Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015

BÍ ẨN LỊCH SỬ 91

(ĐC sưu tầm trên NET)

Tấm bản đồ góp phần thay đổi cục diện Chiến tranh thế giới thứ II

VietnamDefence - Thời kỳ đầu Chiến tranh thế giới thứ II, nước Mỹ do nhiều nguyên nhân nên luôn ở ngoài cuộc chiến và không hề muốn tham dự vào chiến tranh khi đó đã lan rộng ở châu Âu.
Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh thế giới thứ II xảy ra 2 năm, chỉ nhờ một tấm bản đồ đã khiến cho "chú Sam" phải từ bỏ chính sách trung lập và tham gia vào cuộc chiến chống phát xít.

Ngày 1/9/1939, phát xít Đức huy động lực lượng lên đến 62 sư đoàn với 1,6 triệu quân cùng 2.800 xe tăng và môtô dưới sự hỗ trợ của 2.000 máy bay chia ra thành ba mũi tấn công bất ngờ vào Ba Lan châm ngòi cho cuộc Chiến tranh thế giới thứ II tại châu Âu.
TT Mỹ Roosevel ký văn bản tuyên bố chiến tranh với Nhật Bản.
Chỉ sau 1 tháng, quân Đức đã thực hiện thành công chiến lược "chiến tranh chớp nhoáng" thôn tính xong Ba Lan. Tiếp sau đó, đến tháng 5/1940, quân Đức đã huy động  lực lượng 136 sư đoàn phát động cuộc tổng tiến công trên khắp các khu vực ở Tây, Bắc và Đông Nam của châu Âu.
Khi đó nước Pháp đã không thể ngăn chặn nổi bước tiến của quân Đức, nước Anh cũng lâm vào cảnh "độc lập tác chiến" nên rất khó khăn và chỉ còn hy vọng vào sự hỗ trợ của nước Mỹ đồng minh ở bên kia bờ Đại Tây Dương.
Vì vậy ngày 15/5/1940, Thủ tướng Anh Churchill đã gửi cho Tổng thống Mỹ một bức điện kêu gọi Mỹ chi viện khẩn cấp cho nước Anh. Tuy nhiên chỉ một ngày sau đó, lực lượng quân Đức đã phá được phòng tuyến của quân Pháp và nhanh chóng tiến về eo biển Anh - Pháp.
Hơn 400 ngàn quân của Anh và Pháp bị vây hãm trong một khu vực tam giác nhỏ bé. Để bảo toàn lực lượng, ngày 20/5, Thủ tướng Churchill đã ra lệnh rút quân. Kết quả là chỉ có 220 ngàn quân viễn chinh Anh cùng 80 ngàn quân Pháp rút lui được về đến lãnh thổ Anh. Ngày 4/6, quân Đức đã bao vây thủ đô Paris của nước Pháp và đến ngày 22/6, chính phủ Petain đã ký văn bản đầu hàng quân Đức.   
Tuy nhiên, Hitler đã không chỉ dừng lại ở đó. Sau khi Pháp đầu hàng, Hitler đã điều động hai tập đoàn quân với 25 sư đoàn tập kết ở khu vực eo biển giáp nước Anh đồng thời huy động 1.480 máy bay ném bom cùng 1.000 máy bay chiến đấu để phát động kế hoạch mang tên "Sư tử biển" nhằm đổ bộ đánh chiếm nước Anh dưới sự yểm trợ của lực lượng không quân hùng hậu.
Hàng ngàn máy bay Đức đã liên tục không kích nước Anh suốt 2 tháng, phá hủy hàng loạt các cơ sở công nghiệp, thành phố London bị biến thành một đống đổ nát. Nước Anh lâm vào tình thế cực kỳ nguy hiểm. Và lối thoát duy nhất của nước Anh lúc đó là tranh thủ được sự giúp đỡ của Mỹ ở bên kia bờ Đại Tây Dương.
Là một chính trị gia có tầm nhìn, Tổng thống Mỹ Roosevelt biết rằng dã tâm của phát xít Đức không chỉ dừng lại ở châu Âu và trật tự thế giới mới do các nước phát xít đề xướng là như thế nào. Trong khi đó ở chiến trường Liên Xô, đến tháng 10/1941, quân Đức đã tiến sát đến thủ đô Moskva.
Mặc dù cả Churchill lẫn Stalin đều lên tiếng yêu cầu Mỹ tham chiến để đối phó với lực lượng phát xít nhưng người Mỹ vẫn thờ ơ: các giải pháp viện trợ Anh và Liên Xô do Tổng thống Roosevelt đưa ra đều bị Quốc hội Mỹ phủ quyết.
Tuy nhiên tình thế đã thay đổi vào ngày 27/10/1941. Khi đó trong một buổi tiệc kỷ niệm ngày thành lập lực lượng Hải quân Mỹ, Tổng thống Roosevelt tuyên bố cơ quan tình báo Mỹ đã có được một tấm bản đồ khu vực Trung - Nam Mỹ mới làm cho Hitler trong đó có kèm theo những chú thích rõ ràng.
Trên tấm bản đồ được xuất bản với danh nghĩa chính phủ Đức Quốc xã có thể thấy rõ ràng rằng Hitler đã điều chỉnh lại đường biên giới của 14 nước thuộc khu vực này theo ý đồ của hắn. Theo đó 3 nước Venezuela, Guyana, Columbia bị hợp nhất lại thành một quốc gia được gọi tên là "Tây Ban Nha mới" và đặt dưới sự khống chế của Đức Quốc xã.
Đồng thời một số nước có chủ nghĩa phát xít đang ngày càng phát triển như Brazil, Argentina đã được mở rộng lãnh thổ. Mexico thì bị biến thành nguồn cung cấp dầu mỏ cho Đức, kênh đào Panama và toàn bộ khu vực Mỹ Latinh đều bị đưa vào phạm vi ảnh hưởng của Đức Quốc xã.
Tấm bản đồ trên cho thấy rõ ý định lấn chiếm vào "sân sau" của Mỹ, của Hitler và nếu đạt được mục đích đó thì máy bay chiến đấu của Đức có thể đe dọa bất kỳ thành phố nào của nước Mỹ. Tấm bản đồ đó đã cho thấy rõ mục tiêu kế tiếp của Hitler sau khi đánh bại nước Anh và Liên Xô.
Lo sợ phát xít Đức làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, vì vậy dư luận Mỹ yêu cầu Quốc hội và chính phủ từ bỏ chính sách trung lập và viện trợ nước Anh cùng châu Âu tham gia chiến tranh. Trong tình hình đó, nhờ áp lực dư luận, Tổng thống Roosevelt đã thúc giục Quốc hội Mỹ hủy bỏ "Luật trung lập" được thông qua năm 1935 và cung cấp viện trợ khẩn cấp cho Liên Xô và Anh.
Theo đánh giá của các nhà sử học thì chính tấm bản đồ đó đã khiến nước Mỹ thay đổi thái độ từ bàng quan sang chủ động tham gia trận tuyến chống phát xít, nhờ đó thay đổi cục diện Chiến tranh thế giới thứ II.
Hai nhà sử học Mỹ đã phát hiện thấy những bí mật đáng kinh ngạc liên quan đến tấm bản đồ này trong những tài liệu của Cơ quan tình báo Anh: thì ra trên thực tế tấm bản đồ do Tổng thống Roosevelt đưa ra khi đó lại là một kiệt tác của Cơ quan Tình báo Anh làm theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Anh Winston Churchill.
Sau khi không thành công trong nhiều lần kêu gọi sự viện trợ của nước này, Thủ tướng Churchill đã dùng đến biện pháp ngụy tạo một bằng chứng cho tham vọng lấn vào "sân sau" nước Mỹ của Hitler để kích động tâm lý của người Mỹ và qua đó dẫn dụ Mỹ tham chiến.
Theo đó Cơ quan Tình báo Anh đã làm giả tấm bản đồ khu vực Trung - Nam Mỹ và đã sắp xếp để tấm bản đồ đó lọt vào tay tình báo Mỹ. Khi biết được tin tức về việc Hitler tấn công Liên Xô và Mỹ đồng ý viện trợ vũ khí cho Anh, ông Churchill đã thốt lên vui mừng rằng: "Đây chính là quà tặng tuyệt vời nhất của Thượng đế".
Hiện nay, tấm bản đồ lịch sử này vẫn nằm trong phòng Chiến tranh thế giới thứ II của Viện Bảo tàng Anh
  • Nguồn: ANTG, 03.11.2008.

Fidel đã cứu TT Hugo Chávez năm 2002 như thế nào?

VietnamDefence - Máu của người Cuba đã đổ xuống cùng với máu của công dân nhiều nước Mỹ Latinh, và cùng với dòng máu Cuba–Mỹ Latinh của Che, người đã bị giết hại theo lệnh của bọn tay sai Mỹ ở Bolivia trong tình trạng đã bị thương, bị bắt và vũ khí đã bị hỏng trong khi chiến đấu.
Máu của những công nhân xây dựng Cuba đang giúp hoàn thiện sân bay quốc tế có tầm quan trọng sống còn đối với nền kinh tế của hòn đảo Grenada nhỏ bé, sống dựa vào du lịch, cũng đã đổ xuống trong chiến đấu bảo vệ đất nước trước cuộc xâm lược của Mỹ với những lý do hèn mạt.

Máu của người Cuba cũng đã đổ ở Nicaragoa khi các chuyên gia thuộc lực lượng vũ trang của chúng tôi giúp huấn luyện những người lính dũng cảm ở đó chống lại cuộc chiến tranh bẩn thỉu do Mỹ tổ chức và trang bị nhằm lật đổ cuộc Cách mạng Sandino.

 
Fidel và nhà báo Ramonet
Tôi không thể kể hết tất cả các trường hợp. Hơn 2.000 các chiến sĩ quốc tế anh hùng Cuba đã hy sinh khi thực hiện sứ mệnh thiêng liêng ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng, giành độc lập của các dân tộc anh em khác. Cuba không có tài sản ở bất cứ một nước nào trong số đó. Không có đất nước nào khác trong thời đại ngày nay có được trang sử chói sáng đến như vậy về tình đoàn kết chân thành và vô tư.

Tôi dừng lại ở đây, chắc anh nghe đã phát mệt, nhưng tôi vẫn có thể nói thêm nữa...

- Nhà báo Ignacio Ramonet: Đó là bản tổng kết ấn tượng. Ông nghĩ lịch sử sẽ phán quyết ông như thế nào?

Fidel Castro Ruz và Hugo Chavez
- Fidel Castro Ruz:
Đó là điều không đáng quan tâm. Anh có biết tại sao không? Bởi vì nhân loại đã mắc rất nhiều sai lầm, đã làm nhiều điều ngốc nghếch, mà nếu tồn tại được, khả năng này đang được thể hiện, trong vòng 100 năm nữa, những thế hệ tương lai sẽ nhìn chúng ta như những bộ lạc man rợ, thiếu văn minh đến nỗi không đáng nhớ tới.

Có thể họ sẽ nhắc một giai đoạn lịch sử mà nhân loại hầu như biến mất, và đã xảy ra những điều khủng khiếp, khi chúng ta vẫn là những kẻ man rợ, thiếu văn minh. Đó là quan niệm mà có thể thế hệ tương lai vào năm 2100 sẽ nghĩ về chúng ta. Họ sẽ nhìn chúng ta như chúng ta đã nhìn con người tiền sử, cho đến gần đây, tôi tin là như vậy. Mỗi thập niên của thế kỷ XXI có tính chất quyết định này trôi qua, sẽ có giá trị bằng khoảng thời gian 1.000 năm.

Vì vậy, sẽ chẳng có ý nghĩa gì khi nói đến sự phán quyết sau này của lịch sử. Tôi nghĩ như thế, một cách chân thực. Tôi quan tâm nhiều hơn đến uy tín mà đất nước này có thể có được nhờ cuộc đấu tranh của mình, nhờ cuộc chiến đấu của ngày hôm nay, chứ không phải những gì nhất thiết liên quan đến bản thân tôi.

Tôi đã đọc rất nhiều về những nhân vật xuất chúng nói về niềm vinh quang. Napoléon từng nói về niềm vinh quang, ông ấy thường xuyên quan tâm đến vinh quang. Nhưng ở rất nhiều nước hiện nay, Napoléon nổi tiếng nhờ các nhãn hiệu rượu Cognac có mang tên ông ấy, chứ không phải vì những gì mà ông đã làm trên chiến trường. Vậy thì tôi nói: quan tâm để làm gì?
Những người như Bolívar cũng nói rất nhiều đến vinh quang. Tôi luôn là người rất ngưỡng mộ Bolívar. Có lần, trong bài phát biểu ở Trường đại học Trung tâm Venezuela, tôi đã nói: “Bolívar đã từng nói đến vinh quang, nhưng ông không phải là một người đi chinh phục các dân tộc mà là người đi giải phóng các dân tộc”. Alejandro là người đi chinh phục các dân tộc và là người lập ra các đế chế. Còn rất nhiều nhân vật vĩ đại được thế giới ngưỡng mộ trong nhiều thế kỷ qua như Aníbal, Julio César, tất cả họ đều là những người đi chinh phục và là những chiến binh.

- Nhà báo Ignacio Ramonet: Hoặc chỉ nói đến “những kẻ xấu xa” như Atila chẳng hạn.

- Fidel Castro Ruz:
Nhưng ông ấy đã đánh chiếm phương Tây. Nếu Cristóbal Cólon đoán đúng và không có một châu lục xuất hiện trên đường đi thì ông ấy đã đến Trung Hoa, và sau đó, nếu muốn, ông ấy sẽ tìm cách chinh phục đất nước đó chỉ với 12 con ngựa và vài khẩu súng hỏa mai, nếu tôi không nhầm, như họ đã từng chinh phục Cuba. Nhưng nếu gặp phải quân Mông Cổ, với hàng trăm nghìn kị binh thì Cólon sẽ chỉ được nhắc đến như một kẻ không may mắn và có ý tưởng điên rồ đặt chân đến Trung Quốc và đã biến mất chỉ trong vòng 15 phút sau khi đến nơi nếu thực sự muốn chiếm mảnh đất đó.

Nên nhớ rằng, nếu ông ấy đi Marco Polo thì sẽ được hoan nghênh, nhưng nếu định thôn tính đất đai nhân danh đức vua Cơ Đốc giáo, bằng cây thánh giá và thanh gươm, thì ông ấy sẽ chỉ tồn tại được 15 phút, và Cortes cũng như những người khác sẽ đều như vậy.

Nhưng có những nhân vật khác, lịch sử thường không nhắc đến. Những nhà khoa học vĩ đại, những nhà sáng tạo vĩ đại, những nhà nghiên cứu đã có nhiều đóng góp cho nhân loại... Có thể nói, lịch sử không hề nhắc đến họ. Có thể có một số người nhớ đến họ. Nhưng các nhà lãnh đạo chính trị thì không có những thành tựu đáng để được nhắc đến.

- Nhà báo Ignacio Ramonet: Ông có nói rằng ông rất ngưỡng mộ Hugo Chávez, Tổng thống Venezuela?

- Fidel Castro Ruz: Đúng như vậy, chúng ta lại có một người da đỏ khác, Hugo Chávez một thổ dân kiểu mới mà như ông ấy nói: "Là sự pha trộn giữa người da đỏ và người lai"; thực ra ông ấy nói rằng mình mang trong người một ít của da đen, một ít của da trắng và một ít của da đỏ.

Khi nhìn Chávez, anh sẽ thấy một người con chính thống của Venezuela, người con của dân tộc Venezuela với sự pha trộn về nòi giống, với tất cả những nét cao quý và một tài năng xuất chúng. Tôi thường nghe các bài phát biểu của Chávez, và ông ấy tỏ ra tự hào về nguồn gốc thấp hèn và về chủng tộc lai tạp của mình, trong đó có mỗi thứ một ít, nhưng chủ yếu là của những người da đỏ bản địa, hay của những người nô lệ được đem từ châu Phi tới. Có thể ông ấy có mang một số gien của người da trắng và điều đó không phải là xấu; sự pha trộn những cái gọi là chủng tộc luôn luôn là tốt, làm phong phú nhân loại.

- Nhà  báo Ignacio Ramonet: Chắc ông theo dõi sát diễn biến tình hình Venezuela, đặc biệt là những âm mưu làm mất ổn định chống lại Tổng thống Chávez?

- Fidel Castro Ruz: Có chứ, chúng tôi đã chăm chú theo sát những sự kiện đó. Năm 1994, Chávez đã đến thăm chúng tôi, 9 tháng sau khi ông ấy được ra tù, và 4 năm trước ngày ông trúng cử tổng thống lần thứ nhất. Ông ấy đã rất dũng cảm, vì bị chỉ trích mạnh mẽ khi quyết định thăm Cuba. Ông ấy đã tới đây và chúng tôi đã chuyện trò với nhau. Chúng tôi phát hiện ông ấy còn là con người có văn hóa, thông minh, rất tiến bộ, là một chiến sĩ Bolivariano đích thực (Bolivariano - người theo tư tưởng và tấm gương của Simón Bolívar, người Venezuela, thủ lĩnh của phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước Mỹ Latinh, nhân dân ở châu lục này gọi ông là Nhà giải phóng).

Sau đó, ông ấy thắng cử, thắng một vài lần nữa. Ông ấy đã thay đổi  Hiến pháp, được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân. Các lực lượng chống đối đã tìm cách lật đổ ông bằng bạo lực hoặc bằng các đòn kinh tế. Ông ấy biết đương đầu với mọi cuộc công kích của tầng lớp thống trị truyền thống trong nước và chủ nghĩa đế quốc chống lại quá trình cách mạng Bolivariano.

Fidel Castro Ruz
và TT Hugo Chávez
Ở Venezuela, trong  40 năm của các nền dân chủ "nổi tiếng" trước thời Chávez, theo sự tính toán mà chúng tôi có được với sự hỗ trợ của những cán bộ ngân hàng dày dạn kinh nghiệm, thì đã có khoảng 300 tỉ USD bị tuồn ra khỏi Venezuela. Đáng lẽ Venezuela có thể có nền giáo dục như của Thụy Điển, nếu như họ có một nền dân chủ phân quyền thực sự, nếu như những cơ chế đó được vận hành, nếu như trong tất cả sự mị dân đó và sự quảng cáo tuyệt vời của họ có một chút xác thực và đáng tin.

Ở Venezuela, kể từ khi chính phủ của Chávez lên nắm quyền cho tới khi hối đoái được kiểm soát vào tháng 1/2003, theo chúng tôi tính toán có thêm khoảng 30 tỉ USD bị tuồn ra khỏi đất nước. Như chúng tôi đã nêu, tất cả những hiện tượng đó làm cho các trật tự hiện hữu ở bán cầu này đã không còn vững chắc.

- Nhà  báo Ignacio Ramonet: Ngày 11/4/2002, xảy ra cuộc đảo chính ở Caracas chống lại Chávez. Ông có theo dõi sự kiện đó không?

- Fidel Castro Ruz: Vào trưa ngày 11/4, khi thấy cuộc biểu tình do phe đối lập tổ chức đã bị bọn đảo chính lái chệch hướng và họ tiến gần tới Dinh Miraflores, tôi hiểu ngay rằng, các sự kiện nghiêm trọng đang đến gần. Thực ra thì chúng tôi quan sát cuộc biểu tình qua Đài Truyền hình Venezuela, lúc đó vẫn còn hoạt động. Những cuộc khiêu khích, những tiếng súng nổ, những nạn nhân, đã diễn ra ngay tức thì. Ít phút sau, những tín hiệu sóng của Đài Truyền hình Venezuela bị cắt. Tin tức nhận được khá rời rạc và qua nhiều đường khác nhau.

Chúng tôi biết rằng một vài sĩ quan cao cấp đã tuyên bố công khai chống lại Tổng thống. Họ khẳng định rằng đơn vị bảo vệ Phủ Tổng thống đã rút đi, và quân đội sẽ tấn công Dinh Miraflores. Một số nhân vật Venezuela lúc đó đang gọi điện thoại cho những người bạn của họ ở Cuba để vĩnh biệt, vì họ sẵn sàng kháng cự và hy sinh, họ đã nói cụ thể là sẽ hy sinh.

Lúc ấy tôi đang họp ở cung Đại hội cùng Ban Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng. Từ trưa hôm đó,  một phái đoàn chính thức của Xứ Vasco do ông Thủ hiến dẫn đầu có cuộc gặp và dự bữa cơm trưa cùng với tôi, trong khi không một ai tưởng tượng được sự kiện sẽ diễn ra trong cái ngày bi thảm đó. Chính họ đã chứng kiến những sự kiện xảy ra vào khoảng thời gian từ 13h đến 17h ngày 11/4.

Chiều hôm đó,  từ sớm anh em đã cố gắng để tôi điện đàm với Tổng thống Venezuela. Nhưng không thể được. Mãi tới sau nửa đêm, vào lúc 24h38' đêm 12/4, tôi được báo là Chávez đang chờ điện thoại.

Tôi hỏi ông ấy về tình hình vào thời điểm đó. Ông ấy trả lời: "Ở đây, chúng tôi đang cố thủ trong Dinh Tổng thống. Chúng tôi đã mất lực lượng quân sự để có thể quyết định. Chúng tôi đã cắt tín hiệu vô tuyến truyền hình. Tôi hiện không có lực lượng để cơ động và đang phân tích tình hình". Tôi đã hỏi ông ấy rất nhanh: "Anh có bao nhiêu lực lượng ở đấy?".

- Từ 200 đến 300 người đã rất kiệt sức.

Tôi lại hỏi: "Anh có xe tăng không?".

- Không. Trước có xe tăng nhưng bây giờ chúng đã rút hết về doanh trại rồi.

Tôi lại hỏi: "Vậy anh còn nắm lực lượng nào?".

Và Chávez trả lời: "Còn vài lực lượng khác ở xa. Nhưng tôi không liên lạc được với họ". Ông ấy nói tới Tướng Rául Isaias Baduel và quân nhảy dù, Sư đoàn thiết giáp và các lực lượng khác, nhưng đã mất hết liên lạc với các đơn vị ủng hộ phong trào Bolivariano và trung thành đó.

Rất tế nhị, tôi nói với ông ấy: "Anh cho phép tôi nêu một ý kiến". Ông ấy trả lời: "Vâng".

Tôi nói thêm với ông ấy với một giọng có tính thuyết phục nhất có thể: "Anh hãy đặt điều kiện về một hiệp ước danh dự và xứng đáng, và hãy bảo toàn mạng sống của những con người mà anh đang có, họ là những người trung thành nhất. Anh đừng có hy sinh họ và cũng đừng hy sinh bản thân mình".
Chávez xúc động trả lời: "Tất cả mọi người ở đây đều sẵn sàng chết!".
Chávez có ba sự lựa chọn: hoặc cố thủ ở Miraflores và kháng cự đến chết; hoặc rời khỏi Dinh Tổng thống và tìm cách tập hợp lại quần chúng để phát động một cuộc kháng chiến toàn quốc, với rất ít khả năng đạt kết quả trong hoàn cảnh lúc đó, hoặc rời khỏi đất nước, không từ bỏ, cũng không từ chức để tiếp tục cuộc đấu tranh với triển vọng đạt kết quả thực tế và nhanh chóng.
Không để mất một giây, tôi nói thêm: "Tôi hiểu điều đó, nhưng tôi cho rằng tôi có thể suy nghĩ bình tĩnh hơn anh trong lúc này. Anh không nên bỏ cuộc, hãy đòi hỏi những điều kiện trong danh dự và được đảm bảo để anh không trở thành nạn nhân của sự phản trắc, bởi vì tôi nghĩ rằng anh phải bảo tồn sinh mạng. Hơn nữa, anh còn có nghĩa vụ với các đồng chí của anh, đừng tự hy sinh bản thân mình".
Tôi nhận thức rất rõ sự khác nhau sâu xa giữa tình cảnh của Allende ngày 11/91973 và tình huống của Chávez ngày 12/4/2002. Allende lúc đó không có lấy một người lính. Còn Chávez thì có rất nhiều binh lính và sĩ quan quân đội, đặc biệt là những quân nhân trẻ.
"Anh đừng bỏ cuộc! Anh đừng từ chức!". Tôi nhắc lại với Chávez.
Chúng tôi nói với nhau về những đề tài khác nhau: cách mà tôi nghĩ tới lúc đó là Chávez có thể tạm thời rời khỏi đất nước, liên lạc với một quân nhân nào đó có thực quyền trong hàng ngũ bọn đảo chính, đặt vấn đề với ông ấy  rằng anh sẵn sàng rời khỏi đất nước, nhưng không từ chức. Từ Cuba, chúng tôi đã cố gắng vận động Đoàn Ngoại giao ở nước chúng tôi và ở Venezuela, chúng tôi có thể sẽ gửi 2 máy bay với Bộ trưởng Ngoại giao của chúng tôi và một nhóm các nhà ngoại giao bay sang bên đó đón họ. Chávez đã suy nghĩ trong giây lát và cuối cùng chấp nhận gợi ý của tôi. Bây giờ tất cả còn tùy thuộc vào viên chỉ huy quân sự thù địch.
Trong cuộc phỏng vấn ông José Vicente Rangel, lúc đó là Bộ trưởng Quốc phòng và hiện là Phó tổng thống, người đã ở bên cạnh Chávez vào thời điểm đó, các tác giả của cuốn sách "Chávez của chúng ta", đã ghi lại nguyên văn: "Cuộc gọi điện thoại của Fidel lúc đó có tác dụng quyết định, quyết định để tránh khỏi sự hy sinh. Ông ấy tỏ ra rất dứt khoát. Lời khuyên của ông ấy đã giúp chúng tôi rất nhiều, khiến chúng tôi nhìn rõ hơn trong bối cảnh đen tối".
- Nhà  báo Ignacio Ramonet: Lúc đó ông có khuyến khích ông ấy kháng cự với vũ khí trong tay không?
- Fidel Castro Ruz: Không, mà ngược lại. Đó là điều mà Allende đã làm, theo ý kiến tôi thì việc làm của Allende là đúng đắn trong hoàn cảnh lúc đó, và ông ấy trả giá một cách anh hùng bằng mạng sống của mình, như ông đã hứa trước đó.
Còn Chávez có ba sự lựa chọn: hoặc cố thủ ở Miraflores và kháng cự đến chết; hoặc rời khỏi Dinh Tổng thống và tìm cách tập hợp lại quần chúng để phát động một cuộc kháng chiến toàn quốc, với rất ít khả năng đạt kết quả trong hoàn cảnh lúc đó, hoặc rời khỏi đất nước, không từ bỏ, cũng không từ chức để tiếp tục cuộc đấu tranh với triển vọng đạt kết quả thực tế và nhanh chóng. Chúng tôi đã gợi ý với Chávez về khả năng thứ ba: những lời cuối cùng của tôi để thuyết phục ông ấy trong cuộc điện đàm đó thực chất là: "Anh hãy giữ mạng sống của những con người thật quý giá đó đang ở bên cạnh anh trong cuộc chiến đấu chưa thật cần thiết lúc này".
Ý tưởng của tôi xuất phát từ niềm tin rằng, một người lãnh đạo bình dân và quý hiếm như Chávez bị lật đổ bằng hình thức phản trắc, trong hoàn cảnh đó, nếu chúng không giết ông, thì nhân dân - trong trường hợp này với sự ủng hộ của những bộ phận tốt nhất trong các lực lượng vũ trang - sẽ hướng tới ông ấy với một sức mạnh lớn hơn và sự trở về của ông sẽ là điều tất yếu. Do vậy, tôi đã nhận trách nhiệm kiến nghị với ông ấy điều tôi đã đề xuất.
Vào thời điểm cụ thể đó, khi còn có khả năng thực tế một cuộc trở về thắng lợi và nhanh chóng, không có chỗ cho khẩu hiệu chiến đấu tử thủ, như Allende đã từng làm rất tốt. Và cuộc trở về thắng lợi đó đã diễn ra, còn sớm hơn nhiều so với sự tưởng tượng của tôi.
- Nhà  báo Ignacio Ramonet: Vào lúc đó, các ông có tìm cách nào đó để giúp Chávez không?
- Fidel Castro Ruz: Là thế này, trong thời khắc đó, chúng tôi chỉ có thể tiến hành bằng việc sử dụng các nguồn ngoại giao. Chúng tôi đã triệu tập tất cả các vị đại sứ có mặt ở La Habana họp vào lúc trời chưa sáng và đề nghị họ đi cùng với Felipe (Perez Roque) Bộ trưởng Ngoại giao của chúng tôi sang Caracas để giải thoát một cách hòa bình cho Chávez, vị Tổng thống hợp pháp của Venezuela.
Tôi không có chút nghi ngờ gì, rằng Chávez trong một thời gian rất ngắn, sẽ quay trở lại trên những đôi vai của nhân dân và quân đội công kênh ông. Còn bây giờ việc phải làm là cứu sống ông ấy.
Chúng tôi đã đề nghị đưa hai máy bay sang để đón Chávez, trong trường hợp lực lượng đảo chính chấp nhận để ông ấy ra đi. Nhưng tên chỉ huy quân sự lực lượng đảo chính đã bác bỏ phương án trên, ngoài ra còn thông báo với ông ấy rằng sẽ đưa ông ra Hội đồng chiến tranh. Chávez mặc bộ quân phục của lính dù và chỉ có người trợ lý trung thành đi theo, đó là Jesus Suárez Chourio - khi được đưa tới pháo đài Tiuna trụ sở Bộ Tư lệnh và Sở Chỉ huy quân sự của lực lượng đảo chính.
Khi tôi gọi lại cho Chávez, hai giờ sau như chúng tôi đã thỏa thuận, thì Chávez đã thành tù nhân của bọn đảo chính và tôi đã mất mọi liên lạc với ông ấy. Đài truyền hình nhắc đi nhắc lại tin "ông đã từ chức" để làm nản lòng những đồng đội của ông và toàn dân.
Một vài giờ sau, khi đã sang ngày 12/4, Chávez đã tìm cách để thực hiện được một cuộc gọi điện thoại, và nói chuyện được với con gái ông ấy là Maria Gabriela. Ông khẳng định rằng ông không từ chức, rằng ông là một tổng thống bị cầm tù. Ông nhờ con gái thông báo với tôi điều đó, để tôi thông báo với thế giới.
Cô con gái ông ngay sau đó đã gọi cho tôi vào lúc 10h2' sáng ngày 12/4 và truyền đạt cho tôi lời nhắn của cha cô. Tôi liền hỏi cô: "Cháu có sẵn sàng thông báo với thế giới bằng chính tiếng nói của cháu không?". "Vì bố cháu, có gì mà cháu không thể làm?". Đấy là câu trả lời chính xác, đáng khâm phục và kiên quyết của con gái Chávez.
Không để mất một giây, tôi gọi ngay cho Randy Alonso, nhà báo và Giám đốc chương trình "Bàn tròn", một chương trình truyền hình rất quen thuộc đối với công chúng. Với điện thoại và máy ghi âm trong tay, Randy gọi cho số máy mà Maria Gabriela đã gọi cho tôi. Lúc đó vào khoảng 11h trưa. Họ đã ghi âm lại những lời nói rõ ràng, rất tình cảm và có sức thuyết phục của cô con gái, những lời nói đó ngay lập tức được chép lại và gửi tới các hãng thông tấn có đăng ký hoạt động ở Cuba và được công bố trong Bản tin thời sự trong nước của Đài Truyền hình (Cuba-ND) vào 12h40' ngày 12/4/2002 bằng chính giọng nói của Gabriela.
Cuộn băng ghi âm đã được sao lại và gửi cho tất cả các hãng truyền hình quốc tế có đại diện ở Cuba. Trong khi Hãng CNN đang hí hửng truyền đi những tin tức từ Venezuela, do các lực lượng đảo chính cung cấp, thì nữ phóng viên của họ ở La Habana, ngược lại, đã rất nhanh phát đi từ Cuba vào buổi trưa hôm đó những lời lẽ rất sáng tỏ của Maria Gabriela.

- Nhà báo Ignacio Ramonet: Và sau đó, kết quả ra sao?
- Fidel Castro Ruz: Là thế này, hàng triệu người Venezuela, đa số chống lại đảo chính, và những quân nhân trung thành với Chávez, những người mà bọn chúng định lừa dối và làm cho tê liệt với thông tin bịa đặt về cái gọi là sự từ chức của Tổng thống, đã nghe được lời thông báo của chính con gái ông ấy.
Vào lúc 23h15' hôm đó, Gabriela lại gọi. Giọng của cô ấy có vẻ bi quan. Không để  cô ta nói hết những lời mở đầu, tôi hỏi ngay: "Có việc gì vậy?". Cô trả lời: "Chúng đã chuyển bố cháu vào buổi tối trên một chiếc trực thăng, không biết đi đâu". "Hãy nhanh lên", tôi nói với cô, "Ngay lập tức, cháu phải tố cáo việc này bằng chính giọng nói của cháu".
Đúng lúc Randy đang ngồi với tôi trong một cuộc họp bàn về chương trình "Cuộc chiến tư tưởng", với các đồng chí lãnh đạo thanh niên và những cán bộ khác. Randy có trong tay chiếc máy ghi âm và ngay lập tức anh lặp lại thao tác nghiệp vụ giống như vào buổi trưa hôm đó. Dư luận Venezuela và thế giới nhờ vậy đã được thông tin về việc Chávez bị đưa đi một cách khác thường vào ban đêm, tới một nơi nào không rõ. Tin tức đó được phát đi vào thời gian giữa đêm 12 và rạng sáng ngày 13.
Thứ bảy ngày 13, từ rất sớm tôi đi dự Diễn đàn Công khai được tổ chức tại Guira de Melena, một huyện của tỉnh La Habana. Khi trở về văn phòng, trước 10 giờ sáng, thì nhận được một cuộc gọi điện thoại nữa của Maria Gabriela thông báo rằng: "Bố mẹ của Chávez rất lo lắng, các cụ muốn nói chuyện với tôi từ Barinas, và muốn đưa ra một tuyên bố".
Tôi bảo với cô ấy rằng có một tin điện của một hãng thông tấn quốc tế cho biết Chávez đã được chuyển đến Turiamo, một căn cứ hải quân ở Aragua, vùng bờ biển phía bắc của Venezuela. Tôi giải thích với cháu là theo ý tôi, với loại thông tin như vậy và những chi tiết được đưa ra có vẻ như đấy là tin xác thực. Tôi khuyên cô nên thăm dò thêm trong khả năng có thể. Cô nói rằng tướng Lucas Rincon, Tổng thanh tra các lực lượng vũ trang muốn nói chuyện với tôi, và ông ấy cũng muốn ra một tuyên bố công khai.
Bố và mẹ của Chávez nói với tôi: "Tất cả đều bình thường ở bang Barinas". Mẹ của Chávez cho biết viên chỉ huy quân sự của đơn vị đồn trú vừa nói chuyện với chồng bà, ông Hugo de los Reyes Chávez, Thống đốc bang Barinas và là thân sinh của Chávez. Tôi đã động viên để các cụ yên tâm.
Hugo Chaves thăm Fidel trên giường bệnh, tháng 2/2009
Ông thị trưởng thị trấn Sabaneta, nơi Chávez sinh ra, ở Barinas, cũng liên lạc với tôi. Ông ấy cũng muốn đưa ra một tuyên bố. Tiện thể, ông ta nhận xét rằng tất cả các đơn vị quân đội đồn trú ở đây đều trung thành với Chávez. Có thể thấy rõ ông ấy rất lạc quan.
Sau đó, tôi nói chuyện với Lucas Rincón. Ông này khẳng định rằng Lữ đoàn Dù, Sư đoàn Thiết giáp và  căn cứ máy bay ném bom F-16 đều chống lại đảo chính và sẵn sàng hành động. Tôi liền gợi ý với ông ấy nên làm tất cả những gì có thể để tìm giải pháp không xảy ra trận chiến giữa các quân nhân. Rõ ràng là cuộc đảo chính đã thất bại. Không có tuyên bố nào của ông tổng thanh tra, vì thông tin bị gián đoạn, và tôi không thể liên lạc lại được với ông ấy.
Ít phút sau, Maria Gabriela lại gọi: cô ấy nói với  tôi là tướng Baduel, chỉ huy Lữ đoàn Dù, muốn nói chuyện với tôi, và các lực lượng trung thành ở Maracay muốn ra một tuyên bố với nhân dân Venezuela và dư luận quốc tế.
Do quá sốt ruột muốn biết về tin tức nên tôi đã hỏi kỹ Baduel ba hoặc bốn câu ngắn về tình hình, trước khi tiếp tục cuộc đối thoại. Baduel đã làm thỏa mãn sự tò mò của tôi một cách nghiêm túc, mỗi câu trả lời của ông đều thể hiện rõ tính chiến đấu. Ngay lập tức, tôi nói với ông: "Tất cả đã sẵn sàng để ông đưa ra lời tuyên bố". Nhưng ông ấy nói: "Xin ngài chờ cho một phút, tôi xin chuyển điện thoại cho Trung tướng Julio Garcia Montoya, Thư ký thường trực Hội đồng An ninh và Quốc phòng. Ông ấy vừa đến đây để ủng hộ lập trường của chúng tôi".
Viên sĩ quan này có thâm niên cao hơn các sĩ quan trẻ ở Maracay, nhưng hiện tại không có lực lượng dưới quyền.
Lữ đoàn Dù của Baduel đã từng là một trong những trụ cột chủ yếu của lực lượng xe tăng, bộ binh cơ giới và máy bay ném bom hùng mạnh được bố trí ở Maracay, thuộc bang Aragua. Baduel được giới sĩ quan kính trọng. Ông ta đưa máy nói cho Tướng Montoya. Phát biểu của viên sĩ quan cấp cao  này thật thông minh, có tính thuyết phục và phù hợp với tình hình. Ông khẳng định về cơ bản, các lực lượng vũ trang Venezuela luôn trung thành với hiến pháp. Với điều này, ông đã nói lên tất cả.
Tôi ngẫu nhiên trở thành một loại phóng viên tiếp nhận và truyền đi những tin tức và thông điệp công khai, với những phương tiện đơn giản gồm 1 điện thoại di động và 1 máy ghi âm trong tay của Randy. Tôi thành nhân chứng của cuộc chống đảo chính tuyệt vời của nhân dân và các lực lượng vũ trang Bolivariano của Venezuela.

(Trích: Một trăm giờ với Fidel / Ignacio Ramonet.-H.: Chính trị Quốc gia, 2009). 
  • Nguồn: ANTG, 02 và 05.10.2009
Xem tiếp...

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG 20

(ĐC sưu tầm trên NET)


​Nhạc sĩ Phan Nhân qua đời

29/06/2015 16:03 GMT+7
    TTO - Nhạc sĩ Phan Nhân, một trong những cây đại thụ của làng âm nhạc VN, tác giả ca khúc Hà Nội – niềm tin và hy vọng qua đời lúc 11g45 hôm nay 29-6 tại nhà riêng, hưởng thọ 85 tuổi.

    Nhạc sĩ Phan Nhân qua đời trưa 29-6 tại nhà riêng
    Nhạc sĩ Phan Nhân qua đời trưa 29-6 tại nhà riêng
    Hơn một tháng nay, nhạc sĩ Phan Nhân ra vào bệnh viện 4,5 lần do suy tim cấp độ 3 và vừa phát hiện một khối u trong phổi.
    Vợ của ông là nghệ sĩ Phi Điểu chia sẻ với một người bạn của bà: “Chú thường ngồi vì khi nằm thì bị khó thở... nhưng chú vẫn "hát" hư hử hừ hư rất gần với rên. Chú vẫn rất hóm hỉnh chọc ghẹo và làm thơ tặng cô”.
    Nhạc sĩ Phan Nhân tên thật là Nguyễn Phan Nhân, sinh ngày 15-5-1930 tại Long Xuyên, An Giang. Nhạc sĩ Phan Nhân từng công tác ở Đài Tiếng nói Việt Nam II tại TP.HCM. Sau khi nghỉ hưu, ông cư trú tại TP.HCM.
    Nhạc sĩ Phan Nhân tham gia quân đội từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Sau Hiệp định Genève, ông chuyển từ quân đội sang văn công, tham gia công tác tại các đơn vị nghệ thuật: Đoàn Văn công Nam Bộ (tập kết), dự Đại hội Văn công toàn quốc năm 1954; Đoàn Văn công quân đội Nam Bộ (1995), Đoàn Ca Nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam và Ban Biên tập âm nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam (1959-1975). Tu nghiệp âm nhạc tại Hungari (1970-1972).
    Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ông chuyển về Phòng Văn Nghệ Đài Phát thanh Giải phóng, rồi Đài Tiếng nói Việt Nam II cho đến khi nghỉ hưu.
    Các sáng tác của Phan Nhân thắm đượm cảm xúc về tình yêu quê hương đất nước. Bài hát nổi tiếng Hà Nội - niềm tin và hy vọng của Phan Nhân được công chúng rất yêu thích.
    Bên cạnh đó là các ca khúc khác như Tình ca đất nước, Cây đàn ghi-ta của Victor Hara, Nhớ về Pắc Bó, Xa Hà Nội...
    Nhạc sĩ Phan Nhân còn viết bài hát viết cho trẻ em: Em là con gái má Út Tịch, Chú ếch con, Chú cừu Mộc Châu, Em là bông lúa Điện Biên, Hàng cây ơn Bác...
    Nhạc sĩ Phan Nhân được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học – Nghệ thuật, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Ba, Huy chương Thành đồng Tổ quốc, Huy chương Vì sự nghiệp Văn học - Nghệ thuật, Huy chương Vì sự nghiệp Âm nhạc, cùng nhiều huy chương và giải thưởng khác của các tổ chức Trung ương và địa phương...
    * Nghe ca khúc Hà Nội- niềm tin và hy vọng của NS Phan Nhân qua phần trình bày của NSND Trần Khánh trên Youtube:

                                       
    Nhạc sĩ Phan Nhân qua đời tại nhà riêng ở đường Nam Kỳ Khởi nghĩa, Q.3, TP.HCM. Lễ nhập quan diễn ra vào lúc 18g ngày 29-6. Lễ tang nhạc sĩ Phan Nhân sẽ diễn ra tại Nhà tang lễ Lê Quý Đôn (Q.3, TP HCM). Lễ viếng bắt đầu vào 7g sáng 30-6. Lễ động quan diễn ra sáng 2-7, sau đó được đem đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.
    Theo di nguyện, tro cốt nhạc sĩ Phan Nhân được đem về thờ tại chùa Hải Tuệ (Q.3, TP.HCM).
    MINH TRANG
     

    Trung Quốc bực tức với phim tài liệu của Philippines về Biển Đông

    (TNO) Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 29.6 lên tiếng tố cáo Philippines phát tán thông tin sai lệch sau khi Manila phát sóng bộ phim tài liệu ba tập bảo vệ chủ quyền của Philippines ở Biển Đông.


    Trung Quốc bực tức với phim tài liệu của Philippines về Biển Đông - ảnh 1Ngư dân Philippines đang gỡ lưới ở bờ biển Masinloc, tỉnh Zambales phía bắc Philippines, cách bãi cạn Scarborough gần 200 km - Ảnh: Reuters
    Tập đầu tiên của bộ phim tài liệu có tựa đề Karapatan sa Dagat (tạm dịch: Chủ quyền trên biển) được phát sóng trên truyền hình quốc gia Philippines nhân kỷ niệm quốc khánh nước này vào ngày 12.6, theo Reuters.
    Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bà Hoa Xuân Oánh ngày 29.6 nói rằng Philippines đang nỗ lực đưa ra thông tin sai lệch đánh lừa dư luận, tự tạo hình ảnh mình là “một nạn nhân” để thu hút sự ủng hộ của dư luận. 
    Trung Quốc và Philippines gia tăng những cuộc khẩu chiến liên quan đến vấn đề tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông trong những tháng gần đây.
    Hồi tuần rồi, một người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc tố cáo Philippines đang cố lôi kéo các quốc gia khác can dự vào vấn đề tranh chấp lãnh thổ sau khi Nhật Bản và Mỹ tiến hành tập trận với Philippines.
    Trong khi đó, chính phủ Philippines cho biết bộ phim tài liệu trên là nhằm thông tin cho người dân nước này và tăng cường sự ủng hộ của người dân Philippines đối với chính sách và hành động của chính phủ liên quan đến vấn đề Biển Đông
    Hồi năm 2013, Đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV) từng phát sóng phim tài liệu dài 8 tập tựa đề Hành trình trên Biển Đông, nhằm củng bố tuyên bố chủ quyền “đường lưỡi bò” phi lý của nước này.
    Philippines đã đệ đơn kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế, phản đối tuyên bố “đường lưỡi bò” phi lý của Bắc Kinh. Trung Quốc phớt lờ, không tham gia phiên phân xử.
    Phúc Duy


    Huyện đảo Lý Sơn cầu cứu ngừng tận diệt tôm cá

    29/06/2015 15:14 GMT+7
      TTO - Huyện đảo Lý Sơn có công văn đề xuất không cho những tàu có công suất lớn đánh bắt một cách tận diệt nguồn hải sản quanh đảo để duy trì và tái tạo nguồn hải sản quanh đảo.
      Hai tàu giã cào cập cảng Sa Kỳ sửa chữa - Ảnh: Trần Mai
      Hai tàu giã cào cập cảng Sa Kỳ sửa chữa - Ảnh: Trần Mai
      Trước tình trạng nhiều tàu cá có công suất lớn của Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… hành nghề lưới giã cào tận quét các loại hải sản quanh đảo Lý Sơn khiến lượng hải sản ngày một cạn kiệt.
      “Đề xuất cấm đánh bắt ở khu vực quanh đảo Lý Sơn là hợp lý. Bởi rất phù hợp với mong muốn của người dân. Và quan trong hơn là khôi phục sinh thái biển ở Lý Sơn”.
      Ông Phùng Đình Toàn - phó Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản Quảng Ngãi 
      UBND huyện Lý Sơn có công văn đề xuất UBND tỉnh Quảng Ngãi không cho những tàu có công suất lớn đánh bắt một cách tận diệt nguồn hải sản quanh đảo để duy trì và tái tạo nguồn hải sản quanh đảo.
      Theo thống kê của UBND huyện Lý Sơn, thời gian cao điểm khu vực quanh đảo có đến vài chục tàu giã cào hoạt động. Phần lớn những tàu giã cào hoạt động vào ban đêm theo “công thức” dùng loại lưới có lỗ cực nhỏ rồi dùng hai tàu có công suất lớn chạy hai bên lùa cá vào giữa quét sạch. Nơi tàu giã cào đi qua thì đến loại cá nhỏ nhất cũng không thoát được.
      Trong nhiều lần tiếp xúc cử tri, người dân huyện Lý Sơn và ngư dân các xã Nghĩa Phú, Nghĩa An (TP. Quảng Ngãi)… cũng liên tục phản ảnh tình trạng tàu giã cào tận diệt hải sản khu vực biển quanh đảo Lý Sơn trong thời gian qua.
      Thậm chí nhiều vụ đụng độ giữa tàu các tàu giã cào với nhau khi tranh giành khu vực biển đảo quét tôm cá.
      Ông Phùng Đình Toàn, phó chi cục trưởng, Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản Quảng Ngãi cho biết, chi cục nắm rõ tình trạng tàu giã cào khai thác thủy sản theo kiểu tận diệt ở vùng biển ven đảo Lý Sơn. Tuy nhiên hiện nay chưa có chế tài để phạt những tàu này. Hiện chỉ có tuyên truyền các tàu không nên khai thác kiểu hủy hoại là chính.
      TRẦN MAI
      Xem tiếp...

      BÍ ẨN LỊCH SỬ 90

      (ĐC sưu tầm trên NET)

      Những chuyện thú vị về chiến tranh

      VietnamDefence - 9 sự kiện lạ xảy ra trong các cuộc chiến tranh.
      1. Súng trường chọi xe tăng

      Binh lính Nhật Bản trong các trận đánh bên hồ Hasan bắn vào như vãi đạn vào các xe tăng Liên Xô bằng các viên đạ thông thường hòng bắn thủng chúng. Đó là vì lính Nhật được tuyên truyền rằng, xe tăng Liên Xô làm bằng gỗ dán! Kết quả là các xe tăng Liên Xô trở về sáng loáng nhờ bị phủ một lớp đầu đạn chì dính bẹt vào khi va vào vỏ giáp. Vỏ giáp thì hoàn toàn không hề hấn gì.

      2. Tổng động viên lạc đà

      Trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại của Liên Xô, tập đoàn quân dự bị số 28 của quân đội Liên Xô sử dụng những con lạc đà làm phương tiện kéo pháo chủ yếu.

      Tập đoàn quân này được thành lập ở Astrakhan khi diễn ra các trận đánh ở Stalingrad. Do thiếu ô tô và ngựa nên người ta buộc phải đi bắt những con lạc đà hoang ở ngoại ô và thuần hóa chúng.

      Đa số trong 350 con lạc đà đã ‘tử trận” trong các trận đánh, những con sống sót dần được chuyển sang các đơn vị kinh tế và được “giải ngũ” đến các sở thú. Riêng chú lạc đà có tên Yashka đã cùng Hồng quân tiến đến tận Berlin.

      (muzey-factov)

      3. Tai thính thay radar

      Trước khi các radar hiện đại ra đời và thậm chí cả trước khi xuất hiện các thiết bị thu tiếng động chuyên dụng, để phát hiện mục tiêu bay, người ta đã sử dụng những người có năng khiếu đặc biệt là những người thính tai.

      Năm 1914-1915, để bảo vệ London, người Anh đã sử dụng những người mù để nghe tiếng động. Bởi vì, người mù có thính giác nhạy bén hơn nhiều người thường.

      Những người mù thính tai chỉ cần quay chiếc ghế đặc biệt mà họ đang ngồi (ghế có khả năng quay theo phương ngang và thẳng đứng, góc quay có thể đo theo các vành chia độ đặc biệt) là xác định đường hướng máy bay (phương vị và góc tà) với độ chính xác tới 3 độ!

      4. Xác chết đánh lừa Hitler

      Tháng 4/1943, trên bờ biển Tây Ban Nha phát hiện được một cái xác mặc quân phục thiếu tá lính thủy đánh bộ Anh. Cổ tay tử thi có xích một chiếc vali nhỏ chứa các tài liệu mật về kế hoạch của đồng minh tiến đánh Hy Lạp.

      Do Tây Ban Nha hồi đó nhung nhúc điệp viên Đức nên các tài liệu đã nhanh chóng lọt vào tay Hitler. Thế là trùm phát xít hạ lệnh chuẩn bị phòng thủ Hy Lạp và Sardinia thay vì Sicily bất chấp khẩn cầu của Mussolini.

      Tuy nhiên, đồng minh lại đổ bộ đúng ở Sicily và không mấy khó khăn đã làm chủ hòn đảo. Hóa ra là tình báo Anh đã triển khai chiến dịch đánh lạc hướng có mật danh Operation Mincemeat chính là nhằm mục đích này. Họ đã mặc quân phục cho xác một người vô gia cư tự sát và đưa cái xác đến Tây Ban Nha bằng tàu ngầm.

      5. Bồi thường cho gái điếm

      Trong cuộc xung đột vũ trang Xô-Trung trên tuyến đường sắt Hoa đông năm 1929, một quả đạn pháo Liên Xô ngẫu nhiên giết chết một gái điếm trong một nhà thổ Nhật Bản.

      Lãnh sự quán Nhật Bản đã kiện Tư lệnh quân đội Liên Xô Blyukher đòi bồi thường 22.500 yen.

      Số tiền này được tính toán từ số năm mà gái điếm này lẽ ra có thể phục vụ, bao nhiêu khách hàng mà cô ta lẽ ra có thể tiếp trong thời gian đó và thu nhập mà lẽ ra cô ta có thể mang lại cho ngân sách Nhật Bản, Blyukher bác bỏ đơn kiện.

      6. Trắng, Đỏ cùng một trận tuyến

      Năm 1931, tỉnh Tân Cương, Trung Quốc bùng nổ cuộc nổi dậy của người Turk Hồi giáo. Những người Nga nhập cư như các phần tử bạch vệ sống ở Tân Cương từ thời nội chiến ở Nga, cũng như những người bỏ chạy trốn nạn đói và tập thể hóa ở Liên Xô bị động viên vào quân đội Trung Quốc.

      Hai năm sau, tướng tỉnh trưởng Tân Cương Sheng Shicai đã xin được Liên Xô hỗ trợ trấn áp cuộc nổi dậy. Liên Xô tung trung đoàn Alma Ata số 13 của OGPU (một trong những tên gọi ban đầu của KGB Liên Xô), binh sĩ trung đoàn này đều mặc quân phục bạch vệ.

      Ngoài ra, Liên Xô còn trực tiếp cung cấp tài chính cho các đơn vị người Nga nhập cư tham chiến. Vậy là, cả quân đỏ (Liên Xô) và quân trắng (bạch vệ) đều cùng ở một phe tham gia cuộc xung đột này.

      7. Bồi thường chiến phí 90 năm

      Phải đến tháng 10/2010, Đức mới hoàn thành bồi thường chiến phí cho Thế chiến I (1914-1918) mà họ bị áp đặt theo điều kiện của hiệp ước Versailles.

      8. Nổi tiếng nhờ trùng tên Harry Potter

      Tại một nghĩa trang ở Israel có nấm mộ của Harry Potter. Đó là một chàng binh nhì 17 tuổi của quân đội Anh, hy sinh năm 1939 khi giao tranh với quân nổi dậy.

      Cách đây không lâu, nấm mộ này trở thành nấm mộ được thăm viếng nhiều nhất ở Israel và được đưa vào danh sách các điểm tham quan của địa phương.


      Nhiều người biết đến binh nhì Harry Potter nhờ nhân vật trong truyện (Telegraph)

      9. Thời tiết làm hại Nagasaki


      Nếu như thành phố Hiroshima được Mỹ chọn làm mục tiêu chính tấn công nguyên tử ở Nhật Bản thì thành phố Nagasaki trở thành nạn nhân của bom nguyên tử do không may.

      Mục tiêu ném quả bom nguyên tử thứ hai là thành phố nhỏ Kokura, nhưng do trời nhiều mây nên viên phi công Mỹ quyết định hành động theo phương án dự phòng và tấn công Nagasaki.
      • Nguồn: Theo muzey-factov.

      Giáo hoàng và lần thoát hiểm tại Vatican năm 1981

      VietnamDefence - Ngày 23.2.2005, lần đầu tiên Giáo hoàng John Paul II công bố cuốn sách kể về những giây phút sau khi ông bị mưu sát hơn 2 thập kỷ trước. Vết đạn của hung thủ làm người đứng đầu toà thánh bị thương nặng, nhưng ông qua khỏi và tiếp tục sứ mệnh của mình.
      Sát thủ Mehmet Ali Agca
      Trong cuốn sách mới nhất mang tên "Memory and Identity: Conversations Between Millenniums", Giáo hoàng đã kể lại cảm xúc sợ hãi và đau đớn sau khi bị bắn. Nhưng ông "vẫn có cảm giác kỳ lạ về niềm tin" mình sẽ sống.

      Cuốn sách chủ yếu ghi lại các cuộc nói chuyện bằng tiếng Ba Lan giữa Giáo hoàng với những người bạn thân thiết như triết gia Krzysztof Michalski và đức cha quá cố Jozef Tischner.

      Các cuộc đàm đạo diễn ra năm 1993 tại nhà nghỉ mùa hè của Giáo hoàng gần Rome. Cuốn sách được in bằng tiếng Italy và xuất hiện tại các hiệu sách từ ngày 23/2, sau đó sẽ được dịch sang tiếng Anh.

      Giáo hoàng John Paul II được đánh giá là người làm thay đổi toà thánh Vatican nhiều nhất so với các vị tiền nhiệm trong thế kỷ XX. Trên cương vị người đứng đầu toà thánh, ông chủ động gắn liền với nền chính trị thế giới, khác hẳn với lối sống khép kín truyền thống. Do đó, sự kiện ông bị mưu sát ngày 13/5/1981 đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống quan hệ quốc tế lúc đó.

      Giáo hoàng John Paull II ngã xuống
      sau khi bị bắn
      Vào ngày định mệnh tháng 5/1981, như thường lệ Giáo hoàng John Paul II ngồi trên một chiếc xe Jeep mui trần màu trắng tiến ra quảng trường St. Peter, trung tâm của Toà thánh Vatican để gặp gỡ các tín đồ. Trong khi hàng nghìn người đang hân hoan chào đón ngài thì đột nhiên một tiếng súng vang lên từ vị trí cách người đứng đầu toà thánh không xa.

      Giáo hoàng lập tức quỵ xuống vì đau đớn rồi từ từ ngã trong vòng tay các cận vệ. Ngay sau đó, hung thủ thực hiện vụ mưu sát bị cảnh sát tóm gọn. Nhưng kẻ tòng phạm đứng cách đó một đoạn xa thì nhanh chóng cao chạy xa bay.

      May mắn viên đạn không bắn trúng chỗ hiểm mà chỉ gây vết thương ở phần bụng và bàn tay trái nên Giáo hoàng John Paul II đã qua khỏi. Sau hai tháng điều trị tại một bệnh viện ở Rome, ngài lại trở về để đảm đương trọng trách lãnh đạo toà thánh Vatican.

      Do xảy ra vào thời điểm vô cùng nhạy cảm của cuộc Chiến tranh Lạnh nên vụ mưu sát Giáo hoàng John Paul II trở thành một trong những sự kiện quốc tế nổi bật và gây nhiều tranh cãi nhất trong năm 1981.

      Hiện trường vụ mưu sát, vòng tròn trắng là hình tên sát thủ
      đang chuẩn bị bóp cò
      Hung thủ bị bắt ngay tại nơi gây án là Mehmet Ali Agca, 32 tuổi. Sau nhiều lần vòng vo khai về quốc tịch và tung tích bản thân, cuối cùng các nhà điều tra Italy cũng xác định được Mehmet Ali Agca là người Thổ Nhĩ Kỳ, thành viên một tổ chức cực hữu ở nước này. Từ đây bắt đầu xuất lộ một vụ án kéo dài và chứa đầy những âm mưu của các thế lực trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

      Mehmet Ali Agca, kẻ mưu sát giáo hoàng, là thành viên nổi bật của tổ chức cực hữu khát máu tại Thổ Nhĩ Kỳ mang tên Phong trào Quốc xã. Chúng chuyên cấu kết với những phần tử phát xít mới ở Tây Đức, Italy và một số người Thổ Nhĩ Kỳ lưu vong gây rối an ninh ở nhiều nơi.

      Ali Agca là một trong những thành viên trẻ và cực đoan nhất của Phong trào Quốc xã (PND). Sát thủ này nằm trong nhóm được mệnh danh là "Những con sói xám" gồm các phần tử mang nặng tư tưởng phát xít nhất của tổ chức PND.

      Cảnh sát Italy áp giải Ali Agca
      Theo một số nguồn tài liệu, cục tình báo trung ương Mỹ CIA cũng bị coi là có nhiều dính líu tới các hoạt động của PND. Chi nhánh của CIA đã tổ chức các khoá huấn luyện vũ trang chuyên nghiệp cho “những con sói xám“ của PND ngay trên đất Thổ Nhĩ Kỳ, trong đó có sát thủ Ali Agca.

      Đóng vai trò chính trong việc xây dựng mối quan hệ giữa CIA với các tổ chức cực đoan ở Thổ Nhĩ Kỳ là Rudi Nadet, một quân nhân Liên Xô đào ngũ sang hàng ngũ phát xít Đức năm 1941. Ban đầu Nadet làm việc cho cơ quan mật vụ Gestapo của Đức Quốc xã. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Nadet chuyển sang làm việc cho CIA từ tháng 5/1945 và được cử tới Thổ Nhĩ Kỳ năm 1959.

      Giáo hoàng John Paul II sau khi bị mưu sát
      Qua cầu nối CIA, PND còn xây dựng được mối liên hệ chặt chẽ với tổ chức mật vụ Mossad của Israel. Mossad thời kỳ này xem Vatican và bản thân Giáo hoàng John Paul II là đối địch bởi ông nhiều lần lên án các cuộc tấn công của Israel ở Trung Đông. Ngoài ra, PND còn cấu kết với tổ chức Tam Điểm P2 vốn đối đầu với Giáo hoàng John Paul II vì quan điểm chống hội Tam Điểm của ông.

      Do đó, PND đã đặt vị đứng đầu toà thánh Vatican vào danh sách những người cần phải bị tiêu diệt và Ali Agca được chọn để thực hiện âm mưu này. Bản thân Agca từng viết một bức thư doạ sẽ giết Giáo hoàng khi ông tới thăm Thổ Nhĩ Kỳ tháng 2/1979 và coi ông là “thủ lĩnh của cuộc Thập tự chinh” chống lại người Hồi giáo.

      Sở dĩ Mehmet Ali Agca được PND "chọn mặt gửi vàng" vì đây là một trong những “con sói xám“ khét tiếng nhất trong tổ chức. Người này từng dính líu đến nhiều vụ giết người ở Thổ Nhĩ Kỳ, điển hình là vụ giết hại nhà báo Abdi Ipekci ngày 1/2/1979 tại thành phố Istanbul. Abdi Ipekci nguyên là chủ bút tờ báo Milliyet và viết nhiều bài vạch trần hành động tội ác của nhóm phát xít mới tại Thổ Nhĩ Kỳ. Sau vụ đó, Ali Agca trốn ra nước ngoài và bị toà án Thổ Nhĩ Kỳ tuyên án tử hình vắng mặt.

      Trở lại với vụ mưu sát năm 1981, sau khi bị cảnh sát Italy bắt giữ Ali Agca đã khai nhận rằng, trước khi quyết định chọn Giáo hoàng John Paul II làm mục tiêu tấn công, hắn đã nhận được một danh sách những người đang bị đưa vào kế hoạch ám sát gồm Nữ hoàng Anh, Tổng thống Tunisia Habib Bourguiba, Thủ tướng Malta Dom Mintoff, Chủ tịch Hội đồng châu Âu Simone Weil và thủ lĩnh phong trào đoàn kết Ba Lan Lech Welesa (sau trở thành tổng thống Ba Lan).

      Chỉ hơn một tháng sau vụ mưu sát Giáo hoàng, toà án xét xử Mehmet Ali Agca đã được thành lập tại Rome. Sát thủ người Thổ Nhĩ Kỳ thừa nhận việc ám sát là nhằm phục vụ cho âm mưu khủng bố của các nhóm Hồi giáo cực đoan Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 22/6/1981, toà tuyên Mehmet Ali Agca mức án tù chung thân (luật pháp Italy không có án tử hình). Tòng phạm của Ali Agca ở quảng trường St. Peter là Orran Stelish, kẻ lo hộ chiếu và vạch kế hoạch hành động, bị phát lệnh truy nã quốc tế.

      Vụ mưu sát Giáo hoàng John Paul II năm 1981 như thế có thể được khép lại, nhưng một số thế lực lại không muốn như vậy. Do đó, phần phức tạp và gây ảnh hưởng nhất của sự kiện này đã được họ tạo ra nhằm đáp ứng cho những toan tính chính trị. Kết quả là Ali Agca bất ngờ phản cung và một nghi phạm mới được dựng lên.
      Giáo hoàng John Paul II vào nhà giam thăm
      và tha lỗi cho Ali Agca

      Sự can thiệp của phương tây khiến vụ mưu sát Giáo hoàng John Paul II năm 1981 chuyển sang một hướng khác. Theo nhiều tài liệu, CIA bí mật gặp Ali Agca tại phòng biệt giam và ngay sau đó, sát thủ này lên tiếng đòi “khai thực” và phiên toà xét xử vụ mưu sát phải mở lại.

      Lần này, Ali Agca phủ nhận tất cả những lời khai trước và khẳng định đã nhận tiền và vũ khí của Bulgaria để thực hiện vụ ám sát. Theo đó, cùng thực hiện kế hoạch khủng bố tại Vatican còn có 3 người Thổ Nhĩ Kỳ và 3 người Bulgaria.

      Giới truyền thông phương Tây, đặc biệt là Mỹ ngay sau đó đồng loạt đưa tin về “âm mưu của Cộng sản nhằm giết hại Giáo hoàng John Paul II”. Chỉ huy các hoạt động của CIA tại Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 1974- 1977 là Paul Henze cũng tích cực tham gia vào làn sóng này.

      Paul Henze cho xuất bản cuốn Âm mưu giết hại Giáo hoàng (Plot to Kill the Pope), trong đó đưa ra những thông tin mà ông này coi là bằng chứng nhằm buộc tội chính quyền Bulgaria và cơ quan tình báo Liên Xô KGB đã tham gia vào tội ác tại Vatican.

      Paul Henze tìm mọi cách để công bố “điều tra” của mình trên các tạp chí Reader’s Digest, Newsweek và hãng tin NBC. Một tác giả khác là Clair Sterling cũng đưa thêm cuốn sách Cơ hội của những tên sát thủ (Time of Assassins) mang quan điểm tương tự với Paul Henze.

      Ba người Bulgaria mà Ali Agca nhắc đến là Sergei Antonov, nhân viên văn phòng đại diện Hãng hàng không Balkans tại Rome cùng hai nhân viên ngoại giao là G. Vasilev và T. Ivadov. Ngày 25/10/1982, cả 3 bị toà án Rome ra lệnh bắt giam.

      Ali Agca đang được dẫn độ từ Italy về Thổ Nhĩ Kỳ
      Trong thời gian những công dân Bulgaria bị giam giữ, nhiều nước đã lập các uỷ ban đấu tranh đòi Italy trả tự do cho họ. Một số nhà điều tra độc lập cũng vào cuộc, trong đó nổi bật là nhà báo Thổ Nhĩ Kỳ Ugur Mumcu. Trong cuốn Agca Dosyasi, Mumcu đã chứng minh hành động của sát thủ Ali Agca không hề có liên quan đến Bulgaria hay KGB, mà xuất phát từ tư tưởng phát xít mới của nhóm “Những con sói xám” thuộc đảng PND.

      Sau thời gian tranh tụng liên tục hơn 10 tháng, ngày 29/3/1986 phiên toà xử vụ mưu sát Giáo hoàng John Paul II năm 1981 mới kết thúc và 3 công dân Bulgaria đều được tuyên bố trắng án. Trong 25.000 trang hồ sơ, biên bản 97 phiên họp của toà án Rome cộng với nỗ lực của thẩm phán Ilario Martella đều không thể đưa ra một bằng chứng nào buộc tội các công dân Bulgaria. Bản thân Ali Agca cũng rút lại lời tuyên bố buộc tội Bulgaria khi trước.

      Trước đó, tháng 12/1983 Giáo hoàng John Paul II đã thể hiện lòng nhân từ bằng cách vào thăm kẻ mưu sát mình là Ali Agca trong tù và tuyên bố tha lỗi cho người này. Tháng 1 năm 2000, theo yêu cầu của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, Mehmet Ali Agca được dẫn độ từ Italy về nước để xét xử vụ án ám sát nhà báo Abdi Ipekci năm 1979. Năm 1991, mức án tử hình của Agca về vụ án này cũng được ân giảm xuống còn 10 năm tù.

      Sau 19 năm ngồi tù ở Italy, Ali Agca vào năm 43 tuổi mới được hồi hương. Nhưng điểm đến của người này vẫn là một nhà tù.
      ***
      Kẻ mưu sát giáo hoàng sắp thành triệu phú
      Mehmet Ali Agca. Ảnh: Press TV
      Người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ bắn giáo hoàng John Paul II vừa được trả tự do hôm qua (18.1.2010) sau 30 năm bóc lịch và tuyên bố sẽ bán thông tin cho báo chí.

      Mehmet Ali Agca, 52 tuổi, cho biết muốn đến thăm Rome, gặp gỡ Giáo hoàng Benedict XVI và cầu nguyện trước mộ giáo hoàng John Paul II. Ông ta cũng có ý định kết hôn.

      Các luật sư của Agca nói rằng thân chủ của họ đã nhận được 50 lời đề nghị viết sách và làm phim từ nhiều nhà xuất bản và sản xuất. Ông ta có thể thu được hàng triệu USD.

      "Tôi sẽ trả lời tất cả các câu hỏi liên quan đến vụ mưu sát đó trong vài tuần tới", Ria Novosti trích đoạn bức thư mà Agca gửi cho luật sư của ông ta trước khi ra tù.

      Agca bắn giáo hoàng John Paul hôm 13/5/1981 khi ngài ngồi trên một chiếc xe Jeep mui trần tiến ra quảng trường St. Peter, trung tâm của Toà thánh Vatican, để gặp gỡ các tín đồ. Giáo hoàng bị thương ở bụng, bàn tay trái và cánh tay phải nhưng đã qua khỏi sau hai tháng điều trị.

      Theo AP, ngay sau khi bị bắt, Agca tuyên bố ông ta ra tay một mình. Vụ mưu sát đó nhằm vào người đứng đầu tòa thánh vẫn còn là bí mật lớn dù cách đây 4 năm, một ủy ban quốc hội Italy cáo buộc các nhà lãnh đạo Liên Xô và mật vụ Bulgaria đứng sau âm mưu đó.

      Một lần Agca nói rằng các gián điệp Bulgaria ra tay thay Matxcơva và lực lượng an ninh của Liên Xô KGB đứng sau kế hoạch đó. Tuy nhiên, sau đó ông ra rút lại lời.

      Người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ này bị kết án 19 năm tù vì vụ tấn công trên. Năm 1983, giáo hoàng John Paul II đã gặp kẻ rmưu sát trong tù và tha thứ cho ông ta. Agca bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ năm 2000 và sau đó phải trở lại tù vì tội giết một phóng viên năm 1979.
      • Nguồn: VnExpress.

      Những cái chết bí ẩn trong dòng họ Bhutto

      VietnamDefence - Bhutto là một trong những dòng họ danh giá và quyền lực bậc nhất không chỉ ở Pakistan mà của cả vùng Nam Á, sánh ngang gia tộc Nehru-Gandhi của Ấn Độ. Tuy nhiên, hầu hết những thành viên trong triều đại chính trị nổi tiếng thế giới này đều hứng chịu sự sát hại thảm khốc mà mới nhất là cái chết của bà Benazir Bhutto.
      Người cha bị treo cổ
      Bà Benazir Bhutto
      Không chỉ đến thời bà Benazir, dòng họ Bhutto mới nắm quyền lực ở Pakistan. Cha của bà là Zulfikar Ali Bhutto (1928-1979) từng giữ các chức vụ cao nhất tại quốc gia Nam Á này vào thập niên 70 của thế kỷ trước, như Tổng thống từ năm 1971 đến 1973 và Thủ tướng từ năm 1973 đến 1977. Chính phủ của ông cũng có một vị trí đặc biệt ở Pakistan 30 năm sau độc lập vì không phải do quân đội nắm giữ.
      Ông Zulfikar chính là người sáng lập ra đảng Nhân dân Pakistan (PPP), một trong những chính đảng lớn và có nhiều ảnh hưởng nhất Pakistan và là di sản quan trọng nhất trong triều đại Bhutto. Trong thời gian cầm quyền với các chức vụ Tổng thống và Thủ tướng, ông Zulfikar cũng trở thành cha đẻ của chương trình hạt nhân, mở đường cho Pakistan trở thành quốc gia Hồi giáo duy nhất trên thế giới hiện nay sở hữu vũ khí nguyên tử.
      Do chương trình hạt nhân, chính quyền của ông Zulfikar đã rơi vào thế đối đầu với Mỹ khi đó và ông ngày càng chịu sự chỉ trích và chống đối gia tăng từ trong nước. Nội bộ đảng PPP bắt đầu lục đục càng đẩy người sáng lập ra nó lâm vào thế khó khăn trên chính trường. Các phe phái đối lập chính ở Pakistan còn lập ra một liên minh chung để hợp sức chống lại ông.
      Các thành viên gia đình Bhutto chụp năm 1978: gồm bà Benazir(ngồi hàng trên bên phải), bên cạnh là cha Zulfikar Ali Bhutto, em trai Shahnawaz và mẹ Nusrat Bhutto. Anh trai bà Benazir là Murtaza và em gái Sanam ngồi hàng dưới.
      Đỉnh điểm của sức ép là sự kiện ngày 5/7/1977, ông Zulfikar và các thành viên trong gia tộc Bhutto bị binh sĩ bắt giam theo lệnh của tướng Muhammad Zia-ul-Haq với cáo buộc gian lận trong bầu cử. Tổng chỉ huy quân đội Pakistan này còn ban bố thiết quân luật, bãi bỏ hiến pháp, giải tán Quốc hội và tống giam các lãnh đạo của đảng PPP lẫn của liên minh đối lập.
      Sau khi được thả vào cuối tháng 7/1977, ông Zulfikar không chịu đầu hàng mà lập tức đi khắp Pakistan vận động nhằm trở lại chính trường. Do đó không lâu sau ông đã bị bắt trở lại và vợ ông là bà Nusrat Bhutto trở thành lãnh đạo mới của đảng PPP.
      Tháng 10/1977, Zulfikar bị đưa ra tòa với cáo buộc đã ra lệnh sát hại một thủ lĩnh đối lập là Ahmed Raza Kasuri và ông bị tuyên án tử hình vào năm sau.
      Dù bị phương Tây gây sức ép đòi thay đổi bản án đối với cựu lãnh đạo dân sự Zulfikar, nhưng tướng Zia vẫn không thay đổi quan điểm. Cuối cùng cha của bà Benazir Bhutto bị hành quyết bằng hình thức treo cổ vào sáng ngày 4/4/1979. Đây bị coi là hành động thủ tiêu nhân vật đối lập của tướng Zia và các vụ bạo loạn đã nổ ra khắp Pakistan sau vụ hành quyết này, giống như những gì diễn ra sau vụ ám sát bà Benazir Bhutto vừa qua.
      Những người thân lần lượt bị sát hại bí ẩn
      Ông Zulfikar Ali Bhutto có 4 người con gồm 2 trai và 2 gái. Anh trai của bà Benazir là Murtaza Bhutto là một chính trị gia cánh tả bỏ chạy khỏi Pakistan sang Afghanistan sống lưu vong, sau khi chính phủ của cha sụp đổ năm 1977. Từ Afghanistan và nhiều nước khác tại Trung Đông như Libya, Syria và Libăng, Murtaza đã lãnh đạo nhóm chiến binh Al-Zulfikar thực hiện một chiến dịch chống lại chính phủ quân sự Pakistan.
      Nhóm chiến binh do Murtaza đứng đầu đã thực hiện hàng loạt vụ tấn công nhằm vào quân đội và các cơ sở hạ tầng ở Pakistan. Trong số này nổi tiếng nhất là vụ cướp một chiếc máy bay của Hãng Hàng không PIA Airlines tháng 3-1981 và giết một nhà ngoại giao Pakistan trên máy bay. Sau một thời gian dài hoạt động lưu vong, năm 1993 Murtaza đã tham gia tranh cử với vai trò ứng viên độc lập và giành một ghế trong chính quyền tỉnh Sindh của Pakistan.
      Ngay sau đó, Murtaza Bhutto hồi hương và thời gian này em gái ông là Benazir Bhutto đang làm Thủ tướng Pakistan. Tuy nhiên, ông phản đối dữ dội các hoạt động tham nhũng của chồng bà Benazir là Asif Ali Zardari, đồng thời đòi xóa ảnh hưởng của ông này ra khỏi đảng PPP đang cầm quyền. Do em gái không ủng hộ và quyết tâm đứng về phía chồng của mình, Murtaza bắt đầu trở thành một người chỉ trích chính phủ do Benazir đứng đầu.
      Trong khi đó, chồng bà Benazir là Zardari ra sức chống lại các hoạt động chính trị của anh vợ. Căng thẳng giữa hai bên lên đến đỉnh điểm bằng vụ xô xát, trong đó Murtaza đã hạ nhục Zardari bằng cách cạo một nửa bộ ria của ông này. Sau đó không lâu, Murtaza Bhutto đã bị ám sát một cách khó hiểu cùng 6 người ủng hộ vào ngày 20/9/1996. Nhiều người cho rằng, cảnh sát đã giết ông với sự hỗ trợ của Zardari vốn căm thù anh vợ do vụ cạo râu.
      Murtaza Bhutto đã bị bắn nhiều phát tại khu vực gần nhà riêng ở thành phố Karachi, trong đó viên đạn trúng cổ kết thúc cuộc đời ông đã được bắn theo kiểu hành quyết. Bản thân chồng bà Benazir là Zardari sau đó bị tạm giam vì tình nghi dính líu đến vụ ám sát nhưng nhanh chóng được thả do không có bằng chứng. Hiện trường vụ ám sát cũng bị xóa sạch trước khi cảnh sát bắt đầu cuộc điều tra và không có ai bị kết tội vì vụ này.
      Bà Benazir Bhutto còn có một em trai là Shahnawaz Bhutto (1958-1985) cũng bước vào con đường hoạt động chính trị. Khi cha bị chính quyền quân sự của tướng Zia hành quyết năm 1979, Shahnawaz đang theo học tại Đại học Oxford của Anh. Trước đó, cậu con út trong 4 người con của ông Zulfikar đã cùng anh trai là Murtaza khởi động một chiến dịch quốc tế nhằm cứu cha nhưng bất thành.
      Sau đó, Shahnawaz tiếp tục các hoạt động chính trị chống chính quyền quân sự ở trong nước nhưng theo cách thức ít bạo lực hơn so với ông anh Murtaza. Tuy nhiên, kết cục của vị chính trị gia năng nổ xuất phát từ dòng họ danh giá ở Pakistan này cũng không khá hơn. Rồi ông được phát hiện đã chết tại căn hộ ở thành phố Nice của Pháp, năm 1985.
      Cái chết của Shahnawaz Bhutto, 27 tuổi, diễn ra trong một hoàn cảnh đầy bí ẩn và các thành viên trong gia đình Bhutto khẳng định người thân của họ đã bị đầu độc. Tuy không có ai bị chính thức bắt giam vì cái chết này, nhưng Cảnh sát Pháp đã đưa vợ của Shahnawaz là Rehana vào diện tình nghi và nhiều lần tạm giam người này.
      “Người đàn bà thép của Pakistan” và cái chết định mệnh
      Sự bất hạnh trong gia tộc Bhutto đầy quyền lực đã lặp lại vào ngày 27/12/2007, khi cựu Thủ tướng Benazir Bhutto bị ám sát bằng súng và đánh bom khi đang vận động tranh cử ở thành phố Rawalpindi. Cái chết của bà đến nay vẫn còn gây tranh cãi, khi chính phủ cho rằng bà thiệt mạng do đập đầu vào thành xe sau vụ nổ, còn những người ủng hộ bà khẳng định thủ lĩnh của họ bị bắn.
      Bà Benazir Bhutto sinh năm 1953 tại tỉnh Sindh của Pakistan và từng học tại hai ngôi trường danh tiếng bậc nhất trên thế giới là Đại học Harvard của Mỹ và Đại học Oxford, Anh. Bà nhận được sự tín nhiệm của quần chúng do ảnh hưởng của người cha. Đỉnh cao quyền lực của Benazir Bhutto là hai lần làm Thủ tướng Pakistan từ năm 1988 đến 1990 và từ năm 1993 đến 1996.
      Sự nghiệp chính trị của Benazir Bhutto chứa đựng đầy những cơn sóng gió, với nhiều lần lên đến đỉnh cao quyền lực nhưng cũng không ít thời điểm bị sụp đổ. Vào thời điểm có nhiều ảnh hưởng nhất sau cuộc bầu cử đầu tiên để trở thành Thủ tướng năm 1988, bà được coi là một trong những nữ lãnh đạo có nhiều quyền lực nhất thế giới và được mệnh danh là “Người đàn bà thép của Pakistan”.
      Quan điểm kiên định và không chịu nhượng bộ nổi tiếng của bà Benazir lần đầu tiên được bộc lộ rõ sau khi cha bị cầm tù và treo cổ năm 1979. Bản thân bà cũng bị bắt và biệt giam suốt 5 năm sau đó trong điều kiện mà bà mô tả là cực kỳ hà khắc. Trong thời gian được ra tù để đi chữa bệnh ở nước ngoài, bà đã kịp lập ra một văn phòng của đảng Nhân dân Pakistan (PPP) tại London và bắt đầu một chiến dịch chống lại tướng Zia ul-Haq.
      Benazir Bhutto quay lại Pakistan năm 1986 và thu hút những đám đông khổng lồ chào đón như các cuộc tuần hành chính trị. Sau khi tướng Zia ul-Haq chết trong một vụ nổ máy bay năm 1988, bà trở thành một trong những nữ Thủ tướng đầu tiên được bầu tại một quốc gia Hồi giáo. Trong cả hai lần nắm quyền, vai trò của chồng bà là Asif Zardari đều gây ra những tranh cãi gay gắt. Ngoài những khuất tất liên quan đến cái chết của Murtaza Bhutto, anh trai bà Benazir, Zardari còn bị buộc tội đánh cắp tiền từ ngân khố quốc gia.
      Cựu Thủ tướng Benazir Bhutto rời Pakistan năm 1999 để ra nước ngoài sống, nhưng những trăn trở về tình hình đất nước vẫn tiếp tục theo đuổi nữ chính trị gia này. Tới tháng 10/2007, bà mới được đương kim Tổng thống Pakistan Pervez Musharraf ân xá và cho phép trở về quê hương sau những năm sống cùng các con ở Dubai và hoạt động ở nhiều nước phương tây.
      Nhưng ngay sau khi trở về, thỏa thuận chia sẻ quyền lực giữa bà Benazir Bhutto với Tổng thống Musharraf đã đổ vỡ. Bà trở thành thủ lĩnh phe đối lập có nhiều khả năng nhất trong việc thách thức quyền lực của vị đương kim Tổng thống. Nhưng vụ ám sát gây chấn động vào thời điểm áp chót năm 2007 đã chấm dứt tất cả. Sự kiện bi thảm này đã đưa con trai bà là Bilawal Bhutto Zardari vào con đường chính trị với vai trò kế tục mẹ lãnh đạo đảng PPP
      • Nguồn: ANTG, 21.01.2008.

      Bi kịch của 5 gia tộc nổi tiếng trên thế giới

      VietnamDefence - Gia tộc Kennedy bắt đầu trở thành “vương cung” của nước Mỹ từ năm 1914 đánh dấu bằng việc Joseph Kennedy kết hôn cùng Rose. Cặp vợ chồng này sau đó đã sinh hạ được cả thảy 9 người con, 4 con trai, gồm Joseph, John, Robert và Edward cùng 5 cô con gái là Rosemary, Eunice Mary'Kathleen, Cavendish, Jeanne. Bắt đầu từ đây, “một lời nguyền kinh khủng cũng bao trùm lấy mọi thành viên của gia tộc Kennedy”.
      Cuộc sống vương giả đi kèm với những bất hạnh!
      Gia tộc KENNEDY
      Gia tộc Kennedy
      Gia tộc Kennedy bắt đầu trở thành “vương cung” của nước Mỹ từ năm 1914 đánh dấu bằng việc Joseph Kennedy kết hôn cùng Rose. Cặp vợ chồng này sau đó đã sinh hạ được cả thảy 9 người con, 4 con trai, gồm Joseph, John, Robert và Edward cùng 5 cô con gái là Rosemary, Eunice Mary'Kathleen, Cavendish, Jeanne. Bắt đầu từ đây, “một lời nguyền kinh khủng cũng bao trùm lấy mọi thành viên của gia tộc Kennedy”.
      Sự kiện gây chú ý nhất đối với dư luận của gia tộc Kennedy chính là việc Tổng thống thứ 35 của Mỹ, John Kennedy bị thiệt mạng trong vụ ám sát vào 12 giờ 30 phút trưa ngày 22/11/1963.
      Trước đó, một người con trai của Kennedy là Joseph Kennedy (con) cũng bị thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay trong Thế chiến II trong khi làm nhiệm vụ.
      Cùng thiệt mạng trong Thế chiến II là người chồng của cô con gái Kathleen, hai người kết hôn tháng 5/1944, thế nhưng đến tháng 9 năm đó, chồng của Kathleen bị chết trên chiến trường, còn bản thân Kathleen cũng thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay 4 năm sau đó, khi cũng chỉ mới 28 tuổi.
      7 tháng sau vụ ám sát Tổng thống Kennedy, người con út của gia đình nhà Kennedy là Edward Kennedy cũng gặp phải một tai nạn máy bay, và bị thương khá nặng ở lưng. Mặc dù sức khỏe của ông sau đó đã phục hồi nhưng cuối cùng cũng không thoát khỏi bàn tay của tử thần.
      gày 18/7/1969, sau buổi tiệc tại nhà bạn, khi đi ngang qua một chiếc cầu, Edward đã không làm chủ tay lái, cả người và xe lao xuống sông bị dòng nước “nuốt chửng”... Sau những cái chết liên tiếp của các con mình, cuối cùng tai họa cũng giáng xuống đầu chính Joseph Kennedy (cha). Do bị trúng gió từ năm 1961, qua 8 năm chạy chữa nhưng sức khỏe của ông không được cải thiện, nên đến năm 1969 ông mất.
      Những người con của Joseph Kennedy liên tiếp gặp phải bi kịch. Con trai của John Kennedy là Patrick Kennedy bị đẻ non chỉ 3 tháng trước khi ông bị ám sát. Edward Kennedy, con trai của người cha cùng tên Edward Kennedy cũng phải cưa chân phải do mắc bệnh ung thư vào năm 1973. Con trai của Robert Kennedy là Mark Kennedy từng bị kiện có quan hệ bất chính với người bảo mẫu chưa thành niên của gia đình.
      Tuy vậy, điều gây chú ý hơn là cái chết của ông vào ngày 31/12/1997. Xác Mark được phát hiện tại bãi trượt tuyết bang Colorado, khi đó ông ta mới có 39 tuổi. Một người con trai khác Robert Kennedy là David Kennedy đã chết một cách không rõ ràng khi người ta phát hiện thấy xác ông trong một khách sạn gần với khu biệt thự nghỉ hè của gia đình tại bang Florida vào năm 1984.
      Bi kịch gần đây nhất của gia tộc này xảy ra vào ngày 16/7/1999, con trai của Tổng thống John Kennedy (được sinh ra sau khi ông mất) là John Kennedy (con) đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay khi đang cùng vợ và chị vợ tới dự đám cưới của người chị họ Lowry.
      Gia tộc NEHRU GANDHI
      Gia tộc Nehru Gandhi có 3 vị thủ tướng nổi tiếng của Ấn Độ đã cầm quyền trong một thời gian khá dài tại đất nước này sau khi giành được độc lập, đó là Nehru, Indira và Rajiv.
      Thánh Mahatma Gandhi và Thủ tướng Jawarharlan Nehru
      Tên tuổi của gia tộc Nehru Gandhi nổi lên chính là nhờ công lao của Mahatma Gandhi. Khi đó, Nehru được sinh ra trong một gia đình theo đạo Phật ở miền Bắc Ấn Độ, thế nhưng người con gái duy nhất của ông là Indira lại kết hôn cùng với một người dị giáo thờ Thần lửa. Khi đó, họ của cặp vợ chồng này trở thành một vấn đề gây xôn xao dư luận. Cuối cùng, Mahatma Gandhi đã quyết định cặp vợ chồng Indira mang họ Gandhi, và từ đây, “dòng họ Gandhi” chính thức ra đời.
      Thế nhưng, dòng họ Gandhi cũng là một dòng họ đầy bi kịch, Indira và con trai là Rajiv lần lượt bị ám sát, còn người em trai của Rajiv là Sanjay cũng thiệt mạng trong một vụ tai nạn máy bay.
      Jawaharlal Nehru là vị thủ tướng nội các đầu tiên của Ấn Độ sau khi đất nước này giành được độc lập. Ông mất vào năm 1964. Con gái ông, bà Indira Gandhi, nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử Ấn Độ đã bị vệ sĩ của mình sát hại khi đang đi dạo trong vườn hoa. Cái chết của bà không những không làm nhụt chí những thành viên trong dòng tộc của bà, mà ngược lại càng khiến người con trai cả của bà là Rajiv Gandhi lao vào hoạt động chính trị.
      Cuối cùng, ngày 31/10/1984, Rajiv được chọn làm thủ tướng thứ 6 của Ấn Độ, đồng thời giữ chức Chủ tịch đảng Quốc đại của Ấn Độ. Nhưng bi kịch tiếp tục xảy ra, Rajiv Gandhi cũng bị ám sát bởi một nữ chiến binh của tổ chức những con Hổ Tamil trong khi đang vận động tranh cử.
      Sau cái chết của Rajiv Gandhi, vợ của ông là Sonia Gandhi cũng lao vào hoạt động chính trị và bà được bầu làm Chủ tịch đảng Quốc đại vào năm 1998. Rajiv Gandhi có hai người con, một trai tên là Rahul Gandhi và con gái tên là Priyanka.
      Trong cuộc bầu cử năm 2004, Rahul Gandhi đã trúng cử, trở thành Nghị sĩ Nhân dân viện (Hạ viện) của Ấn Độ khi mới 34 tuổi, cũng giống như những người thân của mình,  Rahul Gandhi lại tiếp tục dấn thân vào con đường chính trị tại Ấn Độ.
      Gia tộc VON ERICH
      Ngoài gia tộc Kennedy, thì Von Erich cũng là một gia tộc bất hạnh ở Mỹ.
      Gia tộc Von Erich
      Fritz Von Erich là một trong những tay vật nổi tiếng nhất nước Mỹ, từng được mệnh danh là “người thép”. Xuất thân từ một gia đình nghèo, ông trưởng thành trong môi trường vô cùng gian khổ. Chính sự gian khổ hồi niên thiếu đã tôi luyện cho con người thép vốn rất có năng khiếu với môn đấu vật này.
      Năm 1963, Fritz đã đánh bại đối thủ nặng ký của mình và trở thành nhà vô địch của Liên đoàn vật quốc tế (NWA). Bắt đầu từ đó, ông chính thức bước lên thời kỳ đỉnh cao của sự nghiệp.
      Tài năng của Fritz không chỉ được thể hiện trên sới vật, những người biết rõ ông nói rằng: “Đừng bao giờ cho rằng anh ta chỉ là một kẻ ngu đần, vai u thịt bắp. Trên thực tế, anh ta là một người cực kỳ thông minh, một người rất hiếu học, chính điều này đã khiến anh trở thành một nhân tài xuất sắc”. Năm 1966, Công ty đấu vật nổi tiếng WCWA tại bang Texas đã tuyển Fritz về làm giám đốc. Dưới sự quản lý của ông, WCWA mới đầu chỉ là một công ty đấu vật nhỏ lẻ và chưa hề có tiếng tăm trong Liên đoàn đấu vật nước Mỹ, cuối cùng đã tách ra thành một công ty hoạt động độc lập và trở thành Công ty đấu vật chính của nước này vào năm 1986.
      Cùng với sự phát triển không ngừng của công ty, Fritz cũng ngày càng trở nên nổi tiếng trên toàn nước Mỹ. Thế nhưng, trong cuộc sống gia đình, dòng họ của Fritz lại phải gánh chịu những bất hạnh khủng khiếp.
      Vợ của Fritz đã sinh cho ông 6 người con trai, trong đó, người con cả 7 tuổi đã bị chết đuối khi bị điện giật. 5 người con còn lại sau đó đều đi theo sự nghiệp của cha. Đúng lúc này, bi kịch lại một lần nữa giáng xuống gia đình nhà Von Erich.
      Đầu tiên là người con trai thứ 3 của ông, David Von Erich, người được mệnh danh là “Hoa hồng vàng của Texas”.  Trong một trận chiến anh đã bị xử thua một cách đầy tranh cãi. Chính điều này đã khiến David Erich chán nản và cuối cùng ngày càng nghiện nặng heroin. Sự nghiệp của anh ta từ đó trở thành mây khói.
      Kerry, người con thứ 4 của Fritz được mệnh danh là “Cơn lốc Texas”. Ngay cả những chuyên gia trong nghề vật cũng phải kinh ngạc khi phát hiện thấy kỹ thuật của Kerry đã vượt xa hẳn cha mình trước đây, là một người nổi tiếng nhất và thành công nhất trong số 6 anh em nhà Von Erich. Thế nhưng, rốt cuộc, “Cơn lốc Texas” cũng không thể tránh khỏi “căn bệnh dòng họ”, do hít heroin quá liều, nên Kerry đã thiệt mạng trong một vụ tai nạn xe máy năm 1993.
      Người con thứ 5 của Fritz là Mike Von Erich sau ca phẫu thuật cánh tay, đã mắc phải hội chứng Shock, đến năm 1987 đã thiệt mạng vì dùng quá liều thuốc giảm đau. Còn người thứ 6, Crise không phải là một người có tài năng thiên phú về các hoạt động thể thao, đặc biệt là môn đấu vật, sau nhiều năm vật lộn trên các sới vật, rốt cuộc cũng không thành công. Do quá chán nản, thất vọng nên vào năm 1991 anh ta đã tự sát.
      Với cái chết này, cả một thế hệ, 6 người con của dòng họ Von Erich chỉ còn lại duy nhất một người con thứ là Kevin, và đây cũng chính là “tấn bi kịch dòng họ Von Erich” nổi tiếng trong lịch sử làng vật Mỹ.
      Trong khi đó, bản thân Fritz sau những cú sốc về những cái chết liên tục của con, ngày càng trở nên tiều tụy, và liên tục bị bệnh tật hành hạ, Công ty WCWA do một tay ông gây dựng buộc phải đóng cửa vào thập kỷ 90 của thế kỷ trước do làm ăn thua lỗ. Năm 1997,  Fritz cũng từ trần vì bệnh ung thư.
      Gia tộc HEMINGWAY
      Là một trong những nhà văn vĩ đại nhất thế kỷ, vào lúc cuối đời, Hemingway bị bệnh tật hành hạ triền miên với đủ các bệnh như cao huyết áp, tiểu đường, ung thư da và lâm vào trạng thái bi quan. Sau đó, ông bắt đầu nghiện rượu nặng, thỉnh thoảng lại gây chuyện. Tâm trạng ông trở nên buồn chán. Cuối cùng vào ngày 2/7/1961, cảm thấy quá thất vọng và bế tắc, Hemingway đã tự sát.
      5 năm sau cái chết của Hemingway, em gái của ông là Mainland Miller Hemingway (tên thân mật Sunny), do mắc bệnh ung thư và chứng trầm cảm đã uống thuốc ngủ tự tử; 16 năm sau đó, người anh em duy nhất của Hemingway là Leicester cũng tự sát sau khi biết mình mắc phải bệnh tiểu đường và phải cắt chân.
      Không chỉ vậy, ngay cả những thế hệ tiếp theo trong dòng họ Hemingway cũng không thể thoát khỏi tấn bi kịch của những người đi trước. Con trai cả của ông là Jack Hemingway (hay còn gọi thân mật là “Bumby” do cuộc sống hôn nhân gặp phải nhiều trắc trở, nên thường xuyên mượn rượu giải sầu. Vợ ông sau đó cũng chết vì bệnh ung thư.
      Sống trong hoàn cảnh bi đát, hai người con gái của Jack là Muffet và Mariel cũng mắc phải hàng loạt thói quen xấu, và lần lượt rơi vào chứng trầm cảm nghiêm trọng do dùng thuốc phiện quá nhiều. Cuối cùng, các bác sĩ buộc phải sử dụng đến phương pháp điều trị cưỡng chế đối với họ.
      Năm 1996, đúng 35 năm sau khi Hemingway dùng súng tự sát, cháu gái của ông là Marl cũng chết một cách hết sức bí ẩn, cơ quan chức năng khi đó đã đưa ra kết luận cuối cùng là cô chết do tự sát.
      Người cháu gái duy nhất còn lại của Hemingway, Mariel sinh năm 1961, hiện là một diễn viên của Hollywood. Cô luôn nỗ lực hết mình để tránh tai họa. Năm 2003, cô đã được lên trang bìa của tạp chí “Nhân vật”.
      Gia tộc MARLON BRANDO
      Ngôi sao điện ảnh Hollywood, Marlon Brando từng đoạt 3 giải thưởng danh giá đó là giải Oscar, giải thưởng của Hiệp hội phê bình điện ảnh New York và giải Quả cầu vàng qua những diễn xuất tuyệt vời của mình trong các bộ phim như “Chuyến tàu mang tên dục vọng”, “Julius Caesar”, “On the Waterfront” và phim “Bố già”. Ông có một vị trí không thể thay thế trong con mắt của những người mê điện ảnh từ thế hệ này đến thế hệ khác.
      Thế nhưng, đằng sau những ánh hào quang đó, Marlon Brando lại có một cuộc sống hết sức buông thả, phóng đãng. Ông từng kết hôn 3 lần, còn người tình của ông thì nhiều vô kể, bởi vậy cũng không có gì ngạc nhiên khi báo chí Mỹ thống kê rằng ông có cả thảy tới 9 người con, thế nhưng hồ sơ của cảnh sát lại cho thấy một con số kinh ngạc hơn nhiều... 15 người, còn dư luận thì cho rằng, ông ta có tới 25 người con.
      Tuy nhiên, cho dù chính xác ông có bao nhiêu người con đi chăng nữa thì điều đáng tiếc là, với tiền bạc và danh tiếng của mình, ông đã không thể mang lại một cuộc sống hạnh phúc cho bất kỳ người con nào, tất cả con ông sau này đều có một cuộc sống đầy ác mộng, người thì phạm tội giết người, người tự sát, những người còn lại hoặc sống lưu lạc hoặc tranh giành, đấu đá lẫn nhau.
      Ngày 1/7/2004, Brando mất vì suy giảm chức năng phổi, thế nhưng sau khi ông mất, báo chí lập tức tuyên bố, tài sản của ông đã không còn giá trị gì. Ông không những phải dựa vào đồng trợ cấp hưu của chính phủ mà vẫn còn nợ đọng ngân hàng số tiền lên đến 1,1 triệu bảng Anh.
      Sau cái chết của Brando, các cháu trong dòng họ nhà Brando cũng gặp bất hạnh, có người sinh ra đã bị què quặt, có người bị bỏ rơi, bị từ chối...
      Nguồn: ANTG, 05.4.2008.
      Xem tiếp...

      MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG 19

      (ĐC sưu tầm trên NET)

      ​Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu qua đời

      29/06/2015 11:05 GMT+7
        TTO - Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã qua đời vào 10g15 sáng nay (29-6) tại bệnh viện Thống Nhất (TP.HCM) sau ba ngày nhập viện.
        Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu
        Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu
        Nghe lại những ca khúc nổi tiếng của cố NS Phan Huỳnh Điểu
        Người nhà nhạc sĩ cho biết ông nhập viện vào sáng thứ 26-6, sau khi được bác sĩ đến khám tại nhà và đề nghị đưa ông nhập viện.
        Trước đó ngày 23-6, nhạc sĩ có dấu hiệu không khỏe, sốt nhẹ.
        Biên tập viên - MC Quỳnh Hương cho biết, khi hay tin nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu ốm, gia đình Tiếng hát mãi xanh (nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu vẫn đang là giám khảo chuyên môn của cuộc thi Tiếng hát mãi xanh 2015) đã đến nhà thăm ông vào ngày 25-6. Lúc đó, ông vẫn tỉnh táo và còn trò chuyện, hát cho cả đoàn nghe.
        Hiện thi thể nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu vẫn đang để ở bệnh viện Thống Nhất và sẽ được quàn tại Nhà tang lễ Bộ quốc phòng (5 Phạm Ngũ Lão, quận Gò Vấp, TP.HCM)
        Các thông tin về lễ viếng sẽ được TTO cập nhật.
        Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu
        Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu
        Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sinh 1924 tại Đà Nẵng, nhưng nguyên quán gốc của ông ở Điện Bàn, Quảng Nam. Ông đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật . Ông bắt đầu sáng tác từ năm 1940 trong nhóm Tân nhạc, ca khúc đầu tay là Trầu cau. Sáng tác nổi tiếng nhất của ông là bài Đoàn giải phóng quân.
        Sau 1975, Phan Huỳnh Điểu chuyển về Hội Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh ông đã sáng tác và công bố hơn 100 ca khúc, quá nửa trong số đó là các bài hát phổ thơ.
        Một số tác phẩm tiêu biểu của ông: Đoàn vệ quốc quân, Quê tôi ở miền Nam, Nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đội kèn tí hon, Cuộc đời vẫn đẹp sao, Anh ở đầu sông em cuối sông, Những ánh sao đêm, Giải phóng quân, Thuyền và biển, Ở hai đầu nỗi nhớ...
        Q.N. - C.K

        Người nước ngoài đổ xô đến Việt Nam làm nông nghiệp
        Không chỉ người Nhật thích thú với làm nông nghiệp ở Việt Nam mà ngay cả người đang sống tại các quốc gia châu Âu cũng tìm về Việt Nam để làm giàu từ trồng trọt.
        Từng có lần du lịch Việt Nam, rồi gắn bó với nông dân gần 5 năm thông qua dự án từ thiện, Shiokawa Minoru, sinh năm 1983 đến từ Nhật Bản đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm của nhà nông.
        Anh Takaya Hanaoka ăn thử rau tại vườn. Ảnh QD
        Anh Takaya Hanaoka ăn thử rau tại vườn. Ảnh QD.
        Tháng 7/2010, với diện tích khoảng 1.000 m2 thuê của người dân Buôn Mê Thuột (Đăk Lăk), Shiokawa tự mình cuốc đất, bắt đầu thử nghiệm mô hình trồng rau hữu cơ, nhưng sản lượng ban đầu rất thấp, trong khi việc tiêu thụ thị trường kém hiệu quả vì giá thành cao.
        Sau một thời gian tìm hiểu và quan sát thị trường, anh nhận thấy nhu cầu sử dụng rau hữu cơ trong cộng đồng người Nhật nói riêng tại TPHCM rất cao nên quyết định kêu gọi thêm những thực tập sinh từ Nhật cùng làm.
        Đến 2011, khi mọi thứ đã bắt đầu tiến triển tốt, Shiokawa nhận đặt hàng của từng hộ gia đình rồi tự mình đứng ra vận chuyển rau do công ty vận tải không biết tiếng Nhật.
        Thời gian đầu kinh doanh, anh hầu như không có lợi nhuận, doanh thu không đủ bù vào chi phí nhưng tâm huyết với nông nghiệp hữu cơ khiến chàng trai người Nhật này vẫn kiên trì gắn bó với ước mơ và lựa chọn của mình. Tới nay, anh đã mở rộng diện tích ra 5.000 m2 đất sản xuất, mỗi ngày cung ứng khoảng 100 kg rau sạch các loại đến người tiêu dùng ở Việt Nam.
        Năm 2012, sau khi được một giám đốc quỹ đầu tư người Nhật làm việc tại Việt Nam vận động và chia sẻ về vùng đất đầy tiềm năng là Lâm Đồng, hai nông dân trẻ, chủ của Công ty Lacue tại ngôi làng chuyên làm nông nghiệp Kawakami Mura có mệnh danh "Làng thần kỳ" là anh Masahito (34 tuổi) và anh Takaya Hanaoka (35 tuổi) đã quyết định tới thăm dò tìm hiểu.
        Sau khi khảo sát, hai nông dân Nhật nhanh chóng hợp tác với một doanh nghiệp địa phương lập liên doanh An Phú Lacue để trồng rau xà lách tại huyện Lạc Dương (Lâm Đồng).
        Với cách thức canh tác nghiêm ngặt theo đúng kỹ thuật của làng Kawakami Mura, công ty đã trồng thử nghiệm 13 giống rau trên diện tích 5.000 m2, trong đó chủ lực vẫn là giống xà lách Mỹ mà người làng Kawakami Mura thường canh tác.
        Sau 70 ngày thử nghiệm, 3.000 cây xà lách Mỹ đầu tiên của công ty đã cho thu hoạch và được đưa đi chào hàng tại các siêu thị TPHCM. Đến nay, công ty đã nâng diện tích lên 4ha và canh tác chính thức chỉ 4 loại rau.
        Tuy không tiết lộ doanh thu và lợi nhuận nhưng công ty này cho biết họ đang tiêu thụ khá tốt tại các hệ thống siêu thị ở TPHCM. Dù chưa tính tới việc hợp tác sản xuất rau xà lách với nông dân Đà Lạt, nhưng theo Takaya Hanaoca, công ty sẵn sàng chuyển giao tất cả kỹ thuật và quy trình canh tác. Trong tương lai sẽ có chương trình đưa nông dân Đà Lạt tới học tập sản xuất tại làng Kawakami Mura ở Nhật.
        Không chỉ người Nhật thích thú với làm nông nghiệp ở Việt Nam mà ngay cả người đang sống tại các quốc gia châu Âu cũng tìm về Việt Nam để làm giàu từ trồng trọt.
        Điển hình là ông Nghiêm Văn Minh (quê ở Hà Nội), Việt kiều sống ở Pháp hơn 40 năm đã quyết định trở về Việt Nam để đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao. Chọn Đà Lạt, ông mời cả chuyên gia về giống cây trồng của Pháp sang giúp nghiên cứu và định hướng kỹ thuật. Ông Minh cho hay, đến cuối 2012, ông đã thành công trong việc canh tác dâu tây cho năng suất và chất lượng cao.
        Bên cạnh thành công của dâu tây, ông Minh còn trồng thêm dưa lưới trong nhà kính. Vì đất ở Đà Lạt còn nhiễm nhiều tạp chất, ông đã trồng dưa lưới bằng giá thể đựng trong chậu. Đây là phương pháp mới thay vì trồng trực tiếp trên đất. Những vụ gieo trồng đầu tiên dưa cho trái kém chất lượng, ông không nản mà tiếp tục khắc phục bằng cách bồi bổ thêm chất dinh dưỡng.
        Tới nay, vườn dưa lưới 3.000 m2 của ông đã đi vào thu hoạch ,trọng lượng mỗi quả từ 0,35 - 0,4 kg một quả, thu hoạch tới đâu bán hết tới đó với giá 20.000 - 150.000 đồng một kg. Với 3 sào đầu tiên cho năng suất 5 tấn, ông thu được khoảng 650 triệu đồng.
        Ông Minh cho biết sắp tới sẽ liên kết với một số hộ nông dân để chuyển giao kỹ thuật gieo trồng dưa lưới giống Pháp trong giá thể, nhằm đáp ứng nhu cầu đặt hàng của các đầu mối tiêu thụ.
        Ngoài những cá nhân trên, hiện nay khá nhiều công ty nước ngoài đến từ Nhật Bản, Hà Lan, Thuỵ Sĩ liên tục sang Việt Nam, đặc biệt là khu vực Đà Lạt để đặt mối quan hệ hợp tác trong chăn nuôi, trồng trọt.
        Trước đó đã có một đoàn chuyên gia Nhật sang thăm các ruộng cà chua tại Đà Lạt và đặt quan hệ thuê đất để mở rộng diện tích trồng cà chua xuất khẩu. Tuy nhiên, tới nay, kế hoạch này vẫn chưa đi đến thỏa thuận cuối cùng.
        Theo Hồng Châu  
        VnExpress  

        'Hai lúa' chế xuồng chạy pin mặt trời

        TP - Cuối tháng này, mẫu mới chiếc xuồng chạy bằng pin mặt trời hoàn thành, khu du lịch rừng Tràm Chim (Đồng Tháp) dự kiến đưa vào sử dụng 6 chiếc. Loại xuồng này được bốn nông dân thứ thiệt chế tạo.
        Nhóm “Hai lúa” với thành quả của mình. Ảnh: Bình Minh. Nhóm “Hai lúa” với thành quả của mình. Ảnh: Bình Minh.
        Thuyền chạy bằng pin mặt trời không phải là mới lạ, nhưng chuyện bốn ông “Hai lúa” ở huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp là ông Huỳnh Thiện Liêm (Tư Liêm), Nguyễn Văn Dũng (Hai Kỹ), Huỳnh Văn Trăng (Trăng “đầu cá”), Thái Văn Hoàng (Hoàng “lác”) chế tạo thành công xuồng chạy năng lượng mặt trời, được du lịch địa phương đặt hàng để đưa vào khai thác chưa thấy nơi nào có.
        Suýt bị vợ đuổi khỏi nhà
        Người “đẻ” ra ý tưởng chế tạo xuồng là ông Tư Liêm. Ông bảo khi đi du lịch ở rừng Tràm Chim, tiếng máy chạy ầm ầm, chim cò bay xao xác, ngồi nói chuyện phải hét thật to. “Bất tiện quá. Tôi về nhà tìm trên mạng. Vậy là có cái để bắt tay vào làm xuồng chạy bằng pin mặt trời”, ông Tư Liêm nhớ lại.
        Mất hàng tháng trời mang ý tưởng đi nói với người này người kia, rủ tham gia. Kết quả chỉ nhận được cái lắc đầu, bị gọi là “khùng”. “Chi phí không rẻ, chưa chắc đã thành công, mạo hiểm chơi ngông như mấy ông sáng chế ở phương Tây thì bán nhà nên ai cũng lắc đầu”, ông Liêm cười.
        Một hôm, ông Liêm chợt nhớ ra còn ông Hai Kỹ cũng là thợ cơ khí có tiếng của vùng. Ngay trong đêm, ông lọ mọ đến nhà ông Hai Kỹ. Nói chưa hết câu thì Hai Kỹ gật đầu.
        Hôm sau, cả hai bắt tay vào làm ngay. Vốn dĩ là thợ lắp ráp pin năng lượng mặt trời cho bà con vùng sâu chưa có điện nên các loại thiết bị từ tấm pin, bình ắc quy đối với ông Liêm tìm mua không khó. Không bản vẽ, không mẫu thiết kế, làm đến đâu thiếu thì bổ sung đến đó.
        Được vài hôm, hai ông thấy cần thêm một ông rành về máy móc, thiết bị chạy trên sông, một ông rành về chân vịt nên rủ thêm ông Trăng, ông Hoàng. Điện thì ông Tư Liêm lo, thiết kế khung sườn máy móc có ông Hai Kỹ. Ông Hoàng “lác” thiết kế chân vịt. Vận hành chạy ngon lành có ông Trăng “đầu cá”.
        “Sai thì làm lại, làm đến khi nào ngon thì thôi. Nhưng thực tình, khi thấy tụi tui hì hục làm hàng tháng trời, lúc trên bờ, lúc ở dưới sông, bà con qua lại trong xóm ai cũng bảo là khùng”, ông Tư Liêm nhớ lại.
        Theo làm với nhóm, ông Trăng bỏ luôn việc cắt đầu cá thuê bên chợ. “Xém mấy lần bị vợ đuổi ra khỏi nhà vì không lo làm kiếm tiền nuôi con. Bà vợ bảo lo làm cái chuyện trên trời, tốn cơm tốn gạo, còn bị thiên hạ cười”, ông Trăng cười.
        Phục vụ du lịch sinh thái
        Bốn ông loay hoay chỉnh sửa, lắp ráp các mạch điện, chân vịt cho mẫu xuồng mới. Thời gian đầu, không có kinh nghiệm nên nhóm dùng mô tơ máy bơm nước, gắn vào làm động cơ cho xuồng. Mô tơ chạy bằng điện xoay chiều, tốn điện nên chạy một lúc thì hết pin. “Cái mô tơ máy bơm nước ăn điện còn hơn người ta uống bia”, ông Dũng cười khà khà. Sau thời gian dài với đống hỗn độn, bốn ông đã hoàn tất chiếc xuồng năng lượng mặt trời. Giữa trưa nắng, bốn ông hí hửng đưa thuyền ra thử. Chạy được một đoạn, chân vịt lại gãy. Lại quay về cắt, mài, chỉnh sửa, đến khi chân vịt chạy ngon lành, đạt tốc độ 15km/h với sức chứa 7 người.
        Tuy còn sơ khai nhưng xuồng vẫn vi vu trên sông trước sự thán phục của bà con trong xóm. Lúc đầu chạy xuồng lên nhà ông bạn nhậu, đến tối, khi đã “tê tê”, bốn ông ra về. Chạy được chừng mười phút, pin dự trữ hết rồi tắt ngỏm. Nhớ ra lúc nhậu, mọi người tranh thủ lấy xuồng chạy thử. Bốn ông phải ngồi bệt xuống lấy tay bơi hơn chục cây số về nhà. Ông Trăng nói: “May mà trời tối không ai thấy, chứ không họ cười cho thối mũi”.
        Bốn ông tiếp tục cải tiến, nâng cấp. Khung sườn được gia công lại để đặt những tấm pin mặt trời lớn hơn. Mua động cơ điện mạnh hơn để tăng tốc độ di chuyển. “Thuyền mới có thể chở được 9 người tính cả người lái, tốc độ tối đa có thể 25-30km/h, khi không có ánh nắng mặt trời có thể chạy được 8 giờ, phần chân vịt cũng được chế thêm bộ phận bảo vệ nên không bị quấn rác làm gãy nữa”, ông Dũng nói.
        Thành công bước đầu của nhóm đã tạo tiếng vang, được chính quyền địa phương quan tâm, nhận được một số đơn đặt hàng. Ông Đinh Minh Dũng, Chủ tịch UBND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, cho biết, các cơ quan, ban ngành đang làm hồ sơ để đăng ký sáng chế giải pháp hữu ích về ứng dụng xuồng du lịch chạy bằng năng lượng mặt trời.
        Ông Lê Hoàng Long, Giám đốc Trung tâm Du lịch và giáo dục môi trường (Vườn Quốc gia Tràm Chim, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp), cho biết, khu du lịch sẽ đặt hàng 6 chiếc để đưa vào khai thác. “Xuồng chạy không gây ồn, không ô nhiễm môi trường, phù hợp với loại hình du lịch sinh thái, nhất là nơi có nhiều chim cò sinh sống”, ông Long nói.
        Sau khi chế tạo chiếc xuồng thử nghiệm tốn gần 70 triệu đồng, bốn ông tiếp tục nâng cấp xuồng theo mẫu mới từ đơn vị đặt hàng. Mỗi chiếc xuồng mẫu mới sẽ có giá khoảng 150 triệu đồng. Như vậy là cao khoảng 20 triệu đồng nếu so với xuồng gắn động cơ thông thường, bởi chi cho pin mặt trời cũng đã trên 20 triệu đồng/xuồng.
         
        Xem tiếp...