Michael
là một nhân viên bán bảo hiểm bình thường. Buổi sáng nọ, Michael bị một
kẻ lạ mặt liên hệ và buộc phải vạch trần danh tính của một hành khách
trên chuyến tàu trước khi đến trạm dừng chân cuối cùng. Trong quá trình
giải quyết vấn đề, Michael vô tình phát hiện ra một kế hoạch chết chóc
đang bị che giấu và mình đang bị cuốn vào một âm mưu tội phạm. Liệu
Michael sẽ làm gì để giải cứu bản thân và các hành khách khác?
-THAM NHŨNG LÀ KẺ THÙ CỦA MỌI CHẾ ĐỘ! -CHẾ ĐỘ NÀO ĐỂ THAM NHŨNG XẢY RA THƯỜNG XUYÊN THÌ CHẾ ĐỘ ĐÓ KHÔNG PHẠM SAI LẦM TRONG CÁCH THỨC TỔ CHỨC CHÍNH QUYỀN, THÌ CŨNG PHẠM SAI LẦM TRONG ĐÀO TẠO VÀ SỬ DỤNG CÁN BỘ.
------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
TRẦN DỤ CHÂU Đã Khoắng Được Bao Nhiêu Của Cải Trong Kháng Chiến - HỒ CHỦ TỊCH Xử Án Tham Ô
- Năm 1950, Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu bị
tử hình. Chúng ta đều đã được biết qua các bài báo của nhà báo Hồng Hà
(nguyên phóng viên báo Cứu Quốc), nhà báo Lưu Vinh… Qua đó, tác giả đã
cho thấy sự trừng phạt nghiêm khắc của Hồ Chủ tịch đối với tội tham
nhũng.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là tình tiết về
sau của vụ án. Còn diễn biến điều tra bước đầu của vụ tham nhũng này
được thực hiện ra sao, thì chưa có tài liệu nào nói tới. Vị đại tá Cục
truởng Cục Quân pháp Trước đây, trong một lần đến thăm bà Nguyễn Kim Nữ
Hạnh, trưởng nữ của cố Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên
(1905-1975), bà có cung cấp một tư liệu rất thú vị. Đó là lời kể của cụ
Phạm Trinh Cán (Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục từ tháng 4/1953) về cố Bộ
trưởng Nguyễn Văn Huyên, tháng 3/1990. Nhưng trước khi về Bộ Giáo dục,
cụ Phạm Trinh Cán nguyên là Đại tá, Cục trưởng Cục Quân pháp nên cụ nắm
rõ quá trình tham gia điều tra ban đầu vụ Trần Dụ Châu. Bà Nữ Hạnh căn
dặn: “Tôi tặng em để em sử dụng trên báo chí, có thể đưa vào mục những
tư liệu mới được phát hiện”. Cụ Phạm Trinh Cán sinh năm 1912, nguyên
quán xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Gia đình có khả năng
kinh tế nên cụ được học hết bậc Trung học. Dẫu có bằng Tú tài, cụ tự
nhận là vẫn thấy mình còn dốt và rất muốn học thêm lên đại học. Học đại
học thì phải tự túc nên vừa học khoa Luật trường Đại học Đông Dương cụ
vừa đi dạy tư tại trường Trung học Tư thục Thăng Long cùng với các giáo
sư Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Phan Thanh, Võ Nguyên Giáp... Cách
mạng Tháng Tám 1945, cụ Phạm Trinh Cán tham gia khởi nghĩa và được cử
làm Phó Chủ tịch UBND lâm thời tỉnh Quy Nhơn (nay là Bình Định). Cụ được
phong hàm đại tá đợt đầu tiên (năm 1948) và đã trải qua các chức vụ:
Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục Quân pháp – Bộ Quốc phòng, Chánh Văn
phòng Bộ Tổng tham mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương, Phó Văn
phòng rồi Chánh Văn phòng Bộ Giáo dục, Hiệu trưởng trường Đại học Sư
phạm Ngoại ngữ (nay là Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội). Năm 1973 cụ
Phạm Trinh Cán về nghỉ hưu. Cụ mất năm 2003 tại Hà Nội, hưởng thọ 92
tuổi. Vụ án Trần Dụ Châu Sinh thời, cụ Phạm Trinh Cán từng kể diễn biến
vụ việc xảy ra từ năm 1949 đến mùa hè năm 1950 như sau: Đại tá Trần Dụ
Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, hoạt động trước Cách mạng Tháng Tám. Cục
Quân nhu có nhiệm vụ lo ăn, mặc, thuốc men của quân đội. Quần áo cho
quân đội, thuốc men trong nội thành ta chưa sản xuất được nên đơn vị
quân nhu đóng ở Thái Nguyên ra vào thành cho dễ. Cục phó là Phạm Toàn,
cốt cán cục Quân nhu là Lê Sĩ Cửu – trưởng phòng tiếp liệu (thuốc, giấy
pơ-luya, máy chữ...). Bấy giờ hoàn cảnh rất khó khăn. Về gạo ăn, mới
kháng chiến nên anh em quân nhu chưa có kinh nghiệm bảo quản tốt, kho
cất gạo dùng bồ, ẩm thấp nên mục nát nhiều. Lúc bấy giờ, Cục Quân chính
do ông Phan Tử Lăng làm Cục trưởng và Cục Quân pháp do ông Phạm Trinh
Cán làm Cục trưởng - cùng đóng chung cơ quan ở Thái Nguyên, tổng cộng
đến 30 người. Gạo lĩnh về không dám vo mạnh, chỉ rửa qua suối để về nấu
ăn. Vì vo kỹ thì gạo sẽ tan biến theo nước. Để chống đói, bộ đội phải
lấy măng rừng làm thức ăn, còn quân đội chủ lực phải ăn cháo để truy
kích địch. Về cái mặc, mỗi người một áo trấn thủ và tấm “chăn kháng
chiến” chỉ có một lượt bông rất mỏng. Có chiến sĩ không có chăn, không
có áo, đứng gác trên đèo phong phanh vải mỏng. Thuốc men thiếu thốn,
nhất là thuốc sốt rét, qui-na-cơ-rin cũng không đủ chữa bệnh sốt rét
dùng trong quân y. Vì thế uống qui-na-cơ-rin phải pha vào nước, chỉ có
tác dụng tinh thần chứ chữa bệnh sốt rét rất hạn chế. - Anh em đều thấm
thía cảnh khổ, rồi than phiền, oán trách Cục Quân nhu làm không tròn
nhiệm vụ. - Cụ chậm rãi - Càng oán trách hơn khi nghe ba thằng cha Châu,
Cửu, Toàn sống sa hoa lắm. Chúng ăn toàn thứ ngon, rượu Tây, đường sữa,
sô-cô-la trong Thành mang ra... Đặc biệt nổi đình đám là đám cưới linh
đình của Cửu làm xôn xao cả vùng Thái Nguyên! Bộ đội và nhân dân công
phẫn. Chuyện đến tai Bộ Quốc phòng và Trung ương Đảng. Một hôm, anh Trần
Tử Bình – Thiếu tướng, Phó cục trưởng Cục Thanh tra quân đội - tìm tôi,
hỏi: “Anh nghe tin tức gì về vụ Châu không?”. Tôi trả lời: “Tôi có
nghe. Bộ đội công phẫn lắm”. Xong, anh Bình nói với tôi về chỉ thị của
Trung ương Đảng: “Ta phải mở cuộc điều tra về vụ này. Chỉ thị này tối
mật. Ngoài mấy ông Trung ương, chỉ có tôi và anh biết. Nếu để lộ, Trần
Dụ Châu mà dinh-tê vào thành thì chúng mình mất đầu”. (Vì Châu nắm vững
nơi đóng quân, quân số, người chỉ huy, chính ủy... các đơn vị toàn
quân). Rồi anh Bình giao nhiệm vụ: “Anh tiến hành cuộc điều tra này”.
(Phải mở ngoặc nói thêm, những vụ phạm pháp mức độ nào có thể là xử lý
trong nội bộ thì Cục Thanh tra giải quyết. Nếu nặng thì chuyển sang Quân
pháp). Thế là tôi cử 1, 2 anh rất tâm phúc nghe ngóng tình hình Cục
Quân nhu. Điều tra sơ bộ xong, anh em về báo cáo lên Trung ương. Sau khi
được nghe báo cáo, anh Trần Tử Bình có hỏi tôi: “Theo điều tra sơ bộ
như vậy, có thể truy tố ra Tòa án binh không?”. Tôi đã nói rằng: “Đáng
truy tố theo tội trạng như vậy. Nhưng cần tiếp tục điều tra nữa để có
thêm tài liệu, dẫn chứng cụ thể, để căn cứ mà kết tội”. Ông Phạm Trinh
Cán kể thêm: “Khi xử vụ Trần Dụ Châu, bắt Toàn trước, Cửu sau. Trước khi
điều tra vụ Châu, Bộ Tổng tư lệnh cho bắt Phạm Toàn để lấy lời khai.
Tạm giam Toàn để lấy khẩu cung tại nhà dân, giao cho bộ đội canh giữ.
Tôi trực tiếp hỏi về vụ bê bối của Cục Quân nhu. Đêm ấy, Toàn tự tử bằng
cách lấy cắp lựu đạn, mở chốt, úp mặt cho nổ. Cửu cho bắt trước khi bắt
Châu. Người ký giấy bắt Cửu, Toàn là tôi. Giam cạnh nhà đơn vị Cục Quân
pháp đóng. Mấy ngày sau, Cửu cũng tự tử bằng cách bẻ que nứa cắt mạch
máu cổ tay”. Đến thời gian này thì Bộ Quốc phòng tổ chức lại. Sang năm
1950, ông Phạm Trinh Cán chuyển sang Bộ Tổng tham mưu. Vốn là cử nhân
Luật (Đại học Đông Dương) nên ông được điều động vào quân đội, xây dựng
luật nhà binh và tổ chức Tòa án binh, chứ không phải người được đào tạo
quân đội chính quy. Sau đó ông được cử làm Chánh Văn phòng Bộ Tổng tham
mưu kiêm Chánh án Tòa án binh khu Trung ương. Vì thế vụ này được bàn
giao cho Cục trưởng Cục Quân pháp mới là ông Ngô Minh Loan. - Cụ thể vụ
này là: ngoài tội tham ô ra còn bị tội phá hoại đoàn kết nội bộ Đảng
trong Cục Quân nhu, trù dập đảng viên tốt. Sau khi bàn giao công việc,
anh Bình có hỏi ý kiến tôi: “Nếu tiếp tục điều tra thêm thấy rõ tin đồn
là đúng sự thật thì mức độ kết án thế nào?”. Tôi đã nói: “Tùy theo mức
điều tra như thế nào. Theo riêng tôi, nặng nhất phải tử hình, dưới nữa
phải 15-20 năm tù. Kể cả mức điều tra quan trọng sau lần điều tra báo
cáo Trung ương để có chỉ thị. Nếu kết quả cuối cùng của việc điều tra
thấy Châu tội nặng cộng với ảnh hưởng công phẫn trong quân đội thì có
thể kết án tử hình được”. Tôi còn nói thêm: “Tới mức ấy không chỉ xin
chỉ thị Trung ương mà còn phải xin chỉ thị của Bác”. Việc này phải hết
sức thận trọng vì là lần đầu đưa cán bộ cao cấp ra xử, lại là cán bộ
hoạt động trước cách mạng. Hè năm 1950, Tòa án binh tối cao xét xử.
Chánh án: Thiếu tướng Chu Văn Tấn – Ủy viên Chính phủ. Công cáo viên:
Thiếu tướng Trần Tử Bình. - Châu nghe tuyên án không ngờ mình bị tử
hình, mặt tái đi, run lên. Đó là tôi (Phạm Trinh Cán) nghe kể lại chứ
tôi không dự vì lúc đó đang đi tìm địa điểm khác để tránh hậu quả sau vụ
xử Trần Dụ Châu. Nhỡ còn chân tay của Châu có thể tiếp theo sẽ phá hoại
cách mạng. Theo luật, án tử hình được quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước
xin ân giảm. Nếu Chủ tịch nước cho ân giảm, không bị đưa ra xử tử thì sẽ
đưa về tù chung thân. Khi Tòa án binh tối cao tuyên án, Thiếu tướng Chu
Văn Tấn hỏi: “Có xin ân giảm không?” thì Trần Dụ Châu nói: “Có”. Khi đệ
đơn xin ân giảm lên Chủ tịch Chính phủ thì Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin
ân giảm. 6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu được đưa ra trường bắn trước
sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số
cơ quan Cụ Phạm Trinh Cán kết luận: “Kể việc này để thấy Bác Hồ rất
nghiêm với những cán bộ cao cấp không những không hoàn thành nhiệm vụ mà
còn thoái hóa, biến chất!”. * Cụ Phạm Trinh Cán (1912-2003). Hà Nội,
ngày 1/12/2010 Kiều Mai Sơn
Người khơi mào khui vụ tham nhũng Trần Dụ Châu
TP -
Giờ qua Hồ Tây, qua cái chòi ngắm sóng nơi ở của nhà thơ Phùng Quán nay
đã biến mất nhường chỗ cho những kiến trúc tân kỳ nhôm kính sáng loáng.
Lại chút bâng khuâng một thuở với nhà thơ Phùng Quán. Ông như thứ biên
niên sinh sắc khó có được ở thời buổi này.
Tôi không được gặp được biết nhà thơ Đoàn Phú Tứ. Nhưng may đã có Phùng Quán. ...Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngát Hương thời gian không nồng Hương thời gian thanh thanh... Màu thời gian từng được ít nhất là 2 nhạc sĩ danh giá phổ nhạc: Nguyễn Xuân Khoát ( phổ năm 1942) Phạm Duy (phổ năm 1971)
Nhưng Đoàn Phú Tứ không chỉ để lại cho hậu thế Màu thời gian.
Ông là ĐBQH khóa I. 70 năm trước, Nam Định có 2 đơn vị bầu cử, tỉnh
Nam Định và thành phố Nam Định. Thành phố Nam Định có 2 ĐBQH là cụ
Nguyễn Văn Tố và Trần Huy Liệu. Nhưng tỉnh Nam Định có tới 15 ĐBQH trúng
cử. Bên cạnh Nguyễn Tấn Gi Trọng, Nguyễn Văn Trân… có nhà thơ Đoàn Phú
Tứ lúc này đã nổi danh trong thi đàn Xuân Thu nhã tập với Màu thời gian.
Trở lại câu chuyện của Phùng Quán khi kể về Đoàn Phú Tứ bao giờ ông
cũng có chất giọng hào sảng lẫn ngậm ngùi. Nhà thơ Phùng Quán quen Đoàn
Phú Tứ đã lâu. Thường lui tới bãi An Dương nơi Đoàn Phú Tứ sống chật vật
khó khăn.
Cái đoạn khi thi sĩ Đoàn Phú Tứ mất. Nhà bần bách không có thứ gì bán
ra đồng tiền. Thi sĩ Phùng Quán chợt nhớ ra Đoàn Phú Tứ là ĐBQH khóa I.
Phùng Quán thức suốt đêm nghĩ ngợi rồi quyết định viết một lá đơn. Kính thưa đồng chí Lê Quang Đạo, Chủ tịch Quốc hội… Kính thưa đồng chí, tôi xin báo với đồng chí một tin buồn, ông
Đoàn Phú Tứ nhà thơ, nhà viết kịch, nhà dịch thuật và đồng thời là ĐBQH
khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) thọ 80 tuổi đã
từ trần ngày hôm qua. Họa đơn vô chí, vợ ông là bà Nguyễn Thị Khiêm vừa
mất cách đây hai tháng…
Tiếp đó nhà thơ Phùng Quán liệt kê nhiều chi tiết về đời sống khốn
khó của nguyên Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Đoàn Phú Tứ và phần kết lá đơn
có đoạn. Nếu QH còn nhớ đến tình cũ nghĩa xưa thì xin ông một cỗ áo quan
và chút tiền để mai táng. Mong đồng chí lưu tâm giải quyết. Hai giờ
chiều mai (20/9/1989) gia đình sẽ đưa ông Đoàn Phú Tứ xuống nghĩa trang
Văn Điển. Nay kính thư. Phùng Quán.
Bức thư được Phùng Quán đưa tận 53 Ngô Quyền trụ sở Quốc hội khi ấy.
Rồi không biết nghĩ ngợi thế nào, ông cũng không quên đem theo cuốn Tuổi thơ dữ dội mới xuất bản khi đó tặng ông Chủ tịch Quốc hội.
Người thường trực cơ quan tỏ vẻ ngạc nhiên ngó Phùng Quán bề ngoài
như một ông già nhà quê cũ kỹ: Cụ ơi Chủ tịch Lê Quang Đạo với ông Vũ
Mão bận đi công tác Hải Phòng rồi!…
Thất vọng lắm nhưng Phùng Quán cũng đưa bộ sách ra nhờ chuyển giúp…
Bất đồ, người thường trực già sau khi coi tờ bìa cuốn sách đã bật kêu Phùng Quán a? Răng độ ni già gớm rứa… Thì ra là người bạn cùng đơn vị bộ đội cũ… Trò chuyện một hồi, ông bạn mách cho Phùng Quán người cần gặp.
May mắn người đó là Tổng biên tập tờ Người đại biểu nhân dân. Ông biết thi sĩ Phùng Quán. Lát sau ông gọi thêm đồng chí Vụ trưởng Tài chính, Vụ Chính sách…
Bức thư gửi Chủ tịch Lê Quang Đạo được đọc to cho mọi người nghe.
Ông Vụ trưởng Chính sách hăng hái phải tra xem cái ông Đoàn Phú Tứ này có phải là ĐBQH Khóa I không…
Cuốn kỷ yếu Quốc hội được mang ra. Tra tới tra lui. Không có tên Đoàn
Phú Tứ nào cả. Phùng Quán lạnh toát người. May mà kỷ yếu có phần phụ
lục danh sách những đại biểu nghỉ nửa chừng. May quá Đoàn Phú Tứ đây
rồi…
Ông Vụ Chính sách trầm ngâm đại ý, đúng là có. Nhưng ông Đoàn Phú Tứ
đã nghỉ đại biểu từ năm 1951 nên Quốc hội không còn trách nhiệm gì về
ông nên không thể cấp tiền mai táng được…
Vốn tính nhu mì nhưng không hiểu sao khi ấy Phùng Quán mặt đỏ gay.
Tức giận bực bội, thất vọng có cả. Nhưng không to tiếng, mà chỉ hơi cao
giọng khi sang sảng dẫn ra câu chuyện của ĐBQH kiêm thi sĩ Đoàn Phú Tứ.
Chuyện cụ Tứ đã rất kiên cường dũng cảm vạch ra tội tham nhũng của đại
tá Cục trưởng Cục quân nhu Trần Dụ Châu bằng lá đơn gửi lên Hồ Chủ tịch…
Câu chuyện về đám cưới xa hoa quá mức của đại tá Cục trưởng Trần Dụ
Châu tổ chức cho thuộc hạ qua cung cách miêu tả sinh động của Phùng Quán
hôm đó tại Văn phòng nhà Quốc hội 53 Ngô Quyền cuốn hút nhiều người
nghe. Một số người đã biết loáng thoáng nhưng khi ấy mới được tường tận.
Mùa đông năm 1950, Đoàn Phú Tứ ở chiến khu Việt Bắc. Ông có chân trong tòa soạn tạp chí Văn nghệ, trong Ban chấp hành Đoàn Sân khấu Việt Nam.
Là nhà thơ, ông còn là ĐBQH khóa I. Ông cùng với một đoàn nhà văn đi
thăm và úy lạo các đơn vị bộ đội vừa đánh giặc trở về. Tận mắt chứng
kiến các chiến sĩ bị thương thiếu thuốc men, bông băng, và hầu hết chiến
sĩ đều rách rưới, “võ vàng đói khát”, “chỉ còn mắt với răng”, mà mùa
đông năm đó tiết trời chiến khu lạnh tới mức nước đóng băng… Ông trở về
cơ quan chân ướt chân ráo thì nhận được thiệp mời của Trần Dụ Châu, đến
dự lễ cưới ông ta đứng ra tổ chức cho cán bộ cấp dưới đặc biệt thân cận,
phụ trách công tác vật tư, tên là Lê Sĩ Cửu.
Trần Dụ Châu? “Màn Trần Dụ Châu”, vì mỗi cái màn bị ăn cắp mất hai
tấc vải, nên hễ ngồi lên là đầu đụng trần màn; “Áo mền trấn thủ Trần Dụ
Châu” vì mỗi cái mền bị rút bông lót trong áo, trong mền và thay vào
bằng bao tải… Hình ảnh chuyến thực tế úy lạo như đang váng vất, hiển
hiện…
Đoàn Phú Tứ bước vào phòng cưới, cái hội trường dựng bằng tre nứa,
lợp lá gồi, sáng trưng những dãy bạch lạp to bằng cổ tay. Trên những dãy
bàn dài tít tắp, xếp kín chim quay, gà tần, vây bóng, nấm hương, giò
chả, thịt bê thui, rượu tây, cốc thuỷ tinh sáng choang, thuốc lá thơm
hảo hạng. Ban nhạc sống của nhạc sĩ Canh Thân được mời từ khu 3 lên tấu
nhạc réo rắt…
Trần Dụ Châu mặc quân phục đại tá choáng lộn, cưỡi ngựa đến dự cưới,
theo sau là một vệ sĩ cao lớn, súng “côn bạt” đeo xệ bên hông. Tân khách
ngồi chật kín hội trường. Rượu vang đỏ rót đầy các cốc. Vị chủ hôn Trần
Dụ Châu oai phong, đỏ đắn, đầy quyền uy bước ra tuyên bố làm lễ thành
hôn cho đôi vợ chồng mà hắn đỡ đầu, và trịnh trọng mời tân khách nâng
cốc… trong tiếng nhạc xập xình. Nhìn thấy Đoàn Phú Tứ ngồi ở bàn đầu,
ông ta liền tươi cười giới thiệu: “Đám cưới hôm nay có một vị khách đặc
biệt là ông Đoàn Phú Tứ, nhà thơ cự phách của nhóm Xuân Thu nhã tập. Xin mời nhà thơ nổi tiếng lên đọc một bài thơ mừng cô dâu chú rể và quý vị tân khách”.
Đoàn Phú Tứ đứng lên, mắt đăm đăm nhìn cốc rượu vang đỏ như máu đầy
tràn trước mắt… Ông bỗng thấy giận run, ngẩng lên, nhìn thẳng vào mặt
Trần Dụ Châu, nói lớn, nhấn mạnh từng từ một cho tất cả những người dự
tiệc cưới đều nghe thấy: “Tôi xin đọc tặng vị chủ hôn, cô dâu chú rể và
tất cả các vị có mặt hôm nay, một câu thơ hay nhất mà tôi vừa chợt nghĩ
ra”… Khắp các bàn tiệc dậy lên tiếng xì xào tán thưởng: “Hoan hô Xuân Thu nhã tập!
Hoan hô thi sĩ Đoàn Phú Tứ!” Chờ cho tiếng xì xào im hẳn, nhà thơ nói
tiếp: Câu thơ đó như sau: “Bữa tiệc cưới chúng ta sắp chén đẫy hôm nay,
được dọn bằng xương máu của chiến sĩ! - “Láo”, Trần Dụ Châu mặt vụt tái
nhợt quát to. Tiếp liền theo đó là vệ sĩ của ông ta xông tới tát bốp vào
mặt nhà thơ. Nhà thơ lặng lẽ rút khăn tay lau mặt, ném khăn xuống đất,
rồi nhổ vào cốc rượu đỏ như máu đầy tràn trước mặt đĩnh đạc bước ra khỏi
phòng cưới.
Bút tích Màu thời gian.
Ngay đêm hôm đó, nhà thơ, ĐBQH Đoàn Phú Tứ viết một bức thư dài gửi lên Hồ Chủ tịch, trình bày toàn bộ sự việc.
Một tuần sau, Tòa án quân sự được thiết lập cũng tại khu vực hội
trường đó. Trần Dụ Châu bị điệu ra trước vành móng ngựa, cúi đầu nhận
hết mọi tội lỗi, và lãnh án tử hình vì tội tham nhũng. Hồ Chủ tịch đã tự
tay ký vào bản án tử hình.
Còn chú rể Lê Sĩ Cửu thì đã tự sát trong nhà tạm giam để khỏi phải phơi mặt trước vành móng ngựa.
… Thời điểm đó có lẽ còn nhiều điều chưa thông thoáng đổi mới,
nguyên tắc là nguyên tắc nên thi sĩ Phùng Quán đã trở về tay không.
Không xin được áo quan lẫn tiền mai táng cho nhà thơ Đoàn Phú Tứ. Tôi
nhớ mồn một là nhà thơ Phùng Quán khi kể cứ nói đi nói lại là gia đình
nhà thơ Đoàn Phú Tứ không hề nhờ Phùng Quán làm việc đó mà ông tự
nguyện, bởi thấy hoàn cảnh ông bạn già của mình quá khó khăn may ra giúp
được gì chăng? Nhưng có lẽ điều nhà thơ Phùng Quán tạm được an ủi là
trong tang lễ của nhà thơ Đoàn Phú Tứ có vòng hoa lớn của Văn phòng Quốc
hội đưa đến khu nghèo An Dương với dòng chữ Kính viếng nhà thơ nổi tiếng Đoàn Phú Tứ - Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
… Sau này lục lại tài liệu thì tìm thấy những dòng Bác Hồ (Biên bản
họp Hội đồng Chính phủ tháng 11/1950) nói về vụ Trần Dụ Châu thế này: Chúng ta sinh ra trong một xã hội phong kiến và thực dân, một xã
hội ham danh ham lợi. Danh lợi dễ làm hư người. Danh lợi là tập quán.
Bây giờ chúng ta dùng cán bộ để cải tạo xã hội mà không có chính sách
biện pháp cải tạo cán bộ đấy là khuyết điểm. Hình như lần ấy, tôi
có gạ Phùng Quán lý do nhà thơ kiêm ĐBQH tại sao nghỉ chức danh ĐBQH
giữa chừng (năm 1951) như thế nào? Nhà thơ cười lấp lửng mềng (mình) cũng chả biết nữa…
Nhà thơ Phùng Quán mất đã lâu. Băn khoăn vì sao Đoàn Phú Tứ nghỉ ĐBQH
giữa chừng vẫn để ngỏ. Nhưng mãi rồi tôi mới ngộ ra cái lấp lửng ngày
ấy của thi sĩ. Rằng, băn khoăn thắc mắc mà chi khi thi sĩ họ Đoàn đã để
lại thông điệp Màu thời gian cho hậu thế? Và nữa, không phải ngẫu nhiên
mà Đoàn Phú Tứ khi thời gian sau này từng nhọc nhằn khi chuyển ngữ từ
tiếng Pháp sang tiếng Việt với bút danh Tuấn Đô cho những Lão hà tiện.
Trưởng giả học làm sang của Molière, Đỏ và đen Stendhal, Tuyển tập kịch
của Alfred de Musset và Hài kịch Shakespeare vv…
Xuân Ba
Từ việc bắt ông Đinh La Thăng, nhớ về vụ án Trần Dụ Châu
Ngô Vương Anh Thứ Bảy, ngày 16/12/2017 09:43 AM (GMT+7)
(Dân Việt) Từ
việc bắt ông Đinh La Thăng và những đại án tham nhũng đang được đưa ra
ánh sáng với những cán bộ đã từng có thời “làm mưa làm gió” nay ra hầu
tòa, đã cho thấy pháp luật đã dần đi đúng “đường nó phải đi”: Nghiêm
minh và công bằng.
Ngày 5.9.1950, tòa án binh xét xử nguyên Đại tá Trần Dụ Châu, Cục
trưởng Cục Quân nhu và đồng bọn can tội tham ô, biển thủ công quỹ, phá
hoại công cuộc kháng chiến.
Trước đó đoàn thanh tra do Thiếu tướng Trần Tử Bình - Phó Tổng Thanh
tra quân đội lãnh đạo, đã làm rõ những thủ đoạn của Châu và đồng bọn khi
chúng rút ruột công quỹ, ăn bớt vật tư may quân trang cho bộ đội để tư
lợi cũng như những sa đọa, đồi trụy trong sinh hoạt của Châu gây dư luận
xấu trong quần chúng.
Tòa đã tuyên án Trần Dụ Châu: Tử hình.
Đây là lần đầu tiên một đại tá, lại là Cục trưởng cục Quân nhu bị tuyên án tử. Vụ việc gây xôn xao cả vùng Việt Bắc.
Trần Dụ Châu đã viết đơn xin ân xá gửi lên Chủ tịch Hồ Chí Minh nhưng bị bác.
Bữa cơm đạm bạc của Bác Hồ và các chiến sĩ trong khi Trần Dụ Châu và đồng bọn sống như ông hoàng. Ảnh tư liệu
Khi đồng chí Trần Đăng Ninh - Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (hậu
cần) hỏi Người về việc này, Người chỉ vào cây xoan đang bị héo úa trước
sân và nói với đồng chí Trần Đăng Ninh:
- Chú có biết tại sao cây kia bị héo không ?
- Thưa Bác cây đó đang bị sâu ăn ạ!
- Thế muốn cây đó khỏe mạnh trở lại phải làm thế nào?
- Dạ, phải bắt giết hết sâu trong thân cây thì cây mới sống khỏe lại được ạ!
- Đúng là như vậy, cũng giống như cái cây kia, khi bộ máy của chúng
ta bị những con sâu đục khoét làm hư hỏng thì ta phải bắt giết hết những
con sâu đó thì bộ máy mới vững mạnh được...
Từ những ngày đầu xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã luôn chú ý bảo đảm tính nghiêm minh, không miễn trừ ai
trong việc thi hành pháp luật.
Tháng 11.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời trước Kỳ họp thứ hai Quốc
hội khoá I về những thành viên của Chính phủ không trong sạch: “Chính
phủ đã hết sức làm gương, và nếu làm gương không xong thì sẽ dùng pháp
luật mà trị những kẻ ăn hối lộ. Đã trị, đang trị và sẽ trị cho kỳ hết !”
.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Để thực hiện chữ Liêm, cần có tuyên
truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống, từ dưới lên.
Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là
có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Vì vậy, cán
bộ phải thực hành chữ Liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân”
Tham nhũng là một bệnh khó chữa của các chế độ nhà nước. Nó xuất hiện
cùng/và gắn chặt với những người nắm giữ quyền lực, lợi dụng những
quyền lực đó để chiếm đoạt của cải xã hội cho riêng bản thân mình. Một
nền pháp quyền chân chính, tiến bộ phải bảo đảm được tính công bằng,
khách quan, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Thi hành được
điều này không phải dễ dàng bởi vì từ xưa rồi, tội của quan vẫn được xử
theo lễ còn tội của dân được xử theo luật (!).
Trong những năm qua mặc dù chúng ta đã tốn nhiều công sức để đẩy lùi
quốc nạn tham nhũng nhưng tệ nạn này chưa có chiều hướng suy giảm.
Những kẻ bất liêm vẫn tồn tại trong xã hội, thậm chí ở tại ngay những
cơ quan thi hành pháp luật, những cơ quan được giao trọng trách đấu
tranh chống lại quốc nạn tham nhũng, buôn lậu và gian lận; những cơ quan
được giao trọng trách duy trì sự nghiêm minh của pháp luật....
Tình trạng này một phần do hệ thống luật pháp của chúng ta chưa đồng
bộ, còn nhiều kẽ hở để những kẻ bất liêm lợi dụng, phần khác do việc
thi hành luật chưa nghiêm minh, pháp luật chưa đảm bảo tác dụng giáo dục
và răn đe.
Vẫn còn tình trạng “pháp luật chỉ dành để thi hành với dân chúng”,
vẫn còn cảnh “nén bạc đâm toạc tờ giấy” khiến lòng dân ít tin tưởng vào
hệ thống pháp chế.
Trong bối cảnh đó, việc thực hiện lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Pháp
luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ đó giữ địa vị
nào, làm nghề gì” đang đặt ra trước các cơ quan lập pháp, hành pháp và
tư pháp như một yêu cầu bức xúc của xã hội.
Việc bắt ông Đinh La Thăng cho thấy rõ quyết tâm chống tham nhũng của Đảng.
Đảng đang đẩy mạnh công cuộc chống tham nhũng theo đúng hướng đó khi
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố: “Cuộc đấu tranh chống tham nhũng
không có vùng cấm”.
Những diễn biến mới nhất của các vụ án tham ô, tham nhũng, thất thoát
lớn đã và đang chứng minh điều này. Những đại án tham nhũng đang được
đưa ra ánh sáng với những cán bộ đã từng có thời “làm mưa làm gió” nay
ra hầu tòa, đã cho thấy pháp luật đã dần đi đúng “đường nó phải đi”:
Nghiêm minh và công bằng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy chúng ta điều đó từ câu chuyện vụ án lớn
Trần Dụ Châu cách đây gần 70 năm và việc Người bác đơn xin ân xá của y.
NHÀ THƠ TRONG VỤ ÁN TRẦN DỤ CHÂU
Chủ
nhiệm chính trị Lê Đình Thiệp bảo tôi:
-
Tổng cục mở lớp chính trị ngắn ngày do cố vấn Trung quốc phụ trách. Cậu đi học
rồi về truyền lại cho cán bộ phòng ta.
Tôi đeo túi dết
quần áo lên Tuyên Quang dự tập huấn.
Vừa lên tới nơi thì được nghe số cán bộ của Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính
trị về dự tập huấn bàn tán sôi nổi về vụ xử tửCục trưởng Quân nhu Trần Dụ Châu, lần đầu tiên một cán bộ cao cấp của
Quân đội Nhân dân bị tử hình… Tôi hào hứng nhập bọn ngay để tìm hiểu về vụ án
đang gây chấn động mạnh trong dư luận.
Nhà thơ Đoàn
Phú Tứ được coi là người có công đầu trong vụ Trần Dụ Châu. Đoàn Phú Tứ nổi tiếng
từ năm 1942 khi cùng Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn
Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh thành lập nhóm Xuân Thu Nhã tập, với mục đích đổi mới
sáng tác văn học nghệ thuật.
Nhà nghiên cứu
Trần Huyền Sâm viết trên tạp chí Sông Hương số 207, tháng 5 năm 2006 :
… Cho đến
nay, chúng ta vẫn chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập
cả trênphương diện lý thuyết lẫn thực
tiễn sáng tác...Trong tiến trình của văn học Việt, hiếm có nhóm sáng tác nào lại
độc đáo như Xuân Thu Nhã tập. Độc đáo về chủ thể sáng tác, về đặc điểm thể loại
và số phận tác phẩm. Xuân Thu chỉ tồn tại trong vòng mấy năm (1942-1945), và chỉ
gồm mấy tác giả, nhưng lại hội tụ đầy đủ cả "đại gia đình" nghệ thuật:
thơ ca, âm nhạc, hội họa. Số lượng sáng tác cũng rất "khiêm tốn"
nhưng lại rất đa dạng về thể loại: thơ, văn xuôi, tiểu luận... Xuân Thu nhã tập
có hẳn một nguyên lý sáng tác, một hệ thống quan điểm nghệ thuật riêng. Mục
đích sáng tác cũng khá độc đáo "Dưới bóng Xuân Thu sẽ thực hiện: TRÍ THỨC
- SÁNG TẠO - ĐẠO ĐỨC ...Ngay từ khi ra đời, Xuân Thu đã mang một tinh thần tiên
phong với ý thức cách tân táo bạo. Mục đích cách tân thể hiện trên hai phương
diện:
* Không lặp lại cái Tôi của Thơ mới.
* Chống lại sự đồng hóa của phương Tây để
ngăn cái họa mất gốc.
...Xuân Thu nhã tập từng được đánh giá như một
‘hiện tượng nghệ thuật độc đáo, lý thú ‘những ‘trang viết tuyệt vời’. Xuân Thu
cũng từng bị xem như những gì ‘tắc tị, tăm tối, bí hiểm’. Nếu tránh được những
ý kiến cực đoan, gạt bỏ những hạn chế tất yếu của Xuân Thu, chúng ta có thể tìm
thấy những hạt nhân hợp lý, những giá trị đích thực để vận dụng vào công cuộc đổi
mới văn học hôm nay...”
35
tuổi Đoàn Phú Tứ đi theo kháng chiến và trở thành đại biểu Quốc hội khóa đầu
tiên (1946), đảm trách nhiều công tác ở Liên khu IV, Liên khu V, Thanh Hóa. Năm
1948 về Thái Nguyên làm Tạp chí Văn nghệ của Hội Văn nghệ Việt Nam và tham gia
Thường vụ Đoàn Sân khấu Việt Nam. Thời gian này, Đoàn Phú Tứ chuyên tâm sáng
tác, giảng dạy và đi thực tế lấy vốn sống để viết kịch. Một năm sau, xuất bản tập
kịch “Trở về” với nhiều đề tài phong phú phản ánh những tấm gương hi sinh cho
cuộc chiến đấu trường kỳ gian khổ của dân tộc. Thời kì này quân đội ta đang rất
thiếu thốn. Gạo bảo quản trong kho bằng bồ, ẩm thấp nên mục nát nhiều, lĩnh gạo
về chỉ rửa qua vì vo kỹ thì gạo sẽ tan theo nước. Để chống đói, có bữa bộ đội
phải ăn măng rừng thay cơm, có khi ăn cháo khi truy kích địch. Về cái mặc, mỗi
người một áo trấn thủ và một tấm “chăn kháng chiến” chỉ có một lượt bông rất mỏng.
Nhiều chiến sĩ không chăn, không áo ấm, phong phanh tấm áo mỏng đứng gác trên
đèo. Thuốc men thiếu thốn, nhất là thuốc sốt rét, Quinacrine phải pha với nước
để uống nên hiệu quả không cao. Trong khi đại tá Trần Dụ Châu Cục trưởng Quân
nhu ăn toàn đồ ngon, uống rượu Tây, hút thuốc ba số…
Đoàn Phú Tứ và
nhà văn Nguyễn Đình Tôn được Trần Dụ Châu mời dự đám cưới Bùi Minh Trân đàn em
thân tín của hắn. Đám cưới diễn ra ngày 4 tháng Tư 1950 tại làng Lang Tạ do Lê
Sĩ Cửu làm Trưởng ban tổ chức
Nguyễn Đình
Tôn viết trên báo Cứu Quốc số 1548 ngày 15/5/1950:
“...hội trường dựng bằng tre nứa, lợp lá gồi,
sáng trưng những dãy nến bạch lạp to bằng cổ tay. Những dãy bàn dài tít tắp xếp
kín chim quay, gà tần, vây bóng, nấm hương, giò chả, thịt bò thui, rượu tây, cốc
thủy tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng. Hoa Ngọc Hà dưới Hà Nội đưa lên.
Ban nhạc Cảnh Thân từ Khu Ba lên tấu nhạc.
“Trần Dụ Châu mặc quân phục choáng lộn, cưỡi
ngựa đến dự cưới, theo sau là một vệ sĩ cao lớn, súng ‘côn bạt’ đeo xệ bên
hông. Tân khách ngồi chật kín hội trường, mắt hau háu nhìn bàn tiệc. Rượu vang
đỏ rót đầy các cốc. Chủ hôn Trần Dụ Châu oai phong, đầy quyền uy bước ra tuyên
bố làm lễ thành hôn cho đôi vợ chồng hắn đỡ đầu, và trịnh trọng mời tân khách
nâng cốc trong tiếng nhạc vang lừng. Nhìn thấy nhà thơ ngồi ở bàn đầu, hắn tươi
cười giới thiệu: ‘Đám cưới hôm nay có một vị khách đặc biệt là ông Đoàn Phú Tứ,
nhà thơ cự phách của nhóm Xuân Thu Nhã Tập. Xin mời nhà thơ lên đọc một bài thơ
mừng cô dâu chú rể và quý vị tân khách’.
“Đoàn Phú Tứ đứng dậy, đăm đăm nhìn cốc rượu
vang đỏ như máu …Ông giận run lên, ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt Trần Dụ Châu,
nói lớn, nhấn mạnh từng từ cho tất cả những người dự tiệc nghe thấy: ‘Tôi xin đọc
tặng vị chủ hôn, cô dâu chú rể và tất cả các vị có mặt hôm nay, một câu thơ hay
tôi vừa nghĩ ra’… Khắp các bàn tiệc dậy lên tiếng xì xào tán thưởng: ‘Hoan hô
Xuân Thu Nhã Tập! Hoan hô thi sĩ Đoàn Phú Tứ!’.Chờ cho tiếng xì xào im hẳn, nhà thơ nói tiếp: ‘Thơ như sau: Bữa tiệc cưới
chúng ta sắp chén đẫy hôm nay, được dọn bằng máu xương chiến sĩ!’
“Trần Dụ Châu mặt tái nhợt quát to ’Láo!’ Vệ
sĩ của hắn xông tới tát bốp vào mặt nhà thơ, đại biểu Quốc hội. Đoàn Phú Tứ lặng lẽ rút khăn tay lau mặt, ném
khăn xuống đất, nhổ vào cốc rượu trước mặt, đĩnh đạc bước ra khỏi phòng.
Ngay
đêm hôm đó, nhà thơ viết một bức thư dài gửi lên Hồ Chủ Tịch, trình bày toàn bộ
sự việc.
Thư có đoạn viết:
‘ Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu
đã dùng quyền lực ‘ban phát’ thức ăn đồ mặc để giở trò ăn cắp. Cứ mỗi cái màn
lính, Châu ăn cắp hai tấc vải nên hễ ngồi lên là đầu chạm đình màn. Áo trấn thủ
bị Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải vào. Nhiều người biết đấy nhưng không
ai dám ho he... Cháu cùng với một đoàn nhà văn đi thăm và úy lạo các đơn vị bộ
đội vừa đi đánh giặc trở về. Cháu đã khóc nấc lên khi thấy các chiến sĩ bị
thương thiếu thuốc men, bông băng, hầu hết các chiến sĩ đều rách rưới đói rét,
chỉ còn mắt với răng giữa mùa đông chiến khu lạnh lắm, lạnh tới mức nước đóng
băng ’…Sau đó, nhà thơ kể về tiệc cướiBùi Minh Trân…”
x x x
Một đêm hè năm
1950 tại chiến khu Việt Bắc, Thiếu tướng Trần Tử Bình Phó Bí thư Quân ủy Trung
ương được mời lên gặp Bác.
Bác trao lá
thư của Đoàn Phú Tứ: “Thư của một nhà thơ gửi cho Bác. Bác đã đọc kỹ và rất đau
lòng!”. Bác dứt khoát: "Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ,
không để nó lây lan nguy hiểm". Bác giao cho Thiếu tướng điều tra vụ việc.
Trước khi điều
tra vụ Châu, Bộ Tổng tư lệnh cho bắt cục phó Quân nhu Phạm Toàn để lấy lời
khai. Tạm giam Toàn tại nhà dân, có bộ đội canh giữ. Đêm ấy, Toàn lấy trộm lựu
đạn, mở chốt, úp mặt vào…
Ngay hôm sau,
Tổng Thanh tra quân đội Lê Thiết Hùng triệu tập cuộc họp bàn việc “Điều tra vụ
tham ô của Đại tá Trần Dụ Châu”. Cán bộ Thanh tra tỏa về các liên khu. Thiếu tướng
Lê Thiết Hùng trực tiếp gặp từng cán bộ, chiến sĩ trò chuyện về đời sống, về chất
lượng và cách cấp phát quân nhu của đại tá Châu.
Tài liệu từ Khu Bốn gửi ra, từ Khu Ba gửi lên, rồi từ
chiến khu Việt Bắc... Trần Dụ Châu hiện nguyên hình một kẻ gian hùng, trác
táng, phản bội lòng tin của Đảng, xâm phạm lợi ích quốc gia.
Ngày 5/9/1950,
tại thị xã Thái Nguyên, Tòa án Binh tối cao mở phiên tòa xử Trần Dụ Châu. Lê Sĩ
Cửu vắng mặt vì đang ốm. Tại cửa phòng xử án căng khẩu hiệu "Nêu cao ánh
sáng công lý trong quân đội". Trong phòng treo 2 khẩu hiệu "Quân pháp
vô thân!" và "Trừng trị để giáo huấn!".
Thiếu tướng
Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh án cùng 2 hội thẩm: Phạm Học Hải - Giám đốc sở Tư
pháp Liên khu Việt Bắc và Trần Tấn - Cục phó Cục Quân nhu. Thiếu tướng Trần Tử
Bình, ngồi ghế Công tố viên. Nhiều đại diện các cơ quan dân chính đảng cùng đại
biểu quân đội, đại diện các đoàn thể nhân dân và các nhà báo tới dự.
Các chứng cứ
cho thấy Trần Dụ Châu tham ô, lợi dụng chức quyền biển thủ 57.950 đồng Việt
Nam, 449 USD, 28 tấm lụa xanh, nhận 20 vạn đồng tiền hối lộ, sống xa hoa, trụy
lạc,bè phái, gây chia rẽ nội bộ.
Công tố viên
Trần Tử Bình đọc cáo trạng trong đó có những đoạn:
Trong tình thế gấp rút chuẩn bị Tổng phản
công, để đền nợ cho quân đội, để làmgương cho cán bộ và nhân dân, để cảnh tỉnh những kẻ đang miệt mài nghĩ
phương kế xoay tiền của Chính phủ, những kẻ bày ra mưu nọ kế kia, lừa trên bịp
dưới, để trừ hết bọn mọt quỹ tham ô, dâm đãng, để làm bài học cho những ai đang
trục lợi kháng chiến, đang cậy quyền, cậy thế loè bịp nhân dân,bản án
mà Toà sắp tuyên bố phải là một bài học về đạo đức cách mạng cho mọi người, thoả
mãn lòng công phẫn của nhân dân, làm cho nhân dân thêm tin tưởng và nỗ lực hy
sinh cho cuộc toàn thắng của nước nhà. Vì vậy, tôi yêu cầu toà xử phạt:
1 - Trần Dụ Châu: tử hình
2 - Tịch thu ba phần tư tài sản
3 - Tịch thu những tang vật hối lộ
Thiếu tướng
Chánh án tuyên án:
“Trần Dụ Châu can tội biển thủ công quỹ, nhận
hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến: Tử hình, tịch thu ba phần tư tài sản.
Lê Sĩ Cửu: xử tử hình vắng mặt. Bùi Minh Trân can tội biển thủ công quỹ, thông
đồng với bọn buôn lậu giả mạo giấy tờ: 10 năm tù giam.”
Chủ tịch Hồ
chí Minh bác đơn xin giảm tội của Châu. 6 giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu ra
trường bắn trước sự có mặt của đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu
và một số cơ quan…
Lúc này, nước
ta còn đang trong vòng vây của địch, biên giới bị bịt kín, ta phải hoàn toàn tự
lực, cán bộ, bộ đội chưa có lương còn do dân nuôi, thiếu thốn đủ mọi thứ. Thế
nước đang như “ngàn cân treo sợi tóc” nên mọi người đều tin chắc vụ tham nhũng
lớn này chỉ giải quyết trong nội bộ. Thế nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị phải
thông tin rộng rãi cho nhân dân biết,phải
tường thuật đầy đủ trên báo Cứu Quốc và đài Tiếng nói Việt Nam. Tiền của bọn
tham nhũng lấy là tiền đóng góp của dân nên phải báo cáo với dân.
Báo Cứu Quốc
đăng bài tường thuật 6 kỳ liền, có bốn kỳ trên trang nhất, nêu tỉ mỉ các thủ đoạn,
mánh khóe moi tiền của Nhà nước cùng mọi trò ăn chơi, sa đọa của bọn tham
nhũng.
Xã luận “Nhân vụ án Trần Dụ Châu” phân tích tại sao
lại công khai với toàn dân:
“… Có người e ngại chúng ta mở toang vụ án này,
công khai vạch rõ những tội lỗi nhơ bẩn của Trần Dụ Châu và bè lũ có thể làm một
số dân chúng chê trách hay kẻ địch bám vào đấy để nói xấu Chính quyền, Đoàn thể
ta (thời gian này Đảng đang tự giải tán
vì vậy công khai trên báo gọi Đảng là Đoàn thể). Không! Chúng ta không sợ
phê bình và tự phê bình những khuyết điểm của ta. Chúng ta khác bọn phản động
và hơn hẳn chúng ở chỗ đó. Đây là sự khuyến khích nhân dân thẳng thắn phê bình
những sai lầm của cán bộ, của Chính quyền, Đoàn thể. Vì họ đã hiểu Chính quyền,
Đoàn thể là Chính quyền, Đoàn thể của mình nên họ nhất định không tha thứ những
kẻ nào đi ngược quyền lợi của họ. Chúng ta phải thẳng tay vạch mặt và trừng trị
những kẻ tham ô, hoang phí, những kẻ mưu sống phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của
người khác, tiến tới xây dựng một nền tảng chính quyền nhân dân thật vững mạnh.
Đấy không phải là việc riêng của Chính phủ, của Đoàn thể mà đấy là bổn phận của
các tầng lớp quần chúng nhân dân đông đảo chúng ta”.
Vừa đọc các bài báo chúng tôi vừa mạn đàm sôi nổi
và tất cả đều tin chắc “hễ thằng quan tham nào lộ mặt là Chính phủ và Đảng ta sẽ
trị ngay, nhờ vậy muôn đời dân ta sẽ không khổ sở vì bị chúng nó bóc lột”. Mà
chỉ cần làm đúng lời Bác Hồ dạy: “Dẫu có đau
cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan nguy hiểm”“Tiền của bọn tham nhũng lấy là tiền đóng góp
của dân nên phải báo cáo với dân”.
SĐM
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh y án tử hình Đại tá Trần Dụ Châu?
Thứ ba, 17/05/2016, 13:02 (GMT+7)
(Chính trị) - Tử
tù Trần Dụ Châu gửi đơn lên Hồ Chủ tịch xin tha tội chết. Ngày làm việc
với đồng chí Trần Đăng Ninh, xét lá đơn của tử tù, Bác Hồ chỉ cho đồng
chí Ninh thấy một cây xoan đang héo lá, úa ngọn và hỏi lý do tại sao cây
xoan sắp chết?
Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Mùa thu năm 1950, trong khi bộ đội, dân công đang dồn dập hành quân
lên Cao Bằng mở chiến dịch Lê Hồng Phong giải phóng vùng biên giới Việt
Trung, thì ngày 05/9/1950 ở thị xã Thái Nguyên – Thủ đô kháng chiến, Tòa
án binh tối cao đã mở phiên tòa đặc biệt, xét xử vụ án đặc biệt. Thiếu
tướng Chu Văn Tấn ngồi ghế Chánh án cùng 02 Hội thẩm viên là ông Phạm
Ngọc Hải, Giám đốc Tư pháp Liên khu Việt Bắc và ông Trần Tấn, Cục phó
Cục Quân nhu, Thiếu tướng Trần Tử Bình ngồi ghế Công cáo ủy viên (Viện
Kiểm sát bây giờ) và nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, chính quyền, quân
đội, nhân dân địa phương đến dự.
Có 03 bị cáo hầu tòa là nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần
Dụ Châu và đồng bọn can tội: “Biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại
công cuộc kháng chiến” bị đưa ra trước vành móng ngựa.
Vụ án được phát hiện từ bức thư của nhà thơ Đoàn Phú Tứ, đại biểu
Quốc hội khóa 1 gửi lên Hồ Chủ Tịch. Nội dung bức thư như sau: “Gần đây,
Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu đã gây nhiều dư luận bất
bình trong anh em quân đội, Châu đã dùng quyền lực “ban phát” ăn mặc,
nên Châu đã giở trò ăn cắp (công quỹ), cứ mỗi cái màn cấp cho bộ đội
Châu ăn bớt 2 tấc vải xô, nên cứ ngồi lên là đầu chạm đình màn. Còn áo
trấn thủ, Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải vào, nhiều người biết đấy
nhưng không dám ho he.
Cháu (nhà thơ Đoàn Phú Tứ) và 1 Đoàn nhà văn đi thăm bộ đội vừa đi
chiến đấu trở về, cháu đã khóc nấc lên khi thấy thương binh thiếu thuốc
men, bông băng, hầu như hết chiến sỹ đều rách rưới, võ vàng (vì) đói
rét, chỉ còn mắt với răng mà mùa đông rét buốt ở chiến khu lạnh lắm,
lạnh tới mức nước đóng băng. Cháu được Trần Dụ Châu mời dự tiệc cưới của
cán bộ dưới quyền tổ chức ngay ở chiến khu (nhiều tờ báo viết ở phố
Thanh Cù, xã Chấn Hưng, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, nơi đồng bào Thủ
đô tản cư lên buôn bán khá sầm uất).
Trên những dãy bàn dài tít tắp (bày tiệc cưới) xếp kín chim quay, gà
tần, vây bóng, giò chả, nấm hương, thịt bò thui, rượu tây, cốc thủy tinh
sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng, hoa Ngọc Hà dưới Hà Nội cũng kịp
đưa lên, ban nhạc “Cảnh Thân” được mời từ Khu Ba lên tấu nhạc réo rắt,
Trần Dụ Châu mặc quân phục Đại tá cưỡi ngựa hồng, súng lục “côn bát” đến
dự.
Trần Dụ Châu ngạo mạn, mời nhà thơ (tức Đoàn Phú Tứ) đọc thơ mừng hôn
lễ. Với lòng tự trọng của mình (đương kim là đại biểu Quốc hội) nhà thơ
đã thẳng thắn, dũng cảm xuất khẩu thành thơ:
“Bữa tiệc cưới của chúng ta sắp chén đẫy hôm nay,
Được dọn bằng xương máu của các chiến sỹ.”
(Sau khi nhà thơ vừa dứt lời, một vệ sĩ của Châu đã tát vào mặt nhà
thơ, quát to: “Nói láo” – Báo Công lý ngày 9/10/2009). Nhà thơ bỏ ra
ngoài – và viết thư tố cáo lên Bác Hồ.
Hồ Chủ Tịch đã trao bức thư của nhà thơ cho Thiếu tướng Trần Tử Bình
đang là Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Tổng Thanh tra Quân đội,
Người nói: “Đây là bức thư của một nhà thơ gửi cho Bác, Bác đã đọc kỹ lá
thư và rất đau lòng”, rồi Bác giao cho Thiếu tướng chỉ đạo điều tra làm
rõ vụ việc để xử lý.
Công tác thanh tra vụ tiêu cực ở Cục Quân nhu được tiến hành khẩn
trương, thu thập đủ tài liệu chứng cứ từ Khu Bốn trở ra, Khu Ba gửi lên –
Trần Dụ Châu hiện nguyên hình là một tên gian hùng, trác táng, phản bội
lại lòng tin của Đảng, của Bác, quân đội và nhân dân.
Trước sự thật đau lòng này, Bác Hồ dứt khoát nói: “Một cái ung nhọt,
dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó lây lan, nguy hiểm”.
Trần Dụ Châu đã bị Tòa án binh tối cao phạt án “tử hình”, đồng thời
bị tước quân hàm Đại tá theo công lệnh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 02
đồng bọn của Châu, mỗi tên bị phạt án tù 10 năm.
Tử tù Trần Dụ Châu gửi đơn lên Hồ Chủ tịch xin tha tội chết. Ngày làm
việc với đồng chí Trần Đăng Ninh, Tổng Cục trưởng Tổng cục Cung cấp,
xét lá đơn của tử tù, Bác chỉ cho đồng chí Ninh thấy một cây xoan đang
héo lá, úa ngọn và hỏi lý do tại sao cây xoan sắp chết?
– Dạ, thưa Bác vì thân cây đã bị sâu đục một lỗ rất to, chảy hết nhựa…
– Thế theo chú muốn cứu cây ta phải làm gì?
– Dạ, thưa Bác phải bắt, giết hết những con sâu đó đi.
Bác gật đầu, nói “Chú nói đúng, với loài sâu mọt đục khoét nhân dân
cũng thế, nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc
đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”.
Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin tha tội chết của Trần Dụ Châu.
Báo Cứu quốc ngày 27/5/1950 đã đăng bài xã luận viết về vụ này một
cách công khai để nhân dân biết, vụ án đã cho Chính phủ, Đoàn thể (Đảng)
nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng, giáo dục và kiểm soát cán bộ để
phục vụ tốt cho kháng chiến, kiến quốc… mặc dù có người e ngại, vì nếu
công khai vụ án này sẽ làm cho dân chúng chê trách, kẻ địch lợi dụng để
phản tuyên truyền, lợi ít, hại nhiều…(?).
Đoàn thể (Đảng), Nhà nước, Bác Hồ nghiêm khắc xử lý vụ án Trần Dụ
Châu hơn nửa thế kỷ trước đây vẫn là bài học quý cho việc chống tham
nhũng, lãng phí hiện nay, coi đây là việc làm nhân đạo để củng cố niềm
tin của quần chúng.
(Theo Reds)
Qua vụ Dương Chí Dũng nhớ lại vụ xử Cục trưởng Cục Quân nhu Dụ Châu
(GDVN) - Viện kiểm sát đề nghị HĐXX tuyên án tử hình đối với Dương Chí
Dũng và Mai Văn Phúc, các bị cáo còn lại chịu hình phạt từ 6 đến 30 năm
tù. Ngoài ra, các bị cáo còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra. Việc xử nghiêm minh vụ này có thể coi là một
bước đột phá trong việc triệt tiêu tham nhũng, kiên quyết bài trừ tham
nhũng theo tinh thần, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Chiều 13/12, trong phiên xét xử sơ thẩm
vụ án “Tham ô tài sản”, “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng Công ty Hàng hải Việt
Nam, Viện kiểm sát đã đề nghị HĐXX tuyên án tử hình với Dương Chí Dũng,
(nguyên Chủ tịch HĐQT Vinalines) và Mai Văn Phúc, (nguyên Tổng giám đốc
Vinalines).
Ngoài ra, VKS đề nghị 10 bị cáo liên đới
chịu trách nhiệm bồi thường 338 tỉ đồng thiệt hại do hành vi cố ý làm
trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế mà các bị cáo gây ra.
Dương Chí Dũng và các đồng phạm tại phiên xét xử. Ảnh TTXVN
Về đề nghị của HĐXX tử hình Dương Chí
Dũng và Mai Văn Phúc, Trung tướng Nguyễn Quốc Thước nguyên Tư lệnh Quân
khu IV, ĐBQH các khóa VIII, IX, X, cho rằng: đó là một đề nghị nghiêm
khắc nhưng đúng người đúng tội. Việc xử nghiêm minh vụ này có thể coi là
một bước đột phá trong việc triệt tiêu tham nhũng, kiên quyết bài trừ
tham nhũng theo tinh thần, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
“Trước đây rất ít vụ “quan tham” được xử
đến nơi đến chốn. Hầu hết là cách chức, cho về hưu hoặc nặng cũng chỉ
phạt án treo. Bởi vậy nhiều người “nhờn’ với luật pháp và tình trạng
tham nhũng vì thế mà gia tăng”, tướng Thước nói.
Công tác thanh tra vụ
tiêu cực ở Cục Quân nhu được tiến hành khẩn trương, thu thập đủ tài liệu
chứng cứ từ Khu Bốn trở ra, Khu Ba gửi lên - Trần Dụ Châu hiện nguyên
hình là một tên gian hùng, trác táng, phản bội lại lòng tin của Đảng,
của Bác, quân đội và nhân dân. Trước sự thật đau lòng này, Bác Hồ dứt
khoát nói: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó
lây lan, nguy hiểm”.
Theo ông, đây là “trận đánh” tham nhũng
đầu tiên sau tinh thần của nghị quyết Trung ương 4 nên phải làm cho ra
trò vì “đầu có xuôi thì đuôi với lọt”.
Tướng Thước cho hay, lúc chưa xét xử ông
rất lo vụ đại án này sẽ được làm theo kiểu “ngúc ngắc”, nửa vời, như
vậy sẽ không lấy được lòng tin ở nhân dân. Rồi sau, những vụ khác dễ xảy
ra kiểu “hòa cả làng”.
Cũng qua việc HĐXX đề nghị mức tử hình
đối với Dương Chí Dũng và Mai Văn Phúc, Tướng Thước nhớ lại chuyện Bác
Hồ đã y án tử hình nguyên Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu
và đồng bọn can tội “biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc
kháng chiến”.
Sự việc ngày đó như sau:
Mùa thu năm 1950, trong khi bộ đội, dân
công đang dồn dập hành quân lên Cao Bằng mở chiến dịch Lê Hồng Phong
giải phóng vùng biên giới Việt Trung, thì ngày 05/9/1950
ở thị xã Thái Nguyên - Thủ đô kháng chiến, Tòa án binh tối cao đã mở
phiên tòa đặc biệt, xét xử vụ án đặc biệt. Thiếu tướng Chu Văn Tấn ngồi
ghế Chánh án cùng 02 Hội thẩm viên là ông Phạm Ngọc Hải, Giám đốc Tư
pháp Liên khu Việt Bắc và ông Trần Tấn, Cục phó Cục Quân nhu, Thiếu
tướng Trần Tử Bình ngồi ghế Công cáo ủy viên (Viện Kiểm sát bây giờ) và
nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, chính quyền, quân đội, nhân dân địa
phương đến dự.
Có 03 bị cáo hầu tòa là nguyên Đại tá,
Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu và đồng bọn can tội: “Biển thủ công
quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến” bị đưa ra trước vành
móng ngựa.
Bữa cơm của Bác Hồ và các chiến sĩ thời chống Pháp rất kham khổ trong khi Trần Dụ Châu
và đồng bọn sống như ông hoàng - Ảnh: Tư liệu
Vụ án được phát hiện từ bức thư của nhà
thơ Đoàn Phú Tứ, đại biểu Quốc hội khóa 1 gửi lên Hồ Chủ Tịch. Nội dung
bức thư như sau: “Gần đây, Đại tá Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu
đã gây nhiều dư luận bất bình trong anh em quân đội, Châu đã dùng quyền
lực “ban phát” ăn mặc, nên Châu đã giở trò ăn cắp (công quỹ), cứ mỗi cái
màn cấp cho bộ đội Châu ăn bớt 2 tấc vải xô, nên cứ ngồi lên là đầu
chạm đình màn. Còn áo trấn thủ, Châu ăn cắp bông lót rồi độn bao tải
vào, nhiều người biết đấy nhưng không dám ho he.
Cháu (nhà thơ Đoàn Phú Tứ) và 1 Đoàn nhà
văn đi thăm bộ đội vừa đi chiến đấu trở về, cháu đã khóc nấc lên khi
thấy thương binh thiếu thuốc men, bông băng, hầu như hết chiến sỹ đều
rách rưới, võ vàng (vì) đói rét, chỉ còn mắt với răng mà mùa đông rét
buốt ở chiến khu lạnh lắm, lạnh tới mức nước đóng băng. Cháu được Trần
Dụ Châu mời dự tiệc cưới của cán bộ dưới quyền tổ chức ngay ở chiến khu
(nhiều tờ báo viết ở phố Thanh Cù, xã Chấn Hưng, huyện Thanh Ba, tỉnh
Phú Thọ, nơi đồng bào Thủ đô tản cư lên buôn bán khá sầm uất).
Trên những dãy bàn dài tít tắp (bày tiệc
cưới) xếp kín chim quay, gà tần, vây bóng, giò chả, nấm hương, thịt bò
thui, rượu tây, cốc thủy tinh sáng choang, thuốc lá thơm hảo hạng, hoa
Ngọc Hà dưới Hà Nội cũng kịp đưa lên, ban nhạc “Cảnh Thân” được mời từ
Khu Ba lên tấu nhạc réo rắt, Trần Dụ Châu mặc quân phục Đại tá cưỡi ngựa
hồng, súng lục “côn bát” đến dự.
Trần Dụ Châu ngạo mạn, mời nhà thơ (tức
Đoàn Phú Tứ) đọc thơ mừng hôn lễ. Với lòng tự trọng của mình (đương kim
là đại biểu Quốc hội) nhà thơ đã thẳng thắn, dũng cảm xuất khẩu thành
thơ:
"Bữa tiệc cưới của chúng ta sắp chén đẫy hôm nay,
Được dọn bằng xương máu của các chiến sỹ.”
(Sau khi nhà thơ vừa dứt lời, một vệ sĩ
của Châu đã tát vào mặt nhà thơ, quát to: “Nói láo” - Báo Công lý ngày
9/10/2009). Nhà thơ bỏ ra ngoài - và viết thư tố cáo lên Bác Hồ.
Hồ Chủ Tịch đã trao bức thư của nhà thơ
cho Thiếu tướng Trần Tử Bình đang là Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó
Tổng Thanh tra Quân đội, Người nói: “Đây là bức thư của một nhà thơ gửi
cho Bác, Bác đã đọc kỹ lá thư và rất đau lòng”, rồi Bác giao cho Thiếu
tướng chỉ đạo điều tra làm rõ vụ việc để xử lý.
Công tác thanh tra vụ tiêu cực ở Cục
Quân nhu được tiến hành khẩn trương, thu thập đủ tài liệu chứng cứ từ
Khu Bốn trở ra, Khu Ba gửi lên - Trần Dụ Châu hiện nguyên hình là một
tên gian hùng, trác táng, phản bội lại lòng tin của Đảng, của Bác, quân
đội và nhân dân.
Trước sự thật đau lòng này, Bác Hồ dứt
khoát nói: “Một cái ung nhọt, dẫu có đau cũng phải cắt bỏ, không để nó
lây lan, nguy hiểm”.
Trần Dụ Châu đã bị Tòa án binh tối cao
phạt án “tử hình”, đồng thời bị tước quân hàm Đại tá theo công lệnh của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, 02 đồng bọn của Châu, mỗi tên bị phạt án tù 10
năm.
Tử tù Trần Dụ Châu gửi đơn lên Hồ Chủ
tịch xin tha tội chết. Ngày làm việc với đồng chí Trần Đăng Ninh, Tổng
Cục trưởng Tổng cục Cung cấp, xét lá đơn của tử tù, Bác chỉ cho đồng chí
Ninh thấy một cây xoan đang héo lá, úa ngọn và hỏi lý do tại sao cây
xoan sắp chết?
- Dạ, thưa Bác vì thân cây đã bị sâu đục một lỗ rất to, chảy hết nhựa...
- Thế theo chú muốn cứu cây ta phải làm gì?
- Dạ, thưa Bác phải bắt, giết hết những con sâu đó đi.
Bác gật đầu, nói “Chú nói đúng, với loài
sâu mọt đục khoét nhân dân cũng thế, nếu phải giết đi một con sâu mà
cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc
làm nhân đạo”.
Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin tha tội chết của Trần Dụ Châu.
Báo Cứu quốc ngày 27/5/1950
đã đăng bài xã luận viết về vụ này một cách công khai để nhân dân biết,
vụ án đã cho Chính phủ, Đoàn thể (Đảng) nhiều kinh nghiệm trong việc sử
dụng, giáo dục và kiểm soát cán bộ để phục vụ tốt cho kháng chiến, kiến
quốc... mặc dù có người e ngại, vì nếu công khai vụ án này sẽ làm cho
dân chúng chê trách, kẻ địch lợi dụng để phản tuyên truyền, lợi ít, hại
nhiều...(?).
Đoàn thể (Đảng), Nhà nước, Bác Hồ nghiêm
khắc xử lý vụ án Trần Dụ Châu hơn nửa thế kỷ trước đây vẫn là bài học
quý cho việc chống tham nhũng, lãng phí hiện nay, coi đây là việc làm
nhân đạo để củng cố niềm tin của quần chúng.
Xin Tạo Hóa cho tôi khùng nhiều nhé Để thấy hiển nhiên toàn những chuyện ngù ngờ Để đủ gan lỳ cãi triết-khoa chí chóe Bỏ đường đông quen, tưng tửng bước đường khờ Xin Tạo Hóa cho tôi thành bé tí Để dò la trò bất định vi mô Để gặp Foton hỏi về Cơ lượng tử Sóng giao hòa hay hạt giăng tơ Xin Tạo Hóa cho tôi điên rồ nhé Để nhìn ra nét quyến rũ Ten-xơ Để chắt lọc từ Phương trình của Chúa Vần gieo cuối cùng, kết đẹp một bài thơ...
Trần Hạnh Thu
Ánh Trăng Vỡ - Nguyễn Hồng Thuận
Gieo vần thế sự
10:10 27/02/2013
Quý Tị chắc sẽ khó khăn. Nhiều trăn trở, lắm băn khoăn, chuyển
dời... Nhưng mọi sự sẽ ổn thôi. Một khi ta biết giữ lời với nhau...
- Thực sự là như thế, chúng ta đâu có sống ở trên bãi mìn mà cứ phải đi giẫm đúng vào dấu chân những người đi trước.
- Cần không chỉ nói theo cách của mình mà cả sống theo cách của mình.
Chỉ như thế xã hội mới có cơ đổi mới thành công và phát triển bền vững...
- Những sự dễ dãi có thể luôn làm cho chúng ta dễ chịu. Nhưng
cái làm cho chúng ta dễ chịu nhất có thể sẽ không dễ dãi. Và thường là
không dễ dãi...
- Muốn nói ngoa, đi xa về mà nói...
Hiện tượng này hình như đang trở thành một xu thế ở ta hiện nay.
Thực sự tôi cũng không hiểu một số đồng nghiệp của tôi ngây thơ
thật hay cố tình ra vẻ ngây thơ khi nhiệt tình phát tán trên mạng những
câu chuyện một tấc đến giời như thế từ những “người lữ hành kỳ dị” đời
mới đó?
- Lên chùa đâu để gặp sư,
Lên chùa là để tự tu tâm mình.
Nâu sồng không dứt được tình,
Chẳng qua chờ kẻ đi rình của chua...
- Không thể bằng biện pháp áp đặt mà xây dựng được phẩm hạnh văn hóa cao ở học trò.
Người thầy cần biết cách dẫn dụ rất tế nhị để học trò tự tìm tới với những giá trị văn hóa tinh hoa.
Khác đi, sẽ khiến học trò cảm thấy chối mà từ bỏ ngay cả những gì rất tốt chỉ vì dị ứng với việc bị ép buộc...
- Khi bạn lớn tiếng tuyên bố trước thiên hạ rằng phải hành xử
như bạn mới là trí thức chân chính thì tôi rất hoài nghi về việc bạn là
trí thức chân chính...
Minh họa: Lê Phương.
- Lúc thì cấm cái không đáng cấm, lúc thì lại cho phép cái không nên cho phép.
Thử hỏi làm sao mà showbiz lại không như thế này?!
- Nhà chùa dạo này cũng “tiếp thị” cúng sao giải hạn trên điện thoại di động.
Mình vừa nhận được một tin nhắn như thế từ một số điện thoại không quen biết.
Thời buổi hay nhỉ?!
- Đành thôi, phúc phận tò vò,
Trách chi lũ nhện để cho buồn mình...
Đã mang hai tiếng lụy tình,
Thì thua thiệt mấy vẫn minh bạch cười...
- Khủng khiếp nhất không phải là khi bị đám đông ném đá vào mình.
Khủng khiếp nhất là khi ta nhìn thấy trong đám đông đó có những gương mặt từng đã thân quen.
- Ở một xứ sở có quá nhiều “nhân sĩ chém gió” thì có lẽ phải
giả ngu thôi thì may ra mới được Đại Ngu theo nghĩa mà Hồ Quý Ly mơ
ước...
- Có lẽ chỉ những người nghiệp dư mới hay linh thiêng hóa công
việc mình đang làm và luôn vỗ ngực cứ như thể chỉ mình mình mới là siêu
nhân cao đạo...
Những trải nghiệm sâu sắc sẽ giúp ta cảm thấy mọi chuyện đều không có gì đáng phải ầm ĩ cả...
- Lắm khi đằng sau sự hãnh diện của gương mặt đang toát lên
hạnh phúc lại là những vết thương âm ỉ không bao giờ lành thành sẹo...
- Không ít người sẵn sàng bỏ hàng buổi để ve vuốt thể xác,
nhưng không nhiều người hiểu rằng, quan trọng là phải dành đủ thời gian
để chăm sóc cho tâm hồn của mình lành mạnh...
- Không ít người tìm thấy trên mạng những cơ hội thể hiện mình mà họ đã không có được trong đời thực.
Và cũng đã không ít người đã thể hiện mình trên mạng như trong đời thực. Và lần thứ hai họ lại bị mất cơ hội thể hiện mình...
Nếu ta không biết ứng xử ổn thỏa với xung quanh trong đời thực
thì ngay ở trên mạng, ta cũng rất khó ứng xử được ổn thỏa với những
người bạn ảo...
- Chỉ có kẻ không làm thỏa mãn được ai mới liên tục tỏ ra bất mãn với những người khác.
- Hình như cô Tấm là thiếu nữ đầu tiên ở Việt Nam đã chứng minh
được rằng, thực ra hoàng tử cũng ngốc nghếch, vì chỉ vì mê cái chân nhỏ
mà cưới làm vợ cả một cô gái có gan làm mắm thịt người...
- Kinh nghiệm cho thấy, kể cả khi nghe thấy kích động đúng thì
người không ngu ngốc sẽ không vội vàng nghe và chạy theo ngay. Bởi làm
thế rất dễ bị tai nạn chỉ đơn giản là do có quá đông người cùng chạy ùa
về một chỗ nên dễ xảy ra tình trạng giẫm đạp lên nhau...
Không phải cứ động cơ tốt mà đã an toàn cả đâu. Cứ thử nhìn vào
các vụ chết người do giẫm đạp lên nhau ở các lễ hội tôn giáo lớn ở nước
ngoài thì thấy...
Hơn nữa, phần lớn những kẻ to mồm kích động đều giấu trong lòng những động cơ không hẳn là minh bạch...
Hãy tự mình từ từ giác ngộ và hành động một cách cẩn trọng theo sự mách bảo của con tim và lý trí...
- Một người chỉ là một người,
Làm sao cải được cõi đời mênh mông?
Việc hay cần sự hòa đồng
Chí lớn danh sĩ với lòng thứ dân...
Tốt lên sẽ phải dần dần,
Trong công việc ấy rất cần chúng ta...
Người gần và cả người xa
Có chung thiện chí mới là hữu nhân...
- Có 1001 lý do để bi quan.
Thế nhưng bao giờ cũng có ít nhất là một lý do để lạc quan.
Và tôi luôn hành động theo hướng lạc quan ngay cả khi tưởng như mọi sự đã bế tắc.
Và bây giờ tôi đang ngồi uống rượu ngắm hoa...
- Đôi khi tình cờ nhìn thấy ảnh mới của người bạn cũ mà lâu rồi mình không gặp, chợt hiểu ra, mình cũng đã già rồi...
- Đã khinh thì đừng thèm chơi,
Đừng để không kiếm được lời mới khinh...
Làm người nên biết nương tình,
Không ăn đạp đổ là linh tinh rồi...
- Nếu ta vội vã dùng những lời lẽ khiếm nhã hay mạt sát để nói
về những người không hành xử giống như ta thì chính ta phải xem lại vai
trò trí thức của mình.
- Quan trọng nhất không phải là cái gọi là sự thật về quá khứ mà một số kẻ đang rêu rao.
Quan trọng là chúng ta đang sống với nhau như thế nào để tương lai không bị sa vào những khúc mắc như quá khứ...
- Tôi thích thú với những người hành xử theo cảm tính, luôn
“liều mình như chẳng có” trong mọi tình huống theo tiếng gọi của những
cảm xúc đẹp và bồng bột.
Thế nhưng, tôi khâm phục những người hành động theo lý tính,
biết kìm nén cảm xúc cá nhân để chăm lo cho thắng lợi chung cuộc của cả
một tiến trình...
Nói cho sướng miệng và oai oách thì không quá khó.
Khó là thực hiện nhiệm vụ tỉnh táo viên, dễ bị đám đông ném
đá... Họ mới là sự cứu rỗi chứ không phải những kẻ dân túy to mồm chỉ
giỏi các trò gãi đúng chỗ ngứa đám đông để trục lợi...
- Người lo xa thì khi hứa cũng chỉ hứa ngắn thôi, mà chỉ hứa việc mà nếu không làm cũng không sao cả...
Đàn bà đôi khi trở nên thù hận ta không phải vì họ quá cần cái
mà ta hứa cho họ mà vì họ tức bởi ta hứa mà ta lại không giữ lời...
- Xưa nay vẫn thế, những kẻ tiểu nhân bao giờ cũng tìm ra bằng
được động cơ xấu ngay cả trong những hành động vô tư nhất của những
người tử tế...
- Không có gì mệt mỏi và vô duyên hơn là cứ phải làm ra vẻ tinh
thông mọi việc và tới đâu cũng phải nói những lời có cánh như mọi sự
đúng rồi!
Thật quá khổ!
- Khi xảy ra một sự cố nào đó, bao giờ tôi cũng thở phào và thốt lên: may quá, mọi sự đã có thể còn tồi tệ hơn thế!
Khi không may bị mất tiền oan, bao giờ tôi cũng nói, thôi thì của đi thay người, còn người là còn tất cả!..
- “Có đến mà yêu thì hãy đến...” - Xuân Diệu đã nói vậy.
Tôi không thích những ai nhìn cuộc đời theo cách thiên về soi mói những khiếm khuyết.
Nên đánh giá người khác theo những việc tích cực mà họ làm được
chứ đừng nên gièm pha họ ở những điểm yếu mà họ có thể còn mắc phải. Có
thể là bạn có nhiều phẩm hạnh hơn ai đó nhưng nếu bạn chưa làm được
việc hay ho như họ thì bạn đừng vội đắc chí...
- Đừng bao giờ cư xử giống như kẻ vừa vỗ ngực vừa nói: “Tôi là người khiêm tốn nhất thế giới!”.
- Một nhân viên mà lúc nào cũng nghĩ rằng cấp trên kém mình thì sẽ không bao giờ có thể trở thành một vị sếp giỏi được.
- Kinh nghiệm chung cho thấy, các cuộc hôn nhân sở dĩ trở nên
bền vững không phải vì không có những sai lầm mà vì biết tha thứ và hàn
gắn...
- Tai họa không phải ở chỗ chúng ta ngày một già đi, mà ở chỗ: chúng ta ngày một lỗi thời...
- Việc khó nhất đối với lãnh đạo trong một tập thể là giúp cho
mọi người yêu quý nhau thực sự và không thầm đắc chí khi một ai đấy bị
tai nạn nghề nghiệp...
- Sách Phúc âm Mátthêu có ghi lại lời răn của Thiên Chúa: “Người phải yêu người thân cận như chính mình”.
Thế mà trong giới showbiz, lắm khi làm như vậy thì lại bị coi là dân đồng tính…
- Không có gì buồn hơn những bó hoa loa kèn héo dần trên xe đạp của những người bán hoa rong...
Tôi thèm có một tình yêu để mua tất cả hoa loa kèn mùa này về rải đầy trên hè phố nhà người ấy...
Than ôi, tôi đã già rồi…
- Tin không phải vì ngu mà vì không tin thì còn ngu hơn...
- A dua bao giờ cũng chiến thắng cá tính, bởi đội ngũ a dua đông hơn và đoàn kết hơn.
Nhưng cá tính bao giờ cũng là thứ mà a dua thèm khát nhất...
Đó cũng là lẽ công bằng...
- Đừng nghe theo lời khuyên của các ông nhà giàu.
Vì mình làm theo lời các ông ấy thì mình sẽ chỉ càng ngày càng nghèo hơn thôi.
Đấy chính là lý do mà Mexico không bao giờ như Mỹ được dù hai nước ở cạnh nhau...
- Mua vui bằng những câu thơ,
Cuối cùng nhận nỗi bơ vơ về mình...
Mua vui bằng những tơ tình,
Cuối cùng lại chỉ một mình làm thơ... Đặng Đình Nguyên
Dương Quốc Định tiết lộ bất ngờ về ảnh khoả thân do chính vợ làm mẫu
TPO - Nhân dịp có tác phẩm dự triển lãm ảnh nude đầu tiên ở Hà Nội,
nhiếp ảnh gia Dương Quốc Định đã có những tiết lộ bất ngờ về lĩnh vực
này.
Chia sẻ trên Vnexpress về bức ảnh nhiếp ảnh gia sinh năm 1967 chụp
vợ khỏa thân đoạt giải thưởng quốc tế Giuliano Carrara lần thứ bảy tại
Italy năm 2008, Dương Quốc Định tiết lộ khi đó vợ ông đã 37 tuổi. Thậm
chí khi có người bạn đến xem ảnh đã không nhận ra người phụ nữ trong bức
hình là ai nên đã hỏi tên và muốn gặp. Tuy nhiên sau khi biết sự thật,
người này ngạc nhiên hỏi ông rằng sao dám chụp vợ và công khai cho mọi
người xem. Dương Quốc Định cho biết vợ ông không xấu nên không cần giấu.
Bà xã Dương Quốc Định bên bức ảnh nude do chính chồng chụp đạt giải quốc tế.
Nhiếp ảnh gia này cũng cho biết thêm rằng bản thân ông biết có
những người vợ không bao giờ chấp nhận cho chồng chụp nude người phụ nữ
khác, nhưng vợ ông lại thấy bình thường và đồng cảm với công việc của
chồng. Bởi khi người thân còn không cho chụp thì còn người mẫu nào dám
tìm đến ông. 'Ngoài vợ, cháu và em gái đều là người mẫu đầu của tôi',
Dương Quốc Định tiết lộ.
Bên cạnh đó, người nghệ sĩ say chụp ảnh nude này còn bật mí bản thân vô cùng khó tính trong việc chọn mẫu.
'Công việc này không đơn thuần là bỏ tiền ra thuê một cô gái
đầy đủ bộ phận. Tôi thích chụp toàn thân nên trước hết, mẫu nude phải có
gương mặt khả ái. Sau đó, họ phải có văn hóa nền, am hiểu về loại hình
nghệ thuật này. Tôi kiên nhẫn giải thích cho mẫu nude công việc và mục
đích của nó, sau đó mới bấm máy', nhiếp ảnh gia cho biết.
Tác phẩm "Tinh khiết" của Dương Quốc Định.
Do đó mà năm vừa rồi dù có nhiều người tình nguyện làm mẫu cho
Dương Quốc Định nhưng ông chỉ chọn được 1 người. Ông quan điểm rằng chụp
ảnh không chỉ lưu giữ đường nét cơ thể mà còn là cảm xúc của nhân vật
và ông phải cảm được cảm xúc của mẫu thì mới chụp. Đặc biệt, Dương Quốc
Định bộc bạch cá nhân ông thường tránh chụp hình hotgirl bởi nhỡ sau này
họ có scandal thì tấm hình của ông không còn tinh khiết.
Và khi làm việc, vị nhiếp ảnh gia này tỏ rõ việc tôn trọng đối
tượng của mình bằng việc lập hợp đồng làm việc và ghi rõ mục đích. Kết
quả chia đôi vì đó là đồng tác giả và tác quyền sở hữu sản phẩm. Bởi
theo ông 'Khi có sự quy ước và tôn trọng ngay từ đầu thì công việc chụp mẫu khỏa thân đưa đến an toàn tuyệt đối, tránh thị phi'.
Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là Dương Quốc Định chưa gặp phải
tai nạn nghề nghiệp. Ông tâm sự rằng nhiều năm trước, cô mẫu sắp lấy
chồng nên bảo ông hạ hình chụp cô ấy xuống do gia đình không chấp nhận
hình ảnh cơ thể cô ấy được trưng bày rộng rãi. Với sự tôn trọng đối tác,
nhiếp ảnh gia này đã gỡ bức ảnh xuống một cách nhẹ nhàng.
Dương Quốc Định.
Nói về nghệ thuật ảnh nude ở Việt Nam, Dương Quốc Định cho rằng một
thể loại có phát triển hay không luôn phụ thuộc vào tính lan tỏa cộng
đồng. Ở Việt Nam, cách thưởng lãm mỹ thuật của khán giả chưa cao. Giữa
người sáng tác và tiếp nhận có ít sự tương tác trực tiếp hoặc công chúng
thiếu trải nghiệm để phân biệt tác phẩm nude chân chính với ảnh phi
nghệ thuật, phản cảm.
Thêm vào đó, các tác phẩm thường xuyên bị sao chép, chụp trộm bằng
nhiều hình thức để phục vụ mục đích kinh doanh của cá nhân, tổ chức. Đó
là sự thiếu tôn trọng và khiến nhiều nghệ sĩ không thể sống được với
nghề.
Lộc Liên
Tổng hợp
Những người đàn bà không mặc áo bên vệ đường quốc lộ
10:33 15/07/2018
Mặc dù có thói quen để ngực trần nhưng váy, áo của phụ nữ S'tiêng lại mang phong cách độc đáo riêng biệt.
Không phải dải đất Tây Nguyên rộng lớn, cũng chẳng là những bản làng
xa xôi lưng chừng dãy Trường Sơn huyền hoặc, tôi vô cùng bất ngờ khi đi
dọc quốc lộ 14, tuyến quốc lộ dài thứ 2 của đất nước (sau quốc lộ 1A)
đoạn qua Bù Na, Bu Lon, Bu Glong, Bù Đăng, Bàu Lạch, Bù Lơ… lại bắt gặp
những người đàn bà ngực trần trong công việc bình thường của mình.
Họ là cộng đồng người S'tiêng sinh sống rải rác ở nhiều địa phương khác nhau của tỉnh Bình Phước.
Những bộ ngực trần của những người đàn bà ấy không gợi lên trong chút
một chút sắc dục nào mà ngược lại, chỉ thấy một vẻ đẹp tự nhiên đầy ám
ảnh và sự chân thật đến tận cùng của núi rừng. Vẻ đẹp bình dị
Lần đầu tiên tới vùng rừng núi Bình Phước, tôi men theo quốc lộ 14 từ
thị trấn Chơn Thành đi ngược lên. Mùa này, những cơn mưa đã bắt đầu
xuất hiện khiến đất trời miền Đông như bừng tỉnh sau những ngày nắng
nóng kéo dài.
Tuyến quốc lộ như con trăn khổng lồ uốn lượn quanh co trập trùng, lúc
thì trải ra trước mắt, lúc lại ẩn hiện nhập nhòa lẫn vào trong mây, để
tạo nên một trong những cung đèo, khúc cua. Nó không hùng vĩ như Tây
Nguyên nhưng nó là địa hình đang trở mình từ đồng bằng đến cao nguyên
bằng những cú vặn mình ngoạn mục.
Bà Thi Ban để ngực trần cả đời.
Thế nhưng, đó chưa phải là điều kỳ lạ nhất của mảnh đất này, điều kỳ
lạ với tôi là hình ảnh hàng chục người phụ nữ lưng đeo gùi, chân bước
lầm lũi chỉ mặc độc một chiếc váy thổ cẩm quấn ngang hông với bầu vú để
trần. Họ lặng lẽ đi, an nhiên bên cuộc đời một cách chậm dãi như bỏ bên
ngoài những dòng xe khá đông đúc bên kia quốc lộ.
Thế nhưng, chỉ cần một thoáng lướt qua ấy cũng đủ để hình ảnh những
người phụ nữ ngực trần in lại mãi, ám ảnh trong tâm trí tôi. Đó không
phải là những người phụ nữ khỏa thân hở hang mà tôi vẫn gặp nhan nhản
trên sách báo, mạng internet hiện nay mà là hình ảnh của một vẻ đẹp
thuần khiết, hoang sơ và gần gũi với thiên nhiên.
Và, hành trình tìm hiểu về những người đàn bà ngực trần lại càng thôi
thúc tôi, giữa quanh co những con đường dốc uốn lượn màu đất đỏ miền
Đông này.
Từ tỉnh lộ ĐT 760, một nhánh của quốc lộ 14, chúng tôi tìm tới cộng
đồng người S'tiêng nằm cạnh hồ Thác Mơ khi trời đã xế chiều. Hai bên con
đường đất đỏ là những vườn điều đang mùa đậu quả, và những mái nhà bình
dị.
Từ bao đời nay, những người S'tiêng luôn tìm cho mình những nơi định
cư gần như tách bạch với các làng ấp có tên gọi hành chính khác. Họ sống
thuận hòa, nguyên sơ và đơn giản đâu đó ở những vùng đất heo hút nhất.
Bà Thi Ban, 61 tuổi, một người dân ở đây kể, với người phụ nữ
S'tiêng, ngực của họ được coi là vẻ đẹp thuần khiết. Cái bầu vú căng
tròn đầy sức sống của họ như là một biểu tượng của sự sinh sôi, của
những nảy nở cần được phô ra.
Kể cả sau khi đã lấy chồng, sinh con thì những người phụ nữ vẫn không
bao giờ mặc áo. Tuy nhiên, đến thời gian này, họ thường che ngực bằng
các loại trang sức khác như dây cườm đeo ở cổ, các loại bạc, đồng được
chế tác rồi buộc để đeo như dây chuyền của người Kinh vậy.
Cũng chính vì tập tục để ngực trần mà phụ nữ S'tiêng rất thích dùng trang sức đeo trước ngực.
Hỏi chuyện bà Thi Ban được biết, cũng như nhiều người S'tiêng khác,
bà và gia đình, cộng đồng mình không có nơi lưu trú cố định. Họ di cư
nhiều đời, qua nhiều vùng đất khác nhau, từ Tây Nguyên men theo dải
Trường Sơn xuống vùng rừng núi tiệm cận đồng bằng là Bình Phước, rồi
sinh sống ở đó, quanh những núi đồi, thung lũng rộng lớn của dãy Bà Rá.
Hàng ngày, cuộc sống của bà chỉ quanh quẩn ở trong nhà và những nương
rẫy đã thân thuộc với những con đường đất đỏ mà thôi. Ngày trẻ, bà rất
đẹp và sau khi lấy chồng, sinh cả thảy 6 người con cả trai lẫn gái, bà
vẫn đẹp, vẫn để ngực trần.
Bà bảo, việc để ngực trần cả cuộc đời giúp bà cảm thấy tự tin, mạnh
khỏe hơn. Khi nào trời lạnh hoặc ban đêm ngủ, bà mới quấn quanh người
một tấm khăn rô dệt bằng thổ cẩm được dệt từ sợi tơ thô. Còn bình
thường, tấm khăn đó có thể được quấn quanh đầu, quấn ngang hông hoặc
buộc chéo để địu con mà thôi.
Nghe bà Thi Ban kể chuyện, nhìn bộ ngực đã trễ màu xám của bà, chúng
tôi có cảm giác rằng, không có điều gì bí ẩn bằng những cái chúng ta
được nhìn thấy rõ nhất!. Phai nhạt theo thời gian
Tuy nhiên, không chỉ có người S'tiêng ở xóm nhỏ heo hút mà tôi tìm
tới mới để ngực trần, mà khắp vùng biên giới Bình Phước này, quanh những
bản làng khác của dãy Bà Rá hùng vĩ, rất nhiều người phụ nữ S'tiêng
khác cũng vẫn giữ thói quen như vậy.
Vài chục năm trở lại đây, rất nhiều nếp sống của cộng đồng thị dân đã
quét qua núi rừng, nhưng nó dường như vẫn chưa đủ sức làm thay đổi tất
thảy những thói quen của cộng đồng cư dân S'tiêng đã sinh sống nhiều đời
nơi đây.
Không khó nhận ra rằng, những bộ quần áo may sẵn đã tràn ngập những
khu chợ, những cộng đồng người dân ở khắp dải đất biên giới Bình Phước
này. Và rất nhiều thói quen, nếp sinh hoạt khác cũng như ý thức sống của
cư dân, cả những cư dân S'tiêng ở đây cũng thay đổi. Đó là quy luật
không thể thay thế.
Thế nên, nó càng khiến những người phụ nữ để ngực trần tôi đã gặp trở
nên đặc biệt và đẹp đẽ lạ thường, dù thực sự họ khá hiếm hoi. Họ vẫn đi
rừng, vẫn lấy măng, lấy lá, lấy củi, lấy sâm, lấy nấm… vẫn xuống chợ,
vẫn nói chuyện với những người xa lạ lần đầu đặt chân tới dải đất này
như chúng tôi, nhưng họ vẫn giữ được thói quen để ngực trần khi ở nhà.
Có lẽ, cùng với những đám mây thâm u trên đỉnh Bà Rá phía xa xa,
những người phụ nữ S'tiêng nơi đây là còn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ
nhất.
Tác giả bài viết và người đàn bà ngực trần.
Già làng Điểu Năm, 67 tuổi người S'tiêng ở Bù Ghe thuộc huyện biên
giới Bù Đăng bùi ngùi bảo, từ cách đây khoảng hơn mười năm nay, lẫn
trong các buôn của người S'tiêng đã có thêm những cộng đồng người khác
với văn hóa, lối sống khác xâm nhập vào.
Hơn nữa, việc những thế hệ trẻ đi học, tiếp xúc với cuộc sống hiện đại đã khiến cho thói quen ở trần dần dần ít đi.
Không thể nào có một cô gái, chàng trai người S'tiêng lại có thể để
ngực trần rồi đi học hay đi chơi cùng bạn bè được. Vì thế, họ thường chỉ
để ngực trần khi đi…tắm suối.
Hiện nay dù có đi hết các buôn, trấn của người S'tiêng thì cũng khó
lòng tìm được những người phụ nữ để ngực trần. Có chăng, chỉ còn một số
người lớn tuổi, họ vẫn giữ thói quen từ mấy chục năm trước và cũng không
cảm thấy dễ chịu khi mặc đồ của người miền xuôi.
Nói về lịch sử và nguyên nhân khiến những người S'tiêng để ngực trần,
già Điểu Năm bảo rằng, do trước kia, phần lớn người S'tiêng đều theo
quan niệm Mẫu hệ. Thậm chí ngày nay, nhiều đôi trai gái S'tiêng cưới
nhau, chàng trai vẫn đến nhà vợ ở.
Một thời gian sau, thường là khi có con, họ mới tìm đến nơi khác để
tạo lập gia đình riêng của mình. Trong quan niệm sống, họ tôn thờ các
thần thuộc giống Cái như Nữ thần Mặt trời, thần Mẹ lúa, dòng sông Mẹ…
cùng sự đề cao vai trò chủ chốt của người phụ nữ trong cuộc sống.
Đặc biệt hơn, mặc dù có thói quen để ngực trần nhưng váy, áo của phụ
nữ S'tiêng lại mang phong cách độc đáo riêng biệt. Váy áo cũng như chiếc
gùi của người S'tiêng ở Bình Phước có nhiều nét khác hẳn với các cộng
đồng dân tộc thiểu số khác ở đây, hoặc ở Tây Nguyên.
Họ dành nhiều tâm huyết và công sức để hoàn thành những bộ váy áo đó
bằng chất liệu sợi thô lấy từ các loài thực vật trong rừng cùng những
loại màu đơn (không pha) có gam nóng rực rỡ như đỏ, vàng, cam, đen
tuyền…lấy từ cây lá ở tự nhiên.
Ngoài cách chọn nguyên vật liệu, sự phối màu cũng chính là yếu tố làm
lên nét đặc sắc của những trang phục thổ cẩm của người phụ nữ S'tiêng.
Nó đều mang hơi hướng của núi rừng, sông suối và cảnh vật xung quanh nơi
họ sống.
Tôi đã đi lại thêm nhiều lần nữa trên tuyến quốc lộ 14, hay những
tuyến đường tỉnh lộ, những con đường đất đỏ không tên ngoằn nghèo nhưng
chưa gặp lại những người phụ nữ để ngực trần thong dong như trước. Không
phải bởi họ đã mặc áo mà bởi thói quen di chuyển, từ thảm rừng này qua
thảm rừng khác.
Có thể năm ngoái tôi gặp họ ở Bù Nhau, Bù Lạch nhưng năm nay, họ đã
di cư sang Bù Đek, Bù Ka… Bất cứ nơi đâu trong những cánh rừng biên giới
thâm u này cũng có thể là nơi nương náu của họ.
Những người đàn bà sinh ra từ núi rừng, mang trọn vẹn vẻ đẹp hoang sơ, huyền bí của núi rừng. Đoàn Đại Trí
Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe
10:03 25/07/2018
Một khi đã không thể trình bày cặn kẽ suy nghĩ về một vấn đề nào đó, cách tốt nhất là hãy im lặng.
Đã đọc đâu đó, ở trang sách nào đó, đại khái có người lên núi tu tập,
một hôm xuống núi, thiên hạ hỏi: "Ba mươi năm qua, ngài đã học được
những gì?". Ông ta đáp: "Tôi học cách im lặng".
Im lặng khó đến thế ư? Thời trẻ, hễ thấy gì trái tai gai mắt, thông
thường con người ta há mồm ra xoèn xoẹt. Nhưng rồi, đến một lúc nào đó,
họ lại chọn cách im lặng. Ấy cũng là lúc tuổi già đã đến; nếu chưa già,
chỉ có thể là sự vô cảm. 1. Thời buổi này, chọn lấy thái độ nào cũng thấy khó. Thôi thì, hãy tự nhủ bằng câu thơ: "Khạc
chẳng ra cho nuốt chẳng vào/ Miếng tình nghẹn lắm biết làm sao/ Muốn
kêu một tiếng cho to lắm/ Rằng ối ai ôi, nó thế nào?".
Thơ Nguyễn Gia Thiều. Vấn đề là kêu lên với ai? Hay lại chọn cách như Tản Đà tiên sinh: "Bóng ơi mời bóng vào nhà/ Ngọn đèn khơi tỏ, đôi ta cùng ngồi/ Cùng nhau rãi một đôi nhời/ Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe". Xét ra, tâm thế này cô đơn, não nùng quá đi mất.
Sao không chọn lấy cách nói với vợ? Thế lại hay. Y sẽ nói gì? Chớ dại
nói năng, tâm sự, kể lể, chuyện trò về "miếng tình" đã qua. Dễ chịu
nhất và khôn ngoan nhất vẫn là nói với nhau về "miếng ăn".
Nói rằng, thời buổi này, không khéo sẽ chết đói nếu học theo cách ăn
của ngài Khổng Tử. Nghe lạ tai quá phải không? Tục ngữ Việt Nam có câu:
"Đói ăn rau, đau uống thuốc". Dễ dàng lắm. Dễ như lật bàn tay.
Thế mà, ừ, Khổng Tử có khác, ông ấy bảo: "Cơm càng trắng tinh càng
tốt, (càng thích), gỏi thái còn nhỏ càng tốt. Cơm hẩm và thiu, cá ươn mà
thịt đã nhão thì không ăn. (Thức ăn mà) sắc đã biến, hư rồi, không ăn;
mùi hôi cũng không ăn. (Có sách dịch là những vật trái mùa). Cắt không
ngay ngắn (hoặc không đúng cách), không ăn. Nước chấm không thích hợp,
không ăn. Dù có thịt, cũng ăn ít thịt hơn cơm. Duy có rượu là không hạn
chế, nhưng không uống tới say. Rượu bán ở cửa hàng, không uống; thịt mua
ở chợ, không ăn. Bữa nào cũng ăn gừng. Không ăn tới quá no. Tế ở công
miếu rồi, được phần thịt thì phân phát ngay, không để cách đêm. (Vì thịt
tế vào buổi sáng thì làm vào hôm trước, nếu để cách đêm nữa, qua ngày
hôm sau là ba ngày, thịt ôi đi). Thịt cúng tổ tiên, không để quá ba
ngày, quá ba ngày thì không ăn. Khi ăn, không đàm luận, khi ngủ không
nói chuyện. Tuy là cơm thô, canh rau, mà trước khi ăn cũng cung kính
cúng vái như lúc trai giới".
Đoạn này trích từ thiên Hương đảng của sách Luận ngữ, bản dịch Nguyễn Hiến Lê.
2. Vừa rồi, tìm đọc lại quyển Hà Nội cũ in
năm 1943 của Sở Bảo Doãn Kế Thiện (1891-1965), trong đó có kể về "xóm
học trò" xưa. Đại khái, gần đến ngày thi, thí sinh các nơi tề tựu về
Thăng Long. Tất nhiên họ phải ở trọ nơi gần trường thi để thuận tiện
việc đi lại và đỡ tốn kém, dần dần nơi ấy có tên gọi là "Xóm học trò" -
tương tự như Xóm La-tinh ở Paris.
Vị trí ấy khoảng đầu vườn hoa Cửa Nam cho tới ngõ Hội Vũ ở Hà Nội bây
giờ. Cứ những năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu có thi Hương thì hàng quán nơi này
mọc lên, đón các thí sinh đến ăn ở, trở thành nơi đông đúc vui vẻ. Khoa
thi càng đông thì các cô bán cơm, cho thuê phòng trọ ở Xóm học trò lại
phát tài.
Các o Hà Nội đáo để, hóm hỉnh lắm, họ còn biết đặt ra bài vè để chào mời thí sinh. Nội dung như sau: "Ba gian nhà khách/ Chiếu sạch giường cao/ Mời các thầy vào/ Muốn sao được thế/ Mắm Nghệ lòng dòn/ Rượu ngon cơm trắng".
Sau khi "tiếp thị" hàng quán của mình, các o còn khôn khéo biết "đánh đòn tâm lý" vào những người đi thi: "Các
thầy dù chẳng sá vào/ Hãy dừng chân lại em chào cái nao/ Đêm qua em mới
chiêm bao/ Có năm ông Cử mới vào nhà em/ Cau non bổ, trầu cay têm/ Đựng
trong đĩa sứ em đem kính mời/ Năm thầy tốt số hơn người/ Khoa này tất
đỗ nhớ lời em đây".
Nghe thế, thí sinh nào mà không sướng phổng mũi? Dù mua bán nhưng lời
mời chào lại thanh lịch, văn minh. Khác hẳn với thời buổi của phở quát,
bún mắng, cháo chửi... cũng lên sóng truyền hình CNN (Cable News
Network).
Có giai thoại cực hay mà ông Doãn Kế Thiện đã kể trong tập sách này.
Thú lắm. Hãy ghi lại như một tài liệu cho những ai cần tham khảo vậy.
Rằng, trong số các cô bán cơm có quán của cô Thanh.
Ngày nọ, quán bên cạnh ồn ào tiếng đọc thơ, loạn xạ bình luận văn
chương, thi phú của các sĩ tử. Ai cũng đều cho thơ của mình là nhất, cãi
nhau ỏm tỏi, ồn ào hơn cái chợ. Bấy giờ, ngồi chung quán có chàng trẻ
tuổi tự xưng học trò nhưng chẳng hề thấy béng mảng vào trường thi, suốt
ngày chỉ tì tì nốc rượu.
Lúc nghe đám học trò cãi nhau rác cả tai, chàng bèn cất tiếng ngâm như cọp rống: "Thôi
đừng đọc nữa, khổ tai tôi/ Cho cả nhà hàng bịt mắm thôi/ Tiếng súng bên
thành kêu dậy đất/ Thần thi thánh phú ích cho ai?".
Từ "mắm" khiến ta nhớ đến câu thơ của Cao Bá Quát: "Ngán thay cái mũi vô duyên/ Câu thơ Thi xã, con thuyền Nghệ An". Thuyền Nghệ An thời ấy chuyên chở mắm bán xa gần. Ngon thì ngon nhưng so sánh câu thơ với mùi mắm thì éo le lắm lắm.
Biết bị chửi xéo, lũ học trò nổi giận, lại đang say nên hùa nhau dạy
cho kẻ lếu láo ấy bài học nên thân. Chẳng hề sợ hãi, chàng đứng dậy, lạ
thay, chỉ với đôi đũa tre nhưng lại thừa sức gạt phăng các gậy, gộc đằng
đằng sát khí. Lũ học trò hoảng sợ chạy tán loạn như vịt.
Sau cuộc ẩu đả, chủ quán đuổi tất và buộc chàng phải trả hết tiền cơm
rượu. Không nói, không rằng, chàng trả tiền nhưng lại thiếu 5 quan, bị
cô chủ quán đòi lột áo. Quan sát nãy giờ, cô Thanh tủm tỉm cười, bèn sai
người mang tiền qua trả giúp.
Về sau, có câu vần vè trêu chọc: "Cô kia kén cá chọn canh/ Đem tiền
chực rước cái anh lạc loài/ Thực là đáng bực tài giai/ Có tài ăn bửa một
hai đâm liều". Cô Thanh cũng chẳng thèm "thanh minh thanh nga", bỏ mặc
ngoài tai lời đàm tiếu ấy. Ít lâu sau, thiên hạ ngạc nhiên khi thấy cô
kết duyên cùng lãnh binh Trần Thiện Minh - chính là anh chàng "lạc loài "
kia.
Thì ra, lúc nước mất nhà tan, nghĩ rằng, cái học cử nghiệp chẳng hữu
ích gì, chàng chuyên tâm theo võ nghệ, gia nhập quân đội và được danh
tướng Nguyễn Tri Phương phong chức lãnh binh. Như vậy, giai thoại này
diễn ra vào năm 1873 - năm giặc Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất. 3. "Có tài ăn bửa một hai đâm liều". Nhân
đây giải thích luôn vài từ có liên quan đến ăn, chẳng hạn, ăn bửa là ăn
quỵt; ăn chõm là ăn chực; ăn gọ là ăn ghé - ăn của người khác, đồng
nghĩa với ăn bòn, ăn khín, Nam bộ có câu "Ăn khín bà chín bẻ răng"; ăn
mót là ăn nhặt - lượm đồ rơi rớt mà ăn, theo tự điển Việt-Bồ-La (1651)
thì thuở ấy, ăn mót đồng nghĩa với ăn mày; ăn vả là ăn nhờ, ăn bám; ăn
vã (dấu ngã) là ăn đồ ăn không v.v…
Đủ kiểu ăn nhưng "ăn đất/ ăn bom/ ăn bùn" chắc chắn là ngủm củ tỏi; "ăn xôi nghe kèn" cũng là mặc áo sơ mi gỗ: "Giàu
thì thịt cá cơm canh/ Khó thì lưng rau dĩa muối, cúng anh tôi đi lấy
chồng/ Hỡi anh chồng cũ tôi ơi/ Anh có khôn thiêng thì anh trở dậy ăn
xôi nghe kèn...". Kèn đây là kèn đưa đám. Đã thế, còn ăn cái nỗi gì?
Thời trước, khoái chí nhất vẫn lúc được ăn yến tiệc do vua ban. Muốn
thế, ngay từ trẻ nhỏ phải lo dùi mài kinh sử, rồi lều chõng, thi đậu, ra
làm quan ắt có cơ hội. Mà thi cử ngày trước cũng không ít trường hợp
oái oăm.
Chẳng hạn, có trường hợp ngoại lệ dù không qua khảo hạch mà vẫn được thi Hương. Trong quyển Nam thiên trân dị tập
của Vũ Xuân Tiên in năm 1917 cho biết: "Nguyễn Toàn An, người xã Thời
Cử, huyện Đường An, sung làm lãnh binh (lính coi giữ và dọn cỏ ở cung
điện) vào đầu niên hiệu Hồng Đức (1470- 1497). Nhân đêm trung thu, các
quan vào triều chầu hầu. Bấy giờ ánh trăng mờ tối, vua ra đầu đề Trung
thu vô nguyệt (Đêm trung thu không trăng) để các quan làm thơ vịnh. Vua
nóng lòng chờ đợi mà chưa thấy ai lên tiếng.
Chợt thấy Toàn An quỳ dâng một bài thơ Đường luật. Mọi người cười ồ:
"Lãnh binh mà vẫn làm được thơ à?". Vua sai xem lấy. Bài thơ làm bằng
chữ Nôm, với câu kết như sau: "Chớ thấy phen này mà rẻ nguyệt/ Thu sau trông nguyệt, nguyệt càng cao".
Ai nấy đều thán phục, nhân đấy xin vua cho Toàn An được giải chức
lãnh binh để về quê đi thi. Sau đó, ông thi đậu Hương thi. Đến khoa Nhâm
Thìn (1472), Toàn An đậu Bảng nhãn, lúc này ông mới 23 tuổi. Vinh quy
được ít lâu thì cha mất.
Thời bấy giờ luật pháp rất nghiêm. Người nào trong khi để tang cha mà
vợ có mang thì bị coi là vô đạo. Ông vì vậy thủ chế suốt ba năm, không
dám gần vợ. Đến khi mãn tang thì ông mất, không có con nối dõi. Vua được
tin này, lấy làm thương xót. Từ đấy mới bỏ lệ cấm sinh đẻ trong lúc cư
tang" (Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam - tập II, tr.1064, Viện
Nghiên cứu Hán Nôm - NXB Thế Giới - 1997).
Mà giai thoại thú vị liên quan đến chuyện thi cử ngày xưa, kể ra cũng nhiều. Phạm Đình Hổ chép trong Vũ trung tùy bút,
đọc lại, cứ như đùa: "Đầu đời Cảnh Hưng (1740-1786) có ông Ngô Thì Sĩ
nổi tiếng là bậc hay chữ, bị bọn quan đương thời ghen ghét, khi đến thi
Hội, các khảo quan dò xét hễ thấy quyển nào giọng văn hơi giống thì bảo
nhau: "Quyển này hẳn là khẩu khí Ngô Thì Sĩ", thế là họ hết sức bới móc
đánh hỏng đi.
Trịnh chúa Nghị Tổ (Trịnh Doanh) biết có thói tệ ấy nên khi thi cử
xong rồi, truyền đem quyển hỏng của Ngô Thì Sĩ ra duyệt lại. Các khảo
quan bấy giờ, nhiều người bị truất phạt, nhưng vẫn không cấm chỉ được
cái tệ ấy. Khoa Bính Tuất (1766), Ngô công bị bệnh tả, vào trường đệ tứ,
cố làm qua loa cho xong quyển.
Khảo quan chấm quyển bảo nhau: "Quyển này làm văn thì luyện đạt lắm,
đáng là văn Hội nguyên, nhưng văn khí hơi yếu, không phải giọng văn Ngô
Thì Sĩ".
Chấm đến quyển của ông Nguyễn Bá Dương lại bảo nhau: "Quyển này văn
khí khác thường, giống giọng văn Ngô Thì Sĩ nhưng làm văn lại kém, Thì
Sĩ tất không làm như thế". Vì họ hồ đồ không biết định quyển nào là văn
Ngô Thì Sĩ mà đánh hỏng nên Thì Sĩ mới đỗ hội nguyên".
Về sau, ông Ngô Thì Sĩ để lại một sự nghiệp đồ sộ về văn chương, có
tài kinh bang tế thế. Trong quyển Việt sử tiêu án, ông đã giải thích rõ
ràng những từ thuộc khoa cử nước nhà mà nay không phải ai cũng tường
tận.
Về trạng nguyên, ai cũng rõ nhưng tại sao có lúc sử chép "Kinh trạng
nguyên/ Trại trạng nguyên"? Ngô Thì Sĩ cho biết: "Đời nhà Trần thi cử có
chia ra Kinh - Trại cũng như đời Thanh (Trung Quốc) chia ra Mãn - Hán.
Vì đời Trần lấy Hoan - Ái (tức Thanh Hóa - Nghệ An) làm các châu ở
xa, giáo dục chưa được thấm nhuần, nhân tài không nhiều bằng các kinh
trấn, cho nên mỗi khoa thi lấy người giỏi nhất về bên Trại gọi là Trại
trạng nguyên, cho ngang tài với Kinh trạng nguyên để tỏ ý khuyến
khích".
Qua đó ta thấy sự phân biệt này là chính sách nhằm khuyến khích việc học, việc thi ở các vùng cao, vùng xa, không gần kinh đô. 4. À, lan man từ chuyện ăn qua chuyện thi cử, có
chán không? Tất nhiên là không. Tại làm sao thế? Bởi vì rằng, đọc sách
nhẩn nha rồi ghi chép đôi điều dù lộn xộn, lộn lạo cũng là một cách "Ta ngồi ta nói, bóng ngồi bóng nghe" đấy thôi. Lê Minh Quốc
Phỏng vấn một quả bóng
09:10 04/07/2018
Phóng viên (PV): Thưa anh, đầu tiên xin hỏi anh một câu có vẻ rất buồn cười: Tại sao trái bóng tròn?
Bóng: Tại vì trái bóng giống hành tinh của chúng ta. PV: Đúng. Và nhân dịp World Cup đang diễn ra, anh hãy cho biết đâu là sức mạnh thực sự của bóng đá? Bóng: Bóng đá không phải là thể thao. Nó là văn hoá. Một thứ văn hoá có ngôn ngữ toàn cầu. PV: Và điều cơ bản nhất của văn hoá là gì, thưa anh? Bóng: Là đẹp. Cái đẹp làm sao phải tràn lên mỗi trận
đấu, mỗi tình huống và mỗi bàn thắng. Thậm chí cái đẹp còn vang lên
trên những lời ca hát trên sân. PV: Đúng. Thưa anh, vậy mà vừa qua, một
số quan lớn bóng đá Việt Nam trong một cuộc họp, đã lộ ra những lời nói
vô cùng không đẹp. Anh biết chứ? Bóng: Tôi biết. Những lời nói ấy chả những không đẹp, nó còn chợ búa xôi thịt đầy mùi vị của một cuộc cãi lộn vỉa hè.
Minh họa: Lê Tâm.
PV: Đúng vậy. Bóng: Nghe xong đoạn băng ghi âm ấy, tôi kinh hoàng.
Tôi nghĩ đấy không phải là thể thao. Đấy là một cuộc làm ăn và người
ta, để có lợi, chả ngại gì văng tục. PV: Chính xác. Bóng: Nhà báo có biết nếu như ở mỗi trận đấu bóng đá
quan trọng, đều có tặng hoa, có phát biểu, có cả chào cờ và hát Quốc ca
để làm gì không? PV: Biết chứ. Để cho tính văn hoá của thể thao được nâng cao, để đánh thức nét đẹp trong mỗi người xem và mỗi cầu thủ. Bóng: Cho nên mọi thứ trở nên lố bịch khi công chức
nghe được đoạn ghi âm này. Nó chứng tỏ nhiều người làm bóng đá có tư
tưởng con buôn, tư tưởng thực dụng và cả tư thế giang hồ. Nó khiến người
ta nghĩ mỗi trận đấu có thể chỉ là một cú áp phe. PV: Thật đáng tiếc! Bóng: Không phải đáng tiếc. Đáng phẫn nộ. Làm sao
thể thao Việt Nam nói chung và bóng đá Việt Nam nói riêng có thể đi vào
lòng người với những vị cầm đầu trần tục như thế. PV: Một gia đình tri thức, nếu định đưa con trai vào học viện bóng đá, nghe xong đoạn băng ghi âm ấy, chắc chắn sẽ ngần ngại. Bóng: Rõ ràng. Đã từ lâu, bóng đá Việt Nam bị nghi
ngờ bởi những âm mưu, những tiểu xảo, những gian lận, những cú móc ngoặc
sau hậu trường. Sự thiếu minh bạch là điều mà bóng đá nước ta đã khiến
khán giả nghi ngờ rất mạnh. Nay nghe thêm đoạn băng ghi âm đó, sự nghi
ngờ này có cơ sở thêm ra. PV: Nói tóm lại là gì. Nếu chỉ cầu thủ phải có năng khiếu, thì những người điều hành bóng đá phải có văn hoá. Bóng: Không còn cách nào khác. Nếu không, môn thể
thao này sẽ chỉ là một cái chợ, và đau buồn hơn cả, một cái chợ đen, nơi
người ta có thể mua bán dưới gầm bàn. PV: Chỉ gầm bàn với nhân dân thôi, chứ
thật ra trong cuộc bàn thảo nội bộ, nếu cứ theo cái băng ghi âm ấy, thì
người ta văng vào nhau những từ ngữ rất công khai. Bóng: Vâng. Công khai đến phát sợ. Nó khiến cho khán
giả có quyền đặt câu hỏi: Phải chăng ban điều hành bóng đá thật sự có
thái độ, có hành vi và có cách suy nghĩ như thế về nhau và về thể thao.
Phải chăng những bộ comple đẹp đẽ, những lời phát biểu long trọng trước
trận đấu của nhiều vị chỉ là sự trang trí loè loẹt, không hơn. PV: Cho nên sự rò rỉ đoạn băng này, suy cho cùng, có khi là tốt. Bóng: Tất nhiên. Nó cho thấy một sự thật. Về nguyên tắc, sự thực luôn tốt, dù nó khá đau lòng.
Việt Nam sẽ không khi nào có một nền thể thao chân chính, khi những người làm ra nó không có văn hoá thực sự!
Lê Thị Liên Hoan
Mùa hè trên ngực biển
07:03 05/06/2018
Đêm gió mượt mà bên bãi biển Bingin, ở Bali, Indonesia.
Một người đàn ông ngồi chiêu chai bia Bintang cuối cùng trong ngày.
Ông là chủ một quán cafe cho dân lướt ván, tên Didi. Du khách ghé qua,
mua một quả dừa, quăng quần áo và thiết bị trên bờ, lao vào cơn sóng.
Người ta nhớ tới Bali như một chốn để tránh thoát những tổn thương
xảy ra đâu đó trong cuộc đời ở phần khác của thế giới. Biển chữa lành
vết thương. Những buổi chiều dưới hoàng hôn, bài tập yoga trị liệu có
thể giúp cơ thể và tâm hồn quay về lại hòa hợp sau những bối rối bất an
ngoài kia.
Đã nhiều năm tôi không đến nơi nào có biển. Hầu hết con đường chỉ
diễn ra trên núi, đồi, những cuộc chạy xe máy mải miết vào rừng sâu.
Biển làm tôi kiệt sức.
Didi lại gần, cho một cốc nước nóng và nói: "Đừng sợ, cô sẽ sớm quen
thôi. Con người đều từ biển. Chúng ta sinh ra từ biển. Rồi cô sẽ học
được biển không có ý định hại mình".
Ngoài xa, sóng cuộn thành từng dải thẳng băng, gấp nếp vào nhau và chậm rãi ủi vào bờ san hô nhuốm rêu xám.
Didi tới Bali 27 năm trước, khi bãi biển này còn là những khối đá nhô
ra chưa có tay con người nào khuất phục. Ông yêu một cô gái người Java,
rồi cưới bà, ở lại đảo, mở một quán cafe. Con trai ông được mệnh danh
là một trong những tay lướt ván cự phách nhất Bali. Có hàng ngàn người
đã biến Bali trở thành quê nhà như vậy.
Một cô kế toán từ Hà Lan quyết định dành vài năm nghỉ ngơi ở Bali, và
chọn nơi này làm nhà. Tay lướt ván người Đức tới đây mỗi mùa hè, và
cùng vợ sinh ba con, rồi quyết định dọn hẳn về đây ở. Hai cô gái người
Trung Quốc quyết định chọn Bali làm ngôi nhà thứ hai, khi muốn mở một
tiệm bán trang phục bơi cho du khách trên đảo.
Chừng 5 năm trước, ở bãi biển Balangan, Bingin - phần đuôi của Bali -
chỉ toàn đàn ông. Cánh đàn ông đổ về đây tìm sóng, lướt ván. Phụ nữ
không đến đây. Họ tập trung ở Ubud, tập yoga, chăm sóc cơ thể, nghỉ
dưỡng. Những tác phẩm văn học thương mại bán chạy trở thành “kinh thánh”
của người du lịch để họ tìm đến Bali.
"Các cậu trai luôn hỏi tôi tại sao ở đây chẳng có cô gái nào. Giờ thì
họ tha hồ. Cả thiên đường rồi đó!" - Didi cười. Con đường du lịch bừng
nở tại Bali đã đưa những phụ nữ mê lướt ván về đây, hiện hữu, sống động,
cười khúc khích trên sóng.
Bãi biển Bingin như một thiên đường. Phụ nữ khắp thế giới xuất hiện,
xinh đẹp, rạo rực và khỏe khoắn. Họ như muốn thoát khỏi quần áo để hòa
tan mình vào cát biển, san hô và bầu trời.
Họ bơi trên những quãng sóng với ngực trần và mảnh quần bikini mỏng
tang. Họ đứng dậy trên ván và đỉnh ngọn sóng, thân thể mảnh mai và cong
vút như một mũi tên phóng về phía mặt trời trên cao.
Hiếm nơi nào ở Đông Nam Á giống Bali, nơi du khách không say ngập
ngụa trong quán bar ngoài bãi biển, hay chìm trong cuộc chơi thâu đêm
không dứt ở phố đèn đỏ. Mỗi bãi biển có một nhóm du khách theo từng sở
thích riêng. Họ chơi lướt ván trên sóng dài. Họ cưỡi các đợt sóng ngắn.
Họ chơi lặn gần bờ để ngắm cá và san hô.
Nhiều người đến đây nhiều tháng mỗi năm để tập thể thao, chăm sóc cơ
thể, để ngắm mặt trời lên giữa biển xanh biếc. Bali là con mắt giữa biển
khơi, trong veo, yên lặng.
Xa biển hơn, những nghệ sĩ trẻ, họa sĩ, người làm đồ thủ công tụ về
các ngôi làng ẩn sau đồng lúa tại Ubud. Dòng xoáy văn hóa Hindu giáo,
Hồi giáo, nét địa phương của người Nam Đảo, Java... quấn quýt thành một
dải đầy màu sắc trong kiến trúc, điêu khắc đá, điêu khắc gỗ, in vải, đồ
tre, lá...
Mỗi sớm mai, người cầu nguyện đặt thức quà cúng những vị thần trời
đất lên hiên cửa nhà, rảy vài giọt nước hoa thơm, cắm nhang lầm rầm khấn
nguyện. Anna là một nhà thơ. Cô mở một tiệm bán đồ tắm ở sát biển.
Những bộ bikini được may thủ công, đặt hàng trong những gia đình
người Bali, hoặc tự Anna thực hiện khi yêu thích. Anna chuyển về Bali
sống sau một biến cố lớn trong đời. Cô ly hôn và muốn dành thời gian cho
bản thân nhiều hơn.
Trước biển mỗi sớm, cô viết thơ, viết bất cứ những gì trào lên trong
tâm trí, và uống một tách trà nhẹ. Và đó là khi ngày bắt đầu. Anna kể,
Bali đã chữa lành cô, chữa lành những năm tháng lơ lửng, ồn ào và không
giúp cô nhìn sâu vào bản thân.
“Khi có đủ tĩnh lặng, người ta mới nhìn vào bản thân. Kỳ nghỉ ở Bali
trong hai tuần đã tháo gỡ tôi thành từng phần. Tôi lướt ván mỗi chiều.
Ngã xuống sóng biển. Chân tay bị san hô cào xước. Nhưng dường như tôi
thấy lại mình trong những năm tháng đi học, ước mơ trở thành nhà thơ,
muốn có một ngôi nhà nhỏ cạnh biển, và sống bên ai đó thấu hiểu mình và
mình thấu hiểu họ”.
Anna nói cô chưa có ai thấu hiểu mình. Nhưng thấu hiểu bản thân đã là
điều quá khó, sao ta có thể trông đợi ai đó thấu hiểu mình trọn vẹn
trong đời? – Cô cười buồn bã. Ánh mắt đong đầy nước. Nhưng thật yên ả và
thư thái.
Có điều gì ở Bali khiến người ta phải nhìn sâu hơn vào tâm can? – Sự
cô đơn tuyệt đối trước biển, nỗi sợ bị bỏ lại, bị trôi đi ngoài xa vĩnh
viễn khiến con người độ lượng hơn với bản thân và dần độ lượng hơn với
cả kẻ đã làm tổn thương mình. Níu kéo một tình yêu. Giận dữ vì sự mất
mát. Hay nhầm lẫn về giá trị cuộc đời.
Chẳng gì ở Bali có thể giải quyết. Nhưng hòn đảo cho người ta một cơ
hội nhìn thấy bản thân dưới làn nước trong veo và tự thấy bản ngã mình
hòa vào ngày có nắng biển trong suốt.
Một doanh nhân người Úc ngồi cạnh tôi trong quán nói: “Nếu bạn tới
Bali lần một, đó chỉ là kỳ nghỉ; nếu bạn tới lần hai, bạn yêu nó; và đến
lần thứ ba quay lại, bạn không thể trở về nữa” – David cười.
Ông quyết định đưa cả gia đình đến Bali sống, dừng lại toàn bộ công
việc kinh doanh ở Sydney. Ông lướt ván hàng ngày. Con gái ông cũng trở
thành một tay lướt ván.
Ông nói: “Những gì bên trong bạn, Bali sẽ phóng chiếu lên hàng chục
lần. Bạn nghiện rượu, bạn dùng thuốc, bạn si mê, Bali sẽ là cơn sóng
đánh dạt bạn đi. Ở đây, bạn phải nhìn vào bản thân nhiều hơn bất cứ nơi
nào khác”.
Giọng của Didi có mùi cồn. Cốc nước nóng ông rót đã giữ ấm tôi trong
gió biển chiều. Giọng Didi khản như một người uống whisky lâu năm. Trầm.
Đục. Và khát.
Một cậu trai ở Bali suốt sáu năm trời để lướt ván, sống trong căn nhà
nhỏ kế quán của Didi kể: "Lần đầu tiên tôi tới đây, đêm nào cũng xuống
quán ngồi uống với Didi. Ông ấy luôn giúp đỡ, chuyện trò. Ở tuổi 20, khi
rời khỏi nhà và chẳng có bạn bè, cậu hiểu sự cô đơn không? Ông ấy luôn
giúp đỡ những người mới đến Bali, chuyện trò với họ, giúp đỡ họ tìm quán
ăn, xe máy, đường đi, bác sĩ...".
Cậu trai đã trò chuyện với ông suốt hai năm, mỗi buổi tối sau giờ ra
biển, trước khi bắt rễ và thương quen với ngôi làng lướt ván.
"Tôi không biết tại sao con người luôn muốn có nhiều hơn. Họ không
thể ngừng lại. Nhưng thứ chúng ta cần là sống hòa thuận với Trái Đất chứ
không phải ăn thịt nó. Tại sao không thể dừng lại khi vừa đủ? Tại sao
phải luôn chế ra xe hơi chạy nhanh hơn, những công trình tiêu thụ nhiều
nguyên liệu hóa thạch hơn? Tại sao phải giết nhiều loài động vật hơn,
khi thứ để ta sống suốt đời chỉ là thịt gà, bò hay những món hoa trái
đơn giản?".
"Bali là nơi của sự đầy đủ. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi nhiều hơn. Người
ở Bali sống hàng ngàn năm giữa biển khơi, chẳng thiếu thốn gì. Thiên
nhiên cho họ tất cả và hòa thuận với họ. Ngay cả những ngọn sóng, chúng
cũng chơi đùa với ta. Đâu có gì mà phải hi sinh một bên để bên kia sinh
tồn?".
Tôi nói với Didi, có lẽ con người không biết dừng lại. Họ không thể
kiểm soát được bản thân trong cơn đói thèm được nhấn chìm tất cả dưới
bàn chân chinh phục của mình.
Họ không thể ngừng lại. Những người ở Bali như Didi quá xa với "loài
người" xa xôi trong đất liền, nơi họ định vị cả thế giới bằng các chiều
kích và tốc độ xuyên qua thanh quản và lồng ngực nhau. Phải có thứ gì đó
hi sinh. Để con người tồn tại.
Như với Didi, ông đã đóng băng thời gian Paris lại thành 27 năm dài ở
Bali, để tìm thấy hạnh phúc, để mỗi chiều cưỡi sóng băng về hoàng hôn,
để nhìn con trai lớn lên như vị thần biển và con gái cài đóa hoa bừng nở
như hoa trái thiên đường.
Như David đã tìm thấy hệ phóng chiếu lên cơn mê cuồng sóng biển của ông.
Như Anna đã tìm được nơi để thả những vần thơ và nỗi đau của cô xuống hiên nhà sớm mai – trước biển.
Bali đã mọc mầm trong ngực từng người như cách ta được một vùng đất cho ân phước được hạnh phúc. Khải Đơn