Nikola Tesla (chữ Kirin Serbia: Никола Тесла) (10 tháng 71856 – 7 tháng 11943) là một nhà phát minh, nhà vật lý, kỹ sư cơ khí và kỹ sư điệnngười Mỹ gốc Serbia. Ông sinh ra ở Smiljan, Đế quốc Áo, sau này trở thành công dân Hoa Kỳ. Tesla được biết đến với nhiều đóng góp mang tính cách mạng trong các lĩnh vực điện và từ trường trong cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20. Các phát minh của Tesla và các công trình lý thuyết đã làm nên cơ sở của hệ thống phát điện xoay chiều, bao gồm cả hệ thống phân phối điện nhiều pha và động cơ điện xoay chiều, giúp tạo ra Cách mạng công nghiệp lần 2.
Vì tính cách lập dị và những tuyên bố kỳ lạ và khó tin về sự phát
triển của khoa học kỹ thuật, Tesla bị cô lập và bị coi là một nhà bác học điên lúc cuối đời Ông qua đời năm 86 tuổi trong một phòng khách sạn ở New York với một số tiền ít ỏi trong túi.
Những công trình của Tesla gần như bị lãng quên sau khi mất, nhưng kể
từ những năm 1990, tên tuổi của ông mới thực sự trở nên nổi tiếng. Họ
của ông được đặt làm tên của đơn vị đo cường độ cảm ứng từ tesla trong hệ đo lường quốc tế. Tesla còn thiết kế ra một loại máy phát điện ở hiệu điện thế cao dạng tháp mà ngày nay người ta gọi là tháp Tesla.
Tượng Nikola Tesla ở Smiljan, Crotia
Những năm đầu (1856–1885)
Tesla mặc bộ đồ truyền thống Serbia, k. 1880
Rebuilt, Tesla's house (parish hall) in Smiljan, Croatia, where he was born, and the rebuilt church, where his father served. During the Yugoslav Wars, several of the buildings were severely damaged by fire. They were restored and reopened in 2006
Tesla's baptismal record, 28 June 1856
Nikola Tesla's father Milutin, Orthodox priest in the village of Smiljan
Nikola Tesla sinh vào ngày 10, tháng 7, năm 1856 trong một ngôi làng của Croatia cũ. Cha ông là Milutin Tesla - một linh mụcChính thống giáo. Mẹ ông là Đuka Tesla (nhũ danh Mandić), một phụ nữ tài năng, bà tạo ra những công cụ thủ công, thiết bị cơ khí trong nhà và có khả năng nhớ các tác phẩm thơ dài tiếng Serbia. Nikola tin rằng trí nhớ siêu phàm (eidetic memory) và khả năng sáng tạo vô tận của ông được thừa hưởng từ mẹ. Tesla's progenitors were from western Serbia, near Montenegro.
Năm 1870, Tesla chuyển tới Karlovacđể nhập học ở Higher Real Gymnasium. Tai đây ông bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Martin Sekulić - một giáo viên dạy toán.Tesla có thể tính được tích phân trong đầu, điều làm cho giáo viên của ông không tin và nghĩ rằng Tesla đã gian lận. Ông tốt nghiệp vào năm 1873 (sớm hơn một năm của cấp học).
Năm 1874, ông trốn được lệnh cưỡng chế nhập ngũ của quân đội Áo-Hung
bằng cách chạy đến Tomingaj. Tại đây ông khám phá về những ngọn núi, và
nói rằng sự hòa hợp với tự nhiên làm ông trở nên khỏe hơn, về cả thể
chất lẫn tinh thần. Ông đọc rất nhiều sách khi sống ở Tomingaj và từng nói rằng những tác phẩm siêu phàm của Mark Twain đã khôi phục bệnh tật trước đó của ông một cách kỳ diệu.
Năm 1875, Tesla nhập học Đại học Bách khoa của Áo, tại thành phố
Graz. Trong năm đầu, ông không hề bỏ một buổi giảng nào, đạt được thứ
hạng cao nhất bằng việc vượt qua 9 bài kiểm tra (gần gấp đôi so với thông thường). Ông sáng lập một câu lạc bộ văn hóa của người Serb và nhận được là thư ca ngợi của hiệu trưởng tới cha ông, trong đó ghi rằng: "Con trai ông là một ngôi sao hạng nhất". Tesla kể rằng ông làm việc từ 3 giờ sáng cho đến 11 giờ tối, không có ngày nghỉ lễ, hay chủ nhật, kể cả trường hợp đặc biệt. Sau cái chết của cha ông năm 1879, Tesla tìm được một loạt những lá thư được gửi bởi những giáo sư cho cha
ông cảnh báo rằng nếu Nikola không rời khỏi trường học thì có thể chết
vì làm việc quá sức.
Năm thứ hai, Tesla đã có xung đột với Giáo sư Poeschl trong máy phát
điện Gramme, khi Tesla cho rằng máy chỉnh lưu là không cần thiết. Vào
cuối năm thứ hai của mình, Tesla mất học bổng và trở thành một con
nghiện cờ bạc.
Trong năm thứ ba của mình, Tesla dùng cả phụ cấp và tiền học phí của
mình để đánh bạc, sau đó đã đánh bạc thắng, lấy lại số tiền đã mất ban
đầu của mình và trả lại tiền nợ cho gia đình. Tesla tuyên bố rằng "đã
hoàn toàn kiểm soát được đam mê của mình" nhưng sau đó, ông đã lại trở
thành tay chơi bi-a ở Mỹ. Khi thời gian của kỳ thi đến, Tesla đã không
chuẩn bị và yêu cầu để được nghiên cứu, nhưng đã bị từ chối. Ông không
bao giờ tốt nghiệp đại học và đã không nhận được thứ hạng nào cho học kỳ
cuối cùng.
Làm việc cho Edison
Năm 1882, Tesla đã bắt đầu làm việc cho Continental Edison Company ở Pháp, công việc của ông là thiết kế và cải tiến các thiết bị điện.
Vào tháng 6 năm 1884, Tesla dời đến thành phố New York. Trong suốt
chuyến đi vượt Đại Tây Dương, vé, tiền bạc, và một số hành lý của ông đã
bị đánh cắp, và ông đã gần như bị ném xuống biển sau khi một cuộc nổi
loạn nổ ra trên tàu. Ông đến chỉ có bốn xu trong túi, một lá thư giới
thiệu, một vài bài thơ, và một phần đồ chưa bị đánh cắp.
Tesla được thuê để làm việc cho Edison Machine Works. Công việc của
Tesla bắt đầu với kỹ thuật điện đơn giản và nhanh chóng tiến triển để
giải quyết một số vấn đề khó khăn nhất của công ty. Tesla thậm chí còn
được cung cấp các nhiệm vụ để thiết kế lại từ đầu máy phát điện một
chiều của Công ty Edison.
Tesla có thể thiết kế lại máy phát điện và mô tơ lỗi thời và không có
hiệu quả của Edison, nâng cao cả hiệu quả kinh tế lẫn chất lượng. Theo
lời Tesla, Edison đã nói rằng: "Nếu anh có thể làm được điều đó, chúng
tôi sẽ ra anh 50 ngàn đô la". Đây là một lời nói khó tin từ Edison,
người mà trả lương một cách bủn xỉn, và không hề có đủ từng ấy tiền mặt.
Sau nhiều tháng làm việc, Tesla hoàn thành nhiệm vụ và yêu cầu được giữ
lời hứa. Edison bảo rằng ông chỉ nói đùa thôi. "Tesla à, anh không hiểu
kiểu hài hước của người Mỹ chúng tôi" Thay vào đó, Edison đề nghị chỉ
nâng lương thêm 10 đô từ 18 đô một tuần cho Tesla, Tesla từ chối điều đó
và ngay lập tức thôi việc.
Năm 1886, Tesla thành lập công ty riêng của mình, Tesla Electric
Light & Manufacturing. Công ty lắp đặt hệ thống chiếu sáng đèn hồ
quang điện dựa trên thiết kế của Tesla và cũng thiết kế cho máy chỉnh
lưu phát điện (dynamo electric machine commutators), những bằng sáng chế
đầu tiên phát hành cho Tesla ở Mỹ.
Tesla đã đề nghị các công ty nên tiếp tục phát triển ý tưởng của mình
- phát triển hệ thống và động cơ truyền tải dòng xoay chiều. Nhưng
những nhà đầu tư đã không đồng ý, thậm chí còn sa thải ông, mặc cho ông
không một xu dính túi. Tesla buộc phải đi đào mương để sống. Tesla đã
coi rằng mùa đông năm 1886/1887 là thời gian của "những cơn đau đầu
khủng khiếp và những giọt nước mắt cay đắng". Trong thời gian cực khổ
này, ông đã tự hỏi mình đã đi học để làm gì?
Vào tháng 4 năm 1887, Tesla mở lại công ty khác, the Tesla Electric
Company, với sự ủng hộ của luật sư New York Charles F. Peck và Alfred S.
Brown, giám đốc của Western Union. Họ thành lập một phòng thí nghiệm
cho Tesla tại 89 Liberty Street ở Manhattan để Tesla có thể làm việc với
những động cơ hiện tại của mình và các thiết bị phân phối điện khác,
bằng một thỏa thuận mà họ thỏa thuận rằng sẽ chia sẻ công bằng năm
mươi-năm mươi với Tesla cho bất kỳ lợi nhuận được tạo ra từ các bằng
sáng chế của ông. Tại đây, năm 1887, ông xây dựng động cơ cảm ứng dựa
trên một nguyên tắc từ trường quay ông tuyên bố đã hình thành năm 1882.
Ông đã nhận được bằng sáng chế Mỹ cho động cơ này vào tháng 5 năm 1888.
Vào thời điểm đó, nhiều nhà phát minh cố gắng để phát triển động cơ AC.
Vì lợi thế của nó trong việc truyền tải điện cao áp. Động cơ cảm ứng từ
trường quay dường như đã coi là một phát minh độc lập của Tesla, nhưng
nó không phải là một phát minh độc đáo vào thời điểm đó. Nhà vật lí
người Italy Galileo Ferraris xuất bản một bài báo về từ trường quay dựa
trên động cơ cảm ứng vào 11 Tháng ba năm 1888, một mô hình làm việc có
thể đã được ông chứng minh tại Đại học Turin vào đầu năm 1885. Trong năm
1888, một tháng trước khi Tesla chứng minh động cơ cảm ứng AC của mình,
kỹ sư Westinghouse Oliver B. Shallenberger phát minh ra đồng hồ điện
được dựa trên nguyên tắc từ trường quay.
Thí nghiệm tia X
Đầu
năm 1894, Tesla bắt đầu đầu tư nghiên cứu một nguồn năng lượng phóng xạ
không nhìn thấy được khi ông được thông báo rằng nguồn năng lượng này
đã làm hỏng tấm phim trong phòng thí nghiệm của ông trong những thí
nghiệm trước đó (sau này được xác định là "Tia Roentgen" hay "Tia X"). Các thí nghiệm trước đó của ông được thực hiện với các ống Crookess,
một loại ống phóng điện tử ca-tốt lạnh. Không lâu sau đó, nhiều trong
số hàng trăm các công trình nghiên cứu trước đó của ông như các mô hình,
dự án, ghi chú, dữ liệu phòng thí nghiệm, các công cụ, hình ảnh có giá
trị $50,000—đã bị mất trong trận cháy phòng thí nghiệm lần thứ 5 vào
tháng 3 năm 1895 Tesla có thể đã vô tình chụp được ảnh tia X khi ông đang chụp ảnh Mark Twain dùng nguồn sáng từ ống Geissler, một loại ống phóng khí thời kỳ đầu. Điều duy nhất được ghi nhập trong ảnh là ốc khóa bằng kim loại trên kính của camera.
Làm thế nào
mà cảnh hoàng hôn thơ mộng và lãng mạn lại có thể liên quan đến những
động cơ điện xoay chiều? Trong những giấc mơ thì mọi chuyện đều có thể
xảy ra, nhất là giấc mơ của một nhà phát minh thiên tài như Nikola
Tesla. Và ở đây, điều quan trọng là những giấc mơ của Tesla đã đem lại
cho loài người những phát minh được xếp vào hàng cơ bản và quan trọng
nhất của nền văn minh công nghiệp.
Khi các thành viên của Hội Thương mại Chicago đến nghe bài giảng của nhà phát minh điện học nổi tiếng Nikola Tesla
ngày 13/5/1899, họ đã rất sững sờ khi nhìn thấy cảnh một hồ nước nhân
tạo nằm ngay giữa hội trường. Mọi người bàn tán xôn xao, chắc chắn Tesla
sẽ làm điều gì đó rất thú vị với một chiếc xuồng nhỏ đang trôi trên mặt
hồ kia. Đột nhiên, cái xuồng bỗng di chuyển quanh hồ và phát ra những
luồng sáng loang loáng. Ở trên bờ, Tesla đang vận hành một bộ điều khiển
từ xa, dùng sóng vô tuyến vô hình để truyền các lệnh đến chiếc xuồng.
Trước đám đông đang vô cùng phấn khích, Tesla đã mời một số người hô lên
các lệnh: "Rẽ trái! Phát sáng!". Sử dụng bộ phát sóng không
dây của mình, Tesla liên tục truyền các tín hiệu cho chiếc xuồng. Kỳ thú
hơn nữa, Tesla còn trình diễn cho mọi người một màn trận giả đặc sắc,
điều khiển những khối thuốc nổ dynamite lao thẳng vào các tàu của kẻ
địch. Khi ấy, Tesla đã không thể biết rằng, cái mô hình "đồ chơi" của ông đã trở thành nguyên mẫu đầu tiên cho tên lửa dẫn đường - một thứ vũ khí cực kỳ nguy hiểm.
Giấc mơ về một loại động cơ
Nhà phát minh điện học nổi tiếng Nikola Tesla (1899-1943) - (Ảnh: Occultopedia)
Tesla sinh ngày 10/7/1856 trong một gia đình người Xec-bi ở vùng biên
giới của đế quốc Áo-Hung, ngày nay là Croatia. Khi còn thiếu niên, Tesla
học kỹ thuật ở trường Bách khoa Joanneum ở Graz, Áo. Ở đó, những bài
giảng về vật lý của giáo sư Jacob Poeschl đã cuốn hút rất nhiều người
trẻ tuổi. Từ những bài giảng của Poeschl, Tesla đã bắt đầu suy nghĩ về
một trong những phát minh quan trọng nhất của mình, một động cơ AC (điện
xoay chiều).
Một ngày, khi quan sát giáo sư của mình đang cố gắng
khắc phục hiện tượng phát tia lửa điện từ các chổi quét đảo mạch của một
động cơ DC (điện một chiều), Tesla đã nảy ra ý tưởng chế tạo một loại
động cơ mà không cần đến bộ đảo mạch, anh lập tức đề xuất với thầy. Bực
mình vì sự ngang bướng của học trò, Poeschl đã diễn giải một tràng dài
về sự bất khả thi trong việc chế tạo một loại động cơ như vậy, cuối cùng
ông kết luận: "Anh Tesla có lẽ sẽ làm nên những thứ vĩ đại, nhưng chắc chắn là anh sẽ không bao giờ làm được cái động cơ ấy đâu!".
Tuy nhiên, sự quở trách ấy đã làm bùng lên trong Tesla những ngọn lửa
quyết tâm sôi sục của khát vọng tuổi trẻ. Trong suốt những năm còn ở
Graz và sau đó là Prague, anh đã không ngừng theo đuổi một cách miệt mài
việc nghiên cứu chế tạo một loại động cơ không phát sinh tia lửa điện.
Năm 1881, Tesla dời đến Budapest để làm việc cho hai
anh em Tivadar và Ferenc Puskas. Là một nhà tài trợ đầy tham vọng,
Tivadar đã từng thuyết phục Thomas A. Edison trao cho mình bản quyền
những phát minh để giới thiệu chúng ở lục địa Châu Âu. Anh em nhà Puskas
đang có kế hoạch xây dựng một trạm điện thoại ở Budapest sử dụng mẫu
thiết kế điện thoại cải tiến của Edison. Thật không may, họ đã không thể
tìm được người làm việc khi Tesla đột nhiên ốm nặng. Nhờ có sự quan tâm
của người bạn học Anthony Szigeti mà Tesla đã có thể hồi phục.
Chính trong một buổi đi dạo với Szigeti, Tesla đã nảy ra một ý tưởng xuất thần về chiếc động cơ của mình. Khi
họ đang say mê ngắm cảnh hoàng hôn, Tesla đã đột nhiên hình dung ra
việc sử dụng từ trường quay cho chiếc động cơ - đó chính là một ý tưởng
mang tính quyết định. Tesla đã thực hiện việc đảo ngược cấu
hình kỹ thuật, thay vì việc thay đổi cực từ ở rotor, ông đã thay đổi từ
trường ở bên trong chính stator. Cấu hình mới này đã loại bỏ một cách tự
nhiên sự phát sinh tia lửa điện. Tesla đã thấy rằng, nếu từ trường
trong stator mà quay, nó sẽ làm cảm ứng một điện trường trên rotor và do
đó khiến cho rotor quay. Ông cũng bắt đầu hình dung ra rằng, từ trường
quay có thể được tạo ra bằng việc sử dụng AC thay vì DC, nhưng ở thời
điểm đó ông vẫn chưa biết làm thế nào để biến ý tưởng này thành hiện
thực.
Phát minh của thợ đào kênh.
Chiếc xuồng điều khiển bằng sóng vô tuyến điện
Tesla đã dành tới 5 năm tiếp theo để thử nghiệm và định hình nên chiếc
động cơ của mình. Sau khi giúp anh em nhà Puskas xây dựng trạm điện
thoại ở Budapest, Tesla cùng với Tivadar dời đến Paris, tại đó họ tham
gia vào việc thiết lập hệ thống chiếu sáng của thành phố. Năm 1884,
Tesla đến New York để gặp Edison nhưng ông đã không có dịp để xây dựng
mối quan hệ với nhà phát minh lỗi lạc này. Ở New York, Tesla suýt nữa
thì đã có thể trình bày với Edison về ý tưởng chiếc động cơ của mình.
Ông nhớ lại: "Lúc ấy là ở đảo Coney, tôi đang
chuẩn bị giải thích cho Edison thì một ai đó đã chạy đến kéo ông ấy đi.
Chiều hôm ấy tôi về nhà và bị sốt, lần này thì tôi quyết định sẽ không
nói với bất cứ người nào về chiếc động cơ của mình". Vài tháng sau,
khi Tesla vừa hoàn thành việc thiết kế một hệ thống phát sáng hồ quang
cải tiến, người quản lý của ông đã nuốt lời không trả món tiền thưởng
như đã hứa, nhà phát minh đã bỏ đi trong sự căm phẫn.
Sau đó Tesla đến làm việc cho hai nhà kinh doanh
Benjamin A. Vail và Robert Lane đến từ Rahway , họ đã khuyên ông đăng ký
bằng phát minh về hệ đèn hồ quang để họ có thể thương mại hóa nó. Tesla
đã ngây thơ trao bản quyền phát minh cho hai kẻ quỷ quyệt này với một
niềm tin rằng họ sẽ đưa vào sản xuất ra những thiết bị để cạnh tranh với
Edison. Tuy nhiên, Vail và Lane đã quyết định dành tiền đầu tư vào các
ứng dụng bóng đèn điện. Vì thế, khi các đèn hồ quang của Tesla vừa được
sử dụng ở Rahway thì hai nhà kinh doanh đã lập thức sa thải ông và tổ
chức lại nhà máy. Hoàn toàn trắng tay sau khi bị bỏ rơi, Tesla đã buộc
phải đi đào kênh để kiếm sống.
Mặc dù phải chịu đựng cả một năm cực nhọc, Tesla cũng đã tập trung tài năng của mình trong tháng 3 năm 1866 để hoàn thành một
bằng sáng chế ứng dụng cho động cơ từ nhiệt - đó là một thiết bị mới,
hoạt động dựa trên việc đốt nóng và làm lạnh các nam châm. Sau
khi trình bày phát minh của mình cho người quản đốc công việc đào kênh,
Tesla đã được giới thiệu đến gặp Charles Peck, một luật sư khá thông
minh. Bị hấp dẫn bởi cái động cơ từ nhiệt, Peck đã quyết định bảo trợ
cho nghiên cứu của Tesla. Vì không phải là một chuyên gia kỹ thuật nên
Peck đã mời Alfred Brown, một giám sát viên ở Western Union tham gia hỗ
trợ cho Tesla.
Peck và Brown đã thuê một phòng thí nghiệm cho Tesla ở
Manhattan, tại đó nhà phát minh lại miệt mài phát triển chiếc động cơ
từ nhiệt của mình. Cho đến khi thấy được sự không hiệu quả của mô hình
động cơ này, Peck đã để Tesla tiếp tục hoàn thiện các động cơ AC. Tesla
đã bắt đầu làm thí nghiệm với một tổ hợp các dòng xoay chiều dùng cho
động cơ. Cách làm này tỏ ra khá là bất thường, bởi vì hầu hết các nhà
thực nghiệm thời đó đều chỉ làm việc với một dòng xoay chiều trong hệ
thống của họ. Đến tháng 9/1887, Tesla đã khám phá ra rằng, ông
có thể tạo ra một từ trường quay khi cho hai dòng xoay chiều riêng biệt
đi vào các cặp cuộn dây đặt đối diện nhau trên stator. Ngày nay
thì hai dòng điện đó được gọi là lệch pha nhau 90 độ, và chiếc động cơ
sẽ hoạt động với dòng điện hai pha. Rất tự hào và phấn chấn về thành quả
đạt được, Tesla cũng đã cho ra đời một số sáng chế khác, cũng dựa trên
nguyên lý từ trường quay. Đặc biệt quan trọng là, chính Tesla đã đưa ra ý
tưởng rằng dòng xoay chiều đa pha có thể truyền năng lượng qua những
khoảng cách đáng kể.
Khi động cơ AC của Tesla đã chứng tỏ một cách rõ ràng
tính hiệu quả, những người bảo trợ của ông đã bắt đầu nghĩ đến việc
quảng cáo nó để thu lợi. Peck và Brown đã lập kế hoạch bán đấu giá các
phát minh của Tesla, chứ không phải đưa chúng vào quy trình sản xuất.
Cuối cùng, họ đã sắp đặt để Tesla làm công việc giảng dạy trước khi Viện
Kỹ thuật Điện Mỹ ra đời vào năm 1888. Những bài giảng của Tesla được
đăng trên tạp chí đã sớm thu hút được sự quan tâm của George
Westinghouse, một người đã thành danh trong việc chế tạo các hệ thống
phanh khí và hệ thống tín hiệu cho đường ray xe lửa.
(Ảnh: Geocities)
Vào thời điểm đó, các công ty sản xuất đèn điện đã tính đến việc chuyển
từ DC sang AC, vì AC có thể được truyền qua các khoảng cách xa hơn, đến
được với nhiều khách hàng hơn. Trong khi Edison vẫn tập trung vào các kỹ
thuật DC, thì Westinghouse lại quyết định đánh cuộc với AC. Chính vì
vậy, Peck và Brown đã có thể thuyết phục ông trả một số tiền hậu hĩnh
cho các phát minh của Tesla. Vào tháng 7/1888, Westinghouse đã trả trước
75.000 đô la và tiền bản quyền 2,5 đô la cho mỗi sức ngựa mà mỗi động
cơ được sản xuất. Tesla đã hào phóng chia cho hai người bảo trợ của mình
năm phần chín số tiền thu được.
Westinghouse hy vọng các động cơ của Tesla có thể
được sử dụng để chạy các xe điện trên phố, vì vậy Tesla đã tới
Pittsburgh để cải tiến thiết kế của ông cho phù hợp với ứng dụng này.
Tuy nhiên, nhà phát minh và các kỹ sư của Westinghouse đã gặp lúng túng
trước những khó khăn kỹ thuật. Vì động cơ của Tesla đòi hỏi hai dòng
xoay chiều và bốn đầu dây, nó không thể được mắc vào hệ AC đơn pha đã
có, vì vậy người ta cần phải lắp đặt thêm các dây bổ sung. Mặc dù Tesla
cũng đã phát triển một số động cơ hai dây, cái gọi là những thiết kế
chia pha hoạt động tốt nhất ở những tần số 50Hz hoặc thấp hơn, nhưng vào
thời điểm đó, hệ thống đơn pha của Westinghouse lại sử dụng dòng 133Hz
để sao cho khách hàng không thể nhìn thấy các bóng đèn nóng sáng bị nhấp
nháy.
Các kỹ sư của Westinghouse cuối cùng đã giải quyết
được vấn đề bằng việc điều chỉnh động cơ của Tesla và phát triển một hệ
AC mới sử dụng dòng ba pha 60Hz. Westinghouse đã trình diễn một cách
ngoạn mục kỹ thuật mới này khi xây dựng một trạm thủy điện ở thác
Niagara, công trình này đã truyền điện năng qua một khoảng cách 25 dặm
tới những nhà máy ở Buffalo. Ngày nay, động cơ của Tesla và hệ AC đa pha
đã trở thành nền tảng cho hệ thống cung cấp điện năng ở Bắc Mỹ.
Sự cộng hưởng điện
Từ lâu trước khi trạm Niagara đi vào hoạt động, Tesla
đã cảm thấy nóng ruột và rời bỏ Westinghouse. Sử dụng số tiền bản quyền
của mình, năm 1889 Tesla đã thiết lập một phòng thí nghiệm mới ở thành
phố New York. Để thu hút sự quan tâm của công chúng, ông đã tự tạo cho
mình hình ảnh về một nhà phát minh lập dị. Cũng như sự hiếu kỳ đối với
những phát minh của Edison ở Menlo Park trong những năm 1870, thì trong
những năm 1890, người ta cũng đổ xô đến phòng thí nghiệm của Tesla để
xem các phát minh kỳ lạ của ông.
Trong khi tìm cách để tạo ra ánh sáng hồ
quang bằng việc sử dụng hệ AC, Tesla đã tìm ra những hiện tượng mới rất
cơ bản, liên quan đến các hiện tượng điện tần số cao. Ông đã
băn khoăn, tự đặt ra câu hỏi rằng nếu có thể tạo ra những động cơ bằng
dòng AC 60Hz thì có thể chế tạo được cái gì với một dòng điện có tần số
10.000Hz? Trước đây, Tesla đã nối các cuộn cảm từ, điện trở và tụ điện
lại với nhau để tạo thành các động cơ chia pha của ông, còn bây giờ ông
lại nối cuộn cảm với tụ điện theo một cấu hình mới để tạo ra những dòng
tần số cao.
Nhà phát minh đã theo đuổi hướng nghiên cứu này trong
suốt 15 năm tiếp theo. Tesla đã nhận ra rằng, một mạch được cấu hình
thích hợp có thể khuếch đại các tín hiệu điện, nâng cao tần số và hiệu
điện thế của chúng. Từ đó, ông đã chế tạo những "máy phát khuếch đại khổng lồ"
- ngày nay được gọi là các cuộn dây Tesla, những thiết bị này có thể
sinh ra những tia lửa điện dài hơn 40m. Tesla còn nhận ra một điều rất
quan trọng là, hiện tượng cộng hưởng có thể được ứng dụng để dò các tín
hiệu vô tuyến. Một máy phát với một tụ điện và cuộn cảm nhất định có thể
sinh ra tín hiệu ở một tần số nhất định. Tương tự như thế, nếu ở máy
thu cũng có tụ điện và cuộn cảm như ở máy phát thì nó cũng sẽ phản ứng
mạnh nhất đối với tần số của tín hiệu máy phát.
Từ
ý tưởng cơ bản về hiện tượng cộng hưởng điện, Tesla đã đồng thời theo
đuổi những phát minh trong lĩnh vực chiếu sáng, truyền tín hiệu không
dây và phân phối điện năng không dây. Với hy vọng phát triển một loại
bóng đèn hiệu suất cao để thay thế bóng đèn nóng sáng của Edison, Tesla
đã không chỉ sáng tạo nên những bóng đèn huỳnh quang mà còn khám phá ra
rằng có thể sử dụng một ống chân không để phát hiện các sóng vô tuyến.
Mặc dù nhà phát minh thiên tài đã không tiếp tục theo đuổi khám phá này,
nhưng J. A. Fleming và Lee De Forest đã tiếp bước ông để chế tạo ra
những bóng đèn điện tử dùng trong kỹ thuật vô tuyến.
Với những mạch điện hoàn chỉnh để thu và phát các
sóng vô tuyến, Tesla đã thử nghiệm chúng với các ăng-ten được treo vào
những quả bóng lơ lửng trên nóc phòng thí nghiệm và trên nóc khách sạn ở
Manhattan của ông. Nhưng thật bất hạnh, ngay khi bắt đầu có được những
kết quả đầy hứa hẹn thì phòng thí nghiệm của Tesla bị cháy tan tành vào
tháng 3/1895, toàn bộ những hệ thống thiết bị nghiên cứu và kết quả ghi
chép đều mất sạch.
Hệ thống phát năng lượng toàn cầu
Mùa xuân năm 1899, Tesla đã đóng cửa phòng thí nghiệm
xây lại của ông ở New York và lập nên một trung tâm nghiên cứu ở vùng
núi Pikes Peak, thuộc Colorado. Tại đó, nhà phát minh đã tập trung giải
quyết một vấn đề mà ông tin rằng nó sẽ trở thành ứng dụng quan trọng
nhất của sóng điện từ: sự truyền năng lượng không cần dây dẫn đến khắp
nơi trên thế giới. Vào thời đó, nhu cầu về điện ở Mỹ dường như không thể
được thỏa mãn, mặc dù khắp nơi đã chằng chịt các đường dây. Chính vì
vậy, nhà phát minh đã mơ về một mạng lưới viễn thông có thể vừa truyền điện năng vừa truyền thông tin mà không cần dây dẫn.
Giấc mơ mới mẻ đó của Tesla đã được dựa trên cơ sở về
hiện tượng cộng hưởng điện. Giống như những nhà nghiên cứu vô tuyến đi
trước, ông cũng đã nhìn nhận mối quan hệ giữa máy phát và máy thu như
hai yếu tố duy nhất của một hệ khép kín. Đầu tiên, máy phát gửi sóng vô
tuyến đến qua không khí đến máy thu. Sau đó, vì cả hai thiết bị đều được
đặt trên mặt đất nên một dòng phản hồi sẽ đi từ máy thu qua mặt đất đến
máy phát. Không giống như nhiều người chỉ chú trọng vào việc phát sóng
vô tuyến qua khí quyển, Tesla lại quyết định tập trung vào những dòng
điện trong lòng đất. Ông đã suy nghĩ rằng, tại sao lại không thể có một máy phát gửi các sóng qua lòng đất đến máy thu rồi sau đó phản hồi lại qua khí quyển?
Tesla đã tưởng tượng ra rằng có thể xây dựng một trạm
phát để truyền năng lượng điện từ vào vỏ trái đất cho đến khi đạt tới
tần số cộng hưởng điện của hành tinh. Khi đó toàn Trái đất sẽ phát ra
các xung năng lượng, và chúng có thể được thu nhận bởi các trạm thu trên
khắp thế giới. Tesla đã thiết lập một số máy phát lớn ở thành phố
Colorado Springs để thử nghiệm lý thuyết này và ông rất tự tin rằng
chúng đã thành công trong việc phát năng lượng khắp thế giới. (Tesla
thậm chí còn tin rằng, các tín hiệu của ông đã đến được sao Hỏa và ông
đã nhận được một thông điệp phản hồi từ những người sao Hỏa!).
Rất mãn nguyện với niềm tin rằng, năng lượng có thể
được truyền qua lòng đất đến khắp nơi trên hành tinh, Tesla trở về New
York vào năm 1900. Sau đó, Tesla đã viết một bài dài 60 trang cho tạp
chí Thế kỷ với tiêu đề "Vấn đề tăng cường nguồn năng lượng của loài người".
Và những nỗ lực của ông đã được đền đáp vào năm 1901, trùm tư bản J.
Pierpont Morgan đã đầu tư 150.000 đô la cho đề án truyền năng lượng
không dây của Tesla. Nhà phát minh đã nhanh chóng tận dụng số tiền này,
không tiếc chi phí để trang bị cho một phòng thí nghiệm mới ở
Wardenclyffe, bờ bắc của Long Island. Mặc dù Morgan đã từ chối cung cấp
thêm tiền và Tesla cũng đã không thu được những kết quả kỹ thuật mong
muốn song nhà phát minh vẫn xây dựng một tháp ăng-ten cao 57m ở
Wardenclyffe. Thậm chí những mối quan hệ với nhiều nhà tài trợ ở New
York cũng đã không thể giúp Tesla đảm bảo được các chi phí tài chính để
hoàn thành đề án của mình, ông nhanh chóng bị rơi vào tình trạng suy sụp
tinh thần.
Những năm cuối đời và di sản để lại
Tesla trong văn phòng của ông ở New York năm 1916 (Ảnh: cache.eb.com)
Tesla đã hy vọng có được tiền để tiếp tục công việc ở
Wardenclyffe bằng việc chuyển những nỗ lực sáng tạo của ông từ kỹ thuật
điện sang kỹ thuật cơ khí. Nhận thức được rằng, các động cơ piston hơi
nước của những nhà máy điện đang được thay thế bởi những tua-bin hơi
nước có hiệu suất cao hơn, ông đã bắt đầu nghiên cứu một mô hình thiết
kế tua-bin hoàn toàn không có cánh quạt. Cũng giống như những phát minh
khác của ông, tua-bin không có cánh quạt được dựa trên một ý tưởng lớn.
Vì từ trường quay có thể làm quay rotor của động cơ AC nên Tesla đã nghĩ
rằng có thể dùng lực nhớt của hơi nước để tác động lên những đĩa mỏng
đặt gần nhau được gắn chặt vào một cán tua-bin. Thiết kế tua-bin của
Tesla đã hoạt động ở tốc độ vượt quá 10.000 vòng mỗi phút nhưng thật
không may tốc độ đó quá nhanh và vượt quá sức chịu đựng của tất cả các
đĩa thép mỏng.
Mặc dù Tesla đã không thể thuyết phục bất cứ ai đưa
vào sản xuất mẫu tua-bin của mình nhưng ông cũng đã có được bằng phát
minh về một loại đồng hồ đo tốc độ tự động dựa trên cùng một nguyên lý
giống với chiếc tua-bin. Trong suốt hai chục năm sau đó, Tesla đã sống
bằng tiền bản quyền cho phát minh về chiếc đồng hồ đo tốc độ của ông.
Ông cũng đã viết báo cho các tạp chí phổ biến khoa học, trong đó ông
thường nhắc đến tương lai của điện và vô tuyến. Tuy nhiên, càng ngày ông
càng cảm thấy buồn rầu và chán nản. Cuối cùng ông trở thành một người
ẩn dật, lang thang hết khách sạn này đến khách sạn khác.
Năm 1931, để kỷ niệm ngày sinh lần thứ 75 của Tesla,
tạp chí Time đã đăng trên trang nhất một câu chuyện kể về nhà phát minh
đánh tín hiệu lên các ngôi sao với chiếc "máy Tesla" của ông -
đó là một máy phát vô tuyến khổng lồ. Rất hứng thú với việc kỷ niệm này,
Tesla đã quyết định tổ chức những cuộc họp báo hàng năm vào ngày sinh
nhật ông. Trong những buổi họp này, Tesla đã liên tục cảnh báo về những
mối nguy hiểm của cuộc chiến tranh toàn cầu và cho rằng thảm họa đó có
thể tránh được bằng việc phát triển một loại siêu vũ khí có khả năng duy
trì sự cân bằng của các lực lượng. Ông tuyên bố rằng, nó chính là một
loại súng phát ra chùm tia có thể tập trung một lượng lớn năng lượng để
chiếu vào các máy bay, tàu chiến và quân đội. Năm 1937, khi Tesla đang
đi dạo quanh thành phố, ông bị một chiếc taxi đâm phải. Lần này thì nhà
phát minh vĩ đại đã không bao giờ có thể hồi phục được nữa, ông mất vào
ngày 8/1/1943.
Tesla đã để lại một di sản phong phú các phát minh. Ông được biết đến như cha đẻ của động cơ AC và năm 1956, cái tên "tesla"
được đặt cho một đơn vị quốc tế đo mật độ dòng của từ trường. Những
tiên đoán đầy bí ẩn và kỳ lạ của ông đã khiến ông trở thành một vị thánh
đối với những nhóm người đi theo những niềm tin tâm linh không chính
thống. Bị mê mẩn bởi những tuyên bố của Tesla về sự khám phá những bí ẩn
huyền ảo của vũ trụ, những tín đồ này đã cho rằng, các nhân vật quyền
lực như Edison và Morgan đã âm mưu ngăn cản Tesla hoàn thiện các phát
minh và sự nghiệp cách mạng hóa thế giới của ông.
Mặc dù những tuyên bố cường điệu và những đồn đại là
thiếu cơ sở, nhưng Tesla đã thực sự là một con người có những đóng góp
vĩ đại cho khoa học kỹ thuật. Khả năng tập trung vào những nguyên lý cơ
bản là sức mạnh lớn nhất của ông, nhưng nó cũng đồng thời là điểm yếu
lớn nhất của ông. Tesla đã quá say mê với vẻ đẹp của những khái niệm cơ
bản, say mê đến mức ông đã không thể ngừng được việc theo đuổi đến từng
chi tiết để hoàn thiện những phát minh của mình.
Trung Dũng biên dịch (W. Bernard Carlson)
Cập nhật: 20/06/2007Theo Tạp chí Tia sáng
Tại sao nhà phát minh thiên tài Tesla bị lãng quên?
LĐCTUyên Minh
Rất nhiều người không biết Nikola Tesla là ai, dù trên thực tế, phát
minh ra mô-tơ truyền dẫn nguồn điện xoay chiều (AC) của Tesla là một dấu
mốc quan trọng đối với sự phát triển các hệ thống điện hiện đại.
Nhà văn Mark Twain, người về sau trở
thành bạn của Tesla, đã nhận xét rằng công trình nói trên là phát minh
giá trị nhất kể từ sau khi điện thoại ra đời. Khi đó, Tesla thuộc về
phía chiếm ưu thế trong “cuộc chiến dòng điện” giữa phe George
Westinghouse và Thomas Edison để quyết định AC hay DC (dòng điện một
chiều) sẽ được sử dụng trong việc truyền dẫn điện. DC, của Edison hoạt
động tốt cho đèn chiếu sáng, nhưng không thể dùng để truyền dẫn điện đi
xa.
Ngược lại, AC được ủng hộ bởi Tập đoàn
Westinghouse. Sức điện động của dòng điện này có thể tăng cao hay hạ
thấp một cách dễ dàng, do đó nó có thể truyền đi những khoảng cách xa ở
mức sức điện động cao, còn sử dụng dòng điện thấp sẽ làm mất ít năng
lượng điện hơn trong quá trình chuyển giao. Rắc rối dành cho việc sử
dụng dòng điện AC là đòi hỏi nhiều mô-tơ. Tuy nhiên, Tesla đã phát minh
ra một động cơ điện cảm ứng và bộ biến áp trung tần gọn nhẹ, giải quyết
rắc rối trên.
Vào thời đó, Edison đã cố công gây dựng
hình ảnh về công nghệ đối thủ của mình là một phát minh nguy hiểm.
Edison tổ chức các cuộc thử nghiệm dòng điện AC trên nhiều loại động
vật, bao gồm cả voi và âm thầm tài trợ cho dự án làm ra chiếc ghế điện
đầu tiên trên thế giới, nhằm chứng tỏ các mối nguy hiểm mà AC mang lại.
Song AC vẫn không bị vứt đi.
Cụ thể, các hệ thống điện năng tầm xa
như tập đoàn điện quốc gia của Anh đã tiến hành truyền tải điện năng tại
mức 400 nghìn volt. Ngày nay, động cơ của Tesla và hệ AC đa pha đã trở
thành nền tảng cho hệ thống cung cấp điện năng ở Bắc Mỹ.
Song từ vài thập kỷ gần đây, tên tuổi
Tesla đã chìm dần vào quên lãng, trong khi Edison được tung hô là một
trong những nhà phát minh vĩ đại nhất thế giới. Lý giải cho hiện tượng
này, nhà khoa học Will Stewart thuộc Viện Kỹ sư và Công nghệ Anh quốc
nhận định: “Là một kỹ sư, bạn phải hiểu đâu là điều thực tế. Cái khó là
liệu có tạo nên sản phẩm từ công nghệ mà bạn nghĩ ra”.
Telsa là một nhà khoa học xuất sắc song
ông lại thường theo đuổi những ý tưởng đôi khi đối với người khác là
điều không thể đạt được, chẳng hạn như thiết bị dẫn năng lượng không
dây. Trong khi đó, những ý tưởng mà Edison đưa ra thời đó có thể biến
thành hiện thực. Khả năng tập trung vào những nguyên lý cơ bản là sức
mạnh lớn nhất của Telsa, nhưng nó cũng đồng thời là điểm yếu lớn nhất
của ông. Vì vậy, Tesla đã quá say mê với vẻ đẹp của những khái niệm cơ
bản, say mê đến mức đã không thể ngừng được việc theo đuổi đến từng chi
tiết để hoàn thiện những phát minh của mình, đến nỗi trở nên quá xa rời
hiện thực.
Có cha mẹ là người Serbia, sinh ra ở nơi
hiện nay thuộc lãnh thổ Croatia, Tesla chuyển tới New York, Mỹ, vào năm
1884 và chế tạo ra các loại phương tiện được điều khiển bằng sóng
radio, năng lượng không dây, và nhà máy thủy điện đầu tiên ở Thác
Niagara. Nhưng ông là người lập dị và có nhiều suy nghĩ kỳ quặc, chẳng
hạn như ông tin rằng việc sống độc thân có tác động tốt lên não; cho
rằng mình đã liên hệ được với người ngoài hành tinh; và yêu một chú chim
bồ câu. Telsa qua đời trong cảnh “không đồng xu dính túi” tại phòng
3327 khách sạn New Yorker, Mỹ vào ngày 7.1.1943.
Hiện nay, vẫn còn đó những người hâm mộ
và các nhà nghiên cứu lịch sử khoa học, luôn cùng nhau gìn giữ những kỷ
niệm về Tesla. Họ đã lên kế hoạch xây dựng một bảo tàng mang tên ông tại
nơi trước đây là phòng nghiên cứu của ông. Cũng có tin đồn là có thể
Hollywood sẽ làm một bộ phim về cuộc đời Tesla, với siêu sao Christian
Bale thủ vai chính và đạo diễn là Mike Newell. Khả năng thiên tài của
Telsa không hề dễ lãng quên.
Thực hư về 10 phát minh huyền thoại của thiên tài Nikola Tesla
Những phát minh đi vào huyền thoại của nhà
phát minh Nikola Tesla dưới đây, sản phẩm nào thực sự là của ông, sản
phẩm nào đã truyền cảm hứng cho những nhà khoa học khác?
Có lẽ không ai còn xa lạ với cái tên
Tesla, một trong những biểu tượng vĩ đại nhất về phát minh và sáng chế.
Thiên tài thế kỷ 21 Elon Musk có đủ lý do để đặt tên hãng xe điện cách
tân Tesla Motors của mình theo ông. Cùng với những thành tựu bất tử của
mình những lời đồn đại về cuộc đời và sự nghiệp Tesla vẫn là đề tài gây
tranh cãi cho đến ngày hôm nay.
Sau đây là một cái nhìn khái quát cùng
với phân tích và đánh giá về một số những phát minh tiêu biểu nhất trong
tổng số hơn 300 bằng sáng chế của ông
1. Cuộn cảm điện truyền tải không dây Tesla Coil
Năm 1891, ở tuổi 35, Nikola Tesla đã
đăng ký bản quyền sáng chế nổi tiếng nhất của mình. Tesla Coil là một
máy biến áp tạo ra từ việc ghép nhiều bản mạch cộng hưởng với nhau. Phát
minh này được chính ông sử dụng vào những nghiên cứu về hiện tượng lân
quang, tia X-quang, công nghệ sử dụng điện để phát sáng và đặc biệt là
khả năng truyền tải điện không dây.
Tuy công nghệ này của Tesla đã giúp nhân
loại hiểu rõ hơn về nguyên lý điện tử và được đưa vào hoạt động thương
mại vào thế hệ đầu của vô tuyến điện, ngày nay những cuộn cảm điện phát
sáng một cách ngoạn mục này chỉ còn có thể được chiêm ngưỡng tại các
triển lãm và bảo tàng khoa học.
2. Bộ truyền khuếch đại
Tesla tại viện nghiên cứu ở Colorado Springs ngồi ngay cạnh thiết bị khuếch đại của mình.
“Tôi tin chắc rằng phát minh này của
tôi, Bộ truyền phóng đại, sẽ là một công nghệ cực kỳ quan trọng và giá
trí đối với những thế hệ trong tương lại”, Nikola Tesla kể về đứa con tinh thần trong cuốn tự truyện của mình.
Vốn đầu tư 100.000 USD của nghiên cứu
này ban đầu được chi trả cho ông nhằm phát triển một hệ thống thắp sáng
mới bởi John Jacob Astor, người hỗ trợ vốn giàu có và hào phóng nhất của
Tesla. Vì sự thiếu thành thật này, quan hệ của 2 ông đã gặp trục trặc.
Đến tận năm 1908, Astor mới lại chung sức với Tesla để phát triển công
nghệ động cơ và máy bay. Không may chỉ vài năm sau, John Astor đã mất
mạng trên con tàu Titanic nổi tiếng sau khi giúp vợ mình lên chiếc
thuyền cấp cứu không khác gì cặp Leonardo DiCaprio và Kate Winslet trong
bộ phim “Titanic” cùng tên.
Với tiền đầu tư này, Tesla đã bất chấp
thỏa thuận và xây dựng thiết bị khuếch đại có đường kính 15 mét, có khả
năng sản xuất lượng điện cực kỳ lớn (đến 4 triệu vôn) và những tia điện
dài đến 40 mét. Tại viện nghiên cứu, ông cũng đồng thời thành công
truyền tải điện năng mà không cần sử dụng đến dây cáp. Đây là bước tiến
lớn trong công cuộc “điện không dây” của ông.
3. "Điện không dây toàn cầu"
Tháp Wardenclyffe cùng với viện nghiên cứu của Tesla năm 1902.
Phấn khích trước những thành công trong
những thí nghiệm với bộ truyền khuếch đại, Tesla đã trở về New York vào
những năm cuối của thế kỷ 19, ông đã thuyết phục được JP Morgan hỗ trợ
tài chính cho dự án xây dựng trạm viễn thông không dây Wardenclyffe
Tower nhằm thắng địch thủ Guglielmo Marconi trong “cuộc đua” truyền phát thông tin qua Đại Tây Dương.
Marconi đã sử dụng công nghệ vô tuyến để
đạt mục tiêu này. Khác Marconi, Tesla đã quyết định sử dụng một công
nghệ hoàn toàn mới để chinh phục hoàn toàn đối thủ của mình. Tham vọng
của ông không dừng lại ở đó, trong qua trình nghiên cứu, Tesla đã cải
tiến thiết kế ban đầu cùa mình để thiết bị của ông ngoài thông tin ra có
thể đồng thời truyền tải cả điện năng trên một khoảng cách xa mà không
sử dụng đến dây cáp. Nhưng nhà đầu tư đã ngần ngại trong việc cung cấp
thêm năng lực tài chính cho dự án. Wardenclyffe Tower dừng triển khai và
chưa từng đi vào thí nghiệm thực tế.
Trong nhiều năm sau đó, Tesla không
ngừng đánh giá thấp công nghệ sóng vô tuyến khi so sánh với phát minh
của mình. Mục tiêu của ông là xây 30 trạm phát điện không dây sử dụng
chính trái đất và khí quyển để truyền tải điện qua một dạng sóng cố định
ông phát minh ra. Tuy tự tin như vậy, trong nhiều thập kỷ, Tesla chưa
từng thực nghiệm thành công công nghệ này trên một khoảng cách nhiều hơn
vài mét.
4. “Tua bin không cánh” và “Cỗ máy động đất”
Vào dịp sinh nhật lần thứ 50 của mình, Tesla đã trình diện “tua bin không cánh”.
Tua bin này được thiết kế để cạnh tranh với hiệu năng hoạt động của
động cơ pít tông. Năm 1913 ông đã đăng ký bản quyền phát mình của mình
và có ý định sự dụng nó trong ngành công nghiệp năng lượng nhiệt địa tuy
công nghệ này của ông chưa từng đi vào giai đoạn phát triển thương mại.
Vài năm trước đấy, Tesla đã dăng ký sáng
chế một máy phát điện mới, ông đặt tên thiết bị này là máy dao động
Tesla. Mục đích ông dành cho máy phát điện mới này là để thay thế những
động cơ hơi nước thiếu hiệu quả thời bấy giờ. Nhưng không may những tua
bin hơi nước hiện đại đã cải tiến vượt trội, chạy với hiệu quả cao hơn
máy dao động Tesla.
Tesla cho rằng trong một lần nghiên cứu
với một phiên bản nhỏ của cỗ máy, hàng xóm ông đã phải gọi cảnh sát vì
tần số dao động của cỗ máy đã đạt cung tần số cộng hưởng tường nhà làm
cho cả tòa nhà rung lên như có động đất.
Vào sinh nhật lần thứ 79 của mình, Tesla
đã khẳng định khả năng lật đổ tòa nhà Empire State và tách vỏ trái đất
ra làm hai với công nghệ của mình. Và từ đó cỗ máy con được biết đến với
cái tên “Cỗ máy động đất Tesla”. Tuy vậy sau này, thí nghiệm tương tự được thực hiện bởi nhóm khoa học truyền hình nổi tiếng “Mythbusters” đã không đem lại kết quả như hứa hẹn.
5. Dạy học bằng cách nhiễm sóng điện vào học sinh
Tự tin với những lợi thế của điện xoay
chiều, Tesla đã tự phát triển một công nghệ cải thiện trí não của riêng
mình, ông lý luận rằng sự ảnh hưởng của điện năng vào não sẽ kích thích
trí tuệ tăng trưởng “không khác gì khả năng kích thích tăng trưởng ở cây cỏ”.
Năm 1912, tạp chí Popular Electricity đã xuất bản kế hoạch tích hợp
tiết mục mát xa phân tử bằng dòng điện tần số cao để cải thiện khả năng
học của học sinh và thậm chí “những học sinh tối dạ cũng có thể trở nên sáng dạ khi ta phát những tần số sóng điện cao với lượng cực kỳ nhỏ này”, Tesla hứa hẹn.
Dự án của ông nhằm cải thiện giáo dục và
sức khỏe học sinh bao gồm việc lắp ráp những dây điện trong tường và
không cho học sinh biết. Quản lý nhà trường hồi ấy, William H. Maxwell,
đã thông qua dự án của Tesla, dù vậy thí nghiệm đã không được thực hiện.
6. Đèn Neon
Đèn không dây của Tesla sử dụng khí trơ phát sáng dưới tác động của điện.
Một phát minh khác đươc nhiều người hiều
lầm thuộc về Tesla là đèn Neon. Năm 1983, Tesla đã trình diễn những
bóng đèn sử dụng khí trơ tại cả Châu Âu và Hoa Kỳ. Tuy vậy cho đến năm
1898 khí neon mới được phát minh ra, còn cây đèn neon đầu tiên được được
chế tạo ra vào tận những năm 1910.
Tesla là ông tổ của những cây đèn khí
trơ và cũng là một trong những người sử dụng đèn để làm ra biển hiệu đầu
tiên bằng cách bẻ cong những ống chứa khi trơ và phát điện chúng. Tuy
vậy ông chắc chắn không phải là người phát minh ra đèn Neon hoặc thương
mại hóa thành công loại đèn này.
7. Tia X-quang
Bức ảnh chụp bởi Tesla vào năm 1896. Khi đó ảnh X-quang được ông gọi với cái tên "Biểu đồ bóng đen".
Khi thí nghiệm với những ống phát điện vào năm 1894, Tesla đã nhận thấy những “bức xạ tàng hình”
trên một trong những tấm ảnh chụp gần đấy. Ông tiếp tục ghi chép và
nghiên cứu về hiện tượng lạ này cho đến một ngày không may, tất cả những
thiết bị nghiên cứu của ông cùng với những ghi chép cần mẫn đã hóa
thành tro trong một vụ hỏa hoạn tại viện nghiên cứu vào tháng 3 năm
1895. Cùng năm sau đó, Wilhelm Rontgen người đức, đã thông báo phát hiện
ra tia X quang, hay còn được gọi là tia Rontgen, khi làm việc với ống
Crooke tương tự những ống được sử dụng bởi Tesla.
Với phát minh của Rontgen, Tesla đã dễ
dàng xây dựng hệ thống X-quang của riêng mình. Ông đã sử dụng công nghệ
Tesla Coil nổi tiếng của mình để truyền điện năng công suất lớn tạo ra
thêm tia bức xạ làm cho ảnh của ông rõ nét hơn. Những bức ảnh X-quang
đầu tiên của cơ thể người đã được chụp bởi Tesla. Chính Rontgen đã phải
công nhận chất lượng và mức độ chi tiết của những bức hình Tesla chụp
được.
Tesla tuy không bao giờ hé lời về phát
minh của Rontgen, chắc chắn nếu tai nạn hỏa hoạn năm xưa không xảy ra,
Tesla chứ không phải Rontgen mới là người được trao giải Nobel năm 1901
cho thành tựu này. Sự thật, Tesla đã là người đã có những đóng góp tiên
phong về sự phát triển của công nghệ X-quang.
8. Mô-tơ cảm ứng
Tháng 5 năm 1888 Nikola Tesla đã xuất
bản báo cáo khoa học miêu tả quá trình của một trong những thành tựu
khoa học lớn nhất của ông: mô-tơ điện cảm ứng xoay chiểu. Với những lợi
thế đáng kể trước công nghệ trước đó là mô-tơ điện một chiều, cách hoạt
động của thiết bịa này phụ thuộc vào sự tạo cơ năng trong động cơ bằng
cách xoay chuyển trường điện từ đa pha.
Hai tháng trước đó Galileo Ferraris
người Ý đã trình diện thiết kế mô-tơ của riêng mình một cách độc lập.
Nhà sản xuất đã lựa chọn bản quyền của Tesla vì tính mở rộng của nó.
Thiết kế mô-tơ này của Tesla chính là công nghệ được sử dụng trong “cuộc chiến dòng điện” với nhà phát minh nổi tiếng không kém Thomas Edison.
Tuy được cho là người phát minh mô-tơ
dòng điện cảm ứng, thực sự danh hiệu này thuộc về cả ông lẫn Ferraris.
Việc này rất phổ biến trong giới phát minh. Những phát hiện đồng thời
khác kể đến: Thuyết tiến hóa, bảng hóa học, chiếc điện thoại đầu tiên
v.v.. Tất cả những phát minh này đều được sáng tạo ra sau những quá
trình nghiên cứu lâu dài trước đấy và đã được tiếp nối và phát triển bởi
nhiều nhà nghiên cứu khác nháu.
9. Radio
Guglielmo Marconi bên chiếc Radio của mình.
“Tesla là người thực sự đã phát minh ra chiếc radio đầu tiên”
là một quan niệm phổ biến. Tuy vậy, liên lạc radio là một trong những
công sức tập thể như câu chuyện về mô-tơ điện ở trên. Từ những khám phá
về quan hệ giữa điện năng và từ tính bởi Ampere, Henry và Faraway, cho
đến những nhà nghiên cứu đã thống nhất hai hiện tượng này với thuyết
điện từ của Maxwell hoặc những nhà vật lý đã thành công truyền tải sóng
điện từ đầu tiên như Hertz (năm 1887).
Thành tựu này đã dựa vào sóng radio (hay
còn gọi là sóng Hertz) mà kỹ sư tài giỏi Guglielmo Marconi đã thành
công truyền tín hiệu trên khoảng cách xa đến hàng km. Tesla khi ấy cạnh
tranh với đồng nghiệp của mình đã tìm đến một công nghệ mới một phần vì
còn nghi ngờ sự tồn tại của sóng radio một phần vì tin rằng nếu sóng
radio có tồn tại, sóng chỉ có thể truyền tín hiệu trên một đường thằng
và như vậy không đủ để di chuyển một khoảng cách xa đến vậy.
Tesla hoàn toàn không phải là người đã
phát minh ra chiếc radio đầu tiên, tuy Marconi đã sử dụng vài bộ phận
thuộc sáng chế của Tesla để chế tạo thiết bị sóng radio của mình.
10. Điều khiển từ xa
Ảnh minh họa buổi trình diễn công nghệ của Tesla (trái) và thiết bị thuyền điều khiển từ xa (phải).
Những phát minh của Tesla đã làm cho việc sử dụng điện một cách phổ cập tại các gia đình thành hiện thực. Nhưng "mơ ước không dây” của ông khi đó vẫn còn bỏ ngỏ.
Dù tài giỏi Tesla đã không có nhiều đóng
góp về công nghệ không dây hiện đại. Lý do chính của việc này có lẽ là
vì sự bảo thủ không chịu chấp nhận những nguyên lý mới về sự truyền điện
trong không khí. Tuy vậy Tesla đã thiết kế một thiết bị gây nhiều tò
mò: chiếc thuyền điều khiển từ xa bằng sóng radio. Ông đã trình diễn khả
năng điều khiển một chiếc thuyền nhỏ tại một hội chợ điện tử. Trong sự
ngưỡng mộ của người dân xung quanh với những phỏng đoán về khả năng phù
phép của ông cho đến những nghi ngờ về tính trung thực của cuộc trình
diễn, thiết bị của ông đã tiên phong cho những thiết bị như điều khiển
TV hay gần đây hơn là công nghệ Drone.
Dù lịch sử cuộc đời Tesla còn nhiều uẩn
khúc, với những thành tựu sáng chế cũng như đóng góp của ông cho trí tuệ
nhân loại, sự ngưỡng mộ của mọi người dành cho ông sau tận một thế kỷ
là hoàn toàn xứng đáng.
Tham khảo Ventana al Conocimiento
Mối bất hòa giữa 2 thiên tài Tesla và Edison có thật hay chỉ là hư cấu?
Từ trước đến giờ, Thomas Edison không chỉ
được chúng ta biết đến như một nhà phát minh lỗi lạc, mà còn là một "kẻ
phản diện" đứng đằng sau những câu chuyện về cuộc đời của Nikola Tesla.
Nhưng liệu điều đó có đúng là sự thật, hay đây chỉ là điều mà các nhà
văn cường điệu hóa lên để tăng phần hấp dẫn cho những câu chuyện về nhà
khoa học lỗi lạc này?
Hình tượng một nhà "bác học điên", một
thiên tài lập dị, đã từ rất lâu không còn là của riêng Albert Einstein.
Trong suốt hơn hai thập kỷ vừa qua, những chú ý của công chúng đối với
Nikola Tesla (1856-1943) đã thêu dệt nên rất nhiều câu chuyện về cuộc
đời nhà bác học vĩ đại này. Trong các bộ phim, câu chuyện về cuộc đời
Tesla, ông được coi như một người hùng vô danh với những thành tựu không
được nhân loại ghi nhận hết. Đóng vai phản diện trong những câu chuyện
này là Thomas Edison, kẻ luôn muốn tìm mọi cách để cản trở Tesla thăng
tiến, cũng như cố gắng "cướp công" của ông mỗi khi có thể.
Tuy nhiên, những tài liệu thực tế ghi
chép về Tesla lại có rất nhiều điểm khác biệt. Thành tựu mà Nikola Tesla
đạt được luôn được ghi nhận đầy đủ, thậm chí ông là người rất được tôn
trọng trong những năm tháng còn ngồi trên ghế nhà trường. Năm 1896, Bá
tước Kevin đã tuyên bố rằng: "Những cống hiến của Nikola Tesla đối với
khoa học điện vĩ đại đến mức từ trước đến nay chưa ai có thể sánh bằng".
Và, một trong những giải thưởng danh giá nhất được trao cho Tesla chính
là Huân chương Edison, thứ mà Thomas Edison nếu muốn có thể dễ dàng can
thiệp và cản trở, do rất nhiều người trong hội đồng trao giải là bạn
tốt của ông.
Ngày 18 tháng 5 năm 1917, Học viện Kĩ sư
Điện Mỹ (nay được biết đến với cái tên IEEE) trao cho Nikola Tesla huân
chương Edison. Hôm đó cũng là tròn 29 năm ngày Tesla được cấp bằng sáng
chế cho phát minh vĩ đại nhất của mình: Động cơ điện sử dụng hệ thống
điện nhiều pha.
Nikola Tesla vào năm 1896
Trước đó, tính đến ngày mùng 1 tháng 5
năm 1888, Tesla đã nhận được rất nhiều giải thưởng liên quan đến các
bằng sáng chế trong lĩnh vực động cơ điện, cũng như hệ thống điện nhiều
pha. Những phát minh của Tesla sau đó được Westinghouse Electrics đưa
vào sử dụng, do Edison từ chối cộng tác với ông. Và chính nhờ hệ thống
điện xoay chiều mà Westinghouse đã chiến thắng trong "cuộc chiến dòng
điện", trước đối thủ là Edison và General Electrics.
Đó là một cuộc chiến khó khăn cả về công
nghệ, quảng cáo cũng như pháp lý, khi mà Edison đánh trực tiếp vào tâm
lý sợ hãi bị điện giật của mọi người. Thậm chí, Edison còn tiến hành
giật điện các loài động vật trước đám đông để chứng tỏ sự nguy hiểm của
dòng điện xoay chiều. Vào lúc đó, Thomas Edison coi Tesla như "nhà thơ
trong giới khoa học", với những ý tưởng vĩ đại nhưng hoàn toàn chỉ là
chuyện viển vông.
Sự kính trọng của Tesla
Đến năm 1917, tất cả những bất đồng
trước đây giữa Tesla và Edison gần như bị xóa bỏ. Huân chương Edison ghi
nhận đóng góp vĩ đại của Tesla, khi những phát minh của ông được sử
dụng để thắp sáng các thành phố, cũng như trở thành phương tiện biến
điện năng thành cơ năng. Trong bài diễn văn vào đêm nhận huân chương,
Bernard A. Behrend có nói thêm: "Nếu như chúng ta loại bỏ đi những
đóng góp của ngài Tesla, thì bánh xe công nghiệp sẽ ngừng quay, xe cộ sẽ
ngừng chạy, và những thị trấn sẽ mãi chìm trong bóng tối".
Tesla trong nhà máy của mình tại Colorado Springs
Nikola Tesla hôm đó cũng bày tỏ lòng
biết ơn của mình đối với giải thưởng, và dành nhiều lời để nói về
Edison, khen ngợi quan điểm thực tiễn của ông: "Khi mới bắt đầu đặt
chân lên đất Mỹ, tôi đã được gặp Edison, và những gì tôi thấy được đều
rất vĩ đại. Tôi nhìn thấy ở ông ấy một con người phi thường, dù không
được đào tạo bài bản nhưng lại có thể tự làm được nhiều thứ. Khi đó, tôi
cảm thấy rất xấu hổ bởi đã lãng phí rất nhiều thời gian - như các vị
biết đấy, sau đó tôi đã học thêm cả tá ngoại ngữ và chìm đắm trong văn
chương trong suốt một thời gian dài, đọc ngấu nghiến những cuốn sách mà
mình kiếm được". - Tesla đã hồi tưởng về năm đầu tiên của mình ở nước Mỹ, khi còn đang làm thuê cho Edison như vậy.
Tuy nhiên, Tesla cũng nhấn mạnh rằng sự kiên trì và chịu khó là những điểm duy nhất mà ông có chung với Edison: "Tôi
không cần đến các mẫu vật, bản vẽ hay thí nghiệm, tôi có thể tự thực
hiện tất cả những thứ đó trong đầu. Cách thức mà tôi tạo ra những ý
tưởng, những phát minh mới, hoàn toàn đối lập với phương pháp lặp đi lặp
lại các thí nghiệm một cách liên tục, không ngừng nghỉ của Thomas
Edison."
Đến những lời chê trách
Năm 1931, Thomas Edison qua đời. Ngay
ngày hôm sau, trên tạp chí New York Times cho đăng tải những lời của
Nikola Tesla như sau: "Nếu phải tìm kiếm cây kim giữa một đống rơm,
thay vì dừng lại suy nghĩ xem mình cần phải lục lọi ở đâu, Edison sẽ
chăm chăm nhặt từng cọng rơm một như một con ong cần mẫn. Xét toàn thể
thì cách thức mà ông ấy làm việc không hề hiệu quả một chút nào. Tôi cảm
thấy thật buồn khi phải chứng kiến điều đó, bởi tôi biết, chỉ cần bỏ
công tính toán một chút thôi, Edison sẽ bớt đi được tới 90% khối lượng
công việc cần làm."
"Vậy mới thấy, những gì mà Edison
đạt được giống như một phép màu vậy. Gần như sẽ không thể tìm được người
nào khác đạt được thành công theo phương pháp của Edison, và ông ta sẽ
mãi mãi là hình tượng có-một-không-hai trong lịch sử." - Tesla bổ sung thêm trong bài báo.
Trên thực tế, Nikola Tesla rất hay đưa
ra những lời chỉ trích đối với các nhân vật nổi tiếng trong giới khoa
học, trong khi bản thân ông thường xuyên được người đời ca tụng. Tạp chỉ
Time đã dành trang nhất của mình cho một bài báo ca ngợi Tesla - lúc
này đã 75 tuổi - trong số bào ngày 20 tháng 7 năm 1931, với lời dẫn: "Cả thế giới là nhà máy điện của Tesla". Bản thân Albert Einstein cũng gửi lời chúc mừng cho Tesla vào ngày sinh nhật lần thứ 75 của ông: "Ông
là người tiên phong, mở ra con đường mới cho vương quốc điện tần số
cao... Tôi gửi lời chúc mừng đến ông, vi những cống hiến vĩ đại của ông
trong cuộc đời nghiên cứu khoa học."
Bức ảnh Tesla trên trang nhất của tạp chí TIME, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75 của ông
Về phía Tesla, ông chưa bao giờ công nhận sự tồn tại của Vật lý Lượng tử cũng như thuyết tương đối: "Thuyết
tương đối của Einstein giống như một bộ quần áo lòe loẹt mê hoặc người
khác, khiến họ bỏ qua hết những lỗi cơ bản trong tư duy. Học thuyết này
không khác gì một gã ăn mày khoác lên mình bộ đồ đắt tiền và tự nhận
mình là vua trước mặt những kẻ dốt nát... Những người nghiên cứu học
thuyết này đều là những người tài năng, nhưng họ giống như kẻ nghiên cứu
học thuyết siêu hình hơn là những nhà khoa học," - Nikola Tesla
thẳng thừng tuyên bố như vậy trên tạp chí New York Times, năm 1935. Ông
cũng phản bác lại khái niệm "Nhị nguyên sóng/hạt", thậm chí còn nói với
báo giới rằng ông sẽ khiến cho dòng diện chạy nhanh hơn cả tốc độ ánh
sáng.
Tesla dành những năm tháng cuối cùng của
cuộc đời mình cho việc nghiên cứu một thứ vũ khí có thể đem tới hòa
bình thế giới, mà theo như ông gọi nó có tên là "Tia chết". Chàng trai
đã từng khiến xã hội New York phải kinh ngạc vào cuối thế kỷ 19, nay trở
thành một ông lão lập dị với điều kiện tài chính eo hẹp, sống cuộc sống
đơn độc. Thú tiêu khiển của ông lúc này là mang thức ăn tới với những
chú bồ câu trên đường phố Big Apple.
Năm 1943, Nikola Tesla qua đời, hưởng
thọ 86 tuổi. Cuốn tự truyện đầu tiên về Tesla được John J. O'Neill - một
nhà báo thân cận với Tesla trong những năm tháng cuối đời - xuất bản
năm 1944, với tiêu đề: "Thiên tài hào phóng: Cuộc đời của Nikola Tesla".
Và cũng chính cuốn sách này xây dựng hình tượng Thomas Edison như một
nhân vật phản diện, bắt đầu từ những bất đồng khi Tesla vẫn còn làm việc
cho Edison. Tesla kể với O'Neill rằng, Edison đã từng hứa sẽ thưởng cho
ông 50.000 USD nếu như ông có thể cải tiến những cỗ máy hoạt động kém
hiệu quả. Và khi thành công, Edison không những không trả tiền, mà thậm
chí còn nhạo báng ông.
Tuy nhiên. với những nhà sử học như Jill
Jones - tác giả cuốn sách "Đế chế ánh sáng", chuyện Edison hứa một
khoản tiền thưởng khổng lồ như vậy cho một nhân viên mới như Tesla là
điều rất khó xảy ra. Nên nhớ, số tiền 50.000 USD tương đương với toàn bộ
số vốn ban đầu của công ty, và bằng tới 53 năm thu nhập của Nikola
Tesla. Nhưng dù sao đi nữa, chính bởi những bất đồng trong quan điểm
cũng như phương pháp làm việc, mà Tesla đã nghỉ việc chỉ sau chưa đầy
một năm, và tự mình lập ra công ty riêng vào năm 1885 để nghiên cứu về
điện xoay chiều.
Và những "dị bản" trên sách vở
Tesla chưa bao giờ quên đi những bất
đồng của mình với Edison. Trong cuốn tự truyện đầu tiên về Tesla,
O'Neill có kể rằng Nikola Tesla vốn không có ý định đi nhận huân chương
Edison, thay vào đó, ông đi cho những chú chim bồ câu ăn. Bernard A.
Behrend tìm thấy Tesla trên phố tối hôm ấy, với "hai chú chim bồ câu
làm vương miện trên đầu, cùng cả tá bồ câu trên cánh tay và vai. Trước
mặt ông là hàng trăm chú chim bồ câu khác, trông giống như một tấm thảm
sống trên mặt đất vậy."
Rồi sau đó, Tesla mới chịu quay lại buổi
lễ trao huân chương, cùng với một bài diễn văn cảm ơn rất dài do chính
ông "tự biên tự diễn". Nhưng phần diễn văn mà Tesla ca tụng Edison thì
tuyệt nhiên không được nhắc đến trong cuốn tự truyện. Mãi sau này, chúng
ta mới biết được rằng thực ra bài diễn văn của Nikola Tesla đã được lưu
trữ, và công bố đầy đủ trong cuốn tạp chí "Electrical Review and Western Electrician".
Do đó, chính cuốn sách "Thiên tài hào
phóng: Cuộc đời của Nikola Tesla" là khởi nguồn của những câu chuyện mà
trong đó, Edison và Tesla là kẻ thù không đội trời chung. Các câu chuyện
về Tesla được các tác giả khác viết sau này đa phần đều lấy cảm hứng từ
cuốn sách của John J. O'Neill, với một gã Edison mưu mô, quỷ quyệt đứng
trong bóng tối. Trên thực tế, điều này làm tăng sức hấp dẫn trong những
câu chuyện về cuộc đời Tesla hơn rất, rất nhiều. Nhưng, sau rất cả
những ghi chép lịch sử về những gì đã thực sự diễn ra, có lẽ chúng ta
không cần đến một nhân vật phản diện để có thể làm nổi bật hơn những
đóng góp vĩ đại của Nikola Tesla đối với nhân loại.
Lạc giữa điệp trùng cao ốc vây Bê tông hừng hực, khói bụi dày Là khoảnh sân con, nhà mái thấp Im lìm nấp dưới một vòm cây Cánh cổng hom hem chốt then cài Bạc màu phế tích, cố đợi ai? Quanh co lối cũ đâu còn nữa Bốn bề trải nhựa, mắt nhòa cay! Chán đời chen lấn, ta về đây Quây rào, níu lại chút trời mây Tưới xanh thương nhớ làng quê cũ Dịu lòng xa xứ, những hồn ai! Bỏ mộng giàu sang buốt chông gai Đong đầy thuần khiết nắng ban mai Tô dáng dòng sông lồng bóng núi Dong buồm, thổi sáo khúc thiên thai Ta kết dàn hoa cho bướm bay Thả lá vàng ra rủ gió say Cổ thụ vặn mình bên bàn đá Đợi chiều xưa vọng bước chân nai Giũ bụi ngàn phương, kể từ nay Ta về nhóm lại ánh trăng gầy Mơ giấc nông nhàn, lòng chợt thức Tiếng gà gáy sáng, rộn vòng xoay!
Giang hồ Tuấn Em bắn chết 2 người không thoát án tử
Tòa
cho rằng Tuấn Em có biểu hiện ăn năn, hối cải nhưng hành vi phạm tội
mang tính chất côn đồ, truy sát nạn nhân đến cùng, gây tử vong cho nhiều
người… nên phải cách ly vĩnh viễn khỏi đời sống xã hội.
Ngày 23/8, TAND cấp cao tại TP HCM xử phúc thẩm đối với Đỗ Thanh Sơn (Tuấn Em, 33 tuổi) và
Nguyễn Văn Chưởng (61 tuổi, cán bộ công an về hưu) trong vụ nổ súng
chết hai người tại quán bia trên đảo Phú Quốc hồi giữa năm 2015.
Phiên xử diễn ra tại TP Rạch Giá, Kiên Giang thu hút hàng trăm người theo dõi. Hàng chục cảnh sát, chó nghiệp vụ được huy động để bảo vệ an ninh. Ông Nguyễn Văn Chưởng (được tại ngoại) cáo bệnh nên không có mặt tại tòa.
Tuấn Em hốc hác so với phiên tòa sơ thẩm 5 tháng trước. Ảnh: Cửu Long
Trong phần thẩm vấn, với bộ dạng gầy gò, hốc hác, Tuấn Em khai có mâu
thuẫn với anh Nguyễn trước khi xảy ra vụ nổ súng tại quán bar ở thị trấn
Dương Đông, Phú Quốc. "Trong lần đến quán bar chơi, bị cáo vô tình soi
đèn laser trúng mặt anh ta", Tuấn Em nói và cho biết sau đó bị Nguyễn
dùng cây đánh 4 cái vào đầu gây chảy máu. "Do có mâu thuẫn nên bị cáo
mang theo súng bên người để phòng thân, sợ gặp lại anh ta chứ không có ý
định giết người", Tuấn Em nói.
Nói lời sau cùng, Tuấn Em xin HĐXX cho con đường sống. "Bị cáo bị nhiễm
HIV, nghiện ma túy nặng, mắt mờ; xin được giảm án để sống những ngày
còn lại trong tù", gã giang hồ đất đảo nói.
Tuy nhiên, sau khi nghị án, HĐXX không chấp nhận "thỉnh cầu" của Tuấn
Em, tuyên y án tử hình. Theo HĐXX, hành vi của bị cáo gây chấn động dư
luận ở Phú Quốc, tính chất và mức độ vi phạm là đặc biệt nghiêm trọng,
cùng lúc phạm phải nhiều tội, cố tình truy sát nạn nhân đến cùng, giết
nhiều người… nên không còn khả năng giáo dục, cần phải cách ly vĩnh viễn
khỏi đời sống xã hội .
HĐXX cũng bác kháng cáo đối với Nguyễn Văn Chưởng, giữ nguyên mức án 18 tháng tù giam, vì không có tình tiết giảm nhẹ mới.
Tháng 3/2016, TAND tỉnh Kiên Giang xử sơ thẩm, tuyên phạt Tuấn Em án tử
hình với 4 tội là Giết người, Giao cấu với trẻ em, Tàng trữ trái phép
chất ma túy và Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Ông Chưởng
bị phạt 18 tháng tù với cáo buộc Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.
Tuấn Em kháng cáo cho rằng TAND tỉnh Kiên Giang áp dụng mức án tử hình
với mình về tội Giết người là quá nghiêm khắc. Anh ta xin tòa phúc thẩm
xử theo hướng giảm nhẹ, cho mình một con đường sống. Tương tự, ông
Chưởng cũng cho rằng mức án của mình là nặng so với các tình tiết giảm
nhẹ có trong hồ sơ vụ án.
Theo cáo trạng, tối 1/8/2015, Tuấn Em lấy khẩu súng rulô nòng dài, rủ
đàn em tên Nguyễn Trọng Nghĩa đến quán Lion Garden Beer Club tìm anh
Nguyễn (19 tuổi) để trả thù. Nghĩa cầm mã tấu, chở Tôn Văn Nhân đi theo.
Vừa gặp Nguyễn trong quán, Tuấn Em chụp cổ áo, chửi. Còn Nghĩa vung mã
tấu chém. Nạn nhân trúng đòn, bỏ chạy ra cửa thì lãnh phát đạn của Tuấn
Em. Cố vùng chạy, Nguyễn bị gã giang hồ đuổi theo bắn thêm phát nữa
nhưng đạn lạc làm chị Trần (32 tuổi, ngụ thị trấn Dương Đông) chết tại
chỗ. Tuấn Em và Nghĩa tiếp tục truy đuổi giết chết nam thanh niên tại
cửa quán rồi nhanh chóng bỏ đi.
Giang, Phúc, Khương, Nhân tìm cách giúp đại ca Tuấn Em cùng người tình
15 tuổi bỏ trốn, sắp xếp nơi ẩn náu tại vùng bìa rừng phía nam đảo Phú
Quốc. Ba ngày sau, phát hiện nơi ở của Tuấn Em, cảnh sát bao vây truy
bắt. Biết khó thoát, Tuấn Em rút súng bắn vào ngực tự sát cùng bạn gái
nhưng cả hai được cứu sống.
Tiếp đó, ông Minh Phụng (đại ca của Tuấn Em) bị bắt khi vừa từ Bình
Dương về nhà ở thị trấn Dương Đông. Khẩu súng và hộp đạn 42 viên Tuấn Em
dùng gây án được xác định do Phụng cung cấp khi "đàn em" cậy nhờ. Đây
là một trong 3 súng ông Chưởng tặng Phụng, sau khi được bán cho miếng
đất ở Phú Quốc với giá rẻ.
Tòa cấp sơ thẩm cũng tuyên phạt Nghĩa 13 năm tù về tội Giết người.
Những người còn lại bị phạt từ 18 tháng đến 2 năm tù về tội Che giấu tội
phạm, Không tố giác tội phạm. Ông Minh Phụng lĩnh 5 năm tù vì tội Tàng
trữ trái phép vũ khí quân dụng và Không tố giác tội phạm.
Cửu Long
Chuyện cô thiếu nữ si tình trùm giang hồ Phú Quốc Tuấn Em
Từng nói dối với cơ quan điều tra về tuổi
thật của mình để giúp người tình thoát tội, K.N. tiếp tục xin tội cho
- trùm giang hồ Phú Quốc Tuấn Em khi ra tòa…
TAND
tỉnh Kiên Giang vừa xét xử vụ án “Giết người” gây chấn động “đảo Ngọc”
Phú Quốc (huyện Phú Quốc), xảy ra vào tháng 8/2015. Trong 8 bị cáo, Đỗ
Thanh Sơn (33 tuổi, còn gọi là Tuấn Em) bị tuyên án cao nhất.
Trong đó, riêng tội “Giết người”, trùm giang hồ Phú Quốc
đã bị tuyên tử hình. Còn tội “Giao cấu với trẻ em”, Tuấn Em lĩnh 5 năm
tù; “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 4 năm tù và 10 năm tù với cáo buộc
“Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”…
Cô bé bị mẹ “bỏ rơi” và vụ án chấn động của người tình
Trong 2 ngày xử án 23 và 24/3, nhiều
người chú ý đến một cô gái 16 tuổi đến tham dự phiên tòa với mẹ. Cô gái
này là Nguyễn Thị K.N. - từ nghi can trở thành nạn nhân của gã giang hồ
Tuấn Em.
N. quê An Giang, cha mẹ chia tay khi
N. còn nhỏ. Sau đó, người mẹ làm nghề bán vé số của em đã đi bước nữa,
không quan tâm, chăm sóc N. Từ đó, cô bé thất học, một mình ra đảo Phú Quốc khi mới 13 tuổi để làm nghề phụ quán cà phê.
Tại “đảo Ngọc”, N. tỏ ra là người
thích ăn chơi, được bạn bè của Tuấn Em gọi với biệt danh Lùn. Trong
những lần Tuấn Em đến quán N. phụ việc để uống nước, cảm kích trước gã
giang hồ có vẻ mặt lãng tử, được nhiều đàn em tôn sùng, cô bé bị mẹ “bỏ
rơi” dần rơi vào vòng tay của gã đàn ông “thần tượng”.
Hai người gặp nhau và hẹn hò ở khách
sạn để quan hệ tình dục nhiều lần. Khi tình cảm của gã giang hồ với
thiếu nữ “chín muồi”, N. không còn phụ quán cà phê mà dọn quần áo về nhà
trọ của Tuấn Em để sống chung.
Tại Phú Quốc, cái tên Tuấn Em được
giới giang hồ biết đến rất nhiều. Tuy mới 33 tuổi nhưng anh này nghiện
ma túy 19 năm. Trên người Tuấn Em có rất nhiều hình xăm và 2 năm nay mọi
người thấy gã giang hồ ngày nào cũng xuất hiện ở các quán bar.
Quê Tuấn Em ở Bà Rịa - Vũng Tàu, theo
mẹ ra “đảo Ngọc” lập nghiệp khi còn nhỏ. Tại Phú Quốc, Tuấn Em có người
anh ruột làm đội trưởng bốc xếp ở cảng Dương Đông.
Gã giang hồ khai, anh ta không nghề
nghiệp nên tiền đi bar là do anh trai cho. Khi nào dành dụm được 5-10
triệu thì anh ta lên TP.HCM mua ma túy đá về sử dụng…
Một trong những lần vào bar, Tuấn Em
dùng đèn laser soi vào mặt Nguyễn Quốc Bảo nên bị thanh niên 19 tuổi này
phản ứng. Hai bên xô xát với nhau, Bảo cùng các bạn đuổi đánh Tuấn Em
bị thương đầu.
Biết con trai đụng phải giang hồ, cha
Bảo tìm cách gặp Tuấn Em để bồi thường tiền điều trị vết thương 10 triệu
đồng. Tuấn Em nhận và đêm 1/8/2015, gã giang hồ gặp lại Bảo trong quán
bar Lion Garden trên đường Trần Hưng Đạo - ngang nhà Bảo - thì xảy ra án
mạng.
Tuấn Em tại tòa
Lúc đó,
Tuấn Em đã lắp 4 viên đạn vào khẩu rulo nòng dài và mang theo người.
Thấy Bảo có mặt tại quán, Tuấn Em kêu đồng bọn Nguyễn Trọng Nghĩa đến.
Do Nghĩa không có xe, Tôn Văn Nhân đã chở Nghĩa đến bar theo yêu cầu của
Tuấn Em.
Tập họp được đồng bọn, Tuấn Em đến bàn
của Bảo, túm áo thanh niên này và nói: “Mày kênh hả mậy?”. Bảo phản ứng
bằng cách rút dao đâm Tuấn Em. Lúc này, Nghĩa cầm mã tấu đã chém Bảo và
sau đó nạn nhân bị Tuấn Em bắn 1 phát trúng người.
Khi Bảo chạy ra đến cổng quán bar,
Tuấn Em bắn theo khiến đạn lạc, trúng đầu chị Thái Thị Thanh Mai. Thiếu
phụ sinh năm 1984 đã chết ngay sau đó vì chấn thương sọ não. Bảo được
người thân đưa đi cấp cứu nhưng không qua khỏi vì mất máu cấp, thủng
tim, phổi, gan và dạ dày…
Quyết sống chết với người tình
Ngày 4.8.2015, Tuấn Em Phú Quốc
bị cảnh sát bao vây trong ngôi nhà vắng chủ gần chợ Suối Lớn, xã Dương
Tơ. Tên này không còn đường thoát nên đã ôm người tình của mình là “đứa
trẻ” Nguyễn Thị K.N., rồi nổ súng vào ngực nhằm tự tử.
Đạn xuyên qua người Tuấn Em và trúng
ngực thiếu nữ khiến 2 người bị thương nặng… Sau khi điều trị vết thương
xong, người tình của Tuấn Em khai cô ta sinh năm 1996 để giúp gã giang
hồ thoát tội “Giao cấu với trẻ em”.
Tuy nhiên, cơ quan điều tra đã làm rõ
được thân phận cô gái, xác định người này sinh năm 2000. Khi ra tòa,
Tuấn Em và N. trình bày thống nhất với nhau là Tuấn Em kêu N ra đầu thú
khi bị bao vây nhưng thiếu nữ không chịu.
Theo N., cô không muốn người tình chết
một mình mà muốn được chết chung với gã. Cô muốn tình yêu mãnh liệt của
mình được nhiều người biết đến!
Khi HĐXX và đại diện VKS hỏi N. có yêu
cầu bồi thường gì hay không vì hiện nay không mang thân phận bị can
đồng lõa mà là nạn nhân “Giao cấu với trẻ em”. Tuy nhiên, N. không yêu
cầu gì ngoài những lời… xin tội cho Tuấn Em.
Cuối ngày xét xử đầu tiên, N. còn nói
dối với HĐXX rằng, cô nghe Tuấn Em nói: “Cháu có nghe anh Sáu Phụng kêu
anh Sơn bắn Bảo, anh Sáu sẽ mua một cái hòm”.
Đại diện VKSND tỉnh Kiên Giang giữ
quyền công tố đã hỏi đi hỏi lại N. là có nghe Sáu Phụng nói thật sự
không, bởi đó là tình tiết mới, tức có người xúi giục Tuấn Em gây án?
Tuy nhiên, đến lúc bị truy vấn gắt gao, N. mới nói: “Cháu không có nghe
nhưng anh Sơn (Tuấn Em) dặn khai như vậy. Không khai vậy cháu sợ… anh
Sơn buồn”.
Đến khi nghe ủy viên công tố đề nghị
HĐXX tuyên Tuấn Em tử hình, N. khóc nức nở. Khi HĐXX nghị án, N. tiếp
tục khóc sau khi nói lời xin tội cho gã giang hồ…
Sự thiếu quan tâm của người mẹ khiến
cô bé trở nên mù quáng, ngây thơ trước gã giang hồ, thể hiện rõ tại
phiên tòa. Bởi khi PV hỏi người mẹ: “Thế những ngày qua N. sống ở đâu?”.
Người mẹ đáp tỉnh rụi: “Tui cũng không biết!”.
Hàng loạt người lĩnh án tù cùng Tuấn Em
Liên quan vụ án, đồng phạm của gã
giang hồ Tuấn Em là Nguyễn Trọng Nghĩa (17 tuổi, ngụ Phú Quốc, Kiên
Giang) lĩnh 13 năm tù vì tội “Giết người”.
Nhóm bạn của Nghĩa bị cáo buộc tội
“Không tố giác tội phạm” và “Che giấu tội phạm” là Phan Thanh Giang (28
tuổi), Tôn Văn Nhân (19 tuổi), Nguyễn Hữu Phúc (20 tuổi), Nguyễn Nhật
Hoàng Khương (25 tuổi) mỗi người bị tuyên từ 18 tháng đến 2 năm tù.
Đối với Ông Minh Phụng (Sáu Phụng),
người đàn ông 42 tuổi này phạm 2 tội “Không tố giác tội phạm” (1 năm tù)
và “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” (4 năm tù). Tổng hợp hình
phạt, Phụng lĩnh 5 năm tù.
Người tặng 3 khẩu súng cho Phụng là
cựu sĩ quan công an 61 tuổi Nguyễn Văn Chưởng, do có nhiều tình tiết
giảm nhẹ nên chỉ nhận 18 tháng tù vì tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân
dụng”.
Về trách nhiệm dân sự, Tuấn Em và
Nghĩa đồng ý bồi thường cho gia đình bị hại Nguyễn Quốc Bảo (SN 1996,
ngụ thị trấn Dương Đông, Phú Quốc) 148,8 triệu đồng tiền mai táng phí.
Trong đó, Tuấn Em 100 triệu, còn lại Nghĩa bồi thường.
Theo HĐXX, cáo trạng của VKSND tỉnh
Kiên Giang truy tố Tuấn Em với 7 người có liên quan là đúng người, đúng
tội. Các bị cáo ra tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi.
Tuấn Em cũng được cho là khai báo tốt,
có tình tiết giảm nhẹ nhưng quá nhiều tình tiết tăng nặng. Đó là thủ
đoạn xảo huyệt, xúi giục người chưa thành niên phạm tội, tái phạm nguy
hiểm, quyết tâm phạm tội đến cùng… nên HĐXX thấy cần thiết phải cách ly
bị cáo này ra khỏi đời sống xã hội vĩnh viễn là phù hợp.
Theo hồ sơ tố tụng, Nguyễn Văn Chưởng
cán bộ hưu trí, từng công tác tại Công an TP.HCM. Ông này đến Phú Quốc
tháng 7.2015, gặp Ông Minh Phụng giới thiệu mua đất với giá rẻ nên cảm
kích và tặng đối tác 3 khẩu súng.
Trong thời gian này, Tuấn Em xảy ra
mâu thuẫn với Nguyễn Quốc Bảo. Gã giang hồ có ý định sát hại đối phương
nên Tuấn Em mua khẩu súng K59 và 7 viên đạn với giá 15 triệu đồng để
giết Bảo nhưng bắn không nổ. Sau đó, Tuấn Em được Phụng tặng khẩu rulo
nòng dài và 42 viên đạn.
Đêm 1/8/2015, Tuấn Em dùng “hàng nóng”
bắn chết Bảo tại quán bar. Một trong 2 phát súng làm đạn lạc, khiến chị
Thái Thị Thanh Mai (SN 1984) chết tại chỗ.
Trên đường bỏ trốn, Tuấn Em báo cho
Phụng và những người bạn của mình biết. Tên này cùng các thanh niên
trong vụ án tìm cách hỗ trợ Tuấn Em. Ngày 4/8/2015, Tuấn Em bị cảnh sát
bao vây trong ngôi nhà vắng chủ ở xã Dương Tơ. Tên này không còn đường
thoát nên đã ôm người tình của mình rồi nổ súng vào ngực nhằm tự tử.
-NÓI NHƯ CON "KÉT", LÀM NHƯ CON "KẸT"! -QUAN "NỔ" = MỴ DÂN -Định hướng như ... cứt mà đòi lên "Thiên Đường". -Rồi đây, lịch sử sẽ chỉ rõ công - tội! ------------------- -Triển khai dự án Núi Pháo là ăn cả phần con cháu, là làm khoảng cách giàu-nghèo càng lớn, là xa rời định hướng XHCN. ------------------------------------------------- (ĐC sưu tầm trên NET)
Masan từng bước thâu tóm dự án Núi Pháo như thế nào?
ANTT.VN – Từ những biến cố trong quá trình thực hiện dự án Núi Pháo, Masan đã từng bước thâm nhập và thâu tóm dự án này.
Mới đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thống nhất với đề xuất của
UBND tỉnh Thái Nguyên sẽ tiến hành ngay việc thanh tra toàn diện về tài
nguyên môi trường của công ty Núi Pháo bắt đầu từ đầu
tháng 8 tới. Việc thanh tra sẽ bao gồm một số lĩnh vực thuộc trách
nhiệm quản lý của Bộ Tài nguyên và Môi trường như: bảo vệ môi trường,
khoáng sản, tài nguyên nước, đất đai.
Mỏ Núi Pháo của tập đoàn Masan
Dự án Núi Pháo có diện tích hơn 9 km2, là một trong những mỏ vonfram
đa kim có trữ lượng lớn nhất thế giới. Hiện nay, CTCP Tài nguyên Masan -
Masan Resources (thuộc tập đoàn Masan) quản lý và khai
thác dự án này.
Giữa thập niên 1990, công ty khoáng sản Tiberon Minerals của Canada
phát hiện ra khu vực Núi Pháo, huyện Đại Từ, Thái Nguyên là một mỏ đa
kim có trữ lượng lớn với các khoáng sản có giá trị cao, gồm
vonfram, bismut và florit. Khi đi vào hoạt động, mỏ Núi Pháo sẽ trở
thành nhà cung cấp vonfram và bismut lớn nhất và nhà cung cấp florit lớn
thứ 2 bên ngoài Trung Quốc.
Sau một thời gian dài thăm dò và lập dự án, đến đầu năm 2004, liên
doanh Nuiphaovica – do Tiberon sở hữu 70%, phần còn lại thuộc về 2 đối
tác trong nước – đã nhận được giấy phép đầu tư và được cấp
giấy phép khai thác năm 2005. Thời điểm này đối tác nước ngoài là
Tibron Canada đang nắm giữ 70% mỏ Núi Pháo, Việt Nam chỉ có 30%. Tuy
nhiên, khủng hoảng kinh tế khiến Tibron năm 2007 đã bán lại
Núi Pháo cho Quỹ đầu tư Dragon Capital, thế nhưng Dragon Capital cũng
không thể lo liệu vốn để khai thác dự án và buộc phải tạm dừng khai thác
vào năm 2008.
Những biến cố trên của Núi Pháo là cơ hội để ông Nguyễn Đăng Quang,
bấy giờ là Phó Chủ tịch Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) và Chủ tịch tập đoàn Masan tham gia vào dự án Núi Pháo
với việc tập đoàn này mua lại toàn bộ 70% cổ phần tại Công ty Núi Pháo từ tay Dragon Capital vào năm 2010.
Thương vụ mua lại dự án Núi Pháo là một trong những thương vụ M&A
phức tạp nhất từ trước đến nay với một loạt các giao dịch phát hành hối
phiếu nhận nợ, quyền chọn mua, quyền chọn bán.
Quá trình thâu tóm dự án Núi Pháo của Masan
Sau khi hoàn tất sở hữu dự án Núi Pháo vào tháng 9/2010, Masan đã rất
khẩn trương trong việc huy động vốn và đầu tư xây dựng nhà máy.
Đến cuối năm 2013, khi hai bên hoàn tất các điều khoản của thương vụ
này, phía Dragon Capital đã nhận về gần 30 triệu cổ phiếu Masan Group
cùng một lượng lớn tiền mặt. Đổi lại, phía Masan đã trực
tiếp sở hữu hơn 3/4 lợi ích của dự án Núi Pháo.
Thế mạnh của Masan so với các nhà đầu tư trước của dự án Núi Pháo là tiềm lực tài chính nội tại cũng như khả năng huy động vốn từ bên ngoài.
Hai quỹ đầu tư Mount Kellet và PENM Partners thuộc BankInvest đã đầu
tư tổng cộng 150 triệu USD để mua cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi
của Masan Resources. Về vốn vay, Masan Resources đã huy
động được 6.800 tỷ đồng trái phiếu dài hạn cùng các khoản tín dụng
khác.
Đến 1/4/2014, sau hơn 3 năm đầu tư xây dựng cùng hơn 1 tỷ USD đã được
đổ vào dự án, mỏ Núi Pháo chính thức đi vào sản xuất thương mại, bổ sung
nguồn doanh thu đáng kể cho Masan Group.
Để khai thác siêu dự án này, Masan đã thành lập tới 4 pháp nhân để
tiếp quản dự án Núi Pháo, gồm Masan Horizon, Masan Resources, Masan Thai
Nguyen Resources và Nui Phao Mining. Trong đó, Masan
Resources (MSR) là công ty nắm vai trò đầu mối và Nui Phao Mining là
công ty trực tiếp được cấp giấy phép khai thác thay cho liên doanh
Nuiphaovica trước đây.
Tuy vậy, khi dự án chính thức đi vào khi dự án đi vào hoạt động thì
giá vonfram đang ở mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây khiến do
kết quả kinh doanh của 2 năm 2014-2015 chưa được như mong
đợi.
Đăng bởi Hai Hoang Van on Thứ Tư, ngày 03 tháng 8 năm 2016 | 3.8.16
Bộ
Tài nguyên và Môi trường Việt Nam – cơ quan đã chuốc tiếng nhơ vô liêm
sỉ khi quy kết nguyên nhân cá chết miền Trung là do “thủy triều đỏ”,
cũng như đã hầu như chẳng làm gì để xử lý ô nhiễm biển – vừa dũng cảm
ban hành quyết định thanh tra toàn diện về môi trường Công ty Mỏ Núi
Pháo của Tập đoàn Masan.
Chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Nguyễn Phú Trọng đang nhắm vào ai?
Vào
năm 2015, một phóng viên nhà nước khi định viết về nạn ô nhiễm môi
trường ở mỏ Núi Pháo đã bị côn đồ đánh đến mức phải nhập viện. Nhưng sau
đó, sự việc như thể chìm xuồng, còn Hội Nhà báo Việt Nam đã không có
bất kỳ một động tác can đảm tối thiểu nào để bảo vệ hội viên của mình.
Đã
từ lâu, nhiều người biết rằng mỏ Núi Pháo thành hình là do sự “se
duyên” của bà Nguyễn Thanh Phượng – Ngân hàng Bản Việt. Bà Phượng đã
đứng ra tư vấn để Masan nắm được mỏ Vonfram có trữ lượng đứng thứ hai
trên thế giới này.
Bà Nguyễn Thanh Phượng lại được biết đến là con gái của người mà vào năm ngoái còn là thủ tướng Việt Nam – ông Nguyễn Tấn Dũng.
Lẽ nào Bộ Tài nguyên và Môi trường dám “đụng” đến sếp cũ của họ?
Có
lẽ chẳng mấy ai hoài nghi về tinh thần co rụt của cơ quan bộ trên, nếu
không phải là họ nhận lệnh sai khiến từ một cấp trên cao hơn nhiều.
Nếu
quả chiến dịch thanh tra môi trường mỏ Núi Pháo là muốn nhắm vào vai
trò của bà Nguyễn Thanh Phượng đứng phía sau Masan và ông Nguyễn Đăng
Quang, chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” của Tổng bí thư Trọng đang phát
triển một bước dài đáng kể.
Tính
từ thời điểm tung ra “việc cần làm ngay” để xử lý vụ “ruồi” Trịnh Xuân
Thanh ở Hậu Giang, cho đến nay thời gian mới chỉ trôi qua gần hai tháng.
Tuy nhiên sau Trịnh Xuân Thanh, “mặt trận” đã liên tục mở rộng đến cựu
bộ trưởng công thương Vũ Huy Hoàng ở Hà Nội và nay đến mỏ Núi Pháo ở
Thái Nguyên.
Đáng chú ý, ông Trịnh Xuân Thanh là “lính” của ông Vũ Huy Hoàng, còn ông Vũ Huy Hoàng lại là “lính” của ông Nguyễn Tấn Dũng.
Tất cả đều móc xích với nhau, và “quy trình xử lý” đều có vẻ logic.
Nếu
quy trình trên diễn tiến một cách không thể ngăn chặn, sau “ruồi” Trịnh
Xuân Thanh là “hổ nhỏ” Vũ Huy Hoàng. Và sau “hổ nhỏ”, logic đương nhiên
sẽ phải là “hổ lớn”.
Ai
là “hổ lớn”? Và khoảng thời gian nào thì “hổ lớn” sẽ được công khai
trên bình diện thông tin đại chúng với tư cách trong diện “việc cần làm
ngay”?
Những
câu hỏi trên đang vấp phải vài biến số từ các “đối tượng”. Ít ngày sau
khi Bộ Tài nguyên và Môi trường ra quyết định thanh tra môi trường mỏ
Núi Pháo, Tập đoàn Masan của ông Nguyễn Đăng Quang đã có thông báo “phản
pháo”, cho rằng mỏ Núi Pháo luôn giữ tiêu chuẩn về môi trường. Thậm chí
một tờ báo nhà nước còn rút tít “Núi Pháo bảo đảm tiêu chuẩn môi trường
quốc tế”.
Không quân Việt Nam có 2 điều đáng tự hào là: lực lượng
duy nhất bắn rơi được B-52 và là một trong số ít lực lượng không kích
được tàu chiến Mỹ.
Bí mật chuẩn bị
Từ sau cái gọi là “sự kiện vịnh Bắc Bộ”, Hải quân Mỹ liên tục triển
khai tàu chiến dọc theo bờ biển miền Bắc đêm ngày pháo kích vào bờ gây
nhiều thiệt hại cho quân dân ta.
Về phía ta, hoạt động chống trả mới chỉ dùng pháo mặt đất nên đối phó
với các mục tiêu di động như tàu chiến ở khoảng cách 10-15km hiệu quả
rất hạn chế. Một kế hoạch sử dụng không quân tập kích chiến hạm Mỹ ở Biển Đông đã ra đời vào năm 1972.
Để phục vụ cho kế hoạch này, lực lượng không quân ta đã tiến hành nhiều công việc chuẩn bị chu đáo và bí mật.
Cho đến lúc này, không quân ta chỉ có máy bay vận tải và tiêm kích,
chưa có lực lượng máy bay ném bom. Không vì thế mà bỏ cuộc, Không quân
Việt Nam sáng tạo sử dụng máy bay MiG-17 để thực hiện kế hoạch.
Trung đoàn Không quân 923 chuẩn bị một phi đội cường kích đến khu vực
Bạch Long Vĩ tập ném bom với sự giúp đỡ của các phi công Cuba – những
người có nhiều kinh nghiệm ném bom thia lia ở độ cao cực thấp.
Đại tá Lê Hải cho biết trong Hồi ký Phi công tiêm kích: “Cu Ba cử
trung úy phi công Etnéttơ và một cán bộ kĩ thuật không quân giúp ta kĩ
thuật đánh tàu chiến địch. Căn cứ huấn luyện phi đội bay biển tại sân
bay Kiến An. Phi đội tập ném bom ở quần đảo Long Châu. Anh Lưu Huy Chao -
Trung đoàn phó, ra đảo nhỏ, chỉ huy trực tiếp việc bay tập trên biển.
Sau thời gian huấn luyện, đến tháng 3/1972, Trung đoàn 923 đã có 6 phi
công thuần thục động tác bay cực thấp, ném bom”.
Đồng thời với huấn luyện kỹ thuật cho phi công, những cơ sở bảo đảm
khác cho trận đánh cũng được gấp rút chuẩn bị. Hệ thống thông tin và chỉ
huy máy bay được tổ chức ở Quân khu 4. Không quân cũng hiệp đồng với
pháo binh, hải quân để thu thập tin tình báo về hoạt động của tàu chiến
Mỹ trong khu vực.
Sân bay Gát được chọn làm nơi xuất kích. Đây là một sân bay dã chiến
nằm trên làng Gát (tỉnh Quảng Bình) được xây dựng từ năm 1968 để làm sân
bay cơ động cho máy bay ta phục kích đánh địch. Sân bay này được ngụy
trang rất kỹ lưỡng nên tuy rất gần bờ biển, máy bay địch hàng ngày qua
lại mà không phát hiện được.
Gần đến trận đánh, Phó tư lệnh không quân Nguyễn Phúc Trạch trực tiếp
vào Quảng Bình lập sở chỉ huy tiền phương. Trung Đoàn 923 lập sở chỉ huy
trực tiếp ở Đồng Hới để căn cứ vào tình hình ra lệnh cho máy bay xuất
kích. Thời điểm tiến hành trận đánh được chọn vào tháng 3 âm lịch năm
1972.
Các máy bay tiêm kích MiG-17 của Trung đoàn Tiêm kích 923.
Ngày 10/4/1972, các phi công: Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Văn Bảy (B), Lê
Xuân Dị cùng với thợ máy Trung đoàn 923 mang theo bom loại 250 kg và đạn
23mm, 37mm hành quân bộ vào đến Gát an toàn. Ngay chiều tối đó, 2 máy
bay MiG-17 cũng được phi công Từ Đễ và Lê Hồng Điệp lái từ sân bay Kép
vào Gát an toàn, bí mật. Mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, hải quân Mỹ
vẫn chưa hay biết một trận tập kích táo bạo của đối phương sắp giáng
xuống.
Chiến công tuyệt diệu
Sáng 19/4, các tốp tàu chiến địch lại vào gần bờ biển Quảng Bình bắn
phá. Lúc này thời tiết không thuận lợi, tầm nhìn hạn chế nên chỉ huy sở
chưa cho máy bay xuất kích. Hoạt động và vị trí của các tàu địch liên
tục được các đài quan sát của Hải quân, Pháo binh thông báo.
Vào lúc 15h, một tốp 4 tàu địch tiến vào cách cửa Lí Hòa 15km, một tốp
vào đông Quảng Trạch, cách bờ 7km, 3 tàu ở đông Lí Hòa 18km. Đài radar
403 cũng phát hiện 1 tốp 4 tàu địch đậu cách cửa Nhật Lệ 16km. Thời tiết
giờ đã tốt hơn, tầm nhìn trên 10km. Thời cơ đánh địch đã đến, biên đội
Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy (B) được lệnh xuất kích đánh tốp 4 tàu địch
ở hướng nam 15 độ, lúc đó là 16h.
Vì sân bay dã chiến hẹp, không cất cánh cả biên đội một lúc. Số 1 Lê
Xuân Dị lên trước. Vượt qua cửa Lí Hòa, nhìn vào bờ thấy những điểm
khói, số 1 phán đoán địch đang pháo kích. Nhìn thật kỹ ra ngoài phía xa
phát hiện thấy 2 vệt trắng trên làn nước xanh thẳm. Số 1 báo cáo phát
hiện địch và xin công kích. Chỉ huy sở tiếp tục thông báo về địch và
nhắc biên đội: “Bình tĩnh, chuẩn xác, quyết tâm tiêu diệt địch”.
Ảnh vẽ tiêm kích MiG-17 Việt Nam ném bom tàu chiến Mỹ.
Lê Xuân Dị vòng ra biển, chọn hướng công kích tàu địch từ ngoài khơi
vào bờ. Anh đổi hướng vào giữa hai thân tàu địch và bay bằng ở độ cao
cách mặt nước biển 50m với tốc độ 800km/giờ. Nhìn vòng ngắm, quả trám
ánh sáng dần dần chuyển động tiến gần đến điểm mớn nước trên thân tàu.
Số 1 liền nhanh chóng cắt 2 quả bom loại 250 kg. Nhìn lại thấy 1 cột
nước vọt lên, số 1 được dẫn về hạ cánh ở sân bay Gát lúc 16h18 phút.
Trong khi đó số 1 công kích, số 2 Nguyễn Văn Bảy (B) làm nhiệm vụ cảnh
giới trên không đề phòng tiêm kích của địch. Khi không nhìn thấy số 1,
anh liền bay ra hướng biển tìm mục tiêu. Đến đông bắc cửa Dinh, vẫn
không thấy tàu địch, anh bay thêm vài phút nữa, thì phát hiện 2 tàu khu
trục Mĩ đang pháo kích vào bờ.
Được lệnh của sở chỉ huy cho công kích, Nguyễn Văn Bảy bay lướt qua
tàu khu trục, ép độ nghiêng vòng trở lại. Máy bay được hạ độ cao xuống
50m, tăng lực đạt tốc độ 800 km/h. Mọi việc diễn ra thuận lợi như trong
những lần tập luyện, Nguyễn Văn Bảy cắt bom khi điểm ngắm trạm mớn nước
thân tàu ở khoảng cách 750m rồi kéo máy bay vượt qua ăng ten của tàu.
Hai trái bom trạm mớn nước thia lia đâm thủng tàu, phía gần đuôi. Một
cột vừa nước, vừa khói màu da cam bao phủ tàu địch, cao đến 20m.
Trong hồi ký của Đại tá Lê Hải có miêu tả: “Càng về sau, lửa cháy càng
to trên tàu khu trục. Nhìn lại, anh thấy tàu địch bốc cháy và một quả
tên lửa địch bốc cháy. Một quả tên lửa địch phóng lên, nổ trên cao
khoảng 200m, tại khu tàu bị cháy. Mấy phút sau, 2 chiếc F-4 đến lượn
vòng trên khu vực tàu vừa bị đánh. Nguyễn Văn Bảy về hạ cánh an toàn sau
số 1 gần 2 phút. Trận đánh diễn ra từ khi cất cánh đến khi chiếc số 2
hạ cánh xong, chỉ trong 17 phút”.
Tháp pháo tàu USS Higbee bị phá hủy sau trận không kích "vô tiền khoáng hậu" của biên đội MiG-17 Việt Nam.
Sau trận này, Đô đốc Hạm đội Thái Bình Dương phải lệnh cho các tàu lùi
ra xa, tạm dừng pháo kích một thời gian để tìm cách đối phó với không
quân của ta.
Theo tài liệu từ phía Mỹ thừa nhận, chiếc MiG-17 của Lê Xuân Dị đã
đánh trúng tháp pháo tàu khu trục USS Higbee, còn Nguyễn Văn Bảy (B)
đánh trúng tàu tuần dương USS Oklahoma City. Hai chiếc tàu này chỉ bị hư
hỏng mà không bị đánh chìm song Không quân Nhân dân Việt Nam đã lập
được 1 chiến tích tuyệt vời.
Lần đầu tiên và cũng rất hy hữu trong lịch sử quân sự thế giới, máy
bay phản lực MiG-17 ném bom theo phương pháp thia lia trúng vào mục tiêu
di động là tàu chiến. Đáng nói hơn, kể từ sau chiến tranh thế giới thứ
2, duy nhất Không quân Nhân dân Việt Nam đánh trúng được tàu chiến của
Mỹ.
Theo báo Kiến Thức
Tên lửa Việt Nam có thể đánh bại tàu chiến hiện đại nhất
Thứ tư, 18/05/2016, 08:00 (GMT+7)
(An ninh - Quốc phòng) - Với các loại tên lửa chống hạm hiện có và sắp mua Việt Nam đủ khả năng đánh bại tàu khu trục 052D hiện đại nhất Trung Quốc
Hải quân Trung Quốc không thể an toàn trước các cuộc tấn công tên lửa của Không quân Việt Nam.
Với các loại tên lửa hiện đang có, trang bị cho Su-22 và Su-30 như
tên lửa Kh-59MK và Kh-31P/A và sắp tới sẽ mua tên lửa hành trình siêu âm
BrahMos thì một cuộc tấn công ồ ạt sẽ nhấn chìm tàu chiến hiện đại nhất
của Trung Quốc hiện nay ( chuyên gia bình luận quân sự Nga Yevgeny
Damantsev cho biết)
Trong biên chế Không quân Việt Nam hiện có 36 Su-30MK2 và hơn 35
Su-22M3/M4 vốn được thiết kế để có thể phóng các tên lửa chiến thuật tầm
xa Kh-59 MK/MK2 Ovod có tầm bắn đến hơn 200k, cũng như tên lửa chống
radar và chống hạm Kh-31P/А.
Tầm bắn tối đa của hệ thống tên lửa phòng không HQ-9 đối với mục tiêu
bay cao là 200 km, với mục tiêu bay thấp là 30-40 km. Chính từ độ cao
nhỏ các máy bay Su của Việt Nam sẽ tác chiến khi tấn công các cụm tàu
xung kích của Trung Quốc và cự ly tiến công sẽ không dưới 60 km, vì thế
các máy bay Việt Nam có khả năng thực hiện cuộc tấn công ồ ạt từ bên
ngoài tầm với của hỏa lực phòng không trên hạm của Trung Quốc. ( Mô
phỏng Su-30MK2 Việt Nam phóng tên lửa diệt hạm Kh-31 tiêu diệt tàu chiến
của kẻ thù)
Các tên lửa Kh-59MK và Kh-31 cho phép làm điều đó dù được trang bị
cho Su-22 hay Su-30, còn các tàu khu trục Trung Quốc lớp 052D với tất cả
những nhược điểm sao chép của Aegis hệ thống phòng không/phòng thủ tên
lửa tích hợp trên tàu chiến của Mỹ có thể không ngăn chặn nổi một cuộc
tấn công ồ ạt. ( Tên lửa Kh-59)
Bên cạnh đó vị chuyên gia Nga này cũng cho biết Việt Nam nên xúc tiến
mua tên lửa chống hạm siêu âm BrahMos nhanh nhất thế giới của Ấn Độ
Tên lửa Brahmos do liên doanh Brahmos Aerospace giữa Ấn Độ và Nga chế
tạo từ năm 1998, tên gọi “BrahMos” được ghép từ tên 2 con sông
Brahmaputra và Moskva. Đây là loại tên lửa hành trình siêu âm với tầm
bắn tối đa lên đến 290km, độ cao bay tối đa 15km, tối thiểu 10m, mang
được đầu đạn nặng 200 – 300kg.
Hiện nay, Brahmos có nhiều biến thể khác nhau như phóng từ tàu chiến, bệ phóng trên mặt đất, tàu ngầm và phóng từ máy bay.
Trước đó, theo nguồn tin giấu tên cung cấp cho báo Trung Quốc khẳng
định rằng, Việt Nam, đã đàm phán mua 15 tên lửa BrahMos với Ấn Độ. Thông
tin về quá trình đám phán cũng đã được trình lên ủy ban hợp tác quân sự
Nga – Ấn. Việc bán tên lửa BrahMos ra nước ngoài cần có sự đồng thuận
của cả Nga và Ấn Độ, tuy nhiên điều này không còn là trở ngại. Mối quan
hệ giữa Ấn Độ, Nga và Việt Nam đều ở mức đối tác chiến lược ( tên lửa
BrahMos thử nghiệm gắn trên Su-30MKI của Ấn Độ)
Nếu có loại tên lửa này, Hải quân Việt Nam sẽ có sức răn đe chiến
lược với các loại tàu chiến hiện đại nhất của Trung Quốc. “Tên lửa
BrahMos là tên lửa hành trình bay nhanh nhất thế giới với tốc độ 3M, tức
là 1.000 m/s. Các tên lửa BrahMos sẽ biến các tàu chiến và mục tiêu mặt
đất thành tro bụi”.
(Theo Báo Phụ Nữ)
Những nguồn lợi lớn là tơ lụa và gỗ trầm hương bán cho dân Hà Lan
và dân các nước khác. Trong tập du ký về Ấn Độ, tôi đã nói về tính chất
gỗ này: thứ tốt và mỡ có thể bán một nghìn đồng một cân; thứ xấu không
mỡ thì một cân giá có ba đồng thôi và chỉ có dùng để làm hộp nhỏ hay hột
đeo cổ. Tất cả những dân Hồi Hồi, nhất là những dân để râu dài (Thổ Nhĩ
Kỳ, Albania) rất mến chuộng gỗ trầm; khi có khách đến, họ mang lò hương
ra, bẻ một chút trầm bỏ vào lò khói và hương trầm quyện lấy râu họ và
họ giơ tay lên trời kêu Elhemed Illahh! Gỗ mỡ thì một chút nhỏ như hạt
đậu và trước khi đốt đem nhúng vào nước cũng tỏa nhiều khói hơn một
miếng trầm xấu to bằng nắm tay.
Năm 1642, khi John IV làm vua Bồ Đào Nha (từ năm 1640 - 1656) thì
kiều dân Bồ Đào Nha sang Nhật Bản tìm đặng vật biếu: quý nhất là một cây
gỗ trầm cao sáu thước và tròn hai thước, mua hết bốn vạn pardos, vào
khoảng năm vạn bốn nghìn tiền ta. Khi qua Ba Tư tôi có thấy cây gỗ ấy ở
trụ sở các cha Augustins đem từ Nhật về. Vì không đem về tiến vua Bồ Đào
Nha được, họ định đem dâng vua Ba Tư, nhưng khi đi đường có bão, các
hàng hóa bị ướt, cây trầm thấm nước biển, mọi thứ đều hư hỏng cả, cây
trầm bị ẩm và mục mất một phần nên dù có đem sang Ispahan (Iran) cũng
không dâng vua Ba Tư được nữa. Cố bề trên dòng Augustins có cưa cho tôi
một miếng đem về Paris cho ông Brunier, là lương y của nguyên Quận vương
d’Orléans.
Buôn bán với người Đàng Ngoài biết trọng tín nghĩa và thực thà,
thích và lợi hơn với Hoa kiều sẵn lòng lừa ta nếu có thể được vì thật
khó mà biết mánh khóe của họ để mà đề phòng. Riêng tôi đối với Hoa kiều
trong thương trường luôn bị thiệt; khi họ buôn mà không có lợi thì họ gỡ
ra bằng cách này: trong giao dịch họ có ba thứ tiền; tiền đúng phân
lạng, tiền nhẹ hơn bốn phân, tiền nhẹ hơn tám phân. Nếu họ không muốn
mua hàng của mình thì họ đem thứ tiền nhẹ nhất đã xén bớt cạnh đi để trả
và như thế mình bắt buộc phải hủy giao kèo. Trên thế gian này không có
bọn lái buôn nào tính khôn bằng; cái gì họ cũng mua, không từ chối thứ
gì đi mua cả giày cũ, mình bán một chiếc, họ cũng mua không hỏi tại sao
mình không bán chiếc kia. Người Đàng Ngoài thì buôn bán thực thà hơn
nhiều và tôi rất vui thích được giao thiệp với họ. Tôi đã nói họ không
có mỏ vàng, mỏ bạc và họ không đúc tiền, để buôn bán họ dùng những miếng
vàng đem ở Tàu sang, có miếng giá bán ba trăm đồng tiền ta, có miếng
sáu trăm đồng. Họ cũng tiêu thụ những thỏi bạc mua từ Nhật Bản sang; khi
phải trả những số tiền nhỏ, họ cắt những thỏi này ra thành những miếng
vụn đã sẵn có cân giống như cân La Mã để cân, hoặc họ trả bằng tiền
ngoại quốc, nhất là tiền Tây Ban Nha. Vàng và bạc mua được ở Tàu hoặc
Nhật sang là do số tơ, hương xạ và trầm hương họ bán ra rất nhiều.
Quân đội xứ đàng ngoài
Dưới đây là số lính mà chính mắt em tôi nom thấy năm 1643 - năm
chúa Trịnh định cắt binh đánh chúa Nguyễn về việc dân Đàng Trong đã cướp
mất mấy chiếc chiến thuyền, nhưng việc ấy lại yên vì chúa Nguyễn có sai
sứ ra giảng hòa nên chúa Trịnh lại thôi.
Đạo quân sắp sửa lên đường lúc bấy giờ có tám nghìn ngựa, chín vạn
bốn nghìn bộ binh, bảy trăm hai mươi hai con voi chiến và khiêng tải đồ
đạc, ba trăm mười tám chiến thuyền, ghe dài hẹp, chạy bằng buồm và bơi
chèo.
Đời lính thì vất vả và bất lợi lắm vì phải đi suốt đời, lại không
được làm thêm nghề gì để nuôi vợ con. Những hôm không phải phiên canh
thì họ lại phải đi theo chủ súy bất cứ đến đâu và mỗi tuần phải đi tập
bắn cung hai lần, mỗi một đội có từ một trăm đến một trăm ba mươi người.
Trong đội hai người bắn giỏi được thưởng; nhất thì hai tháng lương, nhì
thì một tháng, trả bằng thóc. Còn ai bắn dở nhất thì phải phạt gác nhất
bội nhị. Các vị đội trưởng đều chăm nom cho binh khí của lính luôn luôn
được bóng và sạch như bạc: nếu khí giới han gỉ thì lần thứ nhất lính bị
trừ tám ngày lương, lần thứ hai bị đòn phạt.
Lính thủy cũng bị đối đãi từa tựa như bộ binh. Vào những ngày nhất
định, cũng phải lên chiến thuyền để tập chèo; vì các vua chúa ở đây
thích xem những cuộc bơi thuyền chiến và các ngài đến ngự vài ngày tại
một tòa nhà cất trên bờ sông. Đội nào thắng thì viên đội trưởng vui vẻ
hết sức, được vua thưởng một con voi. Trong lúc chèo, vì cố sức cũng có
người chết tay vẫn cầm bơi chèo; như thế thì vua ban thêm cho đội trưởng
ba tháng lương, cho vợ con tên lính chết hai năm tiền công.
Số tiền chuẩn cấp ít ỏi lắm nhưng vợ những người lính này, lấy
chồng từ ngày còn nhỏ, đã quen làm lụng như những người ở giai cấp dưới
và đã học thêm được một nghề để gánh vác gia đình. Các đội trưởng còn
phải tập cho voi chiến không sợ hỏa pháo; phải xây trên bờ sông bờ bể
những gian nhà để kéo thuyền chiến lên và che cho khỏi mưa bão. Tướng sĩ
mỗi tháng chỉ được nghỉ bốn ngày; hai ngày vào lúc thượng tuần, hai
ngày vào trung tuần.
Jean Baptiste Tavernier Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Việt Nam qua ghi chép của người phương Tây: Tang lễ một ông vua Đàng Ngoài
Tang lễ của một vị vua nhà Lê đã được thương nhân Pháp Jean Baptiste Tavernier (1605 - 1689) ghi lại.
Tuy đức vua nhà Lê thời này không có uy quyền và tất cả thế lực đều
vào tay chúa Trịnh, ngài vẫn được thần dân tôn trọng và triều đình vẫn
được rực rỡ oai nghi. Ngày rằm và mùng một, các đình thần bận triều phục
vào lễ vua. Chúa Trịnh trước kia cũng phải vào dự lễ bái vua, nhưng dần
dần ngài đã biết cách xin miễn và cử một người khác đi thay! Vào chầu
vua, quan phải bận phẩm phục màu tím, quân đi hầu cũng phải mặc áo đồng
màu.
Mỗi năm vào dịp Tết Trung nguyên, vua ban thưởng cho các đình thần và con cháu các vị công thần vàng bạc; phóng xá cho tội nhân.
Bao giờ cũng vậy, cứ đến ba ngày cuối năm, bốn mươi quan đại thần
đi bắt các quan cao thấp văn lẫn võ tuyên thệ lúc nào cũng trung thành
với đức vua và nếu biết có cuộc âm mưu hại đến long thể, đến cuộc trị
nguy của quốc gia thì phải đi tố cáo. Nếu kẻ đi báo đã làm quan thì đức
vua có ban thưởng hay không là tùy ý, nếu là dân dã thì được thưởng năm
mươi lạng vàng và năm trăm lạng bạc.
Đám tang nhà vua
Khi vua băng hà thì người ta đem ướp tử thi ngài ngay và đặt lên
long sàng. Trong sáu mươi lăm ngày dân chúng được phép chiêm ngưỡng. Vẫn
hầu hạ, dâng cơm như khi ngài còn sống; cơm cúng xong thì một nửa đem
biếu các sư và một nửa đem bố thí cho người nghèo đói.
Khi ngài vừa tắt nghỉ thì chúa Trịnh báo tin ngay cho các quan đầu
các đạo và định thời hạn để tang là bao lâu: thường thường thì quan võ
và quan án ba năm; tôn thất sáu tháng; triều thần sáu tháng và dân sự ba
tháng. Trong ba năm để tang vua, bỏ hết các cuộc vui trừ lễ đăng quang
tân quân.
Những món ăn dâng vua mới đều đựng trong đĩa phủ sơn đen; vua cạo
đầu và đội mũ gai. Các hoàng thân và bốn mươi quan đại thần cũng để tang
như vậy đến khi nào rước linh cữu xuống thuyền đem đi an táng một nơi
đã định mới thôi. Ba quả chuông đặt trên một ngọn tháp cũng đánh mãi đến
khi linh cữu rước xuống thuyền.
Hôm tam nhật, các quan mới được vào làm ai điếu tiên vương và từ
hôm thứ mười giở đi dân sự mới được vào chiêm bái. Trong thời hạn sáu
mươi lăm ngày này, chúa Trịnh sửa soạn tang lễ; vì lễ càng rực rỡ bao
nhiêu chúa càng được tiếng bấy nhiêu.
Từ cung ra đến bến đậu thuyền chở linh cữu, đi mất hai ngày đường
và đường che vải tím là màu của vua. Nhưng cũng con đường này đám tang
đi về mất những mười sáu ngày. Cứ cách một phần tư dặm lại có dựng một
cái quán có chứa nước uống và dựng bếp để hút thuốc. Lúc vua mới trở về
thì số vải nói trên được cuộn lại và đem về phân phát cho các nhà sư.
Đám tang đi theo thứ tự như sau: Hai người đi đầu là cấm binh vẫn
canh gác cửa cung hai tay cầm hai cái chùy; chùy chứa đầy pháo bông; đi
trước hô tên vua lên. Mười hai người đi sau là mười hai người đầu trong
bọn thủy binh kéo linh xa trên có viết tên tiên vương. Rồi đến một đoàn
mười hai con voi: bốn con đầu, có bốn người cưỡi tay cầm cờ của vua; bốn
con sau có đóng bành; mỗi con mang sáu người vác súng hoặc cầm hỏa
thương (? lance à feu), bốn con cuối mang bốn cái hòm; hai hòm đầu thì
bịt kín mặt đàng trước và hai bên đều lồng kính; hai hòm sau thì có sáu
mặt và bịt lưới thép hoặc cửa kính.
Tiếp vào đấy là một quan Đại tư mã cưỡi ngựa, theo sau có hai quan
hầu cũng ngồi ngựa. Liền đấy có sáu cặp ngựa không người cưỡi, nhưng mỗi
con có một quan vệ úy kèm giữ. Sáu con ngựa đầu yên cương rất quý giá,
hàm thiếc và các vật dụng kim khí ở yên cương đều bằng vàng, yên thêu
chỉ vàng; sáu con sau yên cương cũng nạm vàng.
Đoạn thứ năm là xe linh cữu vua có tám con hươu đã luyện thuần thục
kéo; mỗi con có một quan vệ úy đi kèm giữ. Tân vương đi theo sau linh
cữu, bận sa tanh trắng, đầu đội mũ rơm; các vương đệ cũng vậy. Chung
quanh có phường bát âm. Sau các vương tử là các phi tần, công chúa bận
sa tanh trắng, có các mệnh phụ thể nữ theo hầu bận màu tím. Chung quanh
lại có phường bát âm. Rồi đến các thân vương mặc áo tím, mũ rơm; bốn
quan tổng trấn vai vác gậy quàng một cái túi vàng là tiền các trấn đem
về dâng liệu để tiêu dùng dưới hoàng tuyền.
Theo sau còn hai chiếc xe, mỗi xe tám ngựa kéo; trên mỗi xe có một
hòm đầy vàng bạc và đồ quý giá để tiên đế đem sang chi dùng thế giới bên
kia. Đi đoạn hậu là văn võ bách quan, một phần cưỡi ngựa, tùy theo chức
phẩm.
Linh cữu ra đến bến Bồ Đề thì khiêng xuống thuyền có sáu quan thái
giám đi hộ tống, chở đến chôn tại một nơi rất kín. Các quan thái giám
phải thề là giữ kín không cho ai biết chỗ lăng vua; một lẽ vì sợ có kẻ
đến đào trộm lấy bạc vàng gấm vóc chôn theo nhiều lắm, nói là để tiên đế
dùng.
Jean Baptiste Tavernier (1605 - 1689) là một lữ khách
và cũng là một thương nhân buôn ngọc người Pháp vào thế kỷ 17. Trong
khoảng từ năm 1630 - 1668 ông đã thực hiện 6 cuộc hành trình đến Ba Tư
và Ấn Độ. Vào năm 1675, Tavernier theo lệnh của vua Louis XIV - khách
hàng quen của ông ta, đã cho xuất bản Les Six Voyages de Jean-Baptiste
Tavernier (Sáu cuộc hành trình, 1676) .
Jean Baptiste Tavernier Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Việt Nam qua ghi chép của người phương Tây: Lễ đăng quang của vua
Jean Baptiste Tavernier (1605 - 1689) là một lữ khách và cũng là thương nhân buôn ngọc người Pháp vào thế kỷ 17.
Ông cùng nhiều người phương Tây dành những trang viết về xứ Đàng Ngoài được Nguyễn Trọng Phấn dịch, đăng trong cuốn Xã hội VN từ thế kỷ 17.
Mở tiệc đăng quang và ban thưởng
Khi đức vua băng hà, các quan tôn ông hoàng nào, được vua chọn và
nói cho biết, lên ngôi. Chúa Trịnh cùng các võ quan, nội các viện, các
quan đô tổng binh, thừa chính sứ đến tư thất tân vương, dâng áo bào để
ngài mặc, rồi rước vua Lê Thần Tông lên mình voi đến chính điện đã phủ
vóc vàng và vóc bạc, tân vương ngự lên ngai, các quan đều phủ phục rồi
đứng dậy cúi đầu (vái ngài), giơ hai bàn tay chắp liền lên trời và tuyên
thệ trung thành với ngài. Vua Lê Thần Tông ban cho mỗi vị bốn lạng vàng
và sáu lạng bạc, chúa Trịnh được hai mươi lạng vàng và bốn mươi lạng
bạc. Quan đứng đầu nội các được mười lạng vàng và hai mươi lạng bạc.
Xong rồi thì bắn ba loạt thần công đặt chung quanh thành và ba loạt
súng trường đặt trong một cánh đồng gần đấy (có ba vạn lính cả bộ lẫn
kỵ).
Tân vương liền ngự kiệu; chúa Trịnh và quan tổng lý nội các cưỡi
ngựa đi đầu tiến vào nội cung. Các vương phi, công chúa, các mệnh phụ
đến lạy chào! Xong rồi các quan vào dự tiệc yến. Tiệc yến vãn đến tuồng
hát, đốt pháo bông suốt đêm.
Sáng hôm sau, ba vạn lính hôm trước vẫn tề tựu ở chỗ cũ rất chỉnh
tề, các võ quan đều về kinh đông đủ. Tân vương ngự kiệu mười sáu người
khiêng, có chúa Trịnh và quan tổng lý nội các cưỡi ngựa đi dẫn đầu, ra
khỏi cung, theo sau có nhiều võ quan đi bộ. Kèm với kiệu, có bọn con hát
múa chung quanh, có phường bát âm thổi sáo, thổi kèn, đánh trống ầm ĩ,
vang trời. Ra đến chỗ dàn binh, tân vương bước xuống kiệu và ngự lên
trên một thớt voi trận đã dạn với tiếng súng và pháo thăng thiên. Tân
vương ngự voi ra giữa ba quân và các võ tướng ra tuyên thệ. Ngài ban cho
chủ tướng mỗi người một lạng vàng và hai lạng bạc; cho mỗi võ quan tùy
thuộc một lạng bạc và nửa lạng vàng. Lính mỗi người được thưởng hai
tháng lương. Nhận thưởng rồi thì quân lính bắn súng đoạn rút về trại đã
dựng sẵn, ăn uống suốt một đêm. Đức vua cũng đến ngự tại một tòa lầu
bằng gỗ sơn son thếp vàng dựng trong cánh đồng ấy. Ngài ngự đêm ở đấy,
trước yến tiệc, sau xem pháo thăng thiên và con hát vui ca nhảy múa.
Hôm sau thì tân vương ngự voi về thành. Về đến cung, ngài ra ngự
ngai và ban thưởng cho những thợ đã chế ra pháo bông, bọn ca vũ và tất
cả những người đã tổ chức nên các cuộc vui tối hôm trước và đã làm cho
ngày hội ấy được linh đình. Rồi ngài cho phép chúng dân và hai đại biểu
phường buôn, phường thợ vào bệ kiến. Hai người đọc chúc từ, thay mặt dân
sự Kẻ Chợ (Hà Nội) nguyện trung thành với ngài; vua ban thưởng cho
phường buôn năm mươi lạng vàng và ba trăm lạng bạc, phường thợ hai mươi
lạng vàng và một trăm lạng bạc. Dân sự ra về tha hồ mà mở tiệc ăn uống,
mở hội chèo hát bỏ thêm tiền riêng ra để giải trí trong hơn một tuần.
Vua thăm người nghèo, giảm thuế
Vài bữa sau thì có các đoàn đại biểu các thôn xã ở xa đến kính mừng
vua và tuyên bố trung thành với ngài; những tỉnh nào xưa nay vẫn một
lòng với nhà Lê thì được xá thuế một năm; còn những nơi đã hưởng ứng với
loạn thần chỉ được giảm có sáu tháng. Bọn tù nợ cũng được vua điều đình
với chủ nợ và giảm cho có khi một nửa số tiền nợ.
Số súc vật bị đem giết để cúng tế nhiều vô kể. Số tiền vua phát ra
để mua vải vóc dùng trong việc thờ cúng, để mặc cho các tượng thần, vải
màu da cam để phát cho các sãi cũng hàng vạn. Ngài phát rất nhiều tấm
vải xanh màu lục cho những kẻ nghèo khổ đã đến ở nhờ các chùa cũng như
những người cùng khốn bên ta đến ở nhờ các dưỡng đường. Chính đức vua
trong tuần thứ nhất này cũng đến chùa, sống kham khổ và đi thăm các
người nghèo khổ trong các chùa khác và bố thí cho họ; hết tuần đầu ngài
sai dựng một ngôi chùa tại một chỗ ngài đã chọn.
Đầu tuần thứ hai thì ngài cưỡi voi trận, có các võ quan ở triều và
một vạn hai nghìn người lính đã tuyển lựa riêng đi hộ giá, ngự đến một
cánh đồng rộng, tại đấy đã lập sẵn ba tòa lầu: một tòa cho vua, một tòa
cho chúa và một tòa cho quan đứng đầu nội các và vô số nhà nhỏ cho các
người tùy giá. Ba tòa lầu dựng bên bờ sông; trên mặt sông đã sắp sẵn
nhiều thuyền sơn son thếp vàng rực rỡ; có một chiếc “thủy sư” vừa lớn
vừa đẹp hơn cả. Bọn bơi thuyền đều ăn vận tử tế; vì bọn này đều là binh
lính hoặc thường dân, được tự do chớ không như bên ta bọn chèo thuyền
chiến là nô lệ hoặc chịu án khổ sai.
Trong bảy hôm vua ngự ở đây, ngài xem các cuộc thủy chiến, các cuộc
bơi chải. Thuyền nào bơi hơn các thuyền khác thì được thưởng. Hết tuần
thứ hai này, trước khi ngự về cung, tân vương ban cho thủy binh hai
tháng lương, cũng như ngài đã ban cho bộ binh hai tháng lương hôm đăng
quang.
Hết tuần ngài ngự về cung; tùy giá cũng theo thứ tự như lúc đi.
Ngài ngự vào nội cung, chỉ có các quan mới đi theo, yến ẩm với các phi
tần đến hết tháng. Đêm nào cũng đốt pháo bông trước các cung điện của
các bà phi, các quan thị cũng nhập bọn với phường hát, phường múa để làm
trò cho vui.
Jean Baptiste Tavernier Nguyễn Trọng Phấn dịch
Việt Nam qua mắt giáo sĩ phương Tây: Sản vật xứ Bắc kỳ
Những sản vật của xứ Bắc kỳ là một phần trong ghi chép của nhà truyền giáo người Ý G.F de Marini (1608 - 1682) về VN.
Người Đông Kinh (*) đã khôn ngoan, khéo léo từ khi người Bồ Đào
Nha, Hà Lan và các nước lân cận đến buôn bán. Họ biết buôn không phải vì
túng thiếu; nhưng vì lợi, vì tiền. Hơn nữa, họ cũng đủ lý trí để học
rất mau những lề lối, những mánh khóe trong nghề buôn để khỏi bị phỉnh
gạt.
Những nguồn lợi phong phú
Từ trước đến giờ, quốc vương không cho khai các mỏ vàng; ngài vừa
mới cho phép khai một phần mỏ bạc ở tỉnh Cuicanghe (Cao Bằng). Cũng có
vài mỏ bạc trong địa hạt Bắc trấn vừa mới đào nhưng khi nào đức vua cho
phép mới được khai. Ngài giữ các mỏ kim ngân quý giá như vậy là tại ngài
sợ ngoại quốc nghe thấy thì đến xin khai và chiếm mất, sợ thần dân
tranh quyền làm chủ những mỏ ấy và nổi loạn chống lại ngài.
Sắt và chì thì tha hồ khai vì ngài không lo giữ gìn như vàng bạc.
Ngoài các mỏ nên kể việc mò trai. Nhưng bây giờ không còn ai mò nữa vì
các vua trước đã chiếm giữ lấy cả món lợi. Ai còn muốn hy sinh tính mệnh
để làm việc khó nhọc ấy?... Về việc chài lưới tôi không thấy nơi nào
sẵn cá như xứ Đông Kinh; ai ai cũng có lưới để bắt cá ăn tươi hay ướp
muối.
Một nguồn lợi nữa thông thường hơn, khai thác không khó nhọc và
nguy hiểm vì mọc sẵn trên đất là núi rừng, có nhiều thứ cây già hơn
nghìn năm không mục nát được. Như gỗ lim (người Bồ Đào Nha gọi là Palo
Ferro, nghĩa là cọc sắt để chỉ rõ tính cách gỗ nặng hơn cả gỗ mun vì
chìm xuống nước mau hơn; sắc giống như sắt gỉ; cứng như sắt, đem búa
đóng đanh tốt vào thì một người khỏe đến đâu dùng tay không cũng không
nhổ lên được, dùng kim thường nhổ cũng còn khó nhọc). Gỗ lim kỵ với sắt:
lim làm han và ăn sắt gỉ.
Ngoài ra còn nhiều thứ gỗ cũng tốt như lim: nhà vua không cho phép
đẵn nên ta không đóng được tàu chiến đẹp bằng gỗ mun. Mun không được
nhiều, và tốt như mun Mozambique. Quế, mọc ở phía nam xứ Đông Kinh, ở
phía bắc xứ Đường Trong và ở phía nam xứ này chỗ tiếp với Chiêm Thành,
không nhiều và tốt như quế Tích Lan. Nhưng quế nam đắt hơn và rất được
người Nhật chuộng dùng, thế nên có nhiều người đi kiếm. Nhưng vua cấm
ngặt ai không có phép thì không được bóc mà có phép cũng phải chở qua
cung vua. Quế thơm nhưng (muốn lấy quế) phải xông vào rừng sâu đầy thú
ác, nước độc khí thiêng. Thú dữ còn có bề chống giữ đề phòng; chớ nước
độc khí thiêng dù có đem thuốc giải trừ rất hay, không chết ở dưới chân
cây, về đến quê nhà cũng ốm liệt giường liệt chiếu.
Dùng kiếm thử sừng tê
Rừng còn có cọp, gấu, lang, hươu, hoẵng, thỏ, lợn lòi, voi khỉ và
ít nhiều tê giác. Sừng tê giác rất được chuộng dùng ở Ấn Độ và các nước
lân bang Trung Quốc. Sừng tê dùng để giải độc nên ai có của cũng cố tích
trữ ở trong nhà, nhất là do tại các miền này, các dân thường có ác tục
là bỏ thuốc độc hại lẫn nhau.
Cũng có kẻ nói quả quyết rằng nếu giẫm phải gai chỉ cần đem tán một
ít sừng tê thành bột hòa vào với nước rồi dùng nước ấy rửa chỗ đau, thì
không làm nhức buốt gì, cái gai cứ tự nhiên lòi ra rất dễ dàng và chẳng
đau đớn. Các vị quan Tàu chức cao và lắm của lúc thết tiệc các bạn
thân, chỉ rót rượu vào chén làm bằng sừng tê để tỏ ra rằng họ sang, để
khỏi sợ say vì sừng tê có tính chất giải độc.
Cũng như ở nơi khác, dân Nam muốn thử xem sừng tê có tốt hay không,
đem treo thanh kiếm bằng một sợi dây rồi cầm sừng tê để gần kiếm; nếu
tay chuyển sừng đi mà kiếm quay theo thì sừng tốt, nếu kiếm đứng yên thì
sừng không có giá trị gì cả. Cũng có kẻ không thử thế chỉ xem nếu trong
giữa sừng có vân vàng mọc tỏa ra đến khắp ngoài rìa thì cho là sừng
tốt. Nếu sừng vừa có vân vừa làm quay được thanh kiếm thì họ sẵn lòng bỏ
ra mấy trăm đồng vàng mà chuốc...
Người Đông Kinh hơn người Trung Hoa là còn biết dùng sừng tê làm
cán gươm, chuôi dao để phòng hơi độc của thuốc giải độc mà luôn luôn họ
giắt trong người.
Họ cũng nuôi dê, bò, trâu, ngựa nhiều nhưng còm, bé như ngựa Ba
Lan. Ngựa mua ở các xứ lân cận vào đẹp lớn tốt hơn nhưng đã bị thiến
rồi; quốc chủ các nước này một là muốn giữ lợi, hai là sợ bán ngựa giống
cho một nước một ngày kia có thể trở nên thù địch của mình, nên không
muốn giống ngựa của mình có ở nước khác. Ngựa không bịt móng vì đất ở
vùng quê không có đá không hại chân. Họ cũng không dùng đinh thúc ngựa
nhưng cầm roi lông. Họ cho rằng cưỡi ngựa mà ngựa không có nhạc đeo, thì
người cưỡi ngựa thành lố bịch, cưỡi như thế cũng không khác cưỡi bò.
Nhưng trong lúc để tang vua hay các thân quyến của vua, ai cưỡi ngựa có
nhạc thì sẽ bị phạt một món tiền to.
(*) Đông Kinh là tên của Hà Nội từ năm 1430 tới 1831. Đông Kinh được phương Tây nói trại là Tonkin, để chỉ miền Bắc VN thời đó
G.F de Marini Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Việt Nam qua mắt giáo sĩ phương Tây: Chúa Trịnh Tráng trọng đãi người Âu châu
Giuliano Baldinotti (1591 - 1631),
người Ý, sang Viễn Đông truyền giáo năm 1621. Ông là người Âu châu đến
Bắc kỳ đầu tiên; được chúa Trịnh Tráng trọng đãi.
Trước khi mất, Baldinotti làm tờ trình và nhân đấy Alexandre de Rhodes được cử sang trông nom địa phận Bắc kỳ.
Nhân dịp mấy thương khách Bồ Đào Nha trù tính sang xứ Đông Kinh (Hà
Nội) - hành trình mà chưa ai đi cả - các bề trên xét rằng nên phái tôi
đi với thầy Giulio Piani, sang trông nom việc rửa tội và nhân thể xem
dân xứ này có sẵn sàng chịu lời Chúa hay không?
Từ Ma Cao đến Hà Nội
Chúng tôi ở Áo Môn (Ma Cao) đi ngày 2.2.1626; mất 36 hôm, một vì dò
hỏi đã không được kỹ càng, hai là vì bão... Ngày 7.3, chúng tôi mới đến
Đông Kinh. Được tin Chúa (Le Roi) cử bốn thuyền chiến ra bể đón và hộ
vệ chúng tôi suốt dọc sông để bọn Tàu Ô đã rình sẵn khỏi cướp bóc.
Đến nơi, tôi đi cùng thầy Giulio và tất cả các người Bồ Đào Nha vào
bệ kiến, Chúa hoan hỉ tiếp chúng tôi, khoản đãi chúng tôi, cho ăn nhiều
món khác nhau và hứa giúp mỗi khi chúng tôi cần việc gì. Khi chúng tôi
kiếu từ, ngài ban cho viên thuyền trưởng và tôi nhiều y phục bản xứ rất
quý giá rồi truyền lệnh cho chúng tôi được ở những nhà tốt nhất tại kinh
đô.
Trong thời kỳ chúng tôi lưu tại Đông Kinh ngài hậu đãi chúng tôi,
sai mang các thứ giải khát cho viên thuyền trưởng và tôi hoặc ban cho
chúng tôi đủ thứ tặng phẩm mỗi khi chúng tôi vào triều kiến. Ngài thường
cho đòi chúng tôi vào xem các cuộc vui như đấu voi, thí ngựa hoặc đua
thuyền. Chúng tôi còn được mời xem tuồng hát và nhiều hội hè nhưng có
vài nơi cần giữ phẩm cách, tôi không đến. Ngài ưu đãi chúng tôi như vậy,
hình như vì muốn thông thương với người Bồ Đào Nha đã được tiếng đồn là
đem nhiều nguồn lợi bằng tàu thuyền đến xứ này.
Trong khi ở Đông Kinh, tôi hết sức khuyên bảo người Bồ Đào Nha nên
làm gương tốt cho dân trong xứ. Họ nghe theo tôi, nên Chúa đẹp lòng và
sẵn có ý tốt với đạo chúng ta, muốn lưu tôi lại. Một vị “nội giám” và
một pháp sư đã tâu ngài biết rằng tôi hiểu toán học, nên ngài sai một
quan thị gọi tôi vào để giảng cho ngài rõ những gì thuộc về thiên văn.
Khi quan thị đến, tôi thưa rằng: “Bề trên sai tôi đi theo người Bồ
Đào Nha lượt đi cũng như lượt về, tôi phải cai quản họ và hướng dẫn họ
về việc đạo, tôi không có phép ở lại đây; nhưng khi về đến Áo Môn, tôi
sẽ xin phép trở lại đây và sẽ ở đây vĩnh viễn. Được như thế tôi thỏa mãn
lắm vì phận sự tôi ở Đông phương không phải là để thâu nhặt bạc vàng
nhưng là để dạy cho họ cần đến những việc trời và nói cho họ hiểu đâu là
vị Thượng đế chân chính đã tạo ra trời đất”.
Chúa rất hài lòng về những lời trình bày của tôi nên mấy hôm sau
cho vị pháp sư trên kia vào chầu. Chúa ban yến cho tôi, hỏi tôi những
câu hỏi về khối tròn, yêu cầu tôi sang năm lại sang, ban cho tôi một chỉ
bài để được vào và ngụ khắp xứ, không phải chịu một điều khoản nào cả.
Thái tử là người sẽ lên kế vị ngài cũng ban cho tôi một chỉ bài giống
như thế và nhiều quà cáp của vương phi…
Bị kẻ xấu hãm hại
Việc lập giáo đường đang tiến hành thì một tên Maure có đạo Hồi đi
nói xấu người Bồ Đào Nha và rêu rao lên rằng người Bồ Đào Nha làm do
thám cho vua Đàng Trong là thù địch của vua Đàng Ngoài và viên thuyền
trưởng Bồ Đào Nha đã nhận được một món tiền to về việc ấy. Bịa đặt ra
như thế, tên Maure muốn trả thù mấy người Bồ Đào Nha có hiềm khích với
hắn và muốn chiếm lấy của cải chúng tôi khi chúng tôi bị trục ra khỏi xứ
như quân do thám hay như quân bất lương.
Chúng tôi có dâng biểu trần tình; lại được thêm một vị hoàng thân
đã hiểu biết người Bồ Đào Nha ở nhiều nơi nói cho Chúa rõ, nên ngài
không tin những điều đồn bậy. Nhưng không yên tâm, Chúa buộc chúng tôi
thề sẽ không vào Đàng Trong và bao giờ cũng một lòng với ngài. Ngài cho
đòi chúng tôi đến một ngôi chùa (pagode). Dân gian theo chúng tôi đông
lắm.
Người ta đặt lên trên một chiếc hương án một bình đầy rượu và nước,
lần lượt người ta lấy một chiếc xẻng và mũi một thanh mã tấu gõ vào
bình. Đoạn người ta cắt tiết một con gà mái, rồi lấy mấy giọt huyết gà
dập tắt lửa từ một tờ giấy có viết lời thề đem đốt trên hương án. Con gà
mái bị chặt làm nhiều khúc. Lễ phát thệ ở trong chùa chỉ có thế, mọi
người đứng vòng quanh hương án và không làm gì khác nữa. Song rồi họ chỉ
vào chùa, chỉ vào bàn thờ và các cây nho thếp vàng dựng ở trên bàn thờ
bảo chúng tôi thề sẽ theo đúng lời đã nguyện và uống rượu cúng…
Đoán biết trước việc sẽ xảy ra như thế nào, tôi lấy một bức tranh
to vẽ Chúa, trải ra, tôi quỳ trước tranh nói không muốn gọi một vị Chúa
nào khác ngoài Chúa cứu thế mà thề cả… Quan nội giám, đến dự lễ thay
Chúa, không nghe theo lời tôi. Sau cùng tôi phải yêu cầu quan nội giám
cho người về tâu Chúa rõ ý định của chúng tôi. Chúa minh mẫn nên hiểu
chuyện và truyền cho chúng tôi cứ thề như người có đạo Cơ Đốc. Tôi nhìn
vào hình Chúa mà thề rằng, nếu tôi sai lời trong sớ thì Chúa sẽ bắt tôi
chết bằng nước, bằng lửa, bằng đao gươm và các thứ khổ hình khác. Thầy
Giulio, viên thuyền trưởng và tất cả các người Bồ Đào Nha cùng thề như
vậy. Lời thề của chúng tôi làm Chúa hết nghi ngờ, ban cho chúng tôi
nhiều phẩm vật cùng đồ giải khát và cho phép chúng tôi nhổ neo. Ngài đã
giữ chúng tôi lại thêm vài tháng chỉ vì ngài đã sợ chúng tôi vào nam.
Giuliano Baldinotti Nguyễn Trọng Phấn (dịch)
Việt Nam qua mắt giáo sĩ phương Tây: Thủy quân Đàng Ngoài
Thủy quân Đàng Ngoài thế kỷ 17 đã được
nhà truyền giáo người Ý G.F de Marini (1608 - 1682) ghi chép với những
so sánh với thủy quân châu Âu.
Thi chèo
Bọn thuyền thủ bơi thường không có ghế ngồi, tay cầm chèo, mỗi bên
mạn thuyền là hai mươi nhăm đến ba mươi người. Khác với thủy thủ Âu
châu, họ quay mặt về phía mũi thuyền. Theo hiệu của người hoa tiêu, họ
bơi có nhịp, rất đều, lúc nhanh, lúc chậm, theo tiếng gõ vào thanh gỗ
đặt chéo trên một bệ cao đằng cuối thuyền là chỗ người hoa tiêu lên ngồi
để hướng dẫn và điều khiển.
Cuốn sách ghi chép về VN và Lào của giáo sĩ G.F de Marini xuất bản bằng tiếng Pháp tại Paris năm 1666 - Ảnh: T.L
Vui nhất là khi ta thấy một chiếc thuyền bị đuối lại và bị các
thuyền khác bỏ xa. Thôi thì tiếng kêu gào, lời chế nhạo, sự xấu hổ làm
kích thích bọn trai bạn. Bọn này bỏ lối chèo lúc trước, nghiến răng, mắm
môi, giậm chân xuống sàn thuyền thỉnh thoảng lại cổ vũ nhau, gập cong
lưng, cúi mình có khi đầu chạm bàn tay cầm mái chèo; thu toàn lực, họ
vội vàng đến nỗi người như sút đi chỉ còn lại một nửa, đầu mái chèo chỉ
chạm sơ xuống nước, thuyền bay hơn là trôi đến gần những người khác rồi,
họ đứng thẳng người lên, không bơi dữ dội như thế nữa, thở một chút để
phòng lúc gần đến đích đã chọn họ còn hơi dấn lên trước nhất. Mà khi đã
trông thấy, nhận thấy đích từ đằng xa rồi, thì hình như ngủ say sực
tỉnh, họ đứng thẳng mắt trông đích, tay cầm chèo. Họ đặt tất cả hy vọng
vào hai cánh tay, làm rung chuyển mái chèo thiếu chút nữa thì chèo gãy;
chân tay rã rời, đầu nghẹo đi, cằm tựa lên một bên vai; giá mái chèo
không làm bằng một thứ gỗ mềm và sai khiến được thì nhiều chiếc đã gãy
rồi. Thuyền nào về đích đầu tiên, được thưởng và hoan hô vang giời.
Đức vua còn đến quán dịch có hai tầng này với các triều thần mỗi
khi nước lụt, xem nước lên biến những cánh đồng rộng thành bể cả tai hại
đến thế nào, ngài cho là một sự vui thích dị kỳ khi đứng trên lầu các
này xem bao nhiêu dân đã sống bì bõm trong đồng nước...
Chèo chống giỏi, chinh chiến quen
Đức vua có hai nghìn chiến thuyền không kể vô số những thuyền con
nữa. Tuy vậy thủy quân của ngài cũng không được bằng các hạm đội tàu bên
Âu châu về súng ống. Và cái nào cũng phải sửa soạn ra khơi để phụng sự
đức vua. Như thế ngài có thể lập được nhiều thủy đội mà không tốn kém
lắm...
Trong một cuộc đi thăm, đức vua lên hành hương trên một ngôi đền
(hay chùa) của một viên thái giám thân tín của ngài mới lập lên, tôi
thấy suốt dọc sông chạy bên đường, trên một quãng dài trông như một rừng
(cột buồm), một số thuyền đi hộ giá ngài nhiều đến nỗi đếm không xuể.
Tôi đâm chán và mải ngắm một quang cảnh thích ý và vui mắt. Tôi giao
việc đếm thuyền cho người khác. Những chiến thuyền này dài chừng ba mươi
đến ba mươi nhăm thước và rộng chừng mười bốn, mười lăm thước. Không có
gì trở ra hai bên sườn như thuyền chiến Âu châu, ở đằng đầu cũng không
có mũi nhọn (để đâm thủng tàu bên địch). Bánh lái giống như bánh lái đò
chở trên sông, ở cuối thuyền chớ không ở một bên mạn. Những thuyền to
như thuyền rồng, mỗi bên mạn có hai mươi nhăm mái chèo; thuyền bè có
mười tám hoặc hai mươi chiếc thôi. Mỗi mái một người chèo; thành ra
thuyền thủ chỉ có từ năm đến sáu chục người vừa chèo chống giỏi lại vừa
chinh chiến quen; đến dịp thì buông tay chèo, họ vớ súng lúc nào cũng để
gần cạnh và họ biết cách dùng rất thắng lợi.
Nhiều thuyền không dùng còi. Những viên thuyền trưởng ngồi trên
trong cái phòng hay một cái đài cao đặt ở đằng lái, một tay cầm một
thanh gỗ gõ vào một thanh khác cầm ở tay kia lúc mau, lúc chậm để sai
khiến sức nhanh chậm của thuyền, bọn thủy thủ bơi rất đúng với mệnh lệnh
của thuyền tướng. Họ phải là bọn đồng tuổi đồng sức vóc, khéo léo và
thạo việc; họ đi chân đất đóng một chiếc khố nhưng mặc áo may cùng một
thứ vải với mũ.
Trên thuyền, chỗ sang trọng nhất ở đằng lái: đấy có một khoang
thuyền rất xinh xắn và cân xứng với thuyền, bên ngoài có nét chạm trổ
rất đẹp mạ vàng; bên trong có dát vàng, quét sơn tinh tế và phủ những
bức thêu bằng lụa; dưới sàn giải chiếu cói mảnh; chung quanh khoang có
bao lơn và nhiều cột nhỏ đặt như chung quanh một dãy hành lang; có một
hai khẩu thần công đặt trên giá chứa được tám cân đạn.
Mũi thuyền và lái thuyền đều tròn, cất cao khỏi mặt nước chừng bốn
năm thước có trạm nhiều hình, lá nổi, thếp vàng, sơn màu rất thanh nhã,
đẹp mắt. Mạn thuyền là chỗ đặt bơi chèo cũng được trang điểm bằng những
hình chạy thành hàng chung quanh thành.
Họ không dùng nhựa thông hoặc mỡ bò phết thuyền, nhưng dùng một thứ
sơn thường pha giống như sáp Tây Ban Nha, khi nào ánh nắng vào, thuyền
sáng nhoáng làm mắt bị chói. Những thuyền ngự có nhiều vàng dát, bên
trong khoang có ít nhiều chỗ mạ vàng; tất cả các mái chèo của những
chiếc thuyền này đều sơn vàng. Thuyền nào cũng có mui che, vỉ phủ lên
trên để che ánh nắng gay gắt; có những thứ chiếu cói to đan rất khéo,
chống lên nhiều con sào và buộc vào những sào ấy bằng dây tơ.
Những thuyền của các vương thân đại thần, thái giám cũng được trang
hoàng ít nhiều tùy theo sự chủ nhân những chiếc thuyền này tiêu vào đấy
nhiều hay ít. Thuyền cũng có cột và buồm nhưng tôi chỉ thấy họ dùng
chèo thôi. Chính vậy bọn chân sào vì lòng tự ái không bao giờ bỏ tay
chèo, tuy nhiều khi gió thuận, thổi từ đằng lái lên; họ không muốn đức
vua và các thuyền rồng chịu nguy hiểm vì sức gió, chỉ khi nào họ thi
bơi, họ mới giương buồm lên mà thôi.