Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

NGUYÊN NHÂN TẤT YẾU, KẾT CUỘC TẤT YẾU 10

(ĐC sưu tầm trên NET)

 

Chiến dịch Xuân - Hè 1972

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chiến dịch Xuân - Hè 1972
Một phần của Chiến tranh Việt Nam
Ofensiva pascua.jpg
Sơ đồ trận tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam
.
Thời gian 30 tháng 3 1972 - 31 tháng 1 1973
Địa điểm Miền Nam Việt Nam
Kết quả 2 bên đều cho là mình chiến thắng
Tham chiến
Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng Hoà
Flag of the United States.svg Hoa Kỳ
Flag of Vietnam.svg Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
FNL Flag.svg Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam
Chỉ huy
Flag of South Vietnam.svg Ngô Quang Trưởng
Flag of South Vietnam.svg Nguyễn Văn Toàn
Flag of South Vietnam.svg Lê Văn Hưng
Flag of the United States.svg Creighton Abrams
Flag of Vietnam.svg Võ Nguyên Giáp
Flag of Vietnam.svg Hoàng Văn Thái
FNL Flag.svg Văn Tiến Dũng
FNL Flag.svg Trần Văn Trà
Flag of Vietnam.svg Hoàng Minh Thảo


Lực lượng
13 sư đoàn và 11 lữ đoàn chủ lực Việt Nam Cộng hòa và quân Địa phương tại các nơi diễn ra chiến sự
2.090 xe tăng, 1.618 xe thiết giáp
1.692 máy bay chiến đấu các loại, 1.611 tàu chiến
Flag of the United States.svg Không quân Hoa Kỳ (1.270 máy bay) và hỏa lực Hạm đội 7 (có 6 tàu sân bay, 5 tuần dương hạm).
14 sư đoàn
26 trung đoàn độc lập
250-300 xe tăng và xe bọc thép.
Tổn thất
Nguồn 1: ~10.000 chết, 33.000 bị thương, 3.500 mất tích
Nguồn 2: Tính chung cả năm 1972: Mĩ: 561 chết, 3936 bị thương, 11 mất tích
VNCH: 39.587 chết, 139.731 bị thương, hàng nghìn mất tích
Nguồn Hoa Kỳ: ~40.000 chết, ~60.000 bị thương hoặc mất tích Tính chung cả năm 1972: Chưa có thống kê chi tiết
.
Chiến dịch Xuân - Hè 1972 (Việt Nam Cộng hòa gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, Mỹ gọi là Easter Offensive) là một phần trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam, xảy ra từ 30 tháng 3 đến 31 tháng 1 năm 1973 trong Chiến tranh Việt Nam, là một nhóm các chiến dịch do Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) thực hiện, chống lại Quân lực Việt Nam Cộng hòa (VNCH) cùng đồng minh Mỹ. Đây là cuộc tổng tấn công chiến lược bằng các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng, tiến công sâu hệ thống phòng ngự của quân đội Việt Nam Cộng hòa vào những hướng chiến lược quan trọng: Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng Khu V và Khu VIII (Nam Bộ). Cuộc tiến công bắt đầu ngày 30 tháng 3 năm 1972.

Kế hoạch của Quân đội Nhân dân Việt Nam

Nhận thấy tình hình chuyển biến ngày càng có lợi về so sánh lực lượng và về thế chiến lược, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương Quân đội Nhân dân Việt Nam quyết định xúc tiến việc chuẩn bị để mở cuộc tấn công chiến lược năm 1972 trên toàn miền Nam, trong đó mặt trận Trị - Thiên được chọn là hướng tấn công chủ yếu. Khu 5, trong đó có Đà Nẵng là chiến trường phối hợp quan trọng.
Tháng 10-1971, Trung ương Cục miền Nam họp Hội nghị lần thứ 9, xác định quyết tâm kiên quyết thực hiện thắng lợi Nghị quyết Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Trung ương Cục nêu rõ phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của chiến trường B2 là: "Tranh thủ thời gian, phấn đấu hoàn thành công tác chuẩn bị, xây dựng thế tiến công chiến lược mới bằng ba quả đấm mạnh trên cả ba vùng chiến lược; tiếp đó, mở cuộc tiến công và nổi dậy rộng lớn nhằm đánh suy sụp nặng ngụy quân, ngụy quyền, dánh bại cơ bản kế hoạch bình định của địch". Để đạt được yêu cầu trên, Thường vụ Trung ương Cục chỉ rõ yêu cầu, nhiệm vụ trên từng vùng chiến lược:
  • Đánh bại về cơ bản kế hoạch bình định của Mỹ ở nông thôn.
  • Đẩy mạnh đòn đánh tiêu diệt địch của bộ đội chủ lực, phát triển thế tiến công liên tục khắp các chiến trường, làm cho quân địch suy sụp và tan rã nặng.
  • Đẩy mạnh phong trào đấu tranh ở đô thị lên một bước mới, nhất là Sài Gòn - Gia Định; khoét sâu mâu thuẫn Mỹ - Thiệu, đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh, tiến tới cao trào đấu tranh chính trị rộng lớn, phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công quân sự của bộ đội chủ lực ở hướng chính, buộc Mỹ phải lập một chính phủ mới vãn hồi hòa bình.
Chiến dịch này được định thời gian cho trùng với giai đoạn đầu của chiến dịch bầu cử Tổng thống Mỹ, với hy vọng rằng chiến sự leo thang sẽ gây ra áp lực mạnh mẽ tại Mỹ đòi hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công thẳng vào các hệ thống phòng thủ chiến lược của Việt Nam Cộng hòa, nhằm làm mất uy tín chính sách Việt Nam hóa chiến tranh và cầm chân tối đa các lực lượng chủ lực của đối phương, phá vỡ chương trình bình định nông thôn của chính phủ Việt Nam Cộng hòa, và nâng cao vị thế trước khi diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình cuối cùng.
Để giành thắng lợi, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã huy động rất nhiều tân binh cho trận quyết chiến này. Rất đông những người lính lên đường mùa hè 1972 ấy là những thanh niên từ 30 trường đại học - cao đẳng của Hà Nội: gần 10.000 sinh viên và cả giảng viên trẻ. Hiện nay ở Nghĩa trang Trường Sơn, ở Thành cổ Quảng Trị có rất nhiều bia mộ của những người lính Quân đội Nhân dân Việt Nam ghi rằng quê quán: Hà Nội - Năm sinh 1954 hay 1955.
Theo ước tính của Spencer C.Tucker, tổng lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam huy động trong chiến dịch này lúc đầu là 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập, bao gồm khoảng 120.000 quân, 1200 xe tăngxe bọc thép(tuy nhiên theo số liệu của Quân đội Nhân dân Việt Nam, số xe tăng và xe bọc thép của họ thực ra chỉ khoảng 250-300 chiếc). Về sau chiến sự kéo dài nên hai bên huy động binh sĩ tham chiến càng lúc càng nhiều cho tới tháng 1/1973 thì kết thúc.
Trong lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam đang dồn sức chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Nam, tình báo Hoa Kỳ và VNCH vẫn không phát hiện ra. Họ vẫn chủ quan cho rằng: “Cộng sản còn ở thế bị động về chiến lược chiến thuật và đang thiếu thốn trầm trọng, nhất là đạn dược, tinh thần cán binh giảm sút, tuyển mộ khó khăn, số hồi chánh tăng, mức độ hoạt động của cộng sản trong năm 1972 sẽ chỉ tương tự như 6 tháng cuối năm 1971. Có thể việc chống phá bình định được tăng cường hơn và đẩy mạnh hoạt động trong dịp bầu cử Tổng thống Mỹ tháng 11-1972”

Diễn biến

Pháo 130 mm Quân đội Nhân dân Việt Nam ở mặt trận Kontum
Chiến dịch Xuân hè 1972 xảy ra trên 3 mặt trận chính:
Lúc chiến dịch diễn ra, Hoa Kỳ chỉ còn 65.000 quân tại Việt Nam, trong đó số quân chiến đấu trên bộ chỉ còn rất ít và không tham chiến.
Tại Vùng I chiến thuật, Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công bằng 3 Sư đoàn 304, 308, 324, Mặt trận B5 (4 trung đoàn), 1 trung đoàn hỏa tiễn, 4 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn chiến xa và 2 trung đoàn biệt lập địa phương. Trong tháng 4 và 5/72, hai Sư đoàn 320 và 325 từ miền Bắc tiến xuống và Sư đoàn 312 từ Lào về tăng cường tấn công Cam Lộ, La Vang, Hải Lăng và thành phố Quảng Trị. Quân lực VNCH có ở đây 2 sư đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn lính thủy đánh bộ, 1 lữ đoàn thiết giáp, 17 tiểu đoàn pháo binh, với hơn 40 ngàn quân chính quy, cộng với hơn 100.000 quân địa phương. Tuy nhiên ưu thế quân số này bị vô hiệu hóa bởi Quân đội Nhân dân Việt Nam nắm thế chủ động, buộc Quân lực VNCH phải dàn mỏng lực lượng để đối phó.
Trưa ngày 30 tháng 3 năm 1972, hai Sư đoàn 304308 Quân đội Nhân dân Việt Nam với khoảng 30.000 quân, với sựu hỗ trợ của các trung đoàn xe tăng và pháo binh, cùng với 150.000 tay súng của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, vượt qua khu phi quân sự tại giới tuyến 17 chia cắt 2 miền. Từ phía Tây, Sư đoàn 324B, với xe tăng hỗ trợ, theo đường 9 từ Lào vượt qua Khe Sanh, tiến vào thung lũng sông Thạch Hãn. Lực lượng tương đương 3 sư đoàn này đã gây bất ngờ cho quân phòng thủ của Việt Nam Cộng hòa và đồng minh Mỹ.
Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào các vị trí phòng thủ của Sư đoàn 3 Quân lực Việt Nam Cộng hòa và làm tan rã lực lượng này. Quân lực Việt Nam Cộng hòa rút lui, hai bên bắt đầu một cuộc chạy đua tới các cây cầu tại Đông HàCam Lộ. Ngày 2 tháng 4, trung tá Phạm Văn Đính, chỉ huy Trung đoàn 56 và trung tá Vĩnh Phong, trung đoàn phó, Quân lực Việt Nam Cộng hòa ra hàng cùng 1.500 quân mà không kháng cự. Cuối ngày hôm đó, Quân lực Việt Nam Cộng hòa bỏ Mai Lộc, căn cứ cuối cùng ở phía Tây. Từ đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể vượt cầu Cam Lộ cách Đông Hà 11 km về phía Tây.
Sau 3 tuần giảm hoạt động, ngày 27 tháng 4 Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công Đông Hà từ nhiều hướng (lấy được thị xã này vào ngày hôm sau) và tiến đến sát thị xã Quảng Trị. Ngày 29, Quân lực Việt Nam Cộng hòa được lệnh rút về sông Mỹ Chánh cách đó 13 km về phía Nam. Thị xã Quảng Trị về tay Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày 2 tháng 5.
Chỉ vài ngày sau khi cuộc tiến công tại mặt trận Trị Thiên mở màn, ngày 5 tháng 4, lực lượng gồm Sư đoàn 5, Sư đoàn 7Sư đoàn 9 cùng một số trung đoàn độc lập của Quân Giải phóng vượt biên giới từ Campuchia tấn công tỉnh Bình Long ở phía bắc Sài Gòn. Họ nhanh chóng cắt đường tới thủ đô Sài Gòn, chiếm Lộc Ninh ngày 7 tháng 4, bao vây An Lộc từ ngày 13 tháng 4.
Ngày 12 tháng 4, mặt trận Bắc Tây Nguyên nổ súng. Sư đoàn 2 Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng một phần của Trung đoàn 203 Tăng thiết giáp và một số trung đoàn độc lập của Mặt trận B-3 tấn công một loạt các cứ điểm quanh Đăk TôTân Cảnh. Lực lượng gồm hơn 100 thiết giáp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa từ Bến Hét di chuyển về phía Đăk Tô đã bị mai phục và tiêu diệt. Đến ngày 24 tháng 4, cả Đăk Tô và Tân Cảnh đã thất thủ. Hàng ngàn binh sĩ Việt Nam Cộng hòa rút chạy về Kon Tum gây nên một sự hỗn loạn và hoảng sợ tại thị xã này. Nếu trong vòng 1 tuần, Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp tục tiến dọc đường 14 để truy đuổi đến đây, Kon Tum sẽ nhanh chóng sụp đổ. Nhưng do thiếu đạn dược bổ sung nên họ đã dừng lại.
Trong giai đoạn đầu, cuộc tổng tấn công đã là một thành công hoàn hảo. Tình báo Mỹ đã đánh giá sai về thời gian, quy mô, và địa điểm của các cuộc tấn công. Có được tính bất ngờ, QĐNDVN chọc thủng các tuyến phòng thủ mỏng của QLVNCH, nhanh chóng tiến về các thị xã Quảng Trị ở phía bắc, Kon Tum ở Tây Nguyên, và An Lộc ở cách Sài Gòn chỉ 60 dặm. Chỉ trong hơn 2 tháng tiến công, riêng tại Quảng Trị, QĐNDVN diệt hoặc bắt sống gần 30.000 quân, trong đó có một số đơn vị tinh nhuệ của quân đội Sài Gòn như Sư đoàn bộ binh 3, Lữ đoàn 147 lính thủy đánh bộ; phá hủy và thu 636 xe tăng, xe thiết giáp, 1.870 xe quân sự, 419 khẩu pháo các loại, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay.


Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu buộc phải rút quân bỏ ngỏ vùng nông thôn, huy động hầu hết lực lượng dự bị để bảo vệ các thị xã bị đe dọa, tạo cơ hội cho các lực lượng địa phương của Quân giải phóng Miền Nam mở các cuộc tấn công tại đồng bằng sông Cửu Long và các vùng tập trung dân cư quanh Sài Gòn.

Dân chúng di tản khi cuộc chiến diễn ra
Theo ông William Colby, giám đốc cơ quan CIA tại Sài Gòn thì Quân đội Nhân dân Việt Nam chắc chắn sẽ chiếm được Huế nhưng không qua nổi Đà Nẵng. Dù vậy, thực tế tốt hơn mong đợi khi Hạm đội 7 và Không lực của Mỹ tham chiến, hỗ trợ hỏa lực giúp ngăn đà tiến của đối phương, giúp quân VNCH có thêm thời gian bổ sung thiệt hại và tổ chức lại. Tổng thống Thiệu giao quyền chỉ huy cho Trung tướng Ngô Quang Trưởng, 1 chỉ huy có năng lực. Với sự yểm trợ hỏa lực tối đa của Mỹ, tướng Trưởng đã ngăn được đà tiến Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Huế, khiến đối phương phải lui về phòng ngự. Quân VNCH sau đó phản công và tái chiếm lại thành cổ Quảng Trị sau đó 2 tháng. Xem chi tiết:Chiến dịch Trị Thiên.
Tại An Lộc, tình hình cũng không tốt hơn. Cú đánh ở hướng Bắc Sài Gòn tỏ ra nguy hiểm hơn. Họ đã tập trung 4 sư đoàn mạnh vào đây với hy vọng sẽ đè bẹp đối phương rồi tiến vào bao vây Sài Gòn. Tuy nhiên nhờ những cuộc tấn công yểm trợ dữ dội của không quân Mỹ, quân Việt Nam Cộng hòa đã trụ vững.. Xem chi tiết:Chiến dịch Nguyễn Huệ
Tuy không quân Mỹ đã đánh phá 1 cách có hiệu quả các địa điểm tập trung của Quân đội Nhân dân Việt Nam nhưng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh đã nhấn mạnh: Việt Nam Cộng hòa phải tự lo lấy phần việc chiến đấu trên mặt đất. Người Mỹ sẽ chỉ giúp họ về hậu cần và hỏa lực Không quân.

Kết quả

Xem Hiệp định Paris 1973
Sau khi cuộc tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam diễn ra, Không quân Hoa Kỳ tiến hành oanh tạc Hà NộiHải Phòng cùng những hoạt động phóng ngư lôi phong toả các hải cảng ở miền Bắc Việt Nam đã giáng một đòn nặng nề vào kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Binh sĩ thuộc Trung đoàn 20 Tăng Thiết giáp QLVNCH thu 1 xe tăng Type-59 của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở phía Nam Đông Hà năm 1972
Sau khi chiến dịch kết thúc, hai bên đều không còn sức để tiếp tục giao tranh. Tuy nhiên, cả hai đều cho rằng các nỗ lực của mình đã thành công.
Tuy rằng hiệu quả chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa không đồng đều và họ phải chịu thương vong rất lớn, nhưng cuối cùng đã đứng vững với sự hỗ trợ của các cố vấn Mỹ và hỏa lực yểm trợ mạnh mẽ của Mỹ từ trên không, trong đó phải kể đến các phi vụ B-52 liên tiếp rải thảm xuống đội hình đối phương. Việt Nam Cộng hòa và Mỹ tin rằng chính sách Việt Nam hóa chiến tranh đã chứng tỏ hiệu lực. Tuy gặp thất bại trên chiến trường và chịu thương vong lớn, nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã đẩy lui được cuộc tổng tấn công lớn nhất từ trước đến nay của quân Giải phóng - mặc dù thái độ này bị giảm nhẹ do thực tế rằng nhờ có hỏa lực mãnh liệt của không lực Mỹ mà Quân lực Việt Nam Cộng hòa mới có thể trụ vững. Tuy nhiên các điểm yếu nội tại trong chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa đã xuất hiện trở lại, khi họ tỏ ra quá phụ thuộc vào yểm trợ hỏa lực của Mỹ, điều này đã bị đối phương nắm bắt và tận dụng sau đó. Trong chiến dịch, Hoa Kỳ ước tính khoảng 25.000 dân thường đã bị thiệt mạng, gần 1 triệu phải đi tản cư.

Hà Nội, sau khi đã sử dụng 14 sư đoàn và 26 trung đoàn độc lập (gần như toàn bộ quân đội của mình) cho cuộc tấn công, đã chịu thương vong khoảng 100.000 người (Hoa Kỳ ước tính), mất hầu hết số xe tăng (58 xe tăng T-54, 18 xe tăng T-59 do Trung Quốc chế tạo, 27 xe tăng lội nước hạng nhẹ PT-76 do Ba Lan chế tạo). (Một nguồn khác cho thống kê 50.000-75.000 binh sĩ chết và bị thương cùng với hơn 700 xe tăng, xe thiết giáp các loại) Tuy nhiên, họ đã giành được quyền kiểm soát lâu dài tại một nửa diện tích của 4 tỉnh miền Trung Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, và Quảng Tín — cũng như các vùng ven phía Tây của các Vùng II và III Chiến thuật (khoảng 10-20% diện tích miền Nam). Hà Nội cũng tin rằng họ đã giành được vị thế mạnh hơn tại cuộc đàm phán hòa bình ở Paris.
Theo đánh giá của Mỹ, Hà Nội đã mắc phải 2 sai lầm quan trọng khi tính toán về năng lực của đối phương. Điểm thứ nhất là đánh giá thấp khả năng chiến đấu của QLVNCH, quân đội mà vào năm 1972 là một trong những quân đội được trang bị tốt nhất thế giới; điểm thứ hai là không lường được sự hủy diệt cực mạnh của không lực Mỹ đối với đối phương trên chiến trường truyền thống. Cùng với các sai lầm chiến thuật đó, các chỉ huy QĐNDVN đã không tận dụng lợi thế du kích và quân số địa phương mà thay vào đó liên tiếp tấn công trực diện vào các vùng hỏa lực phòng thủ mạnh, chịu hậu quả là thương vong rất lớn.
Tuy nhiên, Hà Nội nhanh chóng tận dụng được những gì giành được. QĐNDVN lập tức bắt đầu mở rộng các hành lang hậu cần từ Lào và Campuchia vào miền Nam Việt Nam. Các cơ sở tại Cửa ViệtĐông Hà được nhanh chóng mở rộng, trong vòng 1 năm, hơn 20% hàng chuyển vào cho chiến trường miền Nam được đi qua đây.
Tại Paris, đàm phán hòa bình tiếp diễn, nhưng lần này, cả hai bên cùng đồng ý thỏa hiệp. Mỹ đồng ý chấp nhận ngừng bắn tại chỗ, thừa nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tồn tại bên cạnh chính quyền Sài Gòn, và Mỹ rút quân hoàn toàn ra khỏi Nam Việt Nam. Các điểm này thực tế đã đủ để thỏa mãn các tiêu chí cho chiến thắng mà Hà Nội đã đề ra trước khi cuộc tổng tấn công bắt đầu. Còn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đồng ý để chính quyền của tổng thống Thiệu tiếp tục giữ quyền lực.
Đến đây, trở ngại duy nhất đối với một cuộc dàn xếp là Nguyễn Văn Thiệu. Thất bại của Mỹ trong việc thuyết phục tổng thống Thiệu đã dẫn đến việc ngừng đàm phán vào tháng 12. Tiếp đó là chiến dịch Linebacker II đánh phá miền Bắc Việt Nam nhưng thất bại, do vậy Mỹ quay sang gây áp lực buộc Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận kết quả thương lượng hồi tháng 10, trước khi các bên quay lại đàm phán. Hiệp định hòa bình Paris được kí vào tháng Giêng năm 1973 với nội dung cơ bản giống với bản đã được kí tắt hồi tháng 10, với điều khoản quan trọng nhất là cho phép Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ lại các vùng mà họ đã kiểm soát được.
Mỹ rút hoàn toàn quân viễn chinh khỏi Nam Việt Nam vào tháng 4 năm 1973, tuy nhiên không có nghĩa họ đã rút hẳn khỏi cuộc chiến. Hoa Kỳ vẫn để lại lực lượng cố vấn quân sự và tiếp tục viện trợ quân sự cho VNCH dù cắt giảm nhiều
Trên chiến trường lúc này (28 tháng 1/1973) tổng lực lượng VNCH là 450.000 quân chủ lực và hơn 700.000 quân địa phương và dân vệ. Quân Đội Nhân Dân Việt Nam có 525.000 quân (Hoa Kỳ ước đoán 500.000-600.000) mà 220.000 trong số đó đang có mặt ở miền Nam
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 15:41, ngày 30 tháng 3 năm 2014.

Trận An Lộc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận An Lộc
Một phần của Chiến tranh Việt Nam
AnLoc Map.png
.
Thời gian 13 tháng 4 - 9 tháng 6 năm 1972
Địa điểm An Lộc
Kết quả Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố chiến thắng
Tham chiến
Flag of Vietnam.svg Quân đội Nhân dân Việt Nam
FNL Flag.svgQuân giải phóng miền Nam
Flag of South Vietnam.svg Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
Flag of the United States.svg Không quân Hoa Kỳ
Chỉ huy
Bùi Thanh Vân
Nguyễn Thới Bưng
Lê Văn Hưng
Hồ Trung Hậu


Lực lượng
35.000-40.000
48 xe tăng (gồm cả 17 chiếc chiến lợi phẩm)
Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng Hòa: 6.350 (ở An Lộc)
20.000 (lực lượng giải vây)]]
Flag of the United States.svg Hoa Kỳ: Hơn 1.000 máy bay và trực thăng các loại
Tổn thất
Theo Quân đội Nhân dân Việt Nam: khoảng 2.000 chết, 5.000 bị thương  Theo Hoa Kì: 10.000 chết
15.000 bị thương
27 xe tăng (ở An Lộc)
8000 chết và bị thương, riêng ở An Lộc là 2300
30 xe tăng và trên 50 xe thiết giáp
.
Trận An Lộc là trận chiến tại An Lộc. Đây là một trận chiến mà phía Việt Nam Cộng hòa xem là đợt 2 trong Chiến dịch Hè 1972 hay "Mùa Hè Đỏ Lửa" trong Chiến tranh Việt Nam . Về phía quân Giải phóng, thì đây là một trận đánh hiệp đồng binh chủng trong đợt 1 của Chiến dịch Nguyễn Huệ (1 tháng 4 năm 1972 - 19 tháng 1 năm 1973).
An Lộc là địa bàn quân sự chiến lược tối quan trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa vì đây là cửa ngõ Tây Bắc ngăn quân Giải Phóng tiến về thủ đô Sài Gòn sau khi quận lỵ Lộc Ninh rơi vào tay quân Giải Phóng ngày 7 tháng 4 năm 1972.
Phía quân Giải Phóng tấn công trực tiếp thị xã An Lộc gồm có Sư đoàn 9, 2 trung đoàn pháo binh 28 và 42, 4 tiểu đoàn pháo phòng không và 1 tiểu đoàn tăng thiết giáp 20, về sau tăng cường thêm tiểu đoàn tăng thiết giáp 21 Ngoài ra còn có các đơn vị khác tham chiến ở vòng ngoài là Sư đoàn 5, 7 và Đoàn C30B.
Phòng thủ thị trấn An Lộc, phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa có Sư đoàn 5 Bộ binh, Liên đoàn 3 Biệt động quân cùng lực lượng Nhân dân Tự vệĐịa phương quân tỉnh Bình Long.
Đợt tấn công đầu tiên do Sư đoàn 9 Quân đội Nhân dân Việt Nam khai pháo. Vì tin rằng sẽ chiếm được An Lộc, cùng ngày hôm đó tại Paris, Nguyễn Thị Bình đại sứ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại hòa đàm Paris tuyên bố chỉ trong vòng 10 ngày nữa An Lộc sẽ là thủ đô của chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam.

Bối cảnh trước trận đánh

Tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị Đảng lao động Việt Nam ra Nghị quyết mở cuộc tiến công chiến lược 1972 trên các hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị Thiên (chiến dịch Trị Thiên), trong đó Đông Nam Bộ là hướng tiến công chính nhằm tiêu diệt 1 lực lương quân sự lớn và mở rộng vùng chiếm được. Chủ trương ở Đông Nam Bộ là đánh gục Quân đoàn III và lực lượng tổng trù bị của VNCH.
Cuối tháng 2, khi quá trình chuẩn bị đã hoàn tất, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Nguyễn Huệ với lực lượng hùng hậu tương đương cấp Quân đoàn. Bộ chỉ huy chiến dịch gồm có:
Thường trực tại Bộ chỉ huy còn có:Hoàng Văn Thái, Phạm Hùng, Trần ĐộHoàng Cầm.
Trực tiếp chỉ huy các đơn vị chiến đấu tại trận An Lộc có sư đoàn trưởng sư đoàn 9 Bùi Thanh Vân và sư đoàn trưởng sư đoàn 7 Nguyễn Thới Bưng.
Lực lượng tấn công được chuẩn bị kỹ lưỡng, gồm 3 Sư đoàn 5, 7, 9; 3 Trung đoàn bộ binh 24, 271, 205; Trung đoàn đặc công 429; 2 Trung đoàn 28 và 42 Pháo binh Miền; 2 tiểu đoàn Tăng thiết giáp 20 và 21 và Đại đội 33 độc lập; Đại đội 52 Cao xạ tự hành; 4 tiểu đoàn pháo phòng không; 20 tiểu đoàn và 63 đại đội bộ đội địa phương. Quân số lên tới 40.000 quân tham dự chiến dịch này.
Lúc 1 giờ sáng ngày 1 tháng 4, Đoàn C30B quân Giải Phóng gồm Trung đoàn 24 và 271, phối thuộc Đại đội xe tăng 33 tấn công cứ điểm Sa Mát, do Chiến đoàn 49 QLVNCH trấn giữ, với mục đích nghi binh. Tuy bị bất ngờ, nhưng lực lượng đồn trú cũng đã trống trả mãnh liệt, dùng M-72 bắn hỏng 3 xe tăng, trước khi rút lui khỏi cứ điểm.
Rạng sáng ngày 5 tháng 4, 1972, vào lúc bình minh, Bộ Tư lệnh Chiến dịch hạ quyết tâm: "Phải chiếm An Lộc trước ngày 20 tháng 4, 1972, nghĩa là phải đè nặng áp lực tối đa lên một vùng hơn 100 km nằm về phía Bắc Sài Gòn, để cầm chân một số lớn lực lượng nòng cốt của địch tại đây."
Ngày 5 tháng 4 năm 1972, quân Giải Phóng sử dụng lực lượng của Sư 5, tăng cường Trung đoàn 3 Bộ binh (Sư đoàn 9), Trung đoàn pháo binh 28 và 2 đại đội xe tăng, do Thượng tá Bùi Thanh Vân, Sư trưởng sư 5, làm tư lệnh mặt trận, tấn công mạnh vào Lộc Ninh, một quận nằm về phía Bắc của An Lộc.
Trong trận đánh tại Lộc Ninh, Quân giải phóng giao chiến với lực lượng phòng thủ của Chiến đoàn 9 QLVBCH gồm Trung đoàn 9 Bộ Binh và 30 chiến xa của Thiết đoàn 5, phối thuộc thêm các đơn vị Biệt động quân Biên phòng, Địa Phương Quân và Nghĩa quân ở Lộc Ninh. Do trận đánh kéo dài mà chưa chiếm được ưu thế, quân tấn công lui trở ra, pháo kích vào các ổ kháng cự của quân trú phòng.
Lúc 15 giờ ngày 6 tháng 4 năm 1972, một đơn vị trinh sát của Trung đoàn đặc công 429 quân Giải Phóng bất ngờ tấn công phá hủy sân bay Quản Lợi, thăm dò từ phía bắc, đồng thời nhằm chặn đường tiếp viện cho Lộc Ninh, cắt đứt tuyến tiếp viện bằng đường không của thị xã An Lộc. Đoạn đường từ An Lộc đi Lộc Ninh bị gián đoạn hoàn toàn, chỉ có thể liên lạc bằng điện thoại. Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, tư lệnh Chiến đoàn 9 QLVNCH điều 2 tiểu đoàn bộ binh và thiết giáp 1 đang phòng ngự căn cứ Hoa Lư (tiền đồn ở Bắc Lộc Ninh) về ứng cứu như bị rơi vào đúng trận địa phục kích của sư đoàn 5 quân Giải Phóng. Bộ tư lệnh B2 quân Giải Phóng tăng cuờng cho hướng này trung đoàn pháo hỗn hợp 40 (gồm pháo, cối và hỏa tiễn H12), 2 đại đội xe tăng hỗn hợp (PT-76T-54). Sư đoàn 5 tiếp tục công kích, bắn cháy bắn hỏng 18 xe tăng, 31 xe M-113 và 8 máy bay trực thăng UH-1 của QLVNCH.
Lúc 5 giờ 30 phút ngày 7 tháng 4 năm 1972, quân Giải Phóng mở đợt tấn công tổng lực vào chi khu Lộc Ninh. Sau 3 ngày bị tấn công và bị cắt đứt tiếp viện, quân trú phòng được lệnh di chuyển dần dần về phía Nam để lùi về An Lộc. Toàn bộ 30 chiến xa của Việt Nam Cộng Hòa, một số bị phá hủy, một số đành bỏ lại. Đến 14 giờ, quân Giải Phóng đã chiếm lĩnh hoàn toàn chi khu Lộc Ninh. Đại tá Nguyễn Công Vĩnh, Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 9 bị bắt sống. Ngày 8 tháng 4 năm 1972, Lộc Ninh hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của quân Giải Phóng.
Chỉ trong vòng 3 ngày giao tranh, phía Việt Nam Cộng Hòa đã có 600 binh sĩ chết. Chiến đoàn 9 QLVNCH bị thiệt hại nặng và tan rã, đại tá Nguyễn Công Vĩnh và trung tá Nguyễn Đức Dương, chỉ huy thiết đoàn 1 đầu hàng. Hơn 100 xe tăng - xe thiết giáp chỉ còn hơn 30 chiếc thoát được về An Lộc.
Sau khi chiếm được Lộc Ninh, Sư đoàn 5 quân Giải Phóng tiếp tục hành quân tiến theo Quốc lộ 13 xuống phía Nam, uy hiếp mặt Bắc An Lộc. Sư đoàn 7 xuất phát từ vùng biên giới Campuchia, đi vòng qua An Lộc, tiến xuống phong tỏa Quốc lộ 13 ở phía Nam An Lộc, tức là con đường bộ duy nhất tiếp tế cho thị trấn này, đồng thời uy hiếp các căn cứ Katum, Bổ Túc, Tống Lê Chân, Thiện Ngôn, phối hợp với Đoàn C30B để cầm chân Sư đoàn 25 Bộ binh VNCH tại Tây Ninh, ngăn cản không cho tiếp viện An Lộc. Quân Giải Phóng hạ quyết tâm: "Dựng bức tường thép trên Quốc lộ 13, không để 1 chiếc xe, 1 tên địch nào vượt qua trận địa". Sư đoàn 9 là lực lượng chủ lực tấn công An Lộc, cũng xuất phát từ vùng biên giới Campuchia, tiến xuống và tấn công An Lộc từ phía Tây.
Cùng lúc đó, trước áp lực mỗi ngày một mạnh của Quân Giải phóng, để tránh bị bao vây tiêu diệt, Chiến đoàn 52 VNCH phải rút bỏ cứ điểm Cần Lê, lui về phòng thủ mạn Bắc An Lộc. Chiến đoàn 8 cũng được tăng cường phòng thủ ở hướng Tây Bắc An Lộc, án ngữ điểm cao núi Đồng Long, cùng phối hợp chống đỡ hướng tấn công chính của quân Giải Phóng. Liên đoàn 3 Biệt động quân phòng thủ phía Đông, án ngữ điển cao Núi Gió. Chiến đoàn 7 phòng thủ hướng Tây Nam, đề phòng tập hậu, đồng thời sẽ tập kích khi có điều kiện để mở thông tuyến tiếp viện từ phía Nam.
Tại tuyến phòng thủ An Lộc, quân trú phòng rơi vào thế bất lợi khi toàn bộ 24 khẩu đại bác 105mm của Tiểu đoàn 52 Pháo binh VNCH đã bị quân Giải phóng pháo kích phá hủy gần hết, chỉ còn lại một khẩu duy nhất may mắn "còn sống sót". Ngoài ra, một pháo đội 6 khẩu của quân Nhảy dù được trực thăng vận xuống Đồi Gió, về phía Đông An Lộc, mấy ngày sau cũng bị quân Giải phóng tấn công và triệt tiêu luôn.

Diễn biến trận đánh

Trước sức ép gia tăng của quân Giải phóng vào thị xã An Lộc, Tổng tham mưu trưởng và Tư lệnh Quân đoàn III VNCH đã điều động binh lực tiếp viện cho An Lộc. Toàn bộ Lữ đoàn 1 Nhảy dù VNCH, gồm ba tiểu đoàn 5, 6 và 8 được gởi đến tăng viện. Toàn bộ Sư đoàn 21 Bộ binh cùng với Trung đoàn 15 của Sư đoàn 9 Bộ binh từ vùng miền Tây sông Cửu Long cũng được trực thăng bốc lên Lai Khê.
Tuy nhiên, kể từ đây, quãng đường Chơn Thành đi Lộc Ninh đã bị tắc nghẽn. Các đơn vị tăng viện của Việt Nam Cộng Hòa cố tiến từng bước một để đến gần đơn vị bạn An Lộc, nhưng mỗi bước tiến đều liên tục bị các ổ phục kích ven đường đánh trả quyết liệt, thương vong rất lớn. Tiến lên không nổi, phải quay trở lại, để rồi tìm cách tiến lên. Gần trọn các binh sĩ của Sư đoàn 7 QGP đã dồn nỗ lực chính vào tuyến phục kích dài 26 km từ Chơn Thành đến An Lộc. Suốt quãng đường này, nơi nào cũng có thể là mục tiêu của pháo binh giải phóng. Họ rải quân dài dài dọc theo quốc lộ để sẵn sàng chỉ điểm tọa độ cho pháo binh bắn từ xa tới.
Cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn ác liệt. Dần dần, lực lượng bên trong An Lộc đã có thể khởi lại thế công, dù phải hết sức chật vật. Do phải chuyển quân đi chặn lực lượng giải vây nên lực lượng bao vây bị phân tán, quân VNCH phòng thủ ở An Lộc thừa cơ phản kích, mở rộng vòng vây. Vòng bán kính bao vây thị trấn chỉ chừng 500 mét nhưng tới ngày 11 tháng 4/1972, vòng đai kiểm soát được nới rộng thêm hơn 3 km đường bán kính.
Bên ngoài, Lữ Ðoàn dù 1 QLVNCH vượt khỏi Chơn Thành được 7 km về hướng Bắc, sau khi giải tỏa áp lực từ Lai Khê đến Chơn Thành. Sau một trận đụng độ ác liệt với QGP tại vùng này, Lữ Ðoàn 1 Dù thiệt hại nặng phải giao lại trách nhiệm cho các đơn vị của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh giữ an ninh trục lộ, những đoạn đường đã được giải tỏa.
Riêng trong ngày 11 tháng 4, 27 pháo đài bay B-52 đã trút gần 800 tấn bom xuống các vị trí đối phương. Có lẽ nhờ thế, buổi chiều hôm đó, mức độ pháo kích đã giảm sút nhiều.
Sư Ðoàn 21 Bộ Binh VNCH được tăng phái Trung Ðoàn 15 thuộc Sư Ðoàn 9 và một tiểu đoàn Nhảy Dù, lãnh nhiệm vụ khai thông Quốc Lộ 13. Nhưng mãi 2 tháng sau đến ngày 8 tháng 6 mới hoàn thành nổi.
Ngày 12 tháng 4/1972, Bộ Tư Lệnh quâm Giải phóng ra khẩu lệnh cho chiến sĩ của họ: "Cán bộ và binh sĩ phải tấn công trên khắp mặt trận. Chắc chắn quân ta sẽ thắng." Ngay ngày hôm sau 13 tháng 4, xe tăng của họ bắt đầu tiến vào thị xã An Lộc.
Mở màn cho trận đánh khốc liệt đầu tiên bằng chiến xa này, hồi rạng sáng, bộ đội từ mạn Bắc thành phố tiến chiếm đồi Đồng Long và chiếm phi trường Quản Lộc. Lúc ấy, toàn thể kho nhiên liệu, đạn dược gần sân bay bị pháo kích phát hỏa bốc cháy dữ dội. Hàng ngàn quả pháo bắn vào An Lộc dọn đường. Sau đó, đoàn chiến xa 15 chiếc nổ máy tiến vào.
Đoàn chiến xa tiến theo đường Ngô Quyền, sát cạnh Bộ Chỉ Huy của Đại Tá Mạch Văn Trường, Trung Ðoàn Trưởng của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh VNCH.
Khi còn cách Bộ Chỉ Huy của Đại Tá Mạch Văn Trường 20 mét thì đoàn chiến xa bị khựng lại bởi một loạt đạn M-72 (vũ khí cá nhân dùng để chống xe tăng), xe tăng dẫn đầu bốc cháy, trườn tới mấy thước rồi ngừng hẳn. Các xe tăng còn lại cũng rơi vào ổ phục kích. Trong trận này, có 7 xe đã bị bắn cháy sát cạnh Bộ Chỉ Huy của Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, 3 bởi M-72 và 4 bởi trực thăng vũ trang và AC-130. Ðoàn xe tăng lùi lại để rồi tìm đường khác tiến vào. Tiếng súng vang rền trong phân nửa phía Bắc thị xã An Lộc.
Trong lúc giao tranh ác liệt tiếp tục, Đại Tá Trương Hữu Đức, Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 5 VNCH, đang ngồi trên trực thăng quan sát, bị trúng đạn pháo của bộ đội tử thương.
Trở lại An Lộc, sau 30 giờ ác chiến đẫm máu bằng đủ mọi hình thức, xáp lá cà, cận chiến bằng lựu đạn, súng dài, súng ngắn thi nhau nổ, trong phân nửa thị xã phía Bắc, hai bên đều bị thiệt hại nặng, và kiệt lực, cần phải nghỉ ngơi và chỉnh đốn lại. Bộ Tư lệnh Miền giao cho Sư đoàn 7 và Trung đoàn 209 chốt tại Tàu Ô trên đường 13, hạ quyết tâm không cho địch giải cứu An Lộc và bảo vệ 3 huyện mới giải phóng.

Cuộc tấn công An Lộc lần thứ 2

Ngày 14 tháng 4 năm 1972 An Lộc vẫn bị xiết chặt trong vòng vây chừng vài cây số vuông. Quân trú phòng không bung ra ngoài được để hoạt động. Trung tướng Nguyễn Văn Minh, Tư lệnh Quân khu 2 muốn lập một đầu cầu mở cửa ra vào An Lộc, nới rộng tầm hoạt động của quân trú phòng. Mặt bắc, mặt tây, mặt nam đều bị bít kín, chỉ còn mặt đông nam, với những ngọn đồi thoai thoải. Tướng Minh trao nhiệm vụ này cho Chiến đoàn 15 dưới quyền Đại tá Hồ Ngọc Cẩn.
Cuộc họp mặt tại căn cứ Lai Khê giữa Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư Lệnh Sư Ðoàn Nhảy Dù, Trung tướng Nguyễn Văn Minh và Đại tá Lê Quang Lưỡng kết thúc mau chóng. Sau 5 vòng bay trực thăng quan sát, Đại lá Lưỡng chọn ấp Srok Ton Cui làm bãi đáp, nơi này nằm về phía Đông cách An Lộc 4 km.
Ngày 14 tháng 4 năm 1972, Tiểu đoàn 6 Dù được trực thăng vận xuống trước để dọn bãi đáp. Ngày hôm sau, Tiểu đoàn 5, Tiểu đoàn 8 cùng Bộ chỉ huy của Lữ đoàn 1 nhảy dù xuống theo. Sau đó Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù ở lại Ðồi Gió trấn giữ đoạn hậu (về sau bị quân giải phóng đánh tả tơi). Còn hai tiểu đoàn kia chia làm hai cánh quân song song tiến vào An Lộc nhưng gặp sự phản kích quyết liệt của quân giải phóng, 2 đơn vị này không tiến vào được An Lộc và cũng đứt liên lạc với nhau.
Sáng 15 tháng 4, quân giải phóng lại ồ ạt tấn công vào mặt bắc thị xã An Lộc. Một số xe tăng quân Giải phóng đã chọc thủng phòng tuyến phía Bắc, di chuyển xuống đến nửa phía nam thành phố, nhưng một số xe tăng cũng bị bắn cháy.
Rút kinh nghiệm lần trước, quân trú phòng tập trung bắn chiến xa, không phải chỉ bằng M-72 mà bằng cả súng phóng hỏa tiễn B-40B-41 tịch thu được của Giải phóng quân khi họ xâm nhập thành phố. Trong các cuộc giao tranh này, Giải phóng quân để lộ rõ một khuyết điểm trầm trọng trong kỹ thuật tác chiến trong thành phố: thiếu phối hợp giữa bộ binh và cơ giới. Quân trú phòng ẩn nấp trên các cao ốc, trong các hầm trú ẩn, tại bất cứ nơi nào kín đáo mà họ thuộc nằm lòng để chĩa tất cả họng súng đủ loại vào một mục tiêu quá lớn, và quá rõ ràng đang di chuyển trên đường phố, trong lúc đôi bên chỉ cách nhau trong vòng 10 mét thì quân trú phòng tấn công.
Do Giải phóng quân từ xa tới, không thông thạo đường xá, không biết rõ địa thế bằng những binh sĩ VNCH đang sinh sống tại An Lộc, do đó đã phát sinh thêm 1 số thiệt hại không đáng có.
Theo tài liệu từ phía quân giải phóng thì:
"Riêng Mặt trận Bình Long ta không dứt điểm được. Giữa tháng 4/1972 địch tập trung cố thủ với 5 Lữ đoàn, lực lương Không quân chi viện tăng gấp nhiều lần trong khi ta bị thương vong hao hụt, sức tiến công giảm sút. Rõ ràng thời cơ dứt điểm Bình Long không còn, ta chuyển sang bao vây cô lập."
Ngày 9 tháng 4/1972 tại Quảng Trị, Tiểu Ðoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến dùng M-72 (súng phóng hỏa tiễn chống chiến xa, thuộc loại vũ khí cá nhân) đã hạ khá nhiều xe tăng của quân giải phóng. Chiến thắng đầu tay này được loan truyền mạnh mẽ trên hệ thống truyền thanh Quốc Gia.
Cũng trên làn sóng này, kỹ thuật bắn chiến xa cũng được phổ biến, hướng dẫn, giải thích tường tận. Binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, hầu như mỗi người đều có một máy thu thanh bỏ túi dể nghe âm nhạc. Họ biết được hiệu quả của vũ khí chống chiến xa, và các cấp chỉ huy mặt trận cũng không bỏ lỡ cơ hội huấn luyện thêm ngay tại chỗ, như trường hợp của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, ngay sau trận tấn công bằng xe tăng đầu tiên của quân Giải phóng vào An Lộc.
Ngày 15 tháng 4/1972, Trung tướng Nguyễn Văn Minh dời Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn 3 đến Lai Khê để trực tiếp chỉ huy mặt trận Bình Long. Một lực lượng với 20.000 binh sĩ gồm Nhảy Dù, Bộ Binh, Thiết Kỵ được huy động để giải tỏa Quốc Lộ 13.
Cuộc đổ quân của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù bị thiệt hại nặng ở Đồi Gió. Tiểu Ðoàn 6 Dù và một pháo đội gồm 6 khẩu đại bác 105 ly bị bộ đội đánh tan nát vào lúc 17 giờ ngày 21 tháng 4/1972.
Lúc ấy, Liên đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, đang hoạt động bên trong phòng tuyến địch, cũng được trực thăng bốc hết về An Lộc vào ngày 16 tháng 4/1972, để tiêu diệt các tổ đặc công của địch lọt được vào thị xã sau hai lần tấn công.
Lính Biệt Cách Nhảy Dù được huấn luyện để đơn độc chiến đấu, quen cách tác chiến, thói quen và vũ khí của quân Giải phóng, nên kỹ thuật tác chiến cá nhân của họ khá cao. Chính các binh sĩ Biệt Cách Dù đã tỉa các đặc công Giải phóng lẫn vào dân
Sau khi quân Nhảy Dù bắt tay được với quân trấn thủ, họ liền nới rộng vòng đai về phía Nam. Không lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ hoạt động mạnh. Pháo đài B-52 dội bom nhiều nơi chỉ cách An Lộc một cây số về phía Bắc, gây nhiều thiệt hại cho quân tấn công. Quân trú phòng cố nới rộng vòng đai phòng thủ, đồng thời di chuyển được chừng 2.000 dân chúng ra khỏi An Lộc để chạy về Chơn Thành.
"Trận tấn công Bình Long lần 2 của ta bất thành. Sau 4 ngày đột phá liên tục, 18 trên 25 xe tăng bị cháy hoặc bị hư hỏng nặng..."

Cuộc tấn công lần thứ 3


Ngày 18 tháng 4/1972, đợt tấn công thứ ba của bộ đội vào An Lộc bắt đầu. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, chỉ huy toàn bộ lực lượng trú phòng, đã cam kết: "Ngày nào tôi còn, An Lộc còn."
Thêm 1 số xe tăng quân Giải phóng bị hạ gần Bộ chỉ huy của Chuẩn Tướng Hưng. Pháo đài B-52 tiếp tục dội bom chung quanh. Không lực Việt Nam Cộng Hòa dồn dập yểm trợ và tiếp tế. Nhưng trước một hàng rào phòng không mạnh của quân giải phóng, từ đại liên 12.7 ly, các pháo phòng không 37 ly và 100 ly, hỏa tiễn tầm nhiệt vác vai SA-7 lố nhố trong rừng cao su bao vây An Lộc, không quân VNCH chịu nhiều tổn thất, nhưng cũng chỉ có thể tiếp tế "nhỏ giọt" cho chiến trường.
Phần lớn kiện hàng tiếp tế cho quân VNCH (thả lơ lửng bằng cánh dù) từ phi cơ thả xuống đều rơi tạt ra ngoài hàng rào phòng thủ và rơi vào tay bộ đội. Nguồn tiếp tế bị cản trở, Quốc Lộ 13 vẫn tắc nghẽn trong khi quân giải toả vẫn tiến lên 1 cách ì ạch trước sức chiến đấu dữ dội của các ổ đề kháng do các chiến sĩ Sư đoàn 7 quân Giải phóng đảm nhận.

Cuộc tấn công lần thứ 4


Binh sĩ VNCH đang cứu thương cho đồng đội tại An Lộc
Nửa đêm về sáng ngày 21 tháng 4/1972, quân giải phóng pháo kích trên 2.000 trái đạn đủ loại vào những địa điểm trú phòng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, rồi đánh vào thị xã từ bốn nơi khác nhau. Bốn mũi tiến quân cùng khởi động từ ở mặt Ðông: tại 2 km về phía Đông Nam An Lộc, tại 3 km về phía Đông Nam, tại 1 km về phía Đông Nam, và tại 5 km cũng phía Đông Nam đều là những nơi có binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa trấn đóng. Tại mỗi địa điểm tấn công, họ sử dụng 5 hoặc 6 chiến xa cùng với một tiểu đoàn bộ đội đi theo hỗ trợ. Và lần này, đặc công Giải phóng bên trong thị xã bắt đầu hoạt động mạnh trở lại để ăn nhịp với các hoạt động bên ngoài.
Tuy nhiên, do thiếu sự phối hợp, các mũi này không khai diễn đồng loạt, mà lại cách quãng nhau. Mũi thứ nhất lúc 4 giờ sáng, và mũi sau cùng hồi 13 giờ chiều. Nhờ thế, quân trú phòng có thể yểm trợ cho nhau một phần hỏa lực còn lại, và nhất là hỏa lực của không quân.
Có đến 17 phi vụ B-52 để yểm trợ cho An Lộc trong ngày hôm ấy. Trong số đó có 3 "pass" yểm trợ cho Tiểu Ðoàn 6 Dù rút khỏi Đồi Gió, nằm 4 km về phía Đông An Lộc. Nhưng tiểu đoàn này gặp phải hỏa lực hùng hậu của địch gờm sẵn để tấn công mặt Ðông Nam An Lộc đúng vào ngày này nên bị đánh tan. Tiểu Ðoàn 6 Dù đã "tan hàng" hoàn toàn. Dù vậy, những đơn vị còn lại đều đẩy lui được các đợt tấn công của đối phương.
Trong lòng nửa phía Bắc thành phố An Lộc, cuộc giao tranh giữa Biệt Cách Dù và đặc công Giải phóng tiếp tục với mức độ ác liệt, tạo thành những mảng "da beo" trên phần đất này. Hàng trăm xác chết của cả hai bên, và của cả thường dân la liệt trong thành phố.
Đêm 22 rạng 23 tháng 4/1972, Bộ Tư lệnh Miền tung thêm 2 cánh quân, một đánh vào Tiểu Ðoàn 8 Dù ở cửa Nam An Lộc, và một cánh quân khác đánh vào Trung Ðoàn 15 của Sư đoàn 9 Bộ Binh trên Quốc Lộ 13. Cánh quân đánh Tiểu Ðoàn 8 Dù có 2 xe tăng T-54 và 2 chiếc BTR-60 (xe thiết giáp, sức nặng và hỏa lực đều nhẹ hơn xe tăng) yểm trợ. Lúc này, quân trú phòng đã có loại súng bắn chiến xa mới mang tên XM202 từ M-72 biến cải (do lính Dù đem theo lúc đổ bộ lên An Lộc), có thể bắn liên tiếp 4 phát, với sức nóng 3.600 độ Fahrenheit mỗi trái.
Do bất ngờ mà cả 4 chiếc xe tăng đều bị cháy rụi. Bộ đội tùng thiết mất tinh thần lại không được xe tăng yểm trợ nên bị đánh bật trở ra. Vị sĩ quan chỉ huy trưởng của Tiểu Ðoàn 8 Dù còn liên lạc và hướng dẫn phi cơ AC-130 (có gắn pháo 105 ly bắn theo sự hướng dẫn của radar) tiêu diệt luôn 4 xe tăng khác đang chạy về phía đóng quân của Trung Ðoàn 15 Bộ Binh VNCH.
Sau đợt tấn công lần thứ tư, quân Giải phóng thay đổi chiến thuật, tiếp tục pháo kích vào thành phố.
Trong khi đó, đoạn đường Quốc Lộ 13 giữa Chơn Thành và An Lộc vẫn tiếp tục đánh nhau ác liệt. Bên Việt Nam Cộng Hòa cố tiến lên. Quân Giải phóng cố sức giữ lại, nhiều binh sĩ của họ trong các hố chiến đấu cá nhân nằm rải rác dọc Quốc Lộ 13 để cản đường, và chỉ điểm cho pháo binh của họ từ xa bắn tới.

Một chiếc trực thăng đang thực hiện di tản ở An Lộc
Ngày nào cũng có một số trực thăng VNCH bị rớt nhưng không có chiếc nào hạ cánh nổi xuống An Lộc. Các cuộc chuyển quân cấp đại đội của Nhảy Dù đều bị đánh bật. Về sau, họ phải di chuyển ở cấp tiểu đoàn. Mãi đến ngày 8 tháng 5/1972, lực lượng giải tỏa Quốc Lộ 13 mới tiến thêm được 6 km nữa để chiếm làng Tàu Ô, nằm giữa Chơn Thành và An Lộc. Trận giao tranh đẫm máu kéo dài 3 ngày đã gây thiệt hại nặng cho cả đôi bên. Quân Giải phóng đã xây những hầm chiến đấu kiên cố sâu đến 6 mét dưới lòng đất khiến phi cơ không thể nào phá nổi. Quân giải tỏa phải đánh cận chiến, đánh bằng lựu đạn, và chiếm cứ từng hầm hố, từng địa đạo, từng căn nhà, từng thước đất một.
Lúc ấy, hai trung đoàn của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh VNCH tức tốc được trực thăng vận xuống phía Bắc của làng Tàu Ô để rồi đánh thốc xuống, trong khi đó một cánh quân khác từ phía Nam đánh lên. Trước khi chiếm làng này, lực lượng giải tỏa đã phải đối đầu với 4 tiểu đoàn Giải phóng và 2 tiểu đoàn pháo và đặc công tăng cường mạn Bắc làng Tàu Ô. Lực lượng giải tỏa của quân đội Việt Nam Cộng Hòa cố lập một phòng tuyến tại đây, tạo một đầu cầu trên đường tiến vào An Lộc.

Cuộc tấn công lần thứ 5

Đúng 0 giờ ngày 11/5/1972, giờ khởi đầu của tình trạng thiết quân luật trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa, bộ đội mở một màn pháo kích ào ạt thị xã An Lộc. Đến 4 giờ sáng, pháo binh ngừng bắn. Sau khi chịu đợt "tiền pháo," tất cả binh sĩ VNCH đều vọt ra khỏi hầm trú ghìm súng chờ đợi "hậu xung."
Không lâu sau đó bộ đội Sư đoàn 5 QDND chia 3 cánh từ hướng chính Bắc, Ðông Bắc, và Tây Bắc với quân số của mỗi cánh quân ở cấp trung đoàn, được yểm trợ bởi các xe tăng T-54 dẫn đầu đánh ập xuống nửa thị xã phía trên. Ở ngã Đông Bắc, họ đột nhập vào khu Chợ Mới, sát bên phòng tuyến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Trận giao tranh tại đây càng lúc càng kéo dài, mãi đến 8 giờ 30 sáng. Mặt Bắc thành phố là mặt bị uy hiếp nặng nhất ngay từ đầu cuộc chiến. Các cánh quân tấn công ẩn phục trong đồn điền cao su Quản Lợi và từ Quốc Lộ 13 bây giờ đồng lượt kéo ra như vũ bão.
Ở mặt chính Bắc và Tây Bắc, quân Giải phóng huy động một lực lượng hùng hậu có chiến xa dẫn đầu để tiến công. Các xe tăng dẫn đầu đã chọc thủng thành công phòng tuyến Tây Bắc. Theo sau là hai trung đoàn bộ binh. Tuy nhiên đoàn xe tăng phóng quá nhanh làm các bộ đội theo không kịp. Chiến xa tách rời bộ binh, liền lập tức bị quân VNCH dùng hỏa tiễn M-72, XM202 và cả súng B-40 (tịch thu lúc trước) bắn hạ luôn một lúc 8 chiếc. Tuy nhiên, bộ đội kịp thời tràn đến áp đảo, quân VNCH rút lui.
Đúng lúc hai trung đoàn bộ đội từ mạn Tây Bắc tràn vào thành phố, hàng loạt bom B-52 thả xuống trúng đích, và chỉ cách bìa thành phố một cây số khiến quân giải phóng không thể mở rộng, đột phá vào trong thành phố. Chỉ trong ngày này, Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại Việt Nam đã dành cho chiến trường An Lộc 20 phi vụ B-52 với 2.000 tấn bom đủ loại. Một lần nữa quân VNCH lại thoát hiểm.
Cùng lúc đó, cánh quân thứ tư của Sư Đoàn 9 QDND với một trung đoàn được yểm trợ bởi 10 xe tăng dẫn đầu, đã đánh thốc từ dưới lên trên, theo ngã Tây Nam vào lúc 6 giờ 30 sáng. Lực lượng trú phòng giữ mặt này chống trả dữ dội nên mũi tấn công không thể tiến thêm được. Tuy nhiên, ở cả hai mặt Bắc lẫn Nam, một số đơn vị đã xâm nhập được vào thành phố và chia thành nhiều tổ chiến đấu nhỏ, buộc quân VNCH suốt ngày 12 tháng 5/1972, phải cố sức đánh cận chiến để đẩy các toán quân giải phóng ra ngoài. Mãi cho đến tối, chiến trường mới tạm lắng dịu. Pháo binh lại bắn liên hồi vào bên trong An Lộc.

Cuộc tấn công lần thứ 6

Sau 4 tiếng đồng hồ để cho pháo binh tác xạ, đồng thời xếp đặt lại đội ngũ, bộ đội lợi dụng thời tiết xấu với những cơn mưa như trút tấn công vào, từ cả ba mặt Ðông Bắc, Tây và Nam. Như vậy, họ đã liên tục tấn công vào 6 mặt chung quanh An Lộc trong 3 ngày liên tiếp. Trong 3 ngày giao tranh, có đến 600 binh sĩ của đôi bên chết ngổn ngang trên đường phố, chưa kể số tổn thất của quân Giải phóng vì B-52. Do thiệt hại nhiều, binh lính Biệt Cách Dù phải tạo dựng được một nghĩa trang để chôn cất người chết. Nghĩa địa Biệt Cách Dù nằm sát ngôi chợ Bình Long và được khắc 2 câu thơ:
An Lộc địa, sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân
Gần 40 ngày đã trôi qua, lực lượng tấn công dù đã được chuẩn bị kỹ càng cũng gặp khó khăn do lương thực và đạn dược cho một trận chiến quá lâu dài với một cường độ khốc liệt như vậy. Bom đạn hàng ngày tàn phá các vị trí tiếp liệu, đánh phá các đường tiếp tế. Vũ khí, đạn dược mỗi ngày một hao mòn. Trên 20 chiến xa bị bắn cháy. Bộ đội thương vong phải lo di tản... Bao nhiêu sự khó khăn dồn dập trong lúc hậu phương lại quá xa. Mỗi ngày qua đi là gánh nặng càng thêm chồng chất.
Hàng này, các chiến sĩ giải phóng đã chia nhau đi lượm những cánh dù tiếp tế bị gió thổi bay ra khỏi vòng đai an ninh của VNCH. Quân trú phòng Việt Nam Cộng Hòa cũng chẳng hơn gì. Hàng trăm thương binh không được di tản từ 40 ngày qua nằm dài chung quanh các phi trường để mỏi mòn chờ đợi trực thăng. Nhưng sân bay nào cũng là mục tiêu chọn sẵn của pháo binh giải phóng. Vừa thấy bóng trực thăng thấp thoáng ở đâu là pháo binh câu ngay đến đó. Tuy vậy, thỉnh thoảng một vài phi công gan lỳ cũng đáp xuống được, di chuyển được một số binh sĩ.
Trong khi đó, càng tiến đến An Lộc, đoàn quân giải tỏa càng bị thiệt hại nặng. Trung Tướng Nguyễn Văn Minh đành thay đổi chiến thuật: Ưu tiên vào việc càn quét những đơn vị chung quanh An Lộc và dọc theo quốc Lộ 13, sau đó dọn đường cho lực lượng Bộ Binh tiến vào An Lộc. Toàn bộ Sư Ðoàn 21 Bộ Binh và các lực lượng tăng phái gồm Trung Ðoàn 9, Biệt Động Quân Biên Phòng, Thiết Giáp, Nhảy Dù quyết thu ngắn khoảng cách.
Pháo đài bay B-52, phản lực cơoanh tạc cơ đã ráo riết tấn công để dọn đường. Quân giải tỏa ào ạt tiến lên, vượt được suối Tàu Ô, qua Tân Khai, Xa Cát, Xa Trạch. Nhưng đến trưa 16 tháng 5/1972, đoàn quân này chỉ còn cách An Lộc khoảng 3 km thì bị khựng lại bởi sức phản kích quyết liệt của bộ đội.

Cuộc tấn công lần thứ 7

Ngày 19 tháng 5/1972 là ngày sinh lãnh tụ Hồ Chí Minh. Theo tin tức của một tù binh cao cấp miền Bắc bị bắt tại An Lộc thì bộ tham mưu Giải phóng  sẽ cử hành lễ này trước đó 3 ngày, để khích lệ tinh thần chiến sĩ lần chót quyết chiếm thị trấn này vào ngày 19 tháng 5/1972, mừng sinh nhật Bác Hồ.
Nhưng do một toán Biệt Kích VNCH khi được tung vào vùng tình nghi 16 km về phía Tây Nam tỉnh Bình Long đã phát hiện vị trí của ban tham mưu nên sau khi nhận đúng tọa độ, toán Biệt Kích gọi về Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Sáu phi vụ B-52 đã liên tiếp dội bom xuống vùng này. Do đó, bộ đội đã không thể mở được trận đánh vào ngày 19 tháng 5/1972 như đã dự định.
Tuy nhiên, sau khi mau chóng sắp xếp lại lực lượng, ngày 23 tháng 5/1972, từ rạng sớm cho đến xế chiều, quân Giải phóng lại mở liên tiếp 4 đợt tấn công bằng xe tăng vào các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa tại khu vực Nam và Tây Nam An Lộc, cách thị trấn này từ 1 đến 5 km, nhưng những mũi tiến công của họ không còn sắc bén như lúc đầu, nên 1 lần nữa, họ bị đẩy lui. Sau khi trận đánh này kết thúc, có thêm 8 xe tăng bị hạ, gồm 3 chiếc T-54 và 5 chiếc PT-76.
Trong lúc này, lực lượng cố thủ tại An Lộc đã rất kiệt quệ, nếu có thể mở thêm 1 đợt tấn công lớn nữa, ắt An Lộc sẽ thất thủ. Tuy nhiên, do những thắng lợi vượt ngoài dự đoán của quân giải phóng ở mặt trận Trị Thiên (chiến dịch Trị Thiên) mà những lãnh đạo cấp cao của quân đội ở Hà Nội quyết định chuyển hướng, không tập trung tấn công ở Đông Nam Bộ nữa mà ưu tiên chuyển quân lính, trang thiết bị và binh khí kỹ thuật sang chiến trường Trị Thiên. Không nhận được tiếp liệu đầy đủ, quân giải phóng ở An Lộc gặp nhiều khó khăn.
Lúc này, lực lượng giải tỏa vẫn ì ạch tại đồn điền Xa Cam và Quốc lộ 13 vẫn bị mai phục bằng pháo và các ổ phục kích. Hai trung đoàn Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục lục soát, tảo thanh chung quanh vòng đai phía Nam An Lộc. Qua máy truyền tin, các lực lượng An Lộc biết được quân tiếp viện còn cách họ không xa mấy.
Không quân chiến thuật yểm trợ quân Việt Nam Cộng Hòa tại vùng Nam An Lộc, trong lúc không quân chiến lược với B-52 liên tiếp dội bom xuống phía Bắc thị trấn, phá vỡ các kho vũ khí, đạn dược ít ỏi vừa mới được miền Bắc chuyển tới.
Theo phía VNCH, Trung Ương Cục R (bộ chỉ huy của toàn thể lực lượng quân giải phóng tại miền Nam Việt Nam) khẩn báo về Trung Ương Đảng ngoài Bắc về sự thiệt hại nặng nề của các đơn vị tham chiến tại An Lộc. Bản báo cáo này nêu rõ trường hợp điển hình là Trung Ðoàn 209, sau một thời gian trấn giữ ở hai địa danh Bầu Bàng và Tàu Ô đã hao hụt nặng. Mỗi đại đội còn không đầy 30 người, và mỗi tiểu đoàn chỉ còn khoảng 90 so với quân số lúc đầu là 350 người. Trung Ương Cục đề nghị ngừng tiến công và chuyển sang vây lỏng An Lộc.
Trong tình thế này, quân lực Việt Nam Cộng Hòa tại mặt trận An Lộc dần dần chuyển từ thế thủ ra công, giải tỏa được vòng vây đối phương.
Cũng vào ngày cuối tháng 5/1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay thị sát hai mặt trận Kontum và Thừa Thiên, cả hai mặt trận đều đang đắm chìm trong lửa đạn. Ðồng thời tổng thống cũng phát động chiến dịch 18 ngày "thi đua giết giặc" mừng ngày quân lực 19 tháng 6.
Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, khi tiếp xúc với báo chí tại Lai Khê ngày 31 tháng 5/1972 đã mô tả trận chiến này là trận đánh khó khăn nhất và dài nhất trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Ông tuyên bố:
"Cộng Sản Bắc Việt đã đạt được một lợi thế ngay từ đầu với quân số đông gấp bốn lần, và quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã phải chấp nhận khá nhiều tổn thất. Tuy hiên, sau 54 ngày giao tranh, Cộng quân đã thiệt hại ít nhất là 30.000 bộ đội trong tổng số 4 sư đoàn (trên thực tế tài liệu Quân Giải phóng thống kê họ chịu khoảng 7.000 thưong vong, không đến 30.000 như tướng Minh nói). Mưu đồ của Cộng Sản Bắc Việt mong tiến đánh thủ đô Saigon đã hoàn toàn bị chặn đứng tại An Lộc."

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (phải) và Tướng Lê Văn Hưng gặp lại nhau sau chiến thắng An Lộc
Trung tướng Trần Văn Trà nhận xét về trận An Lộc:
"Trận An Lộc, quân giải phóng đã chịu nhiều bất lợi: hành quân gấp; vũ khí, đạn dược thiếu thốn; công tác tiếp vận kém. Địch có hỏa lực áp đảo do Hoa Kỳ hỗ trợ, đặc biệt là máy bay B-52. Quân giải phóng đã chịu một thiệt hại không nhỏ nhưng từ đó chúng ta đã rút ra được những bài học vô giá cho các chiến dịch sau này, đồng thời cũng nhận ra sự yếu kém của địch nếu không có sự yểm trợ từ hoa lực Hoa Kỳ"


Kết thúc trận An Lộc

Số liệu về lực lượng của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong trận An Lộc
Flag of Vietnam.svgQuân đội Nhân dân Việt Nam Quân số
Sư đoàn 5 9.230
Sư đoàn 7 8.600
Sư đoàn 9 10.680
Đơn vị pháo binh 69 3.830
Các đơn vị độc lập khác 3.130
Trung Ðoàn 33 thuộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh và Trung Ðoàn 15 thuộc Sư Ðoàn 9 cùng tiểu đoàn Nhảy Dù song song tiến lên, khởi đầu từ Xa Trạch. Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù bị đánh tan nát từ ngày 21 tháng 4/1972 tại Đồi Gió cũng đã được tái bổ sung.
Với sự hỗ trợ của hai trung đoàn bạn, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù càn quét các đơn vị quân giải phóng cản đường, và chiều tối ngày 8 tháng 6/1972, Ðại Ðội 62 của Tiểu Ðoàn 6 Dù bắt tay được với một đại đội của Tiểu Ðoàn 8 Dù trấn giữ vùng Nam An Lộc từ ngày 17 tháng 4/1972.
Trước đây hai Tiểu Ðoàn 6 và 8 đã được trực thăng vận xuống ấp Srok Ton Cui ngày 15 tháng 4, nhưng lạc nhau kể từ đó. Đến nay lại gặp nhau trên cửa ngõ An Lộc, các binh sĩ của hai tiểu đoàn đến ôm chầm lấy nhau, siết chặt tay nhau, mừng mừng, tủi tủi. Trung Ðoàn 15 thuộc Sư Ðoàn 9 và Trung Ðoàn 33 thuộc Sư Ðoàn 21 Bộ Binh, những đơn vị kềm chặt bộ đội để tiểu đoàn Nhảy Dù tiến lên, cũng cử những đơn vị đại diện đến bắt tay với lực lượng bên trong An Lộc.
Vòng đai bảo vệ thị trấn An Lộc được mở rộng, trực thăng có thể đáp an toàn để tải thương, đồng thời tiếp viện và tiếp tế cho chiến trường. Hàng chục ngàn binh sĩ được đổ vào An Lộc với đầy đủ lương thực, để thay thế bớt cho những binh sĩ đã kiệt sức, hoặc quá mệt mỏi. Tuy nhiên, phần lớn lực lượng của Sư Ðoàn 21 Bộ Binh của Tướng Hồ Trung Hậu, vẫn ở ngoài thị trấn.
Sau cuộc giao tiếp đối với cánh quân giải tỏa Quốc Lộ 13, quân VNCH dồn mọi nỗ lực để tiêu diệt địch chung quanh An Lộc, nhất là những ổ phòng không và đại pháo của quân giải phóng còn sót lại.
Ngày 9 tháng 6/1972, lần đầu tiên kể từ hai tháng qua, một đoàn trực thăng 23 chiếc hạ cánh an toàn xuống An Lộc, vừa tiếp tế, vừa đổ quân, để rồi bốc thương binh ra. Quân trú phòng phấn khởi, tiến lên chiếm lại những vị trí của đối phương cố thủ tại phía Bắc An Lộc. Những tổ kháng cự bên trong thị trấn cũng lần lượt bị hạ. Cuộc di tản thương binh và thường dân vẫn được tiếp diễn đều đặn.
Ngày Chủ nhật 11 tháng 6/1972, Tổng Thống Thiệu chuyển lời khen ngợi nồng nhiệt của ông đến Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu (tư lệnh Sư Ðoàn 21 Bộ Binh), và tất cả các đơn vị trưởng cùng toàn thể các chiến sĩ thuộc mọi quân binh chủng đã chiến đấu bảo vệ thị xã An Lộc và khai thông Quốc Lộ 13.
Trong lúc đó, Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy DùLiên Ðoàn 3 Biệt Động Quân đã cùng song song tiến lên mặt Bắc An Lộc. Tiểu Ðoàn 36 Biệt Động Quân cắm ngọn cờ vàng ba sọc đỏ đầu tiên tại trại gia binh pháo binh ngày 12 tháng 6/1972. Kế đó, Tiểu Ðoàn 52 Biệt Động Quân đánh lên mặt Tây Bắc, sát sân bay và cạnh đồi Đồng Long. Tiểu Ðoàn này đã chế ngự một cao điểm sát đồi Đồng Long để yểm trợ cho lực lượng Biệt Cách Dù tấn công chiếm được ngọn đồi, cắm cờ trên đồi này. Ngọn đồi này cao 128 mét, và là nơi quân giải phóng đặt pháo binh bắn vào An Lộc từ mấy tháng qua.
Sau cái bắt tay giữa hai tiểu đoàn Nhảy Dù vào ngày 8 tháng 6/1972 lực lượng trú phòng tại An Lộc dò dẫm tiến lên mạn Bắc Quốc Lộ 13 và nới rộng thêm vòng đai phòng thủ. Ngày 12 tháng 6/1972 khi cờ Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa bay trên đỉnh đồi Đồng Long, Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố với phái viên Vô Tuyến Việt Nam, "Thành phố An Lộc được hoàn toàn giải tỏa." (tuy nhiên thưc tế Thành phố vẫn bị vây lỏng cho đến ngày kí Hiệp định Paris)
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 03:05, ngày 11 tháng 1 năm 2014.

                                         
Xem tiếp...

HIỆN THỰC KỲ ẢO 33


(ĐC chép từ yeutretho.com)


Bộ ảnh khắc họa ước mơ của trẻ em nghèo trên thế giới

(YTT) - Cùng xem những hình ảnh khắc họa tương lai mơ ước của các em, và thử nhớ lại xem, hồi bé bạn đã ước mơ trở thành ai?
Nhiếp ảnh gia người Bỉ - Sofie Knijff đã dành 3 năm đi vòng quanh thế giới để tìm kiếm và chụp lại những ước mơ của trẻ em, trong series ảnh mang tên "Translations". Cô đã đặt câu hỏi với rất nhiều em bé: "Lớn lên em thích làm nghề gì?". Với trí tưởng tượng vô hạn của trẻ em, cô đã giúp những đứa trẻ khoác lên mình bộ quần áo của tương lai.
Knijff đã chụp ảnh trẻ em ở Nam Phi, Ấn Độ, Mali, Brazil, Iceland và Greenland. Những tấm ảnh cho thấy rằng, môi trường lớn lên khác nhau của các em ảnh hưởng tới ước mơ của một đứa trẻ. Cô đã đến thăm ngôi làng Kulusuk ở Greenland - nơi chịu ảnh hưởng lớn của hiện tượng biến đổi khí hậu, các vùng đất sa mạc của đất nước Mali. Cả hai nơi đều là những vùng sâu vùng xa, khó khăn về kinh tế, môi trường khắc nghiệt, cuộc sống thực sự là cuộc chiến đấu sinh tồn. Ở Greenland, trẻ em thường thích trở thành thợ săn. Còn ở Mali - nơi có tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong lớn nhất trên thế giới, các em thường mơ ước trở thành bác sĩ...

Ở Mali - một trong những vùng đất khắc nghiệt với các điều kiện tự nhiên - chính trị không ổn định, em bé này muốn trở thành một nhà báo.
Đặt niềm tin vào tín ngưỡng, cậu bé sống ở Mali này muốn trở thành một thầy tu.
Chiến tranh liên miên và điều kiện y tế kham khổ ở Mali đã khiến cậu bé này mơ về một ngày trở thành bác sĩ.
Ở Nam Phi, cậu bé này muốn trở thành một ca sĩ trong tương lai - khi đã chuẩn bị sẵn bộ trang phục "cool": kính mát, quần thể thao, cà vạt...
Thử nhìn kĩ thần thái của cô bé Nam Phi này xem, liệu em có đạt được ước mơ trở thành diễn viên của mình?
Còn cậu bạn "đồng hương Nam Phi" này lại có ước mơ "thông thường" của các bé trai - trở thành thủ môn bóng đá.
Ở vùng đất "toàn băng giá" Greenland, cậu bạn này muốn trở thành một thợ săn giữa thiên nhiên khắc nghiệt.
Ở Ấn Độ, cậu bạn này muốn trở thành một cảnh sát - với quân hàm bằng bìa giấy được gắn trên chiếc áo may ô.
Hình ảnh thành đạt của bộ vest đã nói quá rõ ước mơ trở thành doanh nhân của cậu bé Ấn Độ này.
Và một giấc mơ tuyệt vời đến từ Ấn Độ: Em muốn trở thành Harry Potter!
Hồng Nhung
Theo Featureshoot.com

Hiểu hơn về trẻ tự kỷ qua bộ ảnh "Echolilia: Đôi khi tôi tự hỏi"

(YTT) - Những tấm hình trong sáng nhưng đồng thời cũng nhuộm màu u ám trong bộ ảnh mang đến cho người xem sự thấu hiểu về một phần thế giới của những người tự kỷ.
Nhiếp ảnh gia người Mỹ Timothy Archibald có một cậu con trai bị tự kỉ tên là Elijah (thường gọi là Eli) sinh năm 2001. Eli bị mắc bệnh tự kỉ khi mới 5 tuổi. Để có thể hiểu con trai mình hơn nhiếp ảnh gia  Timothy đã chụp một bộ ảnh ghi lại cuộc sống đời thường của Eli.
Bệnh tự kỷ là một chứng rối loạn tâm lý có thể ảnh hưởng đến hành vi, suy nghĩ, giao tiếp của con người. Bệnh này xảy ra chủ yếu ở trẻ em và thường có biểu hiện trước khi các bé lên 3 tuổi.

Với những đứa trẻ mắc bệnh tự kỷ, lúc nào chúng cũng có vẻ thờ ơ, không chú ý gì tới cuộc sống và các hoạt động xung quanh, không đáp lại sự săn sóc của người lớn bằng nét mặt, cách nhìn hay nụ cười.
Timothy đặt tên bộ ảnh của mình là "Echolilia: Sometimes I wonder" - ("Echolilia: Đôi khi tôi tự hỏi"). Echolilia là từ để chỉ hành động bắt chước lặp đi lặp lại người khác ở trẻ bị tự kỉ. Eli cũng thường có những hành động như vậy một cách bất chợt tại bất kì đâu. Thỉnh thoảng cậu bé nói đi nói lại những điều vô nghĩa.
 
Bức ảnh có tên là "Nhà du hành vũ trụ"
Mặc dù bị tự kỉ nhưng Eli vẫn đến trường đi học và đạt điểm cao. Chính Eli cũng đã giúp Timothy rất nhiều trong việc chụp ảnh. 
Cậu bé còn gợi ý những tư thế chụp sáng tạo và có những ý tưởng độc đáo.
Eli mặc chiếc áo rộng thùng thình của bố và tay cầm một con búp bê. Timothy nói rằng qua những bức ảnh mình nhận thấy những khía cạnh rất khác của chính bản thân.
Timothy cho biết: “Những bức ảnh không chỉ nói về Eli mà còn thể hiện mối quan hệ cha con. Nhưng ở trong đó còn có những điểm chung giữa 2 chúng tôi mà tôi không giải thích được”.
Nguyên nhân của bệnh tự kỷ, cho tới nay vẫn chưa được xác định rõ ràng. Nhưng theo dự đoán thì nó bắt nguồn từ các yếu tố sau: rối loạn sinh hóa của cơ thể, dị dạng nhiễm sắc thể và một số hội chứng cần phải nghiên cứu thêm. 
Ði tìm các phương pháp chữa trị, người ta đặc biệt chú ý về mặt tâm lý của các cháu bị bệnh hoặc phải sống xa cách với xã hội, hoặc cùng sống chung nhưng lại bị các bạn cùng lứa tuổi chế giễu, trêu chọc.
Việc sử dụng ngôn ngữ gây khó khăn cho trẻ tự kỷ, đổi lại các em sẽ học hỏi mọi thứ tốt hơn khi được quan sát bằng mắt.
Trẻ em tự kỷ vẫn lớn nhưng trí khôn có thể bị trì trệ, kém phát triển, không nói được hoặc nói không ra câu, khó hòa nhập với xã hội. 
Quang cảnh thông thường, âm thanh, mùi, vị và sự đụng chạm hằng ngày mà thậm chí bạn không để ý lại có thể gây đau đớn cho một đứa trẻ bị tự kỷ.
Trẻ tự kỷ có vẻ thu mình, không thích chơi với các bạn khác, nhưng thực ra là trẻ không biết cách "mở lời" để được tham gia vào trò chơi với các bạn.
Các hoạt động tay chân thường không liên quan gì với nhu cầu thực tế, lặp đi lặp lại như máy, như các cử chỉ của những con rối, hai cánh tay đung đưa, nhiều khi không ăn nhịp với cơ thể. 
Tự bao bọc bản thân trong lồng kính, không có lối thoát và suy nghĩ mông lung
Trẻ em tự kỷ lúc nào cũng có vẻ thờ ơ, không chú ý gì tới cuộc sống và các hoạt động xung quanh, không đáp lại sự săn sóc của người lớn bằng nét mặt, cách nhìn hay nụ cười.
Hồng Nhung
Theo Dailymail.co.uk

 

Bộ ảnh đáng suy ngẫm về nạn bạo hành trẻ e



(YTT) - Mời bạn cùng xem và suy ngẫm “The Untouchables” – bộ sưu tập những bức hình gây tranh cãi về bạo hành trẻ em của nghệ sĩ Erik Ravelo.
Ayn Rand - một tiểu thuyết gia người Mỹ đã từng viết: "Trong mọi sự thỏa hiệp giữa đồ ăn và thuốc độc, chỉ có cái chết là kẻ chiến thắng. Trong mọi sự thỏa hiệp giữa cái tốt và cái xấu, thì cái xấu sẽ là kẻ được hưởng lợi"

Giống như ranh giới giữa trắng và đen, một khi đã "nhúng chàm" thì màu trắng sẽ chẳng bao giờ nguyên vẹn cả. Nếu chúng ta thỏa hiệp với những điều xấu, chắc chắn rằng chẳng bao giờ chúng ta tốt đẹp được cả.

Đó cũng là ý tưởng mà nhiếp ảnh gia người Cuba Erik Ravelo mang đến trong bộ ảnh "The Untouchables" (Bất khả xâm phạm) - nói về sự không thỏa hiệp, không bao che, không dung túng, không bảo vệ những kẻ lạm dụng trẻ em. Thông điệp về bảo vệ quyền của trẻ em cũng như trách nhiệm của "người lớn" trong xã hội đã được làm rõ trong những tấm hình.
Bằng cách kết hợp những hình ảnh mạnh  mẽ và thời sự để làm nổi bật những cách khác nhau mà trẻ em trực tiếp hay gián tiếp bị tổn thương do người lớn, những đứa trẻ bị làm mờ khuôn mặt được đặt phía sau lưng của những đại diện gây ra tội ác đã đánh thẳng vào những sự kiện đau lòng ở nhiều nước trên thế giới.
Bộ ảnh đáng suy ngẫm về nạn bạo hành trẻ em - hình 1
Một đứa trẻ trong đồ lót của mình được đặt sau lưng một linh mục đánh dấu các vụ bê bối lạm dụng tình dục lan truyền khắp các nhà thờ Công giáo trong những năm gần đây.
Bộ ảnh đáng suy ngẫm về nạn bạo hành trẻ em - hình 2
Cơn ác mộng Mỹ: bạo lực súng ở Mỹ nhắc được nhắc đến trong hình ảnh này
Bộ ảnh đáng suy ngẫm về nạn bạo hành trẻ em - hình 3
 Sự nguy hiểm của vũ khí hóa học: Cuộc khủng hoảng hạt nhân ở Nhật Bản
Bộ ảnh đáng suy ngẫm về nạn bạo hành trẻ em - hình 4
Cuộc nội chiến ở Syria
Bộ ảnh đáng suy ngẫm về nạn bạo hành trẻ em - hình 5
Thái Lan được chỉ ra trong bức ảnh này, là một lời lên án khi đất nước với nạn mại dâm khét tiếng của họ làm cho rất nhiều cô gái trẻ dễ dàng trở thành mục tiêu của du khách tình dục.
Bộ ảnh đáng suy ngẫm về nạn bạo hành trẻ em - hình 6
Các vấn đề quốc tế như béo phì cũng được nhấn mạnh
Bộ ảnh đáng suy ngẫm về nạn bạo hành trẻ em - hình 7
Đừng bao giờ dung túng những kẻ buôn bán nội tạng trẻ em ở "chợ đen".
Hồng Nhung
Theo Erikravelo.info
Yeutretho/Seatimes
--------------------------------------------------------------------------

Xem tiếp...

EM GÁI MIỀN QUÊ 23

(ĐC sưu tầm trên NET)

Xem tiếp...

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

NGUYÊN NHÂN TẤT YẾU, KẾT CUỘC TẤT YẾU 9

(ĐC sưu tầm trên NET)

  

Trận Đồi Thịt Băm

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trận Đồi Thịt Băm
Một phần của Chiến tranh Việt Nam
Thời gian 10 tháng 5 - 20 tháng 5, 1969
Địa điểm 16°15′11″B 107°10′29″Đ
Tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam
Kết quả Hoa Kỳ chiếm đồi nhưng sau đó phải rút lui
Tham chiến
Cờ của Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Flag of South Vietnam.svg Việt Nam Cộng hoà
Flag of Vietnam.svg Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chỉ huy
Melvin Zais Ma Vĩnh Lan


Lực lượng
Khoảng 1.800 bộ binh
10 tiểu đoàn pháo binh
Không quân yểm trợ 272 phi vụ, ném 450 tấn bom nổ và 69 tấn bom napalm.
2 tiểu đoàn, ước khoảng 800
Tổn thất
Theo Hoa Kì: 72 chết, 372 bị thương
Theo QĐNDVN: Khoảng 1.300 chết hoặc bị thương, 6 trực thăng bị bắn rơi, nhiều chiếc bị bắn hỏng
Không rõ (Theo Hoa Kì là 630+ chết)
.

Trận Đồi Thịt Băm là tên gọi của trận chiến giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam với Quân lực Hoa Kỳ từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5 năm 1969 ở Thừa Thiên (nay thuộc Thừa Thiên-Huế). Trận chiến nổ ra khi Hoa Kỳ tập trung lực lượng gần 2.000 quân dưới sự yểm trợ mạnh của hoả lực phi pháo để đánh chiếm quả đồi (núi A Bia, phía Mỹ gọi là Cao điểm 937) do 2 tiểu đoàn đối phương chiếm giữ.
Trận đánh diễn ra chủ yếu bằng bộ binh, với việc quân Mỹ leo lên đồi cao tấn công quân Giải phóng cũng ra sức cố thủ. Dù được yểm trợ mạnh bởi pháo binh và không quân, các cuộc tấn công của Mỹ đã nhiều lần đẩy lùi bởi thời tiết, tai nạn, và đặc biệt là sự phòng ngự có hiệu quả cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ngọn đồi này sau trận đánh đã được lính Mỹ gọi là "Đồi Thịt Băm" - Hamburger Hill, như một cách thể hiện độ khốc liệt và thương vong cao của lính Mỹ. Theo Samuel Zaffiri, tác giả của cuốn Hamburger Hill, quân Mỹ đã chiếm được ngọn đồi sau 10 ngày chiến đấu với số thương vong lên tới 72 người chết và 372 bị thương, nhưng đã phải bỏ vị trí này một tháng sau đó.

Bối cảnh

A Bia là điểm cao đột xuất (937m) nằm giữa vùng rừng núi trùng điệp gần biên giới Việt-Lào (cách 1,9 km). Đỉnh A Bia có ba mỏm đứng thế chân kiềng cao xấp xỉ nhau, cách nhau khoảng 400m. Trước đây Mỹ đã lên A Bia đóng dã ngoại, nay còn nguyên công sự, xung quanh chất đống nhiều vỏ đồ hộp... Đỉnh A Bia bị bom pháo phát quang nham nhở, trơ lại những thân cây khô cháy.
Toàn bộ núi là một dải gồ ghề, hoang dã bao phủ bởi rừng với hai hoặc ba lần tán, tre mọc thành bụi dày đặc, và cỏ voi cao ngang thắt lưng mà trong một số trường hợp cao hơn cả một xe bọc thép M-113. Các dân tộc địa phương gọi Ấp Bia là "núi ẩn mình của muông thú".

Kế hoạch của 2 bên

Hoa Kỳ

Các trận đánh trên Cao điểm 937 xảy ra tháng 5 năm 1969, là giai đoạn hai của Chiến dịch Apache Snow, một chiến dịch gồm ba giai đoạn nhằm mục đích tiêu diệt Quân đội Nhân dân Việt Nam trong khu vực thung lũng A Sầu (A Shau), một mắt xích trong tuyến đường chi viện vào miền Nam Việt Nam. Năm 1966, Quân đội nhân dân Việt Nam đã thành công trong việc đánh chiếm doanh trại của Mỹ trong thung lũng A Shau (Trận A Sầu) và thiết lập sự hiện diện tại đây. Sau đó các nỗ lực liên tục của Mỹ nhằm tái chiếm thung lũng đã không thành công. Trung tướng Richard G. Stilwell, chỉ huy của Quân đoàn 24 của Hoa Kỳ, quyết định huy động lực lượng tương đương với hai sư đoàn được hỗ trợ mạnh bởi pháo binh và không quân để hoàn thành nhiệm vụ.
Lực lượng tham chiến tại Đồi 937 gồm 3 tiểu đoàn của Sư đoàn Không vận 101, chỉ huy là Thiếu tướng Melvin Zais. Các đơn vị của Lữ đoàn 3 (chỉ huy bởi Đại tá Joseph Conmy) gồm Tiểu Đoàn 3 trung đoàn 187 Bộ Binh (Trung tá Weldon Honeycutt), Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 501 bộ binh và Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 506 bộ binh (Trung tá John Bowers). Hai tiểu đoàn của QLVNCH (2/1 và 4/1) đã được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho Lữ đoàn 3. Các đơn vị khác tham gia trong chiến dịch bao gồm các Trung đoàn 9, Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn Kỵ binh 5 và Trung đoàn 3 QLVNCH.
Kế hoạch của Đại tá Conmy là dùng 5 tiểu đoàn mở cuộc tấn công vào thung lũng bằng trực thăng vào ngày 10-5-1969, để tìm kiếm cũng như phá hủy các kho quân nhu của Quân đội nhân dân Việt Nam. Kế hoạch tổng thể của cuộc tấn công là Thủy quân lục chiến và các đơn vị trinh sát tiến về phía biên giới Lào, trong khi các đơn vị VNCH cắt đường giao thông qua thung lũng. Trung đoàn 501 và 506 sẽ tiêu diệt đối phương và ngăn chặn các tuyến đường trốn thoát sang Lào. Nếu một tiểu đoàn đụng độ mạnh với QĐNDVN, Conmy sẽ hỗ trợ nó bằng trực thăng với một trong các đơn vị khác. Về lý thuyết, với sức cơ động cực mạnh nhờ trực thăng, Sư đoàn 101 có thể phản ứng đủ nhanh để ngăn chặn bất kỳ đơn vị QĐNDVN nào. Khi một tiểu đoàn của Hoa Kỳ phát hiện một đơn vị QĐNDVN, nó sẽ tổ chức đánh chặn cho đến khi một tiểu đoàn tăng cường có thể cắt đường rút lui và dùng hỏa lực vượt trội tiêu diệt đối phương.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã đánh giá thấp sức mạnh thực tế của QĐNDVN. Là bậc thầy ngụy trang, QĐNDVN hoàn toàn che giấu các căn cứ của họ khỏi trinh sát trên không của Mỹ. Khi di chuyển, họ thường làm vào ban đêm, dọc theo những con đường mòn dưới tán rừng rậm rạp. Họ thực hiện liên lạc và kiểm soát chủ yếu bằng thư và điện tín, không sử dụng thiết bị điện tử để tránh bị theo dõi. Qua kinh nghiệm trong nhiều cuộc đụng độ lớn hơn cho thấy họ thường chỉ giao chiến trong một thời gian ngắn, gây tổn thất lớn nhất có thể cho Mỹ và sau đó nhanh chóng rút đi trước khi phải hứng chịu hỏa lực áp đảo của Mỹ. Chiến đấu kéo dài như tại Đắk Tô hay trận Ia Đrăng là tương đối hiếm. Honeycutt dự đoán tiểu đoàn của ông có đủ năng lực để thực hiện một cuộc trinh sát trên Cao điểm 937 mà không cần tăng cường hơn nữa, mặc dù ông đã yêu cầu quân dự bị của lữ đoàn, và Đại đội Bravo của mình, sẵn sàng hỗ trợ.


Quân đội Nhân dân Việt Nam

Sau khi liên tục giao chiến với Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong Chiến dịch Dewey Canyon vào tháng 2, QĐNDVN đã di chuyển Trung đoàn 6, 9 và 29 vào khu vực thung lũng A Lưới để tái trang bị, bổ sung thiệt hại.
Thung lũng A Lưới nằm về phía tây bắc thành phố Huế khoảng 30 km, được bao bọc với một số điểm cao như Động So (1.100m), Ba Lao (1.400m), A Bia (937m) và Động Ràng... Sông A Ráp và đường 14 chạy dọc chiều dài thung lũng. Phía tây bắc có sông Đáp Lim, A Lưới, nối với Huế bằng đường số 12.
Kế hoạch càn quét A Lưới của Mỹ đã được Bộ tư lệnh Quân khu Trị-Thiên dự kiến từ trước. Do vậy, từ đầu tháng 3 năm 1969 quân khu đã điều Trung đoàn 3 vào chuẩn bị chiến trường sẵn sàng đánh Mỹ. Sư đoàn trưởng Chu Phương Đới, Chính ủy Nguyễn Xuân Trà cùng đi với trung đoàn.
Chiều ngày 7 tháng 5, Đảng ủy Trung đoàn họp mở rộng. Sau khi nghe Kiều Tam Nguyên, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn quán triệt mục đích, yêu cầu của đợt hoạt động, hội nghị dành nhiều thời gian thảo luận chọn một trong các phương án tác chiến do Trung đoàn trưởng Ma Vĩnh Lan trình bày.
Một, với 1 đại đội pháo phòng không 12,7mm, 1 đại đội cối 82mm được tăng cường 1 tiểu đoàn bộ binh, trung đoàn sẽ vận dụng chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, lấy đại đội, trung đội xuất kích ngắn, tập kích vào từng cụm quân Mỹ đóng dã ngoại. Tuỳ tình hình diễn biến cụ thể, trung đoàn chuẩn bị phương án vận động tiến công kết hợp chốt cấp trung đoàn, tiêu diệt tiểu đoàn Mỹ. Để đạt được mục đích đó, trung đoàn phải tạo cho được cụm điểm chốt liên hoàn nhằm thu hút quân Mỹ vào sâu hơn nữa, tạo khả năng và điều kiện cho các phân đội cơ động tiến công tiêu diệt quân dã ngoại và quân ứng cứu.
Hai, không xây dựng cụm chốt, chỉ dùng lực lượng cơ động tiến hành mật tập phục kích, tập kích, xuất kích ngắn để tiêu diệt quân Mỹ đóng dã ngoại. Mỹ đang hung hăng, đang có tham vọng quét lực lượng Việt Nam ra xa, nếu gặp lực lượng chủ lực nhất định Mỹ sẽ bâu lại "quét", lúc đó sẽ sử dụng lực lượng cơ động để tập kích vào những khu vực quân Mỹ co cụm.
Sau nhiều giờ tranh luận, hội nghị nhất trí chọn phương án một, nhưng cũng sẵn sàng chuyển sang phương án hai. Trung đoàn chọn A Bia để xây dựng cụm chốt.
15 giờ ngày 8 tháng 5, các đơn vị xuất phát hành quân chiếm lĩnh trận địa. Tiểu đoàn 8 được tăng cường Đại đội 14 cối 82mm xây dựng cụm chốt ở A Bia. Tiểu đoàn 7 bố trí ở khu vực các điểm cao 903 và 916. Đại đội 16 cơ động dọc phía tây đường số 14 đoạn A Sầu - A Lưới. Khối hỏa lực còn lại do trung đoàn trực tiếp nắm. Tiểu đoàn 9 làm lực lượng dự bị, trước mắt có nhiệm vụ chuyển gạo, đạn từ A Rum vào A Lưới. Các chiến sĩ trinh sát bám sát từng mũi tiến quân của Mỹ.

Diễn biến

Mở màn trận đánh

10 giờ 15 phút ngày 10 tháng 5, Tiểu đoàn 8 do tiểu đoàn trưởng Đinh Xuân Bài chỉ huy nổ súng tiến công 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn Dù số 3 Mỹ trên các điểm cao 400, 500, cách đông bắc A Bia khoảng 2 km. Đại đội 5 được tăng cường hai cối 82mm, chia làm ba mũi, mũi chính đánh ngang đội hình địch ở "yên ngựa" rồi tỏa ra hai hướng đánh ngược lên các đỉnh 500 và 400, để kết hợp với hai mũi đánh từ phía sau mỏm 500 xuống.
Trên mỏm cao 400, sau khi bí mật tiếp cận mục tiêu, đến giờ nổ súng, tiểu đội 10 diệt gọn 1 tiểu đội Mỹ, sau đó phát triển xuống "yên ngựa", phối hợp với trung đội 3 đánh ngược lên, ép quân Mỹ vào giữa.
Cùng lúc đó ở mỏm 500, tiểu đội 9 đánh lên đỉnh, nhưng trúng hai quả mìn định hướng Mỹ gài sẵn, thương vong gần hết. Mũi phát triển từ "yên ngựa" lên cũng bị quân Mỹ từ trên mỏm bắn xuống, đội hình tiến công ở hướng này bị chững lại. Đại đội 5 phải dùng cối 82 ly và B-40 đặt từ đỉnh 400 bắn sang chi viện nhưng vẫn không dứt điểm được. Pháo binh Mỹ dồn dập bắn vào mỏm 400, kết hợp với hai máy bay trực thăng rà sát ngọn cây quét đại liên, thả lựu đạn xung quanh điểm cao 500. Trước tình hình đó, tiểu đoàn 8 lệnh cho đại đội 5 lùi về A Bia tiếp tục xây dựng trận địa chốt. Trận chiến đấu diễn ra không quá một giờ, hàng chục lính Mỹ bị diệt nhưng tiểu đoàn 8 do phân tán lực lượng, không tập trung vào mục tiêu chủ yếu là sở chỉ huy Mỹ, để quân Mỹ kịp tổ chức chống cự gây nhiều tổn thất.
Ở hướng tiểu đoàn 7, ngay phút đầu ban chỉ huy tiểu đoàn đã tập trung hỏa lực chi viện cho đại đội 1 đánh lên điểm cao 903, diệt hàng chục lính Mỹ. Mỹ đưa 6 máy bay trực thăng lên chi viện và bốc 2 đại đội ở đây về phía nam.
Quân Mỹ biết đã gặp lực lượng chủ lực, tăng cường độ đánh phá và dùng trực thăng vũ trang thay nhau trinh sát khu vực xảy ra chiến sự.
Ngày 11 tháng 5, Honeycutt giao cho 2 đại đội Alpha và Delta do thám phía bắc và tây bắc núi A Bia, trong khi các đại đội Bravo và Charlie tăng cường tại các tuyến đường khác nhau. 13 giờ ngày 11 tháng 5, Mỹ đổ 2 tiểu đoàn xuống các điểm cao 903, 916 và A Bia. Phía Quân đội Nhân dân Việt Nam, Trung đoàn trưởng lệnh cho tiểu đoàn 7 để 1 đại đội ém quân tại khu vực 903, 916, còn 3 đại đội cơ động bám sát, tiến công Mỹ.
Khi ra ngoài bãi đáp trực thăng (BĐ) trên sườn núi phía bắc, Đại đội Bravo đã giao tranh dữ dội với QĐNDVN trong khu vực 1 km vào cuối ngày. Honeycutt nhanh chóng chỉ đạo máy bay trực thăng vũ trang AH-1 Cobra, trang bị rocket và súng máy hạng nặng để hỗ trợ cho một cuộc tấn công vội vã. Trong rừng rậm, những chiếc Cobra nhầm lẫn tiểu đoàn 3/187 Mỹ trên bãi đáp với một đơn vị QĐNDVN và tấn công, giết chết hai người và làm bị thương 35, bao gồm cả Honeycutt. Sự kiện bắn lầm này phá vỡ đội hình và sự chỉ huy, và buộc tiểu đoàn 3/187 rút lui vào vị trí phòng thủ đêm. Tuy nhiên, liên lạc xác nhận rằng một lực lượng đáng kể QĐNDVN đã có mặt, Honeycutt ước tính là cần tăng cường một trung đội hoặc đại đội.
Cũng đêm ngày 11, tiểu đoàn đặc công của quân khu tiến công sở chỉ huy lữ đoàn dù 3 Mỹ ở căn cứ Động Tranh. Sáng ngày 12 tháng 5 Mỹ phải đưa tiểu đoàn 2 trung đoàn 506 ở A Lê Thiêm về bảo vệ sở chỉ huy lữ đoàn. Mỹ rút tiểu đoàn 2 về Động Tranh, phía bắc A Bia không còn lính chốt giữ. Ban chỉ huy Trung đoàn 3 quyết định điều tiểu đoàn 9 do tiểu đoàn trưởng Vượng và chính trị viên Thụy chỉ huy hoạt động từ địa đạo Lam Sơn đến khu vực Bãi Ổi. Tiểu đoàn 8 tiếp tục củng cố trận địa chốt, chuẩn bị nhiều đường xuất kích ở A Bia.
Cũng trong hai ngày này, Honeycutt điều khiển các đại đội của mình tới các vị trí cho một cuộc tấn công phối hợp ngày 13 tháng 5 nhưng đã thất vọng bởi địa hình khó khăn và sự kháng cự của QĐNDVN. Một đơn vị của Đại đội Delta, rơi vào một khe núi dốc lầy lội vào ngày 12 Tháng Năm, phải chịu đựng tổn thất rất cao trong hai ngày.

Quân Mỹ đẩy mạnh tấn công

Buổi trưa ngày 13 Tháng 5, chỉ huy lữ đoàn Dù, Đại tá Conmy, đã quyết định nó sẽ cắt đứt chi viện của QĐNDVN từ Lào và hỗ trợ Honeycutt bằng cách tấn công A Bia từ phía nam. Đại đội Bravo được trực thăng đưa lên Đồi 916, nhưng phần còn lại của tiểu đoàn di chuyển bằng đường bộ, từ một khu vực cách 4 km từ Đồi 937, và cả Conmy và Honeycutt dự kiến Tiểu đoàn ​​1/506 sẽ sẵn sàng cung cấp hỗ trợ không muộn hơn buổi sáng ngày 15 tháng 5. Mặc dù Đại đội Bravo đã tới Đồi 916 ngày 15 tháng 5, nó đã không tham gia tấn công cho đến ngày 19 tháng 5 do rừng rậm gần như không thể di chuyển.
12 giờ trưa ngày 13 tháng 5, đại đội 6 QĐNDVN phát hiện một tốp lính Mỹ trong hố bom dưới "yên ngựa", đang dùng ống nhòm quan sát lên đỉnh A Bia. 20 phút sau bộ binh Mỹ kéo ra ken dày dưới "yên ngựa". Đợi lính Mỹ dưới hố bom leo lên, đại đội trưởng Nguyễn Tuấn phát lệnh cho chiến sĩ công binh điểm hỏa. Năm quả mìn định hướng nổ cùng lúc. Trong màn khói đen đặc, bộ binh lao lên đánh vỗ mặt nhóm đi trước, khẩu đội cối 82mm đánh chặn phía sau. Quân Mỹ bỏ chạy theo triền đồi. Tiểu đội trưởng Tới cùng tiểu đội đánh thốc vào sườn quân Mỹ. Đại đội 1 tiểu đoàn 501 lữ dù 3 bị xóa sổ. Quân Mỹ vội trực thăng vận 2 đại đội khác đổ xuống chân điểm cao A Bia nhặt xác đồng đội, nhưng trời đã tối nên phải quay về vị trí cũ.
Sau trận chiến đấu của đại đội 6 ở A Bia, phương án tác chiến được khẳng định. Quân Mỹ tiếp tục phản kích lên A Bia và các điểm cao 903, 916. Ban chỉ huy QĐNDVN quyết định tiếp tục sử dụng tiểu đoàn 8 chốt ở A Bia và tiểu đoàn 7 giữ điểm cao 903, đưa tiểu đoàn 9 vào hoạt động ở A Lê Thiêm, A Lê Lốc, đồng thời dùng đặc công liên tục tập kích vào các vị trí đóng quân của Mỹ. Thực hiện chủ trương của trung đoàn, đêm ngày 13 rạng ngày 14 tháng 5, đại đội 20 đặc công tập kích vào sở chỉ huy tiểu đoàn 2 trung đoàn 506 ở điểm cao 1078, diệt một số sĩ quan và lính pháo Mỹ, phá huỷ một trận địa pháo 105mm.
Ngày 13 tháng 5, lữ dù 3 Mỹ tổ chức phản kích vào các điểm cao 903 và 916. Tiểu đoàn 7 do tiểu đoàn trưởng Tăng Văn Miêu và chính trị viên Trần Triền chỉ huy, bám đánh từ xa. Trong thế xen kẽ, chiến sĩ tiểu đoàn 7 liên tiếp tập kích tiêu hao sinh lực Mỹ, khiến lính Mỹ không dám đi lùng sục, phải thường xuyên di chuyển vị trí, gọi pháo chi viện tạo nên vành đai hỏa lực xung quanh vị trí trú quân.
Ngày 14 tháng 5, QĐNDVN tổ chức phân đội hỏa lực 12 khẩu gồm B-40, B-41, cối 82, cối 60 ly, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trung đoàn phó Nguyễn Hoán bất ngờ tập kích mãnh liệt vào đội hình co cụm của 1 đại đội Mỹ cách điểm cao 916 hai km về phía đông, gây thiệt hại nặng 1 đại đội Mỹ, làm rối loạn ý đồ chuẩn bị đánh chiếm điểm cao 916 của tiểu đoàn 2 dù Mỹ.
Trên hướng A Bia, sau khi dùng bom, pháo bắn phá dọn đường suốt hai ngày 13 và 14 tháng 5, quân Mỹ sử dụng tiểu đoàn 1 trung đoàn 101 chia làm hai mũi tiến công lên A Bia.
Trên hướng đông nam, đợt phản kích của 2 đại đội Mỹ cũng bị đại đội 6 ghìm chân dưới "yên ngựa" bằng những bãi mìn và đạn cối. Khi quân vượt được lên "yên ngựa", mon men vào gần tới đỉnh, đại đội 6 đồng loạt nổ súng. Chiến sĩ trung liên Nguyễn Văn Kiên, xạ thủ B-40 Đậu Văn Nga bình tĩnh kết hợp với bộ binh nổ súng vào đội hình diệt nhiều lính Mỹ. Bị đánh gần và bất ngờ, lính Mỹ lùi xuống chân điểm cao, gọi pháo chi viện.
Biết lữ đoàn dù 3 Mỹ đang dồn nỗ lực chiếm A Bia, từ ngày 15 tháng 5 trở đi, tiểu đoàn 8 tranh thủ thời gian giữa hai đợt phản kích đào hầm, phát triển tuyến chốt sang hướng sườn tây bắc điểm cao A Bia nhằm tránh pháo Mỹ từ phía đông bắc bắn tới. Hầm hào được xây dựng nửa nổi, nửa chìm, có hầm ngủ, hầm chiến đấu nhiều tầng, nhiều lớp. Cơ quan trung đoàn và các đơn vị trực thuộc thay nhau lên A Bia giúp tiểu đoàn 8 xây dựng hầm hào. Với hệ thống công sự này, tiểu đoàn 8 nấp mình trong lòng đất đã tránh được bom pháo Mỹ ngày đêm cày nát ngọn đồi, tổ chức phản kích bẻ gãy hàng chục đợt tiến công của quân Mỹ. Quân Mỹ với sự hỗ trợ của bom napalm, súng phun lửa, pháo không giật bị buộc phải tiến với một tốc độ rất chậm, mỗi công sự chiếm được đều phải trả giá đắt. QĐNDVN cũng tổ chức quanh bãi đáp trực thăng của Mỹ, bắn rơi hoặc bắn hư hỏng nhiều máy bay trực thăng dù chỉ có vũ khí hạng nhẹ và súng phóng lựu.
Sau 3 ngày bị chặn đứng trước các chốt "chết chóc" ở A Bia, quân Mỹ thay đổi chiến thuật. Vừa dùng phi pháo đánh ác liệt vào trận địa chốt, vừa dùng lực lượng cấp đại đội đánh vào các điểm cao 916, 900, nhằm bao vây cô lập tiểu đoàn 8, sau đó dùng lực lượng lớn tiến công, đánh chiếm A Bia.
Trưa ngày 15 tháng 5, trực thăng Mỹ đổ 1 đại đội (Đại đội Bravo) thuộc tiểu đoàn 1 lữ dù 3 xuống điểm cao 916, đồng thời tung 2 tiểu đoàn vào hướng điểm cao 900, phối hợp lấn dần sang A Bia, cùng tiểu đoàn 2 trung đoàn 506 tổ chức phản kích. Hai bên giành giật nhau suốt hai ngày liền. Quân Mỹ ba lần thay quân, lực lượng QĐNDVN cũng vơi dần, hầm hào sụt lở, không kịp củng cố. Các chốt của tiểu đoàn 8 mất dần, nhất là hướng chốt đại đội 8. Tuy vậy QĐNDVN vẫn giữ được A Bia.
Tiểu đoàn 8 bị cắt rời khỏi đội hình trung đoàn. Ban chỉ huy tiểu đoàn hội ý quyết định để đại đội 6 tiếp tục củng cố trận địa, đánh địch từ hướng bắc; rút đại đội 7 ra tăng cường cho chốt ở điểm cao 991, đại đội 5 bổ sung cho chốt đại đội 8, số còn lại làm lực lượng dự bị. Đồng thời tiểu đoàn điện báo cáo về trung đoàn: "Tình hình có khó khăn, thương binh không chuyển được, đạn thiếu, lực lượng cơ động không có. Chỉ có khả năng giữ đến sáng 17 tháng 5. Hướng rút lui phía nam A Bia".
Thường vụ Đảng ủy Trung đoàn 3 họp bất thường tối ngày 15 tháng 5 cân nhắc kỹ tình hình. Lữ dù 3 Mỹ đã bị động đối phó về mặt chiến thuật, từ chỗ chủ động lùng sục tìm diệt phải quay sang đánh chiếm mục tiêu đúng như ý định của QĐNDVN. Cuộc họp kết luận: "Sau gần một tuần, quân Mỹ đã bị tiêu hao nhiều sinh lực, tinh thần giảm sút. Ta tuy có khó khăn, nhưng đây là thời cơ để trung đoàn thực hiện phương án tác chiến vận động tấn công kết hợp chốt toàn trung đoàn, nhằm tiêu diệt nhiều sinh lực Mỹ, quyết biến A Bia thành mồ chôn lính dù Mỹ."
Ban chỉ huy trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 8 tiếp tục giữ A Bia, thu hút địch, tạo điều kiện cho hai tiểu đoàn 7 và 9 cùng các đại đội hỏa lực lật cánh sang phía nam A Bia vận động tấn công vào sườn quân Mỹ; trước mắt phải đánh bật đại đội Mỹ ở điểm cao 916 để lập lại thế liên hoàn toàn trung đoàn.
Tiểu đoàn 8 đã chấp hành mệnh lệnh của trung đoàn trưởng, suốt hai ngày 16 và 17 tháng 5, nhiều trận đánh diễn ra liên tiếp trong khu vực đồi 903, 916 và phía nam A Bia. Ngày 16 tháng 5, trung đoàn tập trung 16 khẩu cối, B-40, B-41 và đại liên 12,7mm tập kích bất ngờ vào đại đội Mỹ ở Động Chuối, Mỹ phải đưa 4 trực thăng lên giải quyết hậu quả.
9 giờ ngày 17 tháng 5, đại đội 2 tiểu đoàn 7 do đại đội trưởng Cao Xuân Nước và chính trị viên Trần Văn Quang chỉ huy, bí mật đạp rừng, bất ngờ tiến công 1 đại đội Mỹ ở điểm cao 916. Với lối đánh gần, xung phong mãnh liệt, đại đội 2 đánh bật quân Mỹ ở mỏm 1, số sống sót chạy sang mỏm 2. Trong khi truy kích, chiến sĩ Nguyễn Văn Duyệt dẫn đầu đội hình đại đội, sử dụng trung liên diệt hàng chục lính Mỹ. Quân Mỹ bỏ mỏm 2 chạy dạt xuống chân điểm cao, vấp phải chốt của đại đội 5, thêm 30 lính bị diệt. Hai giờ chiều ngày 17 tháng 5, quân Mỹ ở 916 bị quét sạch. Hành lang giữa 916 và A Bia đã khai thông. Đường sang tiểu đoàn 8 lại được mở. Chỉ huy lữ dù 3 chưa hay biết gì về số phận đại đội Mỹ trên điểm cao 916 nên vẫn cho trực thăng đổ quân tiếp ứng cho đại đội này, nên bị đại đội 2 bắn cháy 2 trực thăng và lính đi cùng.
Thời gian này, ở hướng A Bia cũng diễn ra trận chiến đấu ác liệt. Mỹ cố đánh chiếm A Bia để gỡ thể diện và để nhặt xác đồng đội tử trận suốt hai ngày qua. Sau khi cắt rời tiểu đoàn 8 khỏi đội hình Trung đoàn 3, lữ dù 3 Mỹ cùng tiểu đoàn 2 và hai đại đội thuộc tiểu đoàn 3 trung đoàn 506 bâu quanh A Bia thay nhau phản kích. Mỹ không dùng chiến thuật "cơn sóng lớn áp đảo đối phương" nữa mà thực hiện chiến thuật "sóng liên hồi" nhằm gây căng thẳng dẫn đến suy sụp về ý chí và tinh thần, buộc QĐNDVN phải mệt mỏi mà rút bỏ A Bia.
Trong hai ngày 16 và 17 tháng 5, các trận địa pháo Mỹ dọc đường số 12 hướng về A Bia trút đạn, bắn cả đạn hóa học gây chảy nước mắt, nước mũi. Trận phản kích cuối cùng trong ngày 17 tháng 5 diễn ra lúc 15 giờ. Quân Mỹ chia làm 4 mũi, dùng đạn hóa học đánh lên A Bia. Hướng đại đội 6, trên mỏm 1 còn 5 chiến sĩ do đại đội phó Trần Văn Lợi chỉ huy, mặc dầu bị nhiễm độc nhẹ vẫn linh hoạt cơ động khắp trận địa, sử dụng nhiều loại vũ khí, liên tiếp đánh bật nhiều đợt phản kích, giữ vững trận địa. Mỏm 3 còn 8 chiến sĩ dưới sự chỉ huy của tiểu đội trưởng Mai Nam Thắng chống trả với 1 đại đội Mỹ, diệt hàng chục lính. Kết thúc đợt tiến công, tiểu đội chỉ còn 3 người. Đến 16 giờ, 1 đại đội Mỹ được phi pháo yểm trợ lại tiến công lên chốt. Nguyễn Trọng Phản dùng AK diệt hai lính đi đầu, đồng thời nổ mìn định hướng quét gọn nhiều lính Mỹ. Hoàng Văn Đợi bồi tiếp một quả B-40 diệt thêm một số. Trần Huy Dựa quét trung liên vào số sống sót đang bỏ chạy xuống chân đồi, trận địa chốt vẫn được ba chiến sĩ giữ vững.
Ở hướng đại đội 7, phía nam A Bia chiến sĩ Nguyễn Văn Hiệu một mình đảm nhiệm một hướng, sử dụng một lúc ba loại súng bộ binh. Trong ngày 17 tháng 5, ba lần bị bom vùi, Hiệu vẫn vùng dậy tiếp tục chiến đấu. Hiệu được ghi nhận đã diệt 38 lính Mỹ trước trận địa của mình, giữ vững trận địa cuối cùng.
Trong lúc quân Mỹ còn tập trung vào hướng các đại đội 5 và 6 thì đại đội 2, tiểu đoàn 7 bất ngờ tiến công vào sườn trái đội hình phản kích của 1 đại đội Mỹ, hất xuống chân điểm cao. Đợt phản kích cuối cùng của Mỹ lên A Bia trong ngày 17 đã bị bẻ gãy.
Tức giận vì bị cầm chân suốt 5 ngày, các chỉ huy lữ đoàn Mỹ đã ra lệnh một cuộc tấn công phối hợp hai tiểu đoàn vào 18 Tháng Năm, với tiểu đoàn 1/506 tấn công từ phía nam và 3/187 tấn công từ phía bắc, cố gắng để cô lập lực lượng đối phương. Đại đội Delta của tiểu đoàn 3/187 được không vận tới gần ngọn đồi, nhưng bị tập kích và thương vong nghiêm trọng, bao gồm tất cả các sĩ quan của mình. Từ một máy bay trực thăng quan sát, chỉ huy tiểu đoàn đã cố gắng phối hợp các các đại đội khác vào một cuộc tấn công cuối cùng, nhưng một trận mưa dữ dội làm giảm khả năng yểm trợ không quân và kết thúc trận đánh. Tiểu đoàn 3/187 một lần nữa phải rút lui xuống núi. Ba đại đội của tiểu đoàn 1/506th chiến đấu để giành điểm cao 900, phía nam của đỉnh núi, cũng gặp phải sự kháng cự mạnh.
Bởi thương vong nặng nề trong 1 tuần và chịu áp lực từ sự chú ý không mong muốn báo chí, một số chỉ huy nghiêm túc xem xét việc ngừng các cuộc tấn công. Cả hai tư lệnh quân đoàn và tư lệnh MACV, Tướng Creighton W. Abrams, công khai ủng hộ quyết định này. Nhưng các chỉ huy tại chỗ lại cảm thấy sẽ bị bẽ mặt khi phải rút lui bởi một lực lượng đối phương nhỏ bé hơn nhiều. Vậy là Zais quyết định tiếp tục tấn công, tung ba tiểu đoàn mới vào chiến đấu thay thế cho những đơn vị đã thiệt hại nặng. Tiểu đoàn 3/187 thiệt hại nghiêm trọng, với khoảng 320 thiệt mạng và bị thương, chiếm hơn 60% trong số 450 binh sĩ có kinh nghiệm ban đầu. Hai trong số bốn chỉ huy đại đội và tám trong số mười hai trung đội trưởng đã thương vong.


Quân đội Nhân dân VIệt Nam rút lui

Sau 1 tuần chiến đấu, 2 tiểu đoàn QĐNDVN đã hoàn thành mục tiêu được giao là tiêu diệt một lượng đáng kể lính Mỹ. Như chiến lược chung trong những trận đánh với Mỹ, QĐNDVN không cố gắng giành giật trận địa ((fact))mà chỉ cố gắng gây thương vong tối đa cho địch trước khi tổ chức rút lui để tránh bị hỏa lực và sức cơ động vượt trội của Mỹ bao vây tiêu diệt. Kế hoạch ban đầu là rút vào đêm 17 nhưng các đơn vị đã hoàn thành tốt và kéo dài thêm được 1 ngày. Đêm 18, QĐNDVN bắt đầu tổ chức rút lui khỏi trận địa núi A Bia, chỉ để lại một bộ phận nhỏ làm nghi binh.
Ngày 19 tháng 5, 2 tiểu đoàn bộ binh đã được không vận vào bãi đáp đông bắc và phía đông nam của của núi. Cả hai tiểu đoàn ngay lập tức di chuyển lên núi để tới các vị trí mà từ đó họ sẽ tấn công vào sáng hôm sau. Trong khi đó, tiểu đoàn 1/506 dùng ngày thứ ba liên tiếp để bảo đảm an toàn cho điểm cao 900.
Lữ Đoàn 3 đưa ra bốn tiểu đoàn của mình tấn công vào lúc 10:00 ngày 20 Tháng Năm, bao gồm cả hai đại đội của 3/187 được tăng cường bởi đại đội Alpha 2/506. Các cuộc tấn công được hỗ trợ bởi hai giờ không kích và chín mươi phút nã pháo. Các tiểu đoàn tấn công đồng thời, 12:00 tiểu đoàn 3/187 lên tới đỉnh. Đơn vị nhỏ làm nhiệm vụ nghi binh còn lại của QĐNDVN sau khi nổ súng cầm chân quân Mỹ đã rút sang Lào theo đơn vị chính, và Đồi 937 được quân Mỹ nắm giữ vào 17:00.((fact))

Kết quả

Quân Mỹ hao tổn hàng trăm sinh mạng nhưng rốt cục chỉ chiếm được một ngọn đồi không có giá trị về quân sự. Thiếu tướng John M. Wright lặng lẽ ra lệnh rút khỏi đồi ngày 5 tháng 6. Các cuộc tranh luận về "Hamburger Hill" diễn ra tại Quốc hội Hoa Kỳ, với những lời chỉ trích đặc biệt nghiêm trọng của các thượng nghị sĩ Edward Kennedy, George McGovern, và Stephen M. Young. Edward Kennedy gọi đây là "Cuộc hành quân điên rồ và vô trách nhiệm. Sinh mạng của binh sĩ Mỹ đã bị phung phí chỉ để thể diện nhà binh cho các sĩ quan chỉ huy"
Báo chí Mỹ ngày 25 tháng 5 năm 1969 gọi A Bia là "Đồi thịt băm của lính dù Mỹ", lên án quân đội Mỹ ném quân lên vùng núi A Bia chỉ để biến cuộc hành quân "Tuyết rơi trên đỉnh núi" (Apache Snow) thành "Máu rơi trên đỉnh núi". Trong số 27 tháng 6, Tạp chí Life đã công bố những bức ảnh của 241 lính Mỹ thiệt mạng trong một tuần tại Việt Nam, được coi là một bước ngoặt của chiến tranh. Dù chỉ có một phần trong số này là thương vong trên Hamburger Hill, nhiều người Mỹ đã nhận thức rằng tất cả những người chết đều là nạn nhân của "trận đánh điên rồ và vô nghĩa" này.
Tranh cãi về trận Hamburger Hill đã dẫn đến một đánh giá lại chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Như một kết quả trực tiếp, để giữ thương vong không cao quá mức, Tướng Abrams ngừng chính sách "áp lực tối đa" chống lại Quân đội nhân dân Việt Nam, trong khi Tổng thống Richard Nixon đẩy nhanh thực hiện chiến lược mới là Việt Nam hóa chiến tranh, và tuyên bố đợt rút quân viễn chinh đầu tiên. Mặc dù trận đánh chỉ ở mức tiểu đoàn, song nó đã trở thành một bước ngoặt trong chiến tranh Việt Nam.
Với QĐNDVN, những kết quả thu được trong trận đánh ở A Bia và đợt hoạt động phản công của Sư đoàn 324 ở vùng thung lũng A Lưới đã cổ vũ và thúc đẩy phong trào đánh phá "bình định" đang phát triển ở các địa phương. Chiến thắng A Bia đã đi vào trang sử truyền thống đầu tiên của sư đoàn 324 kể từ khi được tổ chức lại và là mốc mở đầu cho giai đoạn khôi phục lại thế trận xuống đồng bằng, lập lại thế ba vùng chiến lược sau Tết Mậu Thân 1968.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 13:48, ngày 22 tháng 2 năm 2014.

Xem tiếp...