-Nhà
nước xuất hiện là một yêu cầu tự nhiên, nhằm gắn kết xã hội, làm cho
xã hội duy trì hoạt động một cách bình ổn, trôi chảy. Nhiệm vụ hàng
đầu,nguyên thủy, chân chính của nhà nước là làm theo phù hợp với đòi hỏi
của Đại Chúng, giúp cho Đại Chúng sống no đủ, hạnh phúc, tức là làm sao
cho xã hội ngày một vững mạnh, hay nói chung qui lại là làm sao cho
ngày càng dân giàu-nước mạnh, phù hợp với nguyện vọng của Đại Chúng. Như
vậy, nhà nước xuất hiện đầu tiên là để trị an xã hội nói chung chứ
không phải để triệt tiêu một xã hội phân tầng giai cấp nào. -Đảm
bảo cuộc sống tối ưu cho Đại Chúng là nhiệm vụ hợp lẽ tự nhiên của nhà
nước, phù hợp với ước nguyện của Đại Chúng mọi thời, nhưng ngay từ thời
xa xưa tới nay, chưa có một nhà nước nào thực hiện được một cách hoàn
thiện nhiệm vụ đó của mình, làm cho xã hội nào cũng còn tồn tại bất
công, bất hạnh (trừ xã hội cộng sản nguyên thủy!), Đại Chúng vẫn phải
trải qua muôn vàn đói khổ, đau thương. Có như thế là vì gồm hai nguyên
nhân (tự nhiên và nhân tạo) gây ra, trong đó nguyên nhân nhân tạo là
lòng tham mù quáng cũng như sự khao khát quyền lực ở mỗi con người đã
sớm lũng đoạn nhà nước, làm cho nó vô tình có thêm nhiệm vụ mà từ xưa
tới nay mọi người vẫn tưởng là nhiệm vụ chính, đó là duy trì chế độ hiện
hành, ưu tiên bênh vực quyền lợi của tầng lớp thống trị. -Nói
rõ hơn, con người tất yếu sống theo lối hợp quần xã hội. Để duy trì xã
hội thì phải có nhà nước. Và nhà nước xuất hiện là do thực tế đời sống, do Đại
Chúng đòi hỏi (người xưa nói: "đất nước một ngày không thể không có vua"là vì thế!). Cuộc sống lao động vì mục đích sống còn của con người sẽ làm nảy
sinh ra các khái niệm "sở hữu", "giàu-nghèo",..., và làm xã hội phân
tầng, mâu thuẫn, nhưng tự dung hòa được, không đến mức đối kháng (vì làm giàu chính đáng không những không bị ai phản đối, mà còn được mọi người học tập, noi theo). Nên nhớ, sự mâu thuẫn quyền lợi là do nhà nước dung
túng mới sinh ra đối kháng giai cấp chứ không phải là do tư hữu(!). -Nhà
nước hình thành nhằm dung hòa mâu thuẫn ấy, nhưng vô hình dung làm sự
phân tầng ấy thêm gay gắt, rõ rệt thành hai lực lượng thống trị và bị
trị. Chẳng hạn, cạnh tranh tự do là đòi hỏi thiết yếu của xã hội tư bản,
nghĩa là luật pháp tư sản phải đảm bảo bình đẳng trong hoạt động kinh
tế, nhưng làm sao mà bình đẳng tuyệt đối được khi mức độ tư bản luôn là
lợi thế trong làm ăn, kinh doanh(?). Nghĩa là trong xã hội tư bản luôn tồn tại qui tắc "cá lớn nuốt cá bé", và qui tắc ấy được nhà nước tư sản bảo hộ như một lẽ tự nhiên. -Thịnh-suy
là quá trình phát triển như qui luật (vì thiếu hiểu biết!) của xã hội
loài người.Vào những thời kỳ xã hội lâm vào trạng thái suy vi (kéo dài),
thường hình thành trong tư tưởng những phản biện ôn hoà có, gay gắt có,
thậm chí là đối kháng cũng có, đối với chủ trương, chính sách của nhà
nước đương thời.Tùy thuộc vào trình độ nhận thức chính trị của tư tưởng
đó cũng như tùy thuộc vào hạn chế nhận thức của thời đại mà phản biện có
đúng có sai và nhà nước có chấp nhận sửa đổi hay không sửa đổi và bảo
thủ ở mức độ nào. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện khái niệm "dân
chủ", làm xuất hiện đảng phái và hoạt động đảng phái trong thực tiễn xã
hội. -Có
thể nói, hoạt động đảng phái là cuộc tuyên truyền tập hợp lực lượng xã
hội của một nhóm người phản biện nhằm vận động xã hội, tạo áp lực làm
thay đổi một số chủ trương, chính sách (bị cho là) sai lầm, lạc hậu,
thậm chí để đấu tranh đòi thay đổi thể chế của nhà nước đương thời. Bước
đi cuối cùng, cực đoan của cuộc vận động ấy thường là đấu tranh bằng
bạo lực, bằng vũ trang, và cướp chính quyền khi có cơ hội. -Lịch
sử cho thấy, hoạt động đảng phái chủ yếu dưới hình thức trực tiếp "tụ
nghĩa", "khởi nghĩa", dùng bạo lực vũ trang chống lại nhà nước đương
thời đã trở nên bảo thủ, áp bức cường quyền, là hiện tượng nổi trội, chủ
yếu chỉ xảy ra trong thời cổ-trung đại. Sau khi đạt được sự điều chỉnh,
thay đổi, hoặc cải tạo xã hội theo ý muốn thì vì mục đích hoạt động
đảng phái coi như đã đạt được sứ mạng của nó nên thường thì hoạt động
đảng phái cũng chấm dứt, vì đảng phái, xét cho cùng, chỉ như là phương
tiện, một thứ "vũ khí" đấu tranh mà thôi. -Hoạt
động đảng phái với một giai đoạn vận động không thể thiếu được nhằm tạo
ra lực lượng quần chúng cách mạng, trở nên nổi trội, phổ biến vào thời
hiện đại, khi xảy ra các cuộc cách mạng tư sản và vô sản. Có hiện tượng
ấy có lẽ là vì càng về sau này việc tổ chức khởi nghĩa mà không có sự
chuẩn bị là không thể, một mặt, khó giữ bí mật, khó tránh được đàn áp
của nhà nước đương thời, mặt khác, trong thời hiện đại, nhà nước đã có
thể tạo ra khả năng huy động lực lượng kịp thời dẹp tắt cuộc khởi nghĩa
khi còn trong giai đoạn trứng nước, sơ khai. -Do hiểu chưa đúng, có phần
cực đoan về chế độ tư bản, về giai cấp tư sản, cũng như về đấu tranh
giai cấp, nên sau khi đánh đổ chính quyền cũ (chế độ tư bản), xây dựng
chính quyền mới (chế độ vô sản), thì hoạt động đảng phái (đảng vô sản)
vẫn tồn tại (một cách độc tài) để (lãnh đạo) thực hiện cái gọi là
"chuyên chính vô sản" nhằm giữ vững chính quyền, vì vẫn được cho là còn
giai cấp tư sản ( hơn nữa dễ dàng hình thành giai cấp đối kháng trở
lại!), còn đấu tranh giai cấp, vô tình kéo theo sự đòi hỏi tồn tại của
các đảng phái tư sản khác, thỏa mãn một yêu cầu phát sinh trong xã hội
là đòi đa nguyên, đa đảng. -Theo
triết học Mác-Lênin, nhà nước hình thành trước tiên là vì xã hội có
giai cấp. Đó là một luận điểm sai. Mục đích nguyên thủy (đầu tiên) của
việc ra đời nhà nước chỉ là nhằm trị an, duy trì sự tồn tại xã hội, làm
cho toàn thể xã hội vận động (theo qui luật) một cách trơn tru, tự
nhiên, gắn kết, phục vụ cho sinh tồn xã hội, không ưu tiên giai cấp nào,
vì làm gì có tồn tại mâu thuẫn đối kháng giai cấp (!). Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ trị an xã hội thì phải có quyền lực. Chính Đại chúng đã ủy quyền quyền lực đó cho nhà nước (chứ bản thân nhà nước không thể tự có quyền lực!). Chúng ta nói: "nhà nước của dân, do dân và vì dân" là nói đến bản chất nguyên thủy, chân chính này của nhà nước! Sau khi xuất
hiện nhà nước thì nhà nước mới có nhiệm vụ thứ hai, phát sinh từ thực
tiễn xã hội là duy trì chế độ, bảo vệ quyền lợi của tầng lớp thống trị,
tầng lớp thao túng nó (tùy thuộc vào thể chế nhà nước mà trở thành giai cấp bóc lột) và thực hành chuyên chính. -Xã
hội hóa là hướng đi tất yếu của lịch sử loài người và sự phân tầng kinh
tế (giàu-nghèo) của xã hội loài người là đương nhiên. Nhưng sự phân
tầng ấy, tuy cũng có lúc này lúc khác, nhạt nhòa hay nổi trội, nhưng
chưa bị nhà nước kích hoạt lên mức độ đối kháng, thành như một mặc định
xã hội, thành mâu thuẫn sống còn có tính thường xuyên. -Phải
nói rằng sản xuất hàng hóa tập trung trên qui mô lớn là tiền đề của xã
hội tư bản và cạnh tranh tự do là yếu tố sống còn của chế độ ấy, nên thu
hoạch sức lao động thặng dư là ưu tiên số một của sản xuất hàng hóa,
dưới bất cứ chế độ nào. Rõ ràng, thu hoạch giá trị thặng dư là tiền đề
phát triển của xã hội tư bản, nhưng không phải bất cứ thu hoạch thặng dư
nào cũng gọi là bóc lột, gọi là bất công (qua đây cũng thấy học thuyết
về giá trị thặng dư của Mác là...không chuẩn!). Theo lý thuyết, sự thu hoạch
ấy có thể có tính cá nhân (tư hữu) dưới chế độ tư bản và là một tiền đề nguyên nhân
gây bất công xã hội. Tiền đề nguyên nhân
gây bất công xã hội thứ hai không kém quan trọng (có lẽ là quan trọng nhất?) là chính sách thu thuế (thuế và các loại phí). Vậy theo chúng ta, lao động thặng dư là gì và thế
nào là bóc lột? -Nói
chung, con người phải lao động để sống còn.Trong lao động sản xuất nông
nghiệp, "noi gương" tiếp theo là sản xuất công nghiệp, nếu thành quả
lao động bù đắp vừa đủ công sức đã bỏ ra thì lao động không có dư thừa,
nghĩa là không có "thặng dư", không có hiện tượng "của ăn của để", "tích
cốc phòng cơ". Tăng trưởng lạm phát trong điều kiện thuận lợi là một
qui luật phổ biến của thế giới sinh vật (chính là nguồn thức ăn của con
người), vô tình trùng với ước muốn làm cho có thặng dư để đảm bảo chắc
chắn sống còn của người lao động, Cho nên lao động có hai mục đích, mục
đích thứ nhất là để sống còn, mục đích thứ hai là để tạo ra giá trị
thặng dư, cải thiện cuộc sống. Trong những điều kiện thuận lợi nhất định
(về khí hậu, về đất đai, về kỹ thuật, về máy móc,...), lao động bao giờ
cũng có khả năng tạo ra thặng dư. Vậy, bản chất của sản xuất hàng hóa ở
bất cứ xã hội nào cũng là cố gắng tạo ra nhiều lao động thặng dư và thu
hoạch nó. Và một cách qui ước, khi thu hoạch sức lao động vượt quá giá
trị thặng dư thực tế của người lao động, (hoặc đến mức người lao động
(tầng lớp bị trị) làm không đủ sống, không đủ chi phí tái tạo lại sức lao động đã bỏ ra,
hoặc vượt qua mức thu nhập cho cuộc sống tối thiểu!), thì gọi là "bóc
lột". Dễ thấy, bóc lột là một khái niệm tương đối và không ổn định, tùy
thuộc chủ yếu vào mức thu nhập bình quân xã hội, vào mức độ tiêu dùng cá nhân của từng thời kỳ. Đến một mức độ nào đó,
bóc lột (đi liền với quyền lực. Quyền lực này là quyền lực của Đại Chúng ủy quyền cho nhà nước và bị nhà nước ngang nhiên chiếm đoạt chứ nhà nước không thể tự có một chút quyền lực nào!) sẽ gây ra bất công xã hội, sự phân biệt
giàu-nghèo lúc đó sẽ bị nhà nước tư sản bảo hộ thao túng thành mâu thuẫn
giai cấp nổi trội và trở nên đối kháng, thậm chí đến mức độ một mất một
còn, đòi hỏi nhà nước (tư sản) phải giải quyết. Nhưng nhà nước tư sản
vốn dĩ bảo thủ, bênh vực lực lượng thống trị (lúc này đã trở thành giai
cấp bóc lột), nên cuộc đi đòi quyền lợị sống còn của Đại Chúng là không
tránh khỏi, và tất yếu xuất hiện cách mạng, đòi lật đổ chế độ tư bản
(hoang dại) đương thời như đã từng xảy ra trong lịch sử thế giới. -V.I. Lênin viết: "Vấn đề chính quyền nhất định là vấn đề quan trọng
nhất của mọi cuộc cách mạng". Ph.Ăngghen viết: "...Theo lời Mác, bạo lực
là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới trong lòng nó,
bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để thắng và đập tan tành
những hình thức chính trị cứng đờ và chết". V.I. Lênin viết: "...giai
cấp cách mạng có khả năng phát động những hành động cách mạng khá mạnh
mẽ và có tính chất quần chúng để đập tan (hoặc lật đổ) chính phủ cũ là
chính phủ, ngay cả trong thời kỳ có những cuộc khủng hoảng, cũng sẽ
không bao giờ "đổ" nếu không đẩy cho nó "ngã", "Pháp luật bảo hộ mọi người như nhau, nó bảo hộ tài sản của những người
có của chống lại mọi sự xâm phạm của cái khối lớn những người không có
của mà chỉ có hai cánh tay và dần dần bị bần cùng hóa, bị phá sản và
biến thành vô sản". Đó là những quan niệm đúng, còn đây là những quan
niệm vừa đúng vừa sai, có cái sai hoàn toàn: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà,
về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì
nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng
những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được". "Làm cho cách mạng
trở thành cách mạng không ngừng cho tới khi tất cả các giai cấp hữu sản
lớn hay nhỏ bị gạt ra khỏi địa vị thống trị, cho tới khi giai cấp vô
sản giành được chính quyền nhà nước...Đối với chúng ta, vấn đề không
phải là cải biến chế độ tư hữu, mà là thủ tiêu chế độ tư hữu, không phải
là che dấu mâu thuẫn giai cấp, mà là triệt tiêu giai cấp, không phải là
cải lương xã hội hiện đại mà là xây dựng một xã hội mới". Hay như Lênin
khẳng định: "Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ, chúng ta sẽ
chiếu đúng theo lực lượng của chúng ta, theo lực lượng của giai cấp vô
sản giác ngộ và có tổ chức mà tiến ngay lên con đường cách mạng xã hội
chủ nghĩa. chúng ta chủ trương làm cách mạng không ngừng. Chúng ta quyết
không dừng lại giữa chừng" -Sản
xuất hàng hóa và thu hoạch thặng dư là nền tảng tồn tại tất yếu của xã
hội tư bản, trong đó cạnh tranh tự do là điều kiện cốt yếu cho sự tồn
tại ấy. Vì vậy, quá trình hình thành xã hội tư bản trong lòng xã hội
phong khiến lỗi thời, bảo thủ, ích kỷ là quá trình đấu tranh bạo lực đi
đòi cạnh tranh tự do trong sản xuất. Thoạt đầu, đó là cuộc cách mạng
chính nghĩa, phù hợp với tiến trình vận động của xã hội loài người,
nhưng dần dần cũng do cạnh tranh tự do kèm theo lòng tham ích kỷ vô độ
lượng của con người (được hun đúc nên từ thời đại phong kiến và quá
trình vận động xã hội trước đó, cũng như do đòi hỏi về tồn tại, sống
còn, nảy sinh trong chính quá trình cạnh tranh) mà xã hội tư bản (hoang
dại) đầy rẫy bất công, gây ra cuộc đấu tranh chống bóc lột một cách tất
yếu của những người làm thuê. Nhà nước, thuở đầu tiên tồn tại, vốn dĩ
chỉ như một tự nhiên nhằm điều hành xã hội nói chung, đã "quen thói"
bênh vực tầng lớp giàu có trong xã hội từ thời đại chiếm hữu nô lệ, lẽ
dĩ nhiên phải đứng về phía những người tư sản (tầng lớp thao túng nhà
nước) với khẩu hiệu lúc đầu nghe rất "kêu" trước chính quyền phong kiến,
nhưng về sau thoái hóa thành "mị dân",đó là "tự do, bình đẳng, bác
ái", thực sự gây ra mâu thuẫn thời đại vốn lúc đầu không có tính đối
kháng là tư sản-vô sản, mà trên thực tế là phân chia rõ rệt thành hai
lực lượng thống trị-bị trị với nét phân biệt nổi trội là giàu bất chính
(vì bóc lột thặng dư)-nghèo bất chính (vì bị bóc lột thặng dư, bị sưu cao thuế nặng). Đây là
cuộc đấu tranh mà theo triết học Mác-Lênin là không khoan nhượng của
giai cấp vô sản, với mục đích cuối cùng là xóa bỏ xã hội tư bản đầy bóc
lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa không còn người bóc lột người,
cũng đồng nghĩa với việc lật đổ nhà nước với tầng lớp thống trị là giai
cấp tư sản (nhưng làm sao mà lật đổ, tiêu trừ tuyệt đối được một khi tiến bộ xã hội là những
bước đi kế thừa?) và thiết lập một nhà nước với tầng lớp thống trị là
giai cấp công nhân, đại diện quyền lợi cho tất cả mọi tầng lớp bị bóc
lột, nói đúng hơn là thiết lập nhà nước của Đại Chúng, phục vụ Đại Chúng
(vì cách mạng vô sản thành công thì không tồn tại bóc lột, bất công,
nghĩa là không tồn tại đối kháng giai cấp nữa, vì nếu không, "chuyên
chính vô sản" chưa triệt để!). -Như
chúng ta đã thấy, thu hoạch giá trị thặng dư là mục đích nói chung của
nền sản xuất hàng hóa, kể cả nền sản xuất hàng hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Chỉ có điều, thu hoạch giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa
chủ yếu là thu nhập tư hữu (sự phân phối lại, dễ gây ra bất công hơn), và thu hoạch giá trị thặng dư xã hội chủ nghĩa là thu nhập công hữu (sự
phân phối lại, khó gây ra bất công hơn). Đây mới chính là mấu chốt để
phán xét tính ưu việt hơn của nền kinh tế hàng hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa so với nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, vì thu hoạch thặng dư chủ yếu được tự giác điều hòa hợp lý, thỏa đáng trong chính sách thu thuế. Dù nhận thức
còn cực đoan, chưa thấy hết được những thể hiện thực sự tươi đẹp của xã
hội các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa xưa kia thì ngày nay,
không ít người không thể không bùi ngùi nhớ về chúng! Nên nhớ, một xã
hội tươi đẹp là một xã hội mà đa số con người sống trong đó cảm giác
thực sự yên ổn, tươi vui, thục sự được đối sử công bằng và nhân ái chứ không phải xã hội dễ làm giàu có, sung sướng cho một
số ít người và đầy bất trắc, u uẩn, bất bằng cho đa số. -
Lịch sử thế giới chỉ ra: thực dân là xâm lược, nô dịch, giết chóc và
tước đoạt, gây đói nghèo cho Đại Chúng, do đó phải chống ngoại xâm. - Xét riêng Cách mạng Việt Nam, thực tiễn lịch sử đã cho thấy:
"...Về
đại thể, có thể nói phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lược
của nhân dân ta đã chấm dứt vào năm 1895, với sự thất bại của khởi nghĩa
Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo, nghĩa là cũng kết thúc phong
trào Cần Vương.
Có
một thực tế lịch sử là phong trào đấu tranh vũ trang ấy rộ lên rất mạnh
ở thời kỳ quân viễn chinh Pháp chân ướt chân ráo đặt chân lên nước ta
(trong giai đoạn đánh chiếm Nam kỳ hoặc trong giai đoạn đánh chiếm Bắc
kỳ), sau đó lần lượt suy giảm khá nhanh khi thực dân Pháp bắt đầu tổ
chức được bộ máy cai trị ở Nam kỳ cũng như ở Bắc Kỳ và sau hiệp ước
Patơnốt (1884) là cả nước, rồi tiếp tục hầu như im ắng kéo dài đến Cách
mạng Tháng tám (1945). Một điều dễ nhận thấy nữa là ở thời đoạn sôi sục
nhất của phong trào, dù là có vẻ rộng khắp nhưng là sự rộng khắp mang
tính tản mạn, tự phát, thiếu nhất quán và không kết thành được một cuộc
khởi nghĩa toàn dân, tập trung dưới một sự lãnh đạo thống nhất. Hơn thế
nữa, những cuộc khởi nghĩa trong phong trào đó đã không thể phát triển
(không kịp phát triển?) thành một lực lượng ngày một lớn mạnh được. Tại
sao?
Tại
vì quân viễn chinh Pháp thiện chiến hơn, có vũ khí hiện đại hơn, hỏa
lực đại bác hoàn toàn áp đảo. Điều này đúng một phần nhưng không cơ bản.
Sự ủng hộ của một bộ phận giáo dân đối với quân viễn chinh, tuy cũng có
tác dụng đáng kể, nhưng cũng không thể là trọng yếu. Có lẽ, muốn tìm
thấy cái nguyên nhân cơ bản thì lại phải hướng nhìn về triều đình Huế,
một triều đình mà ngay từ đầu đã không kiên quyết chiến đấu đến cùng
trước quân xâm lược, do đó làm cho phong trào kháng chiến mất tập trung
rồi dần mất phương hướng và phân rã, một triều đình mà hiện tại của nó
là đê hèn, quá khứ của nó là cổ hủ, hà khắc và bóc lột dân chúng cũng
quá ư thậm tệ làm cho lòng dân quá ngán không còn muốn hướng về. Hịch
Cần Vương ra vừa muộn màng vừa chẳng kích thích được mấy về chính trị đã
không còn tác động tích cực, mạnh mẽ đến Đại Chúng nữa. Chính sách cai
trị thuở ban đầu của thực dân Pháp, với những quan niệm tiến bộ hơn về
mặt quan hệ sản xuất - kinh tế, về nhân quyền, dù trong đó có phần mị
dân, đã thổi một luồng gió mới vào đời sống xã hội Việt Nam. Rất có thể
chính điều này đã làm cho phong trào đấu tranh giành độc lập, mất dần
tính quyết liệt cũng như tính quần chúng thuở ban đầu của nó, để rồi
phải lụi tàn trong một thời gian tương đối ngắn và sự bùng phát chỉ mang
tính cục bộ, địa phương. Bởi vì, giàu lòng yêu nước với ước muốn nước
được độc lập là hai vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau nhưng cũng có
lúc tách rời nhau. Nếu giành độc lập để rồi từ chế độ đô hộ tạm thời tốt
hơn trở lại chế độ tồi tệ hơn vừa mới thoát ra được thì độc lập làm gì?
(Dám chắc rằng nếu một cuộc xâm lược đem đến tự do, bình đẳng, bác ái
và phồn thịnh cho một đất nước thì sẽ không có một cuộc kháng chiến quần
chúng giành độc lập nào xảy ra trên đất nước đó. Nhưng theo định nghĩa
thì phải gọi cuộc xâm lược đó với một cái tên khác, chẳng hạn: “cuộc
“khai hóa văn minh”. Nước nào làm được cái quên mình, yêu người đó, khi
mà ngay cả Đạo Chúa, Đạo Phật hay bất cứ Đạo nào khác còn chưa làm được?
May ra chỉ có Mặc Địch!)
Cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp trên lãnh thổ Việt
Nam, dù sao đi nữa, cũng tạo ra triển vọng công ăn việc làm cho nhiều
người và dù có bị bóc lột chăng nữa thì vẫn có thể là “dễ thở” hơn so
với dưới thời phong kiến quân chủ nhà Nguyễn. Điều này cũng là một
nguyên nhân đáng kể tác động tiêu cực đến phong trào đấu tranh yêu nước
của nhân dân ta thời kỳ đó.
Có
thể lấy khởi nghĩa Yên thế làm thí dụ chứng minh. Tồn tại ngót 30 năm
nhưng lực lượng nghĩa quân chưa bao giờ vượt quá 150 người, dù dân chúng
địa phương hoặc các nơi vẫn ngầm quyên góp giúp đỡ. Vì sao Đề Thám
không thể phát triển lực lượng ngày một đông hơn trong suốt thời gian
đó? Đề Thám không có được tầm nhìn chiến lược hay đã không thể thuyết
phục được dân chúng đứng lên theo mình kháng chiến? Có thể là do sự đàn
áp khốc liệt của Pháp và tay sai mà cuộc khởi nghĩa Yên Thế phải liên
tục giành thời gian đối phó, không còn thời gian triển khai, tuyên
truyền, vận động (đối với khởi nghĩa Hương Khê cũng vậy, cũng tồn tại
đến 10 năm, phất cao cờ Cần Vương mà phong trào cứ thoái hóa dần)? Một
trong những nguyên nhân là thế nhưng không phải là nguyên nhân quyết
định vì trong lịch sử, có những cuộc khởi nghĩa bắt đầu cũng ngặt nghèo
tương tự, thậm chí là khó khăn hơn thế nhưng đã phát triển được và giành
được thắng lợi cuối cùng như: Khởi nghĩa Lam Sơn, khởi nghĩa Tây Sơn,
khởi nghĩa Tháng Tám, nhất là khởi nghĩa Tháng Tám, phải tiến hành kháng
chiến với buổi đầu xét về tương quan lực lượng thì cũng ít ỏi, nghèo
nàn về vũ khí trước một đội quân viễn chinh thiện chiến và trang bị vũ
khí mạnh gấp bội phần, hỏa lực cũng hoàn toàn áp đảo. Thế thì nguyên
nhân cốt lõi nằm ở đâu, dù không thể tìm ở đâu khác ngoài “vùng”: thiên,
địa, nhân? Phải chăng thời thế đổi thay đã có lợi cho thực dân Pháp và
quan trọng nhất là truyền thống yêu nước vẫn còn nguyên vẹn đó, nhưng
những tiến bộ xã hội - kinh tế có được của chế độ cai trị thực dân thời
kỳ đầu (dù có thể là ít ỏi, không tương xứng với thành quả bóc lột được
của kẻ thực dân) làm cho Đại Chúng không còn muốn quay về với cái chế độ
quân chủ ngột ngạt với một ông vua mồm thì nói yêu dân, nhưng lại chỉ
nghĩ đến mình, trong sự lựa chọn của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Đấu tranh giành độc lập để rồi lại về với cảnh sống dưới một triều đình
mà kinh nghiệm đã cho thấy là sẽ khổ hơn thì có nên không, trong khi đời
sống xã hội đang có chiều hướng khá hơn? Trải qua hàng ngàn năm quân
chủ, quan niệm đất nước không thể một ngày không có vua đã bám rất chặt
vào tâm khảm con người và ngay tức thì khó mà hình dung nổi có một hình
thái xã hội nào đó sau khi giành được độc lập (giả sử như thế) lại có
thể mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn so với dưới chế độ thực dân thời
kỳ đầu…
Có
thể suy luận rằng phong trào nhân dân kháng chiến chống Pháp sôi nổi và
quyết liệt thời kỳ đầu là nhờ tinh thần yêu nước thuần túy của Đại
Chúng. Kinh nghiệm hàng ngàn năm chống phong kiến phương Bắc với cuộc
sống bị chà đạp tàn bạo nhất, cho nên phải chống xâm lược. Hành động
kiên quyết chống xâm lược đó đã trở thành truyền thống bất khuất của dân
tộc và tương tự như bản năng ở mỗi con người Việt. Dù sao thì cái tinh
thần quật khởi, một lòng kháng chiến chống Pháp đó đã bị triều đình Huế
ngu ngốc bỏ lỡ, và hơn thế nữa là đang tâm phá hoại. Bên cạnh đó, thời
thế cũng đã đổi thay: những luồng gió mới mát lành từ nền dân chủ tư sản
châu Âu đã thổi vào châu Á đang bị giam hãm ngột ngạt bởi xiềng xích
phong kiến quân chủ, mở ra những lựa chọn mới, hy vọng mới cho Đại Chúng
các nước. Cuộc nổi dậy đấu tranh vũ trang của nhân dân ta chống Pháp
xâm lược vào nửa cuối thế kỷ XIX có vẻ cơ bản là vì thế mà mau chóng
thoái trào? Đấu tranh giành lại độc lập chỉ vì cái mục đích “ghét” Pháp,
yêu nước chung chung thôi, đã làm giảm sút tính chính đáng của nó. Một
cuộc giành độc lập sẽ không được Đại Chúng triệt để ủng hộ khi nó không
đem lại một danh lợi sát sườn nào cho cuộc sống Đại Chúng, không mở ra
được một tương lai xán lạn nào cho đời sống xã hội. Giành độc lập cho
đất nước chỉ vì yêu nước một cách mông lung thôi mà thiếu mất mục đích
danh lợi nhằm đáp ứng cuộc sống thì cũng khó lòng kích thích được cái
động lực đấu tranh to lớn của Đại Chúng, và như thế, làm sao mà đi đến
thắng lợi được? Chúng ta nhớ lại nguyên lý này: mọi cuộc vận động tạo
dựng xã hội đều phải vì danh lợi, danh lợi là mục đích, là động lực của
chúng và cũng chính là lý do tồn tại của chúng?
Cuộc
chống Pháp xâm lược của nhân dân ta, tiếp sau thời kỳ trực diện đấu
tranh vũ trang là thời kỳ đấu tranh chính trị. Nòng cốt lãnh đạo của
cuộc đấu tranh chính trị này là các nhà chí sĩ yêu nước và lực lượng chủ
yếu của nó là giới trí thức, học sinh. Mục đích của cuộc đấu tranh
chính trị này là hun nóng, phát động tinh thần yêu nước thương nòi trong
nhân dân, giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Quá trình đấu tranh đó,
với những nguyên do nói trên, cũng đồng thời là cuộc đấu tranh tư tưởng
trong hàng ngũ những nhà yêu nước về việc chọn đường lối, phương thức
thực hiện… Chung qui lại là xác định cái danh lợi thiết thực mà Đại
Chúng có thể gặt hái được một khi đã giành lại độc lập.
Tính
ưu việt của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa so với hình
thái kinh tế - xã hội phong kiến và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của chế độ
thực dân thời kỳ đầu đô hộ đã hầu như che giấu được cái bản chất ăn
cướp trắng trợn của nó. Đây có thể là nguyên nhân chính gây ra hiện
tượng hoang mang, lúng túng, bế tắc trong cuộc đấu tranh tư tưởng, tìm
kiếm một con đường khả dĩ giành độc lập cho đất nước. Cũng vì vậy mà
việc tuyên truyền vận động quần chúng đấu tranh cho nền độc lập nước nhà
đã vấp phải rất nhiều khó khăn chăng?
Tuy
nhiên, bản chất ăn cướp trắng trợn và tàn bạo của chủ nghĩa thực dân
sớm muộn gì cũng phải lộ tẩy ra, nhất là trong những giai đoạn biến động
xã hội ở “chính quốc” và trên thế giới làm ảnh hưởng tiêu cực đến chế
độ đã sản sinh ra nó, đòi hỏi nó phải ra sức bóc lột các nước thuộc địa,
không từ một thủ đoạn nào. Tình hình đó đã làm xuất hiện trong lòng Đại
Chúng sự đòi hỏi ngày càng lớn về sự phải vùng lên giải phóng xóa bỏ áp
bức bất công, đồng thời cũng giải quyết luôn cuộc đấu tranh tư tưởng để
đi đến một quan niệm nhất quán, phù hợp với đòi hỏi của Đại Chúng và
mang tính cách mạng. Đến đây, tiền đề cho một cuộc đấu tranh giành độc
lập dân tộc thắng lợi đã hé mở. R
Cụ
thể, đối với dân tộc Việt Nam, quá trình đấu tranh tư tưởng ở thời đoạn
ấy tất yếu dẫn đến sự lựa chọn cuối cùng là quan niệm của Mác - Lê về
đấu tranh giải phóng, giành độc lập dân tộc, vì nó cũng phù hợp với ý
nguyện của Đại Chúng lúc bấy giờ.
Thế
giới đã phải quay theo chiều tự nhiên của nó và định mệnh đã tưởng
thưởng cho Việt Nam, một dân tộc bất khuất trên một đất nước hiền hòa,
trở thành lực lượng kết liễu chủ nghĩa thực dân, và nêu một tấm gương
sáng ngời về đấu tranh giải phóng, giành độc lập dân tộc, giành quyền
được sống tự do - bình đẳng - bác ái trong cộng đồng các dân tộc trên
thế giới…"(trích TT&HĐ 29). Cho nên
tất cả các đường lối cách mạng khác (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Thái Học...) đều không thành công, đều dẫn đến bế tắc, chỉ có con
đường cách mạng vô sản, với đảng cộng sản tiền phong lãnh đạo, giống
Cách mạng Tháng Mười Nga, là khả dĩ thành công. Hồ Chí Minh tinh tường
đã sớm thấy được điều đó và đã dẫn dắt Cách mạng Việt Nam tới thắng lợi.
-Do
quan niệm rất cực đoan về chuyên chính vô sản và vấn đề giai cấp cũng
như đấu tranh giai cấp của một số nhà cách mạng tiền bối, nên Cách mạng
Việt Nam, tuy đã giành được thắng lợi vẻ vang, song không phải không vấp
váp những sai lầm đáng tiếc. Chẳng hạn, việc "cải tạo cách ly" (thực
chất là tù đày) một số người trong vụ "nhân văn giai phẩm" là sai, phản
tác dụng, hay đưa tướng tá ngụy quân (sau giải phóng 30-4-1975) đi cải
tạo quá lâu là.không cần thiết, thậm chí là vi phạm vào truyền thống
nhân đạo của Dân Tộc...Hồ chí minh từng nói: “Nước Việt Nam
là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn núi có thể
mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.
Câu nói đó cũng hàm nghĩa xa: nước Việt Nam là của Đại Chúng Việt Nam,
khi chính quyền đã thực sự thuộc về tay nhân dân, thì "chuyên chính vô
sản" thực chất là đảm bảo "tự do dân chủ", quyền sống cơ bản cho mọi người, và không cho phép tồn tại đối kháng giai cấp tư sản - vô sản (do nhà
nước tư sản trước đó dung túng) nữa, và tự nhiên không còn đấu tranh giai cấp nữa (qua đây mà thấy, cuộc "đánh tư sản" sau "Giải phóng"của Đảng là tai hại!). -Ngày nay, thử hỏi Cách mạng Việt Nam thành công chưa? Theo quan niệm của
Mác-Lênin về "cách mạng không ngừng" thì Cách mạng Việt Nam chưa xong,
cần phải xây dựng cho được xã hội xã hội chủ nghĩa, nghĩa là Đảng cộng
sản vẫn còn lý do tồn tại? Nhưng theo lý lẽ
thông thường, mọi cuộc cách mạng, sau khi đã đạt được mục đích của mình,
thì lực lượng tiên phong của nó (chính là đảng cộng sản) không còn lý
do tồn tại nữa. Vì mục đích của Cách mạng Việt Nam coi như đã hoàn thành
một cách cơ bản (phản đế, phản phong, xây dựng nhà nước pháp quyền "do
dân, vì dân" vững mạnh) nên vai trò tiên phong, làm kim chỉ nam, vạch
đường chỉ lối của Đảng cộng sản cũng không còn cần thiết nữa (nhà nước đã đủ mạnh, đủ
hiểu biết để đảm trách tất cả những điều ấy, lý tưởng cộng sản được thể
hiện bằng hiến pháp, bằng Quốc hội..., và Đại Chúng không lẽ cứ... "mù
lòa" mãi, không đủ năng lực tự giác, thông qua nhà nước của mình, "tự tạo" được kim chỉ nam?). Lúc này Đảng
cộng sản tồn tại bên cạnh nhà nước chỉ làm cho bộ máy nhà nước thêm cồng
kềnh, trùng lắp, thậm chí là trì trệ, bày ra thêm"mâm cỗ" quyền lực để
những kẻ cơ hội trục lợi bất chính (như trước "đổi mới", không là đảng
viên thì "đừng hòng" lên được chức vụ cao! Do đó, phấn đấu vào Đảng
nhiều khi biến tướng thành chỉ vì muốn có danh lợi - quyền lực). -Nhưng xã hội xã hội chủ nghĩa là gì? Theo Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì
nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã
hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt,
đó là chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, có thể hiểu, hiện nay trên thế
giới, hầu như tất cả các nước đều tìm cách xây dựng xã hội mình, tùy
mức độ tiếp cận, ít nhiều đều đang theo định hướng xã hội chủ nghĩa
(nghĩa là sao cho"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"). Và đó cũng chính là nhiệm vụ tự nhiên hàng đầu của mọi nhà nước!
Một cách tóm lược, xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội mà trong đó có
sự phấn đấu toàn xã hội hướng tới không còn bóc lột, bất công nữa. Đảng
cộng sản Việt Nam cần giao phó và phải giao phó xong nhiệm vụ đó cho
Nhà Nước Việt Nam hiện nay thông qua hiến pháp và pháp luật. Vậy, ngay
cả theo quan niệm "cách mạng không ngừng", sau khi xây dựng được nhà
nước xã hội chủ nghĩa đủ mạnh, một nhà nước chuyên chính vô sản đúng
nghĩa, thì Đảng cộng sản cũng coi như đã đạt mục đích và cũng không còn
lý do tồn tại (hoặc nếu còn tồn tại thì có thể chỉ là một bộ phận "bên
trong" quốc hội của một nhà nước theo thể chế ..."dân chủ lập hiến"!). Dù có thể rất luyến tiếc, dù trong quá khứ đã từng là lực lượng tiên phong làm cách mạng, là niềm
tự hào vô song của Dân Tộc trong việc dẫn dắt Dân Tộc chống ngoại xâm,
giành độc lập, thống nhất đất nước, thì phải chăng cũng đến lúc Đảng Cộng sản Việt Nam coi như đã"hoàn thành sứ mạng" và nêntự giải tán!? -Làm
thế nào để có một xã hội không còn bóc lột, bất công và mọi người đều
cảm thấy hạnh phúc, hay một xã hội sung túc và không còn sản xuất hàng
hóa, nghĩa là làm thế nào để có xã hội cộng sản chủ nghĩa (đúng như quy
luật phát triển xã hội theo "đường xoắn trôn ốc" như C.Mác đã chỉ ra)?
Muốn có xã hội cộng sản chủ nghĩa, thì trước hết phải có xã hội xã hội
chủ nghĩa. Đó cũng chính là mục tiêu "ngàn đời" của Đại Chúng :"dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", và cũng chính là
mục tiêu lâu dài mà Nhà nước cộng sản Việt Nam theo đuổi, gọi là "theo
định hướng xã hội chủ nghĩa".Đây cũng chính là mục đích mặc định của mọi cuộc phát triển xã hội loài người!
Vì nguyên nhân cơ bản để xảy ra bóc lột,
bất công xã hội là cưỡng đoạt thái quá về giá trị thặng dư do lòng tham
của con người (đối với thu hoạch tư nhân về thặng dư) và phân phối lại
một cách bất hợp lý giá trị lao động thặng dư (đối với thu hoạch tập thể
về thặng dư), cho nên điều kiện tiên quyết là phải chế ngự được lòng
tham vị kỷ của con người và phân phối lại thặng dư một cách công bằng nhất,
hợp lý nhất, "có hiểu biết" nhất (chẳng hạn qui hoạch đất đai, xây dựng những công
trình bằng "ngân sách" mà chưa thật sự cần thiết đối với cuộc sống của
Đại Chúng đương thời còn nghèo là "thiếu hiểu biết", còn gây ra bất
công!). Vậy muốn xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa thì trước tiên
phải xây dựng cho được những con người (trước hết là trong bộ máy công
quyền) có kiến thức vững vàng, giảm thiểu lòng tham vị kỷ, tức là những
con người hiểu rõ ý nghĩa cuộc đời, từ đó mà giàu lòng nhân ái, nói cách
khác là những con người "chuẩn", thấm nhuần đạo đức thực sự, mà chúng
ta thường vẫn gọi là những "con người xã hội chủ nghĩa", có lối sống và
tư duy "cần kiệm liêm chính, chí công vô tư", và hình mẫu con người ấy
trong thực tế chính là Hồ Chí Minh, một người cộng sản chân chính, cũng
ước mơ đến một xã hội xã hội chủ nghĩa, và di chúc lại những lời tiên
tri:“Điều
mong muốn cuối cùng
của tôi là:
Toàn
Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”. (Sự nghiệp cách mạng thế giới là gì nếu không phải là xóa hết áp bức bóc lột, bất công?) -Một
xã hội trong sáng, minh bạch, có một nhà nước tất cả vì dân giàu nước
mạnh là một xã hội phi đảng phái. Đó là điều phù hợp với logic, phù hợp
với sự tồn tại tự nhiên của xã hội! -Nước
Việt Nam hiện nay đang cần một nhân tài có nhận thức trác tuyệt, xây
dựng được một đường lối duy nhất đúng, một xã hội có kinh tế thị trường
theo định hướng cộng sản chủ nghĩa lý tưởng phi đảng phái cho Đại Chúng!
Đó cũng chính là xã hội tươi đẹp nhất - mục đích hướng tới, có tính
tất yếu của mọi xã hội (kể cả xã hội tư bản) trong tương lai gần!
------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nguyễn Tất Thành tại Hội nghị Versailles, Pháp. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930, là sự kiện lịch sử cực kỳ
trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng
Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của
dân tộc ta.
Bối cảnh ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh
tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng
cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân
dân các dân tộc thuộc địa.
Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động
các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ
nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa
Marx-Lenin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới -
thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc.
Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối
với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền
bá chủ nghĩa Marx-Lenin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng
bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến
thành thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ
quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn;
chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi
kỳ một chế độ cai trị riêng.
Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng
đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở
công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai
thác thuộc địa.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch,
gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt
động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng
bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào
Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa,
giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hóa sâu
sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp
bức nông dân.
Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hóa. Một bộ
phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu
tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị
thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn
khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc
và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu
tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ
trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp
bức bóc lột.
Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh
chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có
tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người
làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản,
có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những
tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận
người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức,
bóc lột.
Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu
thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân
tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược.
Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang
đặt ra hai yêu cầu, một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành
độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong
kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông
dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống
thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết
quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong
kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ 19 với
cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896). Sang đầu thế kỷ 20,
khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa.
Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa
Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu
nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn
Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là sự tiếp nối
truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng
ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và
lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách
mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ
thì ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng
mới.
Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát
hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội
nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng
như ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.
Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là
Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Versailles.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc ''Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa'' của Lenin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu
tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lenin sáng lập) và tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt
Nam.
Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ
nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa
Marx-Lenin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải
phóng dân tộc Việt Nam: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản.
Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản
quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin, vạch
phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa
Marx-Lenin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam,
chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân
chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa
học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Marx-Lenin.
Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội,
hội nghị quốc tế, viết tác phẩm ''Bản án chế độ thực dân Pháp'' và tổ
chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong,
nhằm truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin vào Việt Nam.
Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm ''Đường cách mệnh'' (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên).
Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một
đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người
cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức
và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ
chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ
đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường
Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt
Nam.
Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí
cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín
muồi.
Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản
đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng
sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt
Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất
Đảng tại Hong Kong, Trung Quốc từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930.
Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản.
Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất
Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin vào điều
kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng
sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước
nhân dịp thành lập Đảng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội
thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3/2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng./.
Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng
Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính
trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động
của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai
cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Marx-Lenin đối với cách mạng Việt
Nam.
Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng
đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự
kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời,
Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là
giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở
để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong
trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường
lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ 20, mở
ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn
kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để
tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này.
Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 85 năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam
là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự
ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng
Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội./.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (Điều 2, Hiến pháp 2013). Đây là sự kết hợp của
hai kiểu Nhà nước: Nhà nước xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền.
Bản chất
Do là Nhà nước pháp quyền, nên Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang các bản chất chung của Nhà nước pháp quyền, đó là:
Các cơ quan Nhà nước được thiết kế, hoạt động trên cơ sở pháp luật.
Bản thân Nhà nước đặt mình trong khuôn khổ pháp luật. Hiến pháp Việt Nam
năm 2013 có quy định rõ địa vị pháp lý, chức năng, thẩm quyền của các
cơ quan Nhà nước bao gồm Quốc hội (chương V Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội Việt Nam), Chủ tịch nước (chương VI Hiến pháp), Chính phủ
(chương VII Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ), Tòa án nhân dân và Viện
kiểm sát nhân dân (chương VIII Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân,
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân), Chính quyền địa phương (chương IX
Hiến pháp, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân),Hội đồng
bầu cử quốc gia và kiểm toán nhà nước. Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan trực thuộc Chính phủ, ban quản lý các khu kinh tế, thì có các
Nghị định của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của họ.
Nhà nước mang bản chất giai cấp, là tổ chức để thực hiện quyền lực
chính trị của giai cấp thống trị. Cho đến nay đã có các kiểu Nhà nước
chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thể hiện ở:
Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo Nhà nước Việt Nam thông qua quyết định các chủ trương, đường
lối và thông qua việc đưa đảng viên của mình vào nắm giữ các chức danh
quan trọng của Nhà nước.
Các bản chất khác của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là:
Không có sự phân chia giữa 3 ngành lập pháp, hành pháp, và tư pháp,
mà là sự thống nhất, phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền này.
Là Nhà nước đơn nhất và tập quyền: Ở Việt Nam chỉ có một Hiến pháp
chung. Các địa phương không có quyền lập hiến và lập pháp mà ban hành
các VBQPPL theo luật định.
Ngoài ra, theo Hiến pháp, Nhà nước Việt Nam còn có bản chất sau:
Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Bộ máy Nhà nước
Nhà nước Việt Nam là hệ thống 4 cơ quan. Đó là:
Hệ thống các cơ quan quyền lực nhà nước hay còn gọi là các cơ quan
đại diện, bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp (do nhân dân
trực tiếp bầu ra) thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Các cơ quan hành chính (cơ quan hành pháp): Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ủy ban Nhân dân.
Hệ thống cơ quan xét xử:Tòa án nhân dân tối cao và Toà án nhân dân địa phương.
Hệ thống cơ quan kiểm sát: Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viện kiểm sát nhân dân địa phương.
Dưới đây là Sơ đồ tổ chức của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2015:
Ủy ban dự thảo Hiến pháp được thành lập theo Sắc lệnh số 34-SL ngày 20 tháng 9 năm 1945 gồm có 7 thành viên: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy (tên của vua Bảo Đại sau khi thoái vị), Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) .
Bản dự án Hiến pháp đã được soạn thảo và công bố vào tháng 11 năm 1946.
Ban dự thảo Hiến pháp (Tiểu ban Hiến pháp) được Quốc hội bầu ra ngày 2 tháng 3 năm 1946 gồm có 11 thành viên: Tôn Quang Phiệt,Trần Duy Hưng, Nguyễn Thị Thục Viên, Đỗ Đức Dục (Dân chủ Đảng), Cù Huy Cận (Dân chủ Đảng), Nguyễn Đình Thi (Việt Minh), Huỳnh Bá Nhung, Trần Tấn Thọ, Nguyễn Cao Hách, Đào Hữu Dương, Phạm Gia Đỗ (4 vị thuộc Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng). Ban này tiếp tục nghiên cứu dự thảo hiến pháp.
Trong phiên họp ngày 29 tháng 10
năm 1946, Tiểu ban Hiến pháp được mở rộng thêm 10 đại biểu đại diện cho
các nhóm, các vùng và đồng bào thiểu số để tu chỉnh dự thảo hiến pháp
và trình ra Quốc hội ngày 2 tháng 11 năm 1946 để Quốc hội thảo luận, sửa
chữa và thông qua.
Bản hiến pháp được Quốc hội thông qua vào ngày 9 tháng 11 năm 1946, tại kỳ họp thứ 2, với 240 phiếu tán thành trên tổng số 242 phiếu.
Sau đó, Quốc hội ra nghị quyết giao nhiệm vụ cho Ban Thường trực Quốc
hội "cùng với chính phủ ban bố và thi hành hiến pháp khi có điều kiện",
"trong thời kì chưa thi hành được Hiến pháp thì chính phủ phải dựa vào
những nguyên tắc đã định trong hiến pháp để ban hành các sắc luật". Tuy
nhiên, Kháng chiến chống Pháp
bùng nổ vào ngày 19 tháng 12 năm 1946 đã làm việc tổ chức tổng tuyển cử
bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện để thực hiện. Do tình hình
chiến tranh, Hiến pháp 1946 chưa được chính thức công bố và chưa từng có hiệu lực về phương diện pháp lý.
Nội dung
Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 là một bản hiến văn ngắn, bao gồm lời nói đầu và 7 chương, 70 điều.
Lời nói đầu khẳng định ba nguyên tắc cơ bản của bản Hiến pháp này:
"Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo.
"Đảm bảo các quyền tự do dân chủ.
"Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân."
Chương I quy định chính thể của Việt Nam là Dân chủ Cộng hòa
Chương II quy định nghĩa vụ và quyền lợi công dân, xác nhận sự bình
đẳng về mọi phương diện của tất cả công dân Việt Nam trước pháp luật.
Chương III quy định về nghị viện nhân dân.
Chương IV quy định về chính phủ - cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc
Chương V quy định phương diện hành chính, bộ, tỉnh, huyện, xã; quy
định về cơ quan hành chính (ủy ban hành chính và hội đồng nhân dân) các
cấp.
Chương VI quy định về cơ quan tư pháp bao gồm toà án tối cao, các toà án phúc thẩm, các toà án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Chương VII quy định về việc sửa đổi Hiến pháp, trong đó có quyền phúc quyết hiến pháp của dân.
So sánh
Quy định về việc sửa đổi Hiến pháp (Chương VII) không được kế thừa
trong các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Vai trò và quyền lực của chủ tịch nước như được quy định trong Hiến
pháp 1946 rất lớn: Chủ tịch nước không chịu trách nhiệm trước Quốc hội,
không thể bị khởi tố trừ tội phản quốc, có thể từ chối công bố các đạo
luật do Quốc hội ban hành và yêu cầu Quốc hội thảo luận lại. Đặc điểm
này gần với quy định về quyền lực của tổng thống trong Hiến pháp nước
Mỹ. Trong các bản hiến văn theo mô hình Xô Viết sau này của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chủ tịch nước chỉ
có chức năng nghi lễ mà ít mang tính quyền lực.
Hiến pháp 1946 công nhận các quyền cơ bản của công dân như quyền sở
hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền khiếu nại tố cáo... Ở các bản
Hiến pháp sửa đổi năm 1959 và 1980, các quyền này không được quy định
rõ ràng hoặc không đầy đủ. Đến bản Hiến pháp sửa đổi năm 1992 lại có
nhiều điểm tương tự Hiến pháp 1946.
Điều 10 bản Hiến pháp 1946 quy định rõ ràng các quyền tự do cá nhân: "Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài". Đây là những quyền tự do bị hạn chế trong các bản hiến pháp sau này.
So sánh với hiến pháp của các quốc gia khác, tác giả Phạm Duy Nghĩa
cho rằng nội dung Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
"không hề có bóng dáng của Hiến pháp Liên Xô 1936", có "thái độ thượng tôn và tiếp nối truyền thống tư pháp đã có từ thời thực dân", và chứa đựng những tư tưởng dân chủ hơn hẳn hệ thống luật pháp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Đánh giá
Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng
cho rằng Hiến pháp 1946 phản ánh đúng tinh thần pháp quyền - "những
nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể
xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ". Điều đó thể
hiện ở 5 điểm:
Hiến pháp đã được đặt cao hơn nhà nước. Nghị viện nhân dân không thể
tự mình sửa đổi Hiến pháp. Mọi sự sửa đổi, bổ sung đều phải đưa ra toàn
dân phúc quyết (Điều 70 Hiến pháp 1946).
Các quyền của người dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo đảm thay vì được nhà nước ghi nhận và bảo đảm.
Quyền năng giữa các cơ quan nhà nước được phân chia khá rõ và nhiều cơ chế kiểm tra và giám sát lẫn nhau đã được thiết kế.
Quyền năng giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương cũng được phân chia rất rõ.
Vai trò độc lập xét xử của toà án được bảo đảm. Các cơ quan khác không có quyền can thiệp.
Ông đánh giá "Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém bất kỳ bản hiến pháp nào trên thế giới".
Giáo sư Trần Ngọc Đường, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội (năm 2006),
cho rằng các điểm nổi bật của Hiến pháp 1946 là: Tư tưởng của Hồ Chí
Minh về nền lập hiến Việt Nam; Tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân; Tư
tưởng pháp quyền; Những quy định về quyền con người và đảm bảo quyền
công dân; Cơ chế bảo hiến; Sửa đổi hiến pháp. Theo ông, việc nghiên cứu
về "quyền phúc quyết" hiến pháp của người dân trong Điều 70 Hiến pháp
1946 rất có ý nghĩa trong hoàn cảnh xây dựng Luật trưng cầu dân ý của
Việt Nam.
Giáo sư Phạm Duy Nghĩa, Đại học Quốc gia Hà Nội,
cho rằng Hiến pháp năm 1946 là "bản hiến văn dân chủ vào loại bậc nhất
Đông Nam Châu Á lúc bấy giờ" và "đã có thể là một bản khế ước tốt để
ràng buộc và khống chế công bộc
với lợi ích của ông chủ nhân dân". Ông tỏ ý tiếc rằng sáu mươi năm sau
Việt Nam "đã không có cơ hội đi xa hơn trong chủ nghĩa lập hiến."
Theo ông, Hiến pháp 1946 vẫn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Việt
Nam và "vẫn còn nguyên giá trị cho một xã hội dân chủ pháp quyền ở Việt
Nam".
Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Đại học Saarland, Cộng hòa liên bang Đức
cho rằng: Điểm khác biệt và là nét độc đáo của Hiến pháp 1946 so với các
bản Hiến pháp sau này là bản Hiến pháp này không theo bất kỳ một nguyên
mẫu Hiến pháp nào có sẵn trong lịch sử. Sau khi cách mạng Tháng mười
Nga năm 1917 thành công, có một bản Hiến pháp rất nổi tiếng và có hiệu
lực ở Liên xô thời điểm đó là Hiến pháp năm 1936, nhưng chủ tịch Hồ Chí
Minh - một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
không lấy bản Hiến pháp này là khuôn mẫu khi xây dựng Hiến pháp 1946.
Ông cho rằng thực tế Hiến pháp 1946 đã có những yếu tố nhất định thể
hiện cơ chế phân công quyền lực, kiểm soát và cân bằng quyền lực.
Đây là bản hiến pháp được soạn thảo theo tinh thần "tam quyền phân lập": lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và tư pháp (Tòa án) với ảnh hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ, Pháp, và hiến pháp của các nước cộng hòa khác.[cần dẫn nguồn]
Điều 1 của Hiến pháp 1946 ghi rõ: "Nước Việt Nam là một nước Dân chủ
Cộng hòa". Nó không hề có một điều khoản nào quy định là một đảng phái
nào hay một ý thức hệ nào là độc tôn và độc quyền lãnh đạo đất nước như
các bản hiến pháp sau này của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà hay Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Tuy nhiên những giá trị của bản Hiến pháp 1946 không được vận dụng
trong thực tế mà chỉ có giá trị về mặt chính trị. Bởi vì nhiều lý do
khiến cho Hiến pháp 1946 không được thực thi.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:48 ngày 19 tháng 5 năm 2015.
Về mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
QĐND - Thứ tư, 13/01/2010 | 17:41 GMT+7
Đảng
ta đã xác định một bài học kinh nghiệm to lớn: đường lối đúng đắn của
Đảng là nhân tố hàng đầu đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đường
lối chung có tầm quan trọng đặc biệt, chi phối đường lối cụ thể trên
từng mặt, từng lĩnh vực. Đường lối chung bao gồm việc xác định mục tiêu
và những phương thức, phương pháp để đạt mục tiêu đó. Có mục tiêu cuối
cùng, lâu dài, lại có mục tiêu của từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử
nhất định. Về mục tiêu cuối cùng, Điều lệ Đảng và "Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH" (Cương lĩnh 1991) của Đảng đều
chỉ rõ đó là chủ nghĩa cộng sản. Dĩ nhiên, để đạt được mục tiêu đó,
chúng ta còn phải phấn đấu rất lâu dài, trải qua không biết bao nhiêu
thế hệ nữa và cũng chưa ai dự báo hết được bộ mặt đầy đủ của xã hội đó,
ngoài dự báo tổng quát: xã hội cộng sản chủ nghĩa có lực lượng sản xuất
phát triển rất cao, của cải vô cùng dồi dào, không còn áp bức, bóc lột,
con người có cơ sở đầy đủ để phát triển toàn diện…
Trước
khi bước vào xã hội cộng sản chủ nghĩa, nước ta phải trải qua giai đoạn
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, rồi giai đoạn xây dựng CNXH (còn
gọi là giai đoạn đầu, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản). Cách mạng
dân tộc dân chủ có mục tiêu “thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng”, còn gọi là cách mạng giải phóng dân tộc và "cách mạng thổ địa".
Nhưng lịch sử thường phát triển dích dắc, ngoằn ngoèo. Ở Việt Nam ta,
trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ lại trải qua các cuộc kháng
chiến lâu dài và vô cùng gian khổ. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước hoàn toàn thắng lợi, miền Nam hoàn toàn giải phóng, giang sơn thu
về một mối, nước nhà thống nhất, cả nước đi lên CNXH trong bối cảnh thế
giới vô cùng sôi động và phức tạp, Đảng đã xác định mục tiêu của cách
mạng là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, độc lập dân tộc và CNXH.
Mục
tiêu của công cuộc xây dựng CNXH và mục tiêu của thời kỳ quá độ lên
CNXH chỉ là một. Đó là xã hội XHCN đủ "lông cánh", vận động trên cơ sở
bản thân nó, theo những quy luật riêng của nó, thể hiện đầy đủ bản chất
khác với chế độ tư bản, cao hơn chế độ tư bản. Khi chúng ta nói mục tiêu
lý tưởng cao đẹp, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nói mục tiêu ở
cấp độ khái quát nhất, về thực chất là khẳng định con đường XHCN của
nước ta, chứ chưa nói được những gì cụ thể về mục tiêu của công cuộc xây
dựng CNXH.
Theo
Cương lĩnh 1991 mà Đại hội VII của Đảng vạch ra, được các Đại hội tiếp
theo của Đảng bổ sung, phát triển, thì xã hội XHCN khi đã được xây dựng
xong phải có những đặc trưng trên các mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất, nhà nước, nền văn hóa và con người mới, vị trí và vai trò của
nhân dân trong xã hội mới đó, quan hệ giữa các dân tộc và quan hệ quốc
tế. Dù diễn đạt theo những tiêu chuẩn cụ thể nào, phong phú ra sao, thì
tựu trung, CNXH với tư cách một chế độ xã hội, giai đoạn thấp của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, cũng phải bao gồm ba mặt: lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng đều tiên tiến
nhất, thể hiện ưu việt hơn hẳn chủ nghĩa tư bản, tạo nên năng suất chiến
thắng và có đời sống vật chất, tinh thần cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Trong
Cương lĩnh 1991 cũng như trong nhiều văn kiện của Đảng (đặc biệt là văn
kiện Đại hội IX của Đảng), đã cụ thể hóa mục tiêu xây dựng CNXH, tạo
điều kiện tập hợp lực lượng rộng rãi, nhằm xây dựng đất nước trong giai
đoạn mới là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Mặc dầu hiện nay, có thể có nhiều nước nói tới phấn đấu mục tiêu tương
tự; nhiều nước tư bản phát triển nói nước họ từ lâu đã đạt mục tiêu này,
nhưng đều theo quan điểm, theo kiểu cách của nhà nước tư sản. Đảng và
nhân dân ta cũng nêu mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”, nhưng là của điều kiện “xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH”. Nói cách khác, chúng ta phấn đấu cho “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo con đường XHCN”. Để
kiên định và thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả đó, cần hiểu một cách
đúng đắn từng khía cạnh của nó.
Trước hết, nói về “dân giàu”.
Vì xuất phát từ mức thu nhập quá thấp, đời sống quá nghèo khổ, cho nên
trong quan niệm của dân ta về “dân giàu” cũng thật khiêm tốn, chỉ là vài
nghìn đô la/người/năm, chứ chưa dám nghĩ đến vài chục nghìn đô
la/người/năm như nhiều nước hiện nay. Khi nói dân giàu thì bao gồm cả
tổng GDP của nước nhà và GDP tính theo đầu người. Nhờ tổng GDP lớn mà
chúng ta không chỉ chăm lo đời sống chung toàn xã hội, lo an sinh xã
hội, lo tái sản xuất mở rộng, đặc biệt chăm lo quốc phòng, gìn giữ và
bảo vệ Tổ quốc, mà còn lo góp phần làm nghĩa vụ quốc tế. Một nước non
100 triệu dân mà tổng GDP chưa đầy 100 tỷ đô la/năm như hiện nay thì còn
quá khiêm tốn (tuy so với trước đã tiến bộ nhiều). Cho nên, chúng ta
phải phấn đấu chí ít cũng nâng lên 1.000 tỷ đô la/năm để đạt 3.000 đô
la/người/năm vào năm 2020 chứ chưa dám nói đến vài chục nghìn tỷ đô
la/năm như những nước phát triển trên thế giới. Phấn đấu cho dân giàu
bằng sức của dân, bằng nội lực Việt Nam, bằng phát triển sản xuất và
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Ở đây đòi hỏi đường lối đúng đắn
của Đảng và chính sách, pháp luật đúng đắn của Nhà nước. Nhân dân ta
phấn đấu giàu có hợp pháp luật, theo pháp luật. Nếu như trước kia đã có
lúc nhận thức sai lầm rằng: giàu có là trái với đạo đức, trái với CNXH,
thì ngày nay, thực tiễn càng cho chúng ta nhận thấy dân giàu là một mặt
bản chất của xã hội XHCN.
Thứ hai, dân giàu là một trong những yếu tố quyết định nước mạnh.
Một nước được coi là mạnh, trước hết là mạnh về kinh tế và mạnh về quân
sự, quốc phòng. Về kinh tế, phải tự lo được các cân đối lớn trong nước,
có dự trữ lớn, đối phó được với thiên tai, địch họa, không những đủ lo
đời sống nhân dân mình mà còn dư lực giúp đỡ các dân tộc khác, các quốc
gia khác, khi cần. Về quốc phòng, phải đủ sức ứng phó được với chiến
tranh mà kẻ thù xâm lược sử dụng vũ khí công nghệ cao, đủ sức bảo vệ Tổ
quốc trong bất cứ tình huống nào.
Trong
các nước tư bản hiện nay cũng tồn tại phổ biến khái niệm dân giàu, nước
mạnh. Ở các nước tư bản phát triển nhất thì trong chiến lược, trong
đường lối, chủ trương của họ, đặc biệt là trong các khẩu hiệu tranh cử
của các đảng phái cũng được hứa hẹn dân giàu, nước mạnh. Nhưng dân là
ai, cần quan tâm nhất tới tầng lớp nào; nước mạnh về cái gì, mạnh để làm
gì… thì quan niệm của các chính phủ tư sản, các đảng tư sản, các học
giả tư sản lại khác với chúng ta. Ở đấy, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc
gia giàu mạnh được coi là dân giàu, nước mạnh. Theo chủ nghĩa đơn cực
thì nước Mỹ phải có sức mạnh thống trị thế giới, cả về kinh tế và quân
sự. Chính phủ nước hùng mạnh nhất thế giới này coi phục vụ dân nghĩa là
phục vụ những công ty xuyên quốc gia, bởi các công ty này đóng góp nhiều
thuế nhất, do đó họ là lực lượng đứng đằng sau, chi phối Chính phủ.
Thứ ba, về một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
thì không phải ta mà các chính giới tư bản cũng nói, các nước Anh, Mỹ,
Đức, Pháp càng nói; nhưng quan niệm và tổ chức thực hiện thì khác ta về
bản chất. Nhân dân ta quan tâm công bằng xã hội trước hết là thu hẹp
khoảng cách giàu nghèo, giảm bớt sự chênh lệch giữa thành thị với nông
thôn, miền xuôi với miền núi; thực hiện tốt việc "đền ơn đáp nghĩa"
những người đã hy sinh và cống hiến nhiều cho đất nước, quan tâm chăm
sóc an sinh xã hội. Nhân dân ta quan tâm đến tổ chức nền dân chủ của đa
số, dân chủ cả về chính trị lẫn kinh tế, dân chủ đối với công nhân, nông
dân và trí thức, dân chủ với cấp dưới. Nền dân chủ của đa số là rất văn
minh nhưng cũng vô cùng mới mẻ. Chúng ta phải luôn tìm tòi, sáng tỏ
những cơ chế, những hình thức cụ thể, hợp lý để thực hiện kiểu dân chủ
đa số. Dân chủ luôn luôn được hoàn thiện trên cơ sở nâng cao dân trí và
trình độ phát triển kinh tế. Đến khi CNXH được xây dựng xong thì chúng
ta có một nền dân chủ hoàn thiện, không những xã hội có ý thức cao mà
còn có điều kiện đầy đủ để thực hiện nền dân chủ vô cùng đẹp đẽ ấy.
Chúng ta xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực
thuộc về nhân dân, là một kiểu nhà nước dân chủ, văn minh nhất trong
lịch sử. Xã hội văn minh mà Đảng và nhân dân ta quan niệm và quan tâm
trước hết là dân tộc độc lập, tự chủ, bình đẳng giữa các chủng tộc và
các quốc gia trên thế giới; nhân dân ta phấn đấu có cuộc sống phong phú,
đa dạng, con người có điều kiện phát triển toàn diện, luôn luôn thích
ứng với nền công nghiệp và công nghệ hiện đại, v.v.
Trái
lại, ở các nước tư bản phát triển nhất hiện nay thì công bằng trong
nước cũng như trong quan hệ quốc tế lại dành cho các thế lực có nhiều
tiền bạc, kẻ giàu có lắm của là kẻ có quyền lực. Công bằng tư sản còn là
công bằng tối đa theo quan hệ hàng hóa, theo đó “khôn sống mống chết”,
“mạnh được yếu thua”; đặc biệt ngày nay là sự cạnh tranh giữa các công
ty xuyên quốc gia, họ cạnh tranh để giành vị trí, thị trường trong nước
và trên thế giới, giành giá cả độc quyền. Dân chủ, văn minh của phương
Tây cũng khác với chúng ta, cả về quan niệm và thể chế. Dân chủ, văn
minh tư sản là dựa trên thị trường tự do tuyệt đối, chỉ kẻ nào làm chủ
thị trường là kẻ mạnh, những người và những quốc gia khác phải nói và
sống theo kẻ mạnh, thậm chí kẻ mạnh dùng cả bom, đạn và đô la, thực hiện
“khủng bố nhà nước” để thể hiện cái gọi là “bảo vệ dân chủ, tự do và
văn minh”, “bảo vệ giá trị phương Tây”.
Ở
Việt Nam ta, trong điều kiện xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thì yêu cầu phấn đấu cho một xã
hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” tất yếu theo
con đường XHCN, là mục tiêu chiến lược vô cùng đẹp đẽ, đồng thời là một
khẩu hiệu đoàn kết, tập hợp lực lượng rộng rãi xây dựng xã hội mới. Điều
quan trọng là bằng đường lối, chính sách và pháp luật mà Đảng, Nhà nước
ta lãnh đạo, quản lý, điều hành toàn xã hội tiến dần lên CNXH.
Cuối
cùng, thì xã hội "dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh" mà
chúng ta mong ước, đồng nghĩa với một hình thái kinh tế - xã hội rất
tiến bộ. Theo đó, về lực lượng sản xuất là một nền sản xuất được cơ khí
hóa, điện khí hóa, tự động hóa, tin học hóa với những công nghệ hiện
đại, tương đương với cơ sở vật chất kỹ thuật mà các nước tư bản phát
triển nhất đã đạt được. Chỉ có như thế, chế độ XHCN mới có cơ sở đưa ra
được một năng suất lao động chiến thắng so với chủ nghĩa tư bản. Về quan
hệ sản xuất, khi CNXH được xây dựng xong thì xã hội đã nắm lấy những tư
liệu sản xuất (kể cả dịch vụ) chủ yếu, nền kinh tế thị trường XHCN được
hình thành đầy đủ, kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch kết hợp nhuần
nhuyễn, hệ thống phân phối theo lao động và theo tác động của các quy
luật thị trường XHCN cùng phúc lợi xã hội chiếm ưu thế. Về kiến trúc
thượng tầng, vốn mang tính tiên tiến ngay từ khi bắt đầu thời kỳ quá độ,
đến khi CNXH được xây dựng xong thì nó ở trình độ hoàn thiện; đặc biệt,
phải kể đến nhà nước pháp quyền XHCN, nền dân chủ XHCN đã rất phát
triển và hoàn thiện, con người mới có khả năng phát triển toàn diện trở
thành phổ biến, thế giới quan khoa học và đạo đức XHCN ngự trị trong xã
hội.
Một
khi đạt được cả ba mặt (lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc
thượng tầng) thì chúng ta kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXH, nhân dân ta
bắt đầu cuộc sống ở giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội mới
mẻ nhất trong lịch sử loài người. Đấy là ước mơ, hoài bão, là lý tưởng
vô cùng cao đẹp của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta, chúng ta cần tiếp tục
kiên định và phấn đấu theo mục tiêu cao cả đó.
VŨ HỮU NGOẠN
Nguyên Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu
chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
-GÓP Ý KIẾN VÀO QUÁ TRÌNH TIẾN ĐẾN ĐẠI HỘI LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG: Về Chủ nghĩa xã hội”.
Thời điểm Đại Hội 12 đầu năm
2016 sắp tới đòi hỏi chúng ta phải nói thẳng, nói thật, nói hết với
quảng đại quần chúng, với toàn thể đảng viên, với niềm hy vọng áp lực
lên Đảng cầm quyền toàn trị để mong thoát khỏi sự tụt hậu ngày càng
trầm trọng về mọi mặt của đất nước, đồng thời xây dựng một nước VN hòa
bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải.
Chúng tôi giới thiệu bài "GÓP Ý KIẾN VÀO QUÁ TRÌNH TIẾN ĐẾN ĐẠI HỘI LẦN
THỨ XII CỦA ĐẢNG" của Giáo sư Tương Lai, một nhà nghiên cứu rất sâu sát
chủ nghĩa Mác. Giáo sư Tương Lai là đảng viên và là người rất khâm phục
và luôn làm theo lời Chù tịch Hồ Chí Minh. Dĩ nhiên kiểu "làm theo" của
ông mang đậm thực tế xã hội, trái hẳn với kiểu "học tập theo gương Bác"
của ông Nông Đức Mạnh trong cung điện nguy nga.
Giáo sư Tương Lai, bằng bài góp ý rất dài với nhiều lý luận rất đáng đọc, chỉ giản dị đề nghị ba điểm:
1- Từ bỏ mô hình Xã hội Chủ nghĩa.
2- Dứt khoát loại bỏ cái gọi là Chủ nghĩa Mác-Lênin.
3- Thực hiện bằng được “điều mong muốn cuối cùng” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”
chứ không phải là xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.
GS Tương Lai:"Với
tư cách một người làm nghiên cứu, tôi sẽ cố gắng tiếp cận từ bình diện
lý luận gắn với thực tiễn để trình bày ý kiến đóng với Đảng và cũng qua
đó mong nhận được sự thẩm định của công luận về những ý tưởng đã trình
bày và những kiến nghị với Đại hội XII."
**Kiến nghị này tôi đã
trình bày trong Tiểu luận có nhân đề “CHÂN LÝ LÀ CỤ THỂ” hoàn thành cách đây 10
năm vào dịp 19.8.2005 gửi những người có trách nhiệm : một số Uỷ viên Bộ Chính
trị, Hội đồng Lý luận TƯ [qua Tổng biên tập báo Đại Đoàn kết với tư cách là Uỷ
viên UBTU7MTTQVN] và một số nhà Nghiên cứu tôi quen biết.Anh Sáu
Dân đã dành 1 buổi trao đổi kỹ và yêu cầu tôi chỉnh sửa đôi chỗ để đưa in
nhưng làm sao in được. Ngày 27.9.2006, tôi nhận được sự động viêncủa Đại tướng
Võ Nguyên Giápqua câu đề tặng ghi ở trang đầu Tổng tâp Hồi ký của Đại tướng tặng tôi
: “Chúc
đồng chí Tương Lai có những đóng góp mới vào lý luận của Đảng” [xem “Cảm nhận và Suy tư” trang 119]. Báo Đại
Đoàn Kết thời Lý Tiến Dũng làm TBT có trích đăng một chương trên Tuần San Đại
Đoàn Kết vào dịp ấy. GS Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại doc Kinh tế
TPHCM có in mấy chục cuốn [ 102 trang khổ giấyA4] để gửi một số bạn bè thân quen.
Nay tôi nhắc lại những kiến
nghị đó trong bản “GÓP Ý” này.
Từ năm 1945 đến năm 1949, ông công tác tại tỉnh Hà Tĩnh.
Từ 1950 đến năm 1954, ông lần lượt giữ các chức vụ: Chuyên viên
nghiên cứu Ban Tuyên huấn Liên khu ủy IV; Trưởng ban Tuyên huấn tiền
phương thuộc Hội đồng Cung cấp Mặt trận Liên khu IV trong chiến dịch
Trung - Lào.
Từ năm 1959 đến năm 1975: Giảng viên, Phó Trưởng Khoa Triết học Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc.
Năm 1982, ông được bầu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa V. Giữ chức Hiệu trưởng Trường Đảng Cao cấp Nguyễn Ái Quốc (Tức Học viện CTHCQG HCM hiện nay) cho đến năm 2001.
Năm 1984, ông được Nhà nước Việt Nam công nhận chức danh Giáo sư Triết học.
Tháng 6 năm 1996 ông được tái trúng cử vào Bộ Chính trị khóa VIII, giữ chức Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương kiêm Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Ông đã nghỉ hưu từ tháng 1 tháng 2008.
Quan điểm chính trị
Quan điểm chính trị của ông gắn bó với chủ nghĩa Marx-Lenin truyền thống. Trước Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam X
(khai mạc ngày 18 tháng 4 năm 2006) ông có viết một số bài đăng báo góp
ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng. Ông suy tư: "Điều tôi băn khoăn, trăn
trở ở chỗ: tư duy lý luận của chúng ta về chủ nghĩa xã hội lâu nay đã
thật sự độc lập tự chủ hay chưa, đã thật sự sáng tạo trên mảnh đất Việt Nam hay chưa? Trung Quốc nói "chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc". Vậy Việt Nam đã thật sự có một lý luận và đường lối của mình tiến lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ hay chưa?". Khi nói đến vấn đề đảng viên được làm kinh tế, ông phê phán: "Dự thảo mới vẫn tránh nói kinh tế tư bản tư nhân mà đưa lẫn vào trong một biến báo mới: "Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô". Điều đó có nghĩa là gì? Có nghĩa là có thể làm giàu hết cỡ, làm tư bản tư nhân
hết cỡ, có thể bóc lột hết cỡ mà (với những điều kiện nhất định?) có
thể được làm đảng viên, như vậy có trái sờ sờ với "lẽ tự nhiên" như Bác
Hồ nói không?". "Nhưng tại sao một chính sách mới của Đảng quan trọng
như thế mà lại không nói thẳng thắn, đàng hoàng, minh bạch, thậm chí
không gọi sự vật đúng tên của nó? Chỉ riêng điều đó đã là một điểm yếu
căn bản của "quan điểm mới"".
Ông không đồng ý với báo cáo của đại hội vì đảng viên, "không thể vừa
là chiến sĩ cộng sản lấy việc xóa bỏ chế độ bóc lột làm lý tưởng đời
mình, lại vừa làm ông chủ tư bản lấy bóc lột lợi nhuận làm lẽ sống"
Và ông nói " Ông chủ tư bản làm sao có thể dễ dàng trở thành người cộng sản"?
"Thật không có gì sai bằng lập luận thế này: Ta đang ở thời kỳ quá độ,
vậy trong thành phần xã hội của đảng viên cũng có sự quá độ. Nói thế
khác gì quan điểm cho rằng kinh tế nhiều thành phần thì chính trị tất
yếu phải đa đảng và tư tưởng trong Đảng tất yếu cũng phải đa nguyên".
Ông khẳng định:"Trước sau tôi vẫn không đồng ý quan điểm trong Đảng có
thể có tư bản tư nhân", vì theo Hồ Chí Minh và cũng là chủ nghĩa
Marx-Lenin: "Không bóc lột người. Đảng chống chế độ "người bóc lột người". Lẽ tự nhiên, ai bóc lột người thì không thể làm đảng viên" (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, tr.237)".
Ông nói: "thật vô cùng nghịch lý khi nghĩ rằng kết nạp cả tư sản để mở rộng cơ sở xã hội, cơ sở quần chúng cho cách mạng xã hội chủ nghĩa! Quần chúng công nông, các lực lượng vũ trang con em công nông sẽ hỏi chúng ta ngay: vậy các anh là Đảng của ai?"
Đóng góp ý kiến với lãnh đạo Đảng
Ông đề xuất với lãnh đạo Đảng:
"Tôi đề nghị trung ương cho ra một tờ nội san,
lưu hành có hạn chế trong Đảng". "Việc ra nội san tranh Luận đã đến lúc
chín muồi vì những quan điểm khác nhau trong Đảng nay đã bộc lộ công
khai hay nửa công khai bằng phát ngôn và phát tán tài liệu rất có hại vì
nó làm phân tâm, phân tán tư tưởng nghiêm trọng trong Đảng và trong xã
hội". Ông viết: "Sự thiếu nhất trí trong Đảng ta hiện nay chủ yếu là
trên mặt nhận thức. Là vấn đề nhận thức, phải giải quyết bằng nhận thức,
bằng trao đổi, thảo luận, tranh luận thẳng thắn trên tinh thần đồng
chí. Muốn vậy, phải đặt thẳng những vấn đề có ý kiến khác nhau lên bàn,
trước hết là mấy vấn đề then chốt sau đây:
Sau thảm họa sụp đổ ở Liên Xô, Đông Âu, chúng ta có nên tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa nữa hay không? Có thể có con đường nào khác phù hợp hơn? Hoặc: hãy thôi nói chủ nghĩa xã hội, thôi nói chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cứ làm sao cho "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là được rồi?
Bản chất Đảng có gì thay đổi? Có nên giữ như lâu nay: "Đảng ta là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của cả dân tộc" hay nên
thay bằng công thức mới: "Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động, của dân tộc".
Về đảng viên, có nên cho phép đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân,
cho phép kết nạp cả những nhà tư bản tư nhân vào Đảng hay không?"
Ông băn khoăn: "Rất tiếc mấy tháng vừa rồi
tại đại hội Đảng các cấp từ cơ sở đến tỉnh, thành phố, đến đại hội Đảng
các cơ quan trung ương, các vấn đề rất ít được đặt ra để thảo luận,
tranh luận. Tôi cho đó là một hạn chế lớn không đáng có".
-Theo con đường chính – con đường Hồ Chí Minh
Bài này là một phần nằm trong bài viết có tên “ĐÃ ĐẾN LÚC THAY ĐỔI MỤC TIÊU, ĐƯỜNG LỐI” của TS. Vũ Duy Phú, Phó Chủ tịch thường trực Viện Các vấn đề phát triển VIDS và
đã được Viện Nghiên cứu Công nghệ và Phát triển SENA xuất bản tháng
12/2012 trong cuốn “GIAI ĐOẠN MỚI, CHÍNH THỂ MỚI, VĂN HÓA MỚI”.
Bài viết “Đã đến lúc thay đổi mục tiêu, đường lối” của tác giả Vũ Duy Phú gồm 6 nội dung:
1. Theo con đường chính – con đường Hồ Chí Minh;
2. Không thể đến đích mới bằng kiên định đường cũ;
3. Phải từ bỏ thứ quyền lực đứng trên pháp luật, không bị kiểm soát, không chịu trách nhiệm. Công thức phát triển;
4. Phải biết trân trọng, phát huy và sử dụng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là trí tuệ trong nội bộ Đảng;
5. Sẽ chỉ gây rối loạn khi vừa chống tham nhũng, vừa kiên định nguyên nhân làm tham nhũng bùng phát;
6. Trước hết cần lấy tín nhiệm trong dân, trong Quốc hội, với những ai có trách nhiệm dẫn dân tộc “đi đâu?”, “làm gì?”.
“Đã
đến lúc lãnh đạo và toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành công cuộc thay
đổi tư duy chính trị để thực sự “Theo con đường CHÍNH - CON ĐƯỜNG HỒ CHÍ
MINH”(Tài liệu số 2, tập I, cuốn “Theo con đường Chính - Con đường Hồ Chí Minh”)
Trái Đất xưa sung mãn Trong lành, sáng biếc ngời Nay đục ngầu, suy kiệt La liệt cảnh đãi bôi. Tại Người tham quá thôi! Và tận cùng vị kỷ Rêu rao chân - thiện - mỹ Mà vô sỉ, bạo tàn!
Bản chất
của bạn là con người Thiện hay Ác? Nếu được yêu cầu trả lời câu hỏi trên
ngay tức thì, bạn sẽ trả lời như thế nào? Thiện hay Ác?
2500 năm trước, Khổng Tử đã khẳng định: “Nhân chi sơ tính bản thiện” – Con người sinh ra vốn có bản tính thiện. Hai trăm năm sau, Tuân Tử khẳng định: “Nhân chi tính ác, kỳ thiện giả ngụy dã”
– Bản tính con người là cái ác, cái thiện là do con người tạo ra. Thực
tế, lý thuyết của Khổng Tử phổ biến hơn tại phương Đông, người phương
Đông hướng tới bản tính thiện và đề cao cái thiện. Sigmund Freud – nhà
tâm lý học từng khám phá ra tầng vô thức của con người đã khẳng định: “Con người đạo đức hơn ta nghĩ, nhưng cũng vô đạo đức hơn ta tưởng”.
Học thuyết về Eros và Thanatos của ông dường như đồng thuận với tư
tưởng của Tuân Tử. Liệu rằng niềm tin từ trước tới nay của chúng ta vào
bản tính thiện của con người có còn đúng đắn? Liệu chúng ta đã thực sự
hiểu rõ về bản tính ác – con quỷ ẩn giấu bên trong chính mình chưa?
Trong mỗi người luôn tồn tại hai mặt thiện ác, đó là quy
luật. Hai mặt này tương ứng với phần con và phần người. Nó là hai mặt
của một vấn đề ứng với quy luật âm dương, như ngày và đêm, yêu và ghét,
đẹp và xấu, lớn và nhỏ, nóng và lạnh,… Thiện - ác luôn tồn tại song
song, thiện tiêu thì ác trưởng và ngược lại, không có trạng thái thiện
hoàn toàn hoặc ác hoàn toàn. Mỗi thái cực hiện hữu, có mặt trọn vẹn
trong thái cực còn lại. Sâu bên trong một tên khủng bố máu lạnh vẫn còn
sót lại chút tính người, sâu bên trong một thánh nhân vẫn tồn tại một
con quỷ đang say ngủ.
Tính ác của con người đã được luận bàn bởi rất nhiều triết
gia từ đông tây kim cổ. Với phương Tây, Sigmund Freud, trong cuốn “Nền
văn minh và sự bất mãn của nó”, đã mô tả con người xã hội bằng một câu
ngắn gọn: “Người đối với người là lang sói”. Có nghĩa là nếu
trung thực với bản thân và với lịch sử, ta không thể phủ nhận bản tính
ác trong con người. Bản tính ác đó hiện diện trong sự tàn bạo của đoàn
quân thập tự chinh đánh chiếm Jerusalem, sự dã man của những trại tập
trung và lò thiêu người của Đức quốc xã – nơi đã làm biến dạng nhân tính
và thể xác của các tù nhân,… Freud là người đã chứng kiến thế chiến I
với một loạt xung đột là hệ quả của bản tính ác trong con người như:
chiến tranh, khủng bố, chiến tranh hạt nhân, khủng hoảng bệnh dịch,
khủng hoảng tội ác, suy đồi đạo đức, bất công xã hội,… Ông nhìn thấy cái
ác hiện diện khắp mọi nơi, bản tính thiện tốt đẹp của con người trong
nghịch cảnh dường như cũng xếp sau bản tính ác và nỗi sợ hãi bản năng.
Nó là chất liệu hình thành nên tư tưởng của Freud về bản tính ác trong
con người.
Với phương Đông, Tuân Tử là người đi tiên phong trong tư
tưởng: Bản tính con người vốn ác. Tuân Tử là một bậc cao nhân của Trung
Hoa cổ đại với những tư tưởng rất thực tế. Trong khi các bậc cao nhân
cùng thời khuyên con người hướng thiện, kiềm chế tâm dục tham lam thì
Tuân Tử lại quả quyết: “Dục là tự nhiên ai cũng có, không thể bớt đi
hay bỏ lại mà không hại. Hữu dục mà hợp đạo cũng không hại, khử dục mà
trái đạo cũng vô ích”. Dục đó chính là ham muốn, là bản tính ác của
con người. Tuân Tử đã đưa ra tư tưởng rất hiện đại: thừa nhận tính ác
của con người trong khi mọi người né tránh, chối bỏ. Ham muốn nếu hợp
đạo thì không hại, còn cố loại bỏ nó nhưng trái với đạo lý thì loại bỏ
cũng vô ích. Ông cũng cho rằng: bản tính của con người là ác, tính thiện
là do con người tạo ra qua giáo dục, lễ nghĩa, pháp quyền.
Bản tính ác trong mỗi người được kìm hãm bởi 2 sợi dây: sợi dây luân lý và sợi dây pháp lý. Sợi dây pháp lý
là khung quy định chung cho tất cả mọi người trong một quốc gia, tổ
chức. Nó mang tính áp chế, được thể hiện thông qua hệ thống luật pháp,
bắt buộc mỗi người phải tuân theo và được điều chỉnh bởi các tổ chức
hành pháp. Trong khi đó, sợi dây luân lý lại
được xây dựng từ các giá trị đạo đức, các thang giá trị của người xưa
truyền lại. Nó không bắt buộc mọi cá nhân đều phải thực hiện theo đúng
những giá trị đó, mà họ được tự do lựa chọn thực hiện hay không tùy
thuộc vào niềm tin và nhận thức của mỗi người. Sợi dây luân lý sẽ do tòa
án lương tâm của mỗi người và dư luận xã hội điều chỉnh. Các tôn giáo
như Thiên Chúa giáo, Phật giáo,… cũng chính là một sợi dây luân lý. Hầu
hết mọi tôn giáo, ngoài những đặc thù khác biệt về hình tượng tối cao và
niềm tin tôn giáo thiêng liêng, đều có điểm chung là điều chỉnh các tín
đồ đến lối sống hướng thiện, đề cao những chuẩn mực đạo đức mang tính
nhân văn, loại bỏ tính ác trong mỗi người.
Thừa nhận một mặt tối khác đang tồn tại bên trong con người
mình, một con quỷ chỉ chực chờ cơ hội thoát ra là việc không dễ dàng.
Thừa nhận nó với chính mình đã khó, thừa nhận với mọi người rằng nó đang
tồn tại đó lại càng khó hơn. Nhưng nó là sự thật, dù chúng ta có thừa
nhận hay không thì nó vẫn luôn tồn tại. Sẽ ra sao nếu trong một tình
huống nguy cấp, ta không kiểm soát được bản thân và để con quỷ bộc lộ
chi phối hành vi của chính ta? Chúng ta đang sống trong giai đoạn các
trào lưu văn hóa, tư tưởng phương Tây mạnh mẽ du nhập, pha trộn với các
tư tưởng của phương Đông truyền thống, xuất hiện sự xung đột và đổ vỡ,
gây bối rối, hoang mang về các giá trị của con người. Hoàn cảnh xã hội
này đẩy chúng ta vào những tình huống đầy cám dỗ với nhiều lựa chọn hơn,
lợi ích nhiều hơn nhưng trả giá cũng tương xứng. Do đó, việc kiểm soát
bản tính ác trong mỗi người trở nên khó khăn gấp bội.
Hoa sen thơm ngát trắng trong lớn lên từ bùn lầy hôi hám,
chính bùn lầy đã nuôi dưỡng cho hoa sen lớn lên xinh đẹp tràn đầy như
vậy. Hoa sen không thể rời bỏ bùn lầy, cũng như muốn có cái thiện trong
sáng như hoa sen, chúng ta không thể chối bỏ các ác như bùn lầy. Biết
được về bản tính ác, về mối nguy hại của nó, chúng ta có thể biến nó
thành đòn bẩy để khơi dậy bản tính thiện trong mình lớn hơn, tìm cách
chung sống với chính mình và với xã hội.
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
“Nếu
toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập
thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như
dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô
cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên
hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi
“Đôi lúc cuộc
sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và
đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có
những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo
chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của
những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự
nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ
của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những
lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”. MARTIN LUTHER KING
"Sai
lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật
chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu
ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật
lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một
thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như
hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt
khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không
có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT
"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".
Lépnít là người
đầu tiên thấy rằng cách chọn số đo động lượng của Đềcác mâu thuẫn với qui luật
rơi tự do. Năm 1686, tức là trước khi tác phẩm “Các nguyên lý toán học của triết
học tự nhiên” của Niutơn ra đời một năm, lépnít đã công bố một bài báo phê phán
sự lựa chọn số đo chuyển động của Đềcác (mv), và đề xuất một số đo vận động mới (mv2). Những
người tin theo Đềcác phản ứng lại kịch liệt. Bắt đầu từ đó gây nên một cuộc
tranh luận sôi nổi và kéo dài hàng nửa thế kỷ.
Lépnít còn chỉ
ra rằng độ đo lượng chuyển động mvđã mâu thuẫn với nguyên
lý về tính bất biến của động lượng do chính Đềcác phát biểu, vì nếu độ đo ấy quả
có giá trị thì lực (tức động lượng) trong thế giới tự nhiên sẽ luôn tăng hoặc
luôn giảm. Cuối cùng ông lập luận rằng, khi một vật nặng rơi xuống và gây ra sự
biến dạng, thì tác dụng gây biến dạng (tức lực) tỷ lệ với độ cao khi nó bắt đầu
rơi và do đó tỷ lệ với bình phương vận tốc. Mặt khác, nếu sự biến dạng đó có tính
đàn hồi hoàn toàn thì sau khi va chạm, vật lại thu được một lực đủ để nảy trở lên
độ cao ban đầu và do đó lực này phải tỷ lệ với bình phương vận tốc. Trên cơ sở
này Lépnít đề nghị thay mv bằng mv2để làm đại lượng mô tả
động lượng của một vật.
Tuy nhiên, Lépnít
đã không phải không gặp sự lúng túng khi đưa ra đề nghị ấy. Trong nhiều trường
hợp áp dụng, việc sử dụng mvlàm số đo động lượng vẫn
tỏ ra hoàn toàn thỏa đáng. Chính vì thế mà Lépnít đã phải đi đến phân biệt có
hai thứ lực (không đồng nhất về thứ nguyên nên cũng mâu thuẫn!), đó là “hoạt lực”
(lực sống, sức sống) và “lực chết” (quán lực). theo ông, quán lực là lực “nén”
hoặc lực “kéo” của các vật thể đang ở trạng thái đứng yên, độ đo của lực đó là
tích của khối lượng với tốc độ di chuyển của vật thể khi nó từ trạng thái đứng
yên chuyển sang trạng thái chuyển động. Còn hoạt lực là độ đo sự chuyển động thực
sự của vật thể và được xác định bằng tích khối lượng của vật chuyển động với bình
phương vận tốc của nó. Theo quan niệm của Lépnít, hoạt lực của vật thể phải được
bảo toàn trong mọi tương tác, nó nói lên tính vận động nội tại của Vũ Trụ, sự tự
thân của mọi quá trình vận động, hơn nữa: “chúng ta có thể thiết lập một qui luật
của thiên nhiên mà tôi cho là nó vạn năng nhất, và khó bị thương tổn nhất…, nó
luôn luôn có một sự cân bằng hoàn hảo của toàn bộ những nguyên nhân và tất cả
những kết quả…, mỗi kết quả là tương đương với nguyên nhân”. Nếu Niutơn coi vật
thể là một cái gì đó thụ động, chịu sự tác động của lực thì đối với Lépnít, “đặc
trưng của vật là tác động” và vì thế mà nó có hoạt lực.
Bằng con đường
thực nghiệm Huyghen cũng đã phát hiện ra rằng, trong sự va chạm đàn hồi, tổng các
tích của các khối lượng với các vận tốc bình phương, trước và sau va chạm, là bằng
nhau. Điều đó cũng đúng đối với các trường hợp vận động khác của những vật thể
gắn bó với nhau trong một hệ thống.
Dù có rất nhiều
ý kiến đưa ra biện hộ từ cả hai phía thì trong suốt một thời gian dài, cuộc
tranh luận và bàn luận về hai đại lượng mvvà mv2 vẫn không ngã ngũ. Chỉ
sau khi định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng được phát biểu thì cuộc
tranh luận ồn ào đó mới chấm dứt. Ngày nay, hoạt lực của Lépnít được gọi là năng
lượng chuyển động hay động năng, là đặc trưng về mặt năng lượng của chuyển động
và có giá trị bằng . Trong các bài toán va chạm, người ta phải xét đến cả hai đặc
trưng động lượng và động năng của chuyển động. Khi va chạm là đàn hồi thì động
lượng và động năng đều được bảo toàn. Khi va chạm là không đàn hồi thì một phần
hoặc tất cả động năng chuyển hóa thành nội năng. (Ngày nay, chúng ta đã biết rằng năng lượng toàn phần của một vật (mc2) là đại lượng chỉ ra khả năng sinh công toàn phần của vật đó. Nó cũng chính là "thứ" ẩn dấu tiềm tàng khả năng phát sinh "lực" của vật. Khi vật đứng yên tuyệt đối, tức là không có ngoại lực tác dụng, vật cũng không phát sinh lực, nhưng vẫn tiềm ẩn một nội lực. Khi có ngoại lực tác dụng, tuân theo luật tương hỗ, trong vật lập tức phát sinh một lực có gốc tại trọng tâm vật chống lại ngoại lực đó. Khi vật chuyển động thẳng đều, dù không còn tác dụng của ngoại lực nữa, thì nội tại vật vẫn có lực. Lực này được cho là còn ở dạng động lượng (mv) được chuyển hóa từ năng lượng toàn phần mà ra dưới tác động trong quá khứ của ngoại lực. Trước đây chúng ta tưởng rằng lực có nguồn gốc đâu đó từ bên ngoài Tồn Tại. Giờ đây chúng ta đả hiểu rằng lực, cả ngoại lực lẫn nội lực, đều có nguồn gốc từ nội tại vạn vật, là "xương máu" của vạn vật (mc2) chuyển hóa ra mà thành - được hun đúc nên mà thành.)
Một khi động năng
chuyển hóa hết thành nội năng của vật thì động lượng có chuyển hóa hết “vào đó”
không? Nếu chuyển hóa không hết thì trong trường hợp này định luật bảo toàn động lượng
không còn nghiệm đúng nữa. Còn nếu lúc đó động lượng được cho là vẫn được bảo toàn
thì vẫn còn vận tốc vvà vì thế mà động năng
cũng phải được bảo toàn. Giả sử rằng động lượng chuyển hóa hết vào nội tại vật
thì nó biến thành cái gì, “nội động lượng” hay “nội động năng”, và nếu có thế
thì có làm tăng khối lượng của vật lên không? Trong nhiều điều còn rất mù mờ về mvvà mv2, thì có một điều hiển nhiên nhưng “khó lòng tha thứ được”, đó
là khi vmất đi (bằng 0) thì không
những động lượng, động năng mà cả vật chuyển động lập tức biến mất. Nhưng trong
thực tế vật vẫn còn đó, chỉ có điều là đang đứng yên thôi, và cái gọi là "năng lượng toàn phần"(mc2) vẫn được bảo toàn nguyên vẹn. Thật là một khôi hài "chí lý"!
Về mặt biểu diễn
lực lượng thì động năng có lý ra phết, không kém gì, thậm chí là “hay hơn” động
lượng, vì nó gần với biểu diễn mc2của Anhxtanh hơn. Có lẽ
chính vì thế màchúng dù có mang tính phi lý thì cũng có nhiều chí lý, làm cho
trong một thời gian dài biết bao nhiêu nhà vật lý học “vò đầu bứt tai” mà vẫn
không hiểu được vì sao chúng rất hay, rất cần thiết trong nghiên cứu vật lý
song cũng “dở dở ương ương làm sao ấy”.
Theo ý chúng ta
thì vì hai biểu diễn ấy cùng được xây dựng nên từ hai thành phần (m, v) như nhau, cùng theo cách thức như nhau (phép nhân), duy chỉ
có mức độ khác nhau (dấu bình phương) và nhiều trường hợp giải đáp thỏa đáng cùng
một hiện tượng, nên có thể chúng rất gần gũi nhau, có liên hệ chặt chẽ với nhau
và có thể cũng cùng có mối liên hệ cội nguồn với nội tại vật. Vậy thì một câu
hỏi được đặt ra là nếu hai biểu diễn ấy thực sự có mối quan hệ gần gũi tới mức
“máu mủ ruột thịt” thì trong hiện thực, chúng thể hiện như nào?
Để trả lời câu
hỏi ấy, trước hết phải trả lời được câu hỏi: có thể tìm thấy hai đại lượng ấy ở
đâu trong hiện thực để mà khảo sát chúng? Hóa ra là chúng chẳng thể nào hiện hữu
được ở bất kỳ đâu ngoài vật lý học, bởi vì chúng là những tồn tại ảo, là kết quả
tư duy sáng tạo trong nhận thức tự nhiên của con người. Như đã nói, trong hiện
thực khách quan, chúng ta chỉ trực giác được theo cách mà cấu tạo sinh học của
mình cho phép, và thực sự là chỉ cảm thấy được, cảm giác được sự vật cùng những
biến đổi bề ngoài của nó (dù theo cách đặc thù của con người thì cũng có tính
khách quan vì sự đặc thù ấy được hun đúc nên theo những nguyên tắc của tự nhiên).
Cụ thể chúng ta chỉ thấy được không gian, vạn vật - hiện tượng hiện hữu trong
không gian ấy. Vậy thì khi chúng ta lần đầu tiên bước vào tìm hiểu chuyển động,
chúng ta có trong tay những dữ liệu trực quan gì? Không nhiều, chỉ có: vật, sự
di dời vị trí từ chỗ này đến chỗ kia của vật, thế là hết, ngoài ra không có gì
khác. Tìm hiểu thì cũng đồng nghĩa với quan sát, suy tư để cố gắng nhận thức.
Quá trình suy tư
để nhận thức chuyển động tất yếu buộc chúng ta thực hiện liên tiếp và hàng loạt
các công việc từ giản đơn đến phức tạp như: “chỗ này”, “chỗ kia”, “vị trí xuất
phát”, “quãng đường”, “chuyển động thẳng”…, cũng như: chọn một khoảng cách nào đó
làm đơn vị độ dài (qui ước) nhằm xác định “độ dài quãng đường” mà vật đã đạt được
sau khi di dời…, nói chung là rất nhiều cái mà tư duy phải sáng tạo đóng vai trò
phương tiện cho nghiên cứu chuyển động… Trong quá trình suy tư về sự di dời vị
trí của một vật, tất nhiên chúng ta cũng sẽ cảm nhận được, đã di dời thì “xuất
phát” là hiện tượng xảy ra “trước”, “đến đích” là hiện tượng xảy ra “sau”, không
bao giờ theo trình tự ngược lại được và hơn nữa, giữa hai hiện tượng ấy, xét về
mặt vị trí phải có một khoảng cách hay một quãng đường “xa” hay “gần” nào đó, có
độ dài nào đó có thể “đo” mà xác định chắc chắn được. Mặt khác, tìm hiểu chuyển
động cũng sẽ cho thấy sự di dời có thể là đều đặn, có thể là không đều đặn, có
lúc thấy “nhanh” (hơn), có lúc thấy “chậm” (hơn). Nhất là việc tìm hiểu chuyển động
không thể không đứng trước việc so sánh, xem xét giữa hai sự di dời vị trí nào đó
về mặt độ dài ngắn của quãng đường mà chúng thực hiện được, và điều quan trọng
là làm sao biết được di dời nào nhanh hơn (hay chậm hơn) di dời nào nếu chúng cùng
thực hiện một quãng đường có độ dài như nhau. Những suy tư đó tất yếu dẫn chúng
ta tới khái niệm về thời gian và qui ước một “khoảng lâu mau” nào đó làm đơn vị
để đo thời gian.
Trên đây là tóm
tắt một cách ước lược quá trình suy tư về chuyển động để có những hiểu biết đạt
đến trình độ cần thiết trước khi bước vào nghiên cứu cơ học. Thực ra, như lịch
sử loài người cho thấy, quá trình đó là rất dài lâu, trải qua hàng ngàn năm, thậm
chí là hàng vạn năm.
Khi đã biết thế
nào là độ dài quãng đường, thế nào là khoảng thời gian cần có để đạt được độ dài
quãng đường đó rồi thì sự xuất hiện khái niệm vận tốc là điều “không thể tránh
khỏi”. Phải nói rằng, khái niệm vận tốc là khái niệm cần có đầu tiên, đồng thời
là khái niệm cơ bản nhất, trọng yếu nhất của lý thuyết cơ học mà nếu chưa có nó
thì chưa thể nói đến cơ học và càng chưa thể nói tới toàn bộ vật lý cổ điển cũng
như hiện đại được. Điều đó kể cũng dễ hiểu cho nên cũng không có gì là đáng ngạc
nhiên. Đáng ngạc nhiên là điều này: cái cơ sở đầu tiên và thiết yếu nhất, cái được
xây dựng nên từ hai yếu tố hiển nhiên nhất là chiều dài quãng đường và khoảng
thời gian, cái hoàn toàn xác đáng, hoàn toàn đơn giản, cái mà từ đó chúng ta xây
dựng nên lâu đài cơ học lại là cái không có thực đồng thời cũng khó lòng mà hiểu
cặn kẽ được. Vận tốc là một tồn tại ảo!
Nếu khoảng cách
hay độ dài quãng đường được cho là cái có thực, bởi vì trong hiện thực có thể vạch
vẽ mà xác định được, hơn nữa là một bộ phận của không gian - một tồn tại thực
tuyệt đối, thì khoảng thời gian vì là cái không thể trực giác được trong hiện
thực, không thể vạch vẽ, duy trì, lưu giữ được, chỉ là sự biểu hiện của cái tồn
tại ảo tương đối (chuyển động), cho nên cũng chỉ là cái tồn tại ảo. Thật là lạ kỳ
khi một sự thực lại là tỷ số của cái có thực và cái ảo huyền! Lạ kỳ hơn nữa, đó
vừa là thành quả đầu tiên, cực kỳ đích đáng của một quá trình tư duy sáng tạo cật
lực ở loài người về sự vận động tự nhiên vừa đồng thời là thứ mà cho đến tận ngày
nay, chưa có một ai nhận thức được tường tận.
Khi đã biết bất
cứ chuyển động nói riêng hay vận động nói chung nào cũng phải có vận tốc thì câu
hỏi tiếp theo được đặt ra là tại sao lại có chuyển động và ngược lại? Nhưng nói
đến chuyển động hay đứng yên thì phải nói đến chủ thể của chúng, nghĩa là phải
nghĩ đến một vật cụ thể hay một thực thể chứ trên đời này không thể có chuyển động
hay đứng yên của “không là cái gì cả”. Do đó thay cho câu hỏi vừa nêu là một câu
hỏi đích đáng hơn: tại sao trạng thái chuyển động (trong đó gồm cả sự đứng yên)
của vật bị biến đổi? Tất nhiên là không thể lại cái “không là cái gì cả” được
cho nên phải tìm nguyên nhân cuối cùng gây ra biến đổi trạng thái chuyển động của
một vật ngay tại cái gọi là thực thể vận động hay vật chất vận động. Vậy thì thực
thể hay vật là gì và đặc trưng cơ bản của vạn vật là ở chỗ nào để dựa vào đó mà nhận
biết chúng và đồng thời phân biệt được giữa chúng với nhau? Khi đã biết được
chuyển động là như thế nào rồi (nghĩa là đã hiểu được mặt động học của cơ học),
thì việc làm sáng tỏ câu hỏi đó là bước xuất phát tiếp theo để đi vào nghiên cứu
nguyên nhân của chuyển động (nghĩa là về mặt động lực học của cơ học).
Có thể khái niệm
“vật” đã xuất hiện từ thời cổ đại và mặc nhiên được hiểu tương tự là một “khối
thực chất” nào đó mà sau này gọi chung là “vật chất”. Cũng đã từ lâu, con người
biết rằng có thể phân biệt được các vật bằng vẻ thể hiện bên ngoài và thực chất
bên trong của chúng, để rồi làm xuất hiện hai khái niệm cơ bản là “lượng” và
“chất”. Sự khác nhau giữa hai vật về mặt vật chất chính là sự sai biệt về lượng
và về chất của chúng. Do đó muốn phân biệt hai vật đó về mặt vật chất, phải định
lượngvà định tính từng vật một. Lượng vật
chất của một vật được thể hiện ra dưới hai hình thức (về mặt vật lý học), được gọi là “thể tích” và
“cân nặng”. Đó là hai hình thức thực sự khách quan, có nguyên nhân thể hiện từ
tự nhiên và được chủ quan con người đánh giá, nhận thức. Rút ra kinh nghiệm từ
hoạt động thực tiễn, bước vào thời đại kề trước thời đại Niutơn, quan niệm
chung của con người đã đi đến kết luận rằng, giữa hai hình thức thể hiện ấy của
lượng vật chất có mối quan hệ qua lại nhất định. Tùy thuộc vào tính chất bên
trong của vật nhưng hình thức thể hiện lượng vật chất qua “cân nặng” có tính
“thực” hơn, và thậm chí đúng là lượng vật chất khách quan vốn có của vật mà con
người có thể xác định chắc chắn được, thông qua đơn vị đo do mình qui ước: Điều
đặc biệt đáng chú ý là cái quan niệm cho rằng lượng vật chất là có tính thụ động,
bất biến nội tại và vật thông thường chỉ là một thực thể “có xác mà không có hồn”
đã khắc rất sâu trong tâm trí con người đến mức như một tiềm thức khó lòng giũ
bỏ được.Quan niệm như vật không phải là bất hợp lý bởi vì nó phù hợp với cảm giác
của con người, được con người rút ra từ thực tiễn cuộc sống của mình, từ cái môi
trường hiện thực mà mình đang hiện hữu trong đó và hàng ngày phải giải quyết những
vấn đề có liên quan trực tiếp với lượng. Có thể nói, nếu giới hạn trong phạm vi
cảm giác của con người thì quan niệm đó là hoàn toàn hợp lý, xác đáng, lý do là
thứ nhất, vận động nội tại của một thực thể có tính cân bằng do đó mà cũng có tính
chu kỳ, hơn nữa, vận động ấy “ẩn” sâu ở tầng vi mô nên thông thường không thể
thấy được hoặc muốn thấy được, phải “chờ” trong một khoảng thời gian dài, thậm
chí là “cả đời người” vẫn chưa đủ, thứ hai, dù bất cứ vật nào cũng phải tương tác,
trao đổi vật chất với môi trường chứa nó để sống còn và đó là quá trình thường
xuyên, liên tục một cách tất yếu, nhưng biểu hiện của nó cũng nằm ngoài sự nhận
biết cảm tính của con người, nên con người không thấy được sự hoạt động “giao lưu
sôi nổi” ấy. Niutơn đã không còn cách nào khác là phải tiếp thu trọn vẹn quan
niệm về lượng vật chất ấy khi vẫn còn là nó. Từ đó mà ông đến với khái niệm “khối lượng”.
Qua đó mới thấy
cái ý tưởng cho rằng nội tại vật có tính linh hoạt, vật thể có “sức sống”, dù còn
hời hợt, ngây thơ thì cũng rất xuất sắc, đóng vai trò như một quan niệm mới đầy
hứa hẹn, đi trước thời đại của Lépnít.
Khối lượng, hiểu
theo ý Niutơn thấy vừa hợp lý, vùa phi lý. Nó hợp lý trong phạm vi cảm tính của
con người và phi lý trong việc muốn mô tả chính xác bản chất vật chất. Tương tự
như “đại lượng” vận tốc, tưởng chừng như khối lượng là cái rất “rõ ràng và sáng
sủa”, dễ thấy, lại hóa ra cũng là một tồn tại ảo không thể thấy được, không thể
trực giác được. Khối lượng như là cái khách quan vốn dĩ, hợp với hai cái cũng
như khách quan vốn dĩ là khoảng cách và thời gian, lập thành một bộ ba cơ sở xuất
phát cần và đủ của cơ học nói riêng và toàn bộ vật lý học nói chung mà trong đó,
phải coi khoảng cách là cái duy nhất đại diện cho cái tồn tại thực tuyệt đối, đóng
vai trò then chốt và nếu không không có nó sẽ không có cái gì cả.
Khi đã ngồi được
trên “cây chổi” vận tốc và có “cây đũa thần” khối lượng trong tay rồi, “ngài phù
thủy” thiên tài Niutơn đã “hóa phép” ra hàng loạt những đại lượng cơ bản khác
như gia tốc (a), lực (F), động lượng (mv)… Vì nền tảng xây dựng nên những đại lượng ấy là ảo nên chúng
cũng chỉ là những tồn tại ảo, mô phỏng, diễn tả theo một cách đặc thù và theo
khả năng hiểu biết của con người đến thời đại đó về hiện thực khách quan, làm
xuất hiện một thế giới quan vật lý cơ giới chưa từng có trước đó. Phải nói rằng
cơ học Niutơn đã phản ánh hoàn toàn xác đáng trong phạm vi cảm tính của con người
về hiện thực khách quan, do đó mà cũng nhanh chóng trở thành công cụ phục vụ đắc
lực cho con người trong thực tiễn ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào đời sống.
Tuy nhiên, cái đại
lượng “hoạt lực” (mv2) do Lépnít đề xướng cũng thật hợp lý, cũng nhanh chóng trở
thành một thành viên tối quan trọng, không thể thiếu được trong lý thuyết vật lý.
Như vậy, biểu diễn mv2 cũng phải có tính khách
quan cao độ và chắc chắn là có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với cơ học Niutơn và
hơn nữa, cơ học Niutơn muốn hoàn thiện thì phải bổ sung nó vào nội dung của mình.
Có thể chứng
minh nhận định trên một cách hình thức bằng thao tác toán học thuần túy.
Hiện thực cho
thấy, để thay đổi trạng thái chuyển động (chúng ta hiểu là bao gồm cả mức độ và
phương chiều của chuyển động) của một vật, phải có một “cú hích” vào nó. Để định
lượng được cú hích đó, thì phải đặt tên cho nó và do đó mà khái niệm “Lực” ra đời.
Lực là tên gọi sự tác động từ bên ngoài (hiểu là từ một vật khác) đến vật, làm biến đổi vật và nếu chỉ nói
đến chuyển động thôi hoặc “qui” sự biến đổi nói chung về biến đổi chuyển động
thì có thể nói là làm biến đổi trạng thái chuyển động của vật. Từ quan niệm đó,
Niutơn đưa ra biểu diễn:
Với là độ biến đổi vận tốc
(về lượng và phương chiều) của vật, và bằng:
Với v1là vận tốc vật trước
khi bị tác động.
v2là vận tốc vật đạt được
do có sự tác động.
Vì có thể cho v1=0nên có thể viết chung
là:
Do đó:
Và:
Đại lượng vế trái
gọi là xung lực, đại lượng vế phải gọi là động lượng.
Trong thực tế
thường có thói quen, nói “Tác dụng một lực…” và chúng ta hiểu được. Nhưng nói
như thế là chưa đầy đủ. Lực mà đứng “một mình ên” thì chỉ là một… hư vô bất lực.
Lực bao giờ cũng có chủ và phải đứng trong… thời gian. Do đó sự tác động lực phải
được biểu diễn dưới dạng xung lực mới hợp lý và chính biểu diễn như vậy sẽ cho
chúng ta thấy có thể chọn một vật chuyển động nào đó được mộ tả theo hình thức
động lượng cho nó. Giả sử vật bị tác động đang ở trạng thái đứng yên chuyển
sang trạng thái có động lượng là . Có thể chọn vật chủ của tác động lực đó có động lượng đúng
bằng được không? Như có lần
chúng ta đã lý giải thì rõ ràng là không được. Vậy thì có thể chọn 2(hai lần khối lượng) được
không? Cũng không được nốt! Bởi vì sự tác động bao giờ cũng phải “tốn” thời
gian và trong khoảng thời gian ấy vận tốc của vật chủ giảm xuống, làm cho vận tốc
của vật bị tác động chỉ đạt đến một giá trị nào đó nhỏ hơn . Dễ thấy rằng một vật đứng yên có khối lượng dù lớn vô hạn đi
nữa thì cũng chỉ là một gã khổng lồ bị bại liệt, không thể làm chủ được bất cứ
một xung lực nào. Cái khả năng duy nhất còn lại, đó là động lượng của vật chủ
phải bằng (hai lần vận tốc). nghĩa
là vật chủ động khi tác động sẽ bị mất đi một xung lực:
và xung lực đó
chuyển hóa thành động lượng của vật bị tác động.
Thế thì tại sao
vật chuyển động không thể truyền hết động lượng của nó cho vật đứng yên được? Để
hiểu là mối quan hệ tương đối giữa chuyển động và đứng yên chi phối, nghĩa là có
thể coi vật đứng yên là vật chủ động gây ra va chạm và chính nó đã truyền động
lượng “của nó” cho vật kia với biểu diễn:
Đây chính là định
luật tác động tương hỗ mà Niutơn đã phát biểu. Khi một vật tác động vào một vật
khác một xung lực thì đồng thời nó bị vật khác ấy tác động trở lại một xung lực
về lượng thì đúng bằng như thế, trùng phương nhưng trái chiều, và có thể diễn tả:
Ở đây còn có thể
rút ra một nhận định “kỳ thú” nữa, đó là động lượng của một vật chỉ có giá trị
tương đối, và một cách tương đối có thể nói một vật đứng yên cũng có động lượng
(ở dạng thụ động). Nói đúng hơn, một vật, bất kể đứng yên hay chuyển động, đều
hàm chứa tiềm tàng trong chúng một “thế lực mù quáng” chống lại tác động từ bên
ngoài đến chúng. Có thể biểu diễn cái “thế lực mù quáng” ấy dưới dạng một động
lượng và vì khi chưa có tác động từ bên ngoài thì nó chưa bộc lộ ra nên nó thuộc
nội tại của vật, là năng lực của lượng vật chất tạo thành vật. Như vậy, khi nói
đến lượng vật chất của một vật thì đồng thời phải nói đến cả cái năng lực mà nó
hàm chứa mới đầy đủ vì không thể tách rời hai thứ đó ra được. Nói đến lượng vật
chất mà không nói đến (xung) lực cũng giống như nói đến (xung) lực mà không nói
đến lượng vật chất, đều phi lý. Phải dùng một thuật ngữ diễn tả được đầy đủ nội
dung ấy và chúng ta nghĩ rằng đó là thuật ngữ “lực lượng” hay “năng lượng” mà vật
lý học đang dùng. Trong đời sống hàng ngày có thể coi khối lượng là lượng vật
chất và định lượng vật chất theo số đo khối lượng, nhưng trong nghiên cứu vật lý,
qui ước như thế là không phản ánh đúng thực tại khách quan, mà chỉ có thể quan
niệm: khối lượng là đại lượng đặc trưng về mặt vật chất của một lực lượng vật
chất (hay của một vật), một thành phần trong biểu diễn lực lượng vật chất (gồm
hai thành phần, với thành phần kia đóng vai trò là đại lượng đặc trưng về mặt vận
động của lực lượng vật chất).
Có lẽ Lépnít đã
không thấy được sự khác biệt giữa vật ở trong và ở ngoài trường lực trong quá
trình nghiên cứu tương tác cơ học của mình. Vì vậy mà khi khảo sát sự rơi tự
do, ông đã cho rằng phải lấy mv2để xác định mức độ tác
động của một vật chuyển động khi xảy ra va chạm và gọi nó là “hoạt lực”. Đó là
một sự “lầm lẫn tuyệt đẹp”! Bởi vì lầm lẫn ấy đã dẫn đến khái niệm “năng lượng”
cực kỳ quan trọng trong vật lý. Không những thế, nó còn thổi một luồng gió mới
vào nhận thức triết học làm xuất hiện quan niệm mới, tiến bộ vượt bậc về tồn tại
vật chất và mối quan hệ thống nhất hữu cơ, không thể tách rời giữa vật chất và
vận động.
Quan sát quá trình
rơi tự do của một vật từ lúc nó “đứng yên” ở độ cao nào đó cho đến lúc nó đứng
yên ở trên mặt đất có thể thấy vật luôn phải chịu một lực hút (coi như) không đổi
của Trái Đất đối với nó. Lực đó luôn có xu thể đưa nó vào trạng thái chuyển động
và khi đã bước vào chuyển động rồi thì vì lực đó vẫn tác động một cách không đổi
đến vật, làm cho vật phải chuyển động nhanh dần đều trong suốt quá trình rơi. Vì
chính lực hút đó làm cho vật khi chạm đến mặt đất thì đạt vận tốc vnên theo Niutơn, viết được:
Vớiglà gia tốc rơi tự do
Nếu chuyển sang
cách biểu diễn xung lực, sẽ có:
F.t=mv
Vì động lượng mvnày chưa được triển
khai, còn “ẩn chứa” trong vật như một “thế lực đòi hỏi” cho nên nó không có tính
véctơ.
Đến đây thì có
thể cho rằng một vật có khối lượng m ở ngoài trường lực, khi đưa vào trường lực
hút hấp dẫn thì phải coi khối lượng của nó tăng thêm vlần. Nếu cho như thế là
phi hiện thực thì phải coi lượng vật chất bao gồm cả khối lượng (cảm giác được)
và v(không cảm giác được).
Khi vật rơi đến
mặt đất (ngay trước khi va chạm) thì nó đạt được vận tốc vvà có “động lượng” bằng: , tương đương với một xung lực:
Khi không chú ý
đến tích véctơ trong biểu diễn thì có thể viết:
(F.v).t=mv2
Nhìn vào biểu
diễn này, có lẽ cả Lépnít lẫn Niutơn đều thấy hài lòng!
Về mặt mô tả hiện
thực thì biểu diễn động lượng mvcủa Niutơn là chưa xác
thực. Bởi vì để đưa một vật có khối lượng mtừ đứng yên sang trạng
thái chuyển động với vận tốc vhay nói cách khác là
mang một xung lực là F.tthì do ảnh hưởng của
qui luật tác động tương hỗ mà phải có một vật khác có một động lượng ít ra là bằng m2vhay hàm chứa một xung
lực ít ra là bằng 2Fttác động đến nó. Đối với
biểu diễn của Niutơn về mối quan hệ giữa xung lực và động lượng, không nên hiểu
rằng xung lực ở vế trái là nguyên nhân tạo ra động lượng ở vế phải, mà nên hiểu
rằng chúng là cùng một thứ, cùng một lượng, thể hiện ra dưới hai dạng khác
nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau. Hơn nữa biểu diễn của Niutơn cũng chưa lột tả
được sự kiện: để làm cho một vật thay đổi trạng thái chuyển động thì lực cũng
phải chuyển động. Do đó mà cần phải bổ sung một biểu diễn nào đó nữa theo “kiểu
Lépnít” vào hệ thống những biểu diễn cơ bản về động lực học của Niutơn để có được
một hệ thống hoàn thiện hơn.
(Còn tiếp)
--------------------------------------------------------------