sang bước ngoặt cuộc đời khi được ông Trần Đăng Ninh dẫn đến ngôi nhà 48
Hàng Ngang - Hà Nội để nhận nhiệm vụ giúp việc cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, và từ
đó trở thành thư ký thân cận cho đến khi Bác qua đời.
Một phần tư thế kỷ làm người giúp việc kiên trung, tận
tụy, ông được Bác Hồ trìu mến gọi là "chú tiểu đồng". Song một mảng sáng, một
dấu ấn Vũ Kỳ đậm nét được nhắc đến nhiều sau này, đó là sự nghiệp gìn giữ và phát
huy giá trị di sản Hồ Chí Minh.
Từ chối chức vụ
Ông Chu Đức Tính, giám đốc
Bảo tàng Hồ Chí Minh
kể: Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Trung ương có gợi ý bố trí công tác
cho ông Vũ Kỳ một chức vụ tương xứng trong Chính phủ, nhưng ông đã báo cáo với
Trung ương, tình nguyện được tiếp tục công việc gìn giữ các di sản của Bác Hồ để
lại. Những trang tiếp theo của cuộc đời ông gắn liền với quá trình xây dựng Lăng
Bác, sự hình thành, ra đời và phát triển của Bảo tàng Hồ Chí Minh, của hệ thống
di tích lưu niệm và các bảo tàng Hồ Chí Minh chi nhánh trong cả nước, từ Pác Bó
đến các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và một số di tích của Người trên thế giới.
Đặc biệt, công trình Bảo tàng Hồ Chí Minh, nơi
lưu giữ và trưng bày tài liệu, hiện vật có liên quan đến Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trung tâm nghiên cứu, giáo dục về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của
Người là thành quả của cả một chặng đường dài 20 năm chuẩn bị gian nan, đầy khó
khăn và thiếu thốn. Và ông Vũ Kỳ đã dành trọn công sức nửa sau cuộc đời của mình
để chăm lo cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy di sản tư tưởng, văn hóa, đạo đức Hồ
Chí Minh.
Đại tá Trần Văn Thùy, nguyên giám đốc Bảo tàng
công an nhân dân gọi Vũ Kỳ là "anh". Ông kể câu chuyện về vị thủ trưởng thường
xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ.
"Hơn ai hết, anh Vũ Kỳ thấm thía lời dạy của Bác
Hồ: Cán bộ quyết định hết thảy".
Đại tá Thùy kể ông từng chứng kiến ông Vũ Kỳ
trăn trở ra sao, lo lắng như thế nào khi thực trạng đội ngũ cán bộ của cơ quan
trong nửa đầu những năm 70 thế kỷ trước. Và ông đã làm cuộc lựa chọn cán bộ và
đào tạo cán bộ. Không chỉ đào tạo trong nước về lịch sử, chuyên ngành bảo tàng,
ngoại ngữ, ông còn cho gửi cán bộ ra nước ngoài học hỏi, trao đổi kinh nghiệm để
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
Bà Vũ Thị Thủy, một cán bộ bảo tàng gọi ông là
"giám đốc đặc biệt nhất". Nhớ lại chuyện cũ, bà kể:
Ngày cắt băng khánh
thành Bảo tàng Hồ Chí Minh, 19/5/1990, cũng là ngày ông xin nghỉ
cương vị giám đốc. Sau một ngày vất vả đón tiếp đồng bào trong nước và bạn bè
quốc tế đến dự lễ khánh thành bảo tàng, ông nói với những cán bộ trẻ:
Nguyện
ước của ông đã hoàn thành. Ông trao quyền giám đốc cho một người khác, rồi trở
về Khu di tích, nơi hình bóng Bác Hồ in dấu trong suốt mấy chục năm ông được ở
bên Người. Ông lại tiếp tục công việc của mình, nghiên cứu, biên tập, ghi chép
những tài liệu, những mẩu chuyện về Bác Hồ...
Kho tư liệu sống
Cho đến ngày ông qua đời, đã có hàng ngàn trang
viết về Bác Hồ, gần một chục cuốn sách, hàng trăm bài đăng trên các báo và tạp
chí, rất nhiều cuộc nói chuyện với các tầng lớp nhân dân, với bạn bè quốc tế yêu
mến Bác Hồ.
Bà Nguyễn Thị Minh Hương, cán bộ bảo tàng cũng kể:
"Một điều làm ông trăn trở là không ít thông tin về Bác viết trên sách
báo những năm đó không được chính xác, có khi sai lệch, lúc lại thần thánh hóa
Bác Hồ, người đọc sẽ học tập theo Bác ra sao đây?
Ông suy nghĩ phải làm sao
để các thế hệ sau này khi tiếp xúc với các sách, báo, tài liệu viết về Bác được
tiếp nhận nhận thông tin chính xác, hiểu đúng về Bác để học tập và làm theo tấm
gương của Người".
Ông quan niệm, việc gì dù nhỏ, có ích cố gắng
làm. Ông căn dặn cán bộ bảo tàng, nơi có thế mạnh là lưu trữ nhiều tài liệu tin
cậy về Bác Hồ, phải giúp các nơi khi họ viết về Bác. Ông yêu cầu thư viện cơ
quan phải bổ sung tất cả những sách báo viết về Bác và liên quan đến Bác. Riêng
ông có cả một tập nhật ký nhiều cuốn ghi chép lại chi tiết những ngày đi theo
Bác Hồ. Từng bước, ông mời các nhà xuất bản đến làm việc. Được gặp và làm việc
với ông - người thư ký riêng của Bác Hồ, mọi người rất phấn khởi và cho đó là
hướng đi đúng. Sau này cứ có sách viết về Bác là các nơi đều đưa đến "nhờ chỗ
anh Vũ Kỳ thẩm định giúp". Sau này ông chuyển công việc đó, hướng dẫn cho các
cán bộ bảo tàng làm.
"Sau một thời gian xem cách chúng tôi làm, ông
cùng chúng tôi rút kinh nghiệm. Lúc ấy ông chỉ ra một nguyên tắc: Khi đọc
sách viết về Bác, trước các sự kiện cần đặt ra câu hỏi sự kiện đó có đúng không?
Có logic không? Có tác dụng giáo dục không?".
Trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến 1988, ông
Vũ Kỳ đã giúp nhiều nhà xuất bản: Sự thật, Thanh niên,
Phụ nữ, Lao động, Kim Đồng..., các tác giả kịch, phim và các địa phương xuất bản
sách về Bác Hồ, chỉnh sửa, bổ sung nhiều tài liệu quý về Bác làm cơ sở nghiên
cứu cho đông đảo bạn đọc.
Ở tuổi "nhân sinh thất thập cổ lai hi", ông tiếp
nhận sự ra đi của mình một cách nhẹ nhàng và chủ động. Ông Chu Đức Tính kể, mùa
xuân năm 2001, khi bước vào tuổi 80, ông Vũ Kỳ nói vui với mọi người đến chúc
Tết: "Đêm qua tôi lại nằm mơ thấy Bác Hồ, Bác bảo tôi liệu mà thu xếp về với
Bác...". Rồi ông nhắc cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh tranh thủ hỏi, tranh thủ khai
thác tài liệu. Khi bị bệnh nặng, phải nằm điều trị dài ngày ở bệnh viện Hữu
nghị, mỗi khi có cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh tới thăm, ông không quan tâm đến
bệnh tật của mình, mà chỉ hỏi về công việc cơ quan. "Ra đi ở tuổi 84, ông vẫn
đau đáu một nỗi niềm": Còn nhiều điều chưa kịp viết hết, chưa kịp kể hết những
câu chuyện về Bác Hồ kính yêu".
Linh Thư
Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015
CHUYỆN VỤ ÁN 23
(ĐC sưu tần trên NET)
Xem tiếp...
“Thiên đường tình ái” chôn vùi tội ác người tình của vợ bé Nguyễn Văn Thiệu
(Đời sống) - Dù thời gian đã quá xa rồi, nhưng nhắc đến vụ án Mười Giộc thì gần như ai cũng biết. Điều đó cho thấy sự ảnh hưởng và tác động của vụ án trong đời sống xã hội lúc bấy giờ là rất lớn.
(Phunutoday) - Trở lại với bối cảnh miền Nam những năm đầu giải phóng, tình hình chính trị, an ninh xã hội
vô cùng phức tạp. Nền kinh tế sau chiến tranh rơi vào hoàn cảnh khó
khăn, lạc hậu và sa sút mọi mặt khi vừa phải đương đầu với thù trong,
giặc ngoài. Tàn dư chế độ cũ để lại quá nhiều thứ cần phải giải quyết,
vết thương chiến tranh chưa lành lại tứa máu vì chiến tranh biên giới
phía Bắc, Tây Nam.
Làn sóng Hoa kiều hồi hương, làn sóng vượt biên rầm rộ khiến cho tình hình an ninh, trật tự xã hội thêm căng thẳng. Trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, mọi người còn nhớ như in hình ảnh người nghệ sĩ tài sắc cải lương Thanh Nga và gia đình bị ám sát ngã gục trên sân khấu với hai vai diễn rất thành công về Trưng Trắc (Tiếng trống Mê Linh) và Dương Vân Nga (trong vở Thái Hậu Dương Vân Nga).
Dọc theo bờ biển duyên hải miền Trung, miền Nam, từ Qui Nhơn, Đại Lãnh, Nha Trang, Mũi Né (Phan Thiết), Long Hải (Bà Rịa - Vũng Tàu), Cần Giờ (TPHCM), Tân Thành (Gò Công - Tiền Giang), Bình Đại, Thạnh Phú (Bến Tre), Ba Động, Duyên Hải (Trà Vinh), Vĩnh Châu (Sóc Trăng), Nhà Mát (Bạc Liêu), Năm Căn (Cà Mau) đến Rạch Giá, Hà Tiên (Kiên Giang) lúc nào cũng có sẵn người chực chờ trên các tàu đánh cá, lén lút ra khơi trong đêm, bỏ gia đình, quê hương và tổ quốc ra đi, để vượt biên sang Thái Lan, Philippines, Singapore, Malaysia… tìm kiếm thiên đường trên đất Mỹ và tạo sự sống ích kỷ cho riêng mình theo lời xúi giục của bọn phản động và các thế lực thù địch.
Trong bối cảnh đất nước phức tạp, nhiều khó khăn như thế, ngay sau ngày hoà bình, độc lập thống nhất Tổ quốc, đã có một vài cán bộ biến chất, tha hóa dẫn đến phản bội Tổ quốc, phản bội cách mạng, phản bội nhân dân. Trường hợp như Nguyễn Hữu Giộc (còn có tên gọi khác là Mười Vân, Mười Giộc, Nguyễn Hoàng Vân) - nguyên là Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai là một điển hình cho tội ác này.
Đặc biệt nghiêm trọng khi chính Mười Vân trở thành tình nhân của ả gián điệp đội lốt hồ ly tinh có tên Cyrnos Kim Anh - là vợ bé của Tổng thống tay sai Nguyễn Văn Thiệu, cùng nhau gây ra nhiều tội ác, tổ chức đường dây vượt biên qui mô lớn, với hàng trăm, hàng ngàn chuyến đưa người vượt biên, thu lời vô số tiền bạc, đá quý và hơn nửa tấn vàng. Mười Vân đã cùng “bóng hồng dinh Độc Lập” Cyrnos Kim Anh dày công thực hiện âm mưu hãm hại nhiều cán bộ cao cấp và kết thúc bằng kế hoạch cùng nhau vượt biên sang Mỹ để sống trong “thiên đường tình ái”.
Thế nhưng, trong cuộc chơi nghiệt ngã này, nàng vợ bé của Nguyễn Văn Thiệu đã cao tay và chiến thắng, còn Mười Vân phải trả giá cho tội ác bằng chính mạng sống của mình.
Nguyễn Hữu Giộc (Mười Vân) với bản cáo trạng tội ác dày cộm không ai phát hiện
Một cán bộ ngành công an từng là cấp trên của Nguyễn Hữu Giộc là người cùng quê hương Long Định, Cần Đước, Long An, từng bị Mười Giộc vu cáo, hãm hại bất thành đã ngậm ngùi tiếc rẻ: “Nếu không nhúng tay vào tội ác tày trời, thì cậu ấy là một con người rất giỏi giang, bản lĩnh. Gia đình, dòng họ của Nguyễn Hữu Giộc không có ai là người độc ác, tàn bạo như cậu ta. Họ là những nông dân hiền lành, chất phác…”.
Nguyễn Hữu Giộc là con trai ông Nguyễn Văn Nài (Chín Nài) nhà gần sông Rạch Chanh, ấp Long Kim, xã Long Định, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Gia đình ông Chín có vài ba mẫu ruộng, quanh năm quần quật vẫn không chút dư dả. Ông Chín tậu thêm một chiếc ghe nhỏ, chở chiếu dệt tại Long Định ngược sông Vàm Cỏ Đông lên bán ở vùng Gò Dầu, Trảng Bàng, Tây Ninh những khi xong việc ruộng đồng, rồi ông mua hàng nông sản về Long Định, Cần Đước bán lại kiếm lời.
Khoảng năm 1948, Nguyễn Hữu Giộc gia nhập đơn vị Công an huyện Cần Đước, lúc bấy giờ đơn vị đóng quân tại xã Long Định. Do tình hình khó khăn, phức tạp của những năm 1948-1949, nên Công an huyện chia thành hai khu A và khu B. Ông Tr.V.T. –Trưởng Công an huyện Cần Đước phụ trách khu A, còn Nguyễn Hữu Giộc - Phó Công an huyện phụ trách khu B bao gồm cả khu vực Cần Giờ, Cần Giuộc ngày nay.
Năm 1950, Nguyễn Hữu Giộc đề xuất, xin lệnh cấp trên để phá vụ án gọi là “Đại Việt quốc dân Đảng” tại xã Lý Nhơn (Rừng Sác). Bất chấp sự thật đúng sai, Mười Giộc cho bắt giam Nguyễn Anh Trấn - người cầm đầu và mấy mươi người khác. Ông Trấn là người may mắn còn sống sót đến giờ.
Thật ra đây là nhóm cán bộ, chiến sĩ thường xuyên tụ tập ăn nhậu, bàn tán chuyện chính trị xã hội theo kiểu giang hồ Bảy Viễn. Họ không hề có tổ chức phản động chống lại chính quyền Việt Minh gì, sống ở vùng sông nước, hẻo lánh dưới sông cá sấu lúc nhúc, trên rừng cọp beo gầm thét, đời sống lục lâm thảo khấu khiến họ tựa vào nhau, liên kết bè đảng như kiểu Lương Sơn Bạc.
Trong số này có anh Nguyễn Văn Thiết - Huyện đội phó bị Mười Giộc bắt giam và bị tra tấn đến chết. Sau đó, Nguyễn Hữu Giộc lập báo cáo láo lên Huyện ủy nói anh Thiết tự tử trong trại giam và lập bản báo cáo tội trạng của “Đại Việt quốc dân Đảng” lừa bịp cấp trên.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, hoạt động bán công khai, không ai có thời gian để thẩm định, xác minh thực hư vụ việc xảy ra tại khu vực heo hút, xa xôi như Rừng Sác - Cần Giờ. Chính hoàn cảnh khó khăn chung ấy đã tạo ra kẽ hở cho những kẻ xấu lợi dụng quyền hạn tác oai, tác quái thiên hạ.
Dù ai đó biết không phải là sự thật, là oan sai nhưng đành im lặng, nếu lên tiếng sợ bị liên lụy đến tính mạng. Do vậy mà mọi việc rơi vào im lặng, nỗi căm hờn, uất ức trong những gia đình bị oan sai dâng trào đến tận trời xanh.
Cũng tại đây, trong thời gian làm Phó Công an huyện phụ trách khu B, Nguyễn Hữu Giộc đã hoành hành, bắt giết oan sai 82 người, gây tang tóc cho hàng trăm gia đình, thân nhân khác, oan sai ngập trời, tối mờ nhật nguyệt. Cho mãi đến ngày Nguyễn Hữu Giộc dựa cột tử hình đền tội, 82 gia đình oan sai mới được phục hồi danh dự và công trạng trong sự mừng vui vỡ òa và niềm tin vào công lý là có thật ở trên đời.
Chính ông Tr. V. T. – sau này làm lãnh đạo Cục Thống kê TP. HCM từ thời mới giải phóng đã mạnh dạn lên tiếng tố cáo những tội ác của Mười Giộc gây ra mà ông từng biết khi phụ trách Công an huyện Cần Đước ngày xưa với nỗi niềm hối hận vô cùng. Ông đề nghị những cán bộ thân hữu cấp trên tìm mọi cách ngăn chặn không để Mười Giộc trèo lên ghế Giám đốc Công an, sợ rằng tội ác sẽ tiếp diễn. Quả nhiên điều ông T. lo đã thành sự thật…
Một buổi sáng tháng 6/2011, chúng tôi vào Bệnh viện Thống Nhất – TP. HCM thăm ông Nguyễn Văn Nam (tức Sáu Nam, Sáu Méo) đã ngoài 80 tuổi đang nằm trị bệnh đau xương khớp. Câu chuyện về Mười Giộc làm mưa làm gió một thời ở Cần Đước đã khiến ông như tỉnh táo trở lại và nóng hổi như mới hôm nào lần lượt hiện về. Chính ông cũng là một nạn nhân bị Mười Giộc gọi về trình diện vì tình nghi liên quan đến Đại Việt Quốc dân Đảng ngày đó. Ông cười móm mém: “Nếu hồi đó tui về, chắc bây giờ xanh cỏ, không còn ở đây rồi”.
Ông nhận lệnh triệu hồi, nhưng cương quyết chống đối không về trình diện vì biết mình không có tội tình gì cả. Hơn nữa, ông biết kẻ xấu đang rắp tâm hãm hại người tốt. Ông từng nghĩ, thà chết tại ngay mảnh đất vườn nhà, chứ không chết dưới bàn tay những kẻ xấu, hãm hại đồng đội…
Ông nhớ khá rõ chuyện anh Thiết - Huyện đội phó chết trong tư thế ngồi lưng dựa vào vách, không giống một người thắt cổ tự tử như báo cáo của Nguyễn Hữu Giộc lên cấp trên. Ông Sáu Nam là một trong những tù nhân nổi dậy phá nhà lao Tân Hiệp – Biên Hòa năm xưa.
Từng là Bí thư Huyện ủy Cần Đước những năm đầu giải phóng, ông và bà nhà (Chánh án Tòa án huyện) được Tòa án mời, yêu cầu tường thuật lại vụ việc năm 1950 với tư cách là nhân chứng sống để Tòa án có thêm đầy đủ chứng cứ tội ác trừng trị Mười Giộc thích đáng, tâm phục khẩu phục. Nhưng lúc ấy, chẳng biết nghĩ sao, ông quên ghi ra giấy, mà lên gặp trực tiếp để trình bày trung thực nhất những gì mình thấy, mình biết, mình nghe.
Tánh cương trực của ông đến giờ vẫn còn nguyên như vậy. Cả khi ông quan niệm một cách dè dặt rằng sai lầm lúc ấy là sai lầm của tập thể chứ không thuộc về cá nhân một ai. Cách nghĩ của ông Sáu không sai, nhưng bản chất và bộ mặt thật của Mười Giộc sau này, ông không có điều kiện tỏ tường.
Giờ nhắc lại chuyện cũ, ông và hàng trăm gia đình ở Cần Đước, Cần Giờ vẫn còn nhớ như in công trạng người cách mạng kiên trung đồng hương với ông, từng là Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Huỳnh Việt Thắng (Tư Thắng, Mười Qùy) - một cán bộ từng là lãnh đạo Ty Công an ngày trước đã đem lại công lý, công bằng trả lại cho 82 gia đình có người thân bị oan sai năm xưa.
Năm 1954, Nguyễn Hữu Giộc tập kết ra miền Bắc, có thời gian làm Phó phòng CS trị an Ty Công an tỉnh Hòa Bình. Có chuyện kể lại rằng: Trong một đêm đi săn thú rừng, Mười Giộc đã bắn chết một đồng chí cán bộ cùng cơ quan. Câu chuyện này tuy chưa được xác minh đầy đủ, nhưng được nhiều người biết chuyện kể lại rất giống nhau.
Điều bất ngờ là sau đó, người vợ tay ấp má kề chung chăn gối của đồng chí ấy, đã làm đơn “bãi nại” cho là Mười Giộc, xác nhận là “bắn nhầm” chứ không phải cố ý “ngộ sát” giúp Mười Giộc thoát khỏi án tù tội. Cho mãi đến sau này nhiều người phát hiện ra, cô vợ nhà kia từng là nhân tình của Mười Giộc, thì không ai lạ gì mưu gian kế độc tự xưa đến nay “giết chồng đoạt vợ”. Nhưng đã quá muộn màng, không đủ chứng cớ truy tội.
Nhưng sự việc bị cuốn theo lịch sử bởi lúc ấy cả miền Bắc đang tập trung sức lực đánh trả các cuộc đánh phá bằng không quân của Mỹ. Miền Nam đang dậy lên phong trào Đồng khởi đấu tranh bằng vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị. Miền Bắc thắng lợi vang dội công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội sau Đại hội Đảng toàn quốc mùa xuân 1961, làm hậu phương vững chắc cho miền Nam đánh Mỹ. Cả nước đang tất cả vì miền Nam.
Vào thời chiến tranh, tất cả tập trung cho tiền tuyến đánh Mỹ, tất cả vì miền Nam ruột thịt, những vụ việc thật giả rất dễ lẫn lộn mơ hồ, không có điều kiện để điều tra, xác minh kỹ lưỡng như bây giờ. Có thể vì thế mà những kẻ làm nhiều điều ác như Mười Vân đã thoát tội cũng nên.
Năm 1962, Nguyễn Hữu Giộc lên đường về miền Nam chiến đấu như bao chiến sĩ, cán bộ ngày ấy, không ai biết gì đến quá khứ đầy tội lỗi của y đã gây ra. Những tội ác mà y đã gây ra tưởng chừng như đã xóa mờ đi và chôn vùi trong bom đạn chiến tranh, tưởng chừng như sẽ vĩnh viễn không bao giờ ai biết đến…
Nhưng lịch sử luôn minh bạch, công bằng. Nhân quả ở đời có quả báo nhãn tiền trùng trùng trước mặt, với những tội ác tày trời do Nguyễn Hữu Giộc gây ra, tránh sao được lưới trời lồng lộng. Không thể nào lấy mảnh vải thưa để che được mắt Thánh và cũng không thể nào trốn được tội lỗi cho dù kẻ ác có tài giỏi đến đâu.
Một con cáo tinh khôn đến mấy vẫn có lúc sơ hở để lộ cái đuôi dài ra. Con sói hoang dã dù có thành bậc tu hành cũng có lúc lạc đường cất lên tiếng hú rùng rợn, lộ nguyên bản chất hung dữ của mình nơi hoang dã.
Mười Giộc thường che đậy bản chất, vun vén thành tích để không ai nhìn ra chân tướng. Nhưng hắn không thể biết, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ từng sinh sống tại quê hương Cần Đước - Long An không ai lạ gì nghi án năm xưa khiến gia đình họ tan nát, đau thương.
Thả gián điệp Mỹ, cặp bồ với vợ bé Thiệu làm mưa làm gió bãi biển Hồ Cốc, Bình Châu
Trưa ngày 30/4/1975, giải phóng Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh và nội các đầu hàng vô điều kiện. Miền nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất Tổ quốc, tiến tới hiệp thương hai miền Nam Bắc một nhà. Ban An ninh Miền Đông cũng chấm dứt sứ mạng lịch sử, giải thể để phù hợp với tình hình mới của đất nước.
Các tỉnh Sông Bé, Thuận Hải, Đồng Nai và đặc khu Vũng Tàu - Côn đảo thành lập với sự phân công, bổ nhiệm mới nhiều cán bộ từ trong chiến khu ra để làm lãnh đạo. Chẳng biết bằng cách nào mà Nguyễn Hữu Giộc được cử làm Giám đốc Công an Đồng Nai khiến cho nhiều người bất ngờ. Có thể đã có sai lầm trong quan điểm lập trường hay thiếu cân nhắc, quyết đoán nên đã để con rắn độc nguy hiểm này leo lên ghế Giám đốc.
Khi đã có quyền hành nắm trong tay, những mưu mô thâm hiểm và độc ác của Nguyễn Hữu Giộc như sống lại. Có thể thấy điển hình qua các vụ việc tiêu biểu một thời làm chấn động trong dư luận và nhân dân miền Đông.
Dù thời gian đã quá xa rồi, nhưng nhắc đến vụ án Mười Giộc thì gần như ai cũng biết. Điều đó cho thấy sự ảnh hưởng và tác động của vụ án trong đời sống xã hội lúc bấy giờ là rất lớn. Đặc biệt đây là vụ án liên quan đến việc để xổng chuồng con hồ li tinh Kim Anh - vợ bé của Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu.
Điển hình như vụ Mười Giộc ra lệnh thả tên Nguyễn Văn Sang - cảnh sát đặc biệt miền Đông do CIA Mỹ đào tạo, huấn luyện đang bị cải tạo trong trại giam Tam Hiệp, TP. Biên Hòa, được Mười Vân đặt bí danh là H. 20, khống chế, lập hồ sơ giả ép tên Sang khai các đồng chí cán bộ kiên trung như: Năm T. (Bí thư Thành ủy Biên Hòa) và Ba L.- Bí thư Thành ủy Vũng Tàu là gián điệp Mỹ cài lại nhằm hãm hại và tìm cơ hội trừ khử hai đồng chí này. Từ bản cung tố cáo, khai man của con cờ H. 20, Mười Giộc xin cấp trên bắt giam Năm T. và Ba L. vào ngục dùng cực hình đánh dập, tra khảo và ép cung rất tàn bạo.
Tại Tòa án sau này xét xử, chính Nguyễn Văn Sang khai ra mình bị Mười Giộc đe dọa nếu không làm như thế sẽ bắt luôn vợ và 8 con bỏ tù rục xương. Nếu làm theo ý của Mười Giộc, Sang được hứa hẹn sẽ cung cấp đầy đủ tiện nghi, lo cuộc sống cho gia đình Sang mà không hề hấn chuyện gì cả.
Vừa lo sợ, vừa phải đối mặt với cái chết bất cứ lúc nào khi bản thân là CIA Mỹ và nhiều tội ác với nhân dân và cách mạng, sự trả thù “giết người diệt khẩu” dễ như trở bàn tay của Mười Giộc, tên Sang đành ngoan ngoãn nghe lời viết tố cáo tội trạng một số đồng chí cách mạng kiên trung mà Mười Giộc không ưa.
Cũng vào thời điểm này, nàng Cyrnos Kim Anh - vợ bé của Nguyễn Văn Thiệu nguyên là dân biểu Hạ Viện Việt Nam Cộng hòa và là gián điệp của CIA Mỹ đang cải tạo tại trại giam Tam Hiệp cùng với tên Sang và nhiều tay chân khác.
Là một kẻ háo sắc, tham lam, Mười Giộc không bao giờ có thể bỏ qua miếng mồi ngon béo bở này. Hơn nữa, ở độ tuổi ngoài 30, “gái một con trông mòn con mắt” dáng vóc nẩy nở, hừng hực sức sống và nữ tính, khiến cho ngay lần gặp đầu tiên, cặp mắt cú vọ của Mười Giộc đã không kiềm chế được sự quyến rũ của hồ li tinh Kim Anh.
Từng là một gián điệp lão luyện, từng là một phụ nữ quá dày kinh nghiệm chốn tình trường, đến cả Thiệu còn không thoát khỏi nanh vuốt hồ li thì hạng phàm phu, dâm đãng và háo sắc như Mười Giộc làm sao tránh khỏi. Xưa, Trụ Vương giết chú ruột moi lấy gan chữa bệnh ho gà, giết hết các trung thần, công thần dám can gián vua chỉ vì Đắc Kỷ, nên cơ đồ nhà Ân chẳng mấy chốc tan thành tro bụi, có khác gì Mười Giộc lúc bấy giờ.
Ít lâu sau những lần gặp gỡ, ân ái nồng nàn, Mười Giộc đã ký lệnh thả Kim Anh ra khỏi trại giam, trả tự do để dễ bề hẹn hò, tình tứ tránh tai mắt người đời.
Vào lúc này, Mười Giộc còn có một ả nhân tình khác tên Ng. nhà ở đường Phan Kế Bính, quận 1 nguyên là vợ của một sĩ quan chế độ cũ tử trận, khi chưa có Kim Anh thường xuyên lui tới hẹn hò, nồng nàn say đắm. Nay vì có mới, nên nới cũ lạnh nhạt dần, khiến cô nhân tình này tức lồng lộn lên như sư tử Hà Đông nhưng chẳng làm gì được.
Ra ngoài, vừa xỏ mũi được Mười Giộc, Kim Anh và đồng bọn dựa dẫm vào nhân tình Mười Vân vốn có thế lực rất mạnh, xúc tiến ngay kế hoạch lập thành một đường dây tổ chức vượt biên rất qui mô cho những thành phần bất mãn chế độ và liên quan đến chế độ Sài Gòn cũ.
Tại khu vực bờ biển Hồ Cốc, Bình Châu, Long Hải - Bà Rịa, dân vượt biên từ Sài Gòn và các nơi tìm đến ngùn ngụt mỗi ngày, tìm cách móc nối đường dây do Kim Anh làm chủ để được “mua bãi” vượt biên an toàn mà không hề có bất cứ cuộc kiểm tra, truy đuổi nào. Số vàng bạc, đá quý và đô-la thu được hàng bao tải mỗi đêm, Mười Vân và Kim Anh tha hồ hưởng thụ, trụy lạc và rắp tâm chuẩn bị cho một âm mưu lớn về sau.
Âm mưu đó là, sau khi thu hơn nửa tấn vàng, Mười Vân bố trí cho Kim Anh và tài sản bất chính kếch sù, bố trí tàu lớn lên đường vượt biên sang Mỹ trước, mua nhà cửa, sắm điền sản chờ ngày Mười Vân bỏ trốn sang đoàn tụ an hưởng đến già nơi thiên đường tình ái ở nước Mỹ.
Kẻ tham lam và quen làm điều ác thường là kẻ hàm hồ và ngớ ngẩn rối trí khi tính nước đi cho cuộc cờ tàn. Hơn nữa, người chơi cờ là một con hồ li tinh như Kim Anh. Với một ả gián điệp lão luyện, dày dạn kinh nghiệm giang hồ như Kim Anh, há có thể dễ dàng sa lụy vì tình yêu nhảm nhí như Mười Vân là điều không thể có bao giờ. Đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Kẻ cắp gặp phải bà già như lời người xưa nói vẫn muôn đời còn giá trị đúng.
Sang Mỹ quốc an toàn, Kim Anh tìm ngay cách liên hệ với Nguyễn Văn Thiệu đang sống lưu vong tại Anh, và lên kế hoạch “phản kèo” viết đơn thư, gởi hình ảnh, phim quay những cảnh ái ân mặn nồng và thu tiền vàng cho người vượt biên gởi về Việt Nam tố cáo tội ác của Mười Vân.
Mười Vân bị bắt với một kế hoạch chuẩn bị rất chu đáo, bất ngờ làm không kịp trở tay hay kháng cự nhỏ nào. Nhưng để đủ chứng cứ buộc tội y không phải là chuyện dễ dàng. Trong trại giam, bản chất ngoan cố, gian trá và lưu manh của y vẫn không chừa mà càng bộc lộ rõ hơn.
Khi khai đến bản cung cuối cùng, Mười Giộc còn bịa ra việc tên gián điệp Trần Hùng trước đây bị ta bắt lúc trong chiến khu, mỗi lần đi săn thường gặp gỡ và nghỉ tại nhà tên Nguyễn Văn Sang.
Tên gián điệp Trần Hùng tiết lộ cho Sang biết, ngoài nhiệm vụ giả vờ đi săn để dò la căn cứ Trung ương Cục Miền Nam và Khu ủy Miền Đông làm chỉ điểm cho máy bay Mỹ ném bom, Hùng còn có nhiệm vụ liên lạc với “người của CIA” là các đồng chí Năm T., Ba L., Tư T., … tiếp tục tố cáo láo để hãm hại các đồng chí cách mạng kiên trung, lão thành của Ban An ninh miền Đông lúc bấy giờ.
Nhưng điều mà Mười Giộc không thể ngờ là việc tên Sang (H. 20) của y dựng lên không kịp vượt biên sang Mỹ mà đã sa vào lưới của an ninh cách mạng.
Năm 1983, phiên tòa đặc biệt sơ chung thẩm xét xử Nguyễn Hữu Giộc và đồng bọn đã diễn ra ba ngày tại hội trường lớn tỉnh Đồng Nai do Thẩm phán Phạm Như Phấn – Phó Chánh án Tòa phúc thẩm TAND tối cao làm chủ tọa. Hàng vạn đồng bào từ Long An, Vũng Tàu, TP. HCM kéo về dự khán hồi hộp chờ đợi phán quyết của công lý trừng trị tội ác mà Nguyễn Hữu Giộc đã gây ra từ năm 1950 đến giờ.
Trước vành móng ngựa, Mười Giộc rất ngoan cố, không ăn năn hối cải, đến khi Tòa cho gọi nhân chứng Nguyễn Văn Sang (H. 20) ra, khi ấy khuôn mặt kẻ tàn ác như Mười Giộc không còn hột máu, cúi đầu nhận tội.
Công lý đã thực thi, Nguyễn Hữu Giộc và tên Thanh đồng bọn bị tuyên án tử hình. Biết không thể còn ân huệ nào dành cho tội ác đã gây ra, Mười Giộc không kháng án. Sáu phát súng thi hành án tử hình và viên đạn ân huệ từ tay người chỉ huy thi hành án vang lên từ pháp trường, kết thúc cuộc đời và sự sống của một kẻ gian ác, tội tày trời đã gây ra trong niềm vui mừng khôn xiết cho hơn 82 gia đình bị oan sai ở Cần Đước, Cần Giờ và trả lại sự trong sạch, kiên trung của nhiều cán bộ cao cấp mà Mười Giộc hãm hại, vu cáo.
Công lý đã được thực thi, oan sai đã sáng tỏ khi trời hừng đông, buổi bình minh đẹp đẽ đầu tiên của bao nhiêu gia đình từng bị Mười Giộc hãm hại. Một ngày mới bắt đầu. Một đêm đen phủ xuống đâu đó trên nước Mỹ nơi người đàn bà Kim Anh Cyrnos đang hưởng thụ cuộc sống xa hoa cùng người chồng cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho đến lúc cuối đời.
Nam Yên
[links()]
Làn sóng Hoa kiều hồi hương, làn sóng vượt biên rầm rộ khiến cho tình hình an ninh, trật tự xã hội thêm căng thẳng. Trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, mọi người còn nhớ như in hình ảnh người nghệ sĩ tài sắc cải lương Thanh Nga và gia đình bị ám sát ngã gục trên sân khấu với hai vai diễn rất thành công về Trưng Trắc (Tiếng trống Mê Linh) và Dương Vân Nga (trong vở Thái Hậu Dương Vân Nga).
Dọc theo bờ biển duyên hải miền Trung, miền Nam, từ Qui Nhơn, Đại Lãnh, Nha Trang, Mũi Né (Phan Thiết), Long Hải (Bà Rịa - Vũng Tàu), Cần Giờ (TPHCM), Tân Thành (Gò Công - Tiền Giang), Bình Đại, Thạnh Phú (Bến Tre), Ba Động, Duyên Hải (Trà Vinh), Vĩnh Châu (Sóc Trăng), Nhà Mát (Bạc Liêu), Năm Căn (Cà Mau) đến Rạch Giá, Hà Tiên (Kiên Giang) lúc nào cũng có sẵn người chực chờ trên các tàu đánh cá, lén lút ra khơi trong đêm, bỏ gia đình, quê hương và tổ quốc ra đi, để vượt biên sang Thái Lan, Philippines, Singapore, Malaysia… tìm kiếm thiên đường trên đất Mỹ và tạo sự sống ích kỷ cho riêng mình theo lời xúi giục của bọn phản động và các thế lực thù địch.
Trong bối cảnh đất nước phức tạp, nhiều khó khăn như thế, ngay sau ngày hoà bình, độc lập thống nhất Tổ quốc, đã có một vài cán bộ biến chất, tha hóa dẫn đến phản bội Tổ quốc, phản bội cách mạng, phản bội nhân dân. Trường hợp như Nguyễn Hữu Giộc (còn có tên gọi khác là Mười Vân, Mười Giộc, Nguyễn Hoàng Vân) - nguyên là Giám đốc Công an tỉnh Đồng Nai là một điển hình cho tội ác này.
Đặc biệt nghiêm trọng khi chính Mười Vân trở thành tình nhân của ả gián điệp đội lốt hồ ly tinh có tên Cyrnos Kim Anh - là vợ bé của Tổng thống tay sai Nguyễn Văn Thiệu, cùng nhau gây ra nhiều tội ác, tổ chức đường dây vượt biên qui mô lớn, với hàng trăm, hàng ngàn chuyến đưa người vượt biên, thu lời vô số tiền bạc, đá quý và hơn nửa tấn vàng. Mười Vân đã cùng “bóng hồng dinh Độc Lập” Cyrnos Kim Anh dày công thực hiện âm mưu hãm hại nhiều cán bộ cao cấp và kết thúc bằng kế hoạch cùng nhau vượt biên sang Mỹ để sống trong “thiên đường tình ái”.
Thế nhưng, trong cuộc chơi nghiệt ngã này, nàng vợ bé của Nguyễn Văn Thiệu đã cao tay và chiến thắng, còn Mười Vân phải trả giá cho tội ác bằng chính mạng sống của mình.
Nguyễn Hữu Giộc (Mười Vân) với bản cáo trạng tội ác dày cộm không ai phát hiện
Một cán bộ ngành công an từng là cấp trên của Nguyễn Hữu Giộc là người cùng quê hương Long Định, Cần Đước, Long An, từng bị Mười Giộc vu cáo, hãm hại bất thành đã ngậm ngùi tiếc rẻ: “Nếu không nhúng tay vào tội ác tày trời, thì cậu ấy là một con người rất giỏi giang, bản lĩnh. Gia đình, dòng họ của Nguyễn Hữu Giộc không có ai là người độc ác, tàn bạo như cậu ta. Họ là những nông dân hiền lành, chất phác…”.
Nguyễn Hữu Giộc là con trai ông Nguyễn Văn Nài (Chín Nài) nhà gần sông Rạch Chanh, ấp Long Kim, xã Long Định, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Gia đình ông Chín có vài ba mẫu ruộng, quanh năm quần quật vẫn không chút dư dả. Ông Chín tậu thêm một chiếc ghe nhỏ, chở chiếu dệt tại Long Định ngược sông Vàm Cỏ Đông lên bán ở vùng Gò Dầu, Trảng Bàng, Tây Ninh những khi xong việc ruộng đồng, rồi ông mua hàng nông sản về Long Định, Cần Đước bán lại kiếm lời.
Khoảng năm 1948, Nguyễn Hữu Giộc gia nhập đơn vị Công an huyện Cần Đước, lúc bấy giờ đơn vị đóng quân tại xã Long Định. Do tình hình khó khăn, phức tạp của những năm 1948-1949, nên Công an huyện chia thành hai khu A và khu B. Ông Tr.V.T. –Trưởng Công an huyện Cần Đước phụ trách khu A, còn Nguyễn Hữu Giộc - Phó Công an huyện phụ trách khu B bao gồm cả khu vực Cần Giờ, Cần Giuộc ngày nay.
Năm 1950, Nguyễn Hữu Giộc đề xuất, xin lệnh cấp trên để phá vụ án gọi là “Đại Việt quốc dân Đảng” tại xã Lý Nhơn (Rừng Sác). Bất chấp sự thật đúng sai, Mười Giộc cho bắt giam Nguyễn Anh Trấn - người cầm đầu và mấy mươi người khác. Ông Trấn là người may mắn còn sống sót đến giờ.
Thật ra đây là nhóm cán bộ, chiến sĩ thường xuyên tụ tập ăn nhậu, bàn tán chuyện chính trị xã hội theo kiểu giang hồ Bảy Viễn. Họ không hề có tổ chức phản động chống lại chính quyền Việt Minh gì, sống ở vùng sông nước, hẻo lánh dưới sông cá sấu lúc nhúc, trên rừng cọp beo gầm thét, đời sống lục lâm thảo khấu khiến họ tựa vào nhau, liên kết bè đảng như kiểu Lương Sơn Bạc.
Trong số này có anh Nguyễn Văn Thiết - Huyện đội phó bị Mười Giộc bắt giam và bị tra tấn đến chết. Sau đó, Nguyễn Hữu Giộc lập báo cáo láo lên Huyện ủy nói anh Thiết tự tử trong trại giam và lập bản báo cáo tội trạng của “Đại Việt quốc dân Đảng” lừa bịp cấp trên.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, hoạt động bán công khai, không ai có thời gian để thẩm định, xác minh thực hư vụ việc xảy ra tại khu vực heo hút, xa xôi như Rừng Sác - Cần Giờ. Chính hoàn cảnh khó khăn chung ấy đã tạo ra kẽ hở cho những kẻ xấu lợi dụng quyền hạn tác oai, tác quái thiên hạ.
Dù ai đó biết không phải là sự thật, là oan sai nhưng đành im lặng, nếu lên tiếng sợ bị liên lụy đến tính mạng. Do vậy mà mọi việc rơi vào im lặng, nỗi căm hờn, uất ức trong những gia đình bị oan sai dâng trào đến tận trời xanh.
Cũng tại đây, trong thời gian làm Phó Công an huyện phụ trách khu B, Nguyễn Hữu Giộc đã hoành hành, bắt giết oan sai 82 người, gây tang tóc cho hàng trăm gia đình, thân nhân khác, oan sai ngập trời, tối mờ nhật nguyệt. Cho mãi đến ngày Nguyễn Hữu Giộc dựa cột tử hình đền tội, 82 gia đình oan sai mới được phục hồi danh dự và công trạng trong sự mừng vui vỡ òa và niềm tin vào công lý là có thật ở trên đời.
Chính ông Tr. V. T. – sau này làm lãnh đạo Cục Thống kê TP. HCM từ thời mới giải phóng đã mạnh dạn lên tiếng tố cáo những tội ác của Mười Giộc gây ra mà ông từng biết khi phụ trách Công an huyện Cần Đước ngày xưa với nỗi niềm hối hận vô cùng. Ông đề nghị những cán bộ thân hữu cấp trên tìm mọi cách ngăn chặn không để Mười Giộc trèo lên ghế Giám đốc Công an, sợ rằng tội ác sẽ tiếp diễn. Quả nhiên điều ông T. lo đã thành sự thật…
Một buổi sáng tháng 6/2011, chúng tôi vào Bệnh viện Thống Nhất – TP. HCM thăm ông Nguyễn Văn Nam (tức Sáu Nam, Sáu Méo) đã ngoài 80 tuổi đang nằm trị bệnh đau xương khớp. Câu chuyện về Mười Giộc làm mưa làm gió một thời ở Cần Đước đã khiến ông như tỉnh táo trở lại và nóng hổi như mới hôm nào lần lượt hiện về. Chính ông cũng là một nạn nhân bị Mười Giộc gọi về trình diện vì tình nghi liên quan đến Đại Việt Quốc dân Đảng ngày đó. Ông cười móm mém: “Nếu hồi đó tui về, chắc bây giờ xanh cỏ, không còn ở đây rồi”.
Ông nhận lệnh triệu hồi, nhưng cương quyết chống đối không về trình diện vì biết mình không có tội tình gì cả. Hơn nữa, ông biết kẻ xấu đang rắp tâm hãm hại người tốt. Ông từng nghĩ, thà chết tại ngay mảnh đất vườn nhà, chứ không chết dưới bàn tay những kẻ xấu, hãm hại đồng đội…
Ông nhớ khá rõ chuyện anh Thiết - Huyện đội phó chết trong tư thế ngồi lưng dựa vào vách, không giống một người thắt cổ tự tử như báo cáo của Nguyễn Hữu Giộc lên cấp trên. Ông Sáu Nam là một trong những tù nhân nổi dậy phá nhà lao Tân Hiệp – Biên Hòa năm xưa.
Từng là Bí thư Huyện ủy Cần Đước những năm đầu giải phóng, ông và bà nhà (Chánh án Tòa án huyện) được Tòa án mời, yêu cầu tường thuật lại vụ việc năm 1950 với tư cách là nhân chứng sống để Tòa án có thêm đầy đủ chứng cứ tội ác trừng trị Mười Giộc thích đáng, tâm phục khẩu phục. Nhưng lúc ấy, chẳng biết nghĩ sao, ông quên ghi ra giấy, mà lên gặp trực tiếp để trình bày trung thực nhất những gì mình thấy, mình biết, mình nghe.
Tánh cương trực của ông đến giờ vẫn còn nguyên như vậy. Cả khi ông quan niệm một cách dè dặt rằng sai lầm lúc ấy là sai lầm của tập thể chứ không thuộc về cá nhân một ai. Cách nghĩ của ông Sáu không sai, nhưng bản chất và bộ mặt thật của Mười Giộc sau này, ông không có điều kiện tỏ tường.
Giờ nhắc lại chuyện cũ, ông và hàng trăm gia đình ở Cần Đước, Cần Giờ vẫn còn nhớ như in công trạng người cách mạng kiên trung đồng hương với ông, từng là Phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao Huỳnh Việt Thắng (Tư Thắng, Mười Qùy) - một cán bộ từng là lãnh đạo Ty Công an ngày trước đã đem lại công lý, công bằng trả lại cho 82 gia đình có người thân bị oan sai năm xưa.
Năm 1954, Nguyễn Hữu Giộc tập kết ra miền Bắc, có thời gian làm Phó phòng CS trị an Ty Công an tỉnh Hòa Bình. Có chuyện kể lại rằng: Trong một đêm đi săn thú rừng, Mười Giộc đã bắn chết một đồng chí cán bộ cùng cơ quan. Câu chuyện này tuy chưa được xác minh đầy đủ, nhưng được nhiều người biết chuyện kể lại rất giống nhau.
Điều bất ngờ là sau đó, người vợ tay ấp má kề chung chăn gối của đồng chí ấy, đã làm đơn “bãi nại” cho là Mười Giộc, xác nhận là “bắn nhầm” chứ không phải cố ý “ngộ sát” giúp Mười Giộc thoát khỏi án tù tội. Cho mãi đến sau này nhiều người phát hiện ra, cô vợ nhà kia từng là nhân tình của Mười Giộc, thì không ai lạ gì mưu gian kế độc tự xưa đến nay “giết chồng đoạt vợ”. Nhưng đã quá muộn màng, không đủ chứng cớ truy tội.
Phía trước nhà lao Tam Hiệp còn lại |
Nhưng sự việc bị cuốn theo lịch sử bởi lúc ấy cả miền Bắc đang tập trung sức lực đánh trả các cuộc đánh phá bằng không quân của Mỹ. Miền Nam đang dậy lên phong trào Đồng khởi đấu tranh bằng vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị. Miền Bắc thắng lợi vang dội công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội sau Đại hội Đảng toàn quốc mùa xuân 1961, làm hậu phương vững chắc cho miền Nam đánh Mỹ. Cả nước đang tất cả vì miền Nam.
Vào thời chiến tranh, tất cả tập trung cho tiền tuyến đánh Mỹ, tất cả vì miền Nam ruột thịt, những vụ việc thật giả rất dễ lẫn lộn mơ hồ, không có điều kiện để điều tra, xác minh kỹ lưỡng như bây giờ. Có thể vì thế mà những kẻ làm nhiều điều ác như Mười Vân đã thoát tội cũng nên.
Năm 1962, Nguyễn Hữu Giộc lên đường về miền Nam chiến đấu như bao chiến sĩ, cán bộ ngày ấy, không ai biết gì đến quá khứ đầy tội lỗi của y đã gây ra. Những tội ác mà y đã gây ra tưởng chừng như đã xóa mờ đi và chôn vùi trong bom đạn chiến tranh, tưởng chừng như sẽ vĩnh viễn không bao giờ ai biết đến…
Nhưng lịch sử luôn minh bạch, công bằng. Nhân quả ở đời có quả báo nhãn tiền trùng trùng trước mặt, với những tội ác tày trời do Nguyễn Hữu Giộc gây ra, tránh sao được lưới trời lồng lộng. Không thể nào lấy mảnh vải thưa để che được mắt Thánh và cũng không thể nào trốn được tội lỗi cho dù kẻ ác có tài giỏi đến đâu.
Một con cáo tinh khôn đến mấy vẫn có lúc sơ hở để lộ cái đuôi dài ra. Con sói hoang dã dù có thành bậc tu hành cũng có lúc lạc đường cất lên tiếng hú rùng rợn, lộ nguyên bản chất hung dữ của mình nơi hoang dã.
Mười Giộc thường che đậy bản chất, vun vén thành tích để không ai nhìn ra chân tướng. Nhưng hắn không thể biết, rất nhiều cán bộ, chiến sĩ từng sinh sống tại quê hương Cần Đước - Long An không ai lạ gì nghi án năm xưa khiến gia đình họ tan nát, đau thương.
Thả gián điệp Mỹ, cặp bồ với vợ bé Thiệu làm mưa làm gió bãi biển Hồ Cốc, Bình Châu
Trưa ngày 30/4/1975, giải phóng Sài Gòn, Tổng thống Dương Văn Minh và nội các đầu hàng vô điều kiện. Miền nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất Tổ quốc, tiến tới hiệp thương hai miền Nam Bắc một nhà. Ban An ninh Miền Đông cũng chấm dứt sứ mạng lịch sử, giải thể để phù hợp với tình hình mới của đất nước.
Các tỉnh Sông Bé, Thuận Hải, Đồng Nai và đặc khu Vũng Tàu - Côn đảo thành lập với sự phân công, bổ nhiệm mới nhiều cán bộ từ trong chiến khu ra để làm lãnh đạo. Chẳng biết bằng cách nào mà Nguyễn Hữu Giộc được cử làm Giám đốc Công an Đồng Nai khiến cho nhiều người bất ngờ. Có thể đã có sai lầm trong quan điểm lập trường hay thiếu cân nhắc, quyết đoán nên đã để con rắn độc nguy hiểm này leo lên ghế Giám đốc.
Khi đã có quyền hành nắm trong tay, những mưu mô thâm hiểm và độc ác của Nguyễn Hữu Giộc như sống lại. Có thể thấy điển hình qua các vụ việc tiêu biểu một thời làm chấn động trong dư luận và nhân dân miền Đông.
Dù thời gian đã quá xa rồi, nhưng nhắc đến vụ án Mười Giộc thì gần như ai cũng biết. Điều đó cho thấy sự ảnh hưởng và tác động của vụ án trong đời sống xã hội lúc bấy giờ là rất lớn. Đặc biệt đây là vụ án liên quan đến việc để xổng chuồng con hồ li tinh Kim Anh - vợ bé của Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu.
Điển hình như vụ Mười Giộc ra lệnh thả tên Nguyễn Văn Sang - cảnh sát đặc biệt miền Đông do CIA Mỹ đào tạo, huấn luyện đang bị cải tạo trong trại giam Tam Hiệp, TP. Biên Hòa, được Mười Vân đặt bí danh là H. 20, khống chế, lập hồ sơ giả ép tên Sang khai các đồng chí cán bộ kiên trung như: Năm T. (Bí thư Thành ủy Biên Hòa) và Ba L.- Bí thư Thành ủy Vũng Tàu là gián điệp Mỹ cài lại nhằm hãm hại và tìm cơ hội trừ khử hai đồng chí này. Từ bản cung tố cáo, khai man của con cờ H. 20, Mười Giộc xin cấp trên bắt giam Năm T. và Ba L. vào ngục dùng cực hình đánh dập, tra khảo và ép cung rất tàn bạo.
Tại Tòa án sau này xét xử, chính Nguyễn Văn Sang khai ra mình bị Mười Giộc đe dọa nếu không làm như thế sẽ bắt luôn vợ và 8 con bỏ tù rục xương. Nếu làm theo ý của Mười Giộc, Sang được hứa hẹn sẽ cung cấp đầy đủ tiện nghi, lo cuộc sống cho gia đình Sang mà không hề hấn chuyện gì cả.
Vừa lo sợ, vừa phải đối mặt với cái chết bất cứ lúc nào khi bản thân là CIA Mỹ và nhiều tội ác với nhân dân và cách mạng, sự trả thù “giết người diệt khẩu” dễ như trở bàn tay của Mười Giộc, tên Sang đành ngoan ngoãn nghe lời viết tố cáo tội trạng một số đồng chí cách mạng kiên trung mà Mười Giộc không ưa.
Cũng vào thời điểm này, nàng Cyrnos Kim Anh - vợ bé của Nguyễn Văn Thiệu nguyên là dân biểu Hạ Viện Việt Nam Cộng hòa và là gián điệp của CIA Mỹ đang cải tạo tại trại giam Tam Hiệp cùng với tên Sang và nhiều tay chân khác.
Là một kẻ háo sắc, tham lam, Mười Giộc không bao giờ có thể bỏ qua miếng mồi ngon béo bở này. Hơn nữa, ở độ tuổi ngoài 30, “gái một con trông mòn con mắt” dáng vóc nẩy nở, hừng hực sức sống và nữ tính, khiến cho ngay lần gặp đầu tiên, cặp mắt cú vọ của Mười Giộc đã không kiềm chế được sự quyến rũ của hồ li tinh Kim Anh.
Từng là một gián điệp lão luyện, từng là một phụ nữ quá dày kinh nghiệm chốn tình trường, đến cả Thiệu còn không thoát khỏi nanh vuốt hồ li thì hạng phàm phu, dâm đãng và háo sắc như Mười Giộc làm sao tránh khỏi. Xưa, Trụ Vương giết chú ruột moi lấy gan chữa bệnh ho gà, giết hết các trung thần, công thần dám can gián vua chỉ vì Đắc Kỷ, nên cơ đồ nhà Ân chẳng mấy chốc tan thành tro bụi, có khác gì Mười Giộc lúc bấy giờ.
Ít lâu sau những lần gặp gỡ, ân ái nồng nàn, Mười Giộc đã ký lệnh thả Kim Anh ra khỏi trại giam, trả tự do để dễ bề hẹn hò, tình tứ tránh tai mắt người đời.
Vào lúc này, Mười Giộc còn có một ả nhân tình khác tên Ng. nhà ở đường Phan Kế Bính, quận 1 nguyên là vợ của một sĩ quan chế độ cũ tử trận, khi chưa có Kim Anh thường xuyên lui tới hẹn hò, nồng nàn say đắm. Nay vì có mới, nên nới cũ lạnh nhạt dần, khiến cô nhân tình này tức lồng lộn lên như sư tử Hà Đông nhưng chẳng làm gì được.
Ra ngoài, vừa xỏ mũi được Mười Giộc, Kim Anh và đồng bọn dựa dẫm vào nhân tình Mười Vân vốn có thế lực rất mạnh, xúc tiến ngay kế hoạch lập thành một đường dây tổ chức vượt biên rất qui mô cho những thành phần bất mãn chế độ và liên quan đến chế độ Sài Gòn cũ.
Tại khu vực bờ biển Hồ Cốc, Bình Châu, Long Hải - Bà Rịa, dân vượt biên từ Sài Gòn và các nơi tìm đến ngùn ngụt mỗi ngày, tìm cách móc nối đường dây do Kim Anh làm chủ để được “mua bãi” vượt biên an toàn mà không hề có bất cứ cuộc kiểm tra, truy đuổi nào. Số vàng bạc, đá quý và đô-la thu được hàng bao tải mỗi đêm, Mười Vân và Kim Anh tha hồ hưởng thụ, trụy lạc và rắp tâm chuẩn bị cho một âm mưu lớn về sau.
Âm mưu đó là, sau khi thu hơn nửa tấn vàng, Mười Vân bố trí cho Kim Anh và tài sản bất chính kếch sù, bố trí tàu lớn lên đường vượt biên sang Mỹ trước, mua nhà cửa, sắm điền sản chờ ngày Mười Vân bỏ trốn sang đoàn tụ an hưởng đến già nơi thiên đường tình ái ở nước Mỹ.
Bãi biển Hồ Cốc |
Kẻ tham lam và quen làm điều ác thường là kẻ hàm hồ và ngớ ngẩn rối trí khi tính nước đi cho cuộc cờ tàn. Hơn nữa, người chơi cờ là một con hồ li tinh như Kim Anh. Với một ả gián điệp lão luyện, dày dạn kinh nghiệm giang hồ như Kim Anh, há có thể dễ dàng sa lụy vì tình yêu nhảm nhí như Mười Vân là điều không thể có bao giờ. Đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn. Kẻ cắp gặp phải bà già như lời người xưa nói vẫn muôn đời còn giá trị đúng.
Sang Mỹ quốc an toàn, Kim Anh tìm ngay cách liên hệ với Nguyễn Văn Thiệu đang sống lưu vong tại Anh, và lên kế hoạch “phản kèo” viết đơn thư, gởi hình ảnh, phim quay những cảnh ái ân mặn nồng và thu tiền vàng cho người vượt biên gởi về Việt Nam tố cáo tội ác của Mười Vân.
Mười Vân bị bắt với một kế hoạch chuẩn bị rất chu đáo, bất ngờ làm không kịp trở tay hay kháng cự nhỏ nào. Nhưng để đủ chứng cứ buộc tội y không phải là chuyện dễ dàng. Trong trại giam, bản chất ngoan cố, gian trá và lưu manh của y vẫn không chừa mà càng bộc lộ rõ hơn.
Một góc bãi biển Hồ Cốc |
Khi khai đến bản cung cuối cùng, Mười Giộc còn bịa ra việc tên gián điệp Trần Hùng trước đây bị ta bắt lúc trong chiến khu, mỗi lần đi săn thường gặp gỡ và nghỉ tại nhà tên Nguyễn Văn Sang.
Tên gián điệp Trần Hùng tiết lộ cho Sang biết, ngoài nhiệm vụ giả vờ đi săn để dò la căn cứ Trung ương Cục Miền Nam và Khu ủy Miền Đông làm chỉ điểm cho máy bay Mỹ ném bom, Hùng còn có nhiệm vụ liên lạc với “người của CIA” là các đồng chí Năm T., Ba L., Tư T., … tiếp tục tố cáo láo để hãm hại các đồng chí cách mạng kiên trung, lão thành của Ban An ninh miền Đông lúc bấy giờ.
Nhưng điều mà Mười Giộc không thể ngờ là việc tên Sang (H. 20) của y dựng lên không kịp vượt biên sang Mỹ mà đã sa vào lưới của an ninh cách mạng.
Năm 1983, phiên tòa đặc biệt sơ chung thẩm xét xử Nguyễn Hữu Giộc và đồng bọn đã diễn ra ba ngày tại hội trường lớn tỉnh Đồng Nai do Thẩm phán Phạm Như Phấn – Phó Chánh án Tòa phúc thẩm TAND tối cao làm chủ tọa. Hàng vạn đồng bào từ Long An, Vũng Tàu, TP. HCM kéo về dự khán hồi hộp chờ đợi phán quyết của công lý trừng trị tội ác mà Nguyễn Hữu Giộc đã gây ra từ năm 1950 đến giờ.
Trước vành móng ngựa, Mười Giộc rất ngoan cố, không ăn năn hối cải, đến khi Tòa cho gọi nhân chứng Nguyễn Văn Sang (H. 20) ra, khi ấy khuôn mặt kẻ tàn ác như Mười Giộc không còn hột máu, cúi đầu nhận tội.
Công lý đã thực thi, Nguyễn Hữu Giộc và tên Thanh đồng bọn bị tuyên án tử hình. Biết không thể còn ân huệ nào dành cho tội ác đã gây ra, Mười Giộc không kháng án. Sáu phát súng thi hành án tử hình và viên đạn ân huệ từ tay người chỉ huy thi hành án vang lên từ pháp trường, kết thúc cuộc đời và sự sống của một kẻ gian ác, tội tày trời đã gây ra trong niềm vui mừng khôn xiết cho hơn 82 gia đình bị oan sai ở Cần Đước, Cần Giờ và trả lại sự trong sạch, kiên trung của nhiều cán bộ cao cấp mà Mười Giộc hãm hại, vu cáo.
Công lý đã được thực thi, oan sai đã sáng tỏ khi trời hừng đông, buổi bình minh đẹp đẽ đầu tiên của bao nhiêu gia đình từng bị Mười Giộc hãm hại. Một ngày mới bắt đầu. Một đêm đen phủ xuống đâu đó trên nước Mỹ nơi người đàn bà Kim Anh Cyrnos đang hưởng thụ cuộc sống xa hoa cùng người chồng cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho đến lúc cuối đời.
Nam Yên
[links()]
Theo Nguoiduatin
CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 44
Những nhà khoa học nữ bị lãng quên
Vera
Rubin, Cecilia Payne hay Chien Shiung Wu là những nhà khoa học nữ có
nhiều đóng góp cho khoa học Mỹ nhưng đều không được nhắc đến vì phân
biệt giới tính hoặc bị ăn cắp phát minh.
1. Vera Rubin
Kể từ khi bắt đầu sự nghiệp khoa học, Vera Rubin luôn phải chịu
những lời chỉ trích, chống đối và không khuyến khích của các đồng nghiệp
nam cũng như nhiều người khác. Sau khi bị từ chối tham gia chương trình
thiên văn học tại Đại học Princeton, Mỹ, vì là nữ giới, Vera vẫn tiếp
tục nghiên cứu khoa học và nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Georgetown.
Vera là người đầu tiên quan sát thấy các ngôi sao ở phần bên ngoài thiên
hà có tốc độ quỹ đạo tương ứng với các ngôi sao ở trung tâm. Quan sát
của Rubin đã xác nhận lại một học thuyết trước đó bởi nhà khoa học Fritz
Zwicky trước đó khiến cô nhận được không ít lời chỉ trích.
|
2. Cecilia Payne
Cecilia Payne bắt đầu nghiên cứu tại Đại học Cambridge, Anh, năm
1919 sau khi nhận được học bổng về thực vật học, vật lý học và hóa học.
Tuy nhiên, chúng đều không có ý nghĩa bởi Cambridge từ chối cấp bằng cho
phụ nữ. Trong thời gian ở Cambridge, Payne khám phá ra tình yêu dành
của cô cho thiên văn học và trở thành người phụ nữ đầu tiên nhận được
tiến sĩ thiên văn học tại Radcliffe. Payne từng đưa ra chứng minh các
thành phần cấu tạo Mặt Trời khác biệt với Trái Đất nhưng không được công
nhận. Đến năm 1938, Payne mới được công nhận là nhà thiên văn học. Năm
1956, bà được bổ nhiệm và trở thành nữ giáo sư đầu tiên của đại học
Harvard.
|
3. Chien Shiung Wu
Chien Shiung Wu là một người Trung Quốc nhập cư sang Mỹ. Tại đây Wu
bắt đầu tham gia dự án Manhattan và phát triển bom nguyên tử . Đóng góp
lớn nhất của cô cho giới khoa học là khám phá ra sự vi phạm của Luật
Bảo tồn Tính chẵn lẽ trong khi đây là định luật phổ biến rộng rãi. Phát
hiện của Wu đã đảo ngược quan điểm khoa học tồn tại suốt 30 năm. Tuy
nhiên, hai đồng nghiệp của Wu là Chen Ning Yang và Tsung Dao Lee, những
người nhờ đến phát hiện và sự giúp đỡ của Wu để chứng minh cho lý thuyế
này phát hiện đã giải thưởng Nobel mà không đề cập đến Wu.
|
4. Nettie Stevens
Nghiên cứu giới tính được xác định bởi 23 cặp nhiễm sắc thể được
ghi nhận là phát hiện của Thomas Morgan. Tuy nhiên trước đó, Nettie
Stevens là người nghiên cứu xác định giới tính của sâu mealworm và nhận
ra rằng nó phụ thuộc vào nhiễm sắc thể X và Y. Trong mắt mọi người,
Stevens chỉ là người làm việc cho Thomas Morgan, trong khi hầu hết các
phát hiện của cô đều được thực hiện độc lập. Morgan cũng chỉ coi Stevens
là một kỹ thuật viên hơn chứ không phải là một nhà khoa học thực thụ.
|
5. Ida Tacke
Năm 1925, nhà hóa học trẻ Ida Tacke tuyên bố khám phá ra 2 nguyên
tố còn thiếu trong bảng tuần hoàn của Mendeleev. Khám phá của Ida về
Rhenium 75 chưa bao giờ gặp phải tranh luận, nhưng nguyên tố 43 mà Ida
gọi là Masurium bị các nhà khoa học khác hoài nghi và từ chối. Ngày này,
nguyên tố đó gọi là Technetium, được khám phá bởi Carlo Perrier và
Emilio Segre. Nghiên cứu mô tả tiến trình cơ bản của phản ứng phân hạch
hạt nhân của Ida cũng hoàn toàn bị bác bỏ và chỉ được công nhận 5 năm
sau đó.
|
Những nhà khoa học 'sinh nghề, tử nghiệp'
Nhiều
nhà khoa học có thể gặp các chấn thương không mong muốn trong quá trình
làm thí nghiệm, thậm chí có những người phải bỏ mạng vì chính nghiên cứu
của họ, và để lại những thành quả đáng giá cho thế hệ sau.
Carl Scheel (1742-1786) là nhà hóa dược học thiên tài. Ông đã
phát hiện ra rất nhiều nguyên tố, trong đó nổi tiếng nhất là oxy (mặc
dù nghiên cứu này sau đó được nhà khoa học Joseph Priestly xuất bản
trước), molipden, vonfram, mangan và clo. Vào thời đại của ông, chưa có các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, và nhiều người cũng chưa biết hết về độc tính
của các loại hóa chất. Carl còn có một thói quen xấu là sử dụng tất cả
các giác quan để tiếp xúc với hóa chất, nhất là khứu giác và vị giác.
Trong một lần thử hydro xyanua, dù nghĩ bản thân sẽ an toàn, nhưng sự
tích tụ cùng lúc các chất thủy ngân, chì, axit flohydric và một số chất
khác, đã khiến ông tử vong vì nhiễm độc kim loại nặng ở tuổi 44.
|
Sau khi nhà khoa học Wilhelm Conrad Röntgen phát minh ra tia
X, Elizabeth Fleischman Ascheim (1859-1905) đã từ bỏ công việc của một
người thủ thư để theo học trường điện. Bà nhanh chóng tốt nghiệp và
mở phòng khám sử dụng tia X đầu tiên trên toàn nước Mỹ. Cùng với chồng
(một nhà vật lý học), bà đã say mê nghiên cứu về tác dụng của phương
pháp chụp X-quang. Cả hai người dành nhiều ngày để chụp X-quang cơ thể
nhau nhằm mục đích nghiên cứu. Bà đã chữa trị cho rất nhiều binh sĩ
trong chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha rồi sau đó theo học chuyên ngành nha
khoa, đồng thời bà cũng là nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực phóng
xạ. Tuy nhiên, bà lại không hề thực hiện bất cứ biện pháp bảo hộ nào
trong khi nghiên cứu, cũng như chữa trị cho các bệnh nhân vì theo bà
nói, nếu dùng đồ bảo hộ thì bệnh nhân sẽ cảm thấy không thoải mái và an
toàn. Vì vậy, bà đã bị nhiễm độc phóng xạ và mất năm 46 tuổi. Ascheim
được xem như một người anh hùng trong lĩnh vực nghiên cứu phóng xạ.
|
Alexander Bogdanov (1873-1928) là nhà khoa học nổi tiếng người Nga.
Ông đồng thời là bác sĩ, nhà kinh tế, nhà triết học, nhà khoa học tự
nhiên, nhà văn viễn tưởng, nhà thơ, giáo viên, chính trị gia, nhà cách
mạng và là người tiên phong của môn điều khiển học và khoa học tổ chức.
Ông cũng là người sáng lập viện nghiên cứu về truyền máu đầu tiên trên
thế giới - Viện truyền máu Liên Xô- vào năm 1926. Ông thực hiện 11 lần
truyền máu vào chính cơ thể mình với tuyên bố truyền máu sẽ chữa khỏi
bệnh hói đầu và cải thiện thị lực của ông. Thật không may, trong lần
truyền cuối cùng, Bogdanov bị nhiễm sốt rét và lao, rồi tử vong sau đó,
để lại những nghiên cứu có giá trị về truyền máu cho con người.
|
Việc Henri Becquerel phát hiện ra phóng xạ năm 1896 đã khơi nguồn
cảm hứng cho các nghiên cứu của đôi vợ chồng nhà khoa học nổi
tiếng, Marie Curie (1867-1934) và Pierre Curie. Những nghiên cứu và phân
tích tuyệt vời của họ đã tách được hai chất phóng xạ là poloni và radi.
Marie đã dành cuộc sống của bà thực hiện nghiên cứu bức xạ và nghiên
cứu bức xạ trị liệu, nhưng do bà phải tiếp xúc liên tục với chất phóng
xạ, nên bà đã bị bệnh bạch cầu và qua đời năm 1934. Marie là người duy
nhất nhận được hai giải Nobel ở hai lĩnh vực khác nhau là hóa học và vật
lý.
|
Haroutune (Harry) K. Daghlian Jr. (1921-1945) là nhà vật lý học
người Mỹ. Daghlian đã tham gia vào kế hoạch Manhattan nổi tiếng tại
phòng thí nghiệm quốc gia ở Los Alamos, New Mexico. Ngày 21/8/1945,
trong thí nghiệm về khối lượng, ông đã vô ý làm rơi một viên gạch
vonfram cacbua vào lõi bom plutonium. Để tránh các phản ứng có hại xảy
ra, ông phải dùng tay để nhấc gạch ra, điều này khiến ông bị nhiễm một
lượng lớn phóng xạ và tử vong 25 ngày sau đó.
|
Malcolm Casadaban (1949-2009) là giáo sư về di truyền học phân tử
và sinh học tế bào và vi sinh học tại Đại học Chicago. Casadaban thực
hiện nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về một loại vi khuẩn gây bệnh
truyền nhiễm, sau đó chính ông cũng bị nhiễm bệnh và tử vong. Theo Trung
tâm kiểm soát dịch bệnh và báo cáo phòng chống về vụ việc, vi khuẩn đã
giết chết Malcolm và đồng thời cũng làm những nhân viên trong phòng thí
nghiệm tử vong. Ông được chẩn đoán là nhiễm cả bệnh hemochromatosis, tức
rối loạn chuyển hóa chất sắt sau khi tử vong.
|
Richard Din (1987-2012) làm việc tại Viện Nghiên cứu và Giáo dục
Bắc California với nhiệm vụ nghiên cứu về một loại vắc-xin có tác dụng
ngăn chặn vi khuẩn Neisseria meningitides - loại vi khuẩn gây chứng viêm
màng não và nhiễm trùng máu. Trong quá trình nghiên cứu, Din (bên phải)
cảm thấy nhức đầu và buồn nôn. Các triệu chứng xấu đi nhanh chóng vào
sáng hôm sau, khiến Din phải nhập viện. Anh đã chết 17 giờ sau khi các
triệu chứng xuất hiện lần đầu tiên. Nguyên nhân là do anh đã bị nhiễm vi
khuẩn viêm màng não. Anh đã không tiêm phòng viêm màng não theo khuyến
cáo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh CDC, đây có thể là nguyên nhân gây
tử vong mặc dù dòng vi khuẩn Din đang nghiên cứu có thể kháng lại
vắc-xin. May mắn là những người tiếp xúc với Din đã được điều trị kịp
thời bằng kháng sinh và không ai trong số họ nhiễm bệnh.
|
Theo An ninh thủ đô
Những nhà khoa học tự thí nghiệm trên bản thân
Từng
có thời kỳ giới khoa học xem chuyện tự thí nghiệm trên chính mình là
bình thường, họ cho rằng không người nào tốt hơn chính bản thân để mô tả
tác dụng một loại thuốc, hay quá trình tiến triển của bệnh tật.
> Bệnh tật của những nhà khoa học thiên tài
> Bệnh tật của những nhà khoa học thiên tài
Sir Henry Head. Ảnh: Wikipedia.
|
Sir Henry Head
Sir Henry Head, nhà thần kinh học người Anh vào thế kỷ
19, nghiên cứu tiến trình hồi phục cảm giác của bệnh nhân sau khi bị
tổn thương dây thần kinh ngoại biên. Nhưng vì người bệnh không có kiến
thức chuyên môn, cũng như không được đào tạo bài bản nên không thể giải
thích hợp lý hiện tượng này. Điều này khiến Head đi đến một quyết định
khá táo bạo, tự cắt dây thần kinh của ông để thí nghiệm.
Với sự hỗ trợ của một bác sĩ khác, Head đã cắt rời một
số dây thần kinh ngoại biên trong cánh tay và bàn tay trái của ông. Ba
tháng sau, Head dần hồi phục khả năng cảm thấy đau đớn trong cánh tay.
Ông và người bạn cộng sự tiếp tục các cuộc thí nghiệm kiểm tra và quan
sát trong bốn năm sau đó. Họ đã khám phá ra nhiều kiến thức mới mẻ về
hoạt động nhận thức cảm giác của con người.
Nhờ vào nghiên cứu sơ bộ của Head, chúng ta có thêm nhiều hiểu biết về cách não người sở hữu những cảm giác, xúc giác khác nhau.
Nhờ vào nghiên cứu sơ bộ của Head, chúng ta có thêm nhiều hiểu biết về cách não người sở hữu những cảm giác, xúc giác khác nhau.
Friedrich Sertürner
Một trong những nhà khoa học “điên rồ” tự thí nghiệm
mình đáng chú ý là Friedrich Wilhelm Sertürner, người đã cô lập alkaloid
đầu tiên từ opium, qua một tiến trình 52 bước. Sau một vài thí nghiệm
với chó và chuột, Sertürner gọi alkaloid vừa được phân lập là “morphine
", dựa theo vị thần của những giấc mơ trong thần thoại Hy Lạp, Morpheus.
Lý do của tên gọi này là morphine có thể dễ dàng đưa đối tượng đi vào
giấc ngủ, thậm chí là vĩnh hằng.
Tự tin với kết quả từ thí nghiệm động vật sống, ông
quyết định thử nghiệm trên con người. Sertürner cùng với 3 người bạn
khác, mỗi người ăn khoảng 30 mg morphine nguyên chất, sau 30 phút ăn
thêm một liều nữa, và một liều khác sau 15 phút. Tổng cộng họ đã ăn 90
mg trong gần 1 giờ, nhiều hơn gấp 10 lần so với quy định liều lượng ngày
nay.
Kết quả cho thấy trong liều đầu tiên ông và các bạn
đạt đến trạng thái “vui vẻ và đầu óc quay cuồng”, tuy nhiên sau liều thứ
hai có dấu hiệu buồn ngủ và mệt mỏi, và liều thứ ba tệ hơn khi gây
hoang mang và ngủ sâu, cuối cùng là buồn nôn và đau đầu khi mới tỉnh
dậy. Và đương nhiên, các bạn của ông sẽ không bao giờ dám tham gia vào
bất kỳ thí nghiệm nào của ông nữa.
Nhờ vào thí nghiệm điên rồ trên, Sertürner đã tìm ra
liều lượng phù hợp để dùng morphine như thuốc giảm đau, mà vẫn còn sử
dụng đến tận ngày nay.
Santorio Santorio
Sống tại Renaissance Padua, Italya, nhà khoa học
Santorio quan tâm đến nhiều lĩnh vực, bao gồm cả sinh lý học. Ông hoài
nghi liệu những gì chúng ta ăn vào dưới dạng thức ăn và nước uống có
bằng với số lượng chúng ta “tống” ra dưới dạng phân và nước tiểu hay
không. Để kiểm chứng điều này, Santorio quyết dịnh dành 30 năm để cân đo
trọng lượng của mình, cũng như mọi thứ ông ăn vào và “thải” ra, sau đó
kiểm điểm và tính toán sự khác biệt.
Ông tự chế ra một chiếc ghế ngồi đặc biệt tiện lợi cho
việc cân đo trọng lượng cơ thể, thức ăn và chất thải. Ông dành phần lớn
thời gian để làm việc, ăn uống, vệ sinh, ngủ và cân đo sự chênh lệch.
Cuối cùng ông đưa ra kết luận rằng số lượng chúng ta
ăn vào lớn hơn số lượng bài tiết ra ngoài, trung bình mỗi 3,5 kg ăn vào
thì có 1,3 kg bài tiết. Để giải thích cho hiện tượng này, ông đề ra
thuyết "mồ hôi vô cảm", cho rằng chúng ta luôn tiêu hao năng lượng liên
tục qua làn da.
Mặc dù có ít giá trị khoa học, nhưng nghiên cứu của
Santorio đóng góp nền tảng trong nghiên cứu tiến trình trao đổi chất.
Chiếc ghế đặc biệt do ông sang chế cũng trở nên nổi tiếng sau này.
Albert Hofmann
Vào năm 1943, Hofmann làm việc tại hãng dược Sandoz,
công việc chính của ông là nghiên cứu chế tạo các loại thuốc. Trong khi
tiến hành phân lập một loại nấm trong cây lúa, ông bắt đầu cảm thấy một
cảm giác kỳ lạ. Ông cho rằng mình đã tiếp xúc một chất liên quan đến
LSD-25. Ông ăn một lượng khoảng 250 microgram chất này. Sau đó ông cảm
thấy kỳ quái và rời phòng thí nghiệm, lên xe đạp và đi về. Khi về đến
nhà, Hofmann ghi lại tác dụng của loại thuốc mà ông đã tự thí nghiệm vào
ngày đó, “Tôi nhìn thấy những hình ảnh tuyệt đẹp, cùng với các hình
dạng phi thường, màu sắc vạn hoa biến ảo mãnh liệt”.
Loại thuốc mà Hofmann đã dùng ngày đó chính là LSD,
một trong những loại gây ảo giác mạnh nhất. Mặc dù ban đầu LSD được sử
dụng trong tâm lý liệu pháp và bởi CIA để làm thuốc tẩy não, chất này bị
cấm kể từ năm 1967.
Jan Purkinje
Jan Purkinje, một tu sĩ người Tiệp Khắc bước sang lĩnh
vực dược sĩ vào năm 1819. Nhà khoa học này luôn có thái độ bất bình với
cách cho liều lượng thuốc của các dược sĩ thời đó. Vì vậy, ông tiến
hành tìm ra liều lượng thích hợp bằng cách tự mình ăn thuốc, đồng thời
chú ý đến tác dụng của thuốc đến mặt tinh thần và thể chất.
Purkinje thử nhiều loại cây thuốc, như các cây thuộc
chi Mao Địa Hoàng (digitalis), một loại cây làm giảm nhịp tim và khiến
tầm nhìn mờ. Để nghiên cứu tác dụng mờ tầm nhìn của loại cây này, ông
chủ động dùng quá liều lượng và ghi chép lại các vấn đề ông phải chịu
đựng và trải qua.
Nhiều năm sau đó, Purkinje tự thí nghiệm với nhiều
loại thuốc khác nhau. Các thí nghiệm này giúp con người có thêm nhiều
kiến thức về liều lượng thích hợp và tương tác của nhiều loại thuốc.
Hermann Ebbinghaus
Từ năm 1879 đến 1880, nhà tâm lý học người Đức,
Ebbinghaus tự thực hiện thí nghiệm với trí nhớ của bản thân, bằng cách
phát minh ra 2.300 âm tiết vô nghĩa, mỗi âm tiết bao gồm ba chữ cái phụ
âm - nguyên âm - phụ âm, và ông tự học thuộc ghi nhớ tất cả chúng.
Ông kết luận rằng số lượng thông tin càng lớn, càng
tốn nhiều thời gian để học; một khi thông tin đã được học và quên, nó
tốn ít thời gian học lại hơn so với lần học ban đầu, và việc học sẽ hiệu
quả hơn khi não có thời gian để hấp thu thông tin.
Ebbinghaus đã cung cấp nhiều dữ liệu cũng như phương
pháp luận trong ngành nghiên cứu tâm trí con người mà vẫn còn giá trị
đến ngày nay.
Karl Landsteiner
Bác sĩ người Australia, Landsteiner sử dụng máu của
chính mình để xác minh giả thuyết rằng những người khác nhau có các loại
máu khác nhau.
Landsteiner cho rằng con người có các loại kháng thể
khác nhau trong máu. Một số kháng thể tấn công tế bào máu có chứa loại
kháng thể khác. Khi kháng thể tấn công loại khác, gây tiến trình truyền
máu bị gián đoạn, thường dẫn đến tử vong. Vào năm 1901, Landsteiner tìm
ra 4 loại máu bằng những thí nghiệm trên máu của ông, đó là: A, B, O và
AB.
Thông qua tự thí nghiệm trên bản thân, Landsteiner đã
tìm ra nguyên tắc tương thích của các nhóm máu, một phát hiện giúp ích
cho việc truyền máu và hiến nội tạng và đã cứu nhiều mạng sống con
người.
Jack Goldstein
Vào năm 1981, tiếp nối thí nghiệm của Karl
Landsteiner, một bác sĩ tự thí nghiệm khác tên là Jack Goldstein đã mở
rộng nghiên cứu cùng lĩnh vực về máu.
Goldstein khám phá ra một enzyme trong cà phê có thể
biến đổi nhóm máu B trở nên vô hại. Phản ứng hóa học này chuyển đổi nhóm
máu B khiến nó có chức năng tương tự như nhóm máu O, vì vậy mở rộng khả
năng thích ứng của máu B với các nhóm máu khác.
Goldstein có nhóm máu O. Ông đã trải qua một tiến
trình truyền máu sử dụng nhóm máu loại B đã được xử lý bằng enzyme, để
chuyển thành loại máu O. Sau khi trải qua tiến trình truyền máu này và
không gây ra các phản ứng có hại nào, Goldstein đã chứng minh rằng kỹ
thuật này thật sự có hiệu quả.
George Stratton. Ảnh: Wikipedia.
|
George Stratton
Để kiểm tra lý thuyết về sự thích ứng của nhận thức
con người, Stratton đã mang vào một cặp kính ngược, khiến cho cả thế
giới trong mắt ông bị đảo ngược hoàn toàn. Ông đeo một kính đặc biệt bên
mắt phải và bịt cả mắt bên trái, sau đó bắt đầu thí nghiệm trên chính
mình trong vòng 8 ngày liên tục, với một tầm nhìn khác thường.
Ngày đầu tiên ông di chuyển rất khó khăn và không gian
đảo ngược khiến ông cảm thấy không thực. Nhưng ngày thứ hai, chỉ có vị
trí cơ thể là khác lạ. Đến ngày thứ bảy, mọi thứ trở nên bình thường và
ông có thể di chuyển thoải mái. Thí nghiệm của ông chứng tỏ rằng, con
người có thể xây dựng mối liên kết giữa tầm nhìn, tiếp xúc da bằng cách
học, và thích ứng trong một khoảng thời gian nhất định.
Elsie Widdowson
Vào thế chiến thứ II, chính phủ Anh lâm vào tình trạng
thiếu thốn lương thực. Elsie Widdowson, một nhà nghiên cứu dinh dưỡng
với 60 năm kinh nghiệm, quyết tâm tìm ra khẩu phần ăn phù hợp với tình
hình bấy giờ.
Widdowson và người cộng sự lâu năm, McCance thực hiện
thí nghiệm trên chính họ, bằng cách dùng một chế độ ăn uống hết sức
nghèo nàn bao gồm bánh mì, bắp cải, và khoai tây trong suốt vài tháng
liền. Mục đích của họ là để tìm ra một chế độ ăn uống phù hợp trong thời
chiến tranh với ít thịt, sữa và canxi. Họ chứng minh rằng với một chế
độ ăn uống khắc nghiệt, con người vẫn có thể duy trì sức khỏe tốt nếu
được bổ sung canxi đầy đủ.
Công việc của họ bắt đầu năm 1940, khi canxi được thêm
vào bánh mì. Họ cũng đảm nhận trách nhiệm về xử lý khẩu phần ăn thời
chiến của nước Anh suốt thế chiến thứ hai.
Ngày nay, tự thí nghiệm bị hạn chế trong lãnh vực khoa
học bởi tính chất nguy hiểm và không rõ ràng của nó. Nhưng trong nhiều
thế kỷ qua, các nhà khoa học đã mạo hiểm để mang lại cho con người một
nguồn hiểu biết rộng lớn, quan trọng, và đây là nền tảng cho khoa học
hiện đại ngày nay phát triển.
Nguyên Trường (tổng hợp)
Bệnh tật của các nhà khoa học thiên tài
Dù
mang trong mình những bệnh tật khác nhau, các nhà khoa học đã làm cuộc
sống của họ trở nên có ý nghĩa và khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ với
những phát minh làm thay đổi lịch sử nhân loại.
Albert Einstein (14/3/1879 - 18/4/1955) là nhà vật lý
lý thuyết người Đức. Ông được coi là một trong những cha đẻ của vật lý
hiện đại và là một trong những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất của thế kỷ
20.
Nhưng ít ai biết, trước khi có thành tựu như vậy,
Einstein đã trải qua quãng thời thơ ấu khó khăn. Khi 3 tuổi, Einstein
chưa biết nói và không thể đọc được cho đến khi lên 8. Nhiều người nói
ông không có khả năng học tập vì có thể ông đã mắc hội chứng thuộc một
dạng của bệnh tự kỷ. Tuy nhiên, năm 1921, ông đã nhận giải Nobel Vật lý
vì những cống hiến đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá
ra định luật của hiệu ứng quang điện. Việc khám phá và giải thích định
luật quang điện cùng với các đóng góp của những nhà vật khác đã khai
sinh ra lý thuyết lượng tử, một trụ cột của ngành vật lý học. Ảnh: AP.
|
Thomas Alva Edison (11/2/1847 -18/10/1931). Ông là nhà
phát minh vĩ đại, với hơn 1.000 bằng sách chế và nhiều phát minh trong
số đó đã được sử dụng trong cuộc sống hằng ngày như máy ghi âm, bóng đèn
điện, máy hát, tàu điện, máy quay phim...
Edison không thể đọc được cho đến khi 12 tuổi và sau
đó còn bị điếc. Khả năng viết của ông cũng rất kém. Hồi nhỏ, ông thường
đi học muộn vì ốm yếu. Ảnh: Wikipedia.
|
Stephen Hawking
sinh ngày 8/1/1942 tại Anh. Ông là một trong những nhà vật lý thiên văn
lớn nhất thời hiện đại. Năm 21 tuổi, ông bị mắc một chứng bệnh về thần
kinh tên là Lou Gehrig. Căn bệnh này khiến ông gần như mất hết khả năng
cử động, luôn phải gắn chặt vào xe lăn. Ngoài ra, sau lần phẫu thuật cắt
khí quản, ông chỉ có thể nói được nhờ một thiết bị phát âm gắn với một
máy tính được ông gõ chữ vào đó.
Nhưng căn bệnh trên không thể cản trở sự nghiệp nghiên
cứu khoa học miệt mài của Hawking. Hiện ông có thể sử dụng má của mình
để nhập dữ liệu vào một máy tính kết nối đến não, qua đó xây dựng các
câu nói hoàn chỉnh, thậm chí là những bài diễn văn. Ảnh: Martin Pope.
|
Isaac Newton (1642
- 1727) là nhà vật lý, thiên văn học, triết học, toán học người Anh.
Ông được đánh giá là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn. Khi
chưa đầy 25 tuổi, Newton đã có ba phát minh khiến ông trở thành thiên
tài khoa học của mọi thời đại.
Newton luôn chịu thiệt thòi vì mắc nhiều bệnh tật. Ông
không chỉ bị mắc bệnh viêm khớp mà còn được cho là mắc đủ chứng bệnh về
tâm thần. Ảnh: Wikipedia.
|
Charles Darwin (12/2/1809 - 19/4/1882) là một nhà
nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông là người
đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ
những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên.
Tuy nhiên, cha đẻ của Thuyết tiến hóa thường gặp phải
các triệu chứng như run rẩy, buồn nôn, khóc, ảo giác. Theo các chuyên
gia có thể ông mắc chứng sợ khoảng rộng có tên Agoraphobia, vì vậy ông
ít khi nói chuyện với người xung quanh, ngay cả với người thân. Ảnh: Wikipedia.
|
Kurt Godel (28/4/1906 - 14/1/1978) là một nhà toán học
và logic học nổi tiếng người Áo. Ông từng được tờ tạp chí danh tiếng
Times bình chọn là nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20.
Nhìn bên ngoài, Godel không có vẻ gì là bị mắc bệnh
tâm thần, nhưng ông lại có ảo giác bị người khác đầu độc. Ảo giác này
khiến ông chỉ có thể tin tưởng thức ăn do vợ nấu. Vì vậy, khi vợ nhập
viện, Godel chỉ đơn giản là không ăn gì cả và đã chết vì suy nhược. Ảnh:
Wikipedia.
|
Hương Thu (tổng hợp)
Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015
CUỘC ĐỜI BÌNH DỊ (Vũ Kỳ)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Vũ Kỳ (1921-2005), Thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; nguyên Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam; nguyên Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Xem tiếp...
Vũ Kỳ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vũ Kỳ | |
---|---|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 1987 – 1990 |
Tiền nhiệm | Hà Huy Giáp |
Kế nhiệm | Đặng Xuân Kỳ |
Thông tin chung
|
|
Sinh | ngày 26 tháng 9 năm 1921 Thường Tín, Hà Nội |
Mất | 16 tháng 4, 2005 (83 tuổi) Bệnh viện Hữu nghị, Hà Nội |
Tiểu sử
Vũ Kỳ tên thật là Vũ Long Chuẩn,ông sinh ngày 26 tháng 9 năm 1921; Quê quán: xã Nguyễn Trãi (Mễ Sơn cũ), huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.- Năm 1952, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nội.
- Từ ngày 28 tháng 8 năm 1945, Thư ký riêng của Hồ Chí Minh.
- Từ năm 1953, Đoàn trưởng đoàn Thanh niên xung phong Trung ương.
- Từ tháng 4 năm 1956, Chánh Văn phòng Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiêm Thư ký của Hồ Chí Minh.
- Năm 1970, Ủy viên Ban Chỉ đạo xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy viên Ban Phụ trách xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Năm 1977 Phó Viện trưởng Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh.
- Từ năm 1987 đến năm 1990, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII (1987-1992).
- Ngày 19 tháng 5 năm 1990, khi công trình được cắt băng khánh thành buổi sáng thì buổi chiều đồng chí Vũ Kỳ viết đơn xin thôi vai trò lãnh đạo, tự nguyện từ chức Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh để dành thời gian nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
- Ngày 16 tháng 4 năm 2005 (tức ngày 8-3 Ất Dậu), hồi 3 giờ 45 phút,ông từ trần tại Bệnh viện Hữu Nghị; hưởng thọ 84 tuổi. An táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Sự kiện
- Vũ Kỳ vốn là học sinh trường Bưởi.
- Ngày 28 tháng 8 năm 1945, Vũ Kỳ được Trần Đăng Ninh dẫn đến ngôi nhà 48 Hàng Ngang - Hà Nội để nhận nhiệm vụ giúp việc Hồ Chí Minh, và từ đó trở thành Thư ký thân cận cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời vào ngày 2 tháng 9 năm 1969.
- Ông là người đã chứng kiến Hồ Chí Minh viết Di chúc và được tin cẩn giao cho giữ di chúc này từ năm 1965 cho tới năm 1969.
Đánh giá
Phong tặng
- Huân chương Hồ Chí Minh;
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhất;
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất;
- Huân chương Kháng chiến hạng Nhì;
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhì;
- Bằng khen của Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Tôn Đức Thắng;
- Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 19:33 ngày 8 tháng 3 năm 2015.
Vũ Kỳ - "Chú tiểu đồng" của Bác Hồ
BÍ ẨN THẾ GIỚI 1
(ĐC sưu tầm trên NET)
Ảnh minh họa.
Đầu năm 2009, trong cuộc họp với các quan chức cao cấp quân sự Lầu Năm Góc, giới thiệu về tiến triển nghiên cứu phát triển vũ khí phản vật chất (VKPVC), Edward nói: "Ba đại bí mật thế kỷ đã kích thích những nghiên cứu của tôi".
Edward cho biết, "bí mật thế kỷ" đầu tiên và nổi tiếng nhất là vụ nổ Tungus, xảy ra sáng sớm ngày 30/6/1908, trong rừng rậm vùng Tungus, Siberia, Nga.
Đây là một vụ nổ lớn chưa có tiền lệ trong lịch sử. Uy lực của nó tương đương với 1.000 quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima, Nhật Bản đồng thời nổ, khiến mọi vật và sự sống trong vùng nổ vài trăm kilômét vuông bị hủy diệt.
Cho đến nay vẫn chưa ai giải thích được nguyên nhân của vụ nổ này.
Vụ thứ hai của "bí mật thế kỷ" xảy ra ngày 22/9/1979. Hôm đó, vệ tinh
Mỹ đã chụp được ảnh một vụ "nổ hạt nhân" cực mạnh xảy ra ở bờ biển Tây
Phi.
Thời kỳ này chỉ có vài nước như Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp, Trung Quốc... có vũ khí hạt nhân, nguyên nhân nổ hạt nhân ở Tây Phi cho đến nay vẫn không rõ.
Lần thứ 3 "bí mật thế kỷ" xảy ra lúc 22h ngày 29/4/1984. Lúc đó một số máy bay của Nhật Bản bay đến bầu trời Alaska - Mỹ, Phó cơ trưởng bỗng nhiên phát hiện phía trước có một "đụn mây hình nấm" rất nhanh khuếch tán ra xung quanh...
Cơ trưởng của 3 chiếc máy bay khác trên cùng đường bay cũng nhìn thấy hiện tượng lạ này.
Nhưng sau khi cả 4 chiếc máy bay này hạ cánh, các nhân viên trên máy bay và trên thân máy bay đều được kiểm tra, đã không phát hiện thấy bất kỳ dấu tích nhiễm phóng xạ nào.
Mãi đến năm 1986, sau khi giới khoa học có những nghiên cứu đột phá về phản vật chất, mới có người lên tiếng: Ba vụ nổ trên có thể là kết quả của các cuộc thử nghiệm "điều khiển phát triển phản vật chất".
Edward sinh năm 1960, công dân Mỹ. Năm 1990, tốt nghiệp ngành vật lý tại Viện Công nghệ Massa, Mỹ, rồi nhận bằng tiến sĩ, sau đó đến làm việc tại Cơ sở Nghiên cứu máy gia tốc quốc gia Feymi, Mỹ. Tại đây, Edward bắt đầu đi sâu nghiên cứu lý luận phản vật chất.
Năm 2000, Edward được giao phụ trách nhóm nghiên cứu "cải cách vũ khí", bắt đầu chuyên sâu nghiên cứu cụ thể VKPVC.
Edward cho biết: "Chúng ta đều biết, vật thể trong tự nhiên đều hợp thành từ proton, nơtron và điện tử, nhưng tất cả những hạt vi mô đều có phản hạt của chính nó. Chính uy lực sản sinh ra của những phản vật chất (phản hạt) này đã được bộc lộ qua “3 đại bí mật thế kỷ".
Ngày 24/3/2004, trong Hội thảo Những khái niệm tiên tiến do Cục Hàng không vũ trụ Mỹ tổ chức, Edward tới dự và phát biểu những lời tỏ ra bi quan:
"Tuy các nước đã đầu tư nhân lực, vật lực to lớn, nhưng việc nghiên cứu phản vật chất vẫn tiến triển chậm chạp, nguyên nhân là vì không có cách nào sử dụng máy gia tốc hạt để sản xuất ra đủ lượng phản vật chất.
Hơn nữa, để sản xuất ra 1 phần tỉ gram phản vật chất yêu cầu tiêu tốn vài tỉ USD! Ngoài ra, hoạt động của điện tử dương rất khó khống chế, rất khó lưu giữ chúng trong một dụng cụ đặc biệt; điều đó có nghĩa là, nó không có giá trị quân sự"!
Từ sau cuộc họp đó, người ta hầu như không thấy Edward và nhóm cộng sự xuất hiện nữa. Có lúc người ta cho rằng, có thể Edward thấy khó nên đã sớm rút lui?
Kinh hoàng hơn bom nguyên tử?
Theo tiết lộ, tháng 8/2008, Edward xuất hiện tại Lầu Năm Góc, báo cáo trước các quan chức cao cấp quân đội Mỹ về thành quả tiến triển nghiên cứu mới nhất của ông ta về VKPVC.
"Trên nghiên cứu VKPVC của chúng ta đã có được sự đột phá quan trọng, chúng ta đã thành công trong việc nghiên cứu phát triển một loạt dụng cụ có thể tồn giữ phản vật chất lâu dài có hiệu quả, điều này có nghĩa là việc sử dụng phản vật chất trong quân sự sẽ trở thành hiện thực"!
Sau đó, Edward bắt đầu trình bày trước giới quân sự về uy lực của VKPVC.
Edward đã chủ trì một cuộc diễn tập mô phỏng qua máy tính điện tử với biệt hiệu "Tấn công đặc biệt phản vật chất" với giả tưởng:
Một ngày vào năm 201X, một binh sĩ Mỹ mang theo một quả bom PVC định giờ tiềm nhập vào thủ đô nước C; vào trong một nhà vệ sinh của tòa nhà Bộ Tổng tham mưu nước C gần trung tâm thành phố, đặt quả bom rồi ung dung đi ra.
Đúng như kế hoạch, bom định giờ phản vật chất nổ, tòa nhà Bộ Tổng tham mưu nước C và các công trình phụ cận đổ sụp hết. Quả bom PVC mà binh sĩ này mang chỉ nặng 1 phần 50 triệu gram!
Tiếp sau đó, một quả bom xung mạch PVC nổ trên không tại nhà máy điện và mạng thông tin nước C, chỉ trong nháy mắt mọi hoạt động quân sự và xã hội của nước này tê liệt hoàn toàn...
Lúc đó, có tướng lĩnh đã thốt lên "nếu vậy, chỉ cần quả bom phản vật chất nặng vài gram sẽ hủy diệt toàn cầu".
Kết thúc diễn tập, Edward giải thích: "Quan hệ giữa vật chất và phản vật chất rất giống với học thuyết âm dương của Trung Quốc.
Trong tự nhiên, bất cứ một hạt thứ nguyên tử nào (hạt nhỏ hơn nguyên tử) đều có một loại phản vật chất đối ứng với nó. Nếu va chạm mạnh với nhau chúng sẽ mất đi, nhưng sẽ giải phóng ra năng lượng cực lớn.
Bom phản vật chất được tạo ra trên cơ sở nguyên lý này, uy lực chẳng kém gì bom khinh khí. Nhưng đó là loại bom khinh khí sạch vì nó không gây ra ô nhiễm "bức xạ hạt nhân".
"Đặc biệt, phản vật chất không chỉ được ứng dụng để chế tạo bom phục vụ chiến tranh. Một gam phản vật chất có thể tạo lực đẩy phóng vào vũ trụ 23 chiếc phi thuyền.
Chính vì thế, phản vật chất sẽ làm thay đổi về căn bản mô hình cung cấp năng lượng", Tiến sĩ Edwards nhấn mạnh.
Màn hình đã tắt, nhưng các quan chức Lầu Năm Góc vẫn bàng hoàng. Quả thực, sức công phá của bom phản vật chất đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với họ.
"Thật kinh khủng! Như vậy, chỉ cần một quả bom phản vật chất nặng vài gam là có thể hủy diệt cả trái đất này", một quan chức cao cấp của Lầu Năm Góc thốt lên.
Dư luận hiện đang rất lo ngại. Bởi với uy lực lớn, khả năng che giấu cao, lại không để lại di họa bức xạ hạt nhân, nên nếu bom phản vật chất lọt vào tay những kẻ hiếu chiến, khủng bố thì hậu quả thật khôn lường.
Và loại vũ khí mới mà Edward gọi là "sạch" này lại khiến các nhà quân sự thế giới hết sức lo lắng.
Một số nhà khoa học, nhà sử học, trung tâm nghiên cứu cao cấp Đại học Prinston, Mỹ đã chỉ ra, VKPVC "sạch" khác xa so với vũ khí hạt nhân "bẩn" và nó còn đáng sợ hơn nhiều.
Bom nguyên tử thông thường, bom hydro nói chung chỉ coi là thủ đoạn uy hiếp chiến lược, cơ bản không được sử dụng trong chiến tranh thông thường và chiến tranh cục bộ.
Vì chúng ngoài uy lực lớn, còn sinh ra bức xạ hạt nhân, gây ô nhiễm thổ nhưỡng, không khí, nguồn nước khu vực chiến tranh, đồng thời tạo ra tổn thương nhiễm phóng xạ đối với sinh vật và thực vật, dẫn đến thảm họa nhân đạo.
Giới phân tích cho rằng, sự lo lắng của các chuyên gia quân sự không phải không có lý.
Vì ngay từ năm 2004, sau khi Edward công khai kết quả tiến triển nghiên cứu phản vật chất của ông ta, một số nước đã lao vào nghiên cứu phát triển lĩnh vực nhạy cảm này.
Pháp và Thụy Điển đã hợp tác xây dựng Trung tâm Nghiên cứu phản vật chất châu Âu; Cơ sở nghiên cứu vật lý cao năng của Nga cũng đang nghiên cứu phản vật chất dùng cho quân sự.
Cho nên, giới khoa học Mỹ đã gọi Edward là "Người cha của VKPVC", nhưng có người đã ví Edward như là "người mở bình ma quỷ".
---------------------------
Truy cập chuyên mục mới KHÁM PHÁ để với những câu chuyện Bí Ẩn, Sự Thật Thú Vị và Độc Dị Lạ các bạn nhé!
Một chiếc máy bay hai động cơ đã được tìm thấy trong đầm lầy rừng sâu New Guinea năm 1985.
Mặc dù đã bị mất tích gần 48 năm nhưng chiếc máy bay vẫn còn mới y nguyên, từ nhãn hiệu đến lớp sơn vẫn còn sáng bóng, vỏ máy bay không hề có vết xước. Điều này khiến những người phát hiện khá kinh ngạc.
Trong khoang máy bay, người ta còn tìm thấy một tờ báo có ghi rõ ngày tháng xuất bản là ngày chủ nhật thứ ba của tháng 1 năm 1937. Ngoài ra, cà phê được giữ trong bình vẫn còn ấm và còn nguyên mùi vị.
Phía quân đội cử người đến điều tra nhưng vẫn không thể lý giải được chuyện lạ này. Chỉ biết đây là chiếc máy bay dân dụng cất cánh từ Manila, Philippnes đến Trung Quốc năm 1937.
2. Cánh đồng xuất hiện hình thù kỳ lạ
Một vòng rộng tới 183m với hình thù kỳ lạ giống như hình con sứa khổng lồ xuất hiện trên cánh đồng lúa mạch tại Kingstone Coobes, Oxford. Đây là một trong những vòng hình thù kỳ lạ nhất trên thế giới.
Karen Alexander, một chuyên gia chuyên nghiên cứu về vòng hình thù
trên cánh đồng cho biết, ông đã nhìn thấy vòng hình bướm hay chim nhưng
đây là lần đầu tiên ông nhìn thấy vòng hình sứa và hơn nữa lại to đến
vậy.
Một trường hợp tương tự xảy ra tại Argentina nhưng cậu chuyện lại có hậu hơn khi em bé vẫn còn sống.
Con gái bà Analia Bouter bị sinh non 3 tháng và được chuẩn đoán là chết trước sinh ngày 3 tháng 4 tại bệnh viện thành phố Resistencia. Sau đó bé gái được đặt quan tài và đưa đến nhà xác.
Mười hai tiếng sau, hai vợ chồng bà đến thăm con gái để nói lời từ biệt thì phát hiện con gái đang run rẩy trong quan tài: “Tôi bước đến và ngắm nghía và chạm vào bàn tay cháu sau đó tôi quay đi.
Bỗng tôi nghe thấy tiếng khóc. Tôi nghĩ mình đang tưởng tượng nhưng tôi vẫn quay lại nhìn và sửng sốt khi thấy cháu tỉnh lại”.
4. Phiến đá rơi lệ
Tại thánh địa người Do Thái Jerusalem, Israel năm 2002 đã xảy ra hiện tượng vô cùng kỳ lạ.
Một phiến đá trên bức tường thành đột nhiên xuất hiện vệt nước kéo dài. Các giáo sĩ nói rằng những người hành hương đã nhìn thấy nước nhỏ giọt ra từ phiến đá.
Cho đến nay phiến đá có diện tích 10 cm x 40 cm này vẫn còn rỉ nước .
Các nhà phong thủy cho rằng nó có thể bị chảy ra từ một ống nước vỡ nào đó. Tuy nhiên, theo các chuyên gia nghiên cứu đây là kiểu rỉ nước rất kỳ lạ vì nó không bay hơi, không tăng lên mà chỉ rỉ ra ở duy nhất một phiến đá.
Trong khi đó, các tín đồ Do Thái đây cho rằng đây là điềm báo ngày tận thế.
5. Lời nguyền Ai Cập cổ đại
Trong quá trình khai quật một trong kiến trúc vĩ đại nhất của lịch sử loài người – Kim Tự Tháp Ai Cập, những nhà khảo cổ đã phát hiện ra lời nguyền tôn nghiêm được khắc trên phiến đá:
"Ai dám quấy nhiễu Pharaon, đôi cánh của thần chết sẽ giáng xuống đầu chúng".
Nhưng vì sự hiếu kỳ, niềm đam mê hay lòng tham cho rằng những lời nguyền thường được đặt trước khu mộ của các vị vua để dọa nạt mà thôi, các nhà khảo cổ học, nhà thám hiểm và những kẻ liều lĩnh vẫn bất chấp lời nguyền tiến sâu vào phía trong.
Tuy nhiên, đã hơn một thế kỷ trôi qua, những sự việc xảy ra liên quan đến lời nguyền khiến cho những kẻ to gan nhất cũng phải khiếp sợ. Tất cả những kẻ dám đột nhập không nhiễm bệnh hiểm nghèo thì cũng chết một cách kỳ lạ.
6. Cậu bé đến từ Sao Hỏa
Cậu bé 9 tuổi người Nga tên là Boriska tự cho rằng mình đến từ sao Hỏa. Cậu có thể kể tường tận lịch sử của các hành tinh cũng như lịch sử cổ đại và tình hình hiện tại trên trái đất.
Một nhóm nghiên cứu đã được cử đến nhà Boriska và cậu bé kể cho mọi người nghe về cuộc sống trên Sao Hỏa.
Cậu kể về cư dân, các chuyến bay của họ đến trái đất và các hành tinh khác và về đất nước cổ đại trên trái đất Lemuria vì cậu đã đáp xuống đó từ Sao Hỏa.
Theo lời kể của mẹ Boriska, cậu biết đọc từ khi 18 tháng tuổi và biết vẽ khi lên 2. Giáo viên mầm non hoàn toàn kinh ngạc về khả năng, cách suy nghĩ khác thường và trí nhớ siêu phàm của cậu.
Boriska cũng thường xuyên kể cho bố mẹ nghe về cuộc sống trước đây trên Sao Hỏa và rằng thực tế Sao Hỏa có người ở nhưng do một thảm họa khủng khiếp mà nơi này mất tầng khí quyển và hiện phải sống ở thành phố dưới lòng đất.
7. Chiếc đĩa bay kỳ lạ
Năm 1974, trung tâm Radar phòng không của Mỹ phát hiện một vật thể lạ bay với tốc độ 4000km/h hướng về bang Chihuahua, Mexico, cùng lúc một chiếc máy bay nhỏ cũng cất cánh từ Texas đến thành phố Mexico City.
Không lâu sau đó một vụ va chạm mạnh đã xảy ra giữa vật thể lạ và
chiếc máy bay. Khi quân đội Mexico tới hiện trường, họ phát hiện ra vật
thể cỡ lớn có hình dáng như chiếc đĩa.
Phía quân đội Mexico đã cử đến một chiếc xe tải nhỏ và một nhóm binh lính nhằm vận chuyển vật thể lạ này về trung tâm nhưng tất cả bị chết một cách kỳ lạ do tác động của một sức nén cực mạnh.
Xem tiếp...
Bí mật vũ khí ghê rợn nhất thời đại
Vân Nam | 01/04/2015 14:09
Chia sẻ:
Sau gần 20 năm tìm tòi, gần đây khi Edward tiết lộ loại vũ khí mới này có uy lực vượt xa bom nguyên tử - vài gram sẽ có thể hủy diệt trái đất, khiến nhiều người sợ hãi và lo lắng. Năm 1990, tại căn cứ không quân Glyn, Mỹ, Tiến sĩ Kenis Edward và các cộng sự trong nhóm nghiên cứu phát triển "cải cách vũ khí", Mỹ bắt đầu thực hiện công việc nghiên cứu vũ khí phản vật chất này.
Ba đại "Bí mật của thế kỷ"Đầu năm 2009, trong cuộc họp với các quan chức cao cấp quân sự Lầu Năm Góc, giới thiệu về tiến triển nghiên cứu phát triển vũ khí phản vật chất (VKPVC), Edward nói: "Ba đại bí mật thế kỷ đã kích thích những nghiên cứu của tôi".
Edward cho biết, "bí mật thế kỷ" đầu tiên và nổi tiếng nhất là vụ nổ Tungus, xảy ra sáng sớm ngày 30/6/1908, trong rừng rậm vùng Tungus, Siberia, Nga.
Đây là một vụ nổ lớn chưa có tiền lệ trong lịch sử. Uy lực của nó tương đương với 1.000 quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima, Nhật Bản đồng thời nổ, khiến mọi vật và sự sống trong vùng nổ vài trăm kilômét vuông bị hủy diệt.
Cho đến nay vẫn chưa ai giải thích được nguyên nhân của vụ nổ này.
Ảnh minh họa.
Thời kỳ này chỉ có vài nước như Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp, Trung Quốc... có vũ khí hạt nhân, nguyên nhân nổ hạt nhân ở Tây Phi cho đến nay vẫn không rõ.
Lần thứ 3 "bí mật thế kỷ" xảy ra lúc 22h ngày 29/4/1984. Lúc đó một số máy bay của Nhật Bản bay đến bầu trời Alaska - Mỹ, Phó cơ trưởng bỗng nhiên phát hiện phía trước có một "đụn mây hình nấm" rất nhanh khuếch tán ra xung quanh...
Cơ trưởng của 3 chiếc máy bay khác trên cùng đường bay cũng nhìn thấy hiện tượng lạ này.
Nhưng sau khi cả 4 chiếc máy bay này hạ cánh, các nhân viên trên máy bay và trên thân máy bay đều được kiểm tra, đã không phát hiện thấy bất kỳ dấu tích nhiễm phóng xạ nào.
Mãi đến năm 1986, sau khi giới khoa học có những nghiên cứu đột phá về phản vật chất, mới có người lên tiếng: Ba vụ nổ trên có thể là kết quả của các cuộc thử nghiệm "điều khiển phát triển phản vật chất".
Edward sinh năm 1960, công dân Mỹ. Năm 1990, tốt nghiệp ngành vật lý tại Viện Công nghệ Massa, Mỹ, rồi nhận bằng tiến sĩ, sau đó đến làm việc tại Cơ sở Nghiên cứu máy gia tốc quốc gia Feymi, Mỹ. Tại đây, Edward bắt đầu đi sâu nghiên cứu lý luận phản vật chất.
Edward cho biết: "Chúng ta đều biết, vật thể trong tự nhiên đều hợp thành từ proton, nơtron và điện tử, nhưng tất cả những hạt vi mô đều có phản hạt của chính nó. Chính uy lực sản sinh ra của những phản vật chất (phản hạt) này đã được bộc lộ qua “3 đại bí mật thế kỷ".
Ngày 24/3/2004, trong Hội thảo Những khái niệm tiên tiến do Cục Hàng không vũ trụ Mỹ tổ chức, Edward tới dự và phát biểu những lời tỏ ra bi quan:
"Tuy các nước đã đầu tư nhân lực, vật lực to lớn, nhưng việc nghiên cứu phản vật chất vẫn tiến triển chậm chạp, nguyên nhân là vì không có cách nào sử dụng máy gia tốc hạt để sản xuất ra đủ lượng phản vật chất.
Hơn nữa, để sản xuất ra 1 phần tỉ gram phản vật chất yêu cầu tiêu tốn vài tỉ USD! Ngoài ra, hoạt động của điện tử dương rất khó khống chế, rất khó lưu giữ chúng trong một dụng cụ đặc biệt; điều đó có nghĩa là, nó không có giá trị quân sự"!
Từ sau cuộc họp đó, người ta hầu như không thấy Edward và nhóm cộng sự xuất hiện nữa. Có lúc người ta cho rằng, có thể Edward thấy khó nên đã sớm rút lui?
Kinh hoàng hơn bom nguyên tử?
Theo tiết lộ, tháng 8/2008, Edward xuất hiện tại Lầu Năm Góc, báo cáo trước các quan chức cao cấp quân đội Mỹ về thành quả tiến triển nghiên cứu mới nhất của ông ta về VKPVC.
"Trên nghiên cứu VKPVC của chúng ta đã có được sự đột phá quan trọng, chúng ta đã thành công trong việc nghiên cứu phát triển một loạt dụng cụ có thể tồn giữ phản vật chất lâu dài có hiệu quả, điều này có nghĩa là việc sử dụng phản vật chất trong quân sự sẽ trở thành hiện thực"!
Sau đó, Edward bắt đầu trình bày trước giới quân sự về uy lực của VKPVC.
Vệ tinh nghiên cứu phản vật chất.
Một ngày vào năm 201X, một binh sĩ Mỹ mang theo một quả bom PVC định giờ tiềm nhập vào thủ đô nước C; vào trong một nhà vệ sinh của tòa nhà Bộ Tổng tham mưu nước C gần trung tâm thành phố, đặt quả bom rồi ung dung đi ra.
Đúng như kế hoạch, bom định giờ phản vật chất nổ, tòa nhà Bộ Tổng tham mưu nước C và các công trình phụ cận đổ sụp hết. Quả bom PVC mà binh sĩ này mang chỉ nặng 1 phần 50 triệu gram!
Tiếp sau đó, một quả bom xung mạch PVC nổ trên không tại nhà máy điện và mạng thông tin nước C, chỉ trong nháy mắt mọi hoạt động quân sự và xã hội của nước này tê liệt hoàn toàn...
Lúc đó, có tướng lĩnh đã thốt lên "nếu vậy, chỉ cần quả bom phản vật chất nặng vài gram sẽ hủy diệt toàn cầu".
Kết thúc diễn tập, Edward giải thích: "Quan hệ giữa vật chất và phản vật chất rất giống với học thuyết âm dương của Trung Quốc.
Trong tự nhiên, bất cứ một hạt thứ nguyên tử nào (hạt nhỏ hơn nguyên tử) đều có một loại phản vật chất đối ứng với nó. Nếu va chạm mạnh với nhau chúng sẽ mất đi, nhưng sẽ giải phóng ra năng lượng cực lớn.
Bom phản vật chất được tạo ra trên cơ sở nguyên lý này, uy lực chẳng kém gì bom khinh khí. Nhưng đó là loại bom khinh khí sạch vì nó không gây ra ô nhiễm "bức xạ hạt nhân".
"Đặc biệt, phản vật chất không chỉ được ứng dụng để chế tạo bom phục vụ chiến tranh. Một gam phản vật chất có thể tạo lực đẩy phóng vào vũ trụ 23 chiếc phi thuyền.
Chính vì thế, phản vật chất sẽ làm thay đổi về căn bản mô hình cung cấp năng lượng", Tiến sĩ Edwards nhấn mạnh.
Màn hình đã tắt, nhưng các quan chức Lầu Năm Góc vẫn bàng hoàng. Quả thực, sức công phá của bom phản vật chất đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với họ.
"Thật kinh khủng! Như vậy, chỉ cần một quả bom phản vật chất nặng vài gam là có thể hủy diệt cả trái đất này", một quan chức cao cấp của Lầu Năm Góc thốt lên.
Dư luận hiện đang rất lo ngại. Bởi với uy lực lớn, khả năng che giấu cao, lại không để lại di họa bức xạ hạt nhân, nên nếu bom phản vật chất lọt vào tay những kẻ hiếu chiến, khủng bố thì hậu quả thật khôn lường.
Và loại vũ khí mới mà Edward gọi là "sạch" này lại khiến các nhà quân sự thế giới hết sức lo lắng.
Một số nhà khoa học, nhà sử học, trung tâm nghiên cứu cao cấp Đại học Prinston, Mỹ đã chỉ ra, VKPVC "sạch" khác xa so với vũ khí hạt nhân "bẩn" và nó còn đáng sợ hơn nhiều.
Bom nguyên tử thông thường, bom hydro nói chung chỉ coi là thủ đoạn uy hiếp chiến lược, cơ bản không được sử dụng trong chiến tranh thông thường và chiến tranh cục bộ.
Vì chúng ngoài uy lực lớn, còn sinh ra bức xạ hạt nhân, gây ô nhiễm thổ nhưỡng, không khí, nguồn nước khu vực chiến tranh, đồng thời tạo ra tổn thương nhiễm phóng xạ đối với sinh vật và thực vật, dẫn đến thảm họa nhân đạo.
Giới phân tích cho rằng, sự lo lắng của các chuyên gia quân sự không phải không có lý.
Vì ngay từ năm 2004, sau khi Edward công khai kết quả tiến triển nghiên cứu phản vật chất của ông ta, một số nước đã lao vào nghiên cứu phát triển lĩnh vực nhạy cảm này.
Pháp và Thụy Điển đã hợp tác xây dựng Trung tâm Nghiên cứu phản vật chất châu Âu; Cơ sở nghiên cứu vật lý cao năng của Nga cũng đang nghiên cứu phản vật chất dùng cho quân sự.
Cho nên, giới khoa học Mỹ đã gọi Edward là "Người cha của VKPVC", nhưng có người đã ví Edward như là "người mở bình ma quỷ".
---------------------------
Truy cập chuyên mục mới KHÁM PHÁ để với những câu chuyện Bí Ẩn, Sự Thật Thú Vị và Độc Dị Lạ các bạn nhé!
theo Cảnh sát toàn cầu
Những bí ẩn tâm linh kinh ngạc nhất trong lịch sử thế giới
Minh Châu | 07/04/2015 07:00
Chia sẻ:
Một chiếc máy bay hai động cơ đã bị mất tích gần 48 năm nhưng vẫn còn mới y nguyên, từ nhãn hiệu đến lớp sơn vẫn còn sáng bóng, vỏ máy bay không hề có vết xước khi được tìm thấy. Đây là một tỏng những bí ẩn đáng kinh ngạc nhất trong lịch sử thế giới.
1. Chiếc máy bay bí ẩnMột chiếc máy bay hai động cơ đã được tìm thấy trong đầm lầy rừng sâu New Guinea năm 1985.
Mặc dù đã bị mất tích gần 48 năm nhưng chiếc máy bay vẫn còn mới y nguyên, từ nhãn hiệu đến lớp sơn vẫn còn sáng bóng, vỏ máy bay không hề có vết xước. Điều này khiến những người phát hiện khá kinh ngạc.
Trong khoang máy bay, người ta còn tìm thấy một tờ báo có ghi rõ ngày tháng xuất bản là ngày chủ nhật thứ ba của tháng 1 năm 1937. Ngoài ra, cà phê được giữ trong bình vẫn còn ấm và còn nguyên mùi vị.
Phía quân đội cử người đến điều tra nhưng vẫn không thể lý giải được chuyện lạ này. Chỉ biết đây là chiếc máy bay dân dụng cất cánh từ Manila, Philippnes đến Trung Quốc năm 1937.
2. Cánh đồng xuất hiện hình thù kỳ lạ
Một vòng rộng tới 183m với hình thù kỳ lạ giống như hình con sứa khổng lồ xuất hiện trên cánh đồng lúa mạch tại Kingstone Coobes, Oxford. Đây là một trong những vòng hình thù kỳ lạ nhất trên thế giới.
Nó có thể
được tạo ra trong đêm bởi một nhóm "người ngoài hành tinh" hoặc xảy ra
do hiện tượng tự nhiên khi một tia sét bất thường dội lên trái đất.
Gia đình cậu được phen hú vía, quyết định hoãn đám tang mong chờ cậu tỉnh lại nhưng điều kì diệu đã không xảy ra.
3. Cậu bé bật dậy sau khi “chết”
Cậu
bé 2 tuổi Kelvin Santos ở Brazil được xác định đã qua đời sau biến
chứng viêm phế quản tại bệnh viện Aberlardo Santos Hospital.
Khi
gia đình đang cử hành tang lễ, cậu bé đột nhiên bật dậy từ trong quan
tài và đòi bố cho uống nước rồi lại nằm xuống ngay sau đó.
Một trường hợp tương tự xảy ra tại Argentina nhưng cậu chuyện lại có hậu hơn khi em bé vẫn còn sống.
Con gái bà Analia Bouter bị sinh non 3 tháng và được chuẩn đoán là chết trước sinh ngày 3 tháng 4 tại bệnh viện thành phố Resistencia. Sau đó bé gái được đặt quan tài và đưa đến nhà xác.
Mười hai tiếng sau, hai vợ chồng bà đến thăm con gái để nói lời từ biệt thì phát hiện con gái đang run rẩy trong quan tài: “Tôi bước đến và ngắm nghía và chạm vào bàn tay cháu sau đó tôi quay đi.
Bỗng tôi nghe thấy tiếng khóc. Tôi nghĩ mình đang tưởng tượng nhưng tôi vẫn quay lại nhìn và sửng sốt khi thấy cháu tỉnh lại”.
4. Phiến đá rơi lệ
Tại thánh địa người Do Thái Jerusalem, Israel năm 2002 đã xảy ra hiện tượng vô cùng kỳ lạ.
Một phiến đá trên bức tường thành đột nhiên xuất hiện vệt nước kéo dài. Các giáo sĩ nói rằng những người hành hương đã nhìn thấy nước nhỏ giọt ra từ phiến đá.
Cho đến nay phiến đá có diện tích 10 cm x 40 cm này vẫn còn rỉ nước .
Các nhà phong thủy cho rằng nó có thể bị chảy ra từ một ống nước vỡ nào đó. Tuy nhiên, theo các chuyên gia nghiên cứu đây là kiểu rỉ nước rất kỳ lạ vì nó không bay hơi, không tăng lên mà chỉ rỉ ra ở duy nhất một phiến đá.
Trong khi đó, các tín đồ Do Thái đây cho rằng đây là điềm báo ngày tận thế.
5. Lời nguyền Ai Cập cổ đại
Trong quá trình khai quật một trong kiến trúc vĩ đại nhất của lịch sử loài người – Kim Tự Tháp Ai Cập, những nhà khảo cổ đã phát hiện ra lời nguyền tôn nghiêm được khắc trên phiến đá:
"Ai dám quấy nhiễu Pharaon, đôi cánh của thần chết sẽ giáng xuống đầu chúng".
Nhưng vì sự hiếu kỳ, niềm đam mê hay lòng tham cho rằng những lời nguyền thường được đặt trước khu mộ của các vị vua để dọa nạt mà thôi, các nhà khảo cổ học, nhà thám hiểm và những kẻ liều lĩnh vẫn bất chấp lời nguyền tiến sâu vào phía trong.
Tuy nhiên, đã hơn một thế kỷ trôi qua, những sự việc xảy ra liên quan đến lời nguyền khiến cho những kẻ to gan nhất cũng phải khiếp sợ. Tất cả những kẻ dám đột nhập không nhiễm bệnh hiểm nghèo thì cũng chết một cách kỳ lạ.
6. Cậu bé đến từ Sao Hỏa
Cậu bé 9 tuổi người Nga tên là Boriska tự cho rằng mình đến từ sao Hỏa. Cậu có thể kể tường tận lịch sử của các hành tinh cũng như lịch sử cổ đại và tình hình hiện tại trên trái đất.
Một nhóm nghiên cứu đã được cử đến nhà Boriska và cậu bé kể cho mọi người nghe về cuộc sống trên Sao Hỏa.
Cậu kể về cư dân, các chuyến bay của họ đến trái đất và các hành tinh khác và về đất nước cổ đại trên trái đất Lemuria vì cậu đã đáp xuống đó từ Sao Hỏa.
Theo lời kể của mẹ Boriska, cậu biết đọc từ khi 18 tháng tuổi và biết vẽ khi lên 2. Giáo viên mầm non hoàn toàn kinh ngạc về khả năng, cách suy nghĩ khác thường và trí nhớ siêu phàm của cậu.
Boriska cũng thường xuyên kể cho bố mẹ nghe về cuộc sống trước đây trên Sao Hỏa và rằng thực tế Sao Hỏa có người ở nhưng do một thảm họa khủng khiếp mà nơi này mất tầng khí quyển và hiện phải sống ở thành phố dưới lòng đất.
7. Chiếc đĩa bay kỳ lạ
Năm 1974, trung tâm Radar phòng không của Mỹ phát hiện một vật thể lạ bay với tốc độ 4000km/h hướng về bang Chihuahua, Mexico, cùng lúc một chiếc máy bay nhỏ cũng cất cánh từ Texas đến thành phố Mexico City.
Phía quân đội Mexico đã cử đến một chiếc xe tải nhỏ và một nhóm binh lính nhằm vận chuyển vật thể lạ này về trung tâm nhưng tất cả bị chết một cách kỳ lạ do tác động của một sức nén cực mạnh.
theo Ngaynay.vn
ĐIA LINH NHÂN KIỆT 57 (Thượng tướng Vũ Lăng)
(ĐC sưu thầm trên NET)
Thượng tướng Vũ Lăng (1921–1988) tên thật là Đỗ Đức Liêm là một trong những vị tướng lập được nhiều chiến công lớn trong những trận đánh quan trọng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông là người đã có công lao to lớn trong chiến thắng của chiến dịch Tây Nguyên mà trận Buôn Ma Thuột là điển hình. Ông quê quán tại xã Ngũ Hiệp, Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội.
Trên cương vị là Cục trưởng Cục tác chiến bộ tổng tham mưu, rồi là Tư lệnh mặt trận Tây nguyên và Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Vũ Lăng đã xây dựng phương án tác chiến, tham mưu chỉ huy và đã giành được thắng lợi trong trận Buôn Ma Thuột giải phóng Tây Nguyên, tạo ra bước đột phá quan trọng trong việc thống nhất Việt Nam. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, mùa xuân năm 1975, ông là tư lệnh Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) đảm nhiệm hướng Tây Bắc, là tấn công chủ yếu của chiến dịch, tiêu diệt Sư đoàn 25 của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, sau đó tiếp tục đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu nguỵ. Quân đoàn 3 dưới sự chỉ huy của ông đã nhanh chóng bao vây chia cắt, đập tan mọi sự kháng cự của Sư đoàn 25 quân đội Việt nam Cộng hòa, là quân đoàn đầu tiên đặt chân đến cửa ngõ Sài Gòn và vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã giương cao lá cờ của quân đoàn trên nóc tòa nhà bộ tư lệnh không quân & Bộ Tổng tham mưu của quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Xem tiếp...
Vũ Lăng (thượng tướng)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trong kháng chiến chống Pháp
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, ông là một trong những chiến sĩ Nam tiến đầu tiên chiến đấu ở mặt trận Nha Trang-Ninh Hòa. Sau đó ông ra bắc, vào ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Vũ Lăng là quyết tử quân của trung đoàn Thủ Đô, tham gia chiến đấu bảo vệ Bắc bộ phủ. Sau cuộc rút lui an toàn không mất một người lính, một khẩu súng nào vào đêm 17 tháng 2 năm 1947 của trung đoàn Thủ đô ra vùng tự do, Vũ Lăng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 54, trung đoàn Thủ đô (E102), đại đoàn 308. Ông đã chỉ huy tiểu đoàn trong trận hạ đồn Đại Bục, mở màn chiến dịch tấn công vào phòng tuyến sông Thao, đúng ngày sinh nhật của Hồ Chí Minh năm 1949. Từ năm 1953 ông là trung đoàn trưởng trung đoàn 98, đại đoàn 316. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trung đoàn 98 do Vũ Lăng chỉ huy đã thắng trong trận đánh đồi C1 góp phần quan trọng vào chiến thắng của chiến dịch.Trong chiến tranh Việt Nam - Kháng chiến chống Mỹ
Trong kháng chiến chống Mỹ, Vũ Lăng đã giữ những chức vụ quan trọng trong quân đội như Tham mưu trưởng Sư đoàn 316 rồi Cục phó cục khoa học Quân sự Bộ tổng Tham mưu, phó Tư lệnh quân khu 4, Cục phó rồi Cục trưởng Cục tác chiến, Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, Phó Tư lệnh Chiến dịch Tây Nguyên rồi tư lệnh quân đoàn 3.Trên cương vị là Cục trưởng Cục tác chiến bộ tổng tham mưu, rồi là Tư lệnh mặt trận Tây nguyên và Phó Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Vũ Lăng đã xây dựng phương án tác chiến, tham mưu chỉ huy và đã giành được thắng lợi trong trận Buôn Ma Thuột giải phóng Tây Nguyên, tạo ra bước đột phá quan trọng trong việc thống nhất Việt Nam. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, mùa xuân năm 1975, ông là tư lệnh Quân đoàn 3 (Binh đoàn Tây Nguyên) đảm nhiệm hướng Tây Bắc, là tấn công chủ yếu của chiến dịch, tiêu diệt Sư đoàn 25 của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, sau đó tiếp tục đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất và Bộ Tổng tham mưu nguỵ. Quân đoàn 3 dưới sự chỉ huy của ông đã nhanh chóng bao vây chia cắt, đập tan mọi sự kháng cự của Sư đoàn 25 quân đội Việt nam Cộng hòa, là quân đoàn đầu tiên đặt chân đến cửa ngõ Sài Gòn và vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã giương cao lá cờ của quân đoàn trên nóc tòa nhà bộ tư lệnh không quân & Bộ Tổng tham mưu của quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau chiến tranh
Sau ngày Việt Nam thống nhất, ông được giao trọng trách Giám đốc Học viện Lục quân Đà Lạt (1977-1988).Lịch sử thụ phong quân hàm
Năm thụ phong | 1958 | 1966 | 1974 | 1980 | 1986 | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quân hàm | |||||||||||
Cấp bậc | Thượng tá | Đại tá | Thiếu tướng | Trung tướng | Thượng tướng | ||||||
Huân, huy chương
Do những công lao trong 2 cuộc kháng chiến, Thượng tướng Vũ Lăng đã được thưởng nhiều huân chương cao quý:- Huân chương Độc lập hạng nhất
- Ba huân chương Quân công (2 hạng nhất, 1 hạng 3)
- Huân chương Chiến thắng hạng nhất
- Huân chương Kháng chiến hạng nhất
- Ba huân chương Chiến sĩ vẻ vang (hạng nhất, nhì, ba)
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
Tham khảo
- "Vũ Lăng - Từ một quyết tử quân" - Nhiều tác giả - Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân
- "Chiến đấu trong vòng vây" - Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (2001)
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 11:52 ngày 31 tháng 1 năm 2015.
Thượng tướng Vũ Lăng, vị tướng hổ lửa
Thượng tướng Vũ Lăng (sinh 4/8/1921 – mất 1988), Giáo
sư Khoa học Quân sự, nguyên Viện trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Học viện Lục
quân Đà Lạt, nguyên Tư lệnh Binh đoàn Tây Nguyên và Phó Tư lệnh Chiến
dịch Tây Nguyên, nguyên Cục trưởng Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu Quân
đội Nhân dân Việt Nam.
Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quân công 2 hạng Nhất 1 hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất Nhì Ba.
Thượng tướng Vũ Lăng tên thật là Đỗ Đức Liêm, ông sinh ra tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoài thành Hà Nội trong một gia đình yêu nước, sớm giác ngộ Cách mạng. Năm 16 tuổi ông là thợ rồi sau đó là y tá tại Bệnh viện Phủ Lý tỉnh Hà Nam.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cử đi học ở Trường Quân chính Việt Nam (khóa 5). Tháng 11 - 1945, theo lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông tham gia đoàn quân Nam tiến vào nam Trung Bộ chiến đấu, được cử làm chỉ đạo viên trung đội, sau đó là Phó ban huấn luyện khu 6, rồi Phó ủy viên quân sự Ninh Hòa.
Tháng 6 - 1946, ông ra Bắc, được cử làm đội phó bảo vệ Bắc Bộ phủ (Hà Nội). Trên cương vị mới, ông luôn gương mẫu, lãnh đạo anh em, một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội, ông đã có nhiều thành tích và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) tháng 2 -1947.
Sau cuộc rút lui an toàn không mất một người lính, một khẩu súng nào vào đêm 17 tháng 2 năm 1947 của trung đoàn Thủ đô ra vùng tự do, Vũ Lăng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 54, trung đoàn Thủ đô (E102), đại đoàn 308. Ông đã chỉ huy tiểu đoàn trong trận hạ đồn Đại Bục, mở màn chiến dịch tấn công vào phòng tuyến sông Thao, đúng ngày sinh nhật của chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1949. Từ năm 1947 đến năm 1954, ông tham gia các chiến dịch Việt Bắc. Sông Thao, Biên Giới, Trung Du, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào.
Từ năm 1953 ông là trung đoàn trưởng trung đoàn 98, đại đoàn 316, đồng thời là tham mưu trưởng Đại đoàn. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trung đoàn 98 do Vũ Lăng chỉ huy, là một trong các Trung đoàn chủ lực, đã thắng trong trận đánh đồi C1 góp phần quan trọng vào chiến thắng của chiến dịch.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đầu năm 1956 ông được lựa chọn cử đi học tập tại Học viện cao cấp Bộ Tổng tham mưu (Liên Xô) mang tên Vô-rô-xi-lốp. Ông đã cùng đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và trở về nước cuối năm 1959 và được cử làm Cục phó Cục nghiên cứu khoa học quân sự Bộ Tổng tham mưu.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước muôn vàn khó khăn, thử thách, trên các cương vị công tác khác nhau, lúc ở cơ quan tham mưu chiến lược, khi ở các bộ tư lệnh chiến trường, ông luôn thể hiện là một cán bộ quân sự có năng lực tư duy sáng tạo, nhạy bén trong tổ chức chỉ huy và tính quyết đoán chịu trách nhiệm cao trước tập thể, lãnh đạo, chỉ huy cơ quan đơn vị. Trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 1965-1967), được Bộ Quốc phòng điều động và làm Phó tư lệnh Quân khu 4. Đến nơi chiến trường đang diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, ông đã cùng với tập thể Bộ tư lệnh quân khu xây dựng phương án tác chiến, đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu, đánh thắng máy bay và tàu chiến Mỹ. Bên cạnh đó, ông còn cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đào tạo được nhiều cán bộ chỉ huy bổ sung cho chiến trường miền Nam.
Thực hiện chủ trương về kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy cao cấp trong quân đội và chuẩn bị các phương án tác chiến với quân Mỹ, cuối năm 1967 ông chuyển về Bộ và được cử làm Cục phó rồi Cục trưởng Cục tác chiến. Trên cương vị công tác ở cơ quan tham mưu chiến lược, với tư duy khoa học, năng động, sáng tạo quyết đoán và dầy dặn kinh nghiệm, ông đã đầu tư trí tuệ và có những đóng góp to lớn trong quá trình xây dựng các phương án tác chiến, góp phần vào thắng lợi lớn của quân đội ta trên hai miền Nam Bắc.
Năm 1974, theo yêu cầu của chiến trường, Thiếu tướng Vũ Lăng được cử vào giữ chức Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên. Cùng với tập thể Đảng ủy Bộ Tư lệnh mặt trận, ông đã triệt để chấp hành sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy trung ương, phát huy tính sáng tạo của mình cùng lãnh đạo mặt trận đề xuất ý kiến với Bộ và tiến hành tốt nhất công tác chuẩn bị và chỉ huy trận mở màn then chốt quyết định Buôn Ma Thuột. Tháng 3 - 1975, ông là Phó tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên và Tư lệnh binh đoàn Tây Nguyên. Ở cương vị mới trên chiến trường ông luôn gương mẫu, chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, các chỉ thị mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, luôn đặt lợi ích của cách mạng lên trên, giữ vững tính nguyên tắc của Đảng, cùng tập thể đơn vị xây dựng phương án tác chiến tối ưu, chỉ huy bộ đội chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh binh đoàn Tây Nguyên chỉ huy binh đoàn tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, góp phần quan trọng giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Bước vào thời kỳ cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, năm 1977, trên cương vị mới là Viện trưởng và Bí thư Đảng ủy Học viện Lục quân, ông đã cùng Đảng ủy và Ban Giám hiệu Học viện lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng học viện đi vào nền nếp và ngày càng vững mạnh về mọi mặt.
Với kinh nghiệm về xây dựng quân đội đã tích lũy được trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông đã có nhiều đóng góp trong nghiên cứu đào tạo, bổ túc cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn và phát triển khoa học quân sự. Ông chỉ đạo biên soạn một hệ thống tài liệu với khối lượng lớn, đáp ứng kịp thời đầy đủ cho công tác huấn luyện của tám chuyên ngành binh chủng lục quân. Những tài liệu được Hội đồng khoa học Học viện thông qua có nhiều ý kiến đóng góp và kết luận rất sâu sắc của ông, góp phần rất quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện và cả các nhà trường Quân đội.
Trong suốt những năm công tác tại Học viện Lục quân, ông đã đem hết khả năng, trí tuệ của mình để cùng với Ban Giám đốc Học viện triển khai nghiên cứu thành công nhiều công trình, đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ Quốc phòng có tác dụng đối với việc xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Năm 1980, Thiếu tướng Vũ Lăng được thăng quân hàm Trung tướng, năm 1986, được thăng quân hàm Thượng tướng. Thượng tướng Vũ Lăng đã được Nhà nước phong học hàm Giáo sư khoa học quân sự đợt đầu tiên trong quân đội.
Ông là một trong những vị tướng nóng tính của Quân đội Nhân dân Việt Nam, chính vì vậy mà người ta thường gọi ông là tướng Hổ Lửa. Nóng tính nhưng ông lại rất biết chú ý lắng nghe ý kiến của người khác. Một người có tác phong xuề xòa với đồng cấp và cấp dưới đặc biệt là lính tráng. Thế nên mới có chuyện trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông bị Đại tướng Võ Nguyên Giáp ‘’đuổi’’ ra khỏi cuộc họp các Trung đoàn trưởng và Sư đoàn trưởng để ‘’chỉnh đốn tác phong’’ hay có chuyện ‘’lính 2 râu (lính thuộc Trung đoàn 66) sờ râu tư lệnh’’ khi ông được điều vào làm Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên.
Ông là một vị tướng có học vấn cao, kiến thức rộng rất yêu văn nghệ và có năng khiếu làm thơ. Trong lần nhận lệnh vào Chiến trường Tây Nguyên đánh Mỹ ông làm bài thơ ‘’Ta lại ra đi’’ nói về vị tướng đã 50 tuổi vẫn hăng hái lên đường ra trận. “Vào nơi lửa cháy bốn bề. Miền Nam lại gọi ta về, bạn ơi!”. Xem ra, thơ ông còn đầy sức trẻ và khoáng đạt lắm:
“Tám chục tuổi vẫn còn lên ngựa
Múa gươm xung trận giữa ba quân
Tướng quân Thường Kiệt tên lừng lẫy
Giặc kia nghe thấy chạy thục thân.
Ta năm nay mới năm mươi lẻ
Tóc dẫu pha sương lòng còn trẻ
Miền Nam tiếng súng còn chưa ngớt
Luống thẹn mình nghe chuyện
người xưa.
Ba lô, gậy cũ lên đường
Vai khoác ba lô lòng trẻ lại
Đầu xanh, đầu bạc kề vai bước
Lại thấy trong ta tuổi đôi mươi”.
Thư của ông những năm tháng ở chiến trường gửi cho bà Hoàng Việt Hoa vợ ông có thể xếp đầy một hòm. Một phần trong số này đã được giới thiệu đăng trong tập ‘’Thơ tình từ chiến hào’’.
Dáng người tầm thước, da trắng và bộ râu quai nón, tướng Vũ Lăng là một trong những tướng ‘’tốt râu’’. Ông là nguyên mẫu của nhân vật Văn Việt trong tác phẩm ‘’Sống mãi với Thủ đô’’ của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Là một chỉ huy tài tình xong ông còn là một người lĩnh dũng cảm. Trong trận chiến đấu ở đồi C1 tại Điện Biên Phủ năm 1954, khi ông chỉ huy Trung đoàn từ chiến hào xông lên đánh giáp lá cà với quân Pháp. Tiếng thét xung phong của ông khiến cho viên chỉ huy Pháp khựng lại, tạo điều kiện cho quân ta xông lên tiêu diệt địch. Thượng tướng Vũ Lăng và Thượng tướng Nguyễn Hữu An là một cặp bài trùng từ những trận đánh ở Điện Biên Phủ cho đến những trận đánh ở Chiến trường Tây Nguyên rồi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Quân công 2 hạng Nhất 1 hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất Nhì Ba.
Thượng tướng Vũ Lăng tên thật là Đỗ Đức Liêm, ông sinh ra tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, ngoài thành Hà Nội trong một gia đình yêu nước, sớm giác ngộ Cách mạng. Năm 16 tuổi ông là thợ rồi sau đó là y tá tại Bệnh viện Phủ Lý tỉnh Hà Nam.
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cử đi học ở Trường Quân chính Việt Nam (khóa 5). Tháng 11 - 1945, theo lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông tham gia đoàn quân Nam tiến vào nam Trung Bộ chiến đấu, được cử làm chỉ đạo viên trung đội, sau đó là Phó ban huấn luyện khu 6, rồi Phó ủy viên quân sự Ninh Hòa.
Tháng 6 - 1946, ông ra Bắc, được cử làm đội phó bảo vệ Bắc Bộ phủ (Hà Nội). Trên cương vị mới, ông luôn gương mẫu, lãnh đạo anh em, một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội, ông đã có nhiều thành tích và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) tháng 2 -1947.
Sau cuộc rút lui an toàn không mất một người lính, một khẩu súng nào vào đêm 17 tháng 2 năm 1947 của trung đoàn Thủ đô ra vùng tự do, Vũ Lăng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 54, trung đoàn Thủ đô (E102), đại đoàn 308. Ông đã chỉ huy tiểu đoàn trong trận hạ đồn Đại Bục, mở màn chiến dịch tấn công vào phòng tuyến sông Thao, đúng ngày sinh nhật của chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1949. Từ năm 1947 đến năm 1954, ông tham gia các chiến dịch Việt Bắc. Sông Thao, Biên Giới, Trung Du, Hoàng Hoa Thám, Hà Nam Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào.
Từ năm 1953 ông là trung đoàn trưởng trung đoàn 98, đại đoàn 316, đồng thời là tham mưu trưởng Đại đoàn. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trung đoàn 98 do Vũ Lăng chỉ huy, là một trong các Trung đoàn chủ lực, đã thắng trong trận đánh đồi C1 góp phần quan trọng vào chiến thắng của chiến dịch.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, đầu năm 1956 ông được lựa chọn cử đi học tập tại Học viện cao cấp Bộ Tổng tham mưu (Liên Xô) mang tên Vô-rô-xi-lốp. Ông đã cùng đồng đội hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập và trở về nước cuối năm 1959 và được cử làm Cục phó Cục nghiên cứu khoa học quân sự Bộ Tổng tham mưu.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trước muôn vàn khó khăn, thử thách, trên các cương vị công tác khác nhau, lúc ở cơ quan tham mưu chiến lược, khi ở các bộ tư lệnh chiến trường, ông luôn thể hiện là một cán bộ quân sự có năng lực tư duy sáng tạo, nhạy bén trong tổ chức chỉ huy và tính quyết đoán chịu trách nhiệm cao trước tập thể, lãnh đạo, chỉ huy cơ quan đơn vị. Trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (năm 1965-1967), được Bộ Quốc phòng điều động và làm Phó tư lệnh Quân khu 4. Đến nơi chiến trường đang diễn ra cuộc chiến tranh phá hoại rất ác liệt của đế quốc Mỹ, ông đã cùng với tập thể Bộ tư lệnh quân khu xây dựng phương án tác chiến, đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu, đánh thắng máy bay và tàu chiến Mỹ. Bên cạnh đó, ông còn cùng Bộ Tư lệnh Quân khu 4 đào tạo được nhiều cán bộ chỉ huy bổ sung cho chiến trường miền Nam.
Thực hiện chủ trương về kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy cao cấp trong quân đội và chuẩn bị các phương án tác chiến với quân Mỹ, cuối năm 1967 ông chuyển về Bộ và được cử làm Cục phó rồi Cục trưởng Cục tác chiến. Trên cương vị công tác ở cơ quan tham mưu chiến lược, với tư duy khoa học, năng động, sáng tạo quyết đoán và dầy dặn kinh nghiệm, ông đã đầu tư trí tuệ và có những đóng góp to lớn trong quá trình xây dựng các phương án tác chiến, góp phần vào thắng lợi lớn của quân đội ta trên hai miền Nam Bắc.
Năm 1974, theo yêu cầu của chiến trường, Thiếu tướng Vũ Lăng được cử vào giữ chức Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên. Cùng với tập thể Đảng ủy Bộ Tư lệnh mặt trận, ông đã triệt để chấp hành sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy trung ương, phát huy tính sáng tạo của mình cùng lãnh đạo mặt trận đề xuất ý kiến với Bộ và tiến hành tốt nhất công tác chuẩn bị và chỉ huy trận mở màn then chốt quyết định Buôn Ma Thuột. Tháng 3 - 1975, ông là Phó tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên và Tư lệnh binh đoàn Tây Nguyên. Ở cương vị mới trên chiến trường ông luôn gương mẫu, chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, các chỉ thị mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, luôn đặt lợi ích của cách mạng lên trên, giữ vững tính nguyên tắc của Đảng, cùng tập thể đơn vị xây dựng phương án tác chiến tối ưu, chỉ huy bộ đội chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công xuất sắc. Tiếp đó, Bộ Tư lệnh binh đoàn Tây Nguyên chỉ huy binh đoàn tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy, góp phần quan trọng giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Bước vào thời kỳ cả nước xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, năm 1977, trên cương vị mới là Viện trưởng và Bí thư Đảng ủy Học viện Lục quân, ông đã cùng Đảng ủy và Ban Giám hiệu Học viện lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng học viện đi vào nền nếp và ngày càng vững mạnh về mọi mặt.
Với kinh nghiệm về xây dựng quân đội đã tích lũy được trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông đã có nhiều đóng góp trong nghiên cứu đào tạo, bổ túc cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn và phát triển khoa học quân sự. Ông chỉ đạo biên soạn một hệ thống tài liệu với khối lượng lớn, đáp ứng kịp thời đầy đủ cho công tác huấn luyện của tám chuyên ngành binh chủng lục quân. Những tài liệu được Hội đồng khoa học Học viện thông qua có nhiều ý kiến đóng góp và kết luận rất sâu sắc của ông, góp phần rất quan trọng trong nghiên cứu, giảng dạy ở Học viện và cả các nhà trường Quân đội.
Trong suốt những năm công tác tại Học viện Lục quân, ông đã đem hết khả năng, trí tuệ của mình để cùng với Ban Giám đốc Học viện triển khai nghiên cứu thành công nhiều công trình, đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ Quốc phòng có tác dụng đối với việc xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Năm 1980, Thiếu tướng Vũ Lăng được thăng quân hàm Trung tướng, năm 1986, được thăng quân hàm Thượng tướng. Thượng tướng Vũ Lăng đã được Nhà nước phong học hàm Giáo sư khoa học quân sự đợt đầu tiên trong quân đội.
Ông là một trong những vị tướng nóng tính của Quân đội Nhân dân Việt Nam, chính vì vậy mà người ta thường gọi ông là tướng Hổ Lửa. Nóng tính nhưng ông lại rất biết chú ý lắng nghe ý kiến của người khác. Một người có tác phong xuề xòa với đồng cấp và cấp dưới đặc biệt là lính tráng. Thế nên mới có chuyện trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông bị Đại tướng Võ Nguyên Giáp ‘’đuổi’’ ra khỏi cuộc họp các Trung đoàn trưởng và Sư đoàn trưởng để ‘’chỉnh đốn tác phong’’ hay có chuyện ‘’lính 2 râu (lính thuộc Trung đoàn 66) sờ râu tư lệnh’’ khi ông được điều vào làm Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên.
Ông là một vị tướng có học vấn cao, kiến thức rộng rất yêu văn nghệ và có năng khiếu làm thơ. Trong lần nhận lệnh vào Chiến trường Tây Nguyên đánh Mỹ ông làm bài thơ ‘’Ta lại ra đi’’ nói về vị tướng đã 50 tuổi vẫn hăng hái lên đường ra trận. “Vào nơi lửa cháy bốn bề. Miền Nam lại gọi ta về, bạn ơi!”. Xem ra, thơ ông còn đầy sức trẻ và khoáng đạt lắm:
“Tám chục tuổi vẫn còn lên ngựa
Múa gươm xung trận giữa ba quân
Tướng quân Thường Kiệt tên lừng lẫy
Giặc kia nghe thấy chạy thục thân.
Ta năm nay mới năm mươi lẻ
Tóc dẫu pha sương lòng còn trẻ
Miền Nam tiếng súng còn chưa ngớt
Luống thẹn mình nghe chuyện
người xưa.
Ba lô, gậy cũ lên đường
Vai khoác ba lô lòng trẻ lại
Đầu xanh, đầu bạc kề vai bước
Lại thấy trong ta tuổi đôi mươi”.
Thư của ông những năm tháng ở chiến trường gửi cho bà Hoàng Việt Hoa vợ ông có thể xếp đầy một hòm. Một phần trong số này đã được giới thiệu đăng trong tập ‘’Thơ tình từ chiến hào’’.
Dáng người tầm thước, da trắng và bộ râu quai nón, tướng Vũ Lăng là một trong những tướng ‘’tốt râu’’. Ông là nguyên mẫu của nhân vật Văn Việt trong tác phẩm ‘’Sống mãi với Thủ đô’’ của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng. Là một chỉ huy tài tình xong ông còn là một người lĩnh dũng cảm. Trong trận chiến đấu ở đồi C1 tại Điện Biên Phủ năm 1954, khi ông chỉ huy Trung đoàn từ chiến hào xông lên đánh giáp lá cà với quân Pháp. Tiếng thét xung phong của ông khiến cho viên chỉ huy Pháp khựng lại, tạo điều kiện cho quân ta xông lên tiêu diệt địch. Thượng tướng Vũ Lăng và Thượng tướng Nguyễn Hữu An là một cặp bài trùng từ những trận đánh ở Điện Biên Phủ cho đến những trận đánh ở Chiến trường Tây Nguyên rồi Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Theo Báo QD
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)