Hải Dương: Người vợ 20 năm cõng chồng đi cắt bỏ da thịt
(VTC14) - Trong xã hội hiện đại, khi mà tỷ lệ ly hôn ở những cặp vợ
chồng trẻ đang ngày một gia tăng, thì vẫn còn đó những chuyện tình đầy
xúc động và những cặp vợ chồng tình nghĩa sống bên nhau đến đầu bạc răng
long, cùng nhau chia sẻ mọi thăng trầm trong cuộc sống.
Cuộc hội ngộ người thân trong nước mắt sau vụ trao nhầm con 43 năm ở Hà Nội
Khi gặp lại người
thân của mình, chị Trang và bà Hạnh đã không kìm được những giọt nước
mắt hạnh phúc. 43 năm trước, họ đã từng bị lạc khỏi gia đình tại nhà hộ
sinh quận Ba Đình, Hà Nội.
Mới đây, câu chuyện về gia đình chị Tạ Thu Trang (phường Quán Thánh,
Ba Đình, Hà Nội) tìm thấy người con thất lạc cách đây 43 năm khiến dư
luận xôn xao. Kì tích xảy ra giữa đời thực khiến nhiều người cảm thấy
vui mừng. Trên MXH, họ không quên để lại lời chúc phúc cho gia đình may
mắn này.
Bà Nguyễn Mai Hạnh rất hạnh phúc vì sau bao năm đã tìm thấy người con
gái mình chưa từng được bồng bế. Giây phút gặp nhau, 2 mẹ con chỉ biết
ôm nhau, nước mắt rơi hoài không dứt.
Gia đình chị Trang và bà Hạnh.
Theo lời bà, con gái bà đang sống tại phố Huế, Hà Nội. “Đúng là
tưởng xa tận chân trời nhưng lại gần ngay trước mặt. Bây giờ, cả 2 gia
đình đã có dịp gặp nhau, coi như tôi đã có 2 con, con nuôi cũng như con
ruột, đều đã có gia đình hạnh phúc”.
Chị Tạ Thu Trang cho biết, nhờ sự can thiệp của truyền thông nên bản
thân tìm thấy bố mẹ ruột sau 3 tháng. Bố mẹ chị hiện đang sinh sống ở Đà
Nẵng. Trước đó, họ từng sống tại ngôi nhà gần hồ Trúc Bạch. Người bị
trao nhầm với chị Trang là một phụ nữ khá xinh đẹp tên X. sinh ngày
10/10/1974 đang làm kinh doanh.
“Khi hai bên gia đình gặp nhau, tôi thấy chị X. rất thân quen vì từng gặp thời thơ ấu”, chị Trang kể. “Có lẽ, chúng tôi có một mối duyên lớn nên mới tìm thấy nhau“.
Chị Trang và bà Hạnh rất vui mừng khi tìm lại được người ruột thịt.
Chị Trang kể lại, khi đang học cấp 2, ngày chị X. chuyển vào học cùng
lớp thì cũng là lúc chị Trang bất ngờ chuyển sang lớp khác.
“Sau khi báo chí đưa tin về vụ việc nhầm con, có thể chị X. đã linh cảm thấy điều gì đó“.
Chính vì thế, một ngày tháng 6 vừa qua, chị X. tìm đến nhà bà Hạnh. Vừa
nhìn thấy chị, bà Hạnh òa khóc bởi chị quá giống bà và chị Vân (con gái
lớn của bà Hạnh). “Ngay từ giây phút đó, tôi đã thấy chị X. gọi mẹ Hạnh là mẹ rồi. Cả hai ôm nhau khóc nghẹn“, chị Trang nói thêm.
Chị X. đã trải qua quãng thời gian khó khăn khi phải tranh đấu với
chính mình. Có thể, chị đã tự tìm hiểu và biết sự thật về cha mẹ ruột
nhưng không muốn cuộc sống bị đảo lộn. Thế nhưng, sức mạnh tình mẫu tử
đã vượt lên tất cả, giúp chị có thêm động lực để đến nhà, tìm gặp mẹ
ruột của mình.
Khi biết tin bố mẹ mình ở Đà Nẵng, cuối tháng 6/2016, chị Trang mua vé máy bay rồi bay vào đoàn tụ với người thân. “Khi
vừa xuống sân bay, tôi đã thấy ông và biết 100% là bố tôi. Về đến nhà,
gặp mẹ thì tôi nhận được ánh mắt, cử chỉ dành cho tôi yêu thương lắm”, chị Trang hạnh phúc nói.
Cách đây hơn 1 năm, gia đình bà Nguyễn Thị Mai Hạnh (65
tuổi), ở đường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội từng lên mạng, nhờ cộng
đồng tìm kiếm người con gái bị trao nhầm lúc mới sinh cách đây 42 năm.
Ngày 10/10/1974, bà Hạnh sinh con gái ở nhà hộ sinh quận Ba Đình.
Những đứa trẻ được đánh số, cùng với số người mẹ. Bà Hạnh mang số 33,
nhưng nhận được đứa trẻ mang số 32. Nhân viên y tế cho rằng, trong lúc
tắm rửa, số đánh dấu bị mờ. Khi bà Hạnh ra nhà tắm tìm thì những đứa trẻ
đánh số gần cạnh đều đã được gia đình đưa về hết.
Ôm đứa trẻ trở về, bà Hạnh luôn canh cánh trong lòng vì biết rõ, con
ruột đã bị người khác bế nhầm. Dù vậy, trong suốt 42 năm đã qua, gia
đình bà vẫn luôn hết mực yêu thương con nuôi, coi như con ruột. Trong
sâu thẳm, bà luôn mong muốn tìm lại người con thất lạc. Trong khi đó,
chị Trang cũng mong muốn tìm được cha mẹ máu mủ ruột già.
Nhờ sự giúp đỡ của cộng đồng và những nỗ lực không mệt mỏi của cả gia
đình, mới đây, những người con, người cha, người mẹ lạc nhau đã tìm
thấy nhau, giống như chưa hề có cuộc chia ly.
Cô gái xinh đẹp Thanh Hóa khao khát tìm mẹ ruột sau 24 năm lưu lạc
13/03/2017 17:19
Trong những giấc mơ, Bùi Thị Hà Vân vẫn thấy mẹ đẻ và chị gái cười
tươi rạng rỡ, đón cô vào lòng. Nhưng, tỉnh giấc, cô gái 24 tuổi quê
Thanh Hóa vẫn thấy mình cô đơn, lạc lõng giữa xứ người.
Bùi Thị Hà Vân ước mơ được gặp lại mẹ đẻ, dù chỉ một lần
Bùi Thị Hà Vân đang làm việc tại một
khách sạn quận Hà Đông, Hà Nội. Cô gái có ngày sinh ghi trên giấy khai
sinh 24.12.1993, chào đời tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Thanh Hóa. Mẹ
đẻ của Vân vì hoàn cảnh nghèo túng, khó khăn không thể nuôi cô nên sau
ngày sinh đã trao con cho một người phụ nữ khác nhờ yêu thương, chăm sóc.
Người phụ nữ ấy là bà Bùi Thị Gián,
năm nay 81 tuổi, đang sinh sống ở khu đô thị Văn Quán, quận Hà Đông, Hà
Nội. Bà Gián xin Vân từ bệnh viện về, trao em bé còn đỏ hỏn cho em gái
mình, là bà Bùi Thị Bảy, một giáo viên nghỉ hưu không chồng, không con.
Bùi Thị Hà Vân lớn lên trong tình yêu
thương vô bờ của những người phụ nữ không cùng huyết thống, cho đến một
ngày, trái tim cô mách bảo, cô phải đi tìm mẹ đẻ của mình.
“Tôi không biết tên của mẹ”
Khi Vân về với gia đình
mẹ nuôi, bà Bùi Thị Bảy đã ngoài 50 tuổi, nghỉ hưu. Bà Bảy yêu thương
Vân hết mực và không bao giờ nói với Vân rằng cô không phải con do bà
sinh ra. Năm Vân học lớp 11, bà Bảy mắc bệnh, ốm yếu rồi qua đời. Trước
khi nhắm mắt xuôi tay, bà nói với bà Gián, chị gái mình rằng cố gắng
thương yêu, chăm sóc Vân thay bà.
“Ngày còn nhỏ, khi tôi nghe chúng bạn
trêu chọc, rồi hàng xóm người này người kia nói tôi chỉ là con nuôi, tôi
không nghi ngờ gì hết, vì mẹ Bảy luôn yêu thương tôi vô cùng, bà cũng
mắng luôn những ai nói tôi là con nuôi. Nhưng sau khi mẹ Bảy mất, bác
Gián tôi đã nói hết sự thật", Vân bộc bạch.
Cô gái trẻ trải lòng: “Bác tôi ngày
càng già yếu. Bác bảo không biết mình khi nào chết, trước khi chết chỉ
mong tôi tìm được máu mủ để mẹ con, chị em gặp nhau, để tôi có chỗ dựa,
ít nhất về mặt tinh thần”.
Bùi Thị Hà Vân ngày nhỏ (bìa phải) với mẹ nuôi và ngày là học sinh cấp 2 tại Thanh Hóa
Bà Bùi Thị Gián là người đón Bùi Thị
Hà Vân từ Bệnh viện Phụ sản Thanh Hóa từ tay người mẹ trẻ bất hạnh không
đủ điều kiện nuôi con vào năm 1993. Tuy nhiên, ngày đó, người phụ nữ
còn rất trẻ sau khi trao đứa con mình dứt ruột đẻ ra cho một người xa lạ
không hề để lại bất cứ một kỷ vật gì, thậm chí chỉ là một cái tên.
“Bác Gián tôi chỉ nhớ rằng, đó là một
ngày cuối năm 1993, mẹ đẻ tôi khi đó chừng ngoài 25 tuổi. Ngoài tôi, bên
cạnh mẹ còn có một bé gái, là chị gái ruột của tôi, khi đó chừng 4 - 5
tuổi. Lúc bác Gián tôi đến bế tôi khỏi tay mẹ, chị ấy cứ khóc ngằn ngặt
và hét lên: “Không được mang em đi”. Thế nhưng, một cô y tá chạy đến và
bảo, “mẹ cháu khó khăn lắm, không nuôi cả hai chị em được, nếu em không
đi thì cháu phải đi”. Mẹ đẻ tôi khóc như mưa, chỉ nói mấy câu với bác
Gián tôi, đại ý rằng trăm sự nhờ chị trông nom cháu”, Bùi Thị Hà Vân bồi
hồi kể lại câu chuyện của mình.
“Không biết bây giờ mẹ có khỏe không”
Năm Vân học lớp 11, mẹ nuôi cô gặp bạo
bệnh rồi qua đời. Các chú bác nuôi cũng đều lớn tuổi, Vân một mình sống
trong căn nhà nhỏ ở thôn Viên Hỷ, xã Định Hưng, huyện Yên Định, Thanh
Hóa, mái nhà có bao nhiêu kỷ niệm của cô và người mẹ nuôi sớm hôm tần
tảo. Vân không đói ăn, không thiếu mặc vì có bác Gián và các chú cô khác
cho tiền, cho gạo.
Cô gái 24 tuổi khao khát tìm được mẹ và chị gái
Tuy nhiên, nhiều đêm thao thức trong
căn nhà lạnh lẽo phảng phất mùi nhang khói, cô thấy mình cô đơn, lạc
lõng, không biết mình là ai, mẹ đẻ mình nơi đâu, chị gái mình hiện giờ
có cuộc sống ra sao.
Vân nuốt nước mắt, cố gắng học hết cấp
3 tại Trường THPT Yên Định 1, Thanh Hóa, sau đó thi đỗ vào Trường CĐ du
lịch Hà Nội. Những năm gần đây, bác Gián của Vân theo các con ra Hà Nội
sinh sống (tại khu đô thị Văn Quán), do đó đón Vân về chung sống cùng
để cháu gái đỡ buồn tủi.
Cô gái trẻ 24 tuổi đến hôm nay đã có
một công việc tạm thời ổn định, có thu nhập đủ nuôi sống bản thân vẫn
khao khát tìm được mẹ ruột, chị ruột để giải đáp một câu hỏi bấy lâu
trăn trở trong mình: “Mẹ đẻ của tôi đang nơi đâu?”.
Vân bộc bạch: “Tôi không hề oán trách
mẹ tôi. Chỉ vì mẹ khổ quá, không nuôi được tôi nhưng mẹ đã gửi tôi cho
một gia đình rất tốt, ai cũng chăm sóc, yêu thương tôi, đến tận ngày hôm
nay. Nhưng một giọt máu đào hơn ao nước lã, con người phải biết nguồn
cội của mình ở đâu. Tôi muốn tìm thấy mẹ, để ôm mẹ, khóc trong lòng mẹ.
Ngày trao tôi cho người khác, mẹ rất khó khăn, không biết bây giờ mẹ có
khỏe không?”.
Hà Vân luôn tin rằng, bây giờ mẹ và chị gái cô cũng đang đi tìm mình
Suốt thời gian qua, Bùi Thị Hà Vân đã
nhờ người quen tìm kiếm thông tin trong Bệnh viện phụ sản thành phố
Thanh Hóa, nhiều người gợi ý Vân có thể nhờ chương trình Như chưa hề có cuộc chia ly giúp
đỡ, nhưng cái khó khăn nhất, Vân không biết tên mẹ, tên chị gái là gì,
một tấm ảnh, một đặc điểm khuôn mặt, hình dáng... của mẹ, của chị, Vân
cũng không hay biết. Đến ngày sinh của Vân, 24.12.1993 cũng chỉ do mẹ
nuôi tự đặt trong giấy khai sinh, không phải ngày sinh chính xác của
Vân.
“Nhưng còn hi vọng, tôi còn ước mơ.
Tôi nghĩ rằng mẹ tôi, chị tôi bây giờ cũng đang nóng lòng muốn gặp lại
tôi, nhưng mọi người không biết tôi đang nơi đâu. Xin hãy giúp tôi tìm
mẹ, tìm chị của mình”, Vân mong mỏi...
Theo Thúy Hằng/Thanh niên
Những cuộc hội ngộ kỳ diệu từ công nghệ giám định gien
23:35 08/08/2010
Sau hàng nửa thế kỷ ly tán, những người thân (cả còn sống và đã
mất) có thể được khẳng định chính xác tình máu mủ qua những di vật không
còn nguyên vẹn. Đã có nhiều cuộc hội ngộ cảm động nhờ những tiến bộ
trong công nghệ giám định gien ở Trung tâm Nghiên cứu sinh y dược - Học
viện Quân y.
Tìm thấy nhau dù âm dương cách biệt
Chiến tranh qua đi, để lại nỗi đau cho nhiều gia đình có con,
em hy sinh chưa tìm thấy phần mộ và nhiều gia đình mất dấu phần mộ của
ông bà tổ tiên. Bên cạnh niềm vui của những gia đình may mắn tìm thấy
hài cốt, phần mộ của người thân sau nhiều năm thất lạc, còn có một nỗi
khổ đau đè nặng tâm trí nhưng rất khó chia sẻ. Đó là họ không dám chắc
đấy thực sự là xương cốt người thân của gia đình mình.
Cuối năm 2009, gia đình ông Hậu (tên của các nhân vật trong bài
đã được thay đổi) ở Bình Dương lặn lội mang đến Trung tâm Nghiên cứu
sinh y dược - Học viện Quân y, 1 mảnh xương và mảng tóc của một liệt sĩ
đã hy sinh từ năm 1968 cùng 2 mẫu tóc của 2 người còn sống trong gia
đình. Người thân của liệt sĩ ấy chỉ được nghe đồng đội kể về khoảng thời
gian anh hy sinh và địa điểm anh được chôn cất cùng các liệt sĩ khác.
Khi khai quật mộ lên, người ta không thể tìm được vật dụng, giấy tờ gì
để chứng minh tên tuổi, địa chỉ, đơn vị... của các anh.
Năm 2005, trong nỗi mừng tủi nhận được hài cốt, gia đình ông
Hậu đã đưa phần hài cốt của người thân về Nghĩa trang Trường Sơn. Vẫn
thành tâm hương khói, nhưng gia đình vẫn âm thầm day dứt với câu hỏi,
liệu đó có phải là người thân của mình hay không? Khó có thể kể hết đoạn
trường mà những gia đình như ông Hậu phải trải qua để xác nhận phần mộ
người thân.
Vất vả lắm mới tìm được manh mối lần ra phần mộ của người thân,
nhưng di vật, ký ức của đồng đội... lại chưa đủ để họ tin chắc đó là
người thân của mình. Họ lặn lội đi khắp nơi, từ Nam ra Bắc, để tìm bất kỳ người hay tổ chức nào có thể giúp họ xác định mối nghi ngờ ấy. Nhưng không ai giúp được họ thỏa đáng cả.
Đến khi họ tìm được đến Trung tâm Nghiên cứu sinh y dược, dù có
phát triển công nghệ với trang thiết bị hiện đại, khoảng thời gian 41
năm đã trôi qua (từ năm 1968 đến 2009) cũng là một thách thức lớn với
các nhà khoa học. Thật may mắn, sau 2 tuần kiên trì phân tách nhiều lần,
các nhà khoa học đã khẳng định mẫu xương và tóc của liệt sĩ ấy đúng là
của thân nhân gia đình ông Hậu.
Tiến sĩ (TS) Nguyễn Duy Bắc, Phó phòng Công nghệ gien và di
truyền tế bào - Trung tâm Nghiên cứu sinh y dược, tâm sự với chúng tôi,
với những mẫu xương của người đã mất cách đây 30-40 năm, hầu hết đã bị
canxi hóa, khối lượng ADN còn lại rất ít, nên việc phân, tách khá khó
khăn.
Với mẫu của người còn sống, có thể chỉ mất 2 ngày là tìm ra kết
quả. Nhưng với người đã mất, và với thời gian lâu, có mẫu xương mới cầm
lên đã bị mủn ra. Mỗi lần phân tách, các kỹ thuật viên chỉ lấy một
lượng xương nhỏ bằng đầu bút bi. Nếu không cho kết quả thì lại lấy mẫu
phân, tách từ đầu, có khi kéo dài tới cả tháng trời.
Với những mẫu lâu năm này, phương pháp tách ADN cổ điển cho hiệu quả rất thấp. "Cái
khó ló cái khôn", các kỹ thuật viên ở đây đã tìm ra cách cải tiến tách
ADN sử dụng hạt từ tính, giúp thu được sản phẩm sạch hơn và việc nhân
gien sẽ dễ dàng hơn. Với khả năng hiện nay, Trung tâm có thể giám định
mẫu xương của người đã mất khoảng 50 năm.
Giám định hài cốt bằng công nghệ ADN là phương pháp đảm bảo độ
chính xác cao do phải sau 40-60 thế hệ mới có sự đột biến trong dòng họ
và là hy vọng cuối cùng khi các biện pháp giám định qua di vật, hình
thái xương... không có tác dụng. Ưu điểm lớn của công nghệ ADN là có thể
thực hiện với một mẫu xương nhỏ không còn nguyên vẹn. Đây chính là ưu
điểm khắc phục được khó khăn của hầu hết những gia đình tìm mộ liệt sĩ,
bởi thời gian, sự thay đổi cảnh quan đã bào mòn các dấu vết của người đã
khuất và cả ký ức của người còn sống.
Những cuộc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ vẫn diễn ra trong thời bình. Ảnh: V.H.
Tuy đã triển khai một năm, nhưng số lượng mẫu hài cốt được
Trung tâm Nghiên cứu sinh y dược xét nghiệm và trả lại đúng danh tính
mới chỉ khiêm tốn dừng lại ở con số dưới 10, mặc dù nhu cầu thực tế chắc
chắn cao hơn nhiều lần. Lý do chủ yếu là bởi có ít người biết Trung tâm
có thể xét nghiệm xác định mẫu hài cốt, thậm chí nhiều người còn tưởng
trong nước chưa thực hiện được công nghệ hiện đại này.
Chính từ việc ít người biết thông tin, TS Bắc kể, nhiều gia
đình không biết cách lấy mẫu, vừa gây khó khăn cho kỹ thuật viên vừa
khiến họ phải vất vả, mất công sức đi lại nhiều lần.
Có gia đình nghĩ đơn giản là nhặt một mẩu xương rời ra mang đến
xét nghiệm, nhưng đó là mảnh ngoài xương ống đã phân hủy mạnh, hầu như
không còn "thông tin di truyền" trên đó. Các mẫu xương dẹt sẽ có lượng
tế bào cao hơn, thuận lợi cho việc phân, tách ADN. Còn với xương ống,
mặt ngoài thường dễ bị canxi hóa, phía trong sẽ có mật độ ADN cao hơn.
Hay với mẫu tóc, phần chân tóc là quan trọng nhất, nếu chỉ lấy sợi tóc
không có chân thì sẽ phải lấy mẫu lại.
Có một gia đình từ Bến Tre xa xôi mang mẫu ra Trung tâm nhờ xác
định phần mộ của cha đẻ đã thất lạc từ lâu. Nhưng vì không biết nguyên
lý chỉ có mẹ truyền gien ty thể cho con và chỉ các chị em gái mới có
gien ty thể giống anh em trai, họ lấy mẫu của người đã mất và con trai
còn sống. Cả gia đình người cha đã mất chỉ có một người chị còn sống
đang ở Cà Mau.
Lẽ ra, họ chỉ cần thông báo để người chị gửi vài sợi tóc có
chân qua đường bưu điện là được. Nhưng vì người chị đó không có điện
thoại hay phương tiện gì liên hệ được, chẳng còn cách nào, họ phải mua
vé máy bay ngược trở lại phía Nam và đến tận nhà chị lấy mẫu gửi ra.
Nhưng may mắn, sau nhiều năm âm dương cách biệt mất dấu, gia
đình họ đã thanh thản vì được hương khói phần mộ của người cha đã khuất.
Với việc tiên phong sử dụng dấu ấn sinh học 16 - mức tối đa của thế
giới, kết quả xét nghiệm huyết thống tại đây có thể đạt hiệu quả chính
xác tới "6 số 9", tức 99,9999%. Cuộc hội ngộ kỳ diệu của hai anh em ruột
Khoảng năm 1972, gia đình anh Bê ở Đan Phượng, Hoài Đức, Hà
Nội, bị thất lạc cậu em trai 2 tuổi trong một lần chạy sơ tán. Một gia
đình khác cùng chạy sơ tán thấy cháu bé bị lạc đã đem về nuôi. Sau đó,
cậu bé cùng gia đình này chuyển vào Nam
sinh sống. Trong khi đó, gia đình anh Bê nhiều năm đi tìm em, đăng tin
lên báo, đài, nhưng không có hồi âm. Tưởng chừng hết hy vọng, bỗng một
ngày chính người em ruột lại gọi điện đến nhà anh Bê để nhận gia đình.
Theo những gì anh Bê còn nhớ, cậu em ấy có đặc điểm giống nhưng
cũng có nhiều điểm không phù hợp. Sau quá nhiều năm thất lạc và thương
nhớ người thân, họ nhận nhau là anh em ruột nhưng trong lòng vẫn còn day
dứt. Hơn một năm đoàn tụ, hai anh em bàn bạc và quyết định cùng nhau đi
xét nghiệm huyết thống.
Điều hai anh em không thể ngờ được là tất cả các cơ sở xét
nghiệm ADN mà họ tìm đến đều trả lời không thể cho kết quả, vì không may
bố mẹ đẻ của họ đã mất cách đấy vài năm, gia đình bên phía mẹ hai anh
cũng không còn ai là người thân bởi họ đều làm ăn sinh sống ở nước
ngoài. Chính vì nguyên lý gien ty thể chỉ truyền theo dòng mẹ mới phát
sinh tình cảnh oái oăm này. Đây cũng là lý do để chúng tôi gọi cuộc hội
ngộ sau này của hai anh em là kỳ diệu.
Hai anh em trai cùng cha cùng mẹ sinh ra thật đấy, nhưng trên
công nghệ giám định này thì họ... có thể chả liên quan gì tới nhau cả.
Nếu họ là hai chị em gái hay anh trai - em gái, chị gái - em trai, thì
mọi việc đã đơn giản hơn rất nhiều. Một lần nữa, vấn đề của hai anh em
đi vào bế tắc. Không mang nhiều hy vọng và tin tưởng, họ tìm đến Trung
tâm Nghiên cứu sinh y dược để "thử vận may". Vấn đề của hai anh em đã
tìm thấy lối ra.
Thay vì xét nghiệm tìm gien ty thể như cách mà nhiều cơ sở đang
áp dụng, họ được lấy mẫu tìm gien Y mà chỉ có bố truyền cho con trai.
Để tìm gien Y, hiện cả nước mới chỉ có Trung tâm Nghiên cứu sinh y dược
đủ điều kiện thực hiện được. Với kết quả chính xác là hai anh em ruột,
cuộc hội ngộ đích thực lần thứ hai khiến cả hai sung sướng và cảm động
nghẹn ngào.
Bên cạnh việc mất người thân, chiến tranh còn gây ra cảnh ly
tán, thất lạc nhau cho rất nhiều gia đình như anh Bê. Công nghệ giám
định gien giúp hóa giải kỳ diệu cuộc chia ly đằng đẵng từ năm 1957 của
một người mẹ ở tận Lào Cai.
Lạc con trong một lần sơ tán, khi ấy mẹ còn rất trẻ, con thì
còn quá nhỏ, mấy chục năm, họ đau đáu đi tìm nhau. Đằng đẵng tìm kiếm
tưởng chừng như hết hy vọng, đến ngày gặp lại, mẹ đã ngoài 70 tuổi. Nhìn
bà cụ tóc đã bạc phơ, anh chẳng thể nhớ được nhiều nhặn gì về người mẹ
trẻ năm xưa.
Chỉ với ký ức về dấu vết trên ngón chân của bà, dù không chắc
chắn, anh vẫn quyết định nhận bà là mẹ. Nhờ có công nghệ giám định gien,
anh mạo muội lấy vài sợi tóc của bà cùng mẫu máu của mình gửi đi xét
nghiệm. Sau quá nửa cuộc đời đau khổ vì chia ly, mẹ con anh vẫn là những
người thật may mắn bởi kết quả giám định đã mỉm cười với họ Thanh Loan
Con lai Mỹ và hành trình tìm cha
Đường dẫn trực tiếp
Hải Đỗ.
Ngày 04 tháng 04 năm 1975, chiếc máy bay vận tải C-5 của Hoa Kỳ gặp
nạn ngay khi vừa rời sân bay Tân Sơn Nhất. 138 người chết, trong đó có
78 em nhỏ.
Đó là chuyến bay chính thức đầu tiên, được lệnh của Tổng thống Hoa Kỳ
Gerald Ford, di tản những em nhỏ người Việt mồ côi cha mẹ trong những
ngày cuối cùng của cuộc chiến. Chiến dịch này được biết đến với cái tên
Operation Babylift.
Những em bé mồ côi người Việt ngồi trên chiếc máy
bay vận tải C-5A Galaxy, đây là chuyến bay đầu tiên của Chiến dịch
Babylift, cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhứt trong giai đoạn cuối của cuộc
chiến tranh Việt Nam, ngày 04 tháng 4, 1975. Vài phút sau khi cất cánh,
chiếc máy bay đã gặp nạn.
Bất chấp khởi đầu bi kịch, chiến dịch Operation Babylift đã di
tản thành công 3000 em nhỏ người Việt, rất nhiều trong số đó là những
đứa trẻ mang hai dòng máu, con của các quân nhân Hoa Kỳ, bị bỏ rơi khi
chiến tranh sắp kết thúc.
Vô số những đứa trẻ như vậy vẫn còn kẹt lại phía sau.
Nhưng cũng có những em bé lai đã được đưa đi trước cả khi chuyến bay
đầu tiên của Operation Babylift khởi sự, nhờ vào số ít những tình nguyện
viên giống như bà Maria Eitz. “Tại sao tôi được cứu?”
Cuốn hộ chiếu VNCH này là thứ duy nhất gắn với Việt Nam mà Moki còn giữ lại bên mình.
Thấu hiểu cảm giác của một đứa trẻ mồ côi sau Thế chiến thứ hai
tại Đức, người mẹ đơn thân Maria Eitz đã nhận nuôi hai bé trai con lai
người Việt, đặt tên lần lượt là Jonathan và Nicholas. Và bà còn muốn tìm
cho chúng một người em gái.
Ngay khi bà Eitz đặt chân tới một cô nhi viện Cần Thơ, những người
phụ nữ ở đây cố đưa cho bà những đứa trẻ Việt có làn da sáng. Nhưng bà
không thể rời mắt khỏi một cô bé da sậm, với chiếc bụng to và những lọn
tóc xoăn tít, đang chen chúc trong một chiếc cũi ở góc nhà với hai đứa
trẻ khác.
“Con tôi đây rồi,” bà Eitz nói.
Bà muốn nhận nuôi một bé gái có cùng màu da với hai người con nuôi
của mình. Hai cậu bé đều là kết quả của những mối tình giữa người mẹ
Việt và những người cha gốc Phi. Bà muốn một cô bé mà không ai muốn
nhận. Moki, bà đặt tên cho bé gái như vậy, rồi đưa cô ra khỏi Việt Nam,
về với tổ ấm đang dần trở nên đông đúc tại San Francisco.
Bà Eitz còn nhận nuôi thêm một bé gái người Campuchia nữa, và đặt tên là Aiyana.
Sau đó không lâu, bà kết hôn với ông Don Hesse, một tình nguyện viên
của Peace Corps. Hai người cùng nhau nuôi dạy bốn đứa trẻ trong một căn
nhà màu xám xanh, được xây theo phong cách Victoria trên con phố Sixth
Avenue, đối diện công viên Golden Gate.
“Tôi còn nhớ hồi đó tôi rất hạnh phúc,” Moki nói. Lúc nào căn nhà
cũng đầy trẻ con, những đứa trẻ không nhà, bị lạm dụng, hay nghiện
thuốc, đều có thể tới đây. Một số đến chỉ để chơi, số khác tìm kiếm sự
giúp đỡ của bà Eitz, một nhà tâm lí học.
Moki theo học trường Quốc tế Pháp –Mỹ. Đây là một trường song ngữ của
tư nhân, toạ lạc tại trung tâm thành phố San Francisco, nơi không ai
quan tâm đến màu da của bạn. Cho tới giờ, Moki vẫn coi Lisa, cô bạn Mỹ
trắng học cùng lớp hai, là bạn thân nhất của mình.
Trong ngày Cựu chiến binh, ông Hesse, bố nuôi của Moki thường nấu bữa
tối, rồi đưa cả nhà đi ăn kem. Ông muốn chúng nhớ đến và trân trọng
những người cha ruột của mình.
Sau khi xem xong vở kịch Broadway “Miss Saigon”, Moki bắt đầu tưởng
tượng ra cho riêng mình câu chuyện cổ tích về tình yêu của cha mẹ ruột.
16 tuổi, cô bắt đầu có bạn trai. “Giai đoạn từ 16 đến 18, tôi cố gắng
đi tìm bản ngã của mình … Tôi sống vì điều gì? Tại sao tôi lại được
cứu? Tại sao lại là tôi?”
18 tuổi, Moki mang thai. Cô hạ sinh bé Kaitlin vào năm 1992. “Tôi
muốn có đứa con máu mủ của mình, một mầm sống của riêng tôi,” Moki phân
trần.
Khi bé Kaitlin được một tuổi rưỡi, người ta tìm thấy một khối u trên
cổ cô bé. Moki đưa bé đến văn phòng bác sĩ tại Oakland, nhưng cô không
hề có tiền sử bệnh của gia đình. Cô còn nhớ lúc đó một ý nghĩ đã hiện
lên trong đầu “Đây là con tôi và tôi không biết có chuyện gì đang xảy ra
với nó. Bác sĩ cũng có vẻ không biết. Tôi không có một chút thông tin
gì. Đó là một việc rất nghiêm trọng.”
Khối u không nguy hiểm đến tính mạng, thế nhưng hành trình tìm lại người cha ruột của Moki trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. “Ngày nào mày không làm thì không có được ăn”
Nguyễn Tâm và người mà anh tin là mẹ ruột của mình.
Sân bay Tuy Hoà nằm không xa trung tâm thành phố Nha Trang, đây
từng là một trong những căn cứ của quân đội Hoa Kỳ trên đất VNCH, nơi
đóng quân của phi đội Không quân và các nhóm trực thăng chiến đấu của
Lục quân. Quán bar trong ngôi làng nhỏ, bụi bặm bên ngoài căn cứ là chốn
lui tới thường xuyên của đám quân nhân lúc không phải làm nhiệm vụ.
Bà Nguyễn Thị Ngọc Vân là chủ của quán bar đó. Trong cái ngày định
mệnh năm 1971 ấy, bà mở cửa như thường lệ, và thấy một bé trai được đặt
trong một chiếc thùng giấy.
Bà biết cậu là con của một người lính Mỹ, nhưng không ai dám đứng ra
nhận. Vậy là bà Vân đưa bé về nuôi như người con trai độc nhất. Bà đặt
cho cậu cái tên Nguyễn Tâm.
Năm 1975, Sài gòn sụp đổ, bà Vân cùng với Tâm, lúc đó đã bốn tuổi, bị
đưa đi trại cải tạo suốt sáu tháng trời. Tội của bà là bán bia cho Mỹ.
Ngày trở về, hai mẹ con với hai bàn tay trắng kéo nhau về quê ngoại ở
Phù Cát, Qui Nhơn. Năm Tâm lên 11, mẹ nuôi của cậu bỏ cậu lại với hai
ông bà để đi Pleiku làm kinh tế mới cùng bạn trai.
Người phụ nữ mà Tâm gọi là bà ngoại nói với cậu “Mày không có máu mủ gì ở đây, ngày nào mày không làm thì không có được ăn.”
"Sáng thì ra đồng chăn bò, cắt lúa, lượm phân bò, ngày nào cũng vậy,
đi từ sáng tới trưa, chiều thì đi về học một hai tiếng." Tâm kể. Hồi đó,
không biết bao nhiêu lần Tâm nhặt được những quả lựu đạn M79 lăn lóc
trên cánh đồng. Những đứa trẻ lớn thường mang về tháo ra, lấy thuốc nổ
đem đi đánh cá.
Một ngày mùa xuân năm 1987, Tâm nghe thấy có tiếng nổ. 5 đứa bạn của Tâm cố tháo một quả lựu đạn. Không đứa nào còn sống. “Họ nói tôi không thuộc về nơi này”
Jannies bên mẹ mình khi còn nhỏ (Ảnh Jannies Nguyễn)
Tại một căn cứ quân sự khác của Mỹ ở Tam Quang, Quảng Nam, bà
Nguyễn Thị Chin gặp một người lính Mỹ gốc Phi với biệt danh Sol. Hai
người sống với nhau như vợ chồng được 4 năm trước khi bà Chin hạ sinh
một bé gái vào năm 1972, lấy tên là Jannies Nguyễn.
Năm 1969, Tổng thống Mỹ Richard Nixon triển khai cái gọi là “Việt Nam
hoá chiến tranh”. Nixon yêu cầu rút dần binh lính Hoa Kỳ trong khi tiến
hành hoà đàm.
Sol, sau đó đóng quân tại Biên Hoà, là một trong những người lính
được lệnh rời khỏi Việt Nam năm 1972, bỏ lại bà Chin cùng với con gái
mới bốn tháng tuổi Jannies.
Sol được chuyển đến Thái Lan nhưng vẫn tiếp tục gửi tiền và thư từ về
cho hai mẹ con, với lời hứa sẽ quay lại. Khi quân du kích tấn công Biên
Hoà những ngày cuối năm 1972, bà Chin làm tất cả mọi thứ để bảo vệ
Jannies. Thư từ, ảnh của Sol đều bị đốt. Bà cố gắng vuốt thẳng những lọn
tóc xoăn của cô con gái, rồi dựng chuyện nói rằng chồng cô là người
Thượng Tây Nguyên da ngăm. Cuối cùng thì bà cạo trọc đầu Jannies rồi trở
về quê nhà gần Tam Quang cạnh Quốc lộ 1, nơi bà gặp Sol vào năm 1968.
Hai mẹ con ở trong một căn nhà lá ba gian, làm bằng tre và rơm rạ.
Sau nhiều năm, nền nhà đã lún và bóng loáng bởi những đôi chân trần.
Lúc đó Jannies mới 5 tuổi, sống cùng với mẹ, ông bà ngoại và một
người em họ. Ông ngoại, chỉ còn một chân sau cuộc chiến, ngủ trên một
chiếc giường tre nhỏ. Cả nhà chia nhau chiếc giường tre còn lại.
Jannies theo học một trường tiểu học gần nhà, chỉ có một giáo viên
với hai lớp học 60 học sinh. Học hết lớp năm, nhà ngèo, Jannies bỏ học
giúp mẹ làm đồng vào buổi sáng và bán hoa quả cùng đồ ăn mỗi khi chiều
về.
“Ngày nào tôi cũng bị đánh. Họ nói tôi là con Đế quốc Mỹ. Họ bảo
không có chỗ cho tôi ở đây, và rằng tôi đáng nhẽ không được đến trường.”
Người ta chế nhạo cô, chửi mẹ cô là con điếm. Về nhà …
Những đứa con lai, giống như Jannies và Tâm, bởi vẻ ngoài quá khác
biệt, chúng bị xã hội Việt Nam gạt ra ngoài rìa. Người ta gọi chúng với
cái tên chung “Bụi đời”.
Nhận thấy những dấu hiệu của sự ngược đãi, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông
qua một đạo luật có tên Amerasian Homecoming Act vào năm 1987, cho phép
gần 30.000 trẻ mồ côi là con của lính Mỹ được đến nước này.
Chương trình đoàn tụ này cho phép các thành viên gia đình, ví dụ như
“vợ chồng, con cái, hoặc mẹ ruột” được theo những đứa trẻ này vào Mỹ. Đó
là lí do vì sao, sau 18 năm trời đằng đẵng ngóng tin của Sol, Jannies,
mẹ của cô, và người em cùng mẹ khác cha rời Việt Nam, tìm kiếm một cuộc
sống mới tại thành phố Oklahoma.
Còn trường hợp của Tâm thì không đơn giản như vậy. Có môt lần, cán bộ
địa phương đến gặp “ông bà ngoại” của Tâm để nói về chương trình đoàn
tụ. Lo sợ bị chính quyền bắt, Tâm chạy lên Pleiku tìm mẹ nuôi Ngọc Vân
của mình, người chủ quán bar đã tìm thấy anh trong chiếc thùng giấy, và
là người nuôi anh như con ruột.
Sau khi biết rằng đây chương trình này hoàn toàn có thật, hai mẹ con
đăng kí tên mình vào danh sách. Nhưng trớ trêu thay, người mẹ nuôi của
Tâm sau đó đã bán anh cho một gia đình ở Sài Gòn với giá hai lượng vàng.
Người ta mua anh về, hi vọng anh trở thành tấm vé để cả gia đình họ
sang được đến đất Mỹ.
Nhưng người tính không bằng trời tính, chỉ mình Tâm được sang Mỹ. Đó là ngày 20 tháng 05 năm 1991, khi ấy Tâm vừa tròn 19 tuổi. “Đây là gia đình tôi”
Bà Angela Trammel là một chuyện gia về gia phả học của tổ chức Kin
Finder Group. Bằng phương pháp thử DNA, bà tìm kiếm và truy nguyên lịch
sử gia đình, xử lí những vụ nhận con nuôi phức tạp. Bà cho biết:” Cho
đến tận năm 2008, chỉ có gần 2% trong số 30.000 con nuôi Mỹ lai Á tìm
được cha ruột của mình.”
Nhưng trong một vài năm trở lại đây, khi mà phương pháp thử DNA trở
nên phổ cập hơn với mức giá phải chăng, dao động trong khoảng từ 99$ cho
đến 300$, ngày càng có nhiều con nuôi Mỹ lai Á nuôi hi vọng tìm được
cha ruột của mình.
Bà Trammel khuyên khách hàng nộp mẫu thử tới ba nguồn dữ liệu DNA
chính – là Ancestry.com, 23andMe và Family Tree, để tăng khả năng tìm
được những mẫu DNA trùng hợp. Với khoảng 5 triệu mẫu thử DNA hiện nay
tại các kho dữ liệu, hành trình tìm lại cha ruột của những người con lai
Mỹ Á vẫn còn dài.
Theo lời khuyên của bà Trammel, Tâm gửi mẫu thử của mình tới tất cả
các nguồn dữ liệu DNA mà anh có thể tiếp cận. Và cuối cùng, anh cũng tìm
thấy một người đàn ông có DNA trùng khớp với mình tại một vùng quê bang
Georgia.
Người đàn ông này tên là Chris Murray, từng là lính thuỷ đánh bộ đóng
tại Đà Nẵng. Cha của ông, Thomas Washington, cũng tham gia hải quân và
đồn trú tại Nha Trang. Murray còn có một người em tên Danny, cũng từng
tham chiến tại Việt Nam.
Khi được yêu cầu gửi mẫu DNA để so sánh, Murray tỏ ra bối rối. Nhưng
khi nhìn thấy tấm hình của Tâm trên facebook, ông đã biết rằng đây chính
là cháu mình, ngay cả khi chưa có kết quả thử DNA.
Em của Murray, cha ruột của Tâm là Danny Murray, từng là chỉ huy một
đơn vị trực thăng chiến đấu đóng quân tại Tuy Hoà. Ông đã qua đời trong
một vụ lật xe vào năm 1989, cái năm mà Tâm vẫn còn lang thang gỡ lựu đạn
cách đó nửa vòng trái đất.
Nước mắt chảy tràn, Tâm nói:” 43 năm qua, lúc nào cũng cầu nguyện cho
ba, xin chúa gìn giữ ba, nhưng lúc tìm được thì ba không còn sống nữa.
Cái hi vọng của em đó là nếu mà ba còn sống, thì em biết mà tìm mẹ.
Nhưng lúc ông chết, những gì ông biết về mẹ không còn nữa.”
Sau ngày đoàn tụ với gia đình Mỹ, Tâm đổi tên thành Thomas Danny Murray để tưởng nhớ tới cha và ông nội mình.
Thomas Danny Murray, người vợ Kim, và con gái Sofia và Stella
Còn về phần Moki, sau biến cố sức khoẻ của cô con gái, Moki cũng
bắt đầu gửi mẫu DNA của mình đến ba nguồn dữ liệu trên. Cô tìm thấy một
trường hợp có tỉ lệ trùng khớp cao tại Alabama. Đây rất có thể là em họ
cô.
Với sự giúp đỡ của Trammel, Moki tìm được một người đàn ông có tới
95% khả năng là cha ruột của cô. Ông sống tại Detroit. Ông ấy trong độ
tuổi phù hợp, từng phục vụ trong quân ngũ. Moki thậm chí còn tìm thấy
ảnh người đang ông này mặc quân phục. Vậy là sau 43 năm, dường như Moki
đã chạm rất gần tới người cha mà bấy lâu nay cô tìm kiếm.
Vậy nhưng … ông lại chỉ phục vụ tại Nam Hàn, chứ không phải Nam Việt Nam. Và vì lẽ đó, đây không thể nào là cha Moki.
Moki Evans và con gái, Shaina Evans và Kaitlin Eitz.
Hành trình tìm cha của Jannies cũng rơi vào ngõ cụt. Mẫu thử DNA của
cô gần với một người có vẻ như là anh em họ, nhưng cả hai lại không có
quan hệ huyết thống trực tiếp.
Một ngày Chủ nhật trước Lễ Tạ ơn, trong khi hầu hết mọi người ở cái
thành phố Oklahoma này đang bận cổ vũ cho đội bóng bầu dục yêu thích của
địa phương, Jannies cùng gần 60 “trẻ bụi đời” khác gặp nhau tại một
khách sạn gần sân bay, náo nức tập luyện những bài hát Việt. Tối hôm đó
họ sẽ biểu diễn trong một chương trình gây quĩ giúp đỡ người con lai còn
đang kẹt lại tại Việt Nam. Ngồi trên sàn sân khấu, vài người trong số
họ bỗng cất tiếng hát, những câu hát đắng cay về đời con lai: “Em không có cha, từ thuở vừa mới lọt lòng. Anh cũng không mẹ, từ thuở còn ở trong nôi Chẳng ai thương tiếc cho đời tôi, chẳng ai thương xót cho đời lai Trót thương cho mình, đành ôm phận con lai không biết ngày mai…”
“Đây là gia đình tôi” Jannies nói “Đây là anh chị em tôi”. Nhưng hành trình tìm cha của Jannies chắc chắn vẫn chưa kết thúc…
(VOV) - Trước khi bị địch bắn chết, chị đã kịp giành lại
đứa con 10 tháng tuổi để cho con bú những giọt sữa cuối cùng.
Gần như tất cả những người mộ điệu
cải lương đều biết và yêu quý một bài vọng cổ của nghệ sĩ, soạn giả
Trọng Nguyễn – bài “Giọt sữa cuối cùng”. Nhưng rất nhiều người không
biết rằng, bài ca ấy là câu chuyện có thật được kể bằng âm nhạc – câu
chuyện về sự hy sinh anh hùng của liệt sỹ Nguyễn Thị Tư (ở ấp Trung Hưng
1B, xã Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu).
Câu
chuyện của chị Tư được những người làm phim “Bạc Liêu quê hương tôi” và
nghệ sĩ, soạn giả Trọng Nguyễn phát hiện, tôn vinh vào năm 1997.
Ngôi nhà của liệt sỹ Nguyễn Thị Tư
Chuyện
kể rằng: Như nhiều vùng quê miền Nam anh hùng khác, xã Vĩnh Hưng của
Bạc Liêu trong kháng chiến chống Mỹ là vùng đệm giữa căn cứ Vĩnh Trinh
của ta và tiểu khu Bạc Liêu của địch.
Chỉ là xã
thôi mà địch đóng ở đây cả cụm pháo 105mm, một tiểu đoàn bảo an và tiểu
đoàn cơ động 411 cùng nhiều ác ôn, dân vệ, tề điệp...
Chị
Tư bấy giờ là vợ của xã đội trưởng Năm Dỏng – một cán bộ diệt ác ôn nổi
tiếng của vùng. Anh Năm Dỏng vào cứ chiến đấu, chị Tư ở nhà thay anh
chăm sóc gia đình, nuôi em, nuôi con và mở quán lập đường dây tiếp tế
thuốc men, lương thực, bảo vệ cán bộ di chuyển từ cứ ra vùng địch tạm
chiếm. Cuối năm 1971, chị Tư sinh bé út đặt tên Lê Mỹ Linh.
Địch
nắm chắc dân Vĩnh Hưng hầu hết thân cách mạng, che chở cho cán bộ nên
chúng mở nhiều trận càn quét, lùng sục tìm bắt anh Năm Dỏng và cán bộ
lãnh đạo xã nhưng không được. Bởi vậy, chúng quyết định bắt chị Tư để uy
hiếp, buộc chị khai ra hầm bí mật của chồng và đồng đội.
Sau hàng loạt đòn tra tấn vẫn không khai thác được gì, chúng ra lệnh giết chết chị Tư, cắt lỗ tai mang về chi khu.
Trước
lúc hy sinh, chị đã van nài bọn chúng xin được cho con bú lần cuối…
Những người làm phim tài liệu “Bạc Liêu quê hương tôi” ngày ấy đã lấy sự
hy sinh anh hùng của chị Tư để đưa làm tứ cho bộ phim.
Câu
chuyện ấy cũng làm soạn giả Trọng Nguyễn bấy giờ là Chủ tịch Hội Văn
học - nghệ thuật tỉnh Bạc Liêu rơi nước mắt. Ông trằn trọc suốt 1 tuần
trước khi viết thành bài ca “Giọt sữa cuối cùng” như một sự trả nợ ơn
nghĩa đối với người mẹ, người phụ nữ anh hùng của đất Vĩnh Hưng.
Nghe "Giọt sữa cuối cùng"
Chỉ
hơn 1 năm sau, khi bộ phim và bài ca cổ đầy xúc động viết về chị Tư ra
đời, chị đã được công nhận là liệt sỹ. Phần mộ của chị cũng được quy tập
trong nghĩa trang dành cho những người anh hùng của Vĩnh Hưng.
Trọng
Nguyễn lấy nút thắt cao trào nhất là giây phút cuối cùng của chị Tư để
xây dựng một hình tượng người phụ nữ - một người mẹ - người chiến sỹ
tuyệt đẹp:
Bọn giặc gầm lên: “Chồng mày đâu? Đồng đội mầy đâu? ”
Chị lắc đầu: “Tôi không biết”.
Thằng chỉ huy hất hàm ra lệnh: “Bắn!”.
“Khoan! Hãy chờ tôi giây lát”.
Rồi
chị gượng đứng lên, giành lại đứa con từ trong tay giặc. Nước mắt tuôn
trào, chị thầm gọi con… ơi. Bú nhanh lên kẻo không còn kịp nữa. Ơi con
của tôi, ơi bầu sữa. Giọt sữa cuối cùng, con bú cạn nghe con".
Ngày
17/4/1972, khi chị Tư hy sinh, bé Lê Mỹ Linh khi ấy mới chỉ hơn 10
tháng tuổi đã bị địch giằng khỏi vòng tay và bầu sữa mẹ. Cô bé ngày ấy
năm nay đã tròn 40 tuổi.
Khác với mọi người, cô
chưa bao giờ nghe nổi trọn vẹn bài ca “Giọt sữa cuối cùng” viết về mẹ và
chính mình. Bởi lần nào cũng vậy, chỉ nghe đến "vô câu phụng hoàn" là
cô đã thấy nghẹn đắng nơi cổ họng.
Cô nói: “Đất
Vĩnh hưng này, nghe đến bài: “Giọt sữa cuối cùng” thì ai cũng biết là má
tui, nhưng tui không cho mấy đứa ở trỏng bật băng hay ca trước mặt tui.
Tui nghe nó đau quá, chịu hổng nổi”.
Vĩnh Hưng
bây giờ là một trong 8 xã của huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu đang trong
tiến trình xây dựng nông thôn mới với khởi điểm ban đầu là xã văn hóa 5
năm liền.
Ông Lê Văn Đỗi – Trưởng ấp Trung Hưng
1B cho biết: “Trung Hưng 1 và xã Vĩnh Hưng là xã anh hùng trong kháng
chiến. Ở đây có biết bao nhiêu thân nhân thương binh, liệt sỹ đã tham
gia nuôi chứa cán bộ. Chị Tư được công nhận là liệt sỹ thì người dân đều
thấy rất xứng đáng. Những gương anh hùng như chị Tư góp phần thú giục
thanh niên toàn xã và gia đình chính sách thể hiện bằng hành động tham
gia xây dựng nông thôn mới”.
Sau 40 năm kể từ
khi chị Nguyễn Thị Tư hy sinh, quê hương Vĩnh Hưng hôm nay đã có những
bước đổi thay kỳ diệu. Cô bé bú giọt sữa cuối cùng của mẹ ngày nào giờ
đã có 2 con, một cháu học lớp 12, một cháu vừa vào lớp 6. Cô mở một gian
hàng tạp hóa nhỏ nơi quê chồng. Căn nhà ngày xưa, giờ giao cho chị Hai
thờ má. Đám giỗ má, Mỹ Linh về thắp lên bàn thờ nén nhang với lời nhắn
nguyện: “Má hãy an lòng, quê mình giờ đã an bình, chị em con đều đã lớn
khôn!”
Tháng 7 tri ân các anh hùng liệt sỹ,
chúng tôi càng yêu quý bài ca cổ "Giọt sữa cuối cùng" vì Trọng Nguyễn
như đã nói hộ tất cả những ai đồng điệu:
"Hoa cỏ mai ai trồng bên mộ chị
Màu tím rưng rưng gợi nhớ ngày xưa.
Vĩnh Hưng ơi! đất anh hùng mỗi bận tôi qua
Đều có bóng dáng và dấu chân của chị.
Dấu chân xưa vẫn còn nằm trong đất
Đất kiên cường dấu chân ấy cũng trổ hoa.
Chị ơi, tôi đang viết về chị một bài ca mà nước mắt đã làm nhòa trang giấy.
Tôi nghe đâu đây như có dòng sữa ấy,
Chảy giữa quê hương làm cao rộng những công trình.
Mỗi chiến công đổi bao nhiêu xương máu
Chỉ có giọt sữa cuối cùng chị gởi lại cho con.
Đêm Vĩnh Hưng lúa trở mình ngậm sữa,
Dâng hạt gạo cho đời, thêm giọt sữa cho con./.
Trong
chương trình phát thanh đặc biệt kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh liệt
sỹ, sau khi chúng tôi phát sóng trực tiếp câu chuyện về sự hy sinh của
liệt sỹ Nguyễn Thị Tư, lại được biết hoàn cảnh của Mỹ Linh và gia đình
liệt sỹ Nguyễn Thị Tư gặp rất nhiều khó khăn, Cơ quan Thường trú Đài
TNVN đã nhận được rất nhiều điện thoại, tin nhắn của quý thính giả trong
cả nước bày tỏ sự cảm thông và chia sẻ.
Mọi
người đã ủng hộ cho Mỹ Linh và gia đình hơn 20 triệu đồng, trong đó có
thính giả tên Đạt hiện ở Ban Chỉ đạo Tây Nguyên ủng hộ 10 triệu đồng;
thính giả tên Thanh ở Công ty Tranimexco Sài Gòn ủng hộ 3 triệu đồng và
hàng chục thính giả ủng hộ từ 500.000 đồng đến vài triệu đồng.
Riêng
Công Đoàn Công ty TNHH Quản lý Bay ở địa chỉ: 5/200, Nguyễn Sơn, Bồ Đề,
Long Biên - Hà Nội chính thức vận động toàn đơn vị ủng hộ 40 triệu đồng
để xây nhà tình nghĩa cho Mỹ Linh và gia đình.
Đài
TNVN xin trân trọng cảm ơn quý thính giả gần xã đã thể hiện tấm lòng
tri ân của mình. Mọi sự đóng góp cho thân nhân liệt sỹ Nguyễn Thị Tư và
Lê Mỹ Linh xin gửi về Cơ quan thường trú Đài TNVN tại khu vực ĐBSCL, số
102- đường Lý Tự Trọng- Quận Ninh Kiều- TP Cần Thơ. Số ĐT:
07103.833.199. Số tài khoản: 0111000513295 - Ngân hàng ngoại thương Cần
Thơ./.
Ngày 8/7 vừa qua, người phụ nữ 39 tuổi Lôi Tú Vinh lần đầu tiên được gặp mặt mẹ đẻ sau 39 năm chia cắt.
Lôi Tú Vinh lớn lên ở huyện Văn Thành, TP.Châu Sơn, tỉnh Chiết Giang,
Trung Quốc. Cô được một gia đình nhận nuôi từ Viện phúc lợi, vì khi đó
hai vợ chồng nọ sinh được một người con nhưng không may đứa trẻ yểu mệnh
đã qua đời. Vì đau xót cho đứa con cộng thêm việc sữa mẹ tràn về rất
nhiều nên họ muốn có một đứa con để xoa dịu nỗi đau.
Về sau, người mẹ nuôi này mang thai và sinh thêm hai cô con gái sinh
đôi, dù vậy Tú Vinh chia sẻ "Cuộc sống vốn không mấy dư giả nhưng họ vẫn
đối xử với tôi rất tốt".
Bất hạnh thay, vào năm Tú Vinh 11 tuổi, người mẹ nuôi qua đời vì bạo
bệnh, khi được 16 tuổi, cô phải bươn chải làm thuê phụ giúp gia đình.
Một thân một mình lặn lội khi còn quá trẻ, Tú Vinh luôn mong mỏi tìm
được bố mẹ ruột của mình.
Mấy năm gần đây, người bố nuôi của Tú Vinh ngày càng yếu, ông
đã đem tất cả mọi chuyện kể cho cô nghe: "‘Bố mẹ xin con từ Viện phúc
lợi ở thị xã Thụy An về, rất có thể bố mẹ đẻ của con là người Thụy An
đấy".
Kể từ đó, cô hầu như đều sống và làm việc tại thành phố Thụy An,
Chiết Giang để tìm kiếm người thân. Đúng là cô đã được sinh ra tại thị
trấn Đinh Điền, thành phố Thụy An. Gia đình cô khi đó đã có 4 người con,
hoàn cảnh khá túng thiếu.
Tuy nhiên, bố mẹ đẻ của cô vẫn luôn muốn sinh được một cậu con trai
nên khi bé gái là Tú Vinh mới vừa chào đời được 3 ngày, họ đã lén lút để
con trước cửa Viện phúc lợi Thụy An.
Hơn 30 năm trước, bố đẻ của Lôi Tú Vinh đã qua đời. Hơn 10 năm sau,
mẹ cô là bà Trần Kim Muội mới đem chuyện về đứa con gái bị đem đi cho kể
với các con. Những năm qua, các chị em của cô cũng khắc khoải tìm kiếm
thành viên bị thất lạc của gia đình.
Trong khi đó, Tú Vinh cũng đơn độc trên hành trình tìm lại gia
đình không mệt mỏi. "Vài năm nay, cuộc sống của tôi đã dần ổn định, con
trai cũng đã vào trung học nên tôi càng có nhiều thời gian để tìm lại
ruột thịt của mình", người phụ nữ 39 tuổi cho hay.
Có lần Tú Vinh đã đăng tải thông tin tìm người thân trên Nhật báo
Thụy An, và ông trời không bao giờ phụ lòng người khi cô đã tìm được gia
đình mình vào ngày 21/6 vừa qua.
"Vừa nhìn thấy Tú Vinh, tôi đã có thể khẳng định đây chính là em gái
mình. Không chỉ giống nhau về ngoại hình, tôi còn có cảm giác gần gũi
đặc biệt đến khó tả, chính là cảm giác cùng chung máu mủ", người chị ba
nói.
Kết quả giám định ADN cũng cho thấy, bà Trần Kim Muội và Lôi Tú Vinh
có quan hệ mẹ con. "Tôi sống ở Đường Hạ, dù có chuyển nhà vài lần nhưng
đều sống quanh khu đó. Nhà của các chị tôi cũng ở gần đó", Tú Vinh chia
sẻ.
Cuộc sống thật khôn lường khi dù cách nhau 1km mà họ phải chịu đựng
nỗi đau chia li suốt mấy mươi năm. Hi vọng suốt quãng đời còn lại, họ sẽ
sống bên nhau đầm ấm, hạnh phúc và không để lạc mất nhau thêm lần nào
nữa.
Cuộc trùng phùng ly kỳ sau 45 năm thất lạc
14/04/2015 14:39
(NLĐO)- 2 tháng nay, người dân thôn Hưng Lộc, xã Bình Định Nam, huyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam vẫn bàn tán xôn xao câu chuyện 2 chị em ruột
tìm về nhà sau 45 năm thất lạc.
Đó là cuộc tìm nhau đầy bất ngờ của 2 chị em bà Hồ Thị Thanh Trà (SN 1959) và bà Hồ Thị Vinh (SN 1963).
Trong ngôi nhà nhỏ ẩn mình dưới hàng cây xanh rợp bóng, cụ Nguyễn Thị
Dần (SN 1930) cùng ông Hồ Văn Phước (SN 1964, cháu bà Dần) đã kể lại
câu chuyện ly kỳ chẳng khác nào chuyện trong phim.
Tháng 10-1970, cuộc chiến tranh chống Mỹ đang ở giai đoạn khốc liệt,
bà Dần về làm dâu nhà họ Hồ được 6 tháng thì hai người con chồng là bà
Trà và bà Vinh bị lính ngụy bắt đưa đi.
Cụ Nguyễn Thị Dần cùng ông Hồ Văn Phước kể lại câu chuyện cuộc trở về sau 45 năm bị thất lạc của chị em bà Trà.
Bà Trà sau đó được đưa vào một gia đình ở tỉnh Quảng Ngãi nhận làm
con nuôi. Đến năm 1976, khi đất nước đã thống nhất, bà theo gia đình vào
làm kinh tế mới và định cư hẳn ở thị trấn Sa Thầy, huyện Sa Thầy, tỉnh
Kon Tum. Bà Vinh bị bắt đưa ra Quảng Trị sau đó được đưa di chuyển khắp
nơi rồi lấy chồng và định cư ở xã Sông Ray, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai.
Năm 2006, con trai bà Trà là anh Nguyễn Thanh Khê (SN 1983) và con
gái bà Vinh là chị Lê Thị Mỹ Châu (SN 1984) tình cờ gặp nhau khi cùng
học chung một trường Cao Đẳng tại tỉnh Đồng Nai.
Hôm đó, Châu đi chơi với nhóm bạn thì gặp Khê tại quán cà phê.
Khi biết Khê quê Quảng Nam, Châu đem câu chuyện gia đình mình kể cho
Khê nghe rằng: Quê Châu cũng ở Quảng Nam, hồi nhỏ do chiến tranh nên mẹ
Châu thất học, bị lính Mỹ bắt cóc và lưu lạc gia đình từ nhỏ cho đến nay
chưa tìm được.
Châu nghe mẹ kể lại, trong gia đình mình có ông ngoại làm cách mạng, bà ngoại bị Mỹ giết chết. Ông bà ngoại có 3 người con gái gồm chị đầu Hồ Thị Thức, chị kế tiếp là Hồ Thị Trà và mẹ mình tên Hồ Thị Vinh.
Cụ Dần hiện sống một mình trong ngôi nhà nhỏ dưới sự đùm bọc của xóm làng
Nghe Châu hỏi có biết trường hợp nào như vậy hay không, Khê chết
điếng cả người vì câu chuyện Châu kể trùng khớp với câu chuyện lâu nay
mẹ vẫn thường kể cho anh nghe.
Tìm hiểu thêm một vài thông tin, Khê và Châu nhận ra rằng mình chính là anh em con dì ruột. Hai anh em vui mừng cho số điện thoại của bà Trà và bà Vinh để hai người liên lạc nói chuyện với nhau.
Khi đã nhận ra máu mủ ruột thịt, bà Trà đón xe từ Kon Tum xuống Đồng Nai để gặp em gái. Giây phút gặp nhau, hai người phụ nữ với mái đầu “tóc bạc gác tóc xanh” ôm nhau khóc như những đứa trẻ.
Tối hôm đó, họ không ngủ một giây phút nào mà để dành thời gian động viên, kể cho nhau nghe về những tháng năm xa cách.
Do thời điểm bị bắt đi cả hai còn quá nhỏ, hai chị em bà Trà chỉ còn
nhớ nhỏ giọt vài thông tin về quê hương, cha mẹ của mình. Sau thời gian
sắp xếp lại những chi tiết trong trí nhớ, mãi đến đầu năm 2015, bà Trà
vẽ bản đồ và sai con trai tìm về quê hương thì may mắn được người quen
chỉ đường về thôn Hưng Lộc gặp cụ Dần. Sau khi tìm được gốc tích, hai
chị em bà Trà dìu dắt chồng con hẹn nhau trở về quê hương. Trời đổ mưa
kín lối trong ngày trở về quê của hai người con bị thất lạc 45 năm nhưng
những cái ôm quyện chặt, những giọt nước mắt hạnh phúc đã xua tan đi
cái lạnh của mùa đông …
Trở về nhà, hai chị em bà Trà lại khóc hết nước mắt khi biết rằng, kể
từ ngày mình bị bắt đi, không ngày nào nơi quê hương xứ Quảng này,
người cha già là cụ Hồ Văn Long (SN 1921), chị gái và bà Dần không khỏi
mong ngóng. Cụ Long đã dành gần nửa cuộc đời còn lại để đi tìm con trong
vô vọng. Đến năm 2005, do tuổi già sức yếu, cụ mất đi và để lại tâm
nguyện tìm hai người con cho cụ Dần lúc này tuổi đã già, sức đã yếu.
Sau một thời gian chung vui, gặp lại chị em, họ hàng, hai người phụ
nữ cùng gia đình lại phải quay về với cuộc sống mưu sinh thường ngày nơi
đất khách quê người và cũng là quê hương thứ hai của mình. Cụ Dần vẫn
lặng lẽ sống trong căn nhà nhỏ với sự đùm bọc, yêu thương của xóm làng.
“Tôi vui không thể tả khi hai người con tìm về. Bây giờ, nếu có chết đi
tôi cũng yên lòng vì tâm nguyện bao năm của hai vợ chồng tôi đã đạt
được” – cụ Dần bộc bạch.
Trao đổi với chúng tôi qua điện thoại, bà Trà cho biết cuộc sống của
hai chị em bà tuy không còn vất vả như xưa nhưng vẫn không được khá giả.
Sau mấy chục năm lưu lạc trở về, bà Trà vừa mừng vừa tủi nhưng bà nói
rằng chị em bà không trách cứ ai mà chỉ trách chiến tranh đã gây ra tội
ác với không chỉ riêng gia đình bà mà còn với vô vàn những hoàn cảnh
khác.
Ông Nguyễn Công Danh, Chủ tịch UBND xã Bình Định Nam, cho biết ngoài
trường hợp hai chị em bà Trà, tại địa phương còn có nhiều trường hợp bị
địch bắt đi và thất lạc trong thời kỳ chiến tranh. Vào năm 1994, bà Hồ
Thị Tấn (chị em con chú bác của bà Trà) cũng đã tìm về nhà sau khi bị
thất lạc cùng thời điểm với bà Trà.
Bài -ảnh: Quang Vinh
Hương Khê: Anh em lạc nhau 70 năm bất ngờ hội ngộ
Bố mẹ lần lượt qua đời,
anh em ông Kế ly tán khi mới 5 – 7 tuổi nên ký ức về nhau cũng nhạt nhòa
như mưa qua cửa kính. Thế nhưng, sau 70 năm bặt tin nhau, họ bất ngờ ần
ra nhau từ một chi tiết rất nhỏ.
Đó
là câu chuyện cảm động về hai anh em ông Nguyễn Đình Kế và bà Nguyễn
Thị Trang, ở xóm 8 xã Hà Linh, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh).Anh em trùng phùng sau 70 năm cách biệt
Ngôi nhà nhỏ của vợ chồng bà Nguyễn Thị Trang nằm ngay ven đường quốc
lộ 15A, phía trước là núi, sau lưng là hồ rộng mênh mông, phong cảnh
nước non hữu tình. Mấy năm trở lại đây, tuy con cái thành đạt và đi làm
ăn xa, song tinh thần ông bà, đặc biệt là bà Trang, vẫn luôn phấn chấn.
Bởi lẽ, bà vừa tìm lại được người anh trai ruột thịt của mình sau nhiều
năm biền biệt tin tức. Xa cách nhau từ khi tóc còn để chỏm, đến lúc bà
không còn nhớ được rằng mình có một anh trai thì người anh lại đột ngột
dẫn con cháu về khiến bà cảm động không cầm được nước mắt cho ngày hội
ngộ.Bà Nguyễn Thị Trang năm nay đã 74 tuổi. Bà sinh ra trong gia đình có
4 anh em, trong đó có 3 anh em trai, bà là con út. Gia đình đói khổ
nên cuộc sống vô cùng khó khăn. Đến năm 1945 thì lần lượt bố rồi 2 người
anh trai đầu đã bỏ mẹ con bà đi vì đói. Người mẹ già đành phải đau lòng
mang đứa con trai thứ 3 là Nguyễn Đình Kế, lúc ấy mới có 7 tuổi, cho đi
làm con nuôi. Còn lại mình bà với đứa con gái 5 tuổi bám trụ lại quê
nhà rau cháo nuôi nhau. Ký ức về người anh trai lúc đó trong tâm khảm
của bà Trang chỉ là cuộc gặp lần cuối, khi mẹ dẫn anh giao cho một người
khác, làm con nuôi. “Lúc đó, thấy mẹ khóc, anh Kế cũng khóc nhưng tui
không hiểu chuyện chi tiết. Cuộc sống xô đẩy, bon chen với cơm áo gạo
tiền đã khiến tui quên béng mất mình có người anh trai. Thậm chí, lúc
mất, mẹ tui cũng không đả động gì đến việc nhắc nhở tui tìm anh trai
mình”, bà Trang rơm rớm nước mắt nhớ lại chuyện ngày quá khứ.Thế rồi, bà
Trang cũng như bao cô gái quê khác, lớn lên lập gia đình, nuôi dạy con
cái. Bà sinh hạ được 5 người con, ngoại trừ cậu con trai thứ tư đang làm
việc chân tay ở Thái Lan thì đều là công chức nhà nước. Bà Trang nhìn
xa xăm và nhớ lại, vào một ngày cuối năm, trời rét căm căm, bà đang
chuẩn bị tống cựu nghênh tân thì nhà có khách lạ. Trong đoàn người ấy có
cả ông Nguyễn Ngọc Sơn, giám đốc công ty cao su Hà Tĩnh, và nhiều người
trong làng. Khi bà còn ngỡ ngàng chưa hiểu chuyện gì thì một người đàn
ông tầm 75 tuổi chạy đến nắm tay bà lắc lắc: “Chính em gái tôi đây rồi,
bao năm trời cách biệt, đau đáu tìm về, nay mới có dịp trùng phùng. Em
tôi già và gầy quá”. Trong câu chuyện gặp mặt tại bữa cơm thân mật sau
đó, bà Trang mới biết, người đàn ông nọ chính là anh Kế của mình. Đã hơn
nửa thập kỷ, ông vẫn đau đáu nhớ về cội nguồn. Lúc này, bà mới lật giở
ký ức, 2 anh em ôm nhau mừng mừng, tủi tủi, nước mắt rơi nghẹn ngào. Câu
chuyện tựa cổ tích đang tái hiện giữa đời thường. Ngày đó, nghe tin bà
Trang tìm lại được người anh của mình, bà con lối xóm đến chật kín nhà
để chia vui, niềm vui ngày trùng phùng.Loạn lạc vì chiến tranh, đói kém
Trong ngày gặp mặt, ông Nguyễn Đình Kế đã kể lại cho em gái và bà con
họ hàng nghe về quãng đường lưu lạc của mình cũng như hành trình tìm lại
em gái. Ngày đó, mẹ đem cho ông Kế làm con nuôi một người đàn ông gốc
Huế, tên là Năm, làm cai cho Pháp ở Tổng Hà Linh. Nhận con nuôi được vài
năm, ông Năm Huế trở lại thủ đô, mang theo cả Kế. Với ý định xóa gốc
tích của đứa con nuôi, ông Năm đã thay đổi tên của Kế thành Nguyễn Văn
Ba. Sau khi ông Năm mất, Ba vào bộ đội, rồi xuất ngũ và lấy vợ, lập
nghiệp ở Đà Nẵng. Ông Ba (tức Kế), có 10 người con, đến nay các con đều
đã thành đạt, định cư ở Mỹ. Về chuyện đau đáu với quê hương cũ, ông Kế
kể lại với bà Trang cũng như xóm làng rằng, chưa ngày nào ông thôi nhớ
về quê, dù ký ức rất đỗi nhạt nhòa, mờ mịt.Càng về già, ông càng hay
hoài niệm, nhất là thời điểm các con định cư hết bên trời Tây, chỉ có
hai ông bà sống giữa Đà Nẵng hoa lệ. Thế rồi, một ngày cuối tháng
10.2010, ông xem chương trình thời sự trên Đài Truyền hình Việt Nam nói
về tình hình lũ lụt ở miền Trung, trong đó có nhắc đến địa danh Hà Linh,
huyện Hương Khê. Ban đầu, ông chỉ định lưu tâm để bàn với vợ dành ít
tiền gửi về cứu trợ lũ lụt. Nhưng 2 chữ “Hà Linh” cứ ám ảnh khiến ông
bao đêm trăn trở, lần dở ký ức vụn của tuổi thơ. Thế rồi, trong mớ hỗn
độn ấy, ông chợt nhớ ra năm xưa mình cũng từng ở vùng đất có địa danh
này.Sau ông nhờ mấy người bạn làm ở VTV Đà Nẵng tìm cho đoạn thời sự đã
phát hôm đó. Ông xem đi xem lại, thấy có ông Sơn giám đốc công ty cao su
đóng trên địa bàn này trả lời phỏng vấn. Ông Kế tìm cách liên hệ, xin
số điện thoại để hỏi về địa danh Hà Linh thì được biết, đó là tên của xã
mà công ty đang đóng. Đến lúc ông hỏi về dòng họ Nguyễn Đình thì ông
này không biết, nhưng có hứa sẽ giúp đỡ nếu về đây. Từ đó cho đến khi
quyết định ra Hà Tĩnh tìm em gái, ký ức người đàn ông ở vào cái tuổi
thất thập cổ lai hy này đã chắp ghép được những mảnh vỡ của quá khứ,
rằng ông có một người em gái, có mẹ già và anh trai, nhưng đích xác ai
sống, ai mất thì ông không dám chắc. Dù vậy, ông vẫn quyết tâm ra Bắc để
tìm ra gốc gác của mình. Dù là không còn ai trong gia đình nữa, thì ông
vẫn tin dòng họ sẽ còn một ai đó sống sót.Tháng 11.2010, khi cơn lũ vừa
rút đi, lấy cớ làm công tác cứu trợ nhân đạo, ông Nguyễn Đình Kế cùng
vợ và mấy người cháu xa đánh xe về Hà Linh. Qua câu chuyện rành rẽ với
ông giám đốc công ty cao su, người bạn này đã giúp ông hỏi han tin tức
về nguồn cội của mình. Khi đến UBND xã nhắc về dòng họ Nguyễn Đình, ông
chủ tịch Đặng Minh Đức cho hay, có dòng họ đó ở xã này, hiện trưởng họ
là ông Nguyễn Đình Dưỡng, cán bộ tiền khởi nghĩa trong phong trào Xô
Viết – Nghệ Tĩnh những năm từ 1930 đến năm 1931. Họ rồng rắn kéo nhau
đến nhà ông Dưỡng. Khi nghe nhắc đến đứa cháu tên Kế bị thất lạc năm
xưa, cụ Dưỡng bỗng dưng đứng phắt dậy, chạy đến bên ông Kế run run:
“Thằng Kế năm xưa đây rồi. Chính mày chứ không thể ai khác. Chiến tranh
tàn khốc, cả dòng họ cứ tưởng mày đã theo Tây (vì ngày xưa Kế làm con
nuôi cho ông Năm Huế theo Pháp), không ngờ mày đã giác ngộ mà theo cách
mạng”. Cuộc trùng phùng chưa dừng lại ở đó, cụ Dưỡng cho hay, ông Kế còn
một người em đang sống tại xóm này. Nghe đến đấy, ông Kế vừa hồi hộp,
vừa mừng rỡ. Đến lúc này, ông mới tin rằng, linh cảm về một đứa em máu
mủ ruột rà vẫn còn đâu đó trên đất nước đã trở thành hiện thực.Thắm tình anh em
Hai anh em Nguyễn Đình Kế và Nguyễn Thị Trang gặp nhau, rơi nước mắt
mừng mừng tủi tủi. Mấy chục năm qua khi ký ức về nhau chỉ là một thoáng
xa xăm mỏng mờ nhưng bất ngờ họ lại tìm được tình thân. Ông Kế cũng
chẳng thể nào hình dung được em gái nhỏ bé năm xưa của mình nay đã là
một bà lão già nua gầy gò và sống trong khổ hạnh. Được cái 5 đứa con của
bà Trang đều học hành tử tế và thành đạt. Mấy chục năm nuôi con chăm
cháu đã vắt kiệt sức lực của người đàn bà này. Trong khi đó, ông Nguyễn
Đình Kế có cuộc sống khấm khá hơn ở khu phố sầm uất tại quận Hải Châu,
thành phố Đà Nẵng. Từ sau lần gặp lại ấy, ông Kế đã nhiều lần về Hà Tĩnh
để thăm và đỡ đần em gái trong cuộc sống thường nhật. Ông Kế cũng đã 3
lần cho xe về đón vợ chồng bà Trang vào chơi Đà Nẵng, thăm người nhà anh
trai sau 70 năm kỳ ngộ.Giữa năm 2011, sau khi đứa con trai út quyết
định sang Mỹ định cư, vợ chồng ông Nguyễn Đình Kế cũng ngậm ngùi chia
tay em gái để theo con cái sang sống phần đời còn lại ở trời Tây. Xa
nhau, lòng bà khôn nguôi nhung nhớ. Tình anh em hơn nửa thập kỷ không
gặp nhau thì không sao, đến lúc nhận ra, chưa kịp vui niềm hạnh ngộ thì
đã phải chia tay. Có lẽ cũng thấu hiểu nỗi lòng em gái nên cứ vài ngày
một lần, ông Kế lại gọi điện về gặp bà Trang động viên em nên bà cũng
thấy ấm lòng. Nhắc chuyện kỳ ngộ với anh trai mình, bà Trang vẫn còn
nguyên cái cảm giác hồi hộp, hạnh phúc. Có lẽ đó là món quà bất ngờ
nhất, kỳ diệu nhất mà số phận ban tặng cho 2 anh em bà sau gần như cả
cuộc đời.
Xzone
Những bức ảnh chia lìa tình máu mủ khiến cả thế giới xúc động
Em bé con nằm co ro trong hình vẽ mẹ do chính em tự vẽ. Đôi
giầy nhỏ xinh của em được đặt dưới chân "mẹ". Dù chưa đọc lời chú thích
người xem cũng hiểu rằng mẹ của em đã chết và em nhớ mẹ biết nhường nào.
Bức
ảnh trên đã ghi lại hình ảnh xúc động về đám tang 2 em bé người
Palestine thiệt mạng trong một vụ không kích của Israel vào Dải Gaza hồi
tháng 11/2012. Người xem đau xót cảm nhận được sự đối lập đầy ám ảnh
giữa cảm xúc phẫn nộ và đau đớn của những người dân dự lễ tang đau
thương, và sự lặng yên vĩnh viễn của 2 đứa trẻ vô tội. Cha của các em
cũng thiệt mạng trong vụ tấn công, còn người mẹ tuy sống sót nhưng đang
phải điều trị tại bệnh viện địa phương.
Người con cuộn tròn trong hình vẽ mẹ bằng phấn
Không
chỉ những bạn trẻ thiếu vắng mẹ mà một người con nào khi nhìn hình ảnh
cô bé cuộn tròn trong hình vẽ người mẹ bằng phấn đều nghẹn ngào.
Bức
ảnh được truyền tải đi nhiều lần nên dường như đã không còn biết được
tác giả. Nhưng hơn tất thảy, nó là sự đồng cảm sâu sắc đối với những
người không còn mẹ, là sự đánh thức tình yêu, hành động đối với bất kỳ
ai còn có mẹ trên đời. Cậu bé 2 tuổi khóc bên xác mẹ
Nhiều
người rớt nước mắt thương cảm cho hoàn cảnh đáng thương của hai mẹ con
cậu bé người Myanmar trong bức ảnh này. Mẹ cậu bé đã bị tai nạn trên
đường tới bệnh viện thăm chồng và đã tử vong. Cậu bé chỉ biết ngồi bên
mẹ khóc thét trong tuyệt vọng, trên tay vẫn còn cầm chiếc bánh mỳ, trong
khi những người xung quanh chỉ biết đứng nhìn một cách đầy thương cảm.
Cậu bé ôm di ảnh mẹ thiệt mạng tại Nga
Ngày
11/09/2012 vừa qua đã xảy ra vụ hỏa hoạn kinh hoàng tại một xưởng may
tại Nga khiến 14 công nhân Việt Nam thiệt mạng. Trong ảnh là cậu bé
Nguyễn Ngọc Minh (10 tuổi, quê Nghệ An) khi đi nhận di hài của mẹ tại
sân bay. Cậu bé ngồi gục trên sàn, một tay cầm di ảnh của mẹ, một tay ôm
mặt khóc nức nở. Sau 5 năm xa cách, Minh “đón” mẹ về nước nhưng mãi mãi
không được gặp mẹ nữa.
Tôi mất tất cả rồi...
Bức
ảnh trên chụp người phụ nữ Syria tên là Aida dùng tay che đi gương mặt
bị thương và những giọt nước mắt tuôn rơi. Cô Aida khóc không phải chỉ
vì những vết thương đang nhức nhối mà còn vì nỗi đau đớn tột bậc khi
chồng cùng hai đứa con nhỏ đã thiệt mạng và ngôi nhà của gia đình bị phá
hủy sau cuộc giao tranh giữa quân đội chính phủ và quân nổi dậy tại quê
hương cô- Idlib, miền bắc Syria.
Chỉ trong chốc lát, người phụ
nữ này đã mất đi tất cả những gì quý giá nhất trong cuộc đời vì chiến
tranh, loạn lạc. Ở Syria, có hàng nghìn người phụ nữ rơi vào cảnh ngộ
như cô Aida. Khoảnh khắc đứt lìa
Hai
bức ảnh xúc động: một than khóc, một nụ hôn vĩnh biệt người thân đã ra
đi chụp tại Bệnh viện Shifa, thành phố Gaza ngày 18/11 vừa qua cho thấy
sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh. Sẽ chẳng ai bên ai được
mãi mãi dù có yêu thương nhau đến mấy. Sẽ chẳng ai biết được điều gì xảy
ra, phút trước còn vui vẻ bên nhau, phút nhau là lìa xa khi chưa kịp
nói lời tạm biệt. Bé gái 3 tháng tuổi bị cha đánh chết chỉ vì bé là... con gái
Ngày
5/4, bé gái Neha Afreen (Ấn Độ) đã được đưa tới bệnh viện Vani Vilas,
Bangalore trong tình trạng vô cùng nguy kịch, thương tích đầy mình. Sau
khi các bác sĩ kiểm tra thì phát hiện trên thân thể non nớt của cô bé 3
tháng tuổi đầy các vết thương, chấn thương nghiêm trọng ở vùng đầu, cổ
bị trật khớp, toàn bộ lớp da mỏng manh bị trầy trụa kèm theo các vết cắn
và bỏng khắp người.
Các bác sĩ cố
hết sức để cứu chữa cho sinh mệnh bé nhỏ, cô bé đáng thương cũng dũng
cảm chống lại đau đớn song không thắng nổi thần chết. Ngày 11/4, trái
tim bé nhỏ của Neha đã ngừng đập. Các bác sĩ cho rằng cô bé bị thương
quá nghiêm trọng ở vùng đầu.
Bức ảnh người mẹ trẻ ôm xác bé Neha Afreen trên tay này làm hàng triệu người rơi lệ.
Bé
đã bị bố đánh đến trấn thương nghiêm trọng ở đầu, trật khớp cổ, bị bố
cắn, dí thuốc lá đang cháy vào người. Ông bố nhẫn tâm này đã nhét giẻ
đầy mồm bé. Vì vậy, bé đã ra đi mãi mãi.
Người gây ra những
vết thương tàn nhẫn và cái chết đau lòng của cô bé 3 tháng tuổi chính
là cha ruột em, ông Umar Farooq, một công nhân sơn xe. Kẻ nát rượu này
đã không ngừng dằn vặt, đánh đập vợ để đòi có “một thằng con trai”!
Buổi
tối hôm đó, khi Reshma đi ngủ, Farooq đã nhét giẻ đầy miệng Neha để
ngăn bé khóc và ra sức đánh đập cô bé bằng những gì anh ta vớ được.
Lúc
người mẹ trẻ tỉnh giấc vào nửa đêm thì phát hiện con gái đang bị co
giật dữ dội, nôn ra máu, cô gọi chồng nhưng anh ta thờ ơ. Sau đó, nhờ sự
giúp đỡ của hàng xóm, Reshma đưa con nhập viện nhưng cuối cùng, thiên
thần bé bỏng đã ra đi mãi mãi.
Nhờ Facebook, 'liệt sĩ' được trở về nhà sau 34 năm báo tử
18:13 09/10/2017
Sự trở về bất ngờ của ông Kế (ở Thanh Hóa) sau hàng chục năm lưu lạc
khiến gia đình, bà con lối xóm vui mừng khôn xiết. Ngày ngày, người dân
thay nhau đến chia vui, hỏi thăm ông.
Những ngày đầu tháng 10, căn nhà của bà Trịnh Thị Hậy nằm rìa thôn Tân Đa (xã Quảng Tân, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa)
đông hơn thường lệ. Người thân, làng xóm thay nhau đến chia vui với bà
Hậy vì người con trai trở về sau gần 40 năm, kể từ lúc nhập ngũ.
“Tôi mừng lắm. Không có gì hạnh phúc bằng việc con trở về đoàn tụ”, bà Hậy nói.
Cụ bà 82 tuổi cho hay gia đình có 7 người con. Tháng 4/1978, chàng
trai Nguyễn Văn Kế lên đường nhập ngũ. Sau thời gian huấn luyện, anh Kế
tham gia chiến đấu tại chiến trường Campuchia.
Hòa bình lập lại, những người lính xã Quảng Tân lần lượt trở về,
riêng anh Kế thì không. Ngày ngày, bà Hậy cùng chồng mỏi mắt ngóng trông
nhưng con trai vẫn biệt tích. Đến năm 1983, người mẹ đau đớn nhận giấy
báo tử. Anh Kế được công nhận là liệt sĩ.
“Con đi chiến đấu nhưng không một lá thư, một kỷ vật gửi về. Lúc ấy
chúng tôi đành chấp nhận sự thật là con đã hy sinh”, bà Hậy nhớ lại
quãng thời gian đau buồn.
Hơn 30 năm qua, cuộc sống khó khăn đủ bề khiến gia đình bà Hậy cũng
chưa thể thực hiện ước nguyện tìm hài cốt của con trai. Câu chuyện về
người lính Nguyễn Văn Kế anh dũng hy sinh cũng dần lùi sâu vào quá khứ.
Bà Hậy vui mừng bên người con trai vừa từ cõi chết trở về. Ảnh: Nguyễn Dương.
Bất ngờ một ngày cuối tháng 9/2017, thông tin và hình ảnh của ông Kế còn sống ở Thái Lan được đăng tải lên mạng xã hội Facebook.
Ông Nguyễn Văn Hùng (anh trai con bác ông Kế) cho hay một người đàn
ông ở Quảng Ninh qua Thái Lan làm ăn và gặp ông Kế. Với ký ức mập mờ,
ông Kế kể cho người đó việc mình từng là người lính và quê ở Thanh Hóa.
Người này lập tức chia sẻ câu chuyện lên mạng Facebook để giúp ông Kế
tìm quê hương.
“Thông tin về chú được nhiều người chia sẻ. Ít ngày sau thì gia đình
chúng tôi biết tin và liên lạc. Được nhiều người giúp đỡ, đến ngày 1/10,
chú trở về quê nhà trong sự vỡ òa của mọi người”, ông Hùng hồ hởi kể.
Bà Hậy xúc động tiếp lời: “Ngày gặp lại, hai mẹ con chỉ biết ôm nhau
khóc nức nở. Tôi khóc vì quá hạnh phúc, không thể nói nên lời vì con
trai đã từ cõi chết trở về”.
Theo lời ông Kế, ông không hy sinh mà bị quân Pôn Pốt bắt trong lúc
vừa chữa xong căn bệnh sốt rét ở một trạm xá. Một thời gian sau, ông
trốn được ra ngoài với trí nhớ không rõ ràng.
Ông sống thang lang và sau đó lưu lạc đến một tỉnh ở Thái Lan. Hàng
chục năm qua, ông mưu sinh bằng nghề nhặt ve chai. Lúc đau ốm, không vợ
con, không người thân thiết bên cạnh.
“Tôi ăn không đủ no, ngủ dưới gầm cầu. Đã nhiều lần tôi muốn về nước
nhưng không có cách nào cả. Cuộc sống như tách biệt với bên ngoài”, ông
Kế kể.
Người thân, làng xóm đến chia vui với gia đình bà Hậy. Ảnh: Nguyễn Dương.
Phép màu xảy ra khi giờ đây ông đã được mọi người giúp đỡ để về đến
quê nhà. Gặp lại nhiều người thân thiết, trí nhớ của ông cũng hồi phục
nhanh hơn. Mấy hôm nay, ông Kế khan cả giọng nói vì trả lời nhiều câu
hỏi của người thân.
“Nhiều người hỏi tôi có nhớ họ là ai không. Tôi không thể nhớ được vì
giờ già rồi, ai cũng khác. Nhưng mọi người nhắc tên gì, con bà này, ông
kia là dần dần tôi nhớ ra”, ông Kế vui vẻ nói.
Kể từ ngày con trai về, bà Hậy đã hạ di ảnh thờ và bát hương. Tấm bằng Tổ quốc ghi công cũng được gia đình trả cho chính quyền.
Bà Nguyễn Thị Thu, Trưởng phòng Lao động, Thương binh và Xã hội huyện
Quảng Xương, cho biết huyện đang phối hợp với lãnh đạo xã để xác minh
con người, nhân thân và các giấy tờ tùy thân (nếu có) của ông Kế.
“Sau khi xác minh, huyện sẽ phối hợp với các cơ quan chức năng làm
chế độ thương bệnh binh cho ông Kế. Huyện cũng hướng dẫn lãnh đạo xã làm
việc này sớm nhất có thể”, bà Thu nói.
(ĐSPL)
- Những năm tháng chiến tranh ác liệt, vùng đất Bến Hải anh hùng trở
thành nơi đầu tuyến lửa. Mất mát và đau thương hiện hữu ngay trong tâm
trí những đứa trẻ khi vừa sinh ra đã phải rời xa quê hương. Trong ký ức
vụn vỡ, chỉ là những mảnh ghép mơ hồ về một vùng quê nắng gió. Nhưng, từ
sợi chỉ mơ hồ ấy, sau mấy chục năm xa xứ, những người con tìm về lại
quê hương trong sự ngỡ ngàng, kỳ diệu.
Nhân dân Vĩnh Linh đón học sinh K.8 trở lại quê nhà vào năm 1973 sau bảy năm sơ tán ra miền Bắc. (ảnh tư liệu)
Những đứa trẻ "mồ côi" quê hương
Xuôi
dòng Bến Hải, chúng tôi tìm về mảnh đất máu thịt Vĩnh Kim (huyện Vĩnh
Linh, tỉnh Quảng Trị) để cùng người dân nơi đây sống lại những năm binh
lửa hào hùng và ký ức về chuyến đi K.8 của những đứa trẻ mồ côi nơi đây.
Chiến tranh kết thúc, tất cả lần lượt tìm về với quê hương. Nhưng,
trong số ấy, bốn đứa cháu của bà Nguyễn Thị Quyên (72 tuổi, trú Xóm
Rooc, xã Vĩnh Kim) mãi không thấy về. Để rồi hơn 40 năm trời, những đứa
cháu ngày nào mới quay về với quê hương trong mòn mỏi đợi chờ của người
dì ruột.
Nhắc đến những năm tháng
xưa, người đàn bà 72 tuổi tâm sự: "Chưa bao giờ ký ức của tui thôi nghĩ
về những năm tháng ấy. Nó như một phần máu xương của tui gắn với bốn đứa
cháu còn đỏ hỏn. Sáng hôm nớ năm 1967, tui và chị ruột tên là Tuyền ra
rẫy nhổ sắn về nấu ăn, bom đạn thì ác liệt không biết mô mà lần. Chị
mang rổ sắn về nhà, còn tôi đi sau một chút. Về tới gần nhà chị, tui
nghe tiếng máy bay ầm ầm. Dứt tiếng bom thì tui nghe tiếng kêu la "O
Tuyền bị thương rồi". Căn nhà chị tui sập. Tui chạy ào xuống, bức vách
đất đè lên thằng Hoàng, con trai của chị".
Những
giọt nước mắt bắt đầu lăn dài trên gò má nóng hổi, bà Quyên kể tiếp:
"Chị tui chết ngay sau đó. Chỉ còn lại bốn đứa con là Nguyễn Văn Cháu
(SN 1959), Nguyễn Thị Lan (SN 1962), Nguyễn Văn Phượng (SN 1964) và
Nguyễn Văn Hoàng (SN 1967). Thằng Hoàng khi ấy còn đang bú, nó bị bức
vách đất tường nhà sập đè lên nhưng may mắn chỉ bị thương nhẹ". Chiến
tranh đã cướp mất đi mẹ của những đứa trẻ khi cách đó chưa lâu, cha
chúng vừa qua đời bởi căn bệnh ung thư quái ác. Lúc đó, bốn đứa trẻ bơ vơ chỉ còn biết trông nhờ vào người dì ruột.
Thế
rồi bom đạn giội xuống mảnh đất Vĩnh Kim ngày càng ác liệt, bà Quyên
ngậm ngùi xin cho những đứa cháu mình đi ra Bắc theo diện K.8. Gạt dòng
nước mắt, bà kể tiếp: "Bom đạn mù mịt không biết khi mô hết, chỉ tội
nghiệp cho cu Hoàng khi mất mẹ phải bú dì. Thế rồi phải xin cho chúng đi
Bắc, lòng tui xót lắm, nhớ lắm nhưng ở lại thì bom đạn biết đâu mà
lường. Thế là thằng Cháu đi đầu tiên. Ngày chuẩn bị cho chúng đi, tôi sợ
chúng lạc sau này không tìm được đường về quê hương nên ghi tên tuổi,
quê quán vào một miếng giấy nhỏ đeo vào cổ cho mấy anh em. Nhưng rồi dì
cháu, anh em cũng vẫn thất lạc nhau".
Đó
là chuỗi ký ức dài về những năm tháng bắt đầu lưu lạc nơi xứ người của
những đứa trẻ và sự khắc khoải đợi chờ của bà Quyên. Cuối năm 1967, Lan
khi đó mới 5 tuổi, Hoàng mới được 10 tháng đi theo gia đình bà Quyên
trong chiến dịch K.8 ra Tân Kỳ (Nghệ An). Phượng khi đó mới 3 tuổi đi
theo gia đình người bác bên nội cũng ra đó. Ra tới Tân Kỳ được một thời
gian, khoảng năm 1969, mấy đứa trẻ về ở Trại nhi đồng Nguyễn Bá Ngọc tại
xã Hưng Đạo (huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên). Cầm trên tay mảnh giấy của
người dì ghi quê hương mình ra đi, nhưng cũng vì quá nhỏ nên những đứa
trẻ không còn giữ được.
Ra Trại nhi
đồng nuôi dưỡng con em mồ côi ở Hưng Yên, ba chị em Lan, Hoàng, Phượng
thuộc ba độ tuổi nên sống ở ba khu trại khác nhau. Tâm trí thơ dại ngày
một phai dần những hình ảnh về quê nhà, khi họ lần lượt được những gia
đình khác nhận về nuôi dưỡng.
Nỗi khắc khoải quê nhà
Những
đứa cháu đi tập kết chưa được bao lâu thì bà Quyên được cử đi học
trường sư phạm ở huyện Duy Tiên (tỉnh Hà Nam). Kể từ ấy, bà bắt đầu rong
ruổi khắp xứ Bắc, tìm các cháu trong khắc khoải vô vọng. Ngược xuôi
khắp nơi, nhưng không ai còn nhớ về những đứa trẻ ấy. Chỉ đến khi bà trở
về lại quê nhà thì may mắn tìm được người con trai đầu của chị mình là
anh Cháu. Vì là đứa con lớn nhất được đi tập kết đầu tiên, Cháu còn nhớ
và tìm về được quê nhà qua những lời nhắc nhở của bà Quyên.
Bà Quyên cho biết thêm, sau khi anh Cháu biết ba đứa em của mình đã lưu lạc đâu đó trên đất Bắc, anh lại tìm ra Hà Nội
để hỏi tìm tung tích của các em. Nhưng rồi hồ sơ thất lạc, sau nhiều
chuyến kiếm tìm trong vô vọng, mấy năm sau anh Cháu mất trong một tai
nạn bom mìn ở tây Gio Linh. Kể từ đây, con đường tìm kiếm những đứa cháu
của bà Quyên về lại với mảnh đất quê hương không thể tiếp tục. Bà Quyên
bảo: "Nhiều đêm tui khóc vì nhớ chúng lắm. Tui lại nghĩ đến lời chị gái
khi tui không lo được cho chúng. Từ ngày thằng Cháu mất, tui coi như
hết hy vọng, đau khổ thêm bội phần".
Bà Nguyễn Thị Quyên tâm sự với PV về những đứa cháu một thời lưu lạc của mình.
Thế
nhưng, bà Quyên cũng như những người thân của ba đứa trẻ ấy lại không
thể ngờ rằng ở đâu đó xa xôi, những đứa trẻ năm nào giờ đã là những
người lớn tuổi, trong tâm trí luôn đau đáu nỗi nhớ quê nhà và đang ngày
đêm tìm về nơi chôn nhau cắt rốn. Hành trình đi tìm lại cội nguồn của ba
đứa trẻ lưu lạc ấy lại bắt đầu từ những lá thư gửi cho chương trình "Như chưa hề có cuộc chia ly".
Anh Phượng với những ký ức còn sót lại, đã lên đường đi tìm lại chị em
mình. Kết cục có hậu đã đến, sau những năm tháng không biết mệt mỏi ấy,
anh đã tìm được chị và em trai của mình. Hiện, anh Phượng sống tại
TP.HCM, chị Lan sống ở Hải Dương, và Hoàng sống tại Quảng Ngãi.
Bà
Quyên nhớ lại: "Tui nhớ như in đó là số 31 của chương trình ti vi lúc
chiều 7/6/2010, là tui được gặp lại mấy đứa. Khi gặp nhau chỉ biết òa
khóc. Nghe thằng Phượng nói khiến tui càng khóc: "Con chỉ nhớ hai tiếng
Vĩnh Linh - Quảng Bình thôi. Con nhớ gió cát, nhớ bom đạn chứ không nhớ
nổi ai hết. Nhưng lòng dạ con cứ bồi hồi mỗi lần đi qua miền Trung. Thế
rồi con quyết tâm đi tìm lại quê hương". Giờ đây trên mảnh đất này,
không chỉ riêng ba đứa cháu gọi bằng dì ruột của bà Quyên may mắn trở về
vào năm 2010 sau 41 năm lưu lạc.
Bà
Quyên còn có hai đứa cháu khác ở thôn Hương Nam (cũng thuộc xã Vĩnh Kim)
là Hiền và Huệ là hai trong số 120 đứa trẻ Vĩnh Linh mồ côi, được đưa
từ Tân Kỳ ra Hưng Yên nuôi dưỡng vào năm 1969. Bố mẹ của Hiền và Huệ
cũng chết vì bom năm 1967. Huệ may mắn được một gia đình ở Hà Nội đón về
nuôi và năm 2003 tìm được về quê hương. Hiền được một gia đình tận Vĩnh
Phúc đón về làm con nuôi. Mãi một năm sau khi Lan, Phượng, Hoàng tìm về
được quê nhà thì từ Vĩnh Phúc, Hiền cũng tìm được quê hương để đoàn tụ
với các chị em mình.
Chiến tranh đã
lùi xa, những hố bom cũng dần lấp đầy và những hố sâu ký ức xa xứ của
những đứa trẻ lưu lạc năm nào cũng sẽ được bù đắp bằng tình yêu, khát
vọng quê hương đầy máu và nước mắt.
Sợi chỉ mong manh
Trao
đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Viết Thanh, Trưởng thôn Rooc (xã Vĩnh
Kim) xác nhận, chuyện bốn người cháu của bà Nguyễn Thị Quyên lưu lạc
suốt mấy chục năm trời mới tìm lại được quê hương là sự thật. "Có lẽ
chính tình máu mủ là sợi dây kết nối họ lại với nhau, kết nối tâm hồn
những người con xa xứ về với quê hương", ông Thanh nói.
Hữu Hòa - Nhâm Thân
Cuộc đoàn tụ "như chưa hề có cuộc chia ly" của cô gái 17 năm bị bán sang Trung Quốc làm vợ
Biết tin cô gái sinh năm 1982 bị
bán sang Trung Quốc sau 17 năm mới có cơ hội trở về, nhiều người anh em
họ hàng và hàng xóm đã kéo đến đông đúc để chia vui, nhiều người nói
đây quả là phép màu...
Như xem... cô dâu về làng
Trưa 4/2, hàng chục người bà con hàng
xóm đã đến gia đình ông Bùi Văn Hán (66 tuổi ở thôn Đự, xã Thành Thọ,
huyện Thạch Thành, Thanh Hóa) để đón cô con gái ông Hán trở về sau 17
năm mất liên lạc.
Khung cảnh gia đình ông Hán diễn ra giống chương trình "Như chưa hề có cuộc chia ly".
Người đầu tiên nhanh chân ra đón cô gái 17 năm mất tích là người hàng xóm thân thiết ngày xưa.
Phía bên trong nhà, ông Hán không kìm
nổi nỗi xúc động cũng nhanh chóng hòa mình vào với đám đông người đang
hướng về đứa con gái của ông.
Sau vài giây như "chết đứng
người", ông Hán chạy ra ôm chầm lấy con gái, hai bố con chỉ biết khóc
thay cho lời nói. Sau đó là tiếng khóc nức nở từ chị Hà "Bố ơi, con nhớ
bố lắm".
Rồi người cha vui mừng khôn
xiết nhìn sang xung quanh thốt lên: "Con gái tôi chẳng khác xưa chút
nào. Đây là con tôi bấy lâu nay đi tìm..".
Không khí tại gia đình ông Hán mỗi lúc
lại thêm đông vì những người hàng xóm và họ hàng kéo đến chia vui. Trong
câu chuyện, ông Hán nhắc lại cái ngày con gái bỏ nhà: "Tôi không nhớ
chính xác ngày nhưng khoảng tháng 7/2000, lúc đó 18 tuổi. Hai chị em
tranh nhau cái xe đạp tập tành cho thằng em trai, em nó ngã. Tôi không
kiềm chế được nên tát nó một cái".
Ông Hán nhớ lại thời thời điểm con gái bỏ đi.
Ông Hán bảo: "Thế là nó bỏ nhà đi, cứ
nghĩ nó đi một lúc rồi về. Đến bữa ăn không thấy con về, cả nhà mới tá
hỏa đi tìm nhưng không thấy. Thế là nó đi một mạch suốt mười mấy năm
qua. Gia đình tôi đã cắt cử người đi khắp mọi noi, vào cả trong miền Nam
nơi có nhiều người thân, họ hàng xem con có đến không. Nhiều năm nay
tôi cứ nghĩ quẩn quanh, chả biết nó sống chết thế nào…".
Đối với những người hàng xóm, mỗi người
góp một câu rồi xuýt xoa, ai cũng vui mừng. Nhiều người nhắc lại cô gái
18 tuổi khi đó sắp đi lấy chồng bỗng dưng bỏ nhà ra đi. Nhưng hôm nay,
tất cả như đang đón cô dâu mới về làng!
Hàng xóm kéo đến chúng vui với gia đình ông Hán và chứng kiến ngày trở về của chị Hà.
Trước đó, ngay sau khi về đến Hà Nội tá
túc tại một nhà người dân "tốt bụng", chị Hà đã chia sẻ lại quãng thời
gian sống ở Trung Quốc. Cuộc đời 17 năm nơi đất khách quê người như một
bộ phim nhiều tập.
Theo chị Hà, bị bố tát, giận bố nên đã
trót dại bỏ nhà đi lên thành phố. Tại đây, chị Hà gặp một người phụ nữ
xin việc, người này hứa sẽ lo cho có công ăn việc làm và cuộc sống.
Tuy nhiên, 7 ngày ròng rã đi trên tàu, người con gái từ quê ra tỉnh không hay biết mình đã rơi vào tay bọn buôn người.
Khi biết mình đang ở đất Trung Quốc thì
cũng là lúc bọn buôn người đã khống chế chị hoàn toàn. Sau đó 1 năm, chị
Hà bị bán cho một người đàn ông Trung Quốc làm vợ. Sống chung với người
đàn ông này 3 năm, sau đó chị đã tìm cách thoát được ra ngoài và mang
theo 2 đứa con lưu lạc đến thành phố Quế Lâm.
Hiện, chị
đang chung sống với một người đàn ông làm công nhân xây dựng, người này
tuy rất nghèo nhưng rất yêu thương vợ. Tuy vậy, chị Hà luôn nung nấu ý
định bằng mọi giá tìm con đường để trở về quê hương.
Chị Hà vui mừng khi gặp lại gia đình
Khoảng tháng 4/2016 trong khi đang bán
hàng thuê ở trung tâm TP Quế Lâm, chị gặp được cặp vợ chồng Việt đi du
lịch sang Trung Quốc, chị Hà tâm sự lại số phận của mình và mong muốn
được vợ chồng này tìm kiếm giúp chị người thân đang sống ở Thạch Thành.
Cặp vợ chồng người Việt đã chụp lại chân
dung chị và đăng trên facebook. Không ngờ, sau một thời gian, chị Hà đã
được đoàn tụ cùng gia đình sau 17 năm lưu lạc.
Chị Hà chia sẻ thêm, kể từ khi được mọi
người giúp đỡ làm các thủ tục kết hôn hợp pháp với người chồng và có
visa… Ít nhất hai lần chị đã về đến giáp vùng biên để sang Việt Nam
nhưng bất thành.
"Chồng em không có tiền, tích góp chỉ
đủ cho em đi thôi. Một lần chồng đưa đến cửa khẩu gần Móng Cái nhưng em
không có tiền thuê người người phiên dịch tiếng Việt. Chồng em thì sợ
về rồi em sẽ không sang nữa, thế là cả hai quay lại. Còn một lần gần đây
cũng do không có tiền nên về gần Lạng Sơn thì em cũng quay lại. Đến hôm
nay thì được trở về nhà rồi, hạnh phúc quá không biết nói gì hơn...", chị Hà chia sẻ bằng thứ tiếng Việt trúc trắc vì đã quên mất nhiều sau 17 năm xa xứ.