PHẦN IV: BÁU VẬT "Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này. D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái. Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà
hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở
thành tài sản của tất cả mọi người.
Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
“Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh
em ruột thịt thiểu số phương Nam của Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng
ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là Trống Đồng”
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai
đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ –
ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán
thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt
ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
Điều gây cho chúng ta sự chú ý đặc biệt là trong bài vị Thần Tài có viết:
“Ngũ phương ngũ thổ long thần
Tiền hậu địa chủ tài thần”
Nội dung này làm chúng ta nhớ đến một câu trong bài vị Thổ Công:
“Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần”
Câu
này là nói về Thổ Kỳ. Mà Thổ Kỳ là vị thần, theo quan niệm người Việt
xưa, có vai trò trông nom việc chợ búa cho phụ nữ, sự sinh sản của các
vật ở vườn tược, đất đai gia chủ. Nói cách khác, thì Thổ Kỳ chính là
thần coi sóc việc buôn bán, tăng gia sản xuất của gia chủ, quyết định
đến tài, lộc của gia đình. Vậy cái gốc bản thổ của Thần Tài chính là
thần Thổ Kỳ. Có thể nói Thần Tài là Thổ Kỳ của người Việt đã pha sắc màu
Trung Hoa và tập tục thờ cúng Ông Địa - Thần Tài là sự biến thái từ tập
tục thờ cúng Thổ Công mà ra.
Bếp lửa ở chính giữa nhà sàn của người Tày Nghĩa Đô.
Sự
“lũng đoạn” liên tục của văn hóa truyền thống Trung Hoa đã làm cho
nhiều phong tục cổ truyền của dân tộc Việt bị mờ dần đi nét “thuần Việt”
của chúng. Song những vết tích còn lưu lại được đến ngày nay trong hệ
thống phong tục cổ truyền ấy, cũng như trong khảo cổ nói chung đã mách
bảo rằng về cơ bản là chúng có tính truyền thống bản địa và cái cốt lõi
chung nhất của chúng có thể đã ra đời ngay trên chính mảnh đất Việt Nam
này, do chính người Việt cổ sáng tạo ra. Khi Đạo giáo và Phật giáo (cần
phân biệt Đạo gia là triết học duy vật còn Đạo giáo và Phật giáo là hai
triết lý tín ngưỡng xuất phát từ nhận thức sai lầm nhưng trên cơ sở nền tảng của triết học ấy) xâm nhập vào nước Việt cổ đại thì ở đó phong tục cổ
truyền đã tồn tại vững vàng. Để xâm nhập được vào tâm hồn của dân cư
Việt cổ thì hai đạo ấy hay bất cứ đạo nào khác chỉ thuyết giảng không
thôi là chưa đủ, mà còn phải “nhập gia thì tùy tục”, phải sáng tạo ra
những câu chuyện có liên quan đến phong tục tập quán cổ truyền theo quan
niệm của họ, đề cao tín ngưỡng của họ để “tranh thủ lòng người”. Nhiều
cổ tích, sự tích, huyền thoại về phong tục tập quán của các dân tộc mang
đậm tín ngưỡng của đạo này hay đạo khác là vì thế.
Chúng
ta tin rằng tập tục thờ cúng Thổ Công là một tập tục đã có từ rất lâu
đời của dân tộc Việt. Với sự đề cao đất đai (Thổ Địa) và sự chăn nuôi,
trồng trọt, mua bán (Thổ Kỳ) thì tập tục ấy phải xuất hiện vào thời cư
dân Việt cổ an cư lạc nghiệp, lấy sản xuất nông nghiệp làm phương thức
sống chủ yếu, đồng thời sự mua bán (hàng hóa), nghĩa là sự có mặt của
đồng tiền (dù có thể với hình thức còn sơ khai) đã trở nên phổ biến
trong xã hội. Thời ấy có thể là khoảng giữa thời đại Hùng Vương nếu trên
trống đồng Ngọc Lũ, vòng tròn có chấm giữa chắc chắn là hình tượng biểu
trưng cho đồng tiền. Tập tục này nếu đã có từ khi đó thì về hình thức
chắc là khác xa so với ngày nay.
Tập
tục cổ truyền là sáng tạo của mỗi dân tộc. Đó là thành quả của quá
trình xuất hiện “bản gốc”, kế tục, điều chỉnh, sáng tạo thêm cho phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh xã hội, theo nhận thức của thời đại mới, có sự
học hỏi, giao hòa lẫn nhau với tập tục cổ truyền của các dân tộc khác,
trước hết là các dân tộc láng giềng. Tập tục cổ truyền cũng là một sự
vật - hiện tượng nên nó cũng tuân theo những nguyên lý cơ bản của Tự
nhiên - xã hội, vì vậy mà nhìn ở góc độ này thì thấy nó là kết quả của
tập tục cổ truyền thời trước đó, nhìn ở góc độ kia thì thấy nó vẫn chính
là tập tục cổ xưa, trải qua cuộc xoay vần “ba chìm bảy nổi chín lênh
đênh” để bảo tồn. Mặt khác, có thể thấy tập tục cổ truyền là nét đẹp văn
hóa, là “báu vật” tinh thần của một dân tộc, là nơi gửi gắm những tâm
tư tình cảm được cho là cao đẹp nhất của con người trong quá khứ, sự tồn
tại của nó không ngoài mục đích nào khác là phục vụ cho đời sống con
người, phụng sự cho sự sống còn xã hội, nghĩa là cho Đức Huyền Diệu.
Chính vì vậy mà còn thấy ở tập tục cổ truyền sự kết tinh tất yếu giữa
những sự vật - hiện tượng hiện hữu một cách khách quan, tự nhiên trong
thiên nhiên - xã hội và trí tuệ mang tính chủ quan, nhân đạo của con
người trên bước đường nhận thức lại lịch sử.
Thần Táo Quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có nguồn gốc từ ba vị thần Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ của Lão giáo Trung Quốc.
Đấu
tranh sinh tồn đã là động lực thúc đẩy con người phải cố gắng mưu sinh
và tìm kiếm mọi khả năng để đảm bảo cuộc sống, ổn định đời sống, và nâng
cao mức sống. Quá trình đó tất yếu sẽ làm xuất hiện những phương tiện
tiện lợi hơn trong lao động và sinh hoạt, những phương cách sống phù hợp
và ưu việt hơn. Khi phương tiện, công cụ phục vụ cuộc sống cùng với
những thao tác và cách sống của con người hòa hợp với sự hiện hữu của
các phương tiện, dụng cụ ấy đã trở nên tương đối ổn định và (nhờ thế mà)
tồn tại lâu dài trong thời gian thì nó sẽ chuyển hóa thành tập quán.
Tương tự như vậy, đấu tranh sinh tồn cũng tác động đến con người có ý
thức để làm hình thành nên cái gọi là “tập quán tinh thần”, hay gọi như
thường gọi là “phong tục”. Qua thời gian, quan niệm của con người về
thực tại ngày càng sâu rộng hơn, khác xưa hơn, trình độ sống chuyển hóa
dần lên mức cao hơn (hiện đại hơn). Quá trình đó làm cho phong tục tập
quán được chắt lọc, được bổ sung, được điều chỉnh để trở thành “thuần
phong mỹ tục” theo quan niệm của từng thời đại hậu thế (có những tập tục
trước đây là hủ tục, bị loại bỏ, cấm đoán thì bây giờ lại coi là mỹ tục
và được phục hồi. Tương tự, có những tập tục hôm nay là mỹ tục thì biết
đâu chừng ngày mai sẽ là hủ tục. Nói chung, một phong tục tập quán còn
tồn tại một khi nó còn cần thiết cho Đại Chúng và vì nó tồn tại theo yêu
cầu của Đại Chúng nên cũng có thể gọi nó là thuần phong mỹ tục của Đại
Chúng đó và thời đại đó).
Một
lối sống nếp nghĩ ra đời là do yêu cầu của đời sống và nhận thức. Khi
lối sống, nếp nghĩ ấy đã thành “thói quen” thì cũng là lúc nó chuyển hóa
thành một phong tục, tập quán. Lâu dần, phong tục tập quán sẽ mất đi
tính thực dụng “sát sườn” của nó, xa rời cái gốc thực tiễn của nó để
được khoác lên bộ cánh “cổ truyền” và đến một giai đoạn nào đó, hậu thế
sẽ không thể hiểu được vì sao nó lại có mặt ở trên đời mà hình như không
đem lại một tiện ích thiết thực nào cả. Cần phải giải thích! Thế là,
tương tự như đối với các vấn đề, các sự kiện thuộc về lịch sử khác, các
câu chuyện kể về phong tục tập quán ra đời với những tâm tư, tình cảm,
ước vọng… của đương thời được gửi gắm vào đó, để rồi lan tỏa, lưu truyền
về sau thành những truyền thuyết, cổ tích, thần thoại…
Ở Việt Nam ngày "ông Công ông Táo" bắt nguồn từ sự tích Táo quân
hay "ba ông đầu rau". Dù sự tích này có nhiều dị bản nhưng đều theo một
mô-típ chung đó là câu chuyện về ba người, do những hoàn cảnh éo le mà
trở thành hai chồng một vợ. Sau khi mất họ vẫn yêu thương nhau nhưng
không muốn chia lìa. Cảm động vì điều đó Ngọc Hoàng phong họ làm Táo
quân (hay ba ông đầu rau) quản việc bếp núc gia đình, và ngày 23 tháng
Chạp hàng năm phải về trời trình báo việc hạ giới. (Ảnh: Tranh dân gian
Đông Hồ)
Với Trung Quốc, Táo Quân, hay Táo Vương còn được tôn kính gọi là
"Đông trù tư mệnh Táo chủ Thần quân" nghĩa là vị thần cai quản việc bếp
núc cũng như bản mệnh, phúc họa của mỗi gia đình. Nguồn gốc Táo quân của
người Trung Quốc cũng rất đa dạng và phong phú nhưng truyền thuyết về
cặp đôi "thần bếp" với chồng tên Tô Cát Lợi và vợ Vương Thị được xem là
phổ biến hơn cả. Người Trung Quốc cũng làm lễ Táo quân vào ngày 23 tháng
Chạp hàng năm, một số nơi ở phía nam thì tổ chức muộn hơn một chút vào
ngày 24 tháng Chạp. (Ảnh: Tranh Dân gian Đông Bắc Trung Quốc) Địa điểm tiến hành lễ
Người Việt thường bày mâm cỗ trước bàn thờ gia tiên để làm lễ tiễn
ông Công, ông Táo về chầu trời. Họ quan niệm Táo quân không chỉ đơn
thuần là vị thần bếp mà còn được coi là Thổ công, Thổ địa, vị thần cai
quản mọi việc trong gia đình. Vì vậy có thể nói Táo quân là một vị thần
tối thượng trong mỗi gia đình Việt. (Ảnh:Đời sống pháp luật)
Trong khi đó người Trung Quốc lấy gian bếp là địa điểm chính để tiến
hành nghi lễ tiễn Táo Quân lên thiên đình. Họ quan niệm Táo quân mang ý
nghĩa quan trọng nhất là cai quản việc bếp núc và duy trì ngọn lửa hạnh
phúc cho gia đình.(Ảnh: An Dương tân văn mạng) Đồ cúng
Người Việt sắm đồ cúng thường có 3 chiếc mũ ông công, trong đó hai mũ
đàn ông và một mũ đàn bà. Những đồ vàng mã này sẽ được hóa (đốt đi) sau
lễ cúng ông Táo. (Ảnh : Ngôi Sao)
Đồ cúng của người Trung Quốc đơn giản hơn một chút. Họ chỉ cần đi mua
một bức tranh có hình Táo quân về rồi dán vào bức tường phía trên bếp,
sau đó tiến hành các nghi thức cúng bái. (Ảnh: An Dương tân văn mạng) Mâm lễ
Mâm lễ của người Việt trong ngày cúng ông Công ông Táo được chuẩn bị
rất tươm tất bao gồm: Đĩa xôi, gà luộc, rượu, hoa quả... Nếu nhà nào gói
bánh chưng trước Tết thì còn bày thêm một hoặc hai chiếc bánh lên mâm
lễ. (Ảnh: VOV)
Trong khi đó mâm lễ của người Trung Quốc sẽ thịnh soạn tùy từng gia
đình nhưng không thể thiếu các món bánh gạo hay kẹo lạc truyền thống.
(Ảnh: Baidu.com)
Phương tiện để Táo quân lên chầu trời
Đến ngày 23 tháng Chạp hàng năm người Việt thường tìm mua 3 chú cá
chép về để cúng Táo quân. Theo quan niệm của người Việt cá chép vượt của
Vũ Môn sẽ hóa rồng và bay lên thiên đình. Vì vậy chúng trở thành phương
tiện đi lại của các vị thần Táo. Sau khi cúng ông Táo xong mọi người sẽ
tìm ao hồ, sông suối rồi thả cá chép xuống nước như một nghi thức phóng
sinh. (Ảnh: Ngôi Sao)
Với người Trung Quốc, Táo quân của họ sẽ lên thiên đình bằng ngựa.
Bởi vậy mỗi gia đình Trung Quốc thường cúng một con ngựa tre trong ngày
này để giúp các vị Táo đi lại thuận tiện hơn. (Ảnh: Hải Điến mạng)
Xưa,
có vợ chồng Trọng Cao, Thị Nhi, không có con, buồn phiền thường cãi
nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ đi, gặp Phạm
Lang, liền thành vợ chồng. Trọng Cao hối hận, đi tìm vợ, hết tiền ăn
đường, phải hành khất độ nhật. Một lần Trọng Cao vào nhà kia xin ăn. Bà
chủ mang cơm cho, nhận ra người chồng cũ. Trọng Cao cũng nhận ra bà chủ
nhà chính là Thị Nhi. Thị Nhi hậu đãi Trọng Cao. Chợt chồng mới về. Thị
Nhi vội bảo Trọng Cao trốn tạm vào đống rơm. Phạm Lang đi vắng về, không
nghi ngờ gì, nhớ phải có tro bón ruộng, bèn ra đốt cây rơm. Trọng Cao
bị thiêu chết. Xót xa nghĩa cũ tình xưa, Thị Nhi nhảy vào lửa chết theo.
Phạm Lang xông vào cứu, cũng bị lửa thiêu chết nốt. Ngọc Hoàng thương
cảm, cho ba người hóa thần, đoàn tụ bên nhau trong một gia đình: Phạm
Lang thành Thổ Công, trông coi việc bếp núc; Trọng Cao thành Thổ Địa,
trông coi việc trong nhà; Thị Nhi thành Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa
và rau màu ở vườn nhà.
Trong
sự tích trên, không thấy nói đến vì sao Thổ Công (hay cũng là Táo Quân)
lại phải lên chầu Trời vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm. Phải chăng, sự
tích nguyên thủy là như thế thôi (với nội dung còn giản lược hơn nữa) và
tình tiết lên chầu Trời của Thổ Công chỉ được thêm vào trong thời đại
hình thái xã hội là liên minh các bộ lạc đã phân quyền minh chủ - chư
hầu, hay còn gọi là chế độ phong kiến phân quyền?
Ba ông đầu rau và chiếc nồi đồng phía trên
Táo quân Việt Nam, hình vẽ thế kỷ 19
Mặt
khác, rất rõ là “khẩu khí” của sự tích này chỉ có thể có ở chế độ phụ
quyền nhưng với sự tồn tại “hai ông một bà” trong một gia đình thì lại
như mách bảo về chế độ mẫu quyền. Hơn nữa, hiện tượng người hóa thần chỉ
có thể có được khi đã tồn tại Đạo giáo. Phải chăng, tập tục thờ cúng
Thổ Công là sự kế thừa một tập tục khác có sớm hơn, vào thời mà chế độ
gia đình vẫn trong giai đoạn mẫu quyền, và sự tích về Thổ Công là sự vay
mượn cái cốt của một sự tích xa xưa hơn với sự can thiệp, chế tác thêm
của Đạo Giáo? Câu trả lời của chúng ta là khẳng định. Tập tục thờ cúng
tiền thân của tập tục thờ cúng Thổ Công là tập tục thờ cúng Ông Đầu Rau
và sự tích tiền thân của sự tích Thổ Công là sự tích Ông Đầu Rau (hay
ông Núc Bếp). (Còn tiếp) -----------------------------------------------------------
Từ
một cô bé mắc hội chứng Asperger, thiên tài nhí Adhara Pérez hiện là 1
trong 100 phụ nữ quyền lực nhất ở Mexico. Adhara sở hữu IQ khổng lồ 162,
cao hơn ...
Ai
Cập cổ đại đã "gặp gỡ" công nghệ y tế hiện đại khi một xác ướp được
chụp CT tại một bệnh viện ở Ý trong một dự án nghiên cứu để khám phá bí
mật của xác ...
Randy
Miller là một huấn luyện viên chuyên nghiệp cho các loài thú lớn. Ông
đã huấn luyện thành công cho 12 con vật là những kẻ săn mồi to lớn, và
chúng ...
PHẦN IV: BÁU VẬT "Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này. D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái. Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà
hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở
thành tài sản của tất cả mọi người.
Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
“Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh
em ruột thịt thiểu số phương Nam của Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng
ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là Trống Đồng”
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai
đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ –
ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán
thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt
ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
Các
nhà nghiên cứu đều cho rằng tục thờ cúng ông Táo ở Việt Nam có xuất xứ
Trung Quốc. Người Trung Quốc còn gọi ông Táo bằng những tên khác nhau,
như: Táo Vương, Táo Quân, Đông Trù Tư Mệnh, Nhất Gia Chi Chủ… Về nguồn
gốc của tập tục này, có thuyết cho rằng ông Táo lúc đó chính là Thần
Lửa, do Viêm Đế (vị vua đầu tiên của Trung Quốc theo truyền thuyết) sau
khi chết, hóa kiếp ra. Thuyết khác lại nói ông Táo là Chúc Dung, con
Chuyên Húc (một ông vua khác cũng theo truyền thuyết). Nói chung, càng
về sau thì càng có nhiều thuyết về sự ra đời của ông Táo, không biết tin
vào thuyết nào. Có người bảo tục thờ Táo Quân của Trung Quốc có từ đời
nhà Hạ, người thì bảo xuất hiện vào đời nhà Thương, cũng có người
khẳng định tục đó chỉ có thể xuất hiện vào đời nhà Chu. Trong chuyện kể
dân gian Trung Quốc có chuyện về hai anh em nhà họ Trương, người anh làm
nghề đốt lò, xây bếp, còn người em, chuyên việc vẽ tranh, nặn tượng.
Người anh vốn tốt bụng, thường xuyên khuyên bảo mọi người ăn ở hòa thuận
và đứng ra can gián nhiều cuộc xô xát. Sau khi người anh chết, người
em, để hạn chế tình trạng mất đoàn kết ở các gia đình, đã dựng chuyện
người anh được Ngọc Hoàng phong là Táo Vương, giao cho cai quản việc bếp
núc và theo dõi mọi chuyện tốt xấu của từng gia đình để báo về Trời vào
dịp cuối năm.
Cứ mỗi năm đến ngày 23 tháng chạp thì nhà nhà nô nức sửa xoạn một mâm
cổ để cúng ông táo về trời. Ngày lễ này có ý nghĩa vô cùng quan trọng
vì theo tín ngưỡng ngày này ông táo sẽ cưỡi cá chép hóa rồng bay lên
trình tâu với ngọc hoàng muôn chuyện bếp lử và những việc gia chủ làm.
Mọi người cúng ông táo để xin ông táo trình bày nhẹ tội lỗi gây ra trong
năm và cầu chúc cho người người an lành thật nhiều sức khỏe và thật
thành công trong năm mới. Đến giao thừa ông táo sẽ trở về nhân gian và
làm tiếp công việc của mình. hãy cùng Thuvienanhdep.net khám phá Hình ảnh mâm cổ cúng ông táo về trời truyền thống đẹp nhất nhé!
Vai
trò, chức trách của ông Táo cũng thay đổi theo thời gian. Vào thời Tiên
Tần, ông Táo chỉ lo việc bếp núc, nhưng từ thời Hán trở đi, ông Táo
được tôn thành một vị thần được Ngọc Hoàng Thượng Đế phái xuống trần
gian để giám sát công, tội của con người, của từng gia đình. Cuối mỗi
năm, ông Táo phải về Trời bẩm báo và căn cứ vào bẩm báo này mà Ngọc
Hoàng phán xử, thưởng phạt. Trước thời Hán, ngày về chầu Trời của ông
Táo được định vào tháng tư âm lịch, sau đó thay đổi nhiều và đến thời
Đường - Tống trở đi thì cố định vào hai ngày 23 hoặc 24 tháng Chạp (ở
miền bắc Trung Quốc là ngày 23, ở miền nam là ngày 24).
Lễ
cúng đưa ông Táo được người Trung Quốc rất coi trọng, nhất là vào thời
nhà Thanh. Triều đình nhà Thanh từng qui định: “Toàn bộ nha sổ trong
ngày hôm đó nhất loạt niêm phong ấn tín, không thụ lý các công việc dân
sự, quan viên đều được về nhà để đưa ông Táo”. Vua Càn Long, trong 60
năm trị vì của mình, không năm nào là không cúng ông Táo tại cung Khôn
Ninh. Trong dân gian, tại nơi thờ ông Táo, người ta thường dán câu đối:
“Thượng thiên ngôn hảo sự, hạ giới giáng cát tường” (“Lên trời nói
chuyện tốt, xuống trần đem điều lành), hay: “Hảo thoại truyền thượng
thiên, hoại thoại
đu nhất biên” (Lời đẹp truyền lên trời, lời xấu vứt một bên), và ở nơi
hoành phi cũng dán thêm hàng chữ “Nhất gia chi chủ” (Ông chủ của gia
đình).
Ngày
xưa qui định, việc lễ bái do gia chủ trực tiếp làm, nhưng phải là đàn
ông: “Nam bất bái nguyệt, nữ bất tế Táo” (Đàn ông không được bái trăng,
đàn bà không được cúng Táo).
Sự
tích về ông Công, ông Táo, mang những nét đẹp truyền thống của người
dân Việt nam. Vì thế, cứ ngày 23 tháng Chạp hàng năm, người Việt Nam lại
làm cơm cúng tiễn đưa ông Táo về trời. Nói là 23 tháng Chạp nhưng những
hoạt động chuẩn bị cho ngày lễ được chuẩn bị từ trước đó vài ngày, thậm
chí là cả tuần. Ở thành thị, các gia đình thường mua hàng mã gồm: 2 mũ
nam, 1 mũ nữ và 3 con cá chép để cho ông Táo cưỡi về chầu trời.
Vai
trò của Táo Quân quan trọng như thế nên cũng được dân gian suy tôn là
Định Phúc Táo Quân (Vua Táo qui định phúc đức cho từng nhà), là Đệ nhất
gia chi chủ, vị thần đứng đầu trong hệ thống “Ngũ tự chi thần” mà theo
sách “lễ ký” của Nho giáo là gồm: Táo Quân, Môn Thần (Thần Cửa), Hộ Thần
(Thần Nhà), Trung Lựu Thần (Thần Đất), Tỉnh Thần (Thần Giếng).
Còn
dung mạo Táo Quân thì được thể hiện dưới hình thức một vị quan mặc áo
bào đen, mặt đen, đầu đội mũ cánh chuồn đen. Trên những bức tranh thờ,
ngoài Táo Quân ra, còn thấy một bên có quỉ dạ xoa cầm chùy, một bên có
phán quan bưng ấn.
Ngoài
ra, ở Trung Quốc còn có ngày vía Táo Ông (3-8 âm lịch) và ngày vía Táo
Bà (24-8 âm lịch). Tuy nhiên vào hai ngày này, chỉ có người Hoa ở duyên
hải phía Nam - Trung Quốc tổ chức dâng lễ vật, bày mâm cúng.
Câu
chuyện về tục thờ cúng Táo Quân bên Trung Quốc mà chúng ta “nghe” được
là như vậy. Ở đây bật ra câu hỏi: thế thì quan niệm cổ truyền của dân
tộc Trung Hoa là có mấy ông Táo và mấy bà Táo? Nếu chỉ nhìn bức tranh
thờ và hàng chữ “Đệ nhất gia chi chủ” thì chỉ có một ông Táo và cũng
không có bà Táo. Có thể quan niệm xưa kia là chỉ có một ông Táo, muộn
hơn nhiều sau này mới xuất hiện quan niệm “gia đình” Táo và quan niệm
này cũng rất mờ nhạt? Vậy thì điều đáng tin cậy nhất là đúng thực, ông
Táo được định hình ở Trung Quốc. Nhưng sự định hình ấy có xuất xứ từ đâu
và trên cơ sở nào thì chưa xác định chính xác được, dù rằng cái cội
nguồn xa xôi của quá trình chính là tục tôn thờ Lửa. Cũng cần phải nhấn
mạnh rằng theo nguyên lý nhân - quả thì không thể “đùng một cái” mà vào
thời rất đỗi xa xưa nào đấy, con người ở khắp nơi trên thế giới đều đồng
loạt biết cách tạo ra lửa, biết dùng lửa để nấu nướng chuyển sang lối
ăn chín và tôn thờ lửa như một vị thần.
Ở hầu hết các khu vực phía Bắc Trung
Quốc, Cúng ông Táo rơi vào vào 23 hay 24 tháng 12 âm lịch. Tuy nhiên ở
tỉnh Chiết Giang, Thượng Hải và các khu vực Giang Tô, Cúng ông Táo rơi
vào ngày thứ Năm của tháng Giêng âm lịch. Ở nhiều nơi khác trên đất nước
Trung Quốc, lễ Cúng ông Táo lại liên quan tới Lễ hội Đèn lồng (ngày
15/1 âm lịch).
Mỗi tỉnh thành ở Trung Quốc thường có một ngày Cúng ông Táo khác nhau.
Sự tích Tết ông Công, ông Táo ngày 23 tháng Chạp
Chắc
rằng tục thờ cúng ông Táo của dân tộc Trung Hoa đã du nhập vào Việt Nam
từ lâu, nhưng cái sức sống mãnh liệt của những tập tục truyền thống có
gốc rễ từ thời Hùng Vương và trước đó, vượt qua những vừa ăn cướp vừa
tàn phá văn hóa ác liệt của phong kiến phương bắc, mà có tính tàn bạo,
triệt để nhất là cuộc xâm lược và đô hộ của nhà Đông Hán và nhà Minh, đã
làm cho nó biến dạng đi nhiều, hay nói cách khác là đã đồng hóa nó một
cách phù hợp hơn với tâm tư, tình cảm và hoàn cảnh sống của người Việt
đương thời.)
Ở
Việt Nam, dù gọi chung là ông Táo, nhưng quan niệm xưa nay vẫn hiểu là
nhà Táo, gồm bộ ba: hai ông Táo và một bà Táo. Trong “Gia Định thành
đông chí”, không biết dựa trên cơ sở nào mà Trịnh Hoài Đức giải thích
quan niệm bộ ba đó xuất phát từ quẻ Ly với hai hào dương trên, dưới và ở
giữa là hào âm ,
tượng trưng cho hai người đàn ông và một người đàn bà đồng thời cũng có
nghĩa chỉ phương Nam, chỉ củi lửa. Bộ ba đó là Táo Quân, Táo Bà và Táo
Tướng. Trong đó, Táo Quân và Táo Bà (còn gọi gộp là Phật Táo) cuối mỗi
năm phải lên chầu, bẩm báo cho Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn Táo Tướng là
thần củi lửa lúc nào cũng phải phục vụ thế gian, Vì thế mà ở Nam Bộ -
Việt Nam có câu:
Hăm ba Phật Táo về Trời
Thổ Táo ở lại đội nồi suốt năm
Chúng
ta không tin vào sự giải thích của Trịnh Hoài Đức vì lẽ nếu có bộ ba
“hai ông một bà” thì cũng phải có bộ ba “hai bà một ông” (quẻ khảm,
), thế nhưng chẳng thấy ai đả động đến cả; Hơn nữa, đi yết kiến Ngọc
Hoàng đâu phải chuyện đùa, nhất là vào thời phong kiến, mà dắt díu lê
thê như các vị tổng thống hay thủ tướng ngày nay mỗi khi có việc đi du
ngoại, thì thật là… nguy tai.
Người
Việt tiếp thu tất cả những tên gọi khác về ông Táo của người Trung Hoa
phiên âm sang, đồng thời vẫn gọi ông Táo bằng những cái tên thuần Việt
và dân dã khác như: Ông Đầu Rau, hay Ba Ông Đầu Rau, Ông Núc Bếp, Vua
Bếp… Đặc biệt, ông Táo còn được gọi là Táo Công hay gọi tắt là ông Công.
Trong
dân dã, người Việt có cách gọi rất hay, vừa tôn kính, vừa thân thiết
gần gũi đối với các vị thánh, thần, chẳng hạn như ông Đùng, ông Gióng,
ông Táo, ông Địa, ông Công… Ông Địa chính là thần Thổ Địa và ông Công
chính là thần Thổ Công. Đến nay vẫn còn lưu truyền câu của dân gian
Việt: “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Vậy Thổ Công là ai? Theo quan
niệm người Việt xưa thì Thổ Công là vị thần tại gia, trông coi gia cư,
định sự may rủi họa phúc cho mọi gia đình. Nhờ thần Thổ Công mà các hồn
ma xác quỉ không dám lánh héo, xâm nhập để quấy nhiễu cuộc sống của gia
đình. Từ xa xưa, cùng với truyền thống tôn thờ tổ tiên, người Việt cũng
rất thành kính thờ phụng Thổ Công.
Theo phong tục cổ truyền của người Việt, Táo quân là vị quan túc trực quanh năm để cai quản mọi việc ở hạ giới. Ngày 23 tháng Chạp
(23/12 Âm lịch), các Táo cưỡi cá chép về trời để tâu báo với Ngọc Hoàng
những việc xảy ra trong năm cho Người rõ và thưởng phạt công minh. Để
"lấy lòng" các vị trọng thần này, dân gian thường bày cỗ cúng tiễn ông
Táo về trời với những món ngọt hoặc các món ăn truyền thống cùng giấy
tiền vàng mã, hia và áo mũ, cá chép giấy.
Tuy nhiên, ngày nay, mâm cỗ cúng Táo quân được đơn giản đi nhiều và
không cần quá bắt buộc phải có đầy đủ tất cả các món ăn truyền thống.
Mâm cỗ cúng Táo quân còn tùy thuộc vào hoàn cảnh cũng như khẩu vị của
gia chủ.
Năm nào cũng vậy, cứ cách ngày 23 tháng Chạp từ 1-2 ngày, chị em văn phòng đã chia sẻ rất nhiều mâm cỗ cúng ông Táo.
Phần lớn các món ăn vẫn là các món truyền thống hoặc món chay. Điểm
trong đó là một vài món ăn mới lạ nhưng vẫn phù hợp với khẩu vị gia
đình.
Chị Nguyễn Thị Minh Trang (Nick face Cỏ Ba Lá - nhân viên ngân hàng ở
Bắc Ninh) cho biết, năm nay chị làm 2 mâm cỗ cúng ông Táo. Một mâm cỗ
chay và một mâm cỗ mặn. Để làm hai mâm này chị mất 2 tiếng chuẩn bị với
rất nhiều món ăn ngon và hấp dẫn.
Mâm cỗ mặn với các món nem tôm; gà rang muối, nấm xào gà, salad, canh thập cẩm, xôi giò của nhà chị Nguyễn Thị Minh Trang
Bên cạnh mâm cỗ mặn, chị Trang còn làm thêm mâm cỗ chay gồm các món
bánh bao, salad, khoai lang chiên, thịt bò khô giả chay, khoai mon lệ
phố, gà chay, canh, xôi, xào thập cẩm.
Cùng xem thêm những mâm cỗ được các chị em chia sẻ:
Mâm cơm cúng ông Táo của chị Tô Hưng Giang ở Hà Nội gồm các truyền
thống như món nem rán, gà luộc, canh mọc rau củ, bánh chưng, xào thập
cẩm, giò lụa
Nhân vật có nick face Quynh Lam (Hà Nội), 31 tuổi cho biết, năm nào
chị cũng làm mâm cơm để cúng ông Táo. Mâm cơm năm nay nhà chị cũng bao
gồm các món truyền thống như giò lụa, gà luộc, canh măng, nem rán, bánh
chưng...
Mâm cỗ của chị Lại Thu Trang gồm rất nhiều món ăn hấp dẫn. Ngoài các
món truyền thống như gà luộc, canh bóng thì chị làm thêm các món ăn phù
hợp với khẩu vị gia đình như nem tôm, cánh gà rôti, khoai tây chiên, bò
cuộn nấm kim châm, mực xào dừa cần tỏi tây, gỏi ổi tai heo... Mâm cơm
này của nhà chị Trang hết khoảng 550.000 đồng và được chuẩn bị trong 2
tiếng
Mâm cỗ của gia đình chị Nguyễn Thị Mai Nghĩa (Đường Bưởi, Hà Nội)
Mâm cỗ gồm các món truyền thống của gia đình chị Nguyễn Ánh Hòa (Nam
Định). Chị Hòa cho biết, mâm cỗ nhà chị có nhiều món "của nhà trồng
được" nên không quá tốn kém
Mâm cỗ cúng Táo quân của chị Hà (Nhân Hòa, Hà Nội). Theo chị Hà, đáng
lẽ chị sẽ làm thêm vài món nhưng vì quỹ thời gian eo hẹp, chị không
chuẩn bị được 6 món mặn, thêm 1 món ngọt. Quan trọng là lòng thành của
gia đình dành cho các vị Táo quân mà thôi
Tín
ngưỡng thờ Thổ Công của người Việt, dù qua thời gian đã nhuốm màu Đạo
Giáo thì những đặc điểm tinh tế có gốc tích bản thổ cũng không bị khỏa
lấp đi được.
Thông
thường, bàn thờ Thổ Công đặt ngay cạnh bàn thờ tổ tiên (có thể ở gian
bên). Những gia đình thuộc dòng thứ, không có bổn phận cúng giỗ, nên
trong nhà có thể không có bàn thờ tổ tiên, nhưng vẫn phải có bàn thờ Thổ Công,
và có thể đặt ở gian chính giữa nhà.
Bàn
thờ Thổ Công nhỏ hơn, giản dị hơn bàn thờ tổ tiên. Trên án hương có mâm
nhỏ, ba đài rượu, bài vị, bình hương và đôi nến. Thay cho bài vị hoặc
cùng với bài vị có cỗ mũ (đồ mã) 3 chiếc: một mũ đàn bà, màu vàng để
giữa, 2 mũ đàn ông, màu đen để hai bên, tượng trưng “hai ông một bà” (có
nơi chỉ đặt một chiếc mũ nam và một đôi hia). Mũ nam có cánh chuồn vút
lên hai bên. Cỗ mũ được đặt trên chiếc bệ (bằng mã). Kèm theo mỗi mũ là 1
áo và 1 đôi hia. Dưới mỗi mũ để 100 vàng thoi (tất nhiên cũng là hàng
mã).
Việc
bày sắp bàn thờ Thổ Công như thế là sự biểu hiện quan niệm “bộ ba” đã
khắc rất sâu vào tâm hồn người Việt xưa, thông qua việc thờ cúng Thổ
Công. Đúng như vậy thật, bàn thờ Thổ Công không chỉ thờ một vị thần mà 3
vị thần cùng lúc là: Thổ Công, Thổ Địa, Thổ Kỳ, trong đó:
- Thổ Công, đứng đầu, đồng thời trông coi việc bếp núc.
- Thổ Địa trông coi việc trong nhà (nội gia).
- Thổ Kỳ trong nom việc chợ búa cho phụ nữ, hoặc việc sinh sản các vật ở vườn đất.
Người
Việt xưa cúng Thổ Công quanh năm, vào những ngày giỗ, tết, sóc, vọng.
Tùy theo gia chủ mà có thể cúng chay hay cúng mặn. Trong những ngày mồng
một, rằm (âm lịch), nhiều gia đình cúng chay, đồ cúng gồm giấy vàng
bạc, trầu, nước, hoa quả. Cũng có gia đình cúng mặn. Cúng mặn, ngoài đồ
lễ cúng chay, còn có xôi gà, có khi là cả một mâm cỗ, và phải có rượu.
Trong mọi trường hợp, làm lễ cúng cáo gia tiên bao giờ cũng cúng Thổ
Công và khấn cầu sự phù hộ của Thổ Công, và khi cúng phải khấn đủ thần
linh trong bài vị. Văn khấn Thổ Công được chép ra dưới đây dùng quanh
năm, chỉ thay đổi ngày, tháng cho phù hợp:
“Nước Đại Việt, năm …… tháng …… ngày ……
Tín chủ là …… toàn gia cư trú tại xã …… huyện …… tỉnh ……, trăm bái
Kính cẩn dâng lên rượu, nước, bạc vàng, đèn hương, hoa quả, cỗ bàn phẩm vật cùng mọi đồ lễ.
Cùng mời:
Bản gia Thổ Công, tại vị ở trước
Thổ Địa tại vị ở trước
Thổ Kỳ tại vị ở trước
Giáng lâm chứng giám
Cầu xin phù hộ chủ từ già đến trẻ hạnh phúc, bình an, không bệnh tật.
Thượng hưởng”
Tuy
nhiên, lễ cúng Thổ Công quan trọng nhất trong năm là vào ngày 23 tháng
Chạp, gọi là Tết ông Công. Lễ này thường được tổ chức vào buổi trưa,
nhưng cũng có nhiều nơi thực hiện vào buổi tối. Sau khi lễ xong thì hóa
vàng, hóa luôn cả cỗ mũ, áo, hia, bài vị của năm cũ (đốt mã), thay bằng
đồ mới để thờ cho đến Tết năm sau. Ở làng quê Bắc Bộ, gia chủ còn mua
con cá chép còn sống, thả trong chậu nước để tặng ông Công. Cá này sẽ
được phóng sinh xuống ao, chuôm hoặc sông, hồ để nó (vượt Vũ Môn) hóa
rồng cho ông Công cưỡi lên chầu Trời. Ở Trung Bộ, ông Công lên Trời bằng
cách cưỡi ngựa với đầy đủ yên cương (đồ mã). Ở Nam Bộ, ông Công được
dâng cặp giò, tức cặp hia - mã, ngoài ra còn có cặp cây mía đặt hai bên
trang thờ để ông Công chống khi đi đường, gọi là “gậy ông Công”
Cách sắp xếp bàn thờ cúng ông Công ông Táo đúng sẽ thể hiện lòng thành
kính của gia chủ đối với các vị thần, nhờ đó sẽ đem lại may mắn cho các
thành viên trong gia đình trong năm mới. Hãy cùng xem cách bài trí bàn
thờ cúng ông Công ông Táo ngày 23 tháng Chạp có gì đặc biệt nhé?
Ở phía trước cái kệ nhỏ đặt bát hương hoặc
đỉnh trầm. Hai bên bát hương là đôi nến hoặc cây đèn dầu. Cũng có thể
đặt đôi ống hươngTheo quan niệm từ xưa truyền lại, mỗi gia đình có riêng một Thổ công. Vị
Thổ công này mỗi năm đều được thay thế vào ngày 23 tháng Chạp. Ngày này
ở Việt Nam gọi là ngày ông Táo chầu trời hoặc là ngày Tết ông Công ông
Táo. Trong ngày này, các gia đình làm cỗ cúng rồi đốt bài vị cũ thay bài
vị mới.
Lễ cúng ông Công ông Táo cần những gì? Ngày giờ đưa ông Táo chuẩn 2021
Lễ cúng ông
Công ông Táo về trời không cần phải tổ chức cầu kỳ nhưng cần phải trang
trọng, chu đáo, thể hiện được tấm lòng của gia chủ. Vậy lễ cúng ông Công
ông Táo cần những gì, bài khấn và thời gian cúng ông Công ông Táo như
thế nào?
Nguồn gốc và sự tích Ông Công Ông Táo được lưu truyền dưới nhiều dạng câu chuyện khác nhau. Theo người xưa truyền lại, Táo Quân là vua bếp gồm có Táo bà và hai Táo ông, họ cũng chính là vị thần quyết định phúc đức của gia đình.
Vào ngày 23 tháng Chạp hằng năm, ông Công ông Táo sẽ cưỡi
cá chép lên Trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế tất cả những điều
tai nghe mắt thấy ở trần gian cả việc tốt lẫn việc xấu và những gì chưa
làm được. Từ đó, Thiên đình sẽ đưa ra thưởng phạt rõ ràng cho từng gia đình.
Chương trình Gặp nhau cuối năm (Táo quân) cũng chính là đang tái hiện lại khung cảnh này.
Nguồn gốc sự tích Ông Táo về trời
Xuất phát từ tín ngưỡng đó, lễ đưa ông Công ông Táo về trời (hoặc gọi ngắn gọn là đưa ông Táo về trời) luôn được tiến hành trọng thể.
Cúng ông Công ông Táo ngày nào cũng là điều mà nhiều người thắc mắc. Theo truyền thống dân gian, thời gian cúng Táo Quân có thể bắt đầu từ ngày 21 và kết thúc trước khi hết giờ Ngọ (từ 11 giờ đến 13 giờ) ngày 23 tháng Chạp hằng năm vì đây là thời điểm các thần tập trung để chuẩn bị về Trời.
Vào năm 2020, ngày 23 tháng Chạp âm lịch sẽ rơi vào thứ sáu (17/01), nhiều người vẫn phải đi làm. Vì vậy không nhất thiết cứ phải cúng vào trưa 23 tháng Chạp mà bạn có thể bắt đầu từ ngày 21 và nhớ phải kết thúc trước khi hết giờ Ngọ (từ 11 giờ – 13 giờ) ngày 23 tháng Chạp nhé.
Hy vọng những thông tin trên đây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về ngày
cúng Ông Táo Ông Táo hằng năm. Và chỉ còn ít ngày nữa thôi là bạn có thể
cúng rồi đấy, dù bận đến mấy thì cũng nên dành thời gian để cúng Táo
nhé. Nếu vẫn chưa biết cách cúng ông Công ông Táo như thế nào thì hãy theo dõi bài viết tiếp tục nhé!
1Lễ vật cúng ông Công ông Táo
Lễ vật cúng ông Táo truyền thống gồm có:
Mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc:
hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ dành cho các ông Táo thì có hai
cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn. Nhiều người chỉ cúng một
cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuồn) để tượng trưng.
Cá chép:
Tượng trưng cho phương tiện di chuyển của ông Công, ông Táo. Bạn có thể
sử dụng cá chép giấy hoặc cá chép thật đều được. Thường ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá chép sống thả trong chậu nước ngụ ý "cá chép hóa rồng" nhưng tại Nam Bộ thường dùng cá chép giấy nhiều hơn.
Nhiều gia đình có trẻ con, người ta cúng Táo Quân một con gà luộc. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để ngụ ý nhờ Táo Quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có nhiều nghị lực, thông minh và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy.
Đồ cúng ông Công ông Táo bạn có thể mua dễ dàng ở các cửa tiệm bán đồ cúng
Sau
khi đã bày trí bàn thờ xong, việc tiếp theo các bạn cần chuẩn bị chính
là một mâm lễ cúng ông Công ông Táo với đầy đủ mũ, áo cho Táo quân, một
mâm cỗ mặn hoặc chay tùy theo điều kiện từng gia đình. Mâm lễ cũng ông Công ông Táo không
cần quá cầu kỳ, nhiều món mà chỉ cần có đầy đủ những món như phong tục
của các cha ông để lại như bánh chưng, giò, nem rán, canh nấu. Có
thể thấy “vai trò, chức năng” của thần Thổ Công theo quan niệm người
Việt xưa dù có những nét dị biệt rõ ràng, nhưng cũng có nhiều nét tương
đồng sâu sắc với “vai trò, chức năng” của Thần Táo Quân theo quan niệm
người Hoa. Điều này đưa chúng ta đến cảm tưởng rằng hai vị này có chung
một “huyết thống”, đều “sinh thành” từ ông Núc Bếp và lấy ông Núc Bếp
làm “thần tượng”. Tuy nhiên, hai ông này đã đi theo hai hướng khác nhau,
tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh xã hội khác nhau để rồi một
ông hóa thành Thổ Công (của người Việt), một ông hóa thành Táo Quân (của
người Hoa). Thế rồi, khi Táo Quân Trung Hoa xuất hiện ở Việt Nam (trong
thời kỳ lan tỏa dân cư mà hướng chủ yếu, nổi trội là từ Bắc xuống Nam,
do nhiều nguyên nhân khác nhau), hai ông, Thổ Công Việt Nam và Táo Quân
Trung Quốc, do có sẵn tương đồng, đã hòa hợp với nhau mà thành Táo Công,
một nhân thần “tuy hai mà một”: nói chính xác hơn, có lẽ phải thế này:
Ông Táo Việt gặp ông Táo Hoa, hóa thành Táo Việt - Hoa. Trong bài vị
trên bàn thờ Thổ Công của gia đình người Việt vẫn thường ghi:
“Bản gia đông trùng tư mệnh Táo Phủ thần quân
Bản gia Thổ Địa long mạch tôn thần
Bản gia Ngũ phương ngũ thổ phúc đức chính thần”
Có nơi chỉ viết gọn là “Định phúc Táo Quân” (Vua Táo qui định phúc đức trong nhà)
Tuy
nhiên sự hòa hợp đó có thể là chưa đủ “mãnh liệt” và chưa đủ thời gian
để khỏa lấp những dị biệt từng có trong quá khứ cũng như mới phát sinh
sau này. Trong thực tiễn, nơi này nơi khác, lúc này lúc khác, vẫn xuất
hiện dị biệt, nghĩa là dù đã “hai trong một” nhưng nhiều nhà lại thờ cả
Thổ Công lẫn Táo Quân, trong khi Thổ Công được cúng quảy quanh năm vào
những ngày giỗ chạp, sóc vọng thì Táo Quân chỉ được nhắc đến 2 lần trong
dịp Tết (lễ cúng đưa tiễn chầu Trời và đón rước về nhà). Rất có thể ông
Táo Việt (Thổ Công) ngày xưa chưa phải về chầu Trời vào mỗi dịp cuối
năm. Sau này mới phải gánh vác “nhiệm vụ thiêng liêng” đó là do ông Táo
Tàu “san sẻ” cho. Vậy có thể hiểu khi Táo Công là Táo Quân thì vị thần
này có vai trò là “Đệ nhất gia chi chủ” và hàng năm phải lên chầu Trời
để bẩm báo; khi Táo Công là Thổ Công thì chỉ là vị thần trông coi bếp
núc, bình đẳng với hai vị thần kia là Thổ Địa và Thổ Kỳ (bên Trung Quốc
có tới năm vị thần tại gia cơ!); hoặc cũng có thể hiểu Thổ Công là tên
chung của 3 vị thần: Táo Quân, Thổ Địa, Thổ Kỳ?
Tại
Nam Bộ, khu vực mới khai khẩn sau này với sự có mặt hầu như ngay từ
buối đầu đông đảo người Hoa, đã là nơi giao lưu văn hóa truyền thống
Việt - Hoa sôi nổi nhất thời cận đại trên lãnh thổ Việt Nam. Do đó, sự
hòa hợp “hai trong một” cũng có vẻ “thành công” hơn cả, đồng thời sự dị
biệt “tuy một mà hai” cũng biểu hiện rõ ràng hơn cả. Ngày nay, ở Nam Bộ,
hình như tiếng tăm của Thổ Công đã phần nào nhạt nhòa và việc thờ cúng
Thổ Công trong nhiều gia đình dân cư (nhất là ở thành phố) cũng có phần
bị sao lãng. Thay vào đó nhiều nhà thờ cúng ông Táo riêng và Thổ Địa,
Thần Tài riêng.
Bàn
thờ Táo Quân được định vị khác nhau, tùy địa phương, Có nơi đặt bệ thờ
Táo Quân ngay trên khuôn bếp. Trên tường bếp treo bức tranh chân dung
Táo Quân, mặt đen xì, áo mũ chỉnh tề như quan triều đình phong kiến xưa.
Có nơi, như ở Hà Tiên, không thờ tại bếp, cũng không kê kề bên bàn thờ
tổ tiên mà ở vách giữa phía sau nhà. Ở chỗ này, người ta không đặt bệ
thờ mà chỉ treo tấm ván hình chữ nhật, dài 1,5m đến 2m, rộng 0m5 đến
0,6m. Tấm ván này đóng vai trò như một bàn thờ, bàn thờ treo. Lễ vật
thường là hương, hoa, quả, trầu, rượu, đĩa xôi, con gà hay miếng thịt
heo.
Hầu
hết cư dân khu vực Nam Bộ đều thờ cúng chung Ông Địa - Thần Tài. Ông
Địa chính là Thổ Địa, vị thần trông coi nhà cửa đất đai mà chúng ta đã
biết. Thần Tài được xem như vị thần đem tài, lộc đến cho gia đình, phù
hộ cho gia chủ làm ăn phát đạt. Thần tài mới xuất hiện gần đây, có thể
vào khoảng đầu thế kỷ XX. Có người nói rằng tục thờ Thần Tài được du
nhập từ Trung Quốc. Điều này có lẽ không hẳn đúng. Nói cách khác, nếu có
đúng thì may ra chỉ đúng một nửa.
Đáng
chú ý là bàn thờ Ông Địa - Thần Tài không bao giờ được đặt ở nơi khang
trang, cao thoáng (và cũng không cần to, cầu kỳ) như bàn thờ tổ tiên hay
bàn thờ Thổ Công mà phải đặt ở dưới đất, ở những nơi xó xỉnh, hàng
hiên, góc nhà (nhưng phải hướng ra phía mặt tiền nhà). Nguyên nhân phải
đặt dưới đất (trên nền nhà) là vì đất là nơi trú ngụ của ông Địa (có lẽ
vì quan niệm này mà xuất hiện bàn thờ ông Thiên, được đặt trước sân,
không có sân thì trước hàng hiên, nhưng phải ở trên cao, thường trên đầu
trụ gỗ hoặc trụ xây - có ông Địa thì phải có ông Thiên!). Nguyên nhân
thứ hai là do truyền thuyết sau đây:
Ngày
xưa, có một người lái buôn tên là Âu Minh, khi đi qua hồ Thanh Thảo
được Thủy Thần cho một nàng hầu là Như Nguyệt để đem về nhà. Từ đó Âu
Minh làm ăn phát đạt, giàu to. Một hôm (đó là ngày Tết), Âu Minh đánh
Như Nguyệt. Nàng sợ hãi chui trốn vào đống rác rồi biến mất. Từ đó, Âu
Minh làm ăn sa sút, chẳng mấy chốc mà trở nên xác xơ, nghèo kiết. Người
xưa đồn Như Nguyệt là Thần Tài và lập bàn thờ. Từ đó mà cũng có tục
kiêng hốt rác trong 3 ngày Tết (nếu có chăng là quét sơ rồi dồn rác tạm
vào nơi xó xỉnh, góc nhà, chỗ khuất).
Có phải ai thờ Thần Tài Thổ Địa cũng đều được giàu
có buôn may bán đắt ? Nếu thật là có thể như thế thì thế gian làm gì có
người nghèo phải không, nhiều nhà thờ thần tài được buôn may bán đắt,
nhà thì cũng thờ mà buôn bán ế ẩm, vậy nên có sự khác biệt trong cách
thờ thần tài, thờ thần tài cũng phải biết cách nếu không thì không có
tác dụng hoặc có khi còn bị xuôi xẻo nữa. n thờ thần tài gồm những gì ?
Sơ đồ bài trí bàn thờ thần tài – bàn thờ thần tài gồm những gì
Những
người tin tưởng và nhất là những gia đình buôn bán thì không chỉ cúng
Thổ Địa - Thần Tài vào những ngày giỗ Tết, sóc vọng mà cúng quanh năm,
thậm chí là trước mỗi “độ” làm ăn, mỗi cuộc buôn bán. Trong các dịp giỗ,
tết, sóc vọng, thường người ta cúng mặn, có lúc bày cả một mâm cỗ.
Trong những ngày thường, việc cúng đơn giản hơn: thắp hương, dâng trầu,
nước và có thể thêm một đĩa trái cây. Ở thành phố, vào sáng sớm, khi mở
tiệm, hàng, quán bắt đầu buôn bán, người ta thắp hương cho Thổ Địa -
Thần Tài, nhiều khi lễ vật chỉ đơn giản là điếu thuốc đã mồi sẵn và ly
cà phê đen cho 2 ông dùng chung để 2 ông vui vẻ phù hộ cho mua may, bán
đắt, làm ăn suông sẻ. (Còn tiếp) -----------------------------------------------------------------