Trích từ sách “The Compact History of the Catholic Church“
Tác giả Alan Schreck*
I. Giáo Hội Thời Các Tông Ðồ Và Các Giáo Phụ Giáo Hội
thời các Tông Ðồ (thế kỷ thứ nhất) là thời kỳ của các nhà lãnh đạo và
thần học sáng giá của Kitô Giáo, các ngài thường được gọi là “Giáo Phụ”.
Thời kỳ này thường được gọi là thời các Giáo Phụ. Khi nhìn đến các nhân
vật, các biến cố và các phong trào quan trọng trong thời kỳ này sẽ giúp
chúng ta hiểu được sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo cho đến thế kỷ
thứ bảy. Thế Kỷ Thứ Nhất: Ðặt Nền Tảng Hầu hết
những gì xảy ra trong Kitô Giáo ở thế kỷ thứ nhất thì quen thuộc với
chúng ta, nhờ kinh thánh Tân Ước. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, chúng ta
biết công cuộc truyền giáo đã nới rộng giáo hội của Ðức Giêsu Kitô từ
nguyên thủy ở Giêrusalem, gồm những người Do Thái tòng giáo theo Ðức
Kitô, đến những người Dân Ngoại ở nhiều nơi trong Ðế Quốc La Mã và cho
đến tận Rôma. Sự bình an tương đối trong thế kỷ này, cũng như hệ thống
đường bộ và đường thủy của người La Mã, đã giúp Kitô Giáo có thể phát
triển nhanh chóng. Nền văn hóa chung và một ngôn ngữ chung cũng giúp cho
sự bành trướng. Tuy nhiên, động lực chính của sự phát triển Kitô Giáo
là Chúa Thánh Thần, Ðấng đã làm nên các tông đồ vĩ đại như Thánh Phaolô
và các vị tử đạo như Stêphanô, là vị tử đạo đầu tiên. Lúc đầu, Kitô Giáo được coi là một nhánh
không quan trọng của Do Thái Giáo. Trong thế kỷ thứ nhất và đầu thế kỷ
thứ hai, hầu hết những người tòng giáo xuất thân từ các giai cấp thấp
kém trong xã hội La Mã, gồm nhiều phụ nữ, thường dân, và nô lệ. Lúc đầu
nhà cầm quyền La Mã không đếm xỉa đến người Kitô, nhưng vào năm 64,
Hoàng Ðế Nero đổ tội cho họ là đã gây nên trận hỏa hoạn lớn ở Rôma mà có
lẽ chính ông ta chủ mưu. Các tông đồ Phaolô và Phêrô, là các vị lãnh
đạo giáo hội ở Rôma, đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại tuy ngắn ngủi
nhưng đẫm máu này. Người Kitô phải chôn cất và nhiều khi phải trốn
tránh trong các hang toại đạo ở Rôma trong thời kỳ bách hại đầu tiên. Tại sao các Kitô Hữu lại bị bách hại?
Ngay cả những người ngoại giáo cũng có thể nhận thấy sự tương thân tương
ái giữa các Kitô Hữu. Họ chăm sóc người nghèo, các bà goá và các em mồ
côi, họ giúp đỡ các nạn nhân của dịch tễ và nạn đói cũng như các tù
nhân. “Họ thương yêu nhau chừng nào” là câu nói đầu môi của người ngoại
giáo. Tuy nhiên, thời bấy giờ, Kitô Giáo được coi là một tổ chức bí mật,
gặp nhau thường xuyên vào sáng Chúa Nhật để ăn thịt và uống máu một
người, là Ðức Kitô, và có lẽ họ có những hành động đồi bại tình dục như
một số tôn giáo thời ấy. Dĩ nhiên, những đồn đãi ấy hoặc sai sự thật
hoặc dựa trên những hiểu biết sai lầm về hành động của Kitô Hữu, khi họ
gặp nhau ngày Chúa Nhật để cầu nguyện, nghe sách Thánh, chia sẻ sự hiểu
biết về đời sống Ðức Kitô cũng như đọc thư của các tông đồ, và cử hành
nghi thức Tiệc Ly, như Ðức Giêsu căn dặn. Nhà cầm quyền La Mã bắt đầu
cho rằng Kitô Hữu là kẻ thù của Nhà Nước, cho họ là những người vô thần
không chịu thờ các thần của người La Mã và cũng không tôn kính hoàng đế
La Mã. Vào cuối thế kỷ thứ nhất, Hoàng Ðế Domitian phát động một cuộc
bách hại Kitô Giáo cách dữ dội vì họ từ chối không chịu coi ông ta như
một vị thần để hy sinh cho ông. Văn sĩ Kitô Giáo, Tertullian, sau này
nhận xét “máu của các vị tử đạo là hạt giống của Giáo Hội,” và Kitô Giáo
tiếp tục phát triển qua các nhân chứng đức tin đầy can đảm. Các giám
mục Kitô Giáo, là các vị lãnh đạo giáo hội sau khi các tông đồ qua đời,
tiếp tục trở nên gương mẫu đức tin cho dân Chúa – tỉ như các giám mục
Rôma kế vị Thánh Phêrô là: Thánh Linus, Thánh Anacletus, và Thánh
Clêmentê I. Vào cuối thế kỷ thứ nhất, trong Ðế Quốc La Mã ước lượng có
khoảng nửa triệu người theo Ðức Kitô. Thế Kỷ Thứ Hai: Tiếp Tục Phát Triển và Bảo Vệ Ðức Tin Hai vị giám mục gương mẫu hy sinh tính mạng vì Ðức Kitô vào đầu thế kỷ thứ hai là Ðức Polycarp ở Smyrna và Ðức Ignatius
(I-nha-xiô) ở Antiôkia. Sau khi bị bắt và trên đường bị điệu về Rôma để
tử đạo vào khoảng năm 110, Ðức Ignatius đã viết bảy lá thư – một lá cho
giáo đoàn ở Polycarp và các thư khác cho các giáo đoàn mà ngài gặp trên
đường – để khuyến khích họ giữ vững đức tin. Ðức Ignatius còn cảnh cáo
Kitô Hữu ở Rôma đừng tìm cách ngăn chặn cái chết của ngài. Ngài muốn sư
tử nghiền nát xương thịt của ngài như hạt lúa để ngài có thể trở nên
bánh tinh tuyền cho Ðức Kitô, như bánh của Thánh Thể. Sự tử đạo được coi
là đường trực tiếp lên thiên đàng, do đó các Kitô Hữu tiên khởi rất tôn
trọng các vị tử đạo. Trong lời cầu nguyện, họ xin các vị tử đạo cầu bầu
cho họ trước mặt Thiên Chúa cũng như cho giáo hội trần thế (Khải Huyền
6:9-11; 7:9-17). Cũng có những gương can đảm của các phụ nữ, tỉ như Thánh Perpetua và Thánh Felicity, đã hy sinh tính mạng vì Ðức Kitô. Trong thế kỷ thứ hai, sự lãnh đạo Giáo
Hội đã có một hình thức đặc biệt mà hình thức ấy kéo dài mãi cho đến
ngày nay trong Giáo Hội Công Giáo. Ngay từ đầu năm 110, Ðức Ignatius ở
Antiôkia đã phúc trình rằng mỗi một giáo hội địa phương được hướng dẫn
bởi một giám mục. Vị giám mục được phụ tá bởi “trưởng lão” (sau này gọi
là “linh mục”) là người hướng dẫn cộng đoàn cử hành nghi thức Thánh Thể
và các bí tích khác, vì khi cộng đoàn phát triển quá rộng đức giám mục
không thể đích thân thi hành được. Ðức giám mục còn được sự phụ giúp của
các “lao công nhà Chúa” (phó tế), là những người đóng vai trò quan
trọng trong việc phục vụ giáo hội địa phương qua các phương cách thực
tế, tỉ như phân phối tiền bạc và thực phẩm cho người nghèo và người có
nhu cầu. Ðược hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, các
giám mục bắt đầu cùng làm việc để đối phó với các thử thách mới của thời
bấy giờ và để phát triển một giáo huấn chung. Một thí dụ của giáo huấn
chung là công thức tuyên tín (kinh tin kính), là bản tóm lược đức tin
Kitô Giáo dùng để chuẩn bị cho các dự tòng trước khi Rửa Tội cũng như
chỉ dẫn Kitô Hữu về đức tin. Các giám mục cũng bàn thảo xem các văn
bản nào được Thiên Chúa linh ứng cho toàn thể Giáo Hội. Một số người, tỉ
như Marcion, đã từ chối tính cách linh ứng của Kinh Thánh Do Thái (Cựu
Ước) và chỉ chấp nhận một số văn bản giới hạn. Các tổ chức khác, tỉ như
Gnostic (Tri thức giáo) lại coi một số văn bản rất khác thường là do
Thiên Chúa linh ứng. Thí dụ, một phúc âm của phái Gnostic đưa ra hình
ảnh Ðức Giêsu khi còn nhỏ đã biến con chim bồ câu đất trở nên sống thực,
và gây nên cái chết của những trẻ cùng lứa vì chúng chọc tức Ðức Giêsu.
Ðể đối phó với vấn đề này, các giám mục đưa ra một danh sách các văn
bản chính thức mà các ngài tin là Thiên Chúa linh ứng, được gọi là quy
điển (canon), mà sau này được dùng làm nền tảng cho bộ Kinh Thánh của
chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ thứ tư, bộ quy điển Tân Ước
vẫn chưa được hoàn tất. Ðiều này cho thấy sự quan trọng của Chúa Thánh
Thần trong việc dẫn dắt các giám mục nhằm tỏ lộ chân lý của Thiên Chúa
một cách trọn vẹn. Các giám mục của thế kỷ thứ hai còn phải
đương đầu với các lạc thuyết, tỉ như sự tin tưởng rằng Thiên Chúa chỉ
có một ngôi, và hậu quả là Ðức Giêsu Kitô chỉ là một con người; hoặc sự
tin tưởng ngược lại là Kitô Hữu thờ ba chúa chứ không phải một. Phe
Gnostic cho rằng bề ngoài Ðức Giêsu là một con người, nhưng thực sự ngài
là một thần thánh (thuyết Docetism). Tất cả những tin tưởng này đều bị
các giám mục lên án là sai lạc. Các giám mục còn sửa sai các tổ chức
tách rời khỏi Giáo Hội vì các lý do khác. Phe Montano, là những người
tin theo một linh mục tên Montanus, họ cho rằng Ðức Giêsu sẽ tái giáng
lâm ngay vào thời ấy. Họ muốn ép buộc mọi Kitô Hữu phải sống khắc khổ;
họ còn cho rằng các điều họ được mặc khải có giá trị ngang bằng với các
thư của Thánh Phaolô cũng như bốn Phúc Âm. Khi các giám mục Công Giáo
không đồng ý với các điều này, phe Montanô khởi sự thành lập một giáo
hội riêng và lôi cuốn được cả vị bảo vệ đức tin của Giáo Hội ở Bắc Phi,
là Tertullian. Phe Montanô tan rã ngay sau khi Tertullian từ trần vào
năm 220. Nhiều giáo thuyết lầm lạc và các tổ chức
lẻ tẻ xuất hiện trong thế kỷ này, nhưng chỉ có giáo hội hoàn vũ được
hướng dẫn bởi giám mục đoàn là còn tồn tại. Thông thường, chính vị giám
mục Rôma là người lên tiếng trả lời các tranh chấp. Sự kiện này khiến vị
bảo vệ đức tin nổi tiếng là Ðức Giám Mục Irenaeus ở Lyons
(hiện tại là nước Pháp), đã nói về Rôma rằng: “Tất cả các giáo hội khác
(địa phương) phải đồng tâm nhất trí với giáo hội này (Rôma) vì tính
cách ưu việt của nó.” Vào giữa thế kỷ thứ ba, Ðức Giám Mục Cyprian ở Carthage viết: “Hiệp thông với đức giám mục Rôma là hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo.” Trong thế kỷ thứ hai việc bách hại Kitô
Giáo chỉ thỉnh thoảng, nhờ đó Kitô Giáo được phát triển rộng lớn hơn và
có thêm những người tòng giáo thuộc giai cấp cao hơn trong xã hội La Mã.
Thiên Chúa bắt đầu gầy dựng các nhân vật thông minh xuất chúng để có
thể giải thích và bảo vệ đức tin qua lý lẽ và triết học: Thánh Justin Tử Ðạo
ở miền Ðông Mediterranean đã trình bầy Kitô Giáo như “một triết học
đích thực”; Thánh Irenaeus ở Lyons coi mọi tạo vật được quy tụ và “tổng
kết” trong Ðức Kitô; Ðức Athenagoras ở Athens viết một văn bản quan
trọng để bảo vệ đức tin; và Ðức Clementê ở Alexandria thiết lập một khoa
giáo huấn Kitô Giáo cho dự tòng. Các vị này đã viết thư cho các hoàng
đế để thuyết phục họ đừng bách hại Kitô Giáo, thuyết phục người Do Thái
về sự chân chính của Kitô Giáo, và chống với các lạc thuyết đang phá
hoại đức tin chân chính (tỉ như, phái Gnostic cho rằng họ biết được
những bí mật của con đường cứu chuộc mà các Kitô Hữu khác không biết).
Các vị bảo vệ đức tin này cho thấy Kitô Giáo là một tôn giáo hợp lý và
có thể hiểu được cũng như chấp nhận được bởi mọi người của mọi văn hóa
và dân tộc. Vào cuối thế kỷ thứ hai, có khoảng 2 triệu người Kitô trên
khắp Ðế Quốc La Mã, dù rằng Kitô Giáo vẫn là một tôn giáo không chính
thức và bị Nhà Nước Rôma ngăn cấm. Thế Kỷ Thứ Ba: Sự Bách Hại và Phát Triển Thần Học Thế kỷ thứ
ba là giai đoạn chính yếu trong sự phát triển Kitô Giáo cũng như thiết
lập các tổ chức và hình thành thần học. Sự bình an tương đối ở Ðế Quốc
La Mã từ năm 200 đến 250 đã đem lại thời gian cần thiết cho Giáo Hội để
phúc âm hóa và cơ cấu hóa, cũng như các thần học gia có thì giờ suy tư
và sáng tác. Người đầu tiên hệ thống hóa tư tưởng
Kitô Giáo, phần lớn dựa vào triết thuyết Hy Lạp, là Ðức Origen ở
Alexandria (184 – 254), là người đứng đầu khoa giáo lý ở đây. Dù rằng
một số tư tưởng của ngài sau này bị coi là sai lầm (về vấn đề ma quỷ
cũng có thể được cứu chuộc và linh hồn thì đầu thai), Ðức Origen được
coi là một nguồn trích dẫn có thẩm quyền trong thế kỷ tiếp đó. Ðức
Origen chủ trương phải hiểu Kinh Thánh theo nghĩa biểu tượng – những
hình ảnh và câu truyện tượng trưng cho những chân lý sâu xa hơn và cao
cả hơn. Thời gian tương đối êm ả của thế kỷ thứ
ba đã giúp nhiều cộng đoàn Kitô Giáo được thành lập một cách dễ dàng và
vì thế rất lỏng lẻo. Vào năm 250, Hoàng Ðế Decius, vì sợ số Kitô Hữu
ngày càng gia tăng nên đã ra lệnh bách hại toàn thể Giáo Hội trong đế
quốc. Trước mặt đại diện nhà cầm quyền, Kitô Hữu nào từ chối không chịu
thờ cúng các thần ngoại giáo đều bị tử hình. Hàng ngàn Kitô Hữu vì sợ
chết nên đã chối bỏ đức tin, mặc dù cũng có một số sẵn sàng chịu tử đạo.
Ðược một năm, cũng như lúc khởi đầu, lệnh bách hại đột ngột chấm dứt,
và xảy ra cuộc tranh luận về vấn đề những người chối đạo có được tái gia
nhập Giáo Hội hay không. Ðức Giám Mục Cornelius của
Rôma và Ðức Giám Mục Cyprian của Carthage chủ trương rằng các giám mục
có thể thay quyền Thiên Chúa để tha tội, dù tội trọng, như chối bỏ đức
tin, qua sự đền tội khắt khe và lâu dài. Novatian, một linh mục của Rôma
bất đồng ý và đã đứng ra thành lập một giáo hội riêng gồm những người
đã trung thành với đức tin khi bị bách hại. Giáo Hội Công Giáo xác nhận
rằng cộng đồng dân Chúa bao gồm cả những kẻ tội lỗi chứ không chỉ những
người chưa bao giờ phạm tội trọng. Vấn đề này lại tái diễn sau cuộc bách
hại của Hoàng Ðế Diocletian từ năm 303 đến 311, mà trong đó các giám mục
và linh mục buộc phải giao nộp sách Phúc Âm và sách thiêng liêng để bị
thiêu hủy. Sau khi cuộc bách hại chấm dứt, một số Kitô Hữu ở Bắc Phi từ
chối không công nhận thẩm quyền của các giám mục và linh mục đã lẩn trốn
trong cuộc bách hại hoặc đã trao nộp sách thiêng liêng. Những Kitô Hữu
này thành lập một giáo hội riêng và lấy tên là Giáo Hội Ðônatô theo tên
của vị giám mục Donatus. Giáo hội này chỉ công nhận thẩm quyền của các
vị lãnh đạo đã không chịu trao nộp sách thiêng liêng. Một lần nữa, Giáo
Hội Công Giáo khẳng định rằng các người lãnh đạo đã vấp ngã vì “thử
thách” vẫn có thể tiếp tục hướng dẫn cộng đồng, vì quyền bính của họ
xuất phát từ chính Ðức Kitô. Ngay cả sự yếu đuối và tội lỗi cá nhân cũng
không thể làm mất đi sứ vụ mà Ðức Kitô đã giao phó cho họ qua bí tích
chức thánh. Một nguyên tắc quan trọng của Công Giáo
xuất phát từ biến cố này: thẩm quyền ban phát các bí tích, giảng dạy,
hay hướng dẫn Giáo Hội không tùy thuộc vào sự xứng đáng hay thánh thiện
của cá nhân thừa tác viên chức thánh. Ðức Giêsu tiếp tục hoạt động qua
trung gian của loài người và tha thứ cho sự yếu hèn của họ, để chứng tỏ
rằng sức mạnh của bí tích và chức thánh thì xuất phát từ Thiên Chúa, chứ
không bởi loài người. Cho đến thế kỷ thứ ba, có lẽ hình ảnh
đúng nhất về Giáo Hội là cái nhìn của Thánh Cyprian về một con tầu vĩ
đại, trong đó có cả kẻ tội lỗi cũng như các thánh và các vị tử đạo, tuy
nhiên ơn cứu độ trong thế giới ngoại giáo và điêu tàn chỉ có thể tìm
thấy nơi con tầu ấy. Thế Kỷ Thứ Tư: Ðế Quốc Kitô Giáo và Khủng Hoảng Arian Bất kể các cuộc bách
hại dữ dội của các hoàng đế Decius và Diocletian, vào năm 300 số Kitô
Hữu gia tăng khoảng năm triệu người trong tổng số 50 triệu của Ðế Quốc
La Mã. Vào năm 311, Hoàng Ðế Galerius chấm dứt cuộc bách hại lâu dài của
Diocletian. Tuy nhiên, một biến cố xảy ra vào năm tiếp đó đã thay đổi
vận mệnh của Giáo Hội Công Giáo và của nền văn minh Tây Phương. Hoàng Ðế La Mã của miền Tây (phía Tây
Ðịa Trung Hải) là Constantine nằm mơ thấy có người hiện ra, đảm bảo là
ông sẽ thắng trận nếu dùng dấu hiệu của Ðức Kitô bằng tiếng Hy Lạp, chữ Chi-Rho ().
Khi ra lệnh khắc dấu hiệu này trên khiên thuẫn của quân lính và ông đã
thắng lớn ở trận Milvian gần Rôma, ông cho rằng Thiên Chúa của người
Kitô đã giúp ông chiến thắng. Năm kế đó (313), với sự đồng ý của Hoàng
Ðế phương Ðông là Licinius, ông ban hành Chỉ Dụ Milan cho phép tự do tôn
giáo trên toàn Ðế Quốc La Mã. Kitô Giáo không còn là một tôn giáo bất
hợp pháp! Ðó mới chỉ là bước đầu. Vào năm 324, khi
Constantine trở thành hoàng đế độc nhất của đế quốc, ông bắt đầu tích
cực hỗ trợ Kitô Giáo và coi đó là mối giây kết hợp mới trong Ðế Quốc La
Mã thế cho việc thờ các thần của người La Mã. Constantine xây cất nhà
thờ; thiết đặt các luật lệ nhằm tôn trọng ngày Chúa Nhật, Lễ Giáng Sinh
và các ngày lễ Kitô Giáo khác; bảo vệ giáo sĩ Kitô Giáo; vân vân. Dù có
nhiều giả thuyết khác nhau về động lực cũng như chiều kích sâu xa của
việc Constantine trở lại Kitô Giáo, vào năm 313 ông tự xưng là một Kitô
Hữu và được rửa tội khi trên giường hấp hối vào năm 337. Kitô Hữu trên toàn đế quốc đã hân hoan
khi nghe Constantine trở lại đạo. Ðây là điều họ từng cầu xin và chờ đợi
hàng thế kỷ – một đế quốc Kitô Giáo. Tuy nhiên, không bao lâu Giáo Hội
thấy rằng đó không phải là một ơn sủng thuần tuý không có những sự xáo
trộn. Sự liên minh giữa Giáo Hội và quốc gia tạo nên nhiều căng thẳng,
như lịch sử trong thế kỷ thứ tư đã cho thấy. Một thí dụ là cuộc khủng hoảng Arian, là
sự thử thách lớn nhất mà Giáo Hội phải đương đầu lúc bấy giờ, và có lẽ
cả trong lịch sử Giáo Hội. Một linh mục tên Arius, ở Alexandria, Ai Cập,
chủ trương rằng Con Thiên Chúa (được thể hiện qua Ðức Giêsu Kitô) không
phải là Thiên Chúa mà là một tạo vật thượng đẳng của Thiên Chúa. Arius
hậu thuẫn cho các lý luận của mình qua một số văn bản trong Phúc Âm
(Gioan 14:28; Mc 13:32; 15:34; Mt 27:46), nhất là các đoạn nhấn mạnh đến
nhân tính của Ðức Giêsu. Ðiều ngạc nhiên là Arius đã thuyết phục được
một số giám mục Công Giáo. Khi các giám mục bắt đầu tranh luận về
giáo thuyết của Arius, Constantine coi đây là mối đe dọa cho sự hợp nhất
của đế quốc và ông quyết định can thiệp. Ông triệu tập tất cả các giám
mục trong “công đồng” đầu tiên ở Nicaea (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) năm 325. Các
giám mục quyết định rằng Arius thì sai lầm và các ngài phát triển một
công thức tuyên tín để làm sáng tỏ tín điều của Giáo Hội. Kinh tin kính
này đã dùng chữ Hy Lạp homoousios để chống lại Arius — nghĩa là,
Ðức Giêsu “đồng bản tính” hoặc “làm một” với Ðức Chúa Cha. Nói cách
khác, bất cứ Chúa Cha như thế nào thì Chúa Con cũng vậy; nếu Chúa Cha là
Thiên Chúa thì Chúa Con cũng là Thiên Chúa. Cuộc tranh luận lẽ ra phải chấm dứt ở
đây, nhưng đã không xảy ra như vậy. Hai trong ba vị giám mục sau này
quyết định rằng, Giáo Hội không thể dùng một chữ không có trong phúc âm (homoousios)
để giải quyết vấn đề, do đó họ quyết định là Arius đúng. Họ xoay sở để
thay đổi ý kiến của một vài vị giám mục khác và sau cùng tìm cách thuyết
phục vị tân hoàng đế. Tại đây bắt đầu một trang sử bất hạnh vì Nhà Nước
Rôma can thiệp vào Giáo Hội. Khi các giám mục phò-Arius vận động để vị
tân hoàng đế (và các hoàng đế tiếp đó) nghe theo ý kiến của mình, các
hoàng đế bắt đầu dùng áp lực chính trị đối với các giám mục hỗ trợ Kinh
Tin Kính Nicaea. Thật vậy, một số giám mục đã bị áp lực phải trục xuất
ra khỏi giáo phận của mình. Ðể tóm lược, sự khủng hoảng này đưa đến ba nhận định sau: 1. Thật nguy hiểm cho Giáo Hội khi để
nhà cầm quyền dân sự dính líu đến các vấn đề thần học và tín lý cũng như
vấn đề nội bộ Giáo Hội nói chung. 2. Sự xuất hiện của một số khuôn mặt vĩ đại, kiên trì bảo vệ chân lý. Trên tất cả làThánh Athanasius, đức giám mục của Alexandria, bị hoàng đế phe Arius lưu đầy năm lần vì ngài bảo vệ Công Ðồng Nicaea. 3. Nguyên tắc của Công Giáo là nếu cần
phải dùng một chữ không có trong phúc âm để xác định hoặc làm sáng tỏ
một chân lý, thì điều ấy hợp pháp. Người Công Giáo tin rằng, khi dẫn dắt
Giáo Hội, Chúa Thánh Thần không bị giới hạn trong Phúc Âm. Chân lý của
Thiên Chúa được lưu truyền qua truyền thống đích thực của Kitô Giáo –
qua công thức tuyên tín cũng như Phúc Âm. Danh từ homoousios là chữ duy nhất có thể bài bác lại Arius và xác nhận tín điều Kitô Giáo về thiên tính của Ðức Giêsu Kitô, là Con Thiên Chúa. Trong thời kỳ khủng hoảng, mọi sự có vẻ tiêu điều vì lạc giáo Arian. Năm 361, Thánh Giêrôme
viết, “Toàn thế giới bừng tỉnh và rên rỉ khi thấy mình thuộc phe
Arian.” Nhưng sau đó, cả một làn sóng đảo ngược tình hình. Sau hoạt động
bền bỉ của Ðức Athanasius ở Ai Cập, ba vị thần học lớn của Cappadocia
thuộc Tiểu Á đã xuất hiện để bảo vệ Kinh Tin Kính Nicene: Thánh Basil ở Caesarea, Thánh Grêgôriô ở Nyssa, và Thánh Grêgôgiô ở Nazianzus.
Văn bản và ảnh hưởng của các ngài đã thuyết phục được các giám mục còn
lưỡng lự hoặc chưa hỗ trợ lập trường của Công Ðồng Nicaea. Năm 381, Công
Ðồng Constantinople tái xác nhận Chúa Con thì “đồng bản tính” (homoousius)
với Chúa Cha, và công đồng còn thêm là Chúa Thánh Thần cũng là Thiên
Chúa như các Giáo Phụ Cappadocia đã lập luận. Kinh Tin Kính Nicaea mà
người Công Giáo ngày nay tuyên xưng trong Thánh Lễ Chúa Nhật thực sự đã
được các giám mục trong công đồng này tuyên xưng. Không may, sự tin
tưởng lầm lạc của phe Arian lan tràn đến các bộ lạc chung quanh Ðế Quốc
Rôma (như bộ lạc người Visigoth, người Ostrogoth, và người Vandal), là
những người đã quấy phá Giáo Hội Công Giáo trong thế kỷ tới khi họ chiếm
được khá nhiều lãnh thổ của Ðế Quốc Rôma. Việc chấm dứt bách hại người Kitô trong
Ðế Quốc Rôma cũng đưa đến kết quả là chấm dứt sự tử đạo. Trong thế kỷ
thứ tư một số anh hùng mới mẻ của đức tin xuất hiện: đó là các đan sĩ,
và cũng được gọi là Tu Phụ Sa Mạc. Họ đích thực là những người đáp lời
mời gọi của Ðức Giêsu để bán tất cả của cải, phân phát cho người nghèo,
và đi theo Người. Ðể noi gương Ðức Kitô qua đời sống hãm mình và cầu
nguyện, họ đi vào sa mạc hoặc hoang địa để sống cô độc với Thiên Chúa.
Chữ “đan sĩ” được dịch từ tiếng Latinh “monos” (đan độc). Khoảng năm 270, Antony,
một nông dân Ai Cập, đã đi vào sa mạc và mãi cho đến năm 305 ngài mới
về lại thành phố và trở nên một bậc thầy về linh đạo. Thánh Athanasius
đã lưu danh muôn thuở tên tuổi của Thánh Antony và giúp lan truyền phong
trào “đan viện” hoặc “ẩn tu” qua những bài viết về tiểu sử Thánh
Antony. Thánh Athanasius luôn luôn là người bạn chí thiết và nhiệt liệt
hỗ trợ các đan sĩ trong suốt cuộc đời ngài. Thánh Pachomius,
một người Ai Cập khác, đã thành lập một cộng đoàn khổ tu trong sa mạc
gần sông Nile và từ đó đã phát sinh một nếp sống đan viện mới. Hầu hết
các đan sĩ sau thời kỳ này đã sống gần nhau trong các làng thưa thớt
hoặc cùng sống chung với nhau qua những lúc cầu nguyện, thờ phượng và
làm việc. Họ dùng toàn thời gian còn lại để chiêm niệm, một số để làm
việc, và thường thường trong thinh lặng. Lối sống mới này của Kitô Giáo, phong
trào đan viện hay khổ tu, không phải là điều kỳ cục hoặc có vẻ mầu mè
của quá khứ. Nó lan rộng khắp Ðế Quốc La Mã và mau chóng thu hút được
nhiều người muốn theo Ðức Kitô, sống đời cầu nguyện và khước từ bản thân
trong một phương cách quyết liệt. Mặc dù ngày nay, một số người cho đó
là lối sống kỳ quặc hoặc một cách thoát khỏi thực tế, nhưng đó là một
chứng từ đối với những người thời ấy và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.
Ðời sống đan viện chứng minh rằng người Kitô không chỉ sống cho sự thành
công hoặc vui thú ở đời này nhưng còn để thờ phượng Thiên Chúa và chuẩn
bị cho sự sống đời sau. Thời gian ấy, các đan sĩ được Kitô Hữu kính
trọng như các vị tử đạo mới, các nhân chứng mới cho Ðức Kitô. Mặc dù các đan sĩ đi vào sa mạc để thoát
khỏi thế gian, một số được gọi trở lại để phục vụ với tư cách giám mục,
là các nhà lãnh đạo Giáo Hội. Các Giáo Phụ Cappadocia khởi sự là các
đan sĩ sau đó được chọn làm giám mục vì sự thánh thiện và tài lãnh đạo
của các ngài. Thật vậy, Thánh Basil ở Caesarea đã viết “quy luật” đầu
tiên cho các đan sĩ thuộc Giáo Hội Ðông Phương. Nhiều vị giám mục vĩ đại
của Ðông Phương và các giáo hoàng cũng như các giám mục Tây Phương (nói
tiếng Latinh) trong thế kỷ kế tiếp cũng đã xuất thân từ đan viện. Thánh Gioan Chrysostom
(354-407) vị thuyết giảng “kim khẩu” cũng khởi đầu là một đan sĩ, ngài
làm giám mục Constantinople cho đến khi bị hoàng đế đầy ải. Thánh Martin ở Tours
sáng lập một đan viện ở Gaul (Pháp) năm 371, và thường được coi là Viện
Phụ Tây Phương. Hai vị Giáo Phụ vĩ đại của Giáo Hội Tây Phương trong
thế kỷ thứ tư là Thánh Augustine
và Thánh Giêrôme cũng đã sống như các đan sĩ. Thánh Giêrôme, vị học giả
Kinh Thánh vĩ đại của thế giới nói tiếng Latinh, đã sống khổ hạnh một
thời gian khá lâu trong cái hang ở Bêlem. Thánh Augustine sống đời ẩn tu
cùng với một số bạn hữu sau khi ngài trở lại Kitô Giáo. Ngài trở lại
đạo là nhờ lời cầu nguyện của mẹ ngài là Thánh Mônica, và lời rao giảng của Thánh Ambrôsiô,
vị giám mục của Milan. Dù được tấn phong làm giám mục của Hippo, Bắc
Phi, Thánh Augustine vẫn sống như một đan sĩ và đã đặt ra quy tắc đan
viện cho các đan sĩ mà ngài sống chung với họ. Lối sống kỷ luật này đã
giúp Thánh Augustine, qua quyền năng của Thiên Chúa, trở nên một văn sĩ
có ảnh hưởng lớn trong lịch sử Giáo Hội. Ngài viết cuốn Tự Thú (Confessions),
những nhận định về Kinh Thánh, những văn bản chống với bè phái Donatist
và lạc giáo Pelagianis, các luận án thần học vĩ đại (như cuốn On The Trinity), và sau cùng những nhận định xác đáng về sự tương giao giữa Giáo Hội và trần thế, cuốn The City of God. Thế kỷ thứ tư là thế kỷ của sự khủng
hoảng cũng như sự vĩ đại cho Giáo Hội Công Giáo. Năm 381, Theodosius
tuyên bố Kitô Giáo là tôn giáo chính thức duy nhất của Ðế Quốc
Rôma và ông muốn chấm dứt ngoại giáo. Số người theo Kitô Giáo vút cao và
đưa đến vấn đề là nhiều người gia nhập Giáo Hội chỉ vì lợi ích chính
trị. Bây giờ, làm người Kitô thì dễ dàng và thoải mái hơn người ngoại
giáo, hoặc tín đồ của bất cứ tôn giáo nào khác. Ðiều này đưa đến một thử
thách mới cho Giáo Hội. Mặc dù bài vở giáo lý căn bản cho người tân
tòng đã được hình thành cách đầy đủ bởi các giám mục, như Thánh Cyril ở Giêrusalem, nhưng các bài giảng Chúa Nhật thường kéo dài từ ba đến bốn tiếng đồng hồ để dạy bảo làn sóng người tân tòng. Vào năm 343, Công Ðồng Sardica trao toàn
quyền của giáo hội Tây Phương cho vị giám mục Rôma là đức giáo hoàng,
và quyết định này được Hoàng Ðế Gratian xác nhận năm 378. Ðức Giáo Hoàng
Damasus tuyên bố rằng quyền bính của đức giáo hoàng thực sự không do
bởi một công đồng hay một hoàng đế nhưng bởi chính Thiên Chúa qua mệnh
lệnh của Người ban cho Thánh Phêrô (Mt 16:18). Ðể hỗ trợ cho thẩm quyền
của đức giáo hoàng, Thánh Ambrôsiô đồng ý rằng “Ngai tòa Phêrô ở đâu, thì Giáo Hội ở đó“. Thánh Giêrôme viết cho Ðức Giáo Hoàng Damasus:
Tôi không theo bất cứ nhà
lãnh đạo nào khác ngoại trừ Ðức Kitô, và do đó tôi vẫn muốn hiệp thông
với ngài trong Giáo Hội, đó là, với ngai toà Thánh Phêrô. Tôi biết, Giáo
Hội được thành lập trên tảng đá này.
Mặc dù trong thế kỷ này, đức giám mục
của Constantinople ngày càng gia tăng thẩm quyền và được coi như các
“thượng phụ” (hoặc trưởng giám mục) của Ðông Phương hay các giáo hội nói
tiếng Hy Lạp, nhưng không một quyết định nào có thể ràng buộc Giáo Hội
Công Giáo mà không có sự chấp thuận của giám mục Rôma. Nhưng chúng ta sẽ thấy, sự can trường và
thẩm quyền của đức giáo hoàng và các giám mục sẽ bị thử thách nặng nề
trong thế kỷ thứ năm bởi các tranh luận về thần học và bởi Ðế Quốc Rôma
bị xâm lăng.
Thế Kỷ Thứ Năm: Vấn Ðề Ðức Tin và Những Liên Kết Mới Về Chính Trị
Thế kỷ thứ
năm bắt đầu bằng sự chia cách thực sự giữa các đế quốc của Ðông Phương
(nói tiếng Hy Lạp) và Tây Phương (nói tiếng Latinh). Chúng ta có thể
nhắc lại lịch sử của mỗi miền một cách riêng biệt. Vào năm 410, Tây
Phương bị rúng động bởi hành động xâm lấn của bộ lạc người Visigoth. Dần
dà, các bộ lạc khác như Vandal và Hun cũng đã xâm lấn các phần đất của
Ðế Quốc Tây Phương, cho đến khi họ hoàn toàn kiểm soát Tây Phương vào
năm 476. Khi thế lực chính trị của Rôma tan rã, đức giáo hoàng và các
giám mục bắt đầu phải dẫn dắt và bảo vệ dân Chúa về phương diện vật chất
cũng như tinh thần. Có lẽ vị lãnh đạo Giáo Hội can đảm nhất là Ðức Lêô
I, là giáo hoàng từ 440 đến 461, ngài đã can gián Attila người Hun đừng
xâm lăng Rôma, và đã thuyết phục Geneseric người Vandal dù cướp bóc Rôma
nhưng đừng tàn phá thành phố này. Vào thế kỷ thứ sáu và thứ bảy, “điểm
vui mừng” là Kitô Hữu bắt đầu tìm cách đưa những người theo lạc giáo
Arian trở về với Công Giáo. Giáo Hội thường “chiến thắng những kẻ chinh
phục” theo phương cách này – đó là sự hoán cải. Sự thử thách về phương diện thần học của
Giáo Hội Tây Phương trong thời gian này là ảnh hưởng của phe Pelagius.
Pelagius là một đan sĩ người Anh cho rằng bản tính loài người không bị
hư hỏng bởi tội nguyên tổ. Do đó, người ta không cần ơn Chúa để xa lánh
tội lỗi nhưng chỉ cần sống tốt lành, như Ðức Giêsu. Giáo Hội Tây Phương
nhận định rằng Pelagius đã sai lầm, vì nếu như thế ơn cứu độ sẽ tùy
thuộc vào công sức của loài người chứ không phải là ơn sủng của Thiên
Chúa. Một số thần học gia nghĩ rằng, Thánh Augustine đã đi quá xa khi
bài bác Pelagius, khi ngài cho rằng mọi sự đều nhờ đến ơn Chúa và công
phúc của loài người chỉ có giá trị rất nhỏ. Công Ðồng Orange năm 529 đưa
ra quyết định dựa trên quan điểm của Thánh Augustine, nhấn mạnh đến sự
tuyệt đối cần thiết của ơn Chúa để có thể thi hành điều lành, nhưng cũng
công nhận rằng cần có sự cộng tác của loài người trong việc chấp nhận
ơn sủng của Thiên Chúa. Trong Ðế Quốc Ðông Phương, tình hình
chính trị ổn định hơn đã đem lại cơ hội cho các giám mục và thần học gia
chú trọng đến các vấn đề thần học. Trước hết, đức giám mục của
Constantinople là Nestorius cho rằng không thể gọi Ðức Maria làtheotokos,
nghĩa là Mẹ Thiên Chúa. Nestorius là một phần tử của nhóm thần học được
gọi là trường phái Antiôkia, nhóm này không muốn bị mơ hồ giữa thiên
tính và nhân tính. Gọi Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa sẽ đưa đến sự lẫn lộn
giữa Thiên Chúa và loài người, vì Ðức Maria không thể sinh ra Thiên
Chúa. Tuy nhiên, một nhóm khác được gọi là trường phái Alexandria, do Thánh Cyril
là giám mục của Alexandria đứng đầu, lại không thấy có gì trở ngại khi
gọi Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa, vì câu xưng tụng đó đã bảo vệ được tính cách hiệp nhất của
thiên tính và nhân tính Ðức Giêsu. Vấn đề này được giải quyết vào năm
431 bởi Công Ðồng Êphêsô, trong đó các giám mục tuyên bố là Nestorius
sai lầm và xác nhận truyền thống lâu đời của Kitô Hữu khi cầu xin với
Ðức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Ðiều này có nghĩa Ðức Maria là mẹ của Thiên
Chúa trong bản tính loài người, người mẹ của “Thiên Chúa làm người”, chứ không phải mẹ của Ðức Giêsu về bản tính Thiên Chúa. Cuộc tranh luận về bản tính của Ðức Kitô
đã nẩy sinh một cuộc tranh luận khác vào giữa thế kỷ. Không kể đến sự
kèn cựa có tính cách chính trị ở hậu trường giữa đức thượng phụ
Constantinople và đức thượng phụ Alexandria, còn có vấn đề thần học
nghiêm trọng về bản tính Ðức Giêsu, vấn đề Người chỉ có một bản tính là
thiên tính hoặc có hai bản tính tách biệt nhau gồm thiên tính và nhân
tính. Sau cùng, vấn đề được giải quyết trong Công Ðồng Chalcedon năm 451
mà trong đó các giám mục đã tổng hợp và quân bình những điều tin tưởng
chính đáng của hai trường phái Antiôkia và Alexandria. Công đồng tuyên
bố rằng Ðức Giêsu có hai bản tính, thiên tính và nhân tính, cùng hợp với
nhau “một cách không mơ hồ hoặc biến đổi, không phân chia hoặc tách
biệt” để hình thành một con người trọn vẹn của Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể. Yếu tố then chốt để giải quyết vấn đề là
lá thư của Ðức Giáo Hoàng Lêô I mà trong thư ấy, ngài đã tiên đoán đúng
để đưa ra những hướng dẫn cho các giám mục Ðông Phương trong Công Ðồng
Chalcedon. Công đồng này đem lại nhận thức căn bản về bản tính của Ðức
Giêsu Kitô mà vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Nhưng không may, vấn đề không chấm dứt ở
đây. Như đã xảy ra sau Công Ðồng Nicaea năm 325, một số Kitô Hữu ở Ðông
Phương tẩy chay quyết định của Công Ðồng Chalcedon năm 451 và họ tiếp
tục tin rằng Ðức Giêsu Kitô chỉ có một bản tính (monophysis), là
bản tính Thiên Chúa. Những người này mệnh danh là Monophysite và tự tách
rời thành lập giáo hội riêng ở Ðông Phương. Một số (có thể nói hầu hết)
các thần học gia sáng giá của Ðông Phương trong thế kỷ thứ năm và thứ
sáu đều thuộc Monophysite. Ngay cả các thủ đoạn chính trị của các hoàng
đế Ðông Phương như Justinian cũng không thể tiêu diệt hoặc khuất phục
được người Monophysite. Trong thế kỷ thứ năm và thứ sáu, có sự
phát triển mạnh mẽ về tư tưởng và quan niệm thần học trong Ðế Quốc Ðông
Phương. Thần học này, thường được gọi là Byzantine, được phong phú hoá
bởi tư duy triết Hy Lạp, kể cả lý luận của Aristotle. Thần học Byzantine
không chỉ trích dẫn trong Phúc Âm mà còn dùng đến các văn bản của các
Giáo Phụ Ðông Phương (ngay cả Ðức Cyril) như các nguồn trích dẫn có thẩm
quyền. Ở Ðông Phương, không có sự cách biệt lớn lao giữa giáo sĩ và
giáo dân hoặc Giáo Hội và nhà nước. Các hoàng đế như Justinian tự coi
mình là thần học gia và cảm thấy có trách nhiệm dẫn dắt Giáo Hội, ngay
cả việc sử dụng đến quyền bổ nhiệm hoặc truất phế các giám mục. Vào thời
kỳ này, ở Ðông Phương có sự liên minh chặt chẽ giữa Giáo Hội và nhà
nước cho đến khi có sự xâm lăng của người Hồi Giáo. Kitô Hữu Ðông Phương cũng phát triển một
cách thờ phượng phong phú và đầy ý nghĩa, được kéo dài cho đến ngày
nay. Họ nhấn mạnh đến tính cách linh thiêng của các mầu nhiệm đức tin,
các nghi thức và phụng vụ của họ thật huy hoàng và nhiều cảm xúc. Họ
thành lập nghi thức phụng vụ riêng, tỉ như Phụng Vụ Thánh Gioan
Chrysostom mà càng ngày càng tách biệt với các phụng vụ Latinh của Tây
Phương. Giáo Hội Ðông Phương cũng nhấn mạnh đến việc sùng kính Ðức Maria
và các thánh. Thế Kỷ Thứ Sáu: Chấm Dứt Một Kỷ Nguyên và Mở Ðầu Kỷ Nguyên Mới Một giai
đoạn lớn lao trong việc học hỏi thần học và linh đạo được gọi là Thời
Các Giáo Phụ đi đến kết thúc vào thế kỷ thứ sáu. Tây Phương thì đủ bận
rộn với vấn đề sống còn khi phải đương đầu với sự xâm lăng của các bộ
lạc từ phương bắc, phương đông, và phương nam. Ðế Quốc Ðông Phương, trước đây từng ổn
định, bây giờ bắt đầu bị đe dọa bởi sự tấn công của người Hồi Giáo, mà
sau đó đã bị tràn ngập. Ðế Quốc Tây Phương dưới sự kiểm soát của những
bộ lạc theo Arian bắt đầu hoán cải những người này trở lại Kitô Giáo, và
lần lượt từng vương quốc ở Tây Phương sụp đổ (người Burgundy năm 532;
người Vandals năm 533; người Ostrogoth năm 553). Trong khi đó, Clovis,
vua người Frank, đã trở lại Kitô Giáo năm 496 và mạnh mẽ hỗ trợ Giáo
Hội. Năm 529, Thánh Benedicto (Biển Ðức)
thành lập một đan viện ở Cassino nước Ý mà không bao lâu đã thay đổi cả
bộ mặt Âu Châu. Dựa trên một chính sách lành mạnh “vừa làm vừa cầu
nguyện” và chủ trương các đan sĩ chỉ ở một nơi, các đan viện của Thánh
Biển Ðức trở nên trung tâm duy trì các nền văn hóa Tây Phương và La Mã,
đồng thời cũng là nơi truyền bá Phúc Âm. Dưới thời Ðức Giáo Hoàng
Grêgôriô I (Cả), các đan sĩ Biển Ðức là một sức mạnh truyền giáo đáng
kể. Tuy nhiên, trước thời các đan sĩ Biển Ðức, Thánh Patrick đã đem tin mừng đến Ái Nhĩ Lan (461) và thành lập các đan viện khổ tu giống như các đan viện của Thánh Pachomius ở Ai Cập. Thánh Columba,
một đan sĩ Ái Nhĩ Lan, thành lập một đan viện ở Iona, Tô Cách Lan năm
563. Nhờ đó, các bán đảo người Anh bắt đầu biết đến Kitô Giáo. Và lịch
sử Giáo Hội bước sang một giai đoạn mới, thời Trung Cổ. II. Giáo Hội Thời Trung Cổ (600-1300) Giai đoạn
bảy trăm năm này của lịch sử Kitô Giáo được ghi dấu bằng sự hoán cải của
các dân tộc và các bộ lạc. Ðó cũng là thời kỳ xáo trộn chính trị, và
các xung đột xảy ra là để xác định mối tương giao đúng đắn giữa Giáo Hội
và nhà nước. Ở Tây Phương, điều này đưa đến sự xuất hiện “thế giới Kitô
Giáo,” sự liên minh giữa Giáo Hội và nhà nước. Thế giới Kitô Giáo đem
lại nhiều kết quả nhưng cũng tạo nên sự căng thẳng liên tục giữa các
giáo hoàng và hoàng đế, giữa các vị lãnh đạo Giáo Hội và nhà nước. Ngoài
ra còn có sự căng thẳng giữa Giáo Hội Công Giáo La Mã của Tây Phương và
Giáo Hội Chính Thống Giáo Thánh Thiện của Ðông Phương. Các lạc giáo và
sự xuyên tạc đức tin Kitô Giáo chân chính bắt đầu xuất hiện. Cũng có những tiến bộ đáng kể trong Kitô
Giáo thời Trung Cổ. Một số các học giả cũng như thánh nhân Kitô Giáo
xuất hiện, và văn hóa Kitô Giáo đạt đến tầm mức mới trong lãnh vực nghệ
thuật, văn chương, kiến trúc, và thần học. Các dòng tu mới cũng phát
triển, đem lại đời sống mới cho Giáo Hội, và các đan viện cũ được canh
tân. Trong thời kỳ này, có lúc tưởng như Kitô Giáo đang trên bờ vực
thẳm, nhưng ơn Chúa mạnh mẽ hơn bất cứ tình thế nào đã giúp Giáo Hội
vượt qua giai đoạn đầy hiểm họa và chúc lành cho Giáo Hội với sự chiến
thắng và sự phát triển. Các thế lực chính trị đã ngăn chặn công cuộc
truyền giáo phát triển ra ngoài ranh giới của Âu Châu và Byzantine (khu
vực phía đông của Ðịa Trung Hải), nhưng đó là thời gian để biến Âu Châu
thành một lục địa Kitô Giáo và để duy trì đức tin ở Ðông Phương trước sự
tràn lan của Hồi Giáo. Thế Kỷ Thứ Bảy Sự sụp đổ của Ðế Quốc Rôma cũ đã không làm nản lòng Thánh Grêgôriô Cả,
vị giáo hoàng từ 590 đến 604, là người đặt nền tảng cho Giáo Hội ở Tây
Âu trong thời Trung Cổ. Khi các nhà cầm quyền thế tục thất bại, Ðức Giáo
Hoàng Grêgôriô đã nắm quyền kiểm soát miền trung nước Ý và đã cứu Rôma
thoát khỏi nhiều cuộc xâm lấn của giặc Lombard. Ngài gửi các đại diện
đến các giáo hội Tây Phương để khuyến khích và kiên cường họ trung thành
với đức giáo hoàng. Các văn bản về thần học và linh đạo của ngài đã
hướng dẫn tư duy thời Trung Cổ. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô I đã đích thân
sai một đan sĩ Biển Ðức, Thánh Augustine,
đến hoán cải người Angle và người Saxon ở Anh Quốc. Không bao lâu, vua
Aethelbert của xứ Kent đã rửa tội, và Thánh Augustine được đặt làm giám
mục của Canterbury. Các đan sĩ Ái Nhĩ Lan hoặc Celtic (Xen-tơ), do các
thánh Adian và Cuthbert hướng dẫn, đã giúp hoán cải toàn thể nước Anh.
Không bao lâu, Anh Quốc đã gửi các nhà truyền giáo đi khắp Âu Châu, tỉ
như một đan sĩ Dòng Biển Ðức là Willebrord, nổi tiếng là vị Tông Ðồ cho
người Hòa Lan đã được đặt làm giám mục cho phần đất này vào năm 695. Trong Kitô Giáo Ðông Phương, công đồng
thứ sáu được triệu tập ở Constantinople từ 680 đến 681 (Công Ðồng
Constantinople III). Các giám mục lên án điều tin tưởng sai lạc là Ðức
Giêsu chỉ có một ý chí, là ý chí Thiên Chúa, do lạc giáo Monotheletism
chủ xướng. Nếu Ðức Giêsu có hai bản tính, thiên tính và nhân tính, thì
Người cũng phải có hai ý chí — thiên ý và nhân ý. Về phương diện chính trị, Hồi Giáo là
đám mây đen ở chân trời. Mohammed từ trần năm 632, và các tín đồ của ông
ngày càng gia tăng thế lực về quân sự và đe dọa xâm lăng Âu Châu. Chỉ
sau khi họ bại trận trong các cuộc chiến chống với lực lượng Kitô Giáo
Ðông Phương ở Constantinople từ 674 đến 678, và từ 717 đến 718, và ở mặt
trận Tours năm 732, lúc ấy Âu Châu mới thoát khỏi sự chinh phục của các
lực lượng Hồi Giáo. Thế Kỷ Thứ Tám Việc hoán cải các bộ lạc ở Âu Châu tiếp tục trong thế kỷ thứ tám dưới sự lãnh đạo của đan sĩ người Anh Dòng Bênêđíctô, là Thánh Boniface,
vị Tông Ðồ của Ðức; ngài truyền giáo từ 723 đến 739. Thánh Boniface là
một trong hàng trăm đan sĩ Bênêđíctô đã sống chết trong việc thiết lập
đức tin Công Giáo ở Âu Châu, dưới sự dẫn dắt của đức giáo hoàng. Với sự tiếp tay của Thánh Boniface, đức
giáo hoàng liên minh với các vua của người Frank ở xứ Gaul (bây giờ là
nước Pháp), khởi đầu từ Vua Pepin (hoặc Pippin). Năm 754, Ðức Giáo Hoàng
Stêphanô II xức dầu tấn phong Pepin và ban tặng cho ông danh hiệu Quý
Tộc Rôma, là một danh hiệu nguyên thủy chỉ ban tặng cho các hoàng đế La
Mã. Ðiều này tạo nên sự trung kiên giữa đức giáo hoàng và các vua người
Frank, mà tột đỉnh của mối giao hảo là lễ đăng quang của Charlemagne,
con của Pepin, ở Rôma năm 800. Sự tương giao giữa các giáo hoàng và
Charlemagne được triển nở trong nhiều năm. Hậu quả không may của liên
minh này là sự xa cách của Giáo Hội Ðông Phương, vì giáo hội này vẫn
trung thành với hoàng đế Byzantine ở Constantinople, là người mà họ coi
là hoàng đế đích thực của Rôma. Mối tương giao giữa các giáo hội Ðông
Phương và Tây Phương lại càng thêm rạn nứt khi Charlemagne, vì bất đồng
với một quyết định của Công Ðồng Nicaea II của Giáo Hội Ðông Phương
(787), mà ông đã đem quân giành lại phần đất mà hoàng đế Byzantine cho
là của họ, và ông còn ép buộc Giáo Hội Ðông Phương phải thêm chữ filioque vào Kinh Tin Kính Nicaea. Nguyên thủy, kinh Tin Kính tuyên bố rằng Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha (Gioan
15:26); bản kinh của Tây Phương mà Charlemagne tán thành (và người Công
Giáo Rôma ngày nay sử dụng) tuyên xưng rằng Chúa Thánh Thần xuất phát
từ Chúa Cha và Chúa Con (filioque). Ðiều này cho thấy
khuyết điểm của sự liên minh chặt chẽ giữa Giáo Hội và nhà nước.
Charlemagne là người cực lực bảo vệ Giáo Hội và giúp phát triển đức tin
cũng như Giáo Hội Công Giáo; tuy nhiên, ông cũng muốn kiểm soát Giáo Hội
và có những quyết định về thần học. Có lần, ông viết thư cho đức giáo
hoàng nói rằng công việc của đức giáo hoàng là cầu nguyện cho Giáo Hội,
còn công việc của ông, một hoàng đế, là cai quản Giáo Hội. Trên nguyên
tắc, có sự phân biệt giữa thế quyền và thần quyền, nhưng trong thực tế,
có những hoàng đế hoặc vua quan muốn nắm cả thần quyền, và cũng có các
giáo hoàng muốn kiểm soát cả vấn đề chính trị và thế gian. Nhiều khi vua
quan và các nhà cai trị thế tục muốn có quyền tuyển chọn và tấn phong
linh mục và giám mục mà không cần hội ý của đức giáo hoàng hay các giám
mục khác. Thói quen này, được gọi là giáo dân tấn phong giáo sĩ (lay investiture),
là một trong những bất hòa lớn giữa các giáo hoàng và nhà cầm quyền
thời Trung Cổ. Muốn được an toàn vì có hoàng đế hay vua là người theo
Kitô Giáo thì phải chịu sự can thiệp của họ vào nội bộ Giáo Hội. Phương cách mở rộng Kitô Giáo của
Charlemagne là đem quân đi chinh phục lãnh thổ, rồi sau đó ông bắt người
dân bị trị phải lựa chọn việc rửa tội “bằng nước hay bằng máu.” Ðây là
thời kỳ khắc nghiệt khi biết bao người không được học hỏi về đạo mà theo
đạo chỉ vì sợ nhà cầm quyền. Ðạo Công Giáo trở nên đạo xu thời, trong
đó người dân được rửa tội hàng loạt với hy vọng sau này họ sẽ được học
hỏi thêm về đức tin Kitô Giáo. Giáo Hội sợ bị rơi vào tình trạng ngoại
giáo. Ðể duy trì nền văn minh và giáo dục đức
tin các tân tòng, người ta trông đợi ở các đan viện. Chính Charlemagne
cũng cố gắng làm sống lại tinh thần học hỏi bằng cách tụ họp các học giả
ngay trong dinh của ông — đứng đầu bởi một đan sĩ người Anh có học
thức, tên Alcuin — và ông ra lệnh mỗi giám mục phải mở một trường học
trong khuôn viên thánh đường của mình. Ðiều đó có ảnh hưởng đôi chút,
nhưng sau khi Charlemagne từ trần và Ðế Quốc Carolingian bị chia cắt,
tinh thần học hỏi tàn dần. Ngoại trừ các đan viện, Âu Châu chìm vào thời
kỳ tăm tối của kiến thức và tâm linh. Khi Kitô Hữu Ðông Phương chống với các
lực lượng Hồi Giáo, họ cũng phải trải qua sự khủng hoảng thần học trong
thế kỷ thứ tám. Vào năm 730, hoàng đế Byzantine là Lêô III, ban hành một
sắc lệnh cấm Kitô Hữu không được sùng kính ảnh tượng, dù là ảnh Ðức
Kitô hay các thánh. Mặc dù đây là phần quan trọng trong đời sống tâm
linh của Kitô Hữu Ðông Phương, vua Leo III thấy việc “thờ ảnh tượng” đã
bị cấm chỉ trong Phúc Âm, do đó ông ra lệnh phá hủy tất cả các ảnh
tượng. Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô III và nhiều Kitô Hữu Ðông Phương phản
đối điều này, nhưng phải đợi đến khi Hoàng Hậu Irene triệu tập Công Ðồng
Nicaea II (là công đồng thứ bảy) năm 787 thì việc sùng kính ảnh tượng
mới được cho phép. Công đồng này phân biệt giữa sự sùng kính ảnh tượng thánh và sự thờ phượng,
chỉ dành cho một mình Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo Rôma luôn luôn
đồng ý với điều này, và thường dùng các hình ảnh, tranh vẽ, kính mầu,
tượng điêu khắc để dạy bảo và nhắc nhở giáo dân về các chân lý đức tin.
Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô từng viết, “Hình ảnh là sách của giáo dân,” vì
đa số dân chúng thời ấy không có học. Thế Kỷ Thứ Chín Ngay từ
đầu thế kỷ thứ chín dường như đã có nhiều triển vọng cho Kitô Giáo Tây
Phương. Charlemagne áp đặt đức tin trên các người bị đô hộ ở miền bắc và
miền trung Âu Châu, dần dà dân chúng yêu quý Kitô Giáo và từ bỏ những
hủ tục của quá khứ ngoại giáo. Các giáo hoàng cũng gia tăng ảnh hưởng,
và sau khi Charlemagne từ trần, con của ông là Louis de Pious, công bố
rằng quyền bính của vua thì tùy thuộc đức giáo hoàng. Con của Louis là
Lothar được tấn phong ở Rôma năm 823, và sau đó tất cả các nhà cầm quyền
của Ðế Quốc La Mã Thánh Thiện đều được tấn phong ở Rôma. Ðức Giáo Hoàng
Nicôla I (858-67), vị giáo hoàng thế lực nhất thế kỷ, tuyên bố rằng
nhiệm vụ của hoàng đế là bảo vệ Giáo Hội Công Giáo Rôma chứ không phải
cai trị giáo hội. Không may, thế lực của hoàng đế suy yếu dần vì các khó
khăn nội bộ và vì sự xâm lăng của người Viking từ phương bắc, người
Hungari từ phương đông, và người Hồi Giáo Saracen từ phương nam. Sự hiệp
nhất và nền hòa bình của đế quốc rộng lớn mà Ðại Ðế Charles khổ công
xây dựng đã bắt đầu tan rã, và Âu Châu đắm chìm trong thời kỳ phong kiến
— lục địa bị phân chia thành các nước nhỏ bé tranh giành nhau để sống
còn và chém giết lẫn nhau. Sự suy tàn của Ðế Quốc Tây Phương kéo
theo sự tàn tạ của Giáo Hội Tây Phương. Sau Ðức Nicôla I, không còn giáo
hoàng nào đủ mạnh để dẫn dắt Giáo Hội trong tình thế này. Trong khoảng
thời gian từ 858 đến 879, cuộc ly giáo, hay cắt đứt quan hệ, đã xảy ra
giữa các giáo hoàng và các thượng phụ của Constantinople. Lý do là vì
một tham vọng đất đai của Ðức Giáo Hoàng Nicôla I và sau đó Ðức Thượng
Phụ Photius cáo buộc rằng Giáo Hội Công Giáo Rôma không phải là giáo hội
chính thống vì dùng chữ filioque trong kinh Tin Kính, vì duy trì
tín điều về luyện ngục, và các cáo buộc sai lầm khác. May mắn thay, Ðức
Photius đã rút lại các cáo buộc này; ngài đã hòa giải với vị tân giáo
hoàng, và trong thế kỷ thứ mười, đã có sự bình an tương đối giữa hai
Giáo Hội Tây Phương và Ðông Phương. Tuy nhiên, các vấn đề căn bản không
bao giờ được giải quyết, và cuộc đại ly giáo giữa Ðông và Tây bắt đầu
vào năm 1054 là hậu quả buồn thảm của thế kỷ này. Vào cuối thế kỷ thứ chín, Hồi Giáo bắt
đầu đàn áp Giáo Hội Ðông Phương, và sự bất ổn chính trị cũng như sự nhu
nhược của các giáo hoàng đã bóp nghẹt Giáo Hội Tây Phương. Giáo sĩ bị
kiểm soát bởi nhà cầm quyền thế tục và rơi vào tình trạng thất học cũng
như không trung thành với lời thề sống độc thân. Hầu hết các đan viện
cũng mất tinh thần đạo đức, trở nên thối nát và xu thời. Sự suy sụp của
xã hội Tây Phương và sự tàn tạ của Giáo Hội xảy ra song song, vì cả hai
liên hệ với nhau trong quá nhiều lãnh vực. Tuy nhiên, ngay cả lúc đầy khuyết điểm, Thiên Chúa vẫn tiếp tục hoạt động trong Giáo Hội. Vào cuối thế kỷ thứ chín, hai đan sĩ, Methodius và Cyril,
bắt đầu công cuộc truyền giáo cho người Khazar và người Slav ở Ðông Âu.
Không những các ngài đem lại đức tin Kitô Giáo cho người dân mà Thánh
Cyril còn sáng tác mẫu tự Slavonic để đem lại cho dân tộc này một ngôn
ngữ mới và là một phương tiện mới cho nền văn hóa của họ. Thế Kỷ Thứ Mười Một sự
thật đáng tiếc là đôi khi tình trạng tinh thần của Giáo Hội cũng không
khác gì hơn tình trạng tinh thần của xã hội nói chung. Ðiều này rất đúng
với thế kỷ thứ mười. Trong sáu mươi năm đầu, chức giáo hoàng bị kiểm
soát bởi các nhà quý tộc Rôma, là những người không xứng đáng với chức
vụ cao trọng này. Tệ hại nhất trong tất cả, Ðức Giáo Hoàng Gioan XII
(955-64) quá thối nát đến độ Thiên Chúa phải giải thoát Giáo Hội Công
Giáo của Người qua tay nhà cầm quyền thế tục, là Otto I (Ðại Ðế), là
Hoàng Ðế Rôma Thánh Thiện đầu tiên của nước Ðức. Otto và các người kế vị
muốn dùng Giáo Hội Công Giáo như một công cụ giúp phục hồi trật tự
trong đế quốc. Phương cách “giáo dân tấn phong giáo sĩ”
— các hoàng đế lựa chọn các giám mục và ngay cả các giáo hoàng — là một
trong những phương cách chính để kiểm soát Giáo Hội. Nhờ lòng thương
xót của Thiên Chúa, các giáo hoàng được tuyển chọn bởi các hoàng đế Ðức
lại là những người có phẩm hạnh cao, nhất là Ðức Giáo Hoàng Sylvester II
(999-1003). Kết quả là Giáo Hội Tây Phương bắt đầu hồi sinh. Yếu tố then chốt trong sự canh tân Giáo
Hội vào thời điểm này là sự canh tân đời sống đan viện, được khởi sự
bằng việc sáng lập một đan viện mới, tên Cluny ở Pháp vào năm 910. Ðan
viện này thuộc dòng Bênêđíctô đặt riêng một số đan sĩ chỉ để cầu nguyện,
và mọi người phải giữ im lặng, ngoại trừ khi đọc kinh Nhật Tụng. Các
đan sĩ tự bầu lấy đan viện trưởng và chỉ chịu trách nhiệm với đức giáo
hoàng, bởi đó không có sự kiểm soát của giáo dân. Tổ chức đan viện này
quá hữu hiệu đến độ nhiều giám mục và thái tử đã mời đan viện Cluny
thành lập các chi nhánh trong các giáo phận của họ (ở Hòa Lan, Ý, Tây
Ban Nha, Anh và Ðức). Hệ thống dòng tu đầu tiên được bắt đầu, và vào năm
1100 đã có đến 1,500 chi nhánh. Sự canh tân của đan viện Cluny đưa đến
sự cải tổ của các đan viện khác cũng như việc thành lập các hệ thống đan
viện mới, tỉ như Dòng Camaldolese của Thánh Rômuanđô và Dòng Carthusian của Thánh Brunô.
Ngọn lửa thánh thiện này đã canh tân Giáo Hội Công Giáo trong thế kỷ
mười một khi các đan sĩ được mời làm giám mục trông coi các địa phận
đang sẵn sàng cải tổ. Các chi nhánh của Cluny, do chính đức giáo hoàng
điều khiển, trở nên một phương cách để đức giáo hoàng phục hồi tinh thần
và quyền bính. Các vị giáo hoàng vĩ đại của hai thế kỷ tới — Ðức
Grêgôriô VII, Ðức Urbanô II, và Ðức Paschal II — trước đây đều là các
đan sĩ của Cluny. Thế Kỷ Mười Một Các hoàng
đế Ðức của Ðế Quốc Otto tiếp tục kiểm soát Giáo Hội Tây Phương trong thế
kỷ mười một, nhưng việc đề cử các giáo hoàng tương lai cũng như sự hỗ
trợ của họ đã có một ảnh hưởng bất ngờ. Các giáo hoàng và các hồng y bắt
đầu nhận thức rằng, chủ quyền đất đai cũng như việc tuyển chọn các giáo
hoàng và giám mục của các hoàng đế và nhà cầm quyền thế tục là một vi
phạm đến sự tự do của Giáo Hội. Các ngài tin rằng ngay cả các hoàng đế
cũng phải phục tùng quyền bính thiêng liêng của phẩm trật Công Giáo. Ðiều này rất đúng trên lý thuyết, nhưng
không một giáo hoàng nào đủ mạnh và can đảm để đem ra thực hành, mãi cho
đến năm 1073, khi Ðức Hồng Y Hildebrand được chọn làm giáo hoàng, lấy
tên là Grêgôriô VII. Với tính khí nóng nẩy và niềm tin của một ngôn sứ
thời Cựu Ước, trong sắc lệnh nổi tiếng của ngài (Dictatus papae,
1075), Ðức Grêgôriô tuyên bố: đức giáo hoàng đã được Ðức Kitô ban cho
quyền tối cao qua Thánh Phêrô. Ðức giáo hoàng có quyền tổng quát trong
Giáo Hội và cũng có quyền truất phế các hoàng đế, hoặc thay đổi các luật
lệ nào mâu thuẫn với luật lệ của Thiên Chúa hay quyền bính của Giáo
Hội. Nhất là, Ðức Grêgôriô đã dùng thẩm quyền của ngài để cải tổ Giáo
Hội Công Giáo, mà lúc bấy giờ rất cần canh tân ở mọi tầng lớp. Ðức
Grêgôriô VII chứng tỏ rằng, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, một giáo
hoàng có thể canh tân Giáo Hội Công Giáo. Ngài nhấn mạnh rằng các linh
mục phải trung thành với lời khấn độc thân và tẩy chay mọi hình thức
buôn thần bán thánh, nhận tiền bạc để thi hành mục vụ. Khi các nhà cầm
quyền và các giám mục, vì quyền lợi riêng tư, do dự thi hành sắc lệnh
này, Ðức Grêgôriô đã gửi các đại diện của ngài đến tận nơi, sẵn sàng ra
vạ tuyệt thông những ai từ chối không chịu cải tổ. Quyền bính của Ðức
Grêgôriô VII được tỏ rõ khi ngài ra vạ tuyệt thông Hoàng Ðế Rôma Thánh
Thiện là Henry IV vì không tán thành sự canh tân của Giáo Hội. Henry đã
phải quỳ trên tuyết ở Canossa để xin đức giáo hoàng tha thứ, và đã được
ban cho. Thật trớ trêu, việc tha thứ Henry IV đã làm các thái tử Ðức xa
lánh, và dẫn đến việc lưu đầy của Ðức Grêgôriô và cái chết của ngài năm
1085. Từ nơi lưu đầy, Ðức Grêgôriô viết:
Kể từ khi Giáo Hội đặt tôi
lên ngai tông đồ, tất cả những gì tôi mong muốn cũng như cùng đích mọi
cố gắng của tôi là Giáo Hội Thánh Thiện… phải phục hồi vinh dự và được
tự do, trong sạch và Công Giáo.
Công việc của Ðức Grêgôriô VII, được sự
hỗ trợ của các đan viện, đã đẩy mạnh sự canh tân chính đáng của Giáo Hội
Công Giáo và duy trì sự tự do của Giáo Hội khỏi sự kiểm soát của các
nhà cầm quyền thế tục, là những người muốn lợi dụng Giáo Hội cho mục
đích riêng tư của họ. Lý thuyết về quyền bính của đức giáo hoàng không
có gì mới mẻ, nhưng lý thuyết ấy đã bênh vực và thi hành điều mà Giáo
Hội Công Giáo tin tưởng từ bao thế kỷ về vai trò và quyền bính của đức
giáo hoàng trong Giáo Hội và trong thế giới. Các vị giáo hoàng sau đây của thế kỷ,
Ðức Urbanô II (1088-99) và Ðức Paschal II (1099-1118), là những người
thánh thiện, cương quyết tiếp nối công việc cải tổ và canh tân. Ðức
Urbanô II kiên cường vai trò lãnh đạo của đức giáo hoàng qua việc triệu
tập Công Ðồng Clermont năm 1095 để thành lập Thập Tự Quân lần thứ nhất,
nhằm giải thoát các linh địa của Ðông Phương khỏi sự kiểm soát của người
Hồi Giáo. Chắc chắn Ðức Urbanô đã không nhìn thấy tương lai của các
cuộc thập tự chinh, ngài chỉ coi đó là một phương tiện thực tế để Giáo
Hội Tây Phương biểu lộ đức tin nơi uy quyền của Ðức Kitô, và cũng để hỗ
trợ Kitô Hữu Ðông Phương đang chịu đau khổ dưới các chế độ Hồi Giáo. Thế kỷ mười một đánh dấu giây phút buồn
thảm nhất của lịch sử Giáo Hội, là sự tách biệt giữa Giáo Hội Ðông
Phương và Giáo Hội Tây Phương vào năm 1054. Sự chia cách này chắc chắn
đã đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, là người đã sai Ðức Giêsu hình
thành một dân tộc, một giáo hội. Vào thời điểm này, Kitô Giáo bị chia
cắt làm hai: Giáo Hội Công Giáo – công nhận đức giáo hoàng như vị thủ
lãnh ở thế gian — và Giáo Hội Chính Thống Giáo – do các thượng phụ lãnh
đạo, tỉ như đức thượng phụ của Constantinople. Ðiều gì đã gây nên cuộc ly giáo này? Các
biến cố bề ngoài xảy ra ngay lúc đó chỉ là triệu chứng của các khó khăn
đã âm ỉ trong nhiều thế kỷ. Hầu hết các sử gia đều cho rằng sự phân
cách Ðông và Tây về cả hai phương diện, giáo hội (quyền tối thượng của
đức giáo hoàng) và thần học (về vấn đề filioque). Trong các cuộc
đối thoại đại kết ngày nay, vẫn còn hai trở ngại chính cho sự hợp nhất.
Về quyền tối thượng của đức giáo hoàng, vấn đề được đặt ra là đức giáo
hoàng có quyền cai quản và dạy bảo toàn thể Giáo Hội hay không. Tây
Phương tin rằng đức giáo hoàng có thẩm quyền đó; Ðông Phương tin rằng
mọi thượng phụ, kể cả vị giám mục Rôma, đều có quyền bằng nhau. Năm
1054, đức thượng phụ Constantinople, Micae Caerularius, chỉ trích một
vài thông lệ của Giáo Hội Tây Phương, và xưng hô với đức giáo hoàng như
một người anh em thay vì coi là vị cha chung, và đức thượng phụ từ chối
không chịu tiếp đón các đại diện của đức giáo hoàng khi họ đến
Constantinople trong ba tháng. Sau cùng, các vị đại diện đã để lại trên
bàn thờ trong giáo đường của đức thượng phụ một Chỉ Dụ Tuyệt Thông và từ
giã Constantinople sau khi “phủi bụi dưới chân các ngài.” Vài ngày sau,
Ðức Micae Caerularius phản ứng lại bằng cách ra vạ tuyệt thông các đại
diện và đức giáo hoàng. Vạ tuyệt thông đôi bên này được duy trì mãi cho
đến năm 1965, khi Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI gặp gỡ Ðức Thượng Phụ
Athenagoras trong vòng tay thân ái và cả hai đã cùng hủy bỏ vạ tuyệt
thông ấy. Nhờ ơn Chúa, công việc tái hợp Chính Thống Giáo và Công Giáo
Rôma hiện đang được tiến hành cách tốt đẹp. Bất kể những tì tích của Giáo Hội, phúc
âm của Ðức Giêsu Kitô tiếp tục được loan truyền. Trong thế kỷ mười một,
Ðan Mạch và Na Uy theo Kitô Giáo, sau đó không lâu là Thụy Ðiển (1164).
Nước Nga tiếp đón các nhà thừa sai từ Ðông Phương và cả Tây Phương, cho
đến khi thái tử Nga quyết định rửa tội theo Giáo Hội Byzantine, mà sau
đó trở thành Giáo Hội Chính Thống Nga với vị thượng phụ ở Moscow.
Thế Kỷ Mười Hai
Trong thế kỷ này có quá nhiều chủ đề riêng biệt nên được chia ra thành các đề tài sau: 1. Các tương giao giữa Giáo Hội và Nhà Nước ở Tây Phương:
Ðức giáo hoàng và Hoàng Ðế Rôma Thánh Thiện tiếp tục tranh giành quyền
tuyển chọn các giám mục và tu viện trưởng, mãi cho đến khi có sự tương
nhượng sau Thỏa Ước Worms năm 1122. Theo thỏa ước này, các giám mục và
tu viện trưởng được tuyển chọn theo luật của Giáo Hội, với quyền bổ
nhiệm của nhà cầm quyền dân sự nếu muốn, và trong nghi thức tấn phong
Giáo Hội sẽ ban cho họ nhẫn và gậy giám mục. Như vậy, đức giáo hoàng, tu
viện trưởng, và các giám mục bị kẹt giữa hai thế giới, thế giới quyền
lực chính trị và thế giới lãnh đạo tinh thần. Các giáo hoàng của thế kỷ mười hai và
mười ba cố gắng sống hài hòa với các nhà cầm quyền và các quốc gia để
duy trì sự tự do của Tòa Thánh, cũng như để giữ thế quân bình giữa các
quốc gia Âu Châu nhằm ngăn ngừa bất cứ nhà cai trị nào muốn kiểm soát
Giáo Hội. Nhiều khi các giáo hoàng thất bại. Hoàng đế Frederick I
(Barbarossa), là người đầu tiên của dòng họ Hohenstaufen cai trị Ðế Quốc
Rôma Thánh Thiện, đã xâm chiếm Rôma năm 1159 và buộc Ðức Giáo Hoàng
Alexander III phải bỏ trốn. Sau đó, Ðức Alexander liên minh với lực
lượng Lombard ở miền bắc nước Ý, đánh bại quân của Frederick ở Leghano
năm 1176, và sau đó làm hòa với Frederick. Sau khi hoà giải với Giáo
Hội, Frederick dẫn đầu Thập Tự Chinh III sau khi Giêrusalem bị thất thủ
vào năm 1187. Ở Anh, Ðức Tổng Giám Mục Tôma Becket của
Canterbury tranh đấu cho quyền lợi và sự tự do của Giáo Hội cho đến khi
vua người Norman, là Henry II, buộc đức tổng phải trốn sang Pháp trong
vòng sáu năm. Vì sự nổi tiếng của Ðức TGM Tôma, nhà vua đã cho phép ngài
về nước năm 1170. Vì đức tổng tiếp tục ủng hộ đức giáo hoàng, Henry nổi
cơn thịnh nộ và một vài vệ sĩ của ông đã giết đức tổng ngay trên tam
cấp vương cung thánh đường Canterbury. Hành động hung ác này đã chấn
động cả Âu Châu. Ðức giáo hoàng đã ra vạ tuyệt thông vua Henry, mà sau
đó ông đã sám hối và rút lại lời chống đối Giáo Hội. Ðức Tôma Becket được tuyên xưng là thánh năm 1173 sau nhiều phép lạ xảy ra ở mộ của ngài. 2. Thập Tự Chinh. Những tranh
chấp chính trị được các giáo hoàng coi là cần thiết để duy trì sự tự do
của Giáo Hội khỏi sự lũng đoạn và thống trị của các nhà cầm quyền dân
sự. Việc sử dụng quân đội và liên minh quân sự của các giáo hoàng được
coi là chính đáng vì lý do tự vệ — bảo vệ đất đai của đức giáo hoàng và
quyền cai trị Giáo Hội một cách tự do của đức giáo hoàng. Tuy nhiên, các cuộc thập tự chinh là một
trường hợp khác biệt. Thập tự chinh là các cuộc viễn chinh có tính cách
quân sự do Giáo Hội tổ chức để giải thoát Ðất Thánh khỏi sự kiểm soát
của người Hồi Giáo, và để bảo vệ đức tin Kitô Giáo cũng như bảo vệ người
tín hữu đi hành hương. Thánh Augustine đã triển khai ý tưởng “cuộc
chiến chính nghĩa,” và Giáo Hội tin rằng các cuộc thập tự chinh nằm
trong khuôn khổ ấy. Thật vậy, những người tham dự thập tự quân được Giáo
Hội tha thứ mọi hình phạt vì tội lỗi của họ. Ðức Urbanô II, người triệu
tập Thập Tự Chinh I, đã ngăn cấm tất cả các động lực bất chính khi tham
dự thập tự quân, tỉ như vì vinh dự hoặc lợi lộc thế tục. Trên lý thuyết, các cuộc thập tự chinh
có thể được coi là chính đáng, nhưng vì bản tính yếu đuối con người, hậu
quả của các cuộc chiến này thường rất bi thảm. Thập Tự Chinh I là một
thành công về quân sự, nhưng việc trục xuất các thượng phụ Hy Lạp ở
Antiôkia đã làm sâu đậm thêm sự chia cắt giữa Giáo Hội Ðông Phương và
Rôma, và đoàn quân thập tự ấy đã bừa bãi giết chết hàng trăm người vô
tội khi họ tái chiếm Giêrusalem. Mặc dù Thánh Bernard ở Clairvaux
đã cổ động cho Thập Tự Chinh II vào năm 1146, nhưng đó là một thất bại
về quân sự. Thập Tự Chinh III vào năm 1189 cốt để tái chiếm Giêrusalem
khỏi tay người Thổ Nhĩ Kỳ Saladin, nhưng tất cả những gì đạt được chỉ là
một thỏa ước đảm bảo sự an toàn cho Kitô Hữu khi đi hành hương ở Ðất
Thánh. Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng các cuộc thập tự chinh đã quá
xa rời ý định nguyên thủy, và tệ hại hơn nữa, sự tương giao giữa Kitô
Giáo Ðông và Tây lại càng thêm suy yếu khi các nhà lãnh đạo các cuộc
thập tự chinh sau này đã viễn chinh với các lý do thiếu thánh thiện. 3. Sự Canh Tân Giáo Hội và Lạc Giáo.
Phong trào canh tân Giáo Hội Công Giáo được bắt đầu trong thế kỷ mười
một và tiếp tục sang thế kỷ mười hai. Thánh Robert ở Molesme thành lập
một đan viện ở Citeaux năm 1098, và đó là khởi đầu của Dòng Xitô. Một
trong những đan sĩ trẻ tuổi của Xitô, tên Bernard, đã thiết lập một chi
nhánh ở Clairvaux năm 1116 và làm đan viện trưởng cho đến khi từ trần
năm 1153. Là một thầy giảng, một vị linh hướng, và thần học gia, Thánh
Bernard ở Clairvaux là vị lãnh đạo canh tân đời sống tâm linh trong thế
kỷ mười hai. Không bao lâu dòng Xitô có ảnh hưởng nhất trong Giáo Hội,
vượt cả dòng Cluny, và sau cùng có đến sáu trăm đan viện được các tu sĩ
Xitô thiết lập. Không những các đan viện được mọc lên như nấm mà cả các
linh mục triều cũng được canh tân bởi các phong trào như
Premonstratensian của Thánh Norbert, một người bạn của Thánh Bernard. Sự canh tân quét sạch Giáo Hội, nhưng
ảnh hưởng chính trị và sự sung túc ngày càng gia tăng của Giáo Hội Công
Giáo, kể cả các đan viện, đưa đến sự xuất hiện của một số tổ chức mà họ
tự cho rằng có đời sống căn bản hơn và trung thực hơn với phúc âm so với
Giáo Hội. Người Cathar, là con cháu của người Manikê, xuất hiện từ phía
nam nước Pháp và được gọi là Albigensian, vì họ thuộc miền Albi. Các tổ
chức khác, tỉ như các môn đệ của Peter Waldes (phái Waldensian) và
Humiliati ở Ý, khởi sự bằng cách thúc giục cải tổ và sống khó nghèo
trong Giáo Hội, nhưng dần dà họ tách khỏi sự trung thành với Giáo Hội
Công Giáo và bị kết án. Hầu hết các tổ chức này thấy chướng tai gai mắt
vì sự giầu sang và thối nát trong Giáo Hội Công Giáo và họ muốn cải cách
tận gốc, ngay tức thì mà không phải quy phục đức giáo hoàng và các giám
mục. Tuy nhiên, cũng có một vài nhóm sống khắc khổ và nghiêm nhặt như
các đan viện trước đây – Xitô, Carthusian, v.v. Sự canh tân xảy ra khắp
nơi, và các tổ chức Công Giáo này chứng minh rằng Giáo Hội thực sự muốn
canh tân và đã thể hiện được điều đó. 4. Thần Học và Giáo Dục. Nếp sống
mới trong đan viện và các trường địa phận đem lại đời sống mới cho Giáo
Hội qua nhiều phương cách. Kiểu kiến trúc vuông vức, thoáng rộng của
Rôma đã nhường chỗ cho các thánh đường kiểu Gôtích với ngọn tháp cao
chót vót. Hình ảnh Ðức Kitô là vua được thay thế bằng hình ảnh Ðức Kitô
đau khổ trên thập giá, có lẽ phản ánh một đời sống cam go và nhiều bất
trắc trong giai đoạn này. Sự đạo đức của người dân có tính cách riêng tư
và cá biệt hơn, và việc sùng kính các thánh nhất là Ðức Maria, Mẹ Thiên
Chúa, bắt đầu triển nở. Việc thờ phượng ngày càng hướng về Thánh Thể,
nhất là sự hiện diện thực sự của Ðức Kitô trong Mình Thánh mà tín điều
này đã được nhiều công đồng xác nhận. Danh từ “biến thể” bắt đầu được sử
dụng để diễn tả sự thay đổi của bánh và rượu trở nên Mình và Máu Ðức
Kitô trong hình thức bí tích. Tuy nhiên, Giáo Hội thời Trung Cổ chú
trọng đến sự chiêm ngưỡng Mình Thánh hơn là rước Thánh Thể vào trong
lòng. Thánh Lễ mang đặc tính của một vở tuồng để nhìn xem, một tấn bi
kịch, thay vì một bữa tiệc chung của mọi người. Thế kỷ mười hai cũng ghi dấu sự hình
thành của thần học Kinh Viện. Lý trí được sử dụng để hiểu biết các mầu
nhiệm về đức tin và thần học. Các thần học gia muốn tạo thành một tổng
hợp bao gồm các tín điều trong Phúc Âm, các văn bản của các Giáo Phụ
tiên khởi và triết học. Họ tin rằng, đức tin và lý lẽ không thể trái
ngược nhau mà phải bổ sung cho nhau. Ðứng đầu các thần học gia vĩ đại trong thế kỷ này là Thánh Anselm
ở Canterbury (1033-1109), là cha đẻ của Học Thuyết Kinh Viện. Sau này
xuất hiện một người tài giỏi, nhưng hơi kỳ dị là Peter Abelard, mà những
sai lạc của ông đã bị bài bác bởi Thánh Bernard ở Clairvaux và Peter
Lombard. Cuốn Luận Ðề Thần Học của Peter Lombard là một phương pháp được
coi là tiêu chuẩn giáo khoa về thần học trong suốt thế kỷ mười ba. Cũng
cần đề cập đến Gratian, một đan sĩ Camaldolese mà công trình của ngài
là xếp đặt thứ tự các giáo huấn và quy luật của Giáo Hội Công Giáo, từ
đó phát sinh khoa học mới về giáo luật trong thế kỷ mười hai. Bất kể những đấu tranh chính trị của các
giáo hoàng và kết quả lẫn lộn của các cuộc thập tự chinh, rõ ràng là
Thiên Chúa đã làm việc trong thế kỷ mười hai. Ðó là con đường Người
chuẩn bị cho thế kỷ tốt đẹp nhất về tâm linh, văn hóa, và tiến bộ tri
thức trong lịch sử văn minh Tây Phương: thế kỷ mười ba. Thế Kỷ Mười Ba Thế kỷ
mười ba là một bông hoa thời Trung Cổ và là cao điểm của Kitô Giáo.
Trong hầu hết lãnh vực của đời sống, chúng ta đều thấy ảnh hưởng của
Giáo Hội và sự tiến bộ về văn hóa và học thuật. Chắc chắn có những giai
đoạn u ám, như cuộc thập tự chinh và Tòa Thẩm Tra được phát động để
chống với lạc giáo. Nhưng ánh sáng của các thành quả trong thế kỷ này đã
xua tan tăm tối và soi sáng cho Giáo Hội Công Giáo mãi cho đến ngày
nay. 1. Các Giáo Hoàng và Công Ðồng.
Thế kỷ mười ba xuất hiện các giáo hoàng có ảnh hưởng nhiều nhất và một
số công đồng tốt đẹp nhất trong lịch sử Kitô Giáo. Ðức giáo hoàng tài
giỏi nhất là Ðức Innôxentê III (1198-1216), là người đã xoay sở để mọi
nhà cầm quyền thế tục phải phục tùng Giáo Hội qua sự thuyết phục hoặc sử
dụng vạ tuyệt thông hay khai trừ. Tuy nhiên quyền lực trần thế không
phải là mục đích của Ðức Innôxentê; ngài muốn hoàn toàn kiểm soát Giáo
Hội để có thể cải tổ. Vào năm 1215, ngài triệu tập Công Ðồng Latêranô
IV, quy tụ trên bốn trăm giám mục và tám trăm viện phụ, tu viện trưởng
cũng như đại diện các nhà cầm quyền. Công đồng này đã tán thành các nghị
định cải tổ mà các quyết nghị ấy đã ảnh hưởng đến Giáo Hội trong nhiều
thế kỷ, tỉ như nhiệm vụ của người Công Giáo là phải đi xưng tội và rước
lễ mỗi năm ít là một lần trong mùa Phục Sinh. Công đồng này tán thành
việc sử dụng danh từ biến thể và cũng có những xử trí để ngăn chặn lạc
giáo, tỉ như Tòa Thẩm Tra. Ðức Innôxentê III, người đầu tiên dùng
danh xưng Ðại Diện Ðức Kitô, đã chứng tỏ sự khôn ngoan của ngài trong
cách giải quyết đối với các tu sĩ dòng khất thực hay Phong Trào Khó
Nghèo. Nhiều Kitô Hữu cảm thấy chướng tai gai mắt vì của cải đang đổ về
Tây Phương như một kết quả của cuộc thập tự chinh và vì xã hội ổn định.
Các Kitô Hữu này muốn sống cuộc đời đơn giản khó nghèo trong phúc âm để
noi gương Ðức Giêsu Kitô. Ðức Innôxentê nhận thấy cần phải có tinh thần
này trong sự cải tổ Giáo Hội, do đó ngài tán thành các dòng tu mới của
những người sống khó nghèo, còn được gọi là Tu Sĩ Khất Thực, được sáng
lập bởi Thánh Phanxicô Assisi (1209) vàThánh Ðaminh Guzman
(1215). Ðức Innôxentê III còn đem trở về với Giáo Hội Công Giáo các tổ
chức trước đây lìa bỏ Giáo Hội, tỉ như Hội Người Nghèo ở Lyons, do
Durand ở Huesca lãnh đạo, và Hội Người Công Giáo Khó Nghèo. Một số cho
rằng Ðức Innôxentê III là một chính trị gia hơn là một vị thánh, nhưng
không ai có thể từ chối rằng ngài đã thành công hơn bất cứ vị giáo hoàng
nào thời Trung Cổ trong việc kiên cường và cải tổ Giáo Hội. Vì đây là lịch sử cô đọng nên chúng ta
không thể kể hết tất cả các giáo hoàng xuất sắc của thế kỷ, nhưng cần đề
cập đến hai công đồng đã tiếp tục việc cải tổ Giáo Hội: Công Ðồng Lyons
I (1245) và II (1274). Cả hai công đồng được tổ chức ở Pháp vì áp lực
chính trị trên các giáo hoàng ở Rôma. Nước Pháp trung thành với đức giáo
hoàng, và vị vua thánh thiện của Pháp, Vua Louis IX
(1214-70, sau này được phong thánh), đã hỗ trợ và bảo vệ Giáo Hội. Vị
giáo hoàng sau cùng của thế kỷ mười ba, Ðức Boniface VIII (1294-1303),
là một thí dụ điển hình về các thành quả của các giáo hoàng thời bấy
giờ. Ngài tiếp tục đả kích bất cứ sự can thiệp nào của chính phủ vào nội
bộ Giáo Hội, và trong chỉ dụ nổi tiếng của ngài, Unam Sanctam,
ngài tuyên bố thẩm quyền tuyệt đối của đức giáo hoàng trên Giáo Hội và
trật tự xã hội Kitô Giáo. Năm Thánh 1300 do ngài công bố rất thành công,
quy tụ trên một triệu người hành hương đến Rôma. Thẩm quyền của đức
giáo hoàng đạt đến tuyệt đỉnh trong thời Ðức Innôxentê III và Boniface
VIII. 2. Các Cuộc Thập Tự Chinh và Tòa Thẩm Tra.
Khía cạnh u ám của thế kỷ này xảy ra là vì Giáo Hội cố gắng giữ lấy
lãnh thổ của Kitô Giáo ở Ðông Phương và dùng quyền lực để tiêu diệt các
lạc giáo. Cuộc Thập Tự Chinh IV được Ðức Innôxentê III triệu tập năm
1202, nhưng dù không có phép của ngài, thập tự quân đã dừng chân ở
Constantinople để tấn phong một hoàng đế có lợi cho Tây Phương. Binh
lính không ngừng bóc lột và tàn phá thành phố mỹ miều này vào năm 1204.
Một nhà bình luận viết, “Ngay cả người Hồi Giáo còn có lòng từ bi hơn.”
Sự kiện này đã tạo nên nỗi cay đắng lớn lao trong tâm hồn Kitô Hữu Ðông
Phương đối với Giáo Hội Công Giáo, mà cho đến nay vẫn chưa thể hoàn toàn
hàn gắn, hơn nữa nó còn làm mất chính nghĩa của toàn thể phong trào
thập tự chinh. Ðức Innôxentê III rúng động vì biến cố này, nhưng trong
Công Ðồng Latêranô IV, ngài đã triệu tập một cuộc thập tự chinh khác để
khôi phục thành phố Giêrusalem. Thập Tự Chinh V (1218-21) tương đối
thành công nhưng thất bại trong việc tái chiếm Giêrusalem. Qua phương
cách ngoại giao, Hoàng Ðế Frederick II xoay sở để chiếm lại Giêrusalem
trong cuộc Thập Tự Chinh VI (1228-29), nhưng chỉ kéo dài được mười lăm
năm. Năm 1291, Ðất Thánh lọt khỏi tầm kiểm soát của Tây Phương với sự
bại trận của các lực lượng Kitô Giáo ở Acre. Bài học của các cuộc thập
tự chinh trong việc tái chiếm Ðất Thánh vẫn còn giá trị cho đến ngày
nay. Vì Ðức Kitô, đừng bao giờ Giáo Hội Công Giáo tuyên chiến để tái
chiếm lãnh thổ, ngay cả Ðất Thánh; cũng không nên cho phép xảy ra một
cuộc chiến giữa các quốc gia vì lý do này. Trong thế kỷ mười ba, Giáo Hội Công Giáo
còn phải tiến hành một mặt trận khác quan trọng hơn. Vì sự giầu sang và
thối nát trong Giáo Hội, một vài tổ chức như nhóm Cathar và Waldensian
đang lôi cuốn nhiều người Công Giáo Âu Châu, và các nhóm này từ chối
nhân tính của Ðức Kitô, tẩy chay các bí tích, và khước từ quyền bính
thiêng liêng của các linh mục và của Giáo Hội. Ðể đối phó với vấn đề
này, trong thế kỷ mười hai, Giáo Hội Công Giáo thiết lập một thủ tục
pháp lý để thẩm vấn những người bị tình nghi là lạc giáo. Tiến trình
pháp lý và tòa án này được nổi tiếng dưới tên Tòa Thẩm Tra
(Inquisition). Thật khó để chúng ta hiểu rằng trong
thời ấy người ta không tin có sự tự do tôn giáo hay sự khoan dung. Một
người sống trong đế quốc hay quốc gia Công Giáo thì được cho là phải tin
tưởng vào giáo huấn Công Giáo. Nếu họ không tin, họ được coi là nguy
hiểm cho xã hội và linh hồn của họ bị nguy cơ diệt vong. Giáo Hội Công
Giáo coi Tòa Thẩm Tra là một cách để duy trì sự tinh tuyền của đức tin
Công Giáo trong một quốc gia Công Giáo, và để gìn giữ linh hồn những
người lạc giáo khỏi bị tiêu vong qua sự ăn năn sám hối và việc chấp nhận
đức tin chân chính. Khoảng giữa thế kỷ mười ba, ngay cả việc tra tấn
của nhà cầm quyền thế tục cũng được Giáo Hội cho là đúng, vì trên nguyên
tắc, thà bị đau khổ phần xác ở đời này còn hơn bị đau khổ trong lửa hoả
ngục đời đời. (Nên để ý rằng, luật La Mã, được duy trì ở Tây Phương bởi
hoàng đế Justinian, cho sử dụng sự tra tấn để buộc phải thú tội). Tuy
nhiên, trái với điều tin tưởng thông thường, mục đích của Toà Thẩm Tra
là để tiêu diệt tận gốc nạn lạc giáo qua sự hoán cải những người lầm lạc
trở về với đức tin chân chính. Cũng cần lưu ý ở đây, khi Ðức Grêgôriô
IX cho thiết lập các tòa thẩm tra cách vĩnh viễn vào năm 1233, ngài đã
chọn các người từ dòng Khất Thực, nhất là tu sĩ dòng Ða Minh, để hoán
cải dân chúng qua Tòa Thẩm Tra. 3. Phong Trào Khó Nghèo và Các Dòng Khất Thực.
Thánh Phanxicô Assisi sinh năm 1181, con của một thương gia buôn vải
của thành phố miền trung nước Ý này. Khi lớn lên, Phanxicô nổi tiếng là
thích liên hoan và vui nhộn. Ðược khích động bởi hình ảnh hào hùng của
tinh thần hiệp sĩ, Phanxicô tham dự cuộc chiến. Sau khi bị thương và bị
bắt làm tù binh, Phanxicô trở về Assisi dưỡng bệnh. Cuộc đời ngài bắt
đầu thay đổi. Một ngày kia, khi cầu nguyện trong nhà thờ San Damiano,
ngài nghe Ðức Kitô trên thánh giá kêu gọi ngài “đi dựng lại Giáo Hội của
Ta, đang đổ nát.” Lúc đầu, Phanxicô tưởng Chúa gọi ngài sửa chữa các
ngôi nhà thờ cũ kỹ, nhưng sau đó ngài hiểu Chúa muốn xây dựng lại Giáo
Hội qua lối sống phúc âm thật nghèo khó, để noi gương Ðức Kitô nghèo
hèn. Vào năm 1209, Phanxicô và mười một đồng bạn lên Rôma để xin Ðức
Innôxentê II chấp thuận cho quy luật đơn giản của họ, mà trong đó chỉ có
một vài giòng chữ trích từ Phúc Âm. Lúc đầu Ðức Innôxentê do dự, nhưng
ngài mơ thấy Phanxicô đưa tay chống đỡ các cột trụ của Giáo Hội Rôma.
Kết quả là Ðức Innôxentê tán thành quy luật của Phanxicô và cho phép
Phanxicô và các môn đệ được phép rao giảng bất cứ đâu mà đức giám mục
địa phương đồng ý. Thánh Clara, một người bạn của Thánh Phanxicô, đã sáng lập dòng “Clara nghèo hèn,” một dòng nữ Phanxicô, và cũng đã phát triển mạnh. Ðó là khởi đầu của cuộc canh tân vĩ đại
nhất lịch sử Giáo Hội Công Giáo. Nhóm tu sĩ Phanxicô ít ỏi ấy đã phát
triển thành một dòng tu lớn nhất và có ảnh hưởng nhất thời Trung Cổ,
vượt xa các đan viện về số lượng cũng như sự ảnh hưởng. Ðời sống nhân
chứng của các tu sĩ dòng Phanxicô thật cần thiết trong một thời đại mà
Giáo Hội ngày càng giàu sang và nhiều giáo sĩ thật hư hỏng. Tuy nhiên,
Phanxicô không nhìn đến các khiếm khuyết của Giáo Hội hay của giáo sĩ,
mà ngài vẫn hết lòng trung thành và yêu quý Giáo Hội. Mặc dù ngài rất
khó nghèo và khắc khổ, Thánh Phanxicô luôn luôn yêu đời, vui thích trong
các tạo vật của Thiên Chúa và đặc biệt sùng kính nhân tính của Ðức
Giêsu. Ngài sáng chế ra hang đá Giáng Sinh, và không như những người lạc
giáo thời ấy, ngài đặc biệt yêu quý bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể.
Khi gần chết, Thiên Chúa đã ban cho ngài năm vết thương của Ðức Kitô
trên thân thể — là một món quà thích hợp cho những ai yêu mến Ðức Kitô
bị đóng đinh. Ngài từ trần năm 1226, và chỉ hai năm sau, ngài đã được
phong thánh. Thánh Ðaminh Guzman là người Tây Ban Nha
sinh năm 1170. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài lưu tâm đến việc
hoán cải những người bị ảnh hưởng của lạc giáo Albigensian (người
Cathar). Ngài nhận thấy rằng, người ta chỉ trở lại đạo qua sự rao giảng
hùng hồn nhờ vào sự huấn luyện kỹ càng cùng với một đời sống chứng nhân
đơn sơ và nghèo hèn. Vào năm 1216, các môn đệ của ngài được Ðức Giáo
Hoàng Honorius III chấp nhận là Dòng Thuyết Giáo, sau khi họ du nhập số
quy luật của Thánh Augustine. Thánh Ðaminh rất yêu mến Thiên Chúa. Ngài
thường nhỏ lệ khi rao giảng hay khi dâng Thánh Lễ, và ngài kêu gọi các
môn đệ chỉ nói về Chúa và với Chúa. Ngài từ trần năm 1221 và được phong
thánh năm 1234. Cũng giống như Dòng Phanxicô, Dòng Ðaminh trở nên một
nguồn canh tân lớn lao, hoán cải người lạc giáo, và chỉnh đốn các hiểu
biết sai lầm trong thế kỷ mười ba. Các dòng tu khác, tỉ như dòng Camêlô
và dòng Augustine, cũng đã thôi thúc Giáo Hội trên con đường canh tân
của thế kỷ này. 4. Thần Học, Sự Hiểu Biết và Văn Hóa Mới.
Thế kỷ mười ba cũng là tột đỉnh của tư duy và văn hóa thời Trung Cổ.
Ðiều này được khởi sự từ thế kỷ mười một với việc thành lập các trường
của địa phận và của thành phố. Vào khoảng 1170 một trung tâm mới cao hơn
về học thuật xuất hiện – trường đại học. Lúc đầu, đại học được coi là
tổ chức hay hiệp hội của các học giả, mà trước tiên thu hút hàng giáo sĩ
và được Giáo Hội hỗ trợ về tài chánh. Hai đại học lớn được thành lập ở
Balê (chuyên về thần học) và ở Bologna (về luật), nhưng sau đó không lâu
là các trường Oxford (1200), Cambridge (1209), Salamanca (1220), Naples
(1224), và các trường khác. Y học, luật học và thần học là các môn
chính yếu, và thần học được coi là nữ hoàng của kiến thức. Phương cách
của thần học chủ yếu là nghiền ngẫm (lectio) các sách thiêng
liêng, nhưng với công trình chuyển dịch các văn bản của triết gia Hy Lạp
Aristotle từ tiếng Ả Rập sang tiếng Latinh, một phương pháp mới về lý
luận để học hỏi thần học được khai sinh. Các thần học gia muốn chứng
minh rằng đức tin Kitô Giáo thì hợp lý và sự hiểu biết tự nhiên rất
thích hợp với quan điểm Kitô Giáo về vũ trụ và thực thể, và ngay cả hỗ
trợ cho đức tin Kitô Giáo. Ba vị thần học sáng giá của thế kỷ xuất thân từ các dòng Khất Thực: một tu sĩ dòng Phanxicô, Thánh Bônaventura (1217-74), và hai tu sĩ dòng Ða Minh, Thánh Albert Cả(1200-80) và Thánh Tôma Aquinas
(1225-74). Thánh Bônaventura áp dụng truyền thống lâu đời để tìm hiểu
thần học bằng phương cách bí nhiệm, trong khi dùng lý lẽ để hỗ trợ cho
sự xác thực của truyền thống và đức tin. Thánh Albert Cả là một trong
những người đầu tiên cực lực hỗ trợ tư duy của Aristotle, mà trước đây
đã bị Rôma cấm chỉ trong các trường đại học vì có nguồn gốc ngoại giáo.
Người học trò nổi tiếng của Thánh Albert, là Tôma Aquinas, hăng hái bảo
vệ giá trị của Aristotle và hình thành một hệ tư tưởng bao gồm Phúc Âm,
các Giáo Phụ, và lý luận của Aristotle trong một hệ thống hiểu biết vĩ
đại, tổng hợp toàn thể mặc khải Kitô Giáo qua đức tin được khai sáng bởi
lý lẽ. Kiệt tác của Thánh Tôma là cuốn Tổng Luận Thần Học(Summa Theologica,
1266-74), được coi là cực điểm của thiên tài và thật sáng sủa. Trái với
điều tin tưởng thông thường, Thánh Tôma không bao giờ tách rời đức tin
với lý lẽ. Lý lẽ giúp con người hiểu biết cách thâm sâu các chân lý đức
tin mà Thiên Chúa đã mặc khải. Tuy nhiên, Thánh Tôma Aquinas không phải
là người nổi tiếng trong thời ấy. Thần học gia và triết gia John Duns Scotus
(1266-1308), một tu sĩ Phanxicô người Tô Cách Lan, có đông các môn đệ
hơn. Ngài bất đồng với Thánh Tôma về vài điểm quan trọng, nhưng đồng ý
với thánh nhân về tính cách nhận thức, hoặc hiểu biết được của mọi sự. Các trường đại học không chỉ là bằng
chứng cho sự tiến bộ của văn minh Tây Phương mà còn có các đại văn hào,
tỉ như Dante Alighieri (1265-1321). Tác phẩmDivine Comedy (Hài
Kịch Thần Thánh) của Dante, một quan điểm văn học về hoả ngục, luyện
ngục và thiên đàng, là tuyệt tác văn chương của mọi thời đại. Roger
Bacon (1214-92), một tu sĩ dòng Phanxicô, là người tiên phong trong lãnh
vực khoa học thực nghiệm. Các thánh đường kiểu Gôtích vút cao lên trời,
và các nghệ nhân sáng tác nhiều tác phẩm vĩ đại. Thế kỷ mười ba quả
thực là cao điểm của đời sống Giáo Hội và văn minh Tây Phương thời Trung
Cổ. III. Cuối Thời Trung Cổ, Phong Trào Cải Cách và Phản Cải Cách (1300-1650) Cuối Thời Trung Cổ (1300-1500) Thế kỷ
mười ba là thế kỷ đầy kết quả cho Kitô Giáo và cho Giáo Hội cũng như các
giáo hoàng. Tuy nhiên, giai đoạn từ 1300 đến 1500 là thời kỳ suy thoái.
Giai đoạn nhiều khó khăn này còn được ghi dấu bằng trận dịch hạch Tử
Thần Ðen mà nó đã càn quét Âu Châu từ năm 1348 và đã giết chết một phần
ba dân số Âu Châu. Tuy nhiên Thiên Chúa vẫn hoạt động trong Giáo Hội
Công Giáo và trong xã hội giữa biết bao thử thách. 1. Giáo Triều Avignon. Triều đại
giáo hoàng sôi nổi của Ðức Boniface VIII (1294-1303) được tiếp theo bằng
một giai đoạn trên bảy mươi năm, 1306-76, mà trong thời gian đó các
giáo hoàng cư ngụ ở Avignon, nước Pháp thay vì ở Rôma. Ðức Clêmentê V
(làm giáo hoàng từ 1305 đến 1314) di chuyển đến Avignon để tránh áp lực
chính trị của Ý, và của các hoàng tộc Rôma thường gây hấn. Vua Philip
của Pháp hứa che chở và không phá rối để đổi lấy một vài ảnh hưởng trong
chính sách của đức giáo hoàng. Mặc dù các giáo hoàng ở Avignon vẫn giữ
vai trò độc đáo của các ngài là vị chủ chăn của toàn thể dân Chúa, nhưng
tất cả thế giới còn lại đều nghi ngờ rằng các giáo hoàng này chỉ lên
tiếng nói vì lợi ích cho nước Pháp. Thật vậy, khi tám giáo hoàng trong
thời kỳ này đều là người Pháp thì sự kiện ấy chỉ như thêm dầu vào ngọn
lửa hồ nghi. Giáo triều Avignon đã bị phê phán bởi các thánh và các thi hào, như Petrarch, và còn bởi Thánh Bridget ở Thụy Ðiển (1303-73) và Thánh Catarina ở Siena
(1347-80). Các ngài là nữ ngôn sứ mà Thiên Chúa đã dùng để thuyết phục
đức giáo hoàng phải trở về Rôma. Thánh Bridget là một người vợ và là mẹ
của tám người con; những thị kiến ngài nhận được từ Thiên Chúa đã thôi
thúc các giáo hoàng ở Avignon phải thay đổi lối sống xa hoa và lo cho
Giáo Hội. Thánh Catarina ở Siena hứa giữ mình đồng trinh ngay khi còn
nhỏ và đã gia nhập dòng Ba Ða Minh. Ngài tận tụy phục vụ người nghèo cho
đến khi Thiên Chúa gọi ngài làm ngôn sứ. Ngài đã thuyết phục Ðức
Grêgôriô XI trở về Rôma năm 1376 và ngài là cố vấn cho đức giáo hoàng kế
vị, là Ðức Urbanô VI. Mới đây, Thánh Catarina được tuyên xưng là Tiến
Sĩ Hội Thánh và cùng với Thánh Phanxicô Assisi, ngài là quan thầy của
nước Ý. 2. “Ðại Phân Ly” Giữa Các Giáo Hoàng (1378-1417).
Sau khi từ Avignon trở về Rôma không lâu, Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XI từ
trần năm 1378. Cái chết của ngài đã đem lại sự khủng hoảng lớn lao cho
Giáo Hội. Các hồng y tụ họp ở Rôma, và dưới áp lực của người Rôma, các
ngài đã khôn ngoan tuyển chọn một hồng y người Ý làm giáo hoàng, là Ðức
Urbanô VI. Nhưng trước sự kinh ngạc của họ, Ðức Urbanô đã trừng trị các
hồng y, luôn lải nhải đòi hỏi họ cải tổ và ngay cả tra tấn hồng y nào
bất đồng quan điểm. Các hồng y người Pháp, sau khi phủ nhận giá trị việc
tuyển chọn Ðức Urbanô, đã bỏ về Rôma và chọn một hồng y người Pháp là
“ngụy giáo hoàng,” Clêmentê VII. Sự kiện này bắt đầu một trang sử buồn
thảm của Giáo Hội Công Giáo. Ðó là thời gian có đến hai, và sau này ba
người tự xưng là giáo hoàng chính cống, mỗi người được sự hỗ trợ của một
số quốc gia và đế quốc khác nhau. Vấn đề được đặt ra là làm sao giải quyết
khó khăn này. Không một giáo hoàng nào chịu từ chức, và các hồng y,
giám mục cũng chia rẽ trong sự trung thành của họ. Một số thần học gia,
tỉ như Jean Gerson, là hiệu trưởng Ðại Học Ba Lê, trước đây chủ trương
rằng thẩm quyền của một công đồng cao hơn thẩm quyền của đức giáo hoàng;
và ngài đã triệu tập một công đồng để giải quyết vấn đề. Sau cùng Công
Ðồng Constance (1414-18) đã truất phế hai giáo hoàng, khuyến khích vị
thứ ba từ chức, và tuyển chọn một giáo hoàng mới, Ðức Martin V (1417),
là người được toàn thể Giáo Hội công nhận. Cuộc đại phân ly chấm dứt,
nhưng mãi cho đến khi uy tín của đức giáo hoàng được khôi phục thì sự
phân ly mới thực sự kết thúc. Hậu quả của giáo triều Avignon và sự phân
ly là không bao giờ chúng ta thấy được vị giáo hoàng thời Trung Cổ có uy
thế như Ðức Innôxentê III hoặc Boniface VIII. Nhiều Kitô Hữu bắt đầu
coi công đồng có uy thế hơn đức giáo hoàng, nhưng điều này không đúng.
Công Ðồng Constance là một ngoại lệ, chứ không phải là quy tắc, được đưa
ra như một phản ứng trước tình trạng nguy kịch của Giáo Hội. Sau công
đồng này, các giáo hoàng tiếp tục xác nhận quyền bính và vai trò của các
ngài trong Giáo Hội như trước đây. 3. Những Thử Thách của Giáo Hội.
Các khó khăn hiển nhiên có liên hệ đến vấn đề giáo hoàng đã khiến một số
người Công Giáo đặt vấn đề và có khi từ chối thẩm quyền của Giáo Hội.
Một phê bình gia thức thời là John Wyclif (1330-84), một học giả của
Oxford đã tấn công học thuyết về sự biến thể của Mình Thánh và các tín
điều khác. Mặc dù ông không nghiên cứu về Kinh Thánh, bản dịch của ông
là một trong những công trình nổi tiếng. Tư tưởng của Wyclif ảnh hưởng
đến nhà cải cách Tiệp Khắc, John Hus (1369-1415). Hus là một linh mục
Công Giáo bị vạ tuyệt thông năm 1412 vì từ chối giáo huấn Công Giáo về
các bí tích và thẩm quyền của đức giáo hoàng. Vì ông tấn công Giáo Hội
Công Giáo, Công Ðồng Constance đã ra lệnh thiêu sống ông vào năm 1445 vì
tội lạc giáo. Sự chỉ trích Giáo Hội và việc nổi loạn
chống với giới thẩm quyền ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tính
cách trầm trọng. Ngay cả một chi nhánh của dòng Phanxicô mà họ tự cho là
Linh Ðạo Phanxicô đã tách khỏi Giáo Hội Công Giáo, vì họ không thể chấp
nhận quyền bính của Giáo Hội khi Tòa Thánh giảm bớt tính cách khắt khe
của quy luật Thánh Phanxicô về vấn đề sở hữu sách vở hay làm chủ tài
sản. Họ tiên đoán Giáo Hội đã đến lúc tận cùng. Một thử thách khác của Giáo Hội vào cuối
thời Trung Cổ là sự suy thoái của thần học Kinh Viện mà trước đây đã
từng đạt đến cao điểm trong thời Thánh Tôma Aquinas và John Duns Scotus.
Mặc dù trong thời gian này cũng có các thần học gia sáng giá và thánh
thiện, tỉ như Nicholas ở Cusa (1401-64) là người đã viết cuốn The Vision of God,
nhưng nói chung thần học Tây Phương đang trên đà suy thoái. Các thần
học gia không còn nghiên cứu Kinh Thánh và các Giáo Phụ, nhưng đã dành
thời giờ để xem xét và bình luận về các nhận định của nhau. Nhiều người
còn tham dự vào các cuộc tranh luận vô bổ — tỉ như “bao nhiêu thiên thần
có thể nhảy múa trên đầu một cây kim?” — các tranh luận ấy kích thích
trí tuệ nhưng làm nguội lạnh tâm hồn. Ngay cả xuất hiện một phái triết
thần mới gọi là Nominalism (thuyết duy danh), do William ở Ockham
(1280-1349) khởi xướng, muốn tách biệt các lãnh vực của đức tin và lý lẽ
thay vì coi chúng hỗ tương nhau như Thánh Tôma Aquinas và các học giả
Kinh Viện lỗi lạc khác từng chủ trương. 4. Thức Tỉnh Tâm Linh. Khi thần
học và triết học ngày càng khô khan và tách khỏi đời sống con người thì
lại có khuynh hướng nhìn lại tâm hồn để tìm cách thức tỉnh tâm linh. Nổi
tiếng vào cuối thời Trung Cổ là các nhà thần nghiệm Kitô Giáo, họ tìm
cách đến với Thiên Chúa qua tâm hồn hơn là trí tuệ. Meister Eckhart
(1260-1327), một tu sĩ Ðaminh người Ðức, là một trong các vị thần nghiệm
đầu tiên và có ảnh hưởng nhất, tuy nhiên một số học thuyết của ông bị
giới chức quyền Giáo Hội nghi ngờ. Một năm trước khi chết, năm 1326,
Eckhart bị kết tội lạc giáo. John Tauler (1300-61) và Henry Suo
(1245-1366) cả hai đều là linh mục dòng Ðaminh và là môn đệ của Eckhart.
Tauler chủ trương đời sống chúng ta phải phản ánh đời sống Ba Ngôi. Cuốn Sách Nhỏ Về Sự Khôn Ngoan Vĩnh Cửu
của Suo được coi là sản phẩm tinh tuý nhất của khoa thần nghiệm Ðức.
Văn sĩ thần nghiệm John van Ruysbroeck (1293-1381) được một số người coi
là vị thánh vĩ đại người Flemin. Anh Quốc cũng có thể tự hào về nhiều
nhà thần nghiệm: Julian ở Norwich (1342-1416) viết cuốn Mặc Khải của Tình Yêu Thiên Chúa; cuốn Bậc Tuyệt Hảo của Walter Hilton (c. 1395) là sự trình bầy rõ ràng nhất và quân bình nhất của đời sống nội tâm vào cuối thời Trung Cổ. Một phản ứng khác đối với sự nguội lạnh của thần học thời bấy giờ là phong tràoDevotio Moderna,
loại đạo đức mới, xuất hiện từ cuối thế kỷ mười bốn và lan sang thế kỷ
mười lăm. Các sáng tác đạo đức thời ấy tránh tranh luận thần học nhưng
lại không phải là loại thần nghiệm. Ðó là một phương cách thực tiễn suy
niệm về cuộc đời Chúa Giêsu theo một phương cách có thứ tự. Cuốn Gương Ðức Kitô của
Thomas à Kempis là một tác phẩm kinh điển của phái này. Gerard Groote
(1340-84) là một trong những người hết sức cổ võ phong trào đạo đức mới
và khích lệ thành lập một tu hội đời được gọi là Anh Em của Ðời Sống
Chung, và dòng Kinh Sĩ Thánh Augustine ở Windesheim. Một số dòng tu khác
đã canh tân vào thời kỳ này, tỉ như các tu sĩ Phanxicô Nghiêm Thủ dưới
sự dẫn dắt của Thánh Bernadine ở Siena (c. 1444) và Thánh Gioan ở Capistrano
(c. 1456). Một số dòng của các đan sĩ Biển Ðức và Kinh Sĩ Augustine
cũng canh tân, kể cả dòng mà Martin Luther gia nhập sau này. Trong Kitô Giáo Ðông Phương, một phương pháp cầu nguyện được gọi làhesychasm,
hay cầu nguyện bằng con tim, trở nên phổ thông trong thế kỷ mười ba và
mười bốn. Gregory Palamas (1296-1359), một vị thần nghiệm vĩ đại của
Giáo Hội Ðông Phương, và các người khác đã cổ võ hình thức cầu nguyện
này gồm việc lập đi lập lại cách liên tục tên Ðức Giêsu (hoặc một lời
nguyện ngắn như “Lạy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xin thương xót
tôi”). Những lời nguyện ấy nhịp nhàng với hơi thở. Mục đích là cầu
nguyện liên lỉ, luôn luôn nhắm đến Thiên Chúa. Một hợp tuyển văn bản của
các Giáo Phụ Ðông Phương thường được gọi là Philokalia làm nền tảng cho sự tu đức này. Trong các vị thần nghiệm và thụ khải của cuối thời Trung Cổ có Thánh Jeanne d’Arc(1412-31).
Ngay từ khi mười ba tuổi, thánh nữ đã được nghe tiếng các thiên thần và
các thánh mà các vị ấy cho biết sứ vụ của thánh nữ là giúp vua Charles
VII nước Pháp thoát khỏi sự kiềm tỏa của Anh. Tin rằng thị kiến của
Jeanne d’Arc là có thật, nhà vua đã giao cho thánh nữ một đạo quân để
tái chiếm các thành luỹ của Pháp. Trong một cuộc chiến, thánh nữ bị bắt
và bị giáo quyền Anh kết án là lạc giáo và bị thiêu sống. Hai mươi lăm
năm sau, thánh nữ được minh oan, và năm 1920, ngài được tuyên xưng là
thánh. Thánh Jeanne d’Arc quả thật là vị thánh đặc biệt và ngoại lệ
trong thời kỳ xáo trộn. 5. Những Nguyên Do Căn Bản Cuộc Cải Cách Tin Lành.
Có những bùng nổ thức tỉnh tâm linh vào cuối thời Trung Cổ, nhưng thảm
kịch dẫn đến cuộc Cải Cách là sự cải tổ và canh tân tâm linh ấy không
ảnh hưởng gì đến dòng sinh lực của Giáo Hội Công Giáo. Từ các giáo hoàng
cho đến thường dân đều có những hành động cản trở sự canh tân. Các giáo
hoàng phải đương đầu với sự phát sinh của chủ nghĩa dân tộc và phải đối
phó với các thái tử, là những người chỉ cho phép Giáo Hội địa phương
được thi hành sự cải tổ với một giá nào đó. Các giáo hoàng buộc phải ký
kết các thoả ước với các quốc gia, và các nhà cầm quyền đạt được nhiều
lợi nhuận trong việc thao túng Giáo Hội. Khi tình hình tài chánh của đức
giáo hoàng ngày càng tệ hại, họ đã nghĩ ra các phương cách gia tăng lợi
tức cho đức giáo hoàng và đã đưa đến các hậu quả thật xấu xa. Trong
thời kỳ này, nhiều nhà cầm quyền thế tục cũng trở nên giám mục hay tu
viện trưởng nhằm kiểm soát Giáo Hội và kiếm lợi tức. Các giáo hoàng tìm
cách lấy lại tài chánh từ các nhà cầm quyền thế tục bằng cách gia tăng
tiền thuế nộp cho đức giáo hoàng về các chức vụ trong giáo hội. Nếu các
thái tử muốn kiểm soát Giáo Hội thì ít nhất họ phải trả một giá nào đó.
Thói buôn thần bán thánh này luôn luôn bị kết án là trái với luân lý.
Một số nhà cầm quyền dân sự mua đến hai ba chức vụ trong Giáo Hội
(pluralism) và họ không màng gì đến việc chăm sóc giáo dân nhưng họ thuê
mướn người khác làm công việc này (absenteeism). Do đó, các giám mục
trong Giáo Hội thường là những người giầu có hoặc thuộc giới quý tộc, họ
không lo lắng gì đến Giáo Hội nhưng dùng chức vụ này để được lợi lộc
cho mình. Khi cần tài chánh, họ gia tăng lệ phí các trung tâm hành hương
hoặc bán các ân xá. Ân xá được Giáo Hội ban phát như một đảm bảo cho
người tín hữu khỏi phải chịu hậu quả của tội lỗi (tỉ như, hình phạt nơi
luyện tội) sau khi chết. Lẽ ra ân xá được ban phát như để nhìn nhận đời
sống tốt lành của người tín hữu, nhưng vào cuối thời Trung Cổ, ân xá
được buôn bán như một món hàng. Tetzel là một tu sĩ dòng Ða Minh chuyên
môn bán ân xá đến độ Luther phải nổi nóng và chống đối Giáo Hội. Tetzel
thường rêu rao rằng: “Khi đồng tiền leng keng rơi vào kho bạc thì một
linh hồn lại dzọt vào thiên đàng.” Hàng linh mục và phó tế của Giáo Hội
Công Giáo cũng trở nên tồi tệ vì thiếu giáo dục và thối nát khắp nơi.
Nhiều tu sĩ nghèo và hủ hóa đã ăn ở với các phụ nữ bất kể luật độc thân
của Giáo Hội. Ngay cả các dòng Khất Thực cũng mất nhiệt huyết và trở nên
chủ đề cho người đời châm biếm, các tu sĩ này bị mỉa mai là đối thủ của
phường trộm cướp, và là các người ăn mày có chính nghĩa khi họ chỉ
thích xin tiền chứ không muốn xin thực phẩm. Giáo dân Công Giáo cũng không màng đến
việc canh tân trong Giáo Hội. Ðời sống đạo đức của họ là việc sùng kính
bề ngoài đối với các thánh và Ðức Maria, thích đi hành hương để được ân
xá mà không cần hiểu biết chân lý căn bản của đức tin Kitô Giáo. Nếu các
giám mục và linh mục lười biếng trong việc giảng dạy thì không thể đổ
lỗi cho người giáo dân là thiếu hiểu biết. Làm thế nào Giáo Hội Công Giáo có thể
cải tổ trong một tình trạng đáng buồn như vậy? Các giáo hoàng thì bận
tâm với vấn đề chính trị, và hầu hết các giáo hoàng từ giữa thế kỷ mười
lăm trở đi, đều lưu tâm đến việc hỗ trợ phong trào Phục Hưng, là một làn
sóng văn hóa và học thuật đang càn quét Âu Châu. Trong một khía cạnh
nào đó, đây là điều rất tốt. Các giáo hoàng thời Phục Hưng muốn chứng tỏ
rằng Giáo Hội luôn hậu thuẫn cho sự học hỏi, nghệ thuật, âm nhạc, và
văn chương. Ðức Giáo Hoàng Julius II đặt viên đá đầu tiên cho Ðền Thánh
Phêrô ở Rôma và thuê Bernini, Raphael, và Michaelangelo — những nghệ
nhân vĩ đại của thế giới thời ấy — cung cấp các tác phẩm điêu khắc, hội
họa, kiến trúc cho thánh đường. Tuy nhiên, phí tổn lớn lao này đã khiến
các giáo hoàng không còn lưu tâm đến tình hình tâm linh kiệt quệ của
Giáo Hội. Một vài giáo sĩ và thái tử thúc giục các
giáo hoàng tổ chức công đồng để canh tân Giáo Hội. Sau nhiều lần do dự,
vì sợ rằng công đồng sẽ cướp quyền của đức giáo hoàng hoặc sợ bị nhà
cầm quyền dân sự kiểm soát, sau cùng Ðức Giáo Hoàng Julius II đã triệu
tập Công Ðồng Latêranô V ở Rôma năm 1512. Công đồng chấm dứt năm 1517,
dưới thời Ðức Giáo Hoàng Lêô X, ngay khi sự Cải Cách Tin Lành bắt đầu
nhen nhúm. Công đồng đã phê chuẩn nhiều sắc lệnh canh tân có thể ngăn
chặn được cuộc Cải Cách Tin Lành, nhưng vì sự thiển cận và tính cách
trần tục của Ðức Lêô X (làm giáo hoàng từ 1513 đến 1521) nên hầu hết các
sắc lệnh cải tổ của công đồng đã không được thi hành. Ngoài ra, một số
giám mục của Giáo Hội cũng không màng gì đến chuyện canh tân. Chúng ta có thể tự hỏi tại sao không có
người Công Giáo nào dám lên tiếng, đòi hỏi Giáo Hội phải cải tổ. Chắc
chắn là có. Ngoài những người khởi đầu cuộc canh tân tâm linh và cải tổ
dòng tu, còn có một tổ chức Kitô Giáo được gọi là Humanist (Nhân Bản).
Ðược dẫn đầu bởi học giả Erasmus ở Rotterdam (1465-1536), các thành viên
Humanist là những trí thức Công Giáo, họ buồn vì sự suy sụp của thần
học Kinh Viện và sự gia tăng của phái Nominalist (hữu danh vô thực). Họ
quyết định khôi phục tư duy Công Giáo đặt nền tảng trên Phúc Âm và văn
bản của các Giáo Phụ. Erasmus sáng tác rất nhiều trong lãnh vực này,
cũng như cực lực châm biếm lối sống sai lạc của người Công Giáo. Tuy
nhiên, sự trào phúng và châm biếm cũng như sự lỗi lạc của Erasmus không
đủ để canh tân Giáo Hội. Tình trạng Giáo Hội thời bấy giờ đã đến lúc mà
chỉ có tính khí nóng nẩy và cực kỳ nghiêm trọng của Martin Luther mới
khích động được việc cải tổ đến độ lung lay và chia cắt Kitô Giáo. Sự Cải Cách Tin Lành (1517-1650) 1. Martin Luther (1480-1546). Một
sử gia đã viết: “Cuộc Cải Cách xảy ra không vì Âu Châu quá trần tục mà
là vì quá đạo đức.” Martin Luther, một người cục mịch thuộc thành phần
nông dân Ðức, đã phát sinh chủ thuyết tôn giáo lý tưởng của người dân Âu
Châu. Ông cũng là một tu sĩ dòng Augustine rất nghiêm nhặt và đã chăm
chỉ học hành để trở thành một giáo sư Kinh Thánh của Ðại Học Wittenberg
nước Ðức. Khi là tu sĩ, ông không có bình an khi cố gắng xóa bỏ mặc cảm
tội lỗi qua sự sám hối và từ bỏ chính mình, nhưng ông cảm thấy thoải mái
khi nhận thức rằng con người được công chính hóa chỉ bởi lòng tin, như
Thánh Phaolô đã giải thích trong thư gửi tín hữu Rôma. Ðây là yếu tố
then chốt đã khiến Luther niêm yết Chín Mươi Lăm Luận Ðề về Ân Xá lên
cửa nguyện đường ở Wittenberg năm 1517. Ông phản đối người Công Giáo khi
lệ thuộc vào công việc lành, dù bất cứ việc gì, kể cả ân xá, để được
cứu độ và được tha tội. Ðiều cay đắng của Cải Cách Tin Lành là
hầu hết những gì Luther tin tưởng và chủ trương lại là các học thuyết
chính trực của Công Giáo nhưng đã bị biến dạng bởi sự lạm dụng và thực
hành sai lầm trong Giáo Hội, tỉ như bán ân xá và vụ lợi. Không may, sự
chỉ trích của Luther về những hủ tục có thực này đã không được để ý đến.
Ðức Giáo Hoàng Lêô X chỉ ra lệnh cho vị bề trên của Luther phải sửa sai
ông, coi đó như một tu sĩ phản loạn dám đặt lại vấn đề thẩm quyền ban
ân xá của Giáo Hội. Lúc đầu, Luther không có ý định từ bỏ
Giáo Hội Công Giáo, nhưng ông cũng từ chối không rút lại các tuyên bố
cho đến khi được điều trần trước một hội đồng. Năm 1519, ông đến Leipzig
để gặp thần học gia Johannes Eck. Và Eck đã đưa đường chỉ lối cho
Luther từ chối thẩm quyền của các giáo hoàng cũng như các công đồng, và
coi Phúc Âm như nguồn thẩm quyền duy nhất. (Một trong những thành quả
đáng kể sau này của Luther là việc chuyển dịch Phúc Âm sang tiếng Ðức,
nhờ đó, sau khi phát minh ra máy in, mỗi một người Tin Lành Luther đều
có một quyển Phúc Âm bằng tiếng mẹ đẻ của mình). Ðến lúc này, Luther
không còn coi mình là một người Công Giáo nữa; do đó ông viết ba luận đề
khước từ quyền bính của Giáo Hội Công Giáo và các giáo hoàng, tẩy chay
các bí tích của Giáo Hội (ngoại trừ bí tích Rửa Tội, Thánh Thể, và giải
tội), và ông kêu gọi các thái tử Kitô Giáo ở Ðức hãy đứng lên thành lập
giáo hội tự trị. Tất cả đã xảy ra đúng như vậy. Hầu hết các thái tử Ðức
đều muốn thoát khỏi thẩm quyền và chế độ thuế khóa của Rôma, do đó họ
ủng hộ Luther và bổ nhiệm các giám mục cho Giáo Hội Luther của họ. Tại
Nghị Viện ở Worms năm 1521, Luther bị Giáo Hội Công Giáo chính thức phạt
vạ tuyệt thông với sắc chỉ Exsurge Domine, và ông đã đốt sắc chỉ này
cũng như một số sách Công Giáo. Ðối với người Công Giáo, sự khước từ
quyền bính Giáo Hội của Luther là một thảm kịch lớn lao, không chỉ vì nó
khởi đầu một ngăn cách trong nhiệm thể của Ðức Kitô, nhưng còn vì sự
canh tân tích cực và cần thiết mà lẽ ra Luther đã có thể hoàn tất trong
lòng Giáo Hội Công Giáo. Vì cuốn sách này chủ yếu chỉ đề cập đến
lịch sử Giáo Hội Công Giáo, do đó chúng tôi không đi xa hơn trong việc
bành trướng của Giáo Hội Luther. Tuy nhiên, thật đầy đủ để nói rằng giáo
phái Luther là hình thức Tin Lành gần với Công Giáo nhất, vì Luther còn
giữ lại nhiều khía cạnh của đức tin và truyền thống Công Giáo, ngoại trừ những gì ông cho là đối nghịch với Phúc Âm. Các giòng Cải Cách khác ngày càng tách biệt với đạo Công Giáo. 2. Jean Calvin (1509-64). Jean
Calvin là người Pháp, và sau khi học thần học và luật ở Balê khi còn
trẻ, bỗng dưng ông chuyển hướng sang các quy tắc của phong trào Cải Cách
được Luther khởi xướng. Sau đó, Calvin định cư ở Geneva, Thụy Sĩ, là
nơi ông chủ trương sự tổng hợp thẩm quyền giữa nhà nước và Giáo Hội, mà
địa vị hàng đầu được trao cho Giáo Hội. Trong thuyết chính trị thần
quyền này, Calvin gò ép ra một lối sống Kitô Hữu nghiêm nhặt và khắc khổ
tương tự như các đan viện thời trung cổ. John Knox (1513-72) ở Tô Cách
Lan, sau khi đến Geneva, gọi đời sống đó là “trường phái học hỏi về Ðức
Kitô tuyệt hảo nhất trên mặt đất kể từ thời các tông đồ,” và ông đã đưa
chủ thuyết Calvin về Tô Cách Lan để trở thành Giáo Hội Presbyterian. Văn bút vĩ đại của Calvin là cuốn Các Tổ Chức Kitô Giáo,
nền tảng thần học của truyền thống Cải Cách. Calvin tẩy chay mọi tín
điều không rõ ràng ghi trong Phúc Âm và chỉ tập trung đức tin vào Lời
Chúa mà thôi. Giáo đường của ông màu trắng và thật trống trải. Không có
bàn thờ, tượng ảnh, đàn organ, hay kính mầu. Mọi vết tích Công Giáo đều
bị xoá sạch, ngoại trừ Phúc Âm. Lý thuyết của Calvin được tranh luận sôi
nổi nhất là Thuyết Tiền Ðịnh, ông cho rằng ngay từ ban đầu Thiên Chúa
đã tiền định cho những ai được cứu rỗi và những ai bị luận phạt, do đó,
công trạng con người không có giá trị gì. Vì được tiền định, những người
được chọn chắc chắn sẽ sinh kết quả tốt đẹp qua sự chính trực và đời
sống tốt lành của họ. Giấc mơ hoán cải toàn thể nước Pháp của
Calvin phần nào được thể hiện với sự bành trướng của phái Huguenot trong
thế kỷ mười bảy. 3. Cuộc “Cải Cách Triệt Ðể”. Jean
Calvin tách rời khỏi đức tin Công Giáo một cách triệt để hơn Martin
Luther. Tuy nhiên, lại có những nhóm Tin Lành Cải Cách tách biệt xa hơn
với đức tin Công Giáo. Huldreich Zwingli (1484-1531) khởi sự một nhà thờ
trong thành phố Zurich, Thụy Sĩ, và chủ trương rằng Bữa Tiệc Ly chỉ là
một bữa tiệc có tính cách tưởng nhớ, do đó không có sự hiện diện thực sự
của Ðức Kitô. Một cách cay đắng, Luther bất đồng với Zwingli về điểm
này trong cuộc Hội Ðàm ở Marburg năm 1529. Trước khi từ trần trong cuộc chiến năm
1531, Zwingli ra lệnh dìm chết một số người ở Zurich, là những người
nhất định phải tái rửa tội người lớn và chủ trương chỉ có sự rửa tội
người lớn mới có giá trị. Những người này được gọi là Anabaptist (tái
tẩy) và họ đã đi quá xa. Họ từ bỏ Zurich để thiết lập các cộng đoàn nhỏ
bé, sống khắng khít trong các vùng hẻo lánh ở Moravia về phía đông.
Trong thời gian này, tên Anabaptist được dùng để chỉ nhiều tổ chức khác
nhau, nhưng chung quy, họ đều cho rằng tín điều của người Công Giáo và
Tin Lành thì quá cực đoan. Một người Anabaptist là Thomas Munzer, đã
xách động cuộc cách mạng nông dân, và “Vua Munster” là John ở Leiden, đã
tấn chiếm một thành phố và cho phép tình dục bừa bãi ở đây. Một vài
người Anabaptist vô trách nhiệm này đã khiến một số Kitô Hữu đích thực
bị bách hại vô cùng dã man, tỉ như những người Hutterite ở Moravia, mà
họ cùng chia sẻ tài sản và sống một cách êm đềm và siêng năng, và những
người Mennonite ở Hòa Lan, là những người theo chủ nghĩa hòa bình và
sống rất khắc khổ. Có lẽ trong thời kỳ này, những người Anabaptist chết
vì đức tin nhiều hơn bất cứ người Kitô Giáo nào khác. Họ bị bách hại bởi
người Công Giáo và cả người Tin Lành, và họ từ chối việc sử dụng vũ lực
để tự vệ. 4. Cuộc Cải Cách ở Anh Quốc.
Chúng ta có thể nhận thấy ba giòng Cải Cách Tin Lành trước đây — Luther,
Calvin và Anabaptist — ngày càng ít giống với Giáo Hội Công Giáo mà họ
đã tách biệt. Trước đây, nguyên tắc của Công Giáo là sự hợp nhất của đức tin, bây giờ được thay thế bằng nguyên tắc của Tin Lành là sự tinh tuyền của đức tin,
càng ngày càng có nhiều tổ chức phân lập, mỗi một tổ chức đều cho rằng
mình tinh tuyền hơn và trung tín hơn với phúc âm của Ðức Giêsu Kitô. Dựa
trên nguyên tắc này, sự Cải Cách đã không thể tránh được việc phân chia
Giáo Hội thành nhiều thực thể khác nhau. Tuy nhiên, nhận định này không
làm xao xuyến nhiều người Tin Lành mà họ cho rằng Ðức Giêsu đã thành
lập một thực thể vô hình, thiêng liêng bao gồm tất cả những ai tin vào Ðức Kitô theo như họ nghĩ, chứ không phải một thực thể hữu hình, có quá trình lịch sử
đang hiện diện trong hình thức hợp nhất trên thế giới như người Công
Giáo hiểu biết về giáo hội. Ðây là một trong những khác biệt quan trọng
trong sự hiểu biết giữa người Công Giáo và hầu hết người Tin Lành. Tuy nhiên, giáo hội Cải Cách có quan
điểm rất gần với Công Giáo, ít ra là lúc ban đầu, đó là Giáo Hội Anh
Quốc, Anh Giáo. Vì lý do luân lý hoặc chính trị, Giáo Hội này được thành
lập bởi Vua Henry VIII của nước Anh. Trước đó, Henry được một giáo
hoàng đặt làm Người Bảo Vệ Ðức Tin. Sau đó, ông quyết định li dị người
vợ của mình là bà Catherine ở Aragon, chỉ vì bà không sinh được con trai
để thừa tự. Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VII từ chối không cho phép Henry li
dị. Sau khi Ðức Hồng Y Wolsey, là Tổng Giám Mục của Canterbury, không
thuyết phục được đức giáo hoàng để ban cho nhà vua điều này, Henry đã
cách chức Wolsey năm 1529, và bổ nhiệm một người bạn tín cẩn là Sir Thomas More,
một luật sư Công Giáo lên làm quan chưởng ấn của Anh. Thomas More, một
người Công Giáo trung thành với đức giáo hoàng, khẳng định rằng ông chỉ
chấp nhận chức vụ này nếu không dính líu đến vấn đề li dị của nhà vua.
Vào năm 1534, khi Henry tự xưng là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh và
cắt đứt liên hệ với Rôma, Thomas More đã từ chối không chịu tuyên thệ
trung thành với nhà vua dưới danh hiệu này, và ông cũng từ chối không
cho biết lý do. Trên phương diện luật pháp, lẽ ra cuộc đời của Thomas
More đã được bình an vô sự, vì luật lệ của Anh cho rằng im lặng là đồng
ý. Tuy nhiên, Henry không để sự “sơ hở” của luật pháp dung túng kẻ chống
đối mình, nhất là một người nổi tiếng trong nước như Thomas More, do đó
Thomas More đã bị chém đầu vào năm 1535, như một vị tử đạo vì đức tin
Công Giáo. John Fisher, đức giám mục của Rochester cũng bị chém đầu, sau này cả hai vị đều được Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng là thánh. Mặc dù khởi đầu của Anh Giáo là sự bất
đồng với Công Giáo chỉ ở một điểm — thẩm quyền lãnh đạo của đức giáo
hoàng — dưới thời các nhà lãnh đạo sau này, Anh Giáo ngày càng bị ảnh
hưởng của Calvin và càng giống Tin Lành về phương diện đức tin. Người
Công Giáo trong thế kỷ mười sáu và mười bảy bị bách hại một cách cay
đắng ở Anh. Những người theo đức giáo hoàng được coi là phần tử phá hoại
làm suy yếu nhà nước, nhất là sau khi Guy Fawkes, một người Công Giáo,
mưu toan phá vỡ Nghị Viện Anh nhưng bất thành. Tuy nhiên, sau nhiều thế
kỷ, một phần lớn Anh Giáo đã trở về với đặc tính của Công Giáo, và do đó
ngày nay, nhiều người Anh Giáo tự coi họ là người Công Giáo hơn là
người Tin Lành. Sự Cải Cách Công Giáo (1500-1650) Chắc chắn
là Giáo Hội Công Giáo cần phải cải tổ vào năm 1500, khi bắt đầu nhen
nhúm sự Cải Cách Tin Lành. Có nhiều người Công Giáo đã cố gắng canh tân
Giáo Hội trước cả Luther và đã đạt được ít nhiều thành công. Ðức Hồng Y
Jimenes de Cisceros, vị lãnh đạo Công Giáo Tây Ban Nha từ 1495-1517, đã
đem lại nhiều cải tổ trong Giáo Hội Công Giáo Tây Ban Nha. Ở Ý, tổ chức
Hội Dòng Về Tình Yêu Thiên Chúa, được thành lập ở Genoa năm 1497, là một
hội đoàn do giáo dân tổ chức để nên thánh và phục vụ tha nhân. Những
người Công Giáo như Erasmus ở Rotterdam và John Colet ở Anh đã công khai
lên tiếng, than thở về sự suy đồi tâm linh của Giáo Hội Công Giáo. Công
Ðồng Latêranô V đã phê chuẩn nhiều sắc lệnh cải tổ. Tuy nhiên, nhiều người Công Giáo, kể cả
đức giáo hoàng, đã không coi trọng việc cải tổ Giáo Hội cho đến khi các
cuộc cải cách Tin Lành bùng nổ một cách táo bạo và tách khỏi sự hiệp
nhất với Giáo Hội Công Giáo. Một hậu quả tích cực của Cải Cách Tin Lành
là nó đã làm phát sinh các nỗ lực cải tổ và canh tân một cách cần mẫn
trong lòng Giáo Hội Công Giáo. Mặc dù người Công Giáo không thể đồng ý
rằng việc chia cắt Giáo Hội của Ðức Giêsu là chính đáng, (và do đó cực
lực chống đối các nhà cải cách Tin Lành), các nhà lãnh đạo và giáo dân
Công Giáo trong thế kỷ mười sáu nhận thức rằng họ phải sám hối vì đã
thất bại trong việc cải tổ. Họ bắt đầu tha thiết canh tân trong lòng
Giáo Hội. 1. Canh Tân Qua Các Dòng Tu. Cuộc
Cải Cách Công Giáo được phát động bởi việc thành lập các dòng tu và tổ
chức mới, cũng như việc cải tổ các dòng hiện có. Một trong những quan
tâm chính yếu của cuộc cải cách Công Giáo là việc tìm kiếm hàng giáo sĩ
thánh thiện, hăng say và sống độc thân để dẫn dắt Giáo Hội trong sự canh
tân. Dòng dẫn đầu là Dòng Tên, được sáng lập bởi Thánh I-Nhã ở Loyola
năm 1534 và được đức giáo hoàng công nhận vào năm 1539. I-Nhã là một
quân nhân Tây Ban Nha bị thương chân trong cuộc chiến năm 1521. Trong
thời gian bình phục, I-Nhã đã đọc về cuộc đời Ðức Kitô và hạnh các
thánh, và điều ấy đã đem lại cho ngài một niềm vui lớn lao đến độ ngài
quyết định dành trọn cuộc đời để phục vụ Thiên Chúa trong Giáo Hội Công
Giáo. Sau khi được giáo dục kỹ lưỡng, I-Nhã đã tuyển sáu người để thành
lập một tu hội — trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê,
một nhà truyền giáo nổi tiếng. Bất kể những nghi ngờ thường xuyên của
Tòa Thẩm Tra, sau cùng tu hội của I-Nhã đã được đức giáo hoàng chuẩn
nhận. Vâng phục Giáo Hội Công Giáo và đức giáo hoàng là đặc điểm của
Dòng Tên. Nhà dòng khởi sự bằng việc giáo dục người mù chữ và người
nghèo, nhưng sau đó vài năm nhà dòng dạy cả các thái tử và vua quan. Các
tu sĩ Dòng Tên cũng là các nhà truyền giáo vĩ đại; Thánh Phanxicô Xaviê
đã đem Tin Mừng đến cho Ấn Ðộ và Nhật Bản năm 1541. Sau này, việc bảo
vệ đức tin là công việc chính của các cha Dòng Tên. Thánh Phêrô Canisius ở Ðức đã viết sách giáo lý Công Giáo đến nỗi người Tin Lành cũng phải khen ngợi. Thánh Robert Bellarmine là một thần học gia nổi tiếng và là người hướng dẫn cuộc canh tân của Công Ðồng Triđentinô. Sau cùng, cuốn Rèn Luyện Tâm Linh
của Thánh I-Nhã trở thành kinh điển của linh đạo Kitô Giáo và là nền
tảng cho các cuộc tĩnh tâm của Dòng Tên cũng như để nhận thức tâm linh. Mặc dù Dòng Tên trở nên dòng lớn nhất và
có ảnh hưởng nhất của cuộc cải cách Công Giáo, nhiều nhà dòng khác cũng
góp phần canh tân Giáo Hội Công Giáo. Trong số này có Dòng Capuchin —
một nhánh biến cải của Dòng Phanxicô và chỉ đứng sau Dòng Tên về sự ảnh
hưởng — Dòng Thêatinô, Dòng Sômasca, và Dòng Thánh Phaolô (Barnabites).
Các dòng tu nữ, như các nữ tu Ursulin (1535), cũng có ảnh hưởng trong sự
canh tân Giáo Hội, cũng như các hội dòng (Oratory) — là nhóm người cùng
chí hướng để cầu nguyện và phục vụ mà trong đó có cả giáo dân. Hội dòng
củaThánh Philip Nêri,
thành lập ở Rôma năm 1517, rất nổi tiếng và rất có kết quả. Thánh
Philip Nêri, vị thánh vui vẻ, quan thầy của giới trẻ và là nguồn cảm
hứng cho mọi Kitô Hữu. 2. Công Ðồng Canh Tân: Công Ðồng Triđentinô (1545-63) và Các Hậu Quả.
Mặc dù các tổ chức nói trên có ảnh hưởng tích cực, Giáo Hội Công Giáo
vẫn cần ngồi lại với nhau để tìm cách canh tân qua các phương cách của
một công đồng, nơi quy tụ các giám mục. Các giám mục cần đồng ý với nhau
về cách đáp ứng với cuộc Cải Cách Tin Lành và những tiến trình cần
thiết để cải tổ và canh tân Giáo Hội Công Giáo. Sau nhiều lần trì hoãn,
Ðức Giáo Hoàng Phaolô III đã khai mạc Công Ðồng Triđentinô năm 1545. Mặc
dù nhiều nhà lãnh đạo Công Giáo, tỉ như Ðức Hồng Y Gaspar Contrarini,
tìm cách hoà giải Giáo Hội Công Giáo với các giáo phái Tin Lành khác
nhau, nhưng vào năm 1545, sự tách biệt giữa Công Giáo và Tin Lành còn
quá sâu đậm và quá đau lòng để có thể hy vọng một sự hợp nhất trong Giáo
Hội của Ðức Kitô ở Tây Phương. Do đó, Công Ðồng Triđentinô bắt đầu làm
sáng tỏ và xác định những gì là giáo huấn của Giáo Hội, nhất là những
điểm không được Tin Lành thừa nhận. Triđentinô xác nhận đức tin Công
Giáo trong bảy bí tích do Ðức Kitô thiết lập; sự công chính hóa của một
người là bởi đức tin được thể hiện qua công việc tốt lành hay bác ái;
Thiên Chúa mặc khải cho Giáo Hội qua Phúc Âm và truyền thống tông
đồ; và bản chất của Thánh Lễ là một sự tưởng nhớ hay tái diễn sự hy
sinh duy nhất của Ðức Giêsu trên đồi Canvê xưa. Công Ðồng Triđentinô còn
chấn chỉnh nhiều lạm dụng bị người Công Giáo cũng như Tin Lành lên án.
Hình thức mua ân xá bị hủy bỏ và đề cao việc sùng kính các thánh và Ðức
Maria một cách thích hợp. Một trong những thành quả quan trọng của Công
Ðồng là hình thành hệ thống đào tạo chủng sinh. Mỗi một giáo phận sẽ
thiết lập một chủng viện để đào tạo và giáo dục các linh mục. Kết quả là
các linh mục triều có học thức hơn và tâm hồn thanh khiết hơn để rao
giảng Phúc Âm và là gương sáng cho giáo dân. Trước Công Ðồng Triđentinô đã có nhiều
công đồng khác lưu tâm đến việc canh tân Giáo Hội Công Giáo. Nhưng
Triđentinô thật khác biệt, vì hầu hết các sắc lệnh cải tổ đều được tiến
hành và có hiệu lực. Mặc dù nhiều nhà cầm quyền và nhiều quốc gia đã
tách rời khỏi Giáo Hội Công Giáo vì hậu quả của sự Cải Cách Tin Lành,
một cách tổng quát, những người còn trung thành với Công Giáo đều tích
cực hỗ trợ sự canh tân đạo Công Giáo. Hầu hết các giáo hoàng từ cuối thế
kỷ 16 trở về sau đều coi sự cải tổ và canh tân tâm linh là điều tiên
quyết, cũng như các giám mục, tỉ như Thánh Charles Borromeo,
là tổng giám mục của Milan từ 1565 đến 1585. Thần Khí của Ðức Kitô và
tin mừng của Người lại chan hòa một cách sung mãn qua Giáo Hội Công Giáo
và được thấy rõ qua vị thủ lãnh trần thế và mọi phần tử của Giáo Hội. Ðáng buồn là vì hậu quả của sự Cải Cách
Tin Lành, Giáo Hội Công Giáo giờ đây không còn tính cách hoàn vũ như
trước nữa. Giáo Hội phải thắt chặt kỷ luật hơn và nhận ra căn tính của
mình, qua việc rút ra khỏi các sinh hoạt trần tục đến một mức độ nào đó
để xác định lối sống và căn tính của Giáo Hội. Một số người nói rằng
Giáo Hội Công Giáo trở nên một giáo hội thành trì — biết rõ về căn tính
của mình nhưng ở thế thủ vì sự chống đối của các giáo phái Tin Lành. Tuy nhiên, một cái nhìn khác về Giáo Hội
Công Giáo sau Cải Cách là hãy coi đó như một giáo hội đã được thanh
luyện, canh tân, và phản ánh đời sống Ðức Kitô rõ ràng hơn. Ðó là một
mùa xuân mới, mùa hoa đức tin bừng nở và nhiều người Công Giáo đạo đức
hơn. Việc sùng kính Ðức Maria và các thánh được thanh lọc và canh tân.
Công Ðồng Triđentinô khuyến khích người Công Giáo siêng năng rước lễ —
tối thiểu một tuần một lần — và thường xuyên đi xưng tội. Việc thờ
phượng Thiên Chúa trong Bí Tích Thánh Thể được khuyến khích qua các giờ
chầu. Tuy Thánh Lễ vẫn còn được cử hành bằng tiếng Latinh hơn là tiếng
địa phương, các sách lễ và những phương tiện sùng kính khác đã giúp giáo
dân tham dự Thánh Lễ sốt sắng hơn. 3. Các Vị Thần Nghiệm Công Giáo và Các Thánh Hoạt Ðộng Xã Hội.
Thời kỳ cực lực canh tân này còn được ghi dấu bởi sự xuất hiện đông đảo
các vị thần nghiệm và các thánh. Khoa thần nghiệm là phương cách nhận
biết Thiên Chúa một cách trực tiếp qua tâm trí hay linh hồn, nhận biết
Thiên Chúa bằng con tim. Các vị lãnh đạo Công Giáo rất e dè về khoa thần
nghiệm, vì sợ rằng khi quá chú trọng đến cảm nghiệm hay tâm tình cá
nhân, rất có thể người giáo dân không nhận ra đó là sự lừa gạt của ma
qủy hay ác thần. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã tạo nên nhiều vị thần nghiệm
vĩ đại trong thời kỳ này, nhất là ở Tây Ban Nha. Thánh Têrêsa ở Avila
(1515-82) là một người Tây Ban Nha gia nhập dòng Camêlô khi hai mươi
tuổi và sống một cuộc đời bình thường cho đến năm 1556. Vào lúc ấy, sau
khi trải qua mười lăm năm khô khan trong việc cầu nguyện, Thánh Têrêsa
có được một điều mà ngài gọi là sự hoán cải lần thứ hai, và bắt đầu cảm
nghiệm cách cầu nguyện huyền bí — nhiều khi được thấy hoăïc nghe tiếng
nói của Chúa. Ngài trở nên người cực lực cải tổ dòng Camêlô, sáng lập
dòng nữ tu Camêlô đi chân đất và mười lăm chi nhánh khác trước khi từ
trần. Các sách của thánh nữ, gồm cuốn Tự Truyện, Ðường Trọn Lành, và Thành Trì Nội Tâm, được coi là kinh điển tu đức. Thánh Têrêsa rất có ảnh hưởng đến một tu sĩ Camêlô người Tây Ban Nha khác, đó là John de Yepes (1542-91), thường được gọi là Thánh Gioan Thánh Giá.
Là một vị thần nghiệm, đời sống thánh nhân phải đau khổ nhiều và ngài
đã diễn tả phương cách đến với Thiên Chúa qua những tăm tối và đau khổ
trong các sách của ngài:Ðêm Tối của Linh Hồn, Ðường Lên Núi Camêlô, Ca Vịnh Tâm Linh, và Sống Lửa Tình Yêu. Giáo Hội Công Giáo Pháp sau thời Cải Cách đã tạo được nhiều vị thánh nổi tiếng, như Thánh Francis de Sales (1567-1622), Thánh Jeanne de Chantal (1572-1641), vàThánh Vincent de Paul
(1581-1660). Thánh Francis de Sales là giám mục của Geneva, Thụy Sĩ từ
1602 đến 1622, ngài nổi tiếng là một cha sở giỏi và là một người thông
minh xuất chúng. Cuốn sách của ngài, Dẫn Nhập Vào Ðời Sống Ðạo Ðức và Luận Ðề về Tình Yêu Thiên Chúa,
là hướng dẫn tâm linh cho những người tầm thường muốn nên thánh qua các
phương tiện đời sống hàng ngày. Qua sự rao giảng và văn bút của ngài,
thánh nhân đã thu hút được hàng ngàn người Tin Lành Thụy Sĩ trở về với
đức tin Công Giáo. Ngài được tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh, và đặt làm
quan thầy cho ba dòng tu. Một trong những người bạn thân của Thánh
Francis de Sale là Jeanne de Chantal, một goá phụ, là người cùng với
Thánh Francis sáng lập Dòng Thăm Viếng năm 1610. Dòng nữ tu này đầu tiên
hoạt động cho người nghèo và bệnh nhân, sau đó tận hiến cho việc cầu
nguyện. Vào lúc từ trần, Thánh Jeanne de Chantal đã thành lập được tám
chi nhánh. Thánh Vincent de Paul rất hăng say trong
việc canh tân và rất yêu quý người nghèo. Tu Hội Truyền Giáo của ngài
là một dòng tu nhằm thúc đẩy lòng đạo đức của giáo sĩ Pháp. Ngài còn
giúp sáng lập dòng Nữ Tu Bác Ái năm 1633, là dòng nữ đầu tiên tích cực
hoạt động xã hội, chăm sóc người nghèo và người đau yếu. Thánh Vincent
cũng tích cực trong công việc bác ái đủ mọi loại, tỉ như chuộc người nô
lệ từ các tầu lao dịch. Ngài là quan thầy của mọi công cuộc bác ái. 4. Công Cuộc Truyền Giáo Khắp Nơi.
Ngoài sự dồi dào của các vị thần nghiệm, giảng thuyết, và các thánh
hoạt động xã hội, cuộc Cải Cách Công Giáo còn được ghi dấu bằng sự khởi
đầu một giai đoạn truyền giáo lâu dài mà nhờ đó đã nới rộng Giáo Hội
Công Giáo đến khắp các quốc gia trên thế giới. Trong thời Trung Cổ, có
một vài công cuộc truyền giáo ra nước ngoài, tỉ như việc thiết lập Giáo
Hội Công Giáo ở Trung Hoa Lục Ðịa năm 1307 của tu sĩ dòng Phanxicô là
Gioan ở Montecorvino. Tuy nhiên, Kitô Giáo còn hạn hẹp trong Âu Châu cho
đến khi Christopher Columbus tìm ra Tân Thế Giới vào năm 1492 và khi
người Bồ Ðào Nha đi thám hiểm Ấn Ðộ. Sau đó công cuộc truyền giáo của
Giáo Hội Công Giáo như bùng nổ. Thánh Phanxicô Xaviê,
dòng Tên, là người đầu tiên đem Tin Mừng đến vùng Viễn Ðông năm 1542,
và sau đó không lâu, ngài được tiếp nối bởi các cha dòng Tên, Matteo
Ricci, người viễn chinh đến Trung Hoa năm 1581, và Robert de Nobili,
người đã theo lối sống của Bàlamôn để đem đức tin Công Giáo vào Ấn Ðộ.
Công cuộc truyền giáo thành công nhất ở Á Châu là Phi Luật Tân, nơi đây
một giám mục được tấn phong vào năm 1581. Ngày nay, người Công Giáo Phi
chiếm đến 80 phần trăm dân số. Ðể khích lệ nỗ lực truyền giáo, Ðức Giáo
Hoàng Grêgôriô XV thành lập Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin vào năm 1622.
Bất cứ các nhà thám hiểm đến đâu thì các nhà truyền giáo cũng đến đó.
Bất kể sự tàn ác của người Tây Ban Nha xâm lược ở Tây Bán Cầu, các nhà
truyền giáo thường tranh đấu cho quyền lợi của người bản xứ ở vùng Trung
và Nam Mỹ Châu. Họ giáo dục và lo cho các sắc dân ở Tân Thế Giới, cũng
như hoán cải những người này. Cuộc truyền giáo sáng chói nhất của Công
Giáo Tây Ban Nha là Bartholomew Las Casas
(1474-1566), vị tu sĩ dòng Ðaminh này đã băng qua biển Atlantic mười
bốn lần để bảo vệ quyền lợi chính đáng của thổ dân đối với nhà cầm quyền
Tây Ban Nha, và Thánh Turibius,
đức tổng giám mục của Lima, Peru từ 1580 đến 1606, người bảo vệ các
quyền tự do của người da đỏ và da đen, ngài dạy bảo họ, và chuyển dịch
kinh sách sang tiếng thổ âm. Năm 1588, linh mục Joseph Acosta dòng Tên,
người đầu tiên viết về quan điểm truyền giáo kiểu mới và khuyến khích
việc đào tạo linh mục người bản xứ. Các linh mục dòng Tên còn thiết lập
các ngôi làng, như ấp chiến lược, cho người Paraguay mà từ đó đã trở nên
trung tâm thờ phượng và sinh hoạt chung rất tốt đẹp. Ở Bắc Mỹ, người Pháp chiếm Gia Nã Ðại
làm thuộc địa, và các tu sĩ dòng Tên cũng như dòng Phanxicô tích cực
truyền giáo cho các bộ lạc người Huron, Algonquin, và Iroquois. Máu các
vị tử đạo đã in vết trong nỗ lực hoán cải những dân tộc này, tỉ như cái
chết anh hùng và đẫm máu của các linh mục dòng Tên, Isaac Jogues (bị tử đạo bởi người Iroquois năm 1646), Jean de Brebeuf,
và những vị khác. Trong khoảng thời gian từ 1625 đến 1640, Jean de
Brebeuf đã rao giảng cho trên mười ngàn người da đỏ Huron và giúp hoán
cải phần lớn sắc dân này. Các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đến nơi mà ngày
nay là vùng tây Hoa Kỳ, từ đó nhà truyền giáo Eusebio Kino đã hoạt động ở
New Mexico và linh mục Junipero Serra dòng Phanxicô đã thành lập các trung tâm truyền giáo dọc theo bờ biển California, nhiều trung tâm vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Kết Luận
Ðâu là kết quả sau cùng của cuộc Cải
Cách Công Giáo và Tin Lành? Giáo Hội Công Giáo bắt đầu cải tổ qua ơn
sủng của Thiên Chúa. Cuộc cải tổ của Công Giáo nhấn mạnh đến ba điểm:
đạo đức (hình thức mới trong sự thờ phượng), kỷ luật (chấn chỉnh những
lạm dụng và thanh lọc đời sống Công Giáo), và học thuyết (làm sáng tỏ
các tín điều Công Giáo). Sử gia Thomas Bokenkotter đã nhận định về các
kết quả canh tân này như sau:
Vào lúc kết thúc Công Ðồng
Triđentinô năm 1563, giáo phái Tin Lành đã tràn lan trên một nửa Âu
Châu. Tuy nhiên, chiều hướng này đã đảo ngược vào cuối thế kỷ. Với việc
công bố các sắc lệnh của Công Ðồng Triđentinô và sự bộc phát luồng sinh
khí mới trong Giáo Hội Công Giáo — đặc biệt được thể hiện qua các tu sĩ
dòng Tên và sự phục hưng giáo triều — Giáo Hội Công Giáo bắt đầu giành
lại được nhiều phần lãnh thổ. Ba Lan quay trở về với Công Giáo; một phần
lớn của nước Ðức, Pháp, và nam Hòa Lan đã hiệp thông với Tòa Thánh,
trong khi Tin Lành không có sự tiến bộ khả quan nào sau năm 1563. Và
công cuộc truyền giáo của Công Giáo ở nước ngoài đã bù đắp cho những mất
mát đau thương ở Âu Châu.
Trong khi Phúc Âm được loan truyền cho
đến tận cùng trái đất bởi các nhà thừa sai Công Giáo trong tiền bán thế
kỷ mười bảy, Âu Châu đã đắm chìm trong các cuộc chiến tôn giáo cay đắng
giữa người Công Giáo và Tin Lành và giữa các quốc gia theo Tin Lành.
Cuộc chiến sau cùng xảy ra ở nước Ðức. Cuộc chiến Ba Mươi Năm
(1618-1648) được chấm dứt bằng Thỏa Ước Westphilia (1648), mà nó đã đem
lại cho người Công Giáo, Luther, và Calvin ở Ðức sự bình đẳng trước pháp
luật. Trên thực tế, mỗi quốc gia hay mỗi vùng trong nước đều có một
“giáo hội” Kitô Giáo riêng của nó, và tín đồ của các giáo phái khác sống
trong lãnh thổ đó thường bị bách hại trực tiếp hay gián tiếp. Mặc dù
sau các cuộc tranh chấp đều có những thỏa ước, Kitô Giáo Âu Châu bị chia
cắt thành nhiều bãi chiến trường mà trong đó tôn giáo là yếu tố then
chốt. Tình trạng thê thảm này đưa đến việc tìm kiếm một “tôn giáo hợp
lý” trong giai đoạn Kitô Giáo sắp tới. Tuy nhiên, trong mỗi một vùng của Giáo
Hội phân ly, vẫn có nhiều nơi mà Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô bừng cháy
một cách chói lọi. Chắc chắn rằng Giáo Hội Công Giáo vẫn mong tìm ra
cách củng cố đời sống Công Giáo ở Âu Châu cũng như để lan tràn đức tin
Công Giáo trên toàn thế giới. Cho đến nay, Giáo Hội Công Giáo đã vượt
qua được những thử thách lớn lao và đã tồn tại với một sinh lực được đổi
mới.
" Máu các đấng Tử-Đạo, là
nguồn phát sinh ra người tín hữu" (Sanguis martyrorum, crescens
Christinorum)
Xem như thế, giòng máu đào tử đạo
được coi như số kiếp nghiệt ngã, nhiệm mầu, khơi nguồn sự sống của
Đạo Thánh Chúa!
Căn cứ vào các sử liệu kim cổ,
chúng ta có thể khẳng quyết không sai lầm rằng: vào bất thời
điểm nào trên giòng sinh mệnh của nhân loại, và dưới dạng thức của
bất cứ nền văn hóa nào, sự xuất hiện của Đạo Chúa Kitô luôn luôn bị
các chính quyền đương thời nghi kỵ, cấm đoán, thù ghét và bách hại!
Hình thừc, phương pháp, chiêu bài tuy có thay đổi, nhưng nội dung vẫn
là sự thù nghịch với "Nước Chúa" với "Cơ Cấu Mới"
của "Nước Trời"!
Những Cuộc Bách Hại Qua Giòng Lịch Sử
Những kẻ bị bách hại vì
"Nước Trời"vẫn bị “người đời" thù ghét trên suốt dọc
giòng lịch sử của các nền văn minh Đông-Tây: Có rất nhiều câu chuyện
ghê rợn về những khổ nhục tàn ác vô nhân mà các vị tử đạo đã phải
chịu vì Danh Thánh Chúa: chẳng hạn chuyện từng đoàn thanh niên nam
nử, gìa trẻ bị lột trần trước công chúng, trong các khu vực giải
trí công cọng, bị đánh đòn, bị làm mồi cho thú dữ ăn thịt, hoặc bị
quấn tròn làm những cây đuốc sống đốt cháy trong các công trường cho
dân chúng vui chơi!
Nơi khác, người ta bỏ người tín
hữu vào chảo dầu sôi, để cho dân chúng nghe tiếng than van kêu khóc!
Có khi người ta còn bày nhiều trò giải trí bằng cách bắt người tín
hữu phải chết chậm, chết đau đớn, chẳng hạn như đâm hết mắt của họ
rồi thả đi thất theo trong các nơi công cọng, hoặc treo xác họ lên
thập tự gía dựng nơi các công trường! Có khi người tín hữu bị chặt
hết chân tay rồi bị thả chết dần chết mòn nơi đồng vắng hoặc bị
thả làm mồi cho thú dữ hoặc cho chim kền kền móc ruột tim gan!
Riêng tại đất nước Việt nam chúng ta,
Đạo Chúa bị cấm đoán bách hại trên mấy trăm năm, nhưng việc tàn sát
giết hại người theo Đạo Chúa, dữ dằn ghê rợn nhất là trong ba triều
vua nhà Nguyễn: tức là Thiệu Trị, Minh Mạng, Tự Đức và đặc biệt
dưới chiêu bài của phong trào Văn-Thân. Sử sách ước lượng chừng ba
trăm nghìn người tín hữu kitô giáo đã chịu chết vị Đạo, trong số
đó, có 117 vị được phong lên hằng hiển thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988
tại công trường Thánh Phêrô Rôma, dưới thời giáo hoàng Gioan-Phaolô đê
II.
Qua biến cố phong thánh nầy,
Việt-Nam bổng trở thành một quốc gia có nhiều thánh tử đạo nhất trên
thế giới! Lòng sùng mộ Đạo Chúa của người Việt hôm nay, phải chăng
là kết qủa của giòng máu tử đạo của các bậc tiền nhân anh hùng tử
đạo của thời xa xưa!
Chịu tù tội, hay chịu tử vì Đạo,
dĩ nhiên không phải là con đường duy nhất những người kitô hữu tiên
khởi đã chịu đựng để làm nhân chứng cho Chúa, các ngài còn phải
trải qua, hoặc đối diện với nhiều hình thức khổ nhục khác nữa để
làm nhân chứng cho Tin-Mầng- Cứu-Rỗi, như Phúc-Âm
đã báo trứớc: người theo Chúa kitô phải chịu nhiều thử thách và xỉ
nhục vì "Nước Trời":
" Hãy coi chừng người đời,
họ sẽ đưa các con ra tòa, sẽ đánh đập các con trong các hội đường.
Các con sẽ bị điệu đếc các thốn đốc và các quân vương vì Thầy, để
làm chứng tá trước mặt các vị ấy và trước người ngoại bang..Các
người sẽ bị nộp do cả cha mẹ , anh em bà con bằng hữu của chính
mình nữa.....Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy....."
(Lk 21:12-16).
Việc cấm Đạo và hành xử bất công
tàn ác đối với người tín hữu vẫn còn tiếp diễn trên giòng lịch sử
nhân loại ngay cả trong thời đại mới của chúng ta, một thời đại mệnh
danh là thời độc lập giải phóng của những con người bị ức hếp,
thời giải phóng nhữg dân tộc nhược tiểu, nói tóm lại thời đại đề
cao phẩm giá con người! Chính trong thời đại thế giới gào thét hai chữ
nhân quyền, thì quyền làm người của những tín hữu kitô nhiều nơi còn
bị vi phạm một cách trắng trợn và dã man!
Hãy đọc lại vài trang sử của
Sô-Viết và các nước theo chế độ cọng sản, trong đó không ai chối cãi
được rắng: việc bắt Đạo và cầm tù, ngược đãi, cư xử tàn ác bất
công, giết hại những người theo Đạo Chúa, được nhà nước cọng sản
nâng lên hàng quốc sách ưu tiên: chẳng hạn, một đạo luật được ban
hành năm 1929 do nhà nước Sô Viết cấm người tín hữu kitô giáo không
được công khai tuyên xưng đức tin! Các nghi thức phụng tự bị hoàn toàn
cấm đoán! Kết qủa là hàng ngàn tu sĩ, giáo sĩ và hăng trăm nghìn
tín hữu bị phát vãng đày aỉ lên vùng băng gía Siberia!
Về phía giáo hội Chính-Thống
giáo, trước cách mạng Bolsovic 1917, số tín hữu có chừng bảy trăm
nghìn(700.000), thế mà đến năm 1939 con số gíao dân chỉ còn lại vỏn
vẹn khoảng năm trăm người(500) nữa mà thôi! ( Winrich Scheffbuch, trong
cuốn sách nhan đề Christians under the Hammer and Sicle, trans. Mark A.
Noll, Grang Rapid: Zondervan Publishing House 1974, p. 116)
Theo gương bắt Đạo tại Sô-Viết, các
nước Đông Âu, đạc biệt là các nước Tiệp-Khắc, Hung gia-Lợi, Romania
áp dụng chinh sách hà khắc bắt bớ giam cầm các tín hữu kitô giáo
kể từ năm 1947. Cuốc sách thời danh nhan đề" The Pastor's Wife"
do bà Sabina Wumbrand viết, sau nầy được nhà xuất bản London& Stoughton
năm cho phát hành năm 1970, cuốn sách là một ký sự tuyệt vời, một
nhân chứng sống động về chính sách đàn áp kitô giáo của nhà cầm
quyền cọng sản Romania!
Phát xuất cùng một nguồn góc, một
chính sách đàn áp kitô giáo của Sô-Viết và các nước cọng sảm chư
hầu Đông Âu, chính quyền Tàu cọng Bắc Kinh và Việt cọng Hà Nội cũng
đã tra tay bắt bớ, triệt hại Đạo Chúa trong suốt cả thập niên năm
mươi dưới danh nghĩa cuộc cách mạng Văn-Hóa(Trung cọng) chiến dịch
cải cách ruộng đất tại miền Bắc và một phần của miền Trung Việt
Nam! Tại Trung Quốc hoặc ở Việt Nam hay tại bất cứ một quốc gia nào
trên thế giới, việc đầu tiên mà người cọng sản thi hành sau khi cướp
được chính quyền, là tra tay khủng bố, triệt hạ, tước đoạt, phá
hoại, trịch thu, xung công các cơ sở và tài sản của giáo-hội, đồng
thời ra tay bắt bớ cầm tù, thủ tiêu, giết hại những người tín hữu,
các giới chức, các giáo sư, thầy giáo, các cán bộ công giáo tiến
hành đặc biệt là các tu sĩ và hàng giáo sĩ địa phương với chủ
trương:" đánh chủ chăn thì đoàn chiên phải tan rã! Những tội ác
của cọng sản vô thần đã đổ xuống đầu biết bao người công dân lương
thiện và gương mẫu.
Chỉ có một lý do mà các tín hữu
phải chịu đối xử bất công, chịu tù đày giết chóc chỉ vì họ tuyên
xưng niềm tin vào Chúa Kitô, và Đạo Thánh của Ngài! Có thế thôi!
Mùa Xuân Năm Mậu Thân 1968, khi cọng
sản tràn vào thành phố Huế, đã bắt hàng ngàn người công giáo, sau
khi đập đánh tàn nhẫn dã man, đã chôn vùi họ nửa sống nửa chết
trong hố đầu vài thước đất! Cuộc chiến Việt Nam đã qua đi, nhưng các
ngôi mồ tập thể tại thành phố Huế cho đến muôn đời vẫn kêu lên tận
Trời tiếng kêu đau thương oan ức của những người tín hữu công giáo Việt Nan!
Sử sách nào sẽ biện minh cho họ? Công lý nào sẽ báo oán cho họ? Ai
sẽ trả lại công đạo cho họ?!
Trước lịch sử và thế giới, chính
Chúa Kitô đã trả lại công đạo, đã trịnh trọng lên tiếng tuyên dương công
trạng của những những vị thánh tử đạo nầy, những vị anh hùng không tên
tuổi nầy:
" Phúc cho các con là những
người bị bách hại vì chân lý, Nước Trời là của các con”! ( Matt
5:10)
Những Cuộc Bách Hại Tân Thời
Trong lịch sử đàn áp tôn giáo, một
điều nghịch lý, bi đát đáng quan tâm là nhiều khi những kitô hữu trung
thực bị những người đồng đạo đàn áp bách hại! Điều đó thường xảy
ra trong một khi Đạo được tự do bành trướng phát triển với đầy đủ
tôn ty phẩm trật cùng các thứ truyền thống, tập quán qui cũ! Tóm
lại, khi Đạo đã biến thành một kiểu sống nào đó(way of life), thì
những cá nhân đạo hữu thường bắt đầu chịu khốn khổ bởi những thành
kiến của những người trong Đạo, cùng chia sẽ một niềm tin! Chiến
tranh tôn giáo trong các thế kỷ 16, 17 và 18 đưa dến cái chết cho hàng
trăm nghìn người kitô hữu sùng đạo! Những tín hữu nầy đã lâm vào
cái chết cũng chỉ vì là nạn nhân của những thiên kiến hẹp hòi,
những nghi kỵ ghen tức của những người tự xưng là môn đệ của cùng
một Chúa, một phép Rửa, một niềm tin ?
Tại nước Ái Nhĩ Lan, sự dằng co
xung đột giữa công giáo và tin lành đã trở thành một thứ thánh
chiến! Bom đạn vẫn không ngưng, cuộc chiến tai ác, tàn khốc mỉa mai
giữa những người đã có mang danh trên thế giới là những môn đệ sùng
mộ Đạo của Chúa Kitô?
Thảm kịch những người kitô hữu bị
cầm tù bách hại lại đang tái diễn ra hôm nay tại Nam Mỹ. Qua truyền
thanh, truyền hình thế giới tân tiến được chứng kiến cảnh tượng giết
chóc nầy mỗi buổi chiều trong phòng ăn của họ qua các thiên phóng sự
thật chi tiết và chính xác! Máu đang chảy tại Nam và Trung Mỹ vì nơi
đây giáo hội công giáo địa địa phương đang làm sự cải tổ từ trong
lòng giáo hội, cải tổ khỏi những bất công đàn áp , bóc lột những
người nghèo, những người lảnh đạo giáo hội địa phương nầy đã đứng
về phía những người nghèo khổ và bị bốc lột, đòi lại nhân phẩm và
quyền lợi cho những người con cái của Chúa đang bị chính các người
đồng hương và đồng đạo của mình đóng đinh trong cuộc đời nghèo đói
thiếu nhân phẩm của con người. Nhưng thương thay, cuộc tranh đấu nầy bị
chính quyền và những người kitô hữu giàu có khác phản đối và ngăn
cấm! Thế là máu lại đổ, những thân xác của những con người con Chúa
lại bị súng đạn của chính quyền công giáo và những ông trùm a-phiến
giáng xuống thê thảm! Cả thế giới đều nhìn thấy những cảnh giết
chóc dã man nầy! Nhưng thế giới đã trở thành thui chột và đui mù! Thế
giới làm ngơ trước sự bất công và đàn áp dã man! Nhiều vị gíam
mục, linh mục, tu sĩ, nữ tu đã bị thảm sát! Theo thống kê cho biết,
trong khoảng 1968 và 1979 có trên 1,500 người giáo dân phải cầm tù, bị
hành hạ hoặc thủ tiêu tại các nước Puebla, tại Paragay và Bolivia..
Bên cạnh sự cầm tù, giết chóc sát
hại những vị lãnh đạo phong trào tranh đấu cho những người bị bóc
lột khai thác, chính quyền địa phương còn dùng đến những chiến thuật
theo dõi đường đi nước bước của các vị lãnh đạo phong trào, đặc
biệt các hội dòng có cơ sở truyền giáo hoạt đông trong vùng chẳng
hạn như dòng Tên, Dòng Đaminh, Dòng Dâng Hiến! Các chính quyền địa
phương đã xử dụng đến những dụng cụ tinh tế của cơ quan tình báo CIA
của Hoa Kỳ để biết những tin tức chính xác về các hoạt động tôn
giáo xã hội trong vùng. Ngoài ra, các chính quyền địa phương còn
dùng những phương thế gian xảo, như gài người vào các tổ chức của
các nhóm hoạt động để gây ảnh hưởng xấu, hoặc để tung ra những báo
cáo láo, những loại thư rơi nhằm làm bẩn tên tuổi, bôi nhọ các nhân
vật sáng gía để làm nhục cho giáo hội!
Ngoài ra, chính quyền địa phương
còn cho người gài khí giới đạn dược vào nhà các linh mục tu sĩ để
rồi lấy cớ vu oan hoặc bắt giam họ vì tội tàng trử khí giới bất
hợp pháp! Những mưu mô trên và muôn vàn chiến thuật dơ bẩn khác do
chính quyền địa phương và các chúa trùm A-phiến bày ra để triệt hạ
những người tranh đấu cho nhân phẩm và quyền lợi của người dân nghèo.
(Xem thêm tài liệu của Reinhold Iblacker trong cuốn Witness of Hope: The
Persecution of Christians in Latin America (Marynoll, N.Y. Orbis Books 1981,
pp.14-16)
Hãy nhìn vào Nước Hoa-Hỳ, nơi có
tượng Nữ Thần Tự Do đứng sừng sửng nêu cao bó đuốc Tư-Do bên bờ cảng
vào thành phố New York!
Hãy nhìn lại Hoa Kỳ, nơi đây trên
tờ giáy bạc dollar uy quyền với hàng chữ:" In God We Trust"
(chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa"!
Hãy nhìn vào Hoa Kỳ nơi đây các
viên chức khi tuyên thệ nhận nhiệm sở phải đặt tay lên sách Kinh Thánh
để tuyên thệ!
Thế nhưng cũng chính trên đất nước
nầy, chính súng đạn của họ đã giết chết giữa thanh thiên bạch ông
Kennedy, vị tổng thống nổi tiếng là tài ba đức độ! Ông Kennedy bị
giết vì ông là vị tổng thống công giáo?
Ông Kennedy bị giết vì ông tranh đáu
cho nhân phẩm con người và nhân quyền của những người nghèo, những
người bần cùng trong xã hội giàu có nhưng đầy bất công nầy?
Hãy nhìn lại Hoa Kỳ: một đất nước
được xây dựng trên nền tảng nguyên tác luân lý đạo đức của kitô giáo!
Thế nhưng súng đạn của Hoa Kỳ đã nổ tung, đã giết hại Martin Luther
King, vị mục sư thời danh, tranh đấu cho sự tự do bình đảng của những
đồng bào da mầu anh em chủng tộc của ông?
Hãy nhìn vào khuôn mặt khả aí của
nước Mỹ! Một quốc gia hãnh diện là anh hùng lãnh đạo thế giới tự
do, là sứ giả nền dân chủ và nhân quyền cho khắp thế giới?
Nhưng nơi đây, trên mãnh đất tụ do
nầy, cũng có hàng ngàn hàng vạn người kitô hữu bị cầm tù, bị
ngược đãi vì đã tranh đấu cho nhân phẩm và quyền lợi của những người
nghèo khổ, bị bóc lột!
Phải chăng Chúa Kitô, dẫu nhập thể
và nhập thế vào giai đoạn lịch sử nào chăng nữa, Ngài luôn luôn phải
chịu đóng đinh! Chúa Kitô luôn luôn phải chịu đóng đinh, không những chỉ
bởi tay những kẻ vô thần hay những phường phàm phu tục tử! Nhưng nhiều
khi còn do tay của những con người mang danh kitô hữu, và nhân danh Đạo
Chúa!
Suốt dọc giòng lịch sử của nhân
loại, ở vào nhiều thời điểm và nơi chốn khác nhau, có hằng hà sa số
những tâm hồn cao thượng nghe theo tiếng gọi làm nhân chứng của Chúa
Kitô! Họ là những người dấn thân làm chứng tá cho nhân đức, cho gía
trị luân lý đạo đức, cho công lý và hoà bình, những người biết
thương cảm và muốn hiến mình trong chương trình giải thoát con người
đau khổ khốn cùng! Những con người có lòng hào hiệp như thế, luôn
luôn bị coi như là chướng ngại vật, những cái gai nhức đối với tầng
lớp trong tư thế nắm quyền sinh tử trên dân chúng, nhưng lại dung quyền
bính để mưu đồ bất chánh nhằm tìm kiếm tư lợi, hưởng thụ, ích kỷ, cầu an
và nhu nhược!
Những người đứng về phía người
nghèo khổ đói rách vô gia cư, thất nghiệp, bệnh hoạn tật nguyền, bị
xã hội ruồng rẩy, những kẻ dấn thân trong phong trào tranh đầu cho
công lý hòa bình, những người can đảm dám nói lên những sự thật đau
lòng ngay trong lòng giáo hội và xã hội, họ là những người chiến đấu
cho lẽ công chính,những người nầy muôn đời sẽ bị bách hại bởi chính
thiểu số trong hàng thống trị, họ sẽ bị đàn áp bởi những người anh
em đồng đạo, đồng lý tưởng với mình! Họ là những người mà Chúa Kitô
đã tiên báo trước rằng sẽ bị bách hại vì lẽ công chính! Họ là
những người đang đi trong đường nẻo của Nước Thiên Chúa! Nhưng họ là
những người được Thiên Chúa chúc phúc! Bởi vì khi Nước Chúa đến, họ
sẽ coi như là tâm điểm của Nước Trời! Khi đó sự dữ sẽ bị thiêu hủy
trong lữa đời đời! Sự bất công phải đươc minh oan! Những gì thuộc về
Chân, Thiện, Mỹ sẽ tồn tại muôn đời!
Trong khi tuyên dương những kẻ chịu
bách hại vì lẽ công chính, Chúa Kitô nói đến sự chúc phúc đang xảy
ra trong hiện tại, chứ không phải chỉ có trong một tương lai xa xôi,
mặc dầu Nước Thiên Chúa mang bản chất của một viễn tượng tương lai
đang đến, tuy nhiên thực thể Nước Trời thực sự đang xảy ra trọn vẹn đầy
đủ ngay hôm nay: theo ngôn từ của Thánh Phaolô trong thư của Ngài gửi
cho tín hữu Do-Thái: " Vì ông mong đợi một thành trìcó nền móng do
chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng (Hb.11:10).
Chỉ có mơ tưởng đến tương lai thôi
cũng đủ sức làm cho ông(Abraham) và con cái ông vững tâm tiếp tục
hành trình, mặc dầu con đường đi nhiều hiểm nguy gian khổ! Tác giả
bức thư cho tín hữu Do-Thái đã tìm thấy niềm uỉ an và trông cậy vì
đoan chắc rằng chính Chúa Kitô đã mở đường dẫn lối cho những ai tin
theo Ngài! Thánh Phaolô đã kết luận bức thư bằng cách nêu lên bằng
chứng của những người đã can đảm theo gương Chúa Kitô, đã hiên ngang
tiên phong trước chúng ta trên con đường chứng tá cho công lý:
"Họ bị ném đá, bị cưa chân,bị
giết chết bằng dao kiếm, aó mặc thì chỉ có da dê da cừu, , chịu
thiếu thốn mọi sự và bị đè nén tàn bạo! Với họ, thế gian đã
chẳng xứng, họ lang thang trong chốn hoang vu, trên núi non, nơi rừng
rậm, trong hang động thâm u, trong hầm hố u tối! Những vị tiền nhân
của chúng ta có một niềm tin cao độ, vì thế họ đã chịu thử thách,
cho nên họ đã không lãnh nhận được điều đã hứa: là vì Thiên Chúa dự
liệu cho ta cái gì hoàn hảo hơn, còn họ, thì chưa đạt tới chỗ hoàn
thành (Hb. 11: 37- 40 ).
Nơi đây, Thánh Phalô mời gọi chúng
ta có cái nhìn siêu vượt không gian và thới gian để tìm về nguyên ủy
, cội nguồn của Niềm Tin chúng ta, là chính Chúa Kitô, vị nhân chúng
tuyệt của Thiên Chúa Cha nơi trần gian:
" Như thế, với rất nhiều nhân
chứng đang bao phủ chung quanh ta như những đám mây bao la trên vòm trờn
thênh thang, chúng ta nên gỡ bỏ hết mọi tơ vương vương vấn tâm hồn, đặc
biệt là tội lỗi đang bám sát chúng ta, rồi bền chí tiếp tục cuộc
chạy đua mà ta đã khởi đầu! Chúng ta không nên rời con mắt khỏi Chúa
Kitô, vị lãnh đạo Đúc Tin của chúng ta, hãy đưa đức tin đến chốn vẹn
toàn. Bởi muốn cho ta hưởng niềm vui tương lai, Chúa Kitô đã không ngần
ngại chịu khổ hình và chịu chết, không coi đó là đều ô nhục! Vì cam
tâm chịu khổ nhục như thế, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn phong làm
vua vũ trụ và an vui bên hữu ngai báu Chúa Cha cho đến muôn muôn đời! (
Hb. 12:1-2 )
Nếu người đời ghét chúng ta như họ
đã ghét Chúa Kitô, như thế Chúa Kitô trở nên mẫu mực của niềm vui
nội tại, của sự chúc phúc mà mọi người tín hữu theo Ngài cần mang
khắc ghi trong tâm trí! Nhờ niềm vui linh thánh đầy ắp trong lòng mà
chúng ta không nao núng khi phải chịu bách hại vì "Lẽ công
chính". Chúa Kitô mãi mãi hiện diện trong giáo hội của Ngài,
đặc biệt ngài luôn luôn hiện diện trong cuộc đời nhân chứng của những
kẻ theo Ngài.
Siêu vượt trên không gian và thới
gian, sự hiện diện của Ngài giữa thế giới, nơi lòng cuộc đời để
nâng đỡ cuộc chứng tá của mỗi người chúng ta! Ngài hiện diện để
gíup ta trở nên những kitô khác( alter Christus) được gửi đến, được sai
vào thế giới, được trao ban cho nhân loại!
Chúa Kitô Hôm Qua và Hôm Nay
Linh mục Joseph Girzone, trong tuổi
hồi hưu, đã viết mấy cuốn chuyện giữa đạo và đời rất hấp dẫn,
trong đó có hai cuốn Joshua và Joshua and the Children, do nhà xuất bản
Macmillan New York phát hành.Qua lời văn miêu tả duyên giáng bình dị,
cha Girzone đã cống hiến độc gỉa chân dung của một Chúa Giêsu thời đại.
Với tên Joshua, cái tên rất thân
thương trong kinh thánh và rất Do-Thái, là hiện thân của Chúa Kitô tân
thời trong bối cảnh của xã hội hiện đại. Joshua xuất hiện trong khu
phố như một người bình dị, sinh sống bằng nghề thợ mộc. Nhưng cuộc
sống thánh thiện và tư cách của anh ta đã khiến cho người dân trong
khu phố từ thán phục đến thắc mắc, nhất là lập trường và ý kiến
của Joshua về các vấn đề liên quan đến gíao hội, xã hội, các vấn đề
luân lý đạo đức! Tuy làm nghề lao động, nhưng Joshua có tầm hiểu biết
quảng bá đến mọi vấn đề, anh không ngần ngại bày tỏ thái độ và
lập trường của mình nếu có ai muốn được soi sáng và thôg cảm! Nhiều
người dân trong khu khố của anh bắt đầu tỏ thái độ ác cảm với anh
vì anh biết nhiều, đặc biệt anh can đảm dám nói lên ý kiến và lập
trường của mình chẳng hạn về những bất công trong xã hội, những lạm
dụng, những tệ đoan trong giáo hội, những lạm dụng quyền bính của
các người nắm vai trò lãnh đạo dân chúng! Những phân tích xây dựng
của anh nghe ra cơ hồ như những lời trong kinh thánh khi Chúa Kitô phê
phán lớp người Biệt phái và Pharisiêu!
Một ngày kia khi Joshua đang bươc đi
trên đường phố, bổng có nhóm người công giáo thủ cựu chận anh lại
chỉ vào mặt anh mạt sát nặng lời là họ rất bất mãn với anh vì
dám thốt ra những lời phê phán giáo hội và các đấng các bậc lãnh
đạo trong đạo. Joshua vẫn giữ nguyên thái độ trầm tĩnh cố hữu của
anh, và bằng giọng nói từ tốn khiêm cung nhẹ nhàng, anh xác định với
họ lập trường ôn hòa của anh, đồng thời nhắc nhớ cho những người
đang tức giận anh về thái độ và hành vi của Chúa Kitô trong tân ước
khi Ngài nhắc nhớ kẻ thù của Ngài về hoạt động của Chúa Thánh Linh
trong tâm hồn con người, và về thời điểm đã đến con người tôn thờ
Thiên Chúa đích thực, phải tôn thờ Ngài trong tinh thần và trong sự
thật. Đến lúc con người cần thoát ra khỏi cái vỏ đạo đức của truyền
thống luật lệ ràng buộc giam hãm con người, nhưng hãy mở rộng tâm
hồn cho Thần Linh của Thiên Chúa hoạt động! Nhưng trong đám đông cuồng nhiệt
kia, có người vẫn hung hãn kết án Joshua là thù thịch chống đối, phê
bình chỉ trích giáo hội La-Mã. Để tả lời cho những tố cáo bịa đạt
có tính cách trả thú cá nhân kia, Joshua mạnh dạn bày tỏ lập trường
của mình:
"Tôi yêu giáo hội, như Chúa
Kitô yêu thương giáo hội của Ngài, giáo hội là món qùa qúy gía mà
Thiên Chúa gửi tặng cho nhân loại! Nhưng vì giáo hội đang trong trần
thế, thế nên giáo hội có khía cạnh thế tục và nhân loại của mình,
vì thế giáo hội cần thiết liên tục tỉnh thức đề phòng những sai
quấy, liên tục canh tân đổi mới, về nguồn cho phù với tinh thần nguyên
thủy của Chúa Kitô, đấng sáng lập giáo hội, Người kitô hữu trưởng
thành không sợ bày tỏ lòng mình cũng như biểu lộ lòng trung thành
của mình đối với giáo hội trong tinh thần chân lý của Chúa Kitô.
Người tín hữu trong giáo hội không phải là đầy tớ tôi đòi của giáo
hội, nhưng thực sự họ là những phần tử sống động, là thành phần
đích thực của đại gia đình giáo hội, theo ngôn từ của Thánh Phêrô,
người tín hữu là những viên gạch sống động của toà nhà giáo hội,
họ là những phần mình của nhiệm thể mà Chúa Kitô là đầu của thân
thể giáo hội! Như thế trong giáo hội đích thực của Chúa Kitô không
có ai là tôi mọi cho ai, không có ai tự coi mình thuộc về giai cấp
thống trị! Chúa Kitô là đầu của nhiệm thể, tất cả kitô hữu là mình
mầu nhiệm là anh em trong Chúa Kitô! Trong Tân Ước đã có nhiều lần
Chúa báo động các vị mục tử của đoàn chiên phải trở thành những
người đầy tớ để phục vụ đoàn chiên. Thế nên người tín hữu trong đoàn
chiên của Chúa không nên sợ hãi khi phải nói lên sự thật nhằm xây dựng
cho đoàn chiên của Chúa Kitô. Tôi nói những gì tôi cần phải nói vì
tôi quan tâm đến giáo hội, một giáo hội mà Chúa kitô muốn thành lập
là thiên đàng của an bình, là ngọn đèn s6ng soi chiếu cho người trần
thế, vì thế giáo hội không thể là nhà tù giam hãm tinh thần hoặc
là lưỡi kiếm để đâm chém và gây thương tích cho ai”!( New York,
Macmillan Publishing Co. 1983, p.125)
Nghe Joshua phân trần thế, có nhiều
người càng căm giận anh ta, có người nhào tới đòi đã thương anh, có
người tỏ lời trách móc thậm tệ, có người cho rằng anh ta là loại
tà đạo, là giáo gian, là đạo rối! Có kẻ thề hứa sẽ tìm cách dứt
điểm anh để anh không gây ảnh hưởng đến cọng đoàn khu phố!
Khi đám người cuồng tín đã bỏ đi,
Joshua chỉ còn biết lắc đầu chịu thua, anh nhớ lại thái độ của
những người Pharisêu và luật sĩ trong thế kỷ thứ nhất đã cư xử với
Chúa Kito thế nào! Hai nghìn năm sau, hai nghìn năm lịch sử của Kitô
giáo, trong số những tín hữu, vẫn có những Pharisiêu tân thời, vẫn
còn những tên luật sĩ mới hung hãn muốn lên ngôi Thiên Chúa, muốn
biến mình thành Đạo, và họ vẫn cho mình lên ngai chúa tể của loài
người! Hai nghìn năm lịch sử kitô giáo, ngưới tín hữu vẫn chưa học
biết Thiên Chúa muốn làm gì cho nhân loại nầy!?
Mãi về sau, khi cuộc xung đột giữa
nhóm cuồng tín và Joshua càng trở nên trầm trọng, có người tò mò
hỏi thử Joshua cái bí quyết nào giúp anh sống được trong an bình,
sống an vui được ngay trong gây cấn như thế? Joshua mỉn cười với đôi
mắt hướng về trời:
" Sự an bình của tôi đến tự
nội tâm, sự đơn giản của đời sống tôi phản chiếu những gì tôi có
trong linh hồn...Tôi không để cho lòng mình bị thương tích bởi các
biến cố xảy ra bên ngoài...càng ngày tôi càng ý thức và xác tín
rằng bản tính con người đang ở trong một tiến trình hoàn thiện
hơn..chúng ta cần trở nên hoàn thiện, đó là lý tưởng và ơn gọi của
mỗi người...nhưng dầu có tiến tới bao nhiêu, chúng ta vẫn nguyên vẹn
là những con người bất toàn, khiếm khuyết, học biết mình là bất toàn
khiếm khuyết không phải để bi quan yếm thế nhưng là để ta trở nên
khiêm tốn hơn và biết thương cảm tha nhân hơn! Tôi hiểu biết thế và tôi
chấp nhận thực trạng con người như thế! Tôi thích dân chúng và chấp
nhận họ trong thực trạng của họ. Tôi tìm thấy trong họ có nhiều đều
làm tôi vui thích vì Thiên Chúa Cha đã sáng tạo ra họ như thế! Hãy
kiếm tìm Thiên Chúa và học để yêu thương dân chúng, rồi bạn sẽ tìm
thấy sự an bình và hoà hợp với thiên nhiên (Joshua p. 151, Macmillan
, New York 1983).
Trên đây là lý do tại sao Chúa Kitô
chúc phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, sự chúc phúc
nầy đang xảy ra hôm nay cũng như còn sẽ xảy ra trong tương lai!
Sự an bình nội tại đang đến với tâm
hồn ta hôm nay, và ngay trong giây phút hiện tại nầy! Đó là món quà vô
cùng qúi giá mà Chúa Cứu Thế trao ban cho các môn đệ và cho tất cả những
ai tín thác vào sứ điệp Phúc-Âm của Ngài!
Rev.Nguyễn Quốc Hải, Ph.D
Nguồn Web Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Danh sách các lời xin lỗi của Giáo hoàng Gioan Phaolô II
Sự đối xử bất công đối với phụ nữ, sự vi phạm quyền phụ nữ cũng như
việc bôi xấu, gièm pha, phỉ báng vai trò của phụ nữ (viết trong một bức
thư gửi cho toàn bộ giới phụ nữ trên hoàn cầu vào ngày 10 tháng 7 năm
1995).[2][3][4][5]
Sự im lặng của nhiều chức sắc Công giáo trước các hành động diệt chủng của chế độ phát xít (16 tháng 3 năm 1998)[2][3][4][5]
Thừa nhận sai lầm của Giáo hội trong việc xử tử Jan Hus (18 tháng 12 năm 1999 tại Praha).[2][3][4][5]
Tội của Giáo hội Công giáo trong việc vi phạm quyền lợi chính đáng của các nhóm sắc tộc
cũng như sự xâm phạm nền văn hóa, tôn giáo tín ngưỡng truyền thống của
các dân tộc khác. (12 tháng 3 năm 2000, trong sự kiện xin lỗi tập thể
trước đám đông tại Vatican).[2][3][4][5] Trong sự kiện ngày 12 tháng 3 năm 2000, giáo hội La Mã đã xưng thú 7 tội[6] bao gồm:
Tội chung.
Tội gây ra nhân danh "chân lý".
Tội về việc gây ra chia rẽ giữa các tín đồ đạo Thiên Chúa.
Tội trong những hành động với ý muốn thống trị kẻ khác, với thái độ
thù nghịch đối với các tôn giáo khác, không tôn trọng truyền thống văn
hóa và tôn giáo của các dân tộc nhỏ, kém phát triển.
Ngày 20 tháng 11 năm 2001, Giáo hoàng đã gửi thư điện tử đầu tiên của mình có nội dung xin lỗi về các tội của Giáo hội đối với các vụ án lạm dụng tình dục trong giới Công giáo, đối với thế hệ bị đánh cắp trong cộng đồng người bản địa ở Úc, và đối với những hành động tàn ác của các nhà truyền giáo tại Trung Quốc trong quá khứ.[7]
“
Một lời biện hộ còn tệ hơn cả một lời dối trá, vì lời biện hộ là một lời dối trá được bảo vệ.
Những
hình vẽ trên cao nguyên Nazca cho tới ngày nay vẫn là một trong những
bí ẩn thú vị nhất của lịch sử. Ai đã thiết kế và làm nên những hình vẽ
này, và vì sao? Làm sao người xưa có thể tạo ra những hình vẽ khổng lồ,
chính xác trên mặt đất mà chỉ có thể thấy rõ từ trên cao?
Có
hơn 13.000 đường thẳng và 800 hình vẽ khổng lồ, đa phần mô tả các động
vật, thực vật. Những hình vẽ này mãi tới năm 1927 mới được phát hiện,
khi một phi công tên Toribio Mejia Xespe bay qua khu vực và nhìn thấy
nhiều hình dạng khổng lồ qua cửa sổ máy bay.
ADVERTISEMENT
Trong những năm sau đó, đã có rất nhiều giả thuyết được đưa ra nhằm giải thích cho những hình dạng cỡ lớn này:
Nhà
nghiên cứu Erich Von Däniken tin rằng các hình vẽ Nazca là một loại
“đèn báo hạ cánh” mà chỉ các vị thần mới nhìn thấy, giúp đánh dấu trên
mặt đất và đợi sự trở lại của họ tới Trái Đất.
Cũng có giả thuyết cho rằng đây là những đường hạ cánh cho tàu vũ trụ của người ngoài hành tinh.
Nhà
khảo cổ Maria Reiche cho rằng những đường kẻ này có liên hệ với thiên
văn học. Một vài hình vẽ có vẻ tương ứng trực tiếp với các chòm sao mà
chỉ xuất hiện trong một vài mùa nhất định. VD: hình vẽ con khỉ tương ứng
với chòm sao Đại Hùng, hình Cá heo và Nhện tương ứng với chòm Orion.
Nhà
nghiên cứu độc lập David JOhnson đưa ra giả thuyết rằng những hình vẽ
này đánh dấu các đường nước ngầm, giếng bên dưới cao nguyên. VD: hình
thang dùng để chỉ giếng nước bên dưới, chim ruồi (với mỏ dài và nhọn)
chỉ một cái giếng lớn. Đây là một giả thuyết thú vị, nhưng chưa giải
quyết được nhiều bí ẩn khác của cao nguyên này. Và tại sao phải làm ra
những hình vẽ “hoành tráng” đến thế chỉ để đánh dấu mạch nước?
Viện
Khảo cổ Đức và Viện Khảo cổ vùng Andes cùng chia sẻ một giả thuyết. Họ
đã tìm ra các đồ cúng tế trong những hố nhỏ gần các hình vẽ, nên họ cho
rằng tất cả những điều này dường như là để cầu xin vụ mùa tốt tươi và có
nguồn nước dồi dào.
Có
lẽ hình vẽ bí ẩn làm các nhà khoa học bối rối nhất chính là con nhện.
Các nhà côn trùng học phát hiện rằng đây chính là một loài nhện hiếm
nhất thế giới thuộc giống Ricinulei.
Đây
là giống nhện không có ở Peru mà chỉ sống sâu trong vùng xa xôi nhất
của rừng Amazon, cách cao nguyên này 1500 km. Về danh tính giống nhện
này thì không có gì phải nghi ngờ, nhưng điều đáng kinh ngạc là sự chính
xác của hình vẽ. Con nhện này có cơ quan sinh sản ở cuối một chân của
nó, mà chỉ có thể quan sát được dưới kính hiển vi. Vì vậy, câu hỏi làm
sao mà người cổ đại biết được điều này vẫn còn là một bí ẩn.
Ngoài
ra, phương pháp thi công cũng còn chưa được xác định: các hình vẽ kéo
dài hàng km, một số hơn 8km, 1 số lên tới 65km, và chỉ có thể nhìn rõ
toàn bộ khi bay thật cao khỏi mặt đất.
Những
bí ẩn vẫn còn đó và chưa có câu trả lời chính thức từ các nhà khảo cổ.
Tuy nhiên, Peru và các nước nằm trên dãy núi Andes, trong những năm qua
đã xuất hiện rất nhiều cổ vật thú vị, mà khi đặt cạnh nhau có thể cho
chúng ta thấy trình độ công nghệ cao cấp của một nền văn minh cổ đại.
Trong phần 2, chúng tôi sẽ phân tích một giả thuyết có nhiều khả năng xảy ra nhất tính tới thời điểm này.
Theo Massimo Bonasorte/ Ancient Origins Phong Trần biên dịch
Google Earth: Nhiều công trình cổ đại nổi tiếng trên Trái Đất đều nằm trên một đường thẳng
Thứ ba, 06/09/2016 • 31.0k lượt xem
Đảo
Phục Sinh, các kim tự tháp Ai Cập, các hình vẽ trên cao nguyên Nazca ở
Peru, quần thể đền đài Ăng-co-vát (Angkor Wat)… Hãy tưởng tượng một
đường thẳng địa lý kỳ bí kết nối nhiều địa danh trọng yếu của thế giới
cổ đại. Trên thực tế, khi các địa danh chủ chốt được đánh dấu trên quả
địa cầu, một vòng tròn gần như hoàn hảo sẽ xuất hiện, cho thấy một bí ẩn
vẫn chưa có lời giải thông qua khám phá khảo cổ.
Một
danh sách đáng kinh ngạc các di chỉ văn hóa quý báu của Trái Đất có thể
được tìm thấy trên vòng tròn bí ẩn này khi nó đi qua các hòn đảo nhỏ,
một số lục địa, và ngay cả các vị trí tiềm năng của những địa danh trong
huyền thoại.
Ở
châu Phi, vòng tròn này đi qua cao nguyên Tassili trên sa mạc Sahara,
các kim tự tháp Ai Cập, và lên phía trên qua các địa danh chủ chốt dọc
theo các con sông Tigris, Euphrates và Nin—ba dòng sông có ảnh hưởng lớn
nhất thời cổ đại. Khi tiếp tục lần theo đường vòng cung này, bạn sẽ đến
kinh đô Persepolis của Đế quốc Ba Tư cổ đại, thành phố cổ Mohenjo-Daro,
đền thờ thần Ammon trên ốc đảo Siwa, và thành phố bị thất lạc Petra—một
trong bảy kỳ quan mới của thế giới cổ đại.
Tiếp
tục đi dọc theo con đường này bạn sẽ đến thành phố Ur của nền văn minh
Sumer cổ đại, quần thể đền đài Ăng-co-vát (Angkor Wat) ở Campuchia và
Thái Lan, vùng Biển Chết ở gần Địa Trung Hải, dãy núi Himalaya, sông
Tiền Đường ở tỉnh Chiết Giang – Trung Quốc, và khu di tích được một số
người nhìn nhận là lục địa Atlantis trong huyền thoại. Điều đáng kinh
ngạc là đường tròn bí ẩn này đã liên kết các địa danh này trong một
khoảng sai số không vượt quá 1/10 của một độ vĩ độ, với tâm vòng tròn
đặt ở miền đông nam bang Alaska, Mỹ.
ADVERTISEMENT
Trong bài viết “Trật tự sắp xếp của các kỳ quan thế giới thời tiền sử”(“The Prehistoric Alignment of World Wonders”),
tác giả Jim Alison đã mô tả rất chi tiết nhiều cách hoán vị toán học
được tìm thấy bên trong vòng tròn lớn này và các địa danh liên kết với
nhau trong đó. Ông viết: “Có thể dễ dàng quan sát trật tự sắp xếp của
các địa danh này trên một quả địa cầu mô phỏng Trái Đất thông qua một
đường tròn chân trời. Kết nối hai địa danh bất kỳ trên đường tròn chân
trời, ta sẽ đồng thời kết nối tất cả các địa danh này trên đường tròn
đó. Có thể sử dụng các chương trình phần mềm vẽ bản đồ thế giới 3D để vẽ
minh họa vòng tròn lớn này quanh Trái Đất”.
Vậy vòng tròn này biểu thị điều gì?
Nhiều
người nói rằng những kết nối này cho thấy người cổ đại đã sở hữu một
lượng tri thức rộng lớn hơn nhiều so với hiểu biết hiện nay của chúng
ta. Những người khác lại cho rằng vì tâm vòng tròn đặt ở Alaska (trên
Canada, gần Bắc cực), nên trật tự sắp xếp của nó có thể đã miêu tả vị
trí các cực của Trái Đất trước khi chúng được dịch chuyển đến vị trí
hiện tại.
Ngoài các giả thuyết và
phỏng đoán, một điểm chung giữa các địa danh này là tại mỗi khu vực đều
tọa lạc các công trình kiến trúc rất tinh xảo. Một số địa danh trên vòng
tròn này biểu thị một trình độ công nghệ vượt bậc mà cho đến nay các
nhà nghiên cứu hiện đại vẫn chưa thể giải thích.
Các
kim tự tháp Ai Cập, thành phố Petra, pháo đài Ollantaytambo, và những
nơi khác trên vòng tròn này thể hiện những kỹ nghệ điêu luyện tiếp tục
làm chấn động và truyền cảm hứng cho nhân loại ngày nay. Hiệu ứng tương
tự cũng có thể được tìm thấy trên cao nguyên Nazca, Peru. Ngôi làng cổ
đại này vẫn tiếp tục làm chấn động các nhà nghiên cứu trước cách thức và
nguyên nhân những thổ dân thời kỳ tiền Colombo tạo ra hơn 300 hình vẽ
khổng lồ trên vùng đất Peru. Cũng giống như chính vòng tròn liên kết
khổng lồ, các hình vẽ biểu thị các loài khỉ, chim, nhện, và các loài
động vật khác được phát hiện trên cao nguyên Nazca nổi tiếng chỉ có thể
được quan sát rõ ràng tại một độ cao đáng kể so với mặt đất. Trong hoàn
cảnh không có những cỗ máy bay hiện đại, làm thế nào và vì lý do gì
những con người cổ đại này đã tạo nên những mẫu hình to lớn đến như thế?
Và những đường thẳng khác…
Vào
những năm 1920, nhà sưu tầm đồ cổ nghiệp dư Alfred Watkins đã quan sát
thấy các địa danh linh thiêng ở Anh nằm đúng trên một chuỗi các đường
thẳng liên kết với nhau, mà ông gọi là “các đường Ley” (“ley lines”).
Khi được vẽ trên một tấm bản đồ, các vòng tròn đá, đài tưởng niệm, và
các khu vực định cư cổ đại được xếp ngay ngắn thành hàng dọc khắp đất
nước. Kết quả quan sát đã khiến một số người tin rằng những đường thẳng
này tượng trưng cho một hệ thống phong thủy được con người cổ đại sử
dụng để xác định vị trí xây dựng các công trình kiến trúc khác nhau.
Rất
giống với các đường kinh mạch trong cơ thể, những người nghiên cứu các
đường Ley này đã nhấn mạnh rằng Trái Đất cũng có hệ thống kinh mạch của
riêng mình.
Nếu những
con người cổ đại đã thực sự sử dụng một hệ thống như vậy để thiết lập vị
trí xây dựng, thì bằng cách nào họ xác định được vị trí đặt các đường
thẳng? Hơn nữa, phải chăng vị trí của các địa danh được tìm thấy trên
vòng tròn lớn này cũng chịu nhận ảnh hưởng của các nguyên lý phong thủy
kỳ bí, nhưng trên một phạm vi rộng lớn hơn? Bởi vì các địa danh trên có
liên quan đến một số nền văn hóa vốn không đươc biết có bất kỳ mối liên
hệ nào với nhau, chúng ta sẽ phải xem xét đến khả năng chúng chỉ đơn
thuần phản ứng trước một hệ thống vượt quá sự hiểu biết hiện tại.
Bạn
có thể xem vòng tròn đi qua 4 điểm chính: Đảo Phục Sinh, kim tự tháp Ai
Cập, các hình vẽ trên cao nguyên Nazca ở Peru, quần thể đền đài
Ăng-co-vát rõ hơn trong video dưới đây: (từ đầu đến 2:46)
Leonardo Vintini, theepochtimes.com Thanh Hải biên dịch
Những hòn đá bí ẩn của Peru: Bằng chứng về nền văn minh cổ đại tiên tiến?
Thứ sáu, 12/05/2017 • 24.2k lượt xem
Có
khoảng 50.000 hòn đá cổ đại được tìm thấy quanh vùng sa mạc tại Ica,
Peru, những bức phù điêu dường trên đó như thách thức hiểu biết hạn hẹp
của con người về nền văn minh tiền sử.
Bài viết của Nancy Sathre-Vogel – một giáo viên, nhà văn từng du ngoạn suốt chiều dọc châu Mỹ bằng xe đạp cùng gia đình.
—***—
Khi
hồi tưởng lại về những chặng đường tôi đã đi trong 3 năm qua, cùng
chồng và các con từ Alaska đến Argentina, có rất nhiều điều mới lạ kích
thích trí tò mò của tôi. Nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng những hòn đá
có thể thu hút tôi mạnh mẽ đến thế.
Kể
từ đó, tôi chưa bao giờ tin rằng mình sẽ có dịp chiêm ngưỡng 20.000 hòn
đá dị thường được chạm trổ một cách tinh vi bởi một nền văn minh cổ xưa
bí ẩn.
Bởi
sự tò mò thôi thúc muốn được thấy nhiều hơn, tôi ngó qua cánh cửa Bảo
tàng đá của tiến sĩ Cabrera ở Ica, Peru. May mắn thay, con gái ông,
Eugenia, sẵn lòng mở cửa bảo tàng cho chúng tôi và đồng ý chỉ đường.
Chuyến tham quan thật tuyệt vời, tôi chăm chú lắng nghe từng lời của cô
gái.
Tại bảo tàng
Bảo
tàng đá của tiến sĩ Cabrera là một bảo tàng nhỏ, nằm riêng biệt trên
quảng trường Plaza de Armas tại Ica, Peru, cách Lima khoảng 4 giờ đi về
phía Nam. Nó được lập nên bởi tiến sĩ Javier Cabrera để bảo vệ các khối
đá bí ẩn tìm thấy trong khu vực.
Tiến
sĩ Cabrera đã qua đời vài năm trước, nên hiện nay bảo tàng được tiếp
quản bởi con gái ông để cô có thể chuyển giao những tri thức quý giá cho
đời sau.
Những hòn đá cổ
Hơn
50.000 viên đá chạm trổ đã được tìm thấy trong sa mạc xung quanh Ica.
Khoảng 20.000 trong số đó được lưu giữ tại viện bảo tàng.
Bên
cạnh số lượng khổng lồ, ấn tượng đầu tiên ở những viên đá là: chúng
nặng hơn những hòn đá thông thường. Chúng có hai lớp, lớp bazan đen ở
giữa và một lớp màu đen sáng bóng bên ngoài. Chúng có tất cả các kích
cỡ, từ cỡ nhỏ hơn lòng bàn tay cho đến một mét.
Dù ở kích thước nào, tất cả chúng đều gồm hai lớp và đều được chạm khắc tinh xảo với độ chính xác cao.
Những hình chạm trổ
Những
hòn đá được chạm khắc hình người cổ đại. Chúng mô tả rất nhiều bối cảnh
cuộc sống hàng ngày. Những tác phẩm chạm khắc ngoạn mục nhất (và bí ẩn
nhất) diễn tả kiến thức y học tiên tiến bao gồm: phẫu thuật não, cấy
ghép tim, và thử nghiệm di truyền.
Có
những viên đá dường như miêu tả chi tiết việc cấy ghép tim, hoặc một
người lấy bộ não ra khỏi bệnh nhân và đặt nó vào một loại máy móc để giữ
não sống.
ADVERTISEMENT
Trong một số tác phẩm điêu khắc khác, các nhân vật sử dụng kính viễn vọng và quan sát các vì sao.
Những điều này có ý nghĩa gì?
Đáng
tiếc rằng, chúng tôi không thực sự biết chắn chắn những hòn đá được
chạm trổ chứa đựng điều gì. Khi những hòn đá này được phát hiện lần đầu
tiên tại vùng sa mạc gần Ica, Peru, người ta không biết chúng là gì và
có một nông dân đã bắt đầu bán chúng cho khách du lịch (và ngay cả bán
cho TS. Canbrera).
Ngay
khi chính phủ đe dọa sẽ bắt giam vì tội buôn bán cổ vật, người nông dân
lập tức khẳng định mình đã tự khắc những viên đá. Khi đó, báo chí đưa
tin rằng người nông dân hoặc một nhóm nhỏ đã khắc những hòn đá để kiếm
lời.
Dẫu vậy, câu chuyện này chứa đựng nhiều lỗ hổng.
Với
50.000 hòn đá được tìm thấy hiện nay (tất cả đều được tìm thấy tại sa
mạc quanh Ica), việc khắc hết toàn bộ chúng là hầu như bất khả thi đối
với một nhóm nhỏ. Giả sử họ đã liên tục khắc trong 50 năm; điều đó nghĩa
là họ đã khắc 1.000 hòn đá mỗi năm, tức 3 hòn mỗi ngày.
Liệu
thật sự có một người đủ tận tụy để khắc nên những hòn đá này? Hoặc một
nhóm nhỏ? Tại sao họ có thể giữ bí mật lâu đến thế? Tại sao một người
nông dân nghèo ở vùng nông thôn Peru lại biết được những điều khắc họa
trên những phiến đá này?
Không
ai thực sự biết được người đã khắc những hòn đá và vì sao họ làm vậy,
nhưng TS. Cabrera tin rằng chúng chính là bách khoa toàn thư về kiến
thức cổ xưa.
Ông
đưa ra giả thuyết rằng một nền văn minh siêu đẳng đã từng tồn tại trong
khu vực này. Đó là một xã hội cực kì tiên tiến với kiến thức cao cấp về
thiên văn học, vật lý học và y học. Những người cổ đại này cũng biết
rằng sự kiện đại hủy diệt sắp xảy ra sẽ phá huỷ gần như mọi thứ trên
trái đất.
Trong
nỗ lực để lưu giữ kiến thức và truyền lại cho thế hệ tương lai, tất cả
người dân trong nền văn minh cổ đại đó đã khắc đá. Các tảng đá bền cứng
và hầu như không thể phá hủy, sẽ có thể lưu lại sau sự kiện đại hủy
diệt.
Họ
đã đặt những tảng đá ở một vị trí an toàn, nhưng chúng bị phân tán rải
rác khắp nơi, trôi dạt trên sông hoặc tản ra những khu vực khác qua các
quá trình vận động tự nhiên. Cabrera tin rằng vẫn còn nhiều hòn đá được
lưu giữ trong một hang động nào đó, nhưng đến nay vẫn chưa được tìm
thấy.
Có những hòn đá miêu tả khủng long, nghĩa là khủng long đã sinh sống trong nền văn minh này?…
Có vô vàn lý thuyết về cách thức và lý do tại sao những tảng đá này được khắc. Hãy chia sẻ suy nghĩ của bạn ở phần bình luận!
Các
loài động vật được khắc hoạ trông giống với bò, hươu, hươu cao cổ cùng
các loài khác. Một số còn trông giống như bọ ba thùy (một loài sinh vật
cổ đại tồn tại từ 600 triệu cho đến 260 triệu năm trước), những loài cá
đã tuyệt chủng, và các loài động vật khác mà chúng ta không quen thuộc.
Điều ngạc nhiên nhất là, một số hòn đá còn có khắc những hình người đang
cố gắng giết khủng long, hoặc bị khủng long ăn thịt.
Tiến
sĩ Dennis Swift, nhà nghiên cứu khảo cổ thuộc ĐH New Mexico (Mỹ), là
tác giả của cuốn sách “Bí ẩn về các hòn đá Ica và những hình vẽ trên cao
nguyên Nazca”. Ông cho biết, một trong những lý do những hòn đá này bị
coi là đồ giả mạo là: vào những năm 1960, các nhà cổ sinh học cho rằng
loài khủng long kéo lê cái đuôi dưới đất khi di chuyển, trong khi các
hòn đá này lại miêu tả loài khủng long với cái đuôi dựng lên. Vì những
bức hình khủng long này bị xem là thiếu chính xác, nên các nhà khoa học
đã cho rằng những hòn đá này không thể được tạo ra bởi con người vào 65
triệu năm trước đây. Tuy nhiên, sau đó người ta đã khám phá ra rằng
khủng long thực sự di chuyển với cái đuôi không chạm đất. Những hòn đá
Ica đã đúng.
Bí ẩn hình vẽ cá voi sát thủ khổng lồ trên sườn đồi giữa sa mạc Peru
Thanh Hà /
VietTimes – Các nhà
khảo cổ học đã khám phá ra một hình vẽ khổng lồ dài tận 70 mét được khắc
vào sườn đồi ở Peru. Hình vẽ có niên đại hơn 2.000 năm này mô tả loài cá voi
sát thủ, sinh vật bán thần rất mạnh theo quan niệm của người Peru cổ đại. Nó thậm
chí còn có niên đại lâu hơn cả những công trình khổng lồ trên cao nguyên Nazca
gần đó.
Mô hình cá voi sát thủ của người Peru (ảnh: Daily Mail)
Các chuyên gia nói rằng, những người từng
sống trong vùng này đều coi cá voi sát thủ là một vị thần biển hùng
mạnh, và hình vẽ đặc biệt này có thể là một trong những hình họa cổ nhất
trong khu vực – thế nhưng ngày nay, khu vực này bị đe dọa bởi những kẻ
buôn bán đất đai. Điều này có thể khiến bức khắc họa cá voi sát thủ bị
hủy hoại nghiêm trọng.
Hình họa cá voi sát thủ dài 70m trên sườn đồi ở giữa sa mạc Peru. Ảnh: Daily Mail
Theo tổ chức Bradshaw, hình vẽ cá voi sát thủ
đã được một nhóm các nhà khảo cổ Đức phát hiện vào những năm 1960 ở
vùng Palpa thuộc miền Nam Peru, nhưng trong nhiều thập niên sau đó, nó
đã bị mất tích.
Có rất ít dấu vết của hình vẽ cá voi sát thủ tồn tại trong hồ sơ.
Ông Johny Isla – nhân viên của Bộ Văn hóa Peru đã phát hiện ra bức ảnh
hình cá voi lần đầu tiên cách đây khoảng 4 năm khi đang nghiên cứu các
hình lưu lại ở Viện Khảo cổ học Đức tại Bonn. Theo Live Science, ông
cùng đoàn khoa học bước đầu thực hiện tìm kiếm trên hình vẽ cá voi sát
thủ trên bản đồ Google Earth. Nhưng do kích thước và vị trí không chính
xác khiến công cuộc tìm kiếm gặp nhiều khó khăn.
Cuối cùng, sau thời gian dài nỗ lực tìm kiếm không mệt mỏi, các nhà khảo cổ đã thành công tìm thấy nó vào tháng 1/2015.
Palpa nằm gần tỉnh Nazca – đây chính là khu vực của các “Đường băng Nazca Lines”
nổi tiếng do người Nazca vẽ từ năm 100 trước Công nguyên đến năm 800
sau Công nguyên. Theo các chuyên gia, những người tạo ra hình vẽ cá voi
sát thủ vẽ trên sườn đồi bằng cách tách một lớp đá mỏng để tạo thành
đường viền hình vẽ. Kỹ thuật này tương tự như cách những người dân ở nền
văn hóa Nazca làm với “ Đường băng Nazca” nhưng với kích thước lớn hơn
nhiều. Đôi mắt và nhiều bộ phận khác của cá voi sát thủ được làm cách
xếp đá chồng lên nhau. Các nhà nghiên cứu nói rằng đây là một kỹ thuật
đặc biệt của nền văn hóa Paracas trong khu vực này từ năm 800 đến 200
trước Công nguyên.
Theo Bradshaw Foundation, nền văn hóa Paracas là một xã hội ở nền văn minh Andes
nổi tiếng với kiến thức sâu rộng về thủy lợi và nông nghiệp. Cùng với
các hình vẽ tuyệt đẹp, người cổ đại cũng có kỹ thuật dệt may độc đáo.
Bên cạnh mối đe dọa bởi những kẻ buôn bán đất đai, vấn đề thời tiết
cực đoan rất có thể sẽ hủy hoại hình vẽ. Cụ thể, trong những năm qua,
thời tiết bất thường đã khiến một số nét khắc họa bị mờ đi hoặc hiện ra
nét mới không theo khuôn khổ.
Nguồn: Daily Mail
Bí ẩn mãi mãi không có lời giải về 13 hộp sọ pha lê ‘có thể nói chuyện, ca hát và tồn trữ trí tuệ’
Tổ tiên người Maya kể rằng thời
xưa có 13 hộp sọ pha lê, chúng có thể nói chuyện, ca hát, tồn trữ bí mật
và trí tuệ. Thế rồi một ngày kia chúng bỗng lộ diện trên thế gian này.
Câu chuyện kỳ lạ ấy đã được người đời sau ví như một truyện cổ tích thần
thoại.
Vào đầu những năm 1990 thế kỷ trước,
hai nhà làm phim người Anh đã tìm thấy trong ngôi miếu cổ ở giữa rừng
già Guatemala hộp sọ pha lê đầu tiên, khiến tất cả mọi người đều nín
lặng! Mười mấy năm sau đó, các hộp sọ pha lê—y như dự ngôn của các nhà
tiên tri nói—lần lượt xuất hiện trên thế giới. Tới ngày 09-10-2010, khi
bốn vị trưởng lão Maya đem 13 chiếc hộp sọ pha lê tập hợp ở New York,
thì toàn thế giới đều nhắc lại lời tiên tri của người Maya,
“…khi 13 hộp sọ pha lê đoàn tụ cùng nhau, thì chính là lúc giao thời
giữa thế giới cũ và mới, cũng là giai đoạn tịnh hóa của địa cầu“.
Tranh sơn dầu: “Thiên nhân hợp nhất”
Ngoài đó ra, những hộp sọ pha lê còn
khai mở những bí mật gì cho chúng ta? Một số nhà thông linh có công năng
đặc dị đã truyền đạt thông điệp về các hộp sọ pha lê từ góc độ khoa học
hiện đại—13 vật chứa trí tuệ này được làm thành hình hộp sọ, là để nhắc
nhở nhân loại về một khái niệm bị lãng quên—gọi là “nhất thể hóa”, nghĩa là tinh thần cũng là vật chất, vật chất cũng là tinh thần.
Một trong những vật bí ẩn và gây tranh cãi
nhất trên thế giới, từng tạo cảm hứng cho bộ phim mới đây nhất về
Indiana John. Theo truyền thuyết, khi 13 hộp sọ pha lê của nền văn minh
đã mất được đoàn tụ, chân lý vũ trụ sẽ được tiết lộ cho con người.
Nhà tiên tri đại tài người Pháp Nostradamus đã viết trong cuốn sách tiên tri «Các Thế Kỷ» nổi tiếng của ông như sau: “…mười ba hộp sọ pha lê, Sẽ dẫn bạn tìm đến ‘đại lục thứ 6’ bị thất lạc…”
Những giấc mơ kỳ lạ
Chiếc sọ đầu tiên thuộc loại này được
tìm thấy vào năm 1927 tại Trung Mỹ, trong chuyến khảo sát của nhà khảo
cổ học nổi tiếng người Anh F.Albert Mitchell-Hedges. Chuyến khảo sát này
thực ra đã bắt đầu từ năm 1924, với mục đích nghiên cứu một thành phố
cổ của người Maya trong những khu rừng rậm nhiệt đới ẩm ướt của bán đảo
Ukatan (Beliza).
Ba năm sau, Mitchell-Hedges cho cô con
gái Anna cùng đi trong chuyến khảo sát tiếp theo tại đây. Vào một ngày
tháng 4-1927, Anna tình cờ phát hiện một vật kỳ lạ nằm dưới đống đổ nát
của một bàn thờ cổ xưa. Đó là một chiếc sọ người làm bằng thạch anh (một
dạng pha lê trong suốt), được đánh bóng một cách hoàn hảo và có kích
thước y như thật.
Xương sọ pha lê “Mitchell-Hedges” tìm thấy tại Trung Mỹ vào năm 1927
Từ thời điểm này, những câu chuyện lạ
lùng bắt đầu xảy ra với những người tiếp xúc với chiếc sọ, đầu tiên là
Anna. Cứ mỗi lần đặt chiếc sọ bên cạnh giường ngủ, Anna lại gặp những
giấc mơ ù kỳ lạ. Thức dậy sau mỗi buổi sáng, cô có thể kể lại chi tiết
những điều đã nhìn thấy trong mộng – chủ yếu liên quan đến cuộc sống của
người da đỏ từ cả ngàn năm trước.
Sau cái chết của người cha vào đầu những
năm 1960, Anna quyết định trao chiếc sọ cho các chuyên gia xem xét, đầu
tiên là nhà nghiên cứu nghệ thuật Frank Dordland. Sau khi xem xét tỉ mỉ
từng chi tiết, ông phát hiện trong chiếc sọ có một hệ thống hoàn chỉnh
các thấu kính, lăng kính và rãnh tạo nên những hiệu ứng quang học kỳ lạ.
Dordland còn ngạc nhiên hơn khi nhận thấy, khối pha lê này được đánh bóng lý tưởng đến nỗi, kính hiển vi
cũng không thể nhìn thấy những dấu vết của quá trình gia công. Cuối
cùng, ông quyết định liên hệ với hãng Hewlett-Packard, nơi chuyên sản
xuất các máy phát thạch anh và được đánh giá có uy tín nhất trong lĩnh
vực thẩm định thạch anh.
Hewlett-Packard cho biết, loại thạch anh này có độ cứng tới mức 7
theo thang đo Moos – chỉ thua 3 loại đá là hoàng ngọc (topaz), cương
ngọc (coridon) và kim cương. Ngoài kim cương ra, không vật liệu nào có
thể cắt được nó. Trong khi với cấu trúc tinh thể kiểu trên, bất cứ nỗ
lực nhằm đẽo gọt loại vật liệu này cũng chỉ làm nó vỡ ra. Để có thể tạo
ra được chiếc sọ này, cần có những phương pháp phân tích chính xác nhất:
việc cắt cần phải đúng hoàn toàn so với trục của tinh thể.
Các chuyên gia từ Hewlett-Packard cuối cùng phải bối rối thốt lên: “Vật
này đơn giản là không thể tồn tại. Người đã làm ra nó không có bất cứ
một khái niệm nhỏ nhất nào về tinh thể học và quang học. Họ hoàn toàn
phớt lờ các trục đối xứng và vật này chắc chắn phải vỡ ra ngay từ những
bước chế tác đầu tiên. Vì sao điều này không xảy ra thật không thể tưởng
tượng nổi”. Các phát hiện mới
Mùa đông năm 1994, chủ một trang trại
gần Kreston (bang Colorado – Mỹ) trong khi cưỡi ngựa trong khu đất của
mình, tình cờ nhận thấy một vật lấp lánh nằm dưới đất. Đó chính là một
chiếc sọ người bằng pha lê trong suốt. Có điều chiếc sọ này lại méo mó
và vặn vẹo như thể trước khi đông cứng nó là một loại chất dẻo nào đó.
Chiếc sọ này từ đâu ra và vì sao méo mó như vậy hiện vẫn là một bí ẩn.
Xương sọ méo mó được tìm thấy tại bang Colorado – Mỹ năm 1994
Bị thu hút trước những phát hiện kỳ lạ
này, các nhà sử học và dân tộc học bắt đầu lao vào một chiến dịch tìm
kiếm, với hy vọng lần ra được chút ánh sáng về những chiếc sọ người kỳ
bí này. Chẳng bao lâu, những dấu vết đầu tiên đã được tìm thấy trong các
truyền thuyết của người da đỏ cổ xưa. Theo đó, có tới 30 chiếc xương sọ
pha lê của “Thần chết” và chúng được lưu giữ riêng biệt dưới sự canh
gác chặt chẽ của các nhà tư tế và những chiến binh đặc biệt.
Điều kỳ diệu quanh những chiếc sọ pha lê
Một trong những câu hỏi đầu tiên liên
quan đến những chiếc xương sọ bí ẩn này là: chúng được dùng để làm gì?
Một số nhà bác học cho rằng, người xưa đã dùng chúng cho các mục đích
chữa bệnh và liệu pháp tâm lý. Tất nhiên ý kiến trên có cơ sở của nó.
Juan Parks, người được thừa kế chiếc sọ pha lê “Maks” từ một nhà sư Tây
Tạng, khẳng định: chiếc sọ này dùng để chữa bệnh rất tốt.
Quan sát của các nhà nghiên cứu cùng
việc phỏng vấn những người chứng kiến cho thấy, sọ pha lê quả thật đã
tác động lên bất cứ ai đến gần chúng. Việc tác động những người khác
nhau cũng tạo ra những ảnh hưởng khác nhau. Một số cảm thấy khó chịu và
cả những nỗi sợ hãi khó hiểu. Một số thậm chí còn ngất xỉu và mất trí
nhớ trong một thời gian. Một số khác thì ngược lại, cảm thấy rất bình
an, thậm chí sảng khoái. Có những người sau khi “giao tiếp” với chiếc sọ
“Mitchell-Hedges” thì những căn bệnh nặng đã khỏi hẳn.
Tất nhiên sọ pha lê còn có những tính
chất thần bí khác. Một trong số đó đã được biết đến qua những giấc mơ
của Anna. Các nhà ngoại cảm đều cho biết, những chiếc sọ pha lê này đã
đưa họ vào những trạng thái gần như thôi miên, kèm theo những mùi và âm
thanh kỳ lạ, những ảo thị sáng chói. Đôi khi trong những thời điểm đặc
biệt, họ còn nhìn thấy những “ảo ảnh từ quá khứ xa xôi hay cũng có thể
từ tương lai”.
Hiện những hộp sọ pha lê là một trong những phát hiện bí ẩn nhất của thế kỷ XX.
Vào năm 1974, một trong những công trình khảo cổ lớn nhất thế giới được
hé lộ, đó chính là lăng mộ Tần Thủy Hoàng và đội quân đất nung khổng lồ.
Tần Thủy Hoàng (259-210 TCN) là vị hoàng đế có công lao rất lớn khi
khuất phục được tất cả các nước chư hầu để thống nhất thiên hạ về một
mối. Cuộc đời của Tần Vương là vô số những truyền thuyết, bí ẩn, ngay cả
khi đã chết, lăng mộ của ông cũng khiến giới khoa học gặp không ít bối
rối.
Tần Thủy Hoàng. Ảnh minh hoạ
Vào
năm 1974, người ta phát hiện hơn 8.000 chiến binh đất nung có kích
thước tương đương người thật ở trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng ở thành phố
Tây An, Trung Quốc. Đây được xem là một trong những công trình khảo cổ
có giá trị nhất thế kỷ 20.
Nhưng điểm đặc biệt hơn cả nằm ở chính
những đội quân đất nung đó. Có tổng cộng hơn 8.000 bức tượng song không
có bất cứ khuôn mặt của binh sĩ nào là giống nhau. Mỗi bức tượng đều có
thần thái, nét mặt khác nhau. Bí ẩn về khuôn mặt của đội quân đất nung
Cuộc
đời của Tần Thủy Hoàng được coi là một chuỗi những truyền thuyết, bí
ẩn, ngay cả nơi an táng ông cũng cực kỳ bí mật và cũng không kém thần
bí.
Có quá nhiều bí ẩn trong khi manh mối thì quá ít bởi sau khi
lăng mộ hoàn thành, toàn bộ những nhân công, nô lệ, thậm chí cả các kiến
trúc sư đều bị giết để bịt đầu mối, giữ bí mật tuyệt đối về thông tin
địa điểm hay cách thâm nhập nơi đây.
Phải
mất tới hơn 2.000 năm sau, người ta mới tìm được ra vị trí chính xác
nhưng các bí ẩn vẫn cứ đánh đố giới khảo cổ. Ngay trong lăng mộ đó các
chi tiết, thiết kế, đồ mai táng, vũ khí đi kèm và đặc biệt là khuôn mặt
của các chiến binh đều là những đề tài tranh luận, nghiên cứu của các
nhà khoa học.
Và trong tất cả đội quân đất nung đó, không có bất
kỳ một khuôn mặt nào xuất hiện hai lần, tất cả đều là duy nhất, độc nhất
cho dù là bộ binh, cung thủ hay kỵ binh.
Hàng
ngàn năm sau, đội quân đó một lần nữa được đưa ra ánh sáng, vẫn còn vô
vàn bí ẩn xung quanh chúng cùng các châu báu ngọc ngà được chôn cất
cùng, tuy nhiên, riêng về nét mặt, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số
kết luận khá thú vị. Khuôn mặt của các binh sĩ đất nung
Khuôn
mặt của các binh sĩ đất nung sẽ được chia thành 8 loại khác nhau tùy
thuộc vào các chi tiết, góc cạnh, nét chính của họ. Cụ thể: Mặt hình
"目", "国", "用", "甲", "田" , "由", "申" và "风" a. Mặt chữ "目" - Mục
Đối
với những chiến binh đất nung được xếp vào dạng này tuy không giống
nhau hoàn toàn nhưng họ lại có điểm chung là khuôn mặt hẹp và dài với
các nét nhỏ. Lông mày mỏng và đôi môi cũng như đôi mắt mảnh mai là nét
chính trên khuôn mặt "目". b. Mặt chữ "国" - Quốc
Đặc
trưng bởi khuôn mặt này hình chữ nhật, xương gò má cao, trán rộng và
má, hình mặt "国" thể hiện sức khỏe và thể lực. Đây là nét mặt điển hình
của người Tần vào thời bấy giờ, và bạn có thể tìm thấy loại khuôn mặt
này thường thấy ở một số vùng nông thôn hiện đại.
Ngoài bộ binh, còn có cả những cỗ xe ngựa chiến.
c. Mặt chữ "用" - Dụng
Mặt
"用" được biết đến với khuôn mặt dài, má và cằm phẳng, một số chiến binh
mặt hình chữ "用" có khuôn mặt to và trán rộng, lông mày mỏng và đôi mắt
mảnh mai, trông rất đẹp. Cũng có một số chiến binh thuộc dạng này có
đôi gò má ốm, miệng nhỏ, và môi mỏng. d. Mặt chữ "甲" - Giáp
Mặt
hình "甲" có khuôn mặt phía trên rộng và dưới hẹp, phần xương nhô ra và
cằm nhọn nhỏ, giống như hình dáng hạt dưa, đây cũng là một hình dáng
điển hình của người Tần xưa.
e. Mặt chữ "田" - Điền
Đây
là một khuôn mặt tròn với trán nhô ra, đầu mũi và xương gò má trong khi
phần mũi, mắt và miệng bị hơi chìm hơn. Những chiến binh được tạo ra
với khuôn mặt này là tương đối dẻo dai với cơ thể mạnh mẽ. f. Mặt chữ "由" - Do
Những
chiến binh hình mặt "由" có khuôn mặt dài, trán hẹp, má rộng và cằm lớn.
Bên cạnh đó, hình dạng khuôn mặt "由" có phần nhún nhường với đôi mắt
nhỏ.
g. Mặt chữ "申" - Thần
Khuôn
hình "申" có mặt hình bầu dục với cả hai đầu hẹp, trán lõm, xương miệng
rộng và cằm dài. Hầu như tất cả các chiến binh với nụ cười '申' khuôn mặt
có lông mày cong và mắt to. h. Mặt chữ "风" - Phong
Khuôn mặt này có cằm và hàm dưới rộng, gần giống như quả lê.
Về
cơ bản, tuy được xếp thành 8 loại hình mặt chính nhưng mỗi binh sĩ đều
có những sắc thái khác nhau, mỗi người một vẻ, có tượng toát lên vẻ khôn
ngoan, thận trọng, có những cái lại là sự dũng cảm, can trường hay
nhiều binh sĩ được tạc một cách trung thực, kiên định...
Vẫn còn
rất nhiều điều bí ẩn hiện vẫn đang chờ được khám phá, những bí ẩn sâu xa
khác về đội quân đất nung cũng vậy, chúng vẫn chờ được đưa ra ánh sáng
trong tương lai.