CHƯƠNG III:
PHƯỢNG MÚA RỒNG BAY
“Triết lý Á Đông là cuộc sống phải hòa hợp
với thiên nhiên. Mỗi người là một tiểu vũ trụ hòa hợp trong đại vũ trụ. Chính
thiên nhiên Hà Nội giúp người ta hòa hợp một cách dễ dàng cái tôi chủ thể với bản
thể vũ trụ huyền bí và mênh mông. Tự thân mình trong môi trường ấy đã có sự hòa
hợp rồi… Tất nhiên là Sài Gòn rất đẹp… Nhưng Sài Gòn khác Hà Nội. Đi giữa Sài Gòn,
mình có cái bồn chồn của một doanh nhân đi tìm mối hàng, hay đi tìm quán nhậu,
còn đi giữa Hà Nội, tự nhiên ta thư thái như một lãng tử. Ngồi ở một góc nào đấy
tại Hà Nội là có thể nghĩ về đất nước và quên đi xung quanh không cần một cố gắng
nào hết. Nhưng mấy chục năm nay người ta đã phá hoại quá nhiều môi trường sinh
thái văn hóa tự nhiên lắng đọng từ hàng nghìn năm… May mà dự án thủy cung Thăng
Long thất bại chứ không Hồ Tây cũng đã bị xâm hại rồi… “Đứng cạnh Hồ Tây có thể
quên được trời đất”. Đó là lời của ông tham tán văn hóa Đại sứ quán Phần Lan tại
Việt Nam
- Pauli Mustonen nói với tôi trong buổi tối chia tay với ông, một buổi tối Hồ Tây
mù sương. Nhưng sau một lúc ngẫm nghĩ, ông ấy nói: “Không biết khi tôi có dịp
sang lại Việt Nam
thì Hồ Tây có còn là Hồ Tây như bây giờ hay không”. Nghe câu nói ấy, chúng tôi đều
trầm hẳn xuống và man mác buồn”.
(Giáo
sư Nguyễn Huệ Chi)
Có
những vấn đề nhận thức đòi hỏi phải thận trọng. Nhiều giáo sư, tiến sĩ
đã lầm lạc từ nhận thức ban đầu rất đúng. Thật là đáng tiếc, thậm chí
đáng thương nữa!
Lang thang đi,
lang thang ngắm và lang thang suy ngẫm, chúng ta không biết mình đã qua vùng
cao nguyên Trung Phần - Việt Nam từ khi nào, băng rừng lội suối vào lúc nào mà
giờ đây đã đứng trên đỉnh của “Trường Sơn đông nắng tây mưa, ai chưa đến đó như
chưa hiểu mình” (Thơ Tố Hữu) - dãy núi hùng vĩ đóng vai trò như xương sống của đất
nước Việt Nam nhiều những danh lam thắng cảnh có một không hai. Cuộc chiến
tranh “chống Mỹ cứu nước” đã đi vào lịch sử ngót nghét 40 năm, và nhờ có thiên
nhiên vô tư, cần mẫn trong việc tái tạo lại màu xanh cây cỏ mà chúng ta không còn
phải thấy những vạt rừng cháy xám, những cung đường lở lói hoang tàn, tanh lạnh
chết chóc - chứng tích của một thời đạn bom khốc liệt…
Đứng ở đây, lưng
quay về phía tây, với cặp mắt của hồi ước đã được kích hoạt lên hoang tưởng, bất
cứ ai có nỗi niềm về nhân tình thế thái, đều có thể bao quát được cả một vùng
trời, biển, núi, sông mênh mông chập chùng, rộng đến choáng ngợp về không gian
và dằng dặc sâu xa đến ngỡ ngàng về thời gian. Ở tít tắp, nơi mà bầu trời như sà
xuống hòa làm một với biển Đông, trên nền của vùng cuối trời ấy hiện lên một hình
tam giác trắng bạc giữa một màu xanh lợt, phớt trắng. Tận đây mà chúng ta vẫn cảm
nhận được cái long lanh pha lê của phần đỉnh tam giác đó. Không thể khác được, đó
chính là ngọn núi Tu Di huyền thoại, nằm ở chính giữa Đại Lục Mẫu - Địa Đàng tưởng
chừng như đã mất của nhân loại!
Núi Tu Di là tên của một ngọn núi trong truyền thuyết thần thoại cổ Ấn Độ. Wikipedia viết rằng: "Núi Tu-di, cũng gọi là Sumeru (Sanskrit) hoặc Sineru (Pāli) là một ngọn núi thiêng với năm đỉnh, được đề cập trong vũ trụ học của Ấn Độ giáo, Kỳ-na giáo và Phật giáo, và được xem như là trung tâm của tất cả các vũ trụ thuộc vật lý, siêu hình và tinh thần. (...). Núi Tu-di là một phần của Đại dương Vũ trụ, với nhiều tài liệu nói rằng,
"Mặt trời cùng với các hành tinh bay vòng quanh ngọn núi," làm cho việc
xác định vị trí của nó, theo phần lớn các học giả, là cực kỳ khó khăn". Phật Giáo cho rằng: "núi Tu-di cao 80.000 "do tuần". Kích thước chính xác của một "do tuần"
là không xác định, nhưng một vài tính toán cho rằng nó khoảng 24.000
foot (7.300 m), hoặc khoảng 4,5 dặm (7,2 km), nhưng những tính toán khác
lại cho rằng nó nằm giữa 7–9 dặm (11–14 km). Nó còn phần chìm dưới sâu
80.000 "do tuần" so với bề mặt mặt nước bao quanh. Núi Tu-di thường được
sử dụng như là một hình tượng ẩn dụ của kích thước và tính kiên cố trong
kinh điển Phật giáo. Núi Tu-di được nói rằng có hình dạng giống như một cái đồng hồ
cát, với đỉnh và đáy có diện tích rộng 80.000 "do tuần", nhưng hẹp ở phần
giữa (ở độ cao 40.000 "do tuần") chỉ rộng 20.000 "do tuần"". Theo quan niệm Phật giáo, núi Tu Di (còn gọi là Tu Di Lâu, Mạn Đà La), là
vua của các ngọn núi, là trung tâm của thế giới, là vũ trụ quan của Phật
giáo.
Sự hiện hữu của nó trước mặt chúng ta lúc này đã
gợi nên một niềm tin rằng: loài người trước sau gì rồi cũng tìm lại được “Thiên
đường đã mất” của mình, không ở trên Trái Đất này thì cũng ở đâu đó trong… Vũ
Trụ, khi mà tình yêu đồng loại ở mọi cá thể của cái tập hợp ấy đã được duy trì
không phải bởi lý trí nữa mà là nhờ di truyền từ đời này sang đời khác như một
bản năng.
Nhìn gần lại và
nhìn qua phải qua trái, có thể thấy toàn cảnh đất nước Việt Nam, từ lịch sử hình thành đến phân
bố địa hình và hình thể ngày nay của nó.
Việt Nam là phần đất rìa của bán đảo Đông Dương - phần
lục địa phía Đông - Nam
của Châu Á. Nó là dải đất hình chữ “S”, phía Tây dựa vào lục địa, phía Đông nhìn
ra Thái Bình Dương. Chính vị trí và hình dáng của lãnh thổ Việt Nam đã làm nảy
ra trong đầu chúng ta những ý tưởng ngộ nghĩnh và có vẻ kỳ lạ.
Hình dáng chữ
“S” đã làm cho đất nước Việt Nam trở nên uyển chuyển, liền lạc, như uốn, như lượn
sinh động khác thường với đoạn giữa hẹp dài và hai đầu phình nở, cái khối chữ
“S” ấy gợi nên một hệ thống lưỡng nghi tương phản nhưng cũng là tương đồng: có
lồi thì có lõm, miền bắc nở ra theo bề rộng thì miền nam nở ra theo bề dài một
cách tương xứng, tạo nên cái vẻ cân bằng một cách hài hòa. Nhưng cũng có thể nhìn
ra như một cái chong chóng hai cánh đang quay ngược chiều kim đồng hồ bởi gió bão
thường cuốn thổi vào vùng vịnh Bắc Bộ. Nhìn “siêu” hơn nữa, có thể thấy một khu
vực địa lý hình tròn được chia làm hai phần bởi chữ “S” Việt Nam, có tâm nằm đâu
đó trên dải đất miền Trung. Hình tròn đó có hồn vía của Thái Cực với miền âm là
biển Đông, miền dương là lục địa. Đảo Hải Nam như một dấu nhỏ, tượng trưng
cho cái dương trong âm và Biển Hồ cũng như một dấu nhỏ, tượng trưng cho cái âm
trong dương. Một Thái Cực ảo tưởng nằm kế một Địa Đàng huyễn hoặc, là một giấc
mộng đẹp và có tính thần tiên!
Một cách “thực
dụng”, chúng ta còn có thể thấy hình hài Việt Nam mô tả con số 3. Không có 1 (nhất
âm, nhất dương) thì không có 2 (lưỡng nghi, lưỡng phân lưỡng hợp); lưỡng nghi
không liên hệ được với nhau, chuyển hóa nhau được nếu không có yếu tố thứ 3 -
thể trung gian, cơ sở, vô cực, môi trường… Chúng hợp thành hệ thống vận động. Số
3 còn “nhắc” đến quan niệm tam tài, Thiên - Địa - Nhân. Thiên, Địa được biết như
“một trời một vực” là nhờ có nhân, không có nhân thì không có Thiên và Địa, nhưng
không có “trời, vực” thì nhân cũng chẳng được sinh ra để mà nói là Thiên là Địa.
Hệ thống (số 3) xoay vần theo tứ tượng (số 4) mà có được ngũ hành (số 5) - còn
gọi là thực thể, vật, hiện tượng… Ngoài ra, đất nước Việt Nam cũng tượng hình ra con số 5 và
có vẻ là cả con số 1 theo ký hiệu La Mã (I) nữa. Đối với số 2 và số 4, chúng ta
đã cố “xoay sở” cho đủ bộ lệ mà đành… chịu thua. Dù sao thì cũng ly kỳ chứ nhỉ?
Chưa hết, gần gũi
với đời sống người Việt, chúng ta còn tưởng tượng ra vài hình tượng nữa từ dải
non sông nước Việt. Nếu coi biển Đông là nền trời xanh và đất nổi hay hải đảo là
mây thì Việt Nam
đích thị là một cánh diều có đuôi dài, đang bay lượn. Còn không, có thể thấy đó
là một thôn nữ thắt đáy lưng ong, đội nón quai thao trong một động tác múa nào đó,
hay một nàng tiên từ đâu đó vừa bay về nô đùa với sóng nước biển Đông. Giản dị
hơn, cứ cho đó là một con rồng khổng lồ nằm tắm nắng dọc dài theo bờ biển mà vây
của nó là dải Trường Sơn, cũng không đến nỗi khiên cưỡng lắm. Thậm chí, từ hình
thể đó, có thể tưởng tượng ra một lão nông đang lúc nông nhàn hay một ngư ông vừa
cặp bờ sau một chuyến ra khơi trở về, ngồi ngẩng đầu lim dim, nhả khói thuốc lào
vào lục địa Châu Á.
Nếu không hoang
tưởng nữa mà nhìn một cách hiện thực, rõ ràng đất nước Việt Nam đã tươi tắn lên rất nhiều nhờ đổi
mới và đang sôi nổi, cuồng nhiệt khai phá, dựng xây… Phải nói rằng, Đổi Mới đã
tạo đà cho sự phát triển vượt bậc của kinh tế đất nước. Mức sống của người dân
nói chung đã được nâng lên rất nhiều. Chính sách mở cửa, hội nhập ngày một toàn
diện vào thế giới về kinh tế - xã hội đã tạo ra biết bao nhiêu công ăn việc làm
cho người lao động cũng như tạo nhiều cơ hội, nhiều động lực kích thích sáng tạo
và làm ăn vươn lên giàu có. Và thực sự đã có rất nhiều người giàu có, thường quen
gọi là “đại gia”. Đó là điều đáng mừng. Vươn lên giàu có nhờ tài năng, gặp thời,
may mắn… trên con đường lương thiện, đều đáng được khuyến khích và hỗ trợ…
Đứng đây, nhìn
quang cảnh đất nước nhộn nhịp, xe hàng, xe khách ngược xuôi như mắc cửi trên những
con đường đã được tu bổ, trên những tuyến đường làm mới “láng tưng”, thấy khoái
chí biết bao! Nhưng bất chợt…
Đang vui vẻ với
những ý nghĩ tinh nghịch về hình thể đất nước, đang tấm tắc trước diện mạo ngày
một đẹp hơn ở khắp mọi miền đất nước,lòng chúng ta bỗng chùng xuống, khi nhớ ra
rằng sự phát triển còn có mặt trái của nó nữa.
Đổi
Mới như một
cơn gió mạnh thổi bay hàng rào cơ chế, nhưng vẫn còn sót lại không ít
móng cọc
và vô tình còn tạo nhiều cơ hội cho những kẻ bất lương đục nước béo cò,
làm giàu
bất chính từ sự bắt chẹt, ăn chặn, tham ô, cửa quyền để ăn “bẩn” của
người dân
và ăn cắp của nhà nước (thực ra cũng là đóng góp của dân). Đó là những
tệ nạn gây
nản lòng dân, làm trì trệ sự phát triển kinh tế, làm băng hoại đạo đức
xã hội.
Những tệ nạn đó gây tác hại to lớn cho đất nước. Trong đó, có những hiện
tượng tiêu cực, "trù úm" sinh ra từ trước "Giải Phóng" bắt nguồn từ
nhận thức sai lầm về chuyên chính vô sản, về đấu tranh giai cấp (như
muốn được đề bạt trưởng phòng trong cơ cấu kinh tế nhà nước thì phải là
đảng viên!...). Tuy nhiên nếu “người trên”
trong sáng, tỉnh táo và biết cách thì những tệ nạn đó sẽ bị khống chế
nếu không
hoàn toàn thì cũng giảm đến không đáng kể nữa. Những tệ nạn sau đây mới
thật đáng
sợ: qui hoạch, giải tỏa và bê tông hóa tràn lan, vô tội vạ. Đành rằng
muốn phát
triển một đất nước đói nghèo và thấp kém về kinh tế thì phải qui hoạch
và dựng
xây cơ sở vật chất cho nó, nhưng không phải cứ qui hoạch hóa, bê tông
hóa, công
nghiệp hóa càng ồ ạt, càng qui mô thì đất nước càng phát triển mà trái
lại có
thể còn gây nguy hại trầm trọng đến sự nghiệp làm cho dân giàu, nước
mạnh!
Tác động hết sức
tích cực và tức thì của Công cuộc đổi mới đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội
đất nước đã làm cho, có thể nói là toàn dân lúc đó hết sức phấn khởi, hăng hái
làm ăn, tạo ra ngày càng dồi dào tiền của. Quan trọng hơn là chính sự đổi mới đã
vạch ra một hướng đi mới đầy lạc quan cho sự phát triển: thông thương mở cửa,
chấp nhận tư hữu về tư liệu sản xuất, quay về với thị trường tự do, khuyến khích
đầu tư tư nhân, đầu tư từ nước ngoài, theo định hướng XHCN (?) của Nhà nước. Trên hướng
đi đã tỏ ra đúng đắn rồi ấy, người ta “thẳng tiến” không cần nghĩ ngợi gì nhiều
nữa, bệnh duy ý chí lại bắt đầu trở chứng. Có lẽ vì chưa nhận thức được đầy đủ
Tự Nhiên, nhất là chưa nhận thức được nguyên lý biểu hiện nước đôi của mọi quá
trình cả tự nhiên lẫn xã hội, chưa thấy được qui luật phân định tương phản và
chuyển hóa lưỡng nghi là bản chất của mọi cuộc vận động; và cũng do “quên” mất
quần chúng hoặc xem thường quần chúng; mà mới có hiện tượng qui hoạch xô bồ xô
bộn, hợp lý có, “vớ vẩn” cũng có; mà mới có chồng chất hỗn độn các dự án to có,
vừa có, nhỏ có, hay có, dở có, hoàn toàn vô nghĩa, phản tác dụng cũng có; mà mới
xuất hiện “kiểu” công nghiệp hóa “đủ thứ”, không biết định hướng đến đâu nữa. Đó
là chưa kể đến những dự án, những công trình được “đẻ” ra bởi những động cơ đục
nước béo cò, móc ngoặc nhau chia chác công quĩ, xong rồi thì “sống chết mặc
bay, tiền thầy bỏ túi”, chuyện dân chuyện nước, chuyện “tương lai” con em chúng
ta, coi như… “pha”. Yêu mình là chính đáng, làm giàu là vô tội, nhưng lợi dụng
lòng tin của dân chúng, dùng mưu ma chước quỉ “qua mặt” bề trên để phè phỡn bằng
cách bòn rút, trộm cắp, cướp giật của cải thiên hạ, của những người nghèo khổ hơn
mình, là một tội ác, bất lương…
Trên tầm cao
“chiến lược” này, ngẫm nghĩ về sự biểu hiện nước đôi của Tự Nhiên Tồn Tại trước
quan sát và nhận thức, dù có thể là còn mơ hồ, dù suy nghĩ của chúng ta có thể
là lệch lạc, thậm chí là có mầm mống tâm thần, dù có thể là do bị ám ảnh bởi sự
“thịnh - suy” như một tất yếu của mọi quá trình xảy ra trong thiên nhiên cũng
như trong lịch sử xã hội loài người, thì chúng ta cũng không kìm lòng được, cũng
đành phải thốt ra, “tự thú trước bình minh” rằng hình như trên dải đất xanh tươi
kia đã lấp ló mặt sau của tấm huân chương. Hình như đã có một sự thất thoát, lãng
phí quá nhiều do đầu tư tràn lan, đầu tư không đem lại hiệu quả, đầu tư không đồng
bộ, đầu tư nửa vời bỏ đó, do nhận thức và quản lý yếu kém, lỏng lẻo… Và điều nhạy
cảm nhất, có ý nghĩa bao trùm là hiện thực đang ngầm mách bảo hướng ưu tiên cũng
như lâu dài về xây dựng kinh tế đất nước đã có phần lệch lạc. Thường những tác
hại nhỏ là dễ thấy, thấy ngay được. Nhưng cũng có những tác hại phải 5, 10 năm
hay vài chục năm sau mới thấy. Những tác hại tầm cỡ “chiến lược” thì phải qua một,
hai thế hệ, thậm chí là vài thế hệ mới “phát tác” ra.
Không ai có thể
hiểu được tại một nơi hẻo lánh, nghèo nàn, thay cho cái cầu khỉ bắc qua con rạch
“nhảy một cái cũng qua”, người ta làm một chiếc cầu bêtông “tổ chảng”, dài ngót
5-7 trăm mét, rộng cỡ “đại lộ” để làm gì? Xe tải chẳng qua đó được vì chưa có đường,
trong khi người dân phải đi vòng “mua đường”. Có thể việc xây cầu đó là rất cần
nhưng là ở thời… 100 năm sau. Sao không làm nhỏ thôi, dành tiền cho dân nghèo ở
đó “vay vốn” làm ăn cái đã?
Không đâu xa,
ngay ở thành phố Hồ Chí Minh, nạn đào đường đã trở thành nổi tiếng. Ngót 30 năm
sau đổi mới, ngay vùng trung tâm của “hòn ngọc Viễn Đông” vẫn cứ đào lên lấp xuống
hoài. Người ta nói đào đường để tu bổ hệ thống cống ngầm thoát nước của thành
phố, chống ngập. Đúng thôi! Hệ thống đó sau thời gian sử dụng quá dài đã rệu rã,
và cũng không còn đáp ứng nổi trước sự phát triển, lớn lên của thành phố. Nhưng
tại sao không qui hoạch làm xong “cái rụp” một hai lần dứt điểm luôn; mà năm nào
cũng đào, đào đi đào lại, dân tình ca thán quá cũng cứ đào? Càng đào càng ngập
mới lạ!
Cả ba ông điện,
nước, giao thông đều đào, tranh nhau mà đào, hai ông đầu đào xong, lấp qua loa
cho ông đường tha hồ có việc mà làm. Có những con đường vừa làm xong, dân tình
tưởng êm, được 2,3 năm lại bị đào, đào đi đào lại, đào tái đào hồi, hết cả đời
vẫn còn đào. Lạ nhất là cứ đến những tháng cuối năm, công việc quây vách đào lấy
lệ rồi để đó qua năm làm tiếp, sôi nổi hẳn lên, làm dân tình thành phố ăn cái Tết
bớt phần vui vẻ. Hỏi ra, có người chặc lưỡi: “Nghe đâu thường cuối năm, tiền ngân
sách rót xuống còn tồn, phải tìm cách xài cho hết kẻo lại phải trả về Trung Ương
vì năm sau không chừng thấy vậy, Trung Ương lại “rót” ít đi thì uổng”. Số tiền
tốn vào cái công trình đào đi đắp lại dài đằng đẵng và “vĩ đại” ấy là bao nhiêu?
Nếu dùng số tiền đó vào việc xóa đói giảm nghèo cho dân thì giúp được bao nhiêu
hộ?
Việc xây dựng cơ
sở vật chất cho hoạt động công quyền đã như một tàu há mồm, nuốt không ít tiền
của nhân dân (trong đó chủ yếu là ngân sách Nhà nước!). Ở mức độ nào đó, việc xây
dựng ấy là cần thiết, là phù hợp nhưng khi vượt quá, nó trở nên dư thừa, kệch cỡm,
phơi bày ra sự phi nghĩa. Hình như con người ta, khi có tí chút chức quyền là mắc
bệnh “nghiện”: muốn xây dựng bằng tiền của thiên hạ. Ông lớn đi xây dựng thêm cơ
quan này, mở rộng công sở kia, có cái chính thì thêm cái phụ, cái chính không vừa
mắt thì phá ra xây cho to hơn. Thế đã đành, ông nhỏ cũng bắt chước làm theo, từ
ông tỉnh - thành, ông huyện - quận đến ông xã - phường đều hăm hở, nhiệt tình
xin xỏ cho bằng được (mà chắc được thôi!) để xây chỗ “làm việc” của mình thêm
khang trang, hoành tráng. Có ông xã, cơ ngơi hiện còn “xài” tốt, chẳng có vấn đề
gì, bỗng đùng đùng “hạ quyết tâm” đi xây cơ ngơi mới với đầy đủ trụ sở thỏa mãn
“cơ quan, ban ngành, đoàn thể” vốn đã cồng kềnh. Có những khu nhà “ủy ban nhân
dân xã” xây mới, to “vật vã”, cờ xí rợp trời nhưng vì thế mà trông vắng teo, còn
vắng hơn cả “chùa Bà Đanh”. Còn thành phố, thị xã, thị trấn thì khỏi nói, đua
nhau mở rộng, đua nhau qui hoạch, di dời, đập phá, dựng xây, đua nhau bê tông hóa.
Có những thành phố qui hoạch mở rộng đến hai ba lần rồi vẫn thấy chưa đủ đáp ứng,
hệ thống đường phố làm đi làm lại cho rộng thêm rốt cuộc vẫn thấy chật, kẹt xe
thì càng ngày càng… kẹt. Nguyên nhân nào dẫn đến bệnh nghiện xây của họ, đố ai
biết?!
Cũng như thở và
uống, ăn là đòi hỏi thiết yếu, động chạm đến vấn đề sinh tử của con người. Dưỡng
khí và nước dù sao cũng được coi là những thứ có sẵn, dễ kiếm hơn nên sự thở và
uống trở nên tầm thường, lặn đi và ít được chú ý. Nhưng thức ăn thì không dễ có
như thế; phải tốn công sức nhiều hơn, thậm chí là rất khó khăn trong việc tìm
kiếm mới có được. Do đó mà kiếm ăn trở nên một công việc nổi trội hàng đầu
trong suốt quá trình sống của con người. Khi đã có ăn rồi thì mới nghĩ đến mặc,
làm đẹp và tiêu khiển. Trong nền sản xuất có trao đổi mua bán hàng hóa thì những
thứ được làm ra hàng loạt cho việc mặc, làm đẹp, tiêu khiển… xét cho cùng là cũng
vì miếng ăn, không của người này thì cũng của người kia.
Suy rộng ra, một
xã hội, một khu vực dân cư muốn tồn tại thì phải có cái ăn, do đó lẽ đương nhiên
phải tự tìm được miếng ăn, phải sản xuất ra được lương thực và đó cũng là nhiệm
vụ cơ bản, ưu tiên, được đặt ra trước hết, lên trên hết.
Thời tiền sử,
khi chưa có nhà nước, thì một lực lượng dân cư quần tụ nào đó (với một hình thái
xã hội giản đơn nào đó), trong quá trình tồn tại và phát triển về số lượng nhân
khẩu (ngược với quá trình lan tỏa dân cư là hội tụ; sinh đẻ nhiều hơn và có điều
kiện nuôi sống tốt hơn do sự làm ra thức ăn trước đó có thuận lợi làm mức sống
sung túc hơn) cũng như những biến động thất thường bởi thời tiết, khí hậu… đã tự
nhiên phải chú ý tới và “tìm cách” tăng năng suất sản xuất lương thực. Muốn thế,
phải “lắng nghe” thiên nhiên, học hỏi thiên nhiên rồi cải tạo thiên nhiên và cải
tạo chính mình bằng cách tự tổ chức lại hoạt động sản xuất cho phù hợp, sáng tạo
ra những cách thức, kỹ thuật canh tác tốt hơn trên cơ sở sáng chế phát minh những
công cụ sản xuất mới hiệu quả hơn… Quá trình không dừng lại ở đó mà tiếp tục, làm
hình thành nên những chu trình hở (không kín) nối tiếp nhau như một tiến trình
hình xoắn trôn ốc, một cuộc xoay vần mà bước sau có trình độ cao hơn bước trước.
Mặt khác, sự
chuyển hóa nội tại không ngừng của cái xã hội đang nói đến đó tất yếu nảy sinh
những tranh chấp, giằng xé, xung đột vì miếng ăn làm phân hóa, tạo ra hai lực lượng
cơ bản, tương phản nhau là giàu - nghèo và đến lượt chúng lại tác động tích cực
đến chuyển hóa xã hội.
Sự vận động nội
tại xã hội mà động lực cơ bản, chính yếu của nó là vì miếng ăn, vì một cuộc sống
ấm no hơn sẽ tất yếu dẫn đến sự ra đời của nhà nước mà mục đích nguyên thủy của
nó là dung hòa xung đột, thống nhất ý chí toàn xã hội, tổ chức phân công lao động
- sản xuất để đạt hiệu quả cao nhất có thể, cũng là nhằm duy trì sự tồn tại xã
hội (đồng thời cũng có nghĩa là phát triển xã hội). Một nhà nước hiện đại, khi đã
gắn nhãn mác “do dân và vì dân”, phải có mục đích thiêng liêng ấy.
(Có lẽ cũng nên
nói thêm một chút. Như chúng ta đã nói, vận động nội tại của một thực thể là luôn
vươn tới sự cân bằng nhưng không bao giờ đạt được sự cân bằng tĩnh tại tuyệt đối
vì luôn luôn đồng thời xuất hiện sự phá vỡ cân bằng do tác động của môi trường
cũng luôn biến động. Trong một môi trường biến động chu kỳ (ở Trái Đất chẳng hạn),
thì vận động nội tại của thực thể cũng mang tính chu kỳ tương ứng. Một khi môi
trường có đột biến thái quá đến độ thực thể “không chịu đựng nổi” thì vận động
nội tại “truyền thống” của nó không thể duy trì được, phải biến cải thành kiểu
vận động mới theo hướng làm cho thực thể “suy thoái” đi hoặc “phát triển” lên và
biểu hiện như một thực thể mới, có tính kế thừa thực thể cũ. Cực đoan hơn nữa
thì có thể là… đùng, một vụ nổ chấm dứt một tồn tại!
Đó là nguyên lý
cơ bản về vận động nội tại của mọi thực thể. Một xã hội dân cư (một đất nước)
chính là một thực thể vì có cấu trúc nội tại với những mối quan hệ đan xen, do đó
vận động nội tại của nó cũng không thể nằm ngoài nguyên lý nói trên, nhưng được
thể hiện ra một cách đặc thù. Về mặt kinh tế, sự ổn định của một xã hội là tùy
thuộc vào mối quan hệ giữa lực lượng lương thực được tạo ra và lực lượng dân cư.
Lượng thực phẩm dư thừa sẽ làm cho xã hội thịnh vượng, mức sống dân cư tăng lên,
nâng cao trình độ tiêu dùng (cái ăn dư thừa chuyển hóa thành cái mặc!) và tạo
ra sự cân bằng mới cho xã hội. Khi lương thực thiếu hụt nghiêm trọng thì xã hội
sẽ trở nên tiêu điều và để tồn tại được trong điều kiện ngặt nghèo đó, trong
khi vẫn không giải quyết được vấn đề lương thực, nó cũng phải tiến tới cân bằng
bằng cách tiết chế tiêu dùng, giảm số lượng dân cư, nghĩa là làm xuất hiện sự
lan tỏa dân cư ra xung quanh, hạn chế sinh đẻ, và ở mức tột cùng là gây ra nạn
chết đói hàng loạt, là khởi nghĩa vũ trang, là cách mạng lật đổ tìm lối thoát…).
Đảm bảo lương
thực là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia và là nhiệm vụ chiến lược của mỗi nhà
nước.
Nhờ có công cuộc
đổi mới, nước Việt Nam
từ thiếu ăn đã vươn lên thành một trong những nước thuộc tốp đầu về số lượng gạo
xuất khẩu. Điều đó chứng tỏ tiềm năng sản xuất lúa gạo, cũng như nuôi trồng các
sản vật thiên nhiên khác như cây ăn trái, cá, tôm, gia súc… là rất to lớn. Nhưng
hãy đừng lạc quan tếu mà quên rằng trong lịch sử, đã từng xảy ra nhiều nạn đói
khủng khiếp trên mảnh đất này. Hãy coi chừng đến quá trình tăng dân số. Hãy xem
lại công cuộc công nghiệp hóa, đừng rập khuôn giáo điều và bắt chước mù quáng!
Hãy coi lại sự nghiệp dạy và học của đất nước cũng như việc giáo dục, định hướng
nhận thức về tình yêu thương, về quyền lợi và bổn phận, về ý nghĩa của cuộc sống,
về lẽ Tự Nhiên và Đức Huyền Diệu cho thanh thiếu niên - lực lượng kế thừa, chịu
trọng trách trước nhân dân, trước đất nước trong tương lai.
“Nhai” lại: mong
ước tự nhiên của mọi quốc gia là giàu mạnh (vì đó chính là ý nguyện của Đại chúng).
Nhưng không dễ gì tự nhiên mà đạt đến giàu mạnh và không thể gọi là giàu mạnh được
khi xã hội còn chưa đủ cái ăn. Để phát triển lên giàu mạnh và duy trì được lâu
dài sự thịnh vượng thì mỗi quốc gia, tùy vào hoàn cảnh và điều kiện lịch sử - địa
lý - xã hội (Thiên - Địa - Nhân) của mình, phải biết chọn con đường và phương cách
thực hiện phù hợp. Nhiệm vụ đó đương nhiên là được đặt lên vai nhà nước. Còn một
nhà nước có gánh vác được sứ mệnh đó hay không, có lo tròn bổn phận hay không
thì lại là chuyện khác. Nhưng theo chúng ta nghĩ, chỉ có thể hoàn thành xuất sắc
sứ mệnh đó nếu nhà nước (tập thể con người biểu hiện thành thực thể đó!) thực sự
là của dân; do dân và tận tụy vì dân. Một nhà nước kiểu như thế không phải là
hiếm trong lịch sử đất nước Việt Nam, mà triều đại Tây Sơn là tiêu biểu: từ nhân
dân mà ra, trở thành anh hùng áo vải là “của dân”; được đại chúng đồng tình ủng
hộ và tôn vinh là “do dân”; đánh đông dẹp bắc cho giang sơn thu về một mối, thi
hành những quyết sách kinh tế khuyến nông, kích công, mở rộng giao thương làm
phấn chấn xã hội là “vì dân”. Tiếc rằng sự phục hưng đất nước ấy mới chớm hé lộ
tương lai có thể là rất rực rỡ của nó thì bỗng vụt dang dở. Triều đại mới, một
triều đại ích kỷ, nhỏ nhen, thiển cận, khinh dân, đã đưa dân tộc vào đêm trường
lầm than, khốn khổ với vô kể những sinh linh chết oan, chết ức, làm thế nước yếu
đi, để cuối cùng phải quỳ gối đầu hàng một cách đớn hèn, bỏ dân, bán nước cho
thực dân Pháp (trả cái món nợ mà Nguyễn Ánh, tiền thân của nó, đã giao kèo một
cách mờ ám, vô liêm sỉ, và trơ trẽn với triều đình Pháp!)…
Mớ luận giải ở
trên không phải là do chúng ta nghĩ ra mà là của NTT. Đối với người đời nó có
thể là “nông choèn”, hời hợt và tệ hơn nữa là vớ vẩn. Nhưng chúng ta cho là rất
“hay ho” vì vẫn còn đặt niềm tin vào ông ta, nhà triết học có “số má”; thuộc hàng
“tai tiếng” của triết học duy tồn.
Bây giờ, với vốn
liếng từ mớ luận giải đó, chúng ta sẽ phải làm một bài thực hành để “kiểm tra sức
khỏe” trước “câu đố”: nếu là một nhà nước, của một đất nước sau giải phóng có tình
trạng giống hệt Việt Nam, anh (hay chị) sẽ xử sự như thế nào để đất nước đó có
cơ may tiến lên giàu mạnh mà không gây di hại nào cho hậu thế mai sau? (lưu ý là
phải trả lời thực lòng, có tâm huyết vì tự do ngôn luận đã được đảm bảo, đừng sợ!)
Khiếp! Giải được
câu đố vui này đâu phải dễ. Phải là luận án tiến sĩ. Lũ quèn như chúng ta đố mà
giải quyết được một cách suông sẻ và bài bản được. Nhưng không sao, đứng ở nơi đèo
heo hút gió, “trên đỉnh Trường Sơn ta hát” chắc chẳng ai thèm để ý mà vặn vẹo,
tra hỏi và chụp mũ một kẻ lưu lạc đáng thương. Do đó, dù chỉ là “phó thường dân”
thì chúng ta cũng cứ cố “ho he”, biết đâu chừng, nhờ “tai bay vạ gió”, không những
“chẳng bị gì” mà còn được “bêu” ra trước “chợ trời” để “đấu giá”. Và nếu được
như thơ “Bút Tre”, “phần phật” mãi giữa chợ đời (vì không ai “thèm” mua mà cũng
chẳng ai mua được; nó vô giá), thì thật phúc nào cho bằng! Dưới đây là vài câu
thơ Bút Tre “quê kệch” nhất mà chúng ta khoái:
- Của Bút Tre “thật”
(Đặng Văn Đăng, 1910-1987):
“Hoan hô đại tướng
Võ Nguyên…
Giáp ta thắng trận
Điện Biên trở về”
---
“Chú về công tác bảo
tàng
Cũng là công việc
cách màng giao cho”
(“màng”,
hiểu là “mạng”)
---
“Hoan hô các bạn
Quảng Bình
Từ trong tuyến lửa
thình lình ra đây”
---
“Chú làm công tác
giữ cầu
Quản chi bom đạn
trên đầu nó rơi
Bút Tre chẳng như
mọi người
Qua sông… nhớ mãi
nụ cười chú em”
(“Nhớ mãi…” chứ không phải “đấm
buôi vào sông”)
---
“Bác yêu các chị các
anh
Nối tình của Bác
anh Thanh lại về
…
Anh đi đồng ruộng
lắng nghe
Lúa mừng phân bắc,
khoai che mảnh vườn…”
---
“Con ruồi là giống
hiểm nguy
Bàn chân của nó rất
vi trùng nhiều”.
---
“Liên Xô thắng lợi
ào ào
Anh Ga-ga-rỉn bay
vào vũ tru!”
(Ga-ga-rin,
vũ trụ)
- Của Bút Tre “ảo”
(dân gian)
“Hoan hô anh Nguyễn
Chí Thanh
Anh về phân bắc phân
xanh đầy đồng”
---
“Anh đi công tác Pờ
Lây
Cu dài dằng dặc biết
ngày nào vê?
Anh còn ở lại Buôn
Mê
Thuột xong mọi cái
mới về cùng em!”
---
“Ăn xong tráng miệng
quả chuồi (chuối)
Ra về nhớ mãi cái
buồi liên hoan” (buổi)
---
“Thi đua ta quyết
tiến lên
Tiến lên! Ta quyết
tiến lên hàng đầu
Hàng đầu rồi tiến đi
đâu
Đi đâu không biết
hàng đầu cứ lên…”
---
“Ta đi bầu cử tự
do
Chọn người xứng đáng
mà cho vào hòm” (hòm bỏ phiếu)
---
“Hoan hô đồng chí
Hà Đăng
Ấn cho tàu chạy băng
băng như rùa”
(Hà Đăng Ấn: nguyên tổng cục
trưởng Tổng cục Đường sắt)
---
“Chị em du kích tài
thay
Bắn tàu bay Mỹ rơi
ngay cửa mình” (cửa nhà mình)
---
“Hoan hô đồng chí
Bút Tre
Thơ phú ngang phè
mà lại hóa hay
Phải chăng trường
phái thơ ngây
Làm cho ai cũng mê
say thích nghè” (nghe).
…
Nói thế chứ chúng
ta làm sao được bằng Bút Tre. Riêng về cái “tâm” thôi chúng ta đã thua xa lắc.
Trong khi Bút Tre chỉ cốt “vui vẻ” với dân với quê hương, chẳng màng gì hậu sự:
“Mai sau kẻ đoái
người hoài, mặc!
Hạnh phúc hôm nay
mát dạ người”
(Thơ
Bút Tre chính hiệu),
thì chúng ta lại
háo lưu danh, sợ bị lãng quên:
“Mai sau kẻ đoái
người hoài, ước!
Mặc chó hôm nay
thiên hạ cười”
(Nhại
thơ Bút Tre)
… …
***
Vui thế đủ rồi!
Chúng ta làm bài tập:
Giải giáp cơ cấu
chính quyền cũ cùng với công cụ bạo lực của nó, lập chính quyền mới, trấn áp những
kẻ ngoan cố chống đối, trên tinh thần triệt để, kiên quyết nhưng khoan dung, nhân
nghĩa. Đó là việc đương nhiên phải làm ngay, khỏi bàn. Đồng thời với việc đó là
nhanh chóng ổn định đời sống dân cư trên cả nước, nhất là những vùng từng là bãi
chiến trường, bị tàn phá nặng nề. Muốn thế phải chú ý lập tức đến kinh tế mà việc
đảm bảo cung ứng lương thực thực phẩm cho xã hội là trung tâm của sự chú ý ấy vì
nó đặc biệt cấp bách. Yêu cầu cấp bách về cung ứng lương thực thực phẩm nói riêng
và sản phẩm tiêu dùng nói chung bộc lộ ra ai cũng có thể thấy và dễ thấy, đòi hỏi
phải giải quyết khẩn trương không kém, nếu không, tùy mức độ trầm trọng của tình
trạng cụ thể đất nước mà đất nước đó có thể lâm vào nguy khốn hoặc thảm họa. Vậy
thì cần giải quyết như thế nào, theo phương sách nào cho thỏa đáng, đạt hiệu quả
tối ưu, vừa giải tỏa được tình trạnh hiện tại, vừa đặt được bước đi nền móng
cho xây dựng tương lai?
Đến đây, dứt khoát
buộc nhà nước phải lựa chọn một trong hai; hoặc là tiến hành cải tạo kinh tế miền
Nam theo mô hình kinh tế tập trung, có kế hoạch của miền Bắc XHCN (mà thực ra
chỉ là nhãn mác chứ chưa mang nội dung đích thực; tính kế hoạch không mang hơi
thở sinh động của cuộc sống mà đầy ý chí “sáng lòa”; chưa được kiểm chứng trong
hoạt động thời bình), thành một khối thống nhất, từng bước vững chắc “tiến lên
hàng đầu”; hoặc là cứ tạm để cho nền kinh tế từng miền tiếp tục hoạt động theo
phương thức riêng mà chúng vốn dĩ đã từng, để giải quyết cái trước mắt, sát sườn,
để không làm đổ vỡ cơ sở vật chất của nền kinh tế có sẵn ở miền Nam, cũng như tạo
thời gian kiểm chứng lại cơ sở lý luận của nền kinh tế miền Bắc?
Thực tiễn đã chọn
phương án 1 và làm xuất hiện “đêm trước đổi mới”, do đó, chúng ta chọn phương án
2 - chấp nhận ngay từ đầu đa thành phần sở hữu, thị trường tự do và để cho người
nông dân có quyền được suy nghĩ, lựa chọn kiểu làm ăn trên thửa ruộng của họ
(không cần phải “đợi” đến thời đổi mới rồi cũng “buộc”phải chấp nhận!).
Lựa chọn phương
án 2 có nghĩa không những là chấp nhận hiện trạng của nền kinh tế miền Nam mà còn
bao dung, khuyến khích và hỗ trợ cho cái hiện trạng ấy hoạt động hết công suất.
Sự làm giàu chính đáng phải được tôn vinh! Sự ỷ lại, làm công, vô trách nhiệm vì
nạn “cha chung…” làm mất động lực trong hăng say lao động, trong hứng thú sáng
tạo phải bị dẹp bỏ. Một thời “vì nước quên thân”, thắt lưng buộc bụng vì sự
nghiệp cách mạng, “mỗi người làm việc bằng hai” để cống hiến thặng dư xây dựng
CNXH, đã qua rồi. Trong thời khoảng cao trào, những cử chỉ, hành động bất khuất,
đầy hy sinh ấy xuất hiện hàng loạt và được đời sau kính phục, biết ơn. Nhưng dù
sao thì đó cũng chỉ là những biểu hiện của não trạng được kích thích đến phấn
khích cao độ chứ không phải của não trạng con người bình thường vì trái với tâm,
sinh lý thông thường, đã được tiến hóa thích nghi hun đúc hàng triệu năm. Thường
tình, ai mà không muốn ấm no, hạnh phúc, giàu sang phú quý. Vậy thì trong thời
bình việc hô hào dân chúng tự giác “mình vì mọi người” trước rồi sẽ được hưởng
“mọi người vì mình” là tréo ngoe, phi lý. Tạo sao không khuyên làm cách đơn giản,
trực tiếp đỡ “vòng vèo” hơn như: “Phần đất của anh đấy, phân, giống, nông cụ đều
có bán ở chợ đấy, hãy tự nuôi sống mình và tìm cách mà sung túc giàu có để đóng
góp nghĩa vụ càng nhiều càng tốt cho nhà nước, làm từ thiện cho xã hội cùng là đồng
bào ruột thịt với nhau cả!...”?
Thực hiện phương
án 2, chúng ta sẽ nhanh chóng giải quyết được những khó khăn chồng chất lên một
đất nước vốn dĩ đã nghèo đói bởi sự bóc lột của thực dân; lại mới thoát ra khỏi
cuộc chiến tranh có tính hủy diệt hàng nhất nhì trong thế kỷ XX. Cụ thể là:
- Nhờ có sẵn 3
vựa lúa lớn là đồng bằng Cửu Long, đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Tuy Hòa, và nhờ
sự hứng khởi của lực lượng nông dân vì được tự do làm ăn trong một đất nước độc
lập, hòa bình mà nạn thiếu lương thực thực phẩm sẽ không xảy ra hoặc nếu có xảy
ra thì cũng rất nhanh chóng được khắc phục.
- Nhờ tiếp quản
được hầu như nguyên vẹn nền công thương nghiệp miền Nam và có sẵn cơ sở công
nghiệp miền Bắc, với lực lượng lao động dồi dào có được sau Giải Phóng (phần lớn
lực lượng tham gia phục vụ chiến tranh của cả hai phía trở về đời thường),
trong không khí hòa giải bao dung đối với các nhà tư sản vì sự phục hưng đất nước,
chắc chắn hàng tiêu dùng thiết yếu như xà phòng, vải vóc… sẽ đáp ứng được cho xã
hội lúc đó chứ không khan hiếm kỳ lạ như “Đêm trước…”. Và chắc chắn sẽ không xuất
hiện khái niệm “hàng chậm luân chuyển” như đã xuất hiện; không xuất hiện hàng hóa
tịch thu của tư sản chất như núi ở tổng kho Cô Bắc, lợi ích không biết được bao
nhiêu nhưng lộ phí của nhiều kẻ vượt biên đã có được từ đó và chính chúng ta thấy
có ít nhất hai “đại gia” sau này phất lên là nhờ “tích lũy tư bản” từ những ngày
làm việc ở đó.
- Khi chấp nhận
thị trường tự do, sự thông suốt của lưu chuyển hàng hóa không những không làm
xuất hiện sự khan hiếm giả tạo, cục bộ ở các địa phương mà còn kích thích sản
xuất trong khắp cả nước. Mặt khác nó sẽ không làm xuất hiện một đội ngũ kiểm soát,
quản lý thị trường quá cồng kềnh, vì thiếu hiểu biết nên chẳng có tình lẫn lý,
vừa tốn không ít cơm gạo để nuôi, vừa trở thành một công cụ gây mất lòng dân nhất,
chẳng ích gì mà ngày càng “đổ đốn” di hại đến mãi về sau.
- Có thể rằng
quá trình thực hiện phương án 2 sẽ tạo nên diện mạo đất nước là: đời sống nông
thôn sẽ nhanh chóng sung túc, người nông dân có của ăn của để, ngày một giàu có
nhờ xuất khẩu lúa gạo. Từ đó họ có thể mua sắm thêm công cụ, máy móc, trang thiết
bị phục vụ sản xuất nông nghiệp (ở đây, chúng ta mở rộng khái niệm “nông nghiệp”
là bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp…) để tăng năng suất hơn nữa. Nhờ thế, mức sống
người dân ở khu vực nông nghiệp, nhìn chung có khả năng sẽ cao hơn người dân ở
những khu vực công nghiệp, ở các vùng thành thị. Nhu cầu mua sắm để phát triển
nông nghiệp sẽ góp phần quan trọng kích thích công nghiệp phát triển, chuyển hóa
một bộ phận của nó sang phục vụ một cách trước mắt cũng như về lâu về dài cho sản
xuất nông nghiệp. Chính điều này sẽ làm xuất hiện ý tưởng để vạch đường hướng
cho bước tiếp theo trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Đường hướng đó là: xây dựng
và phát triển đất nước toàn diện mà trung tâm là xây dựng và phát triển nền nông
nghiệp; công nghiệp hóa phải là ưu tiên công nghiệp hóa nông nghiệp, phát triển
nhưng không được xâm phạm cũng như phải có nghĩa vụ bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
hiện đang khai thác hoặc ở dạng tiềm năng như sông ngòi, đất đai, khí hậu… của
sản xuất nông nghiệp.
Một đất nước,
do hoàn cảnh địa lý, không có tiềm năng về sản xuất lương thực thực phẩm thì muốn
kiếm miếng ăn, họ buộc phải dùng tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
phi lương thực để trao đổi, mua bán và việc ưu tiên công nghiệp hóa, tạo dựng một
nền đại công nghiệp có thể là hướng đi đúng đắn của nước đó. Nhưng một nước có điều
kiện địa lý - khí hậu ưu đãi, có tiềm năng đất trồng trọt dồi dào và to lớn để
phát triển nông nghiệp, trực tiếp làm ra lương thực thực phẩm và có thể giàu có
lên từ lĩnh vực sản xuất ấy lại lấy công nghiệp hóa làm trung tâm của sự phát
triển thì thật là… buồn cười. Trong thời đại ngày nay một vùng nông thôn giàu có
có thể mua mọi thứ hàng công nghiệp, kể cả tàu du hành vũ trụ mà không cần phải
xây bất cứ khu công nghiệp nào ở đó. Khủng hoảng của nền kinh tế là do sự hỗn loạn
trong hoạt động công nghiệp gây ra và nó gây tác hại trước tiên và nặng nhất vào
lực lượng lao động ở khu vực ấy. Do đó phải thận trọng, phải xác định được mức độ
cũng như những mục đích ưu tiên, hợp lý trong tiến trình công nghiệp hóa.
Chế độ phong kiến
ở châu Âu, với một tầng lớp thống trị vô cùng xa hoa, phè phỡn, phản dân, và một
quần chúng nông dân bị bóc lột thậm tệ đến đói khổ cùng cực đã làm sự tương phản
giàu - nghèo trở nên sâu sắc. Mối quan hệ giàu - nghèo trở nên gay gắt cao độ đã
là một trong những động lực cho khoa học - kỹ thuật phát triển vượt bậc và cùng
với khoa học - kỹ thuật đã tạo tiền đề ra đời cuộc cách mạng công nghiệp - công
nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa. Có thể nói công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa là một
tất yếu lịch sử, là lẽ đương nhiên, là hợp lý ở thời đoạn ấy, và chỉ có thế. Ở
thời đoạn khác và đối với một đất nước cụ thể, nhất là trong thời đại nền kinh
tế có tính toàn cầu như ngày nay đồng thời với đà phát triển hàng ngày, hàng giờ
của khoa học - công nghệ như ngày nay, không hẳn cứ phải lấy công nghiệp hóa làm
nhiệm vụ hàng đầu cho sự phát triển mới là đúng đắn, không những chưa chắc đúng
mà còn tai hại vì sự cạnh tranh ở thị trường tự do sẽ mở rộng và làm tăng nhu cầu
tiêu dùng lên thái quá, gây lãng phí rất lớn và nếu không khéo, còn tác động tiêu
cực đến sản xuất nông nghiệp, ngành vốn không những dứt khoát phải duy trì mà còn
phải luôn phát triển để đáp ứng nạn nhân mãn trong hoạt động sống của loài người
một khi đất đai vẫn còn là điều kiện tiên quyết để làm ra lương thực thực phẩm đối
với con người.
Nhà nước vì dân
không thể có bất cứ quyền lợi nào vì nó chỉ là một công cụ, một bộ máy của toàn
dân, phục vụ quyền lợi của toàn xã hội. Vì nó chẳng có lợi ích nào nên khi nói đến
lợi ích của nhà nước thì cần hiểu là lợi ích của đại đa số nhân dân trong xã hội
mà ta thường gọi là Đại chúng. Để cho bộ máy đó hoạt động hiệu quả đúng với khẩu
hiệu “Vì nhân dân phục vụ” thì trước hết phải biết cách chắt lọc được những nhân
vật ưu tú nhất trong xã hội làm nên bộ máy đó, sao cho nó tinh gọn, không cồng
kềnh, ỳ ạch mà vẫn đảm đương xuất sắc nhiệm vụ khó khăn do Đại chúng giao phó
(Quân cốt tinh nhuệ, không cốt đông, binh pháp mọi thời đã dạy thế!). Tiếp
theo, để bộ máy đó hoạt động trơn tru, nhiệt tình và trong sáng, Đại chúng phải
biết, phải có nghĩa vụ chăm lo, bảo dưỡng thường xuyên và kiên quyết, kịp thời
thay thế những “chi tiết” đã “hư hỏng” trong đó (đừng có tiếc mà làm tê liệt cả
bộ máy!). Nghĩa là phải tìm ra một cách thức thích hợp để trả công xứng đáng
cho những người làm công trong bộ máy nhà nước vì dân, giúp họ có thu nhập mà ở
địa vị nào đó và với trình độ năng lực nhất định, không thể mơ ước hơn được, để
họ toàn tâm toàn ý thực thi nhiệm vụ, ứng xử có văn hóa trước dân tình…
Xây dựng kinh tế
đất nước lấy phát triển, hiện đại hóa nông nghiệp làm trung tâm, tích cực công
nghiệp hóa theo hướng hỗ trợ, phục vụ nông nghiệp, chế biến các sản phẩm thuộc
nông lâm thủy sản và có nguồn gốc nguyên liệu từ nông nghiệp, tăng cường lượng
hàng xuất khẩu để nhập khẩu vật tư hàng hóa thiết yếu, còn thiếu trong đời sống
kinh tế muôn mặt của xã hội, sẽ tạo ra đủ công ăn việc làm cho lực lượng lao động
trong nước cũng như phân bố hợp lý và đồng đều lực lượng ấy, giảm áp lực dân cư
lên những trung tâm đô thị, đồng thời cũng làm cho hai lực lượng công, nông gắn
kết tự nhiên với nhau thành một khối công - nông thống nhất, bền vững…
Quần
chúng đi
theo cách mạng chống xâm lăng cứu nước là vì yêu nước. Tinh thần yêu
nước và quật
khởi chống xâm lăng đã trở thành truyền thống quí báu của cả dân tộc ấy
là nhờ
sự hun đúc từ những bài học, kinh nghiệm có được từ lịch sử, từ thực
tiễn này:
bất cứ kẻ xâm lược nào cũng tàn bạo; đè đầu cưỡi cổ dân tộc, vơ vét,
cướp bóc đến
tận xương tủy người dân, đến kiệt cùng tài nguyên thiên nhiên đất nước,
và chà đạp
thô bạo lên mồ mả tổ tiên, lên quyền được sống của con người; vì vậy mà
phải đứng
lên kiên quyết đánh đuổi chúng đi để giành quyền sống. Xét cho cùng,
truyền thống
đó có căn nguyên từ nguyên lý phổ biến: ở đâu có áp bức, ở đó có đấu
tranh.
(Nguyên lý này, đến lượt nó, có cội nguồn sâu xa từ nguyên lý tác động -
phản ứng!).
Do đó, có thể nói nôm na rằng ước nguyện thiết tha của Đại Chúng khi đi
theo cách
mạng là mong sao có được độc lập, tự do để yên ổn làm ăn, mưu cầu ấm no,
hạnh
phúc. Nghĩ sao đây khi đất nước hoàn toàn độc lập rồi nhưng dân chúng
vẫn chưa
có tự do làm ăn? Chỉ có thể hiểu cuộc cách mạng đó hoặc là mị dân, hoặc
là phản
bội, nếu không thì có nghĩa là quan niệm chưa đúng về tự do nên đã phạm
sai lầm
trong hành động thực tiễn…Cũng qua công cuộc xây dựng này, chúng ta sẽ
điều chỉnh lại toàn bộ nhận thức về CNXH, nhằm giải phóng tư tưởng, vượt
thoát những suy nghĩ cực đoan, giữ lại những mầm mống tốt đẹp đã xây
dựng được từ trước trong giáo dục, y tế...
Vậy thì chọn phương
án 2 là tối ưu? Chúng ta không dám nói nhưng hy vọng rằng nếu có nó sẽ không có
Đổi Mới (vì không cần thiết nữa!).
Bài luận văn của
chúng ta đã xong. Không biết nếu có NTT ở đây, ông ta sẽ chấm nó mấy điểm? “Một
điểm chứ mấy! Rặt những hoang tưởng thiếu hiểu biết và không có lập trường kiên
định!”. Đâu đó trong cái bao la mây trời lộng gió, văng vẳng tiếng chê bai phũ
phàng làm chúng ta giật mình. Chắc là của NTT, vì chỉ có ông ta mới biết tỏng cái
sở học chưa hơn cọng cỏ của chúng ta thôi…
Nhưng không
sao! Sự chê bai ấy có thể lại là một phản biện tốt cho những suy nghĩ, nói năng
văng mạnh của chúng ta. Hơn nữa, chúng ta thực lòng là chẳng có mảy may một “mưu
đồ” chính trị nào mà chỉ luôn cố gắng mò mẫm những viên ngọc rơi vãi đâu đó
trong lịch sử, một “cái gì đó” có bản chất triết học ở các sự vật - hiện tượng để
thỏa nỗi đam mê nhận thức được căn nguyên của mọi căn nguyên. Và chỉ có thế thôi,
bản chất của cuộc hành trình này là thế cũng như cuộc đời chúng ta đã an bài như
thế, chứ chẳng hại ai mà cũng chẳng giúp ai. Chúng ta đi chiêm nghiệm thế giới và tiện thể có cả tham vọng cải tạo thế giới!
Thực tại luôn đi
trên con đường của nó và không bao giờ biết đến chữ “nếu”. Bằng con mắt hồi ức
nhìn từ tầm cao xuống mọi miền đất nước, chúng ta không thể không thấy nó đã trù
phú và tươi đẹp lên rất nhiều so với vài ba chục năm trước đây. Đó là một thời
gian không dài nhưng không thể gọi là ngắn nếu so với một đời người. Tuy nhiên
bên trong cái tươi xanh đang mơn mởn, chưa đến độ mãn khai ấy, đã thấy thấp thoáng
những dấu hiệu chỉ thị về héo tàn. Một cuộc khủng hoảng toàn diện về giá cả
trong phát lộ: dự án một nhà máy luyện cán thép đang chuẩn bị được phê duyệt trên
một vùng ven biển mà cảnh trí ở đó là tuyệt vời cho du lịch sinh thái; thành phố
Hồ Chí Minh đã mở rộng cái cơ thể bê tông hóa của nó một cách “phí phạm” nhưng
hình như nhu cầu về nhà ở vẫn thiếu; đất trồng trọt chuyển hóa thành hàng loạt
những sân gôn rộng “tầm cỡ” chẳng hạn như ở Long An; hàng loạt khu công nghiệp đã
và đang mọc lên từ những đồng ruộng, chẳng hạn như đồng bằng Tuy Hòa - được mệnh
danh là vựa lúa miền Trung, đang bị lấn dần bởi xây dựng công nghiệp và xây nhà
Ủy ban, nhà dân; đất đai trồng trọt không biết tại sao còn bỏ hoang khá nhiều
(chắc là đã nằm trong qui hoạch hoặc đang chờ đền bù, giải tỏa, hoặc cũng có thể
là do thiếu vắng người lao động…); Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn vật đang bước vào
“cơ hội” phình nở lạm phát… Nói chung là đất đai nông nghiệp đang bị lấn dần và
cứ cái đà đó, sự nghiệp “bê tông hóa” đất nông nghiệp sẽ “thành công mỹ mãn”.
Ngắm nhìn cái cảnh
sắc đã giàu đẹp hơn nhưng cũng có vài phá nét lạ lẫm, có được nhờ Đổi Mới ấy,
chúng ta thực sự mừng vui cho đất nước. Tuy nhiên, trong sâu thẳm linh cảm, hình
như vẫn vương vấn nỗi niềm gì đó có vẻ như là ái ngại khi nghĩ đến tương lai. Bài
học về xây dựng kinh tế - xã hội đất nước thời triều đình nhà Nguyễn còn “trừng
trừng” hăm dọa đến tận hôm nay.
Cũng không phải
là không chú tâm đến vấn đề đất đai và sản xuất nông nghiệp, cũng như công thương
nghiệp; cũng không phải không biết đến cái điều mà xa xưa ông bà ta đã dạy:
“Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”, nhưng
do cái bản chất ích kỷ, thiển cận mà triều đình nhà Nguyễn, cha truyền con nối,
chỉ biết đặt quyền lợi riêng tư của mình lên trên quyền lợi đất nước, chưa thấy
được mối quan hệ biện chứng giữa hai quyền lợi ấy, coi rẻ quần chúng, xa rời họ
và đối xử với họ o ép, hà khắc thiên về bạo lực, bởi vì với cái bản chất ấy thì
làm sao thấy được cái gốc rễ của sức mạnh vô địch lại tiềm ẩn ở ngay trong cái đám
Đại chúng cần lao chứ không phải ở trong nhúm quan lại cận thần, chịu ơn “mưa móc”
của nó và là công cụ tay sai của nó. Cái triều đại ấy, tất nhiên là cũng như mọi
triều đại khác, đã ao ước làm sao cho nước mạnh, do đó cũng suy nghĩ tìm đủ phương
cách, và trong thực tiễn cũng đã thực hiện được vài phương sách hợp lý như khẩn
hoang, chiêu tập dân phiêu tán trở về, khai đào thêm sông ngòi, sửa đắp thêm đường
bộ… nhưng thế nước không những không mạnh lên mà trái lại ngày một suy yếu đi, để
rồi sau này bạc nhược đến độ chống cự không nổi một đội quân xâm lược của thực
dân Pháp gồm có mười mấy chiến thuyền với hơn 3000 lính (và nếu không có sự “ứng
nghĩa” của lực lượng gồm những đội quân hình thành từ “dân ấp dân lân, mến nghĩa
làm quân chiêu mộ” thì đã phải “dâng nước” qui hàng giặc ngay từ thời kỳ đầu tiên
đó), để rồi đất nước và dân tộc Việt Nam phải gánh chịu “một trăm năm đô hộ giặc
Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ là rừng xương khô, gia tài
của mẹ là núi đầy mồ…” (một khúc hát của Trịnh Công Sơn). Vì sao vậy? Vì Triều đình
nhà Nguyễn đã không tiếp thu được cái tư tưởng sáng ngời của Vua Quang Trung,
do đó mà cũng không phát huy được những thành quả bước đầu mà vua Quang Trung đã
đạt được. Cái chân lý mà vua Quang Trung thấu hiểu được thì triều đình nhà Nguyễn,
vì đem lòng đố kỵ đã không bao giờ hiểu được, đó là muốn nước mạnh thì phải làm
cho dân giàu, muốn dân giàu thì phải vì dân, muốn vì dân thì tai phải nghe bằng
tai dân, mắt phải nhìn bằng mắt dân và cuối cùng, muốn thế, chỉ có một con đường
một là lấy dân làm gốc - cái gốc của nhận thức đúng đắn thời cuộc.
Đã có lần chúng
ta đề cập đến sự khốn cùng của nhân dân dưới triều đại nhà Nguyễn. Ở đây, chúng
ta không nhắc lại nguyên văn nữa nhưng sẽ nói thêm một chút để thấy được toàn cảnh
giai đoạn lịch sử đó (và chủ yếu là theo cái nhìn khách quan của những nhà quan
sát phương Tây đương thời).
Giả nhân giả
nghĩa là cái bệnh thường thấy của bề trên nói chung và của vua quan mọi thời nói
riêng. Thật là đáng kính khi Gia Long xuống dụ: “… nghiêm cấm lai dịch và kẻ giữ
kho không được kiếm cớ làm khó dễ yêu sách dân, nếu để tai hại cho dân thì giết
không tha”. Người nhẹ dạ sẽ chảy nước mắt khi nghe Minh Mạng nói: “Trẫm từ khi
lên ngôi, không ngày nào không lo cho dân cư đông đúc, được mùa”. Năm 1850, không
thể làm ngơ trước oán giận của dân chúng, Tự Đức đã sai mấy quan đại thần về các
địa phương để “hưng lợi trì trệ, trừng thanh quan lại, vỗ yên nhân dân”; đã từng
than thở: “Quan vui thì dân khổ, ích trên thì hại dưới, thực do bọn quan lại đưa
đẩy văn thư, khinh thường pháp luật, mượn việc yêu sách quá đáng, hoặc nhân khi
xét việc xử án, dụng tâm tha buộc tội mà đòi tiền hối lộ, hoặc nhân bắt lính thu
lương, mượn ý đốc sức mà chấm mút chia nhau ăn…, hoặc bắt đóng góp nặng nề để
tiêu dùng riêng. Xưa nay những tệ hại ấy không chỉ có thế mà thôi. Ta rất lấy làm
quái gở, đau xót”. Ấy thế mà đừng vội tin đó là những ông vua hiền. Có thể là họ
cũng yêu thương dân, nhưng theo cách của họ, kiểu như “yêu cho roi cho vọt, ghét
cho ngọt cho ngào”. Còn yêu thương đến mức độ nào thì chúng ta biết tỏng tong mẹ
nói rồi! “Thương cái xương không còn” thì là thương đến cỡ nào?!
Dễ dàng mường tượng
ra được thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước dưới triều Nguyễn qua ghi chép
của các ký giả phương Tây có mặt tại Việt Nam hồi đó! Ngay từ năm 1807, Se-nhô
(Chaigneau) đã viết: “Dân chúng vô cùng đói khổ, vua quan bóc lột thậm tệ, công
lý là một món hàng mua bán, kẻ giàu có thể công khai sát hại người nghèo và tin
chắc rằng với thế lực đồng tiền, lẽ phải sẽ về tay họ”. Trong “Một chuyến đi Đàng
Trong”, Giôn Oai-tơ nhận xét: “Việc buôn bán ven biển ở xứ này có vẻ hoạt động,
nhưng đó chỉ là giả tạo, vì hàng hóa chở trên các tàu thuyền bản địa không có
bao nhiêu. Các thuyền đó không bao giờ có đủ hàng hóa để trao đổi, vì nhà vua bắt
buộc mỗi thuyền phải chở cho triều đình một số hàng… thường là gạo và các lương
thực khác cho quân lính, gỗ và các vật liệu xây dựng, quân nhu cho các đạo
binh…”; “Nền thương mại của xứ Đàng Trong bây giờ chẳng có gì, so với các phương
tiện và hoạt động của nó trước kia”; “Tất cả số đường sản xuất năm 1819 (không
kể số tiêu thụ trong nước) từ khu vực Đồng Nai đến thành phố Nha Trang chỉ được
hơn 2000 piculs (1 picul tương đương với 62,6 kg). Việc buôn bán với Ma Cao hoàn
toàn cắt đứt. Thời gian chúng tôi đến Sài Gòn có hai tàu Pháp đến Tourane (Đà Nẵng) và Huế. Bỏ neo 5 tháng trời, tàu chỉ
mua được nửa số đường và một ít tơ sống, đó cũng là sản phẩm chủ yếu hàng năm của
các tỉnh phía Nam”.
Nói về thương cảng Hội An, ông viết: “Trên đường tới Tourane,
chúng tôi qua cảng và thành phố Faifo (Hội An), nơi trước đây là thị trường của
các tỉnh phía Bắc… Nơi đây đã được người Bồ Đào Nhao ở Ma Cao và người Nhật Bản
tìm đến. Họ đã từng tiến hành những hoạt động thương mại rất nhộn nhịp ở cảng.
Bây giờ thành phố này đã trở nên nghèo nàn, hoang phế, rất ít khi hoặc chẳng
bao giờ được tàu bè ghé thăm, ngoài những thuyền địa phương và vài thuyền nhỏ từ
Đàng Ngoài vào”. Ông nhận xét Đà Nẵng: “là một trong những vịnh đẹp nhất thế giới.
Thuyền bè đậu trong cù lao Hàn hoặc bán đảo Sơn Trà được che chở tốt trước mọi
bão tố. Trước đây, Sơn Trà là một thành phố đông đúc, bây giờ chỉ là một thành
phố tồi tàn, bẩn thỉu”. Thật là chua chát và xấu hổ khi Giôn Oai-tơ cho rằng:
“Tính cách tham tàn, thất tín, chuyên chế và ngăn trở thương mại của nhà cầm
quyền đã biến xứ Đàng Trong thành một nơi ít được người ta ưa thích. Những lý
do trên khiến người Nhật từ bỏ mua bán, người Bồ ở Ma Cao cũng không đến đây nữa
mà chuyển việc buôn bán của họ sang những hướng khác… Những ai vị tha, mạnh dạn
và cả thế giới văn minh nói chung chỉ có thể nhìn thấy trong tình trạng khốn khổ
hiện thời của xứ sở có thiên nhiên tươi đẹp này không gì khác hơn là một mối ân
hận và thương hại sâu sắc”, và: “Ta có thể kể một bản danh mục vô tận về các chức
quan cấp dưới mà bất cứ ai muốn thương lượng một công việc buôn bán nào ở xứ này
đều phải đút lót cho họ”.
Thủ cựu, ích kỷ,
thiển cận, tàn nhẫn và đê hèn đều là những biểu hiện nổi trội của chế độ quân
chủ chuyên chế cực đoan triều Nguyễn. Nó xuất hiện là nhờ ơn ngoại bang để rồi
sau này phải bán thân trả nợ cái ơn ấy cho ngoại bang. Nó tồn tại nhờ vào sự
sui rủi của đất nước và trong nỗi oán giận của dân tộc. Những thành quách, đền đài,
lăng tẩm đồ sộ, nguy nga, tráng lệ mà hầu hết đều phi nghĩa, đều lấy xương máu
của nhân dân đang đói khổ đắp thành, giờ đây còn lại gì ngoài những phế tích?
Biết bao nhiêu con người được trời đất sinh ra, chưa được sống lấy một ngày an
vui mà họ có quyền được hưởng, đã bị tan xương nát thịt, chết bụi chết bờ, chết
bơ vơ xa xứ bởi cái triều đình ấy, đến giờ linh hồn họ đã khuây khỏa được khối
căm hờn?
Xây dựng đất nước
cao đẹp hơn, đàng hoàng hơn là xu thế tự nhiên là ước vọng đương thời, song phải
thận trọng đắn đo mà lựa chọn cân nhắc cho có chừng có mực, có nghĩa có nhân, bởi
xét đến cùng thì mục đích của sự nghiệp ấy không ngoài chữ “vì dân”, mà vì dân
không những là vì cuộc sống hôm nay mà còn vì cuộc sống của mai sau hậu thế, vì
sự trường tồn của đất nước, dân tộc.
Vừa rồi có người
đặt câu hỏi: nước Việt Nam
là lớn hay không lớn? Đã có một diễn đàn trên mặt báo bàn luận về câu hỏi đó và
vì ít theo dõi nên chúng ta không biết câu chuyện đã ngã ngũ chưa và dư luận
nghiêng về phía nào. Tuy nhiên, theo ý kiến riêng của chúng ta thì: nước Việt Nam lớn so với nước nhỏ và nhỏ so với nước lớn;
ngoài so sánh thì nó không lớn mà cũng chẳng nhỏ, hay có thể nói rằng: Việt Nam là
một nước lớn mà cũng nhỏ, là vừa lớn vừa nhỏ mà cũng chẳng phải cả hai. Có lẽ đúng
nhất là đừng nêu câu hỏi ấy ra cho nhọc lòng, tự ti và tự kiêu đều có hại cho tâm
hồn như nhau. Nước ta nếu đã lỡ nhỏ rồi thì có bê tông hóa đến mấy cũng không lớn
thêm ra được, nếu đã lỡ lớn rồi thì dù có bị bó lưng buộc bụng, ngăn sông cấm
chợ đến mấy, nó cũng không nhỏ lại được. Hình hài dáng vóc ngày hôm nay của nó
là do quá trình chuyển hóa tự nhiên trong lịch sử mà có. Và hãy đừng để sự tạo
dựng của con người hôm nay trở thành nguyên nhân của quá trình chuyển hóa tự
nhiên tiếp theo dẫn đến thoái hóa, sứt mẻ, thậm chí là làm mất nó đi.
Thay cho câu hỏi
đó, chúng ta đặt câu hỏi khác: Đất đai trồng trọt của Việt Nam còn nhiều hay ít,
có cách nào mở rộng được nữa hay không, và còn đủ dùng đến ngày công nghệ tiên
tiến đủ sức làm ra lương thực thực phẩm mà không cần nhờ tới đất đai?
Nghe tin Hà Nội
mở rộng mà lòng thấy… dửng dưng. Đọc tin báo Thanh Niên: “Hằng trăm hécta đất đã
được lãnh đạo tỉnh Hòa Bình vội vã cấp cho doanh nghiệp khi còn chưa đầy một tháng
nữa sẽ đến thời điểm chính thức sát nhập 4 xã Tiến Xuân, Đông Xuân, Yên Bình, Yên
Trung của huyện Lương Sơn về Hà Nội”, mà lòng thấy… ghê ghê.
Nhớ hồi nhỏ, mỗi
lần soi gương, chúng ta có thích đầu mình to ra một chút cho nó oai hùng. Sau,
nghe ông bà dạy “To đầu thì dại”, chúng ta không còn cái ước muốn ngộ nghĩnh và
viễn vông ấy nữa. Mà đúng là thế, một cơ thể tầm thường phải vác và nuôi một cái
đầu vĩ đại, rõ ràng là chẳng khôn tí nào!
Nhưng thôi,
chuyện con người không thể đem so với chuyện quốc gia đại sự vì với cách suy
nghĩ rặt những huyễn hoặc lơ mơ, làm sao mà thấy được thị phi đích thực ở cõi
thiên đình. Ái ngại, buồn nản mà làm gì, được gì? Có thể cảm hoài nhưng hãy cứ
tin yêu vì cái tâm của nhà nước này không phải là cái tâm của triều đại nhà
Nguyễn gần 200 năm trước. Bài phát biểu của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh trong hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, ngày 17-7-2008, đã là một
cơ sở cho niềm tin tưởng ấy.
Trong bài phát
biểu đó, khi nói về vấn đề ổn định an sinh xã hội, Nông Đức Mạnh nhận xét: từ đầu
năm nay, tình hình kinh tế - xã hội tuy tiếp tục đạt được những kết quả nhất định
nhưng đã có những yếu tố khó khăn vượt quá dự báo kế hoạch. Để duy trì ổn định
và phát triển đất nước, chúng ta phải tiếp tục thực hiện nghiêm túc kết luận 22
của Bộ Chính Trị và các nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ về kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững. Theo ông Mạnh, trong 6 tháng cuối
năm, chúng ta phải tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhưng linh hoạt
trong điều hành và chính sách tài khóa theo hướng tiết kiệm chi tiêu thường xuyên;
hoãn, dãn đầu tư những công trình chưa thật cấp bách; đẩy mạnh xuất khẩu, hạn
chế nhập siêu; chỉ đạo thực hiện tiết kiệm một cách kiên quyết cả trong sản xuất
và tiêu dùng; tiếp tục thu hút và đẩy mạnh việc giải ngân các nguồn vốn FDI,
ODA… Thực hiện tốt các chính sách ổn định an sinh xã hội; giải quyết hiệu quả một
số vấn đề xã hội bức xúc; tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đấu
tranh phòng chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí…
Về vấn đề xây dựng
đội ngũ trí thức, Nông Đức Mạnh nói: “Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà
nước giữ vai trò quyết định, đồng thời cũng là vinh dự, bổn phận của chính trí
thức. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo, tạo điều kiện và môi trường cho hoạt động nghề nghiệp của
trí thức, trọng dụng đúng trí thức, có chính sách đặc biệt đối với nhân tài… Để
xây dựng đội ngũ trí thức theo yêu cầu mới, chúng ta phải làm nhiều việc, trong
đó cần phải tập trung hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của trí thức, có chế độ, chính sách bảo đảm lợi ích vật chất tương xứng với giá
trị sức lao động để trí thức được hưởng đầy đủ quyền lợi vật chất, tinh thần từ
kết quả sáng tạo của mình, tăng cường thực thi quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác
giả đối với sản phẩm sáng tạo; thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn
vinh trí thức…”
Về công tác
thanh niên, Nông Đức Mạnh nói: “… Kế thừa tinh hoa truyền thống của dân tộc, của
các thế hệ thanh niên đi trước và thành quả của sự nghiệp đổi mới, hội nhập và
giao lưu quốc tế, thế hệ thanh niên hiện nay có mặt mạnh rất cơ bản, thể chất,
phẩm chất, năng lực, trí tuệ không ngừng được nâng cao, có ý chí vươn lên, tự
khẳng định mình, lập thân lập nghiệp, làm giàu chính đáng, có khát vọng được đóng
góp tích cực cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Trên thực tế,
thanh niên ta đã có những đóng góp xứng đáng. Có thể nói, đất nước ta được ổn định,
kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn
xã hội được giữ vững, một phần quan trọng là do nhận thức, thái độ chính trị đúng
đắn và hành động tích cực của thanh niên. Trong khi khẳng định mặt mạnh cơ bản
của thanh niên, chúng ta không thể xem nhẹ những mặt yếu kém, khuyết điểm, thậm
chí sai lầm trong một bộ phận, một số cá thể thanh niên, bởi chính đó có khi là
nguyên nhân trực tiếp gây ra những tiêu cực, những tổn thất không nhỏ cho gia đình,
cộng đồng và xã hội. Đánh giá thanh niên phải thực sự khách quan, khoa học, biện
chứng trong mối quan hệ của môi trường sống, ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện của
thanh niên và trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội, nhất là Đoàn Thanh
niên Cộng Sản Thành phố Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh tình hình đất nước và quốc
tế hiện nay, thanh niên nước ta đang đứng trước những cơ hội, thuận lợi lớn, nhưng
cũng phải đương đầu với những khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch và kẻ
xấu đang tìm mọi cách lôi kéo, tha hóa thanh niên. Trách nhiệm của chúng ta là
phải định hướng giáo dục, tạo điều kiện cho Thanh niên nắm bắt cơ hội, vượt qua
thách thức, vươn lên đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế. Chúng ta đến với thanh niên phải bằng cả tấm lòng
tin yêu, tôn trọng và trách nhiệm, phải đặt thanh niên ở vị trí trung tâm trong
chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, giáo dục,
bồi dưỡng thanh niên là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng, phát huy vai trò quan trọng của Đoàn Thanh niên Cộng Sản Thành phố Hồ
Chí Minh, gia đình, nhà trường và xã hội…”.
Về vấn đề phát
triển nông nghiệp, ông Mạnh nói: “… Nông nghiệp, nông dân, nông thôn là những vấn
đề rất lớn có quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau. Trước đây, hiện nay và cũng
như sau này, Đảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược
quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững,
ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và là nhân tố bảo đảm thành công của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp phải hỗ trợ mạnh mẽ cho nông nghiệp, nông dân,
nông thôn. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
thì nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới theo
qui hoạch là căn bản, phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải dựa trên cơ chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng và
cả nước; khai thác thuận lợi trong hội nhập quốc tế; phát huy cao nội lực trong
nông thôn; đồng thời tăng cường đầu tư của Nhà nước; ứng dụng nhanh các thành tựu
khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí…”.
Chúng ta mong rằng
những lời nói đó của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh là đúng đắn, mau chóng đi vào cuộc sống và phát
huy được tác dụng của nó trong đời sống xã hội. Nhưng phải nhận thức sâu sắc hơn nữa mới được. Ông Nông Đức Mạnh nói hay lắm nhưng...bỏ đó! Xin khấn cầu cho quốc thái dân
an!
***
Đất nước Việt Nam
tuyệt đẹp! Phong cảnh thiên nhiên của nó hết sức gợi tình với hàng loạt những
danh thắng nổi tiếng thế giới như vịnh Hạ Long, động Phong Nha - Kẻ Bàng, đèo Hải
Vân, đèo Cả - Vũng Rô… Hình hài, vóc dáng của Việt Nam trên bản đồ thế giới, theo sự
suy tưởng của chúng ta thì cũng tuyệt mỹ không kém. Chúng ta đã kể về điều này
rồi và giờ đây, chúng ta bỗng chợt nhận ra thêm rằng cái hình hài vóc dáng rất đỗi
sinh động ấy sao mà hồn nhiên, hiền hòa nhưng cũng hiên ngang, khí phách quá chừng!
Việt Nam, với cái hình thể gợi nên cảnh phượng múa rồng bay, như đang vui đùa với
bầu bạn khắp năm châu bốn biển; gợi nên một “Ông Đùng” thần thoại, chọc trời
khuấy nước theo trục Đông - Tây; gợi nên một vùng an cư đắc địa có thế đất ỷ dốc
quay lưng về hướng Tây - Bắc để tránh cái lạnh giá của mùa đông tràn về từ Bắc
Cực mà nhìn về hướng Đông - Nam, nơi mặt trời mọc, nơi đã từng sừng sững ngọn núi
Tu Di vĩ đại trong huyền thoại, để hứng gió nồm mát lộng từ bao la trời biển thổi
tới, và nếu nhìn theo trục Tây – Đông thì rõ ràng là có cái thế tuyệt cùng
trong lựa chọn phong thủy: “Tọa sơn hướng thủy”!
Phóng tầm mắt về
hai miền đất nước, trước hết chúng ta nhìn thấy thành phố Hồ Chí Minh - tức là Sài
Gòn năm xưa, cái tên có gốc tích từ đời sống dân dã, mộc mạc và rặt cá tính người
Nam Bộ, đã từng được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”. (Nói vui thêm: khi Sài
Gòn mới được giải phóng, nó có hai đại lộ thuộc hàng lớn nhất nội thành có tên
là Công Lý và Tự Do. Không hiểu tư duy thế nào mà người ta đem đặt lại tên cho
chúng thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Đồng Khởi. Ngay lập tức trong dân gian lưu
truyền câu thơ tếu táo:
“Nam Kỳ Khởi
Nghĩa thay Công Lý
Đồng Khởi lên rồi
mất Tự Do.”
“Thằng” nào mà
lém lỉnh và táo tợn thế không biết? Ngày đó, nếu người ta bắt được, thì đời nó
coi như… chẳng “hay ho” gì, vì đích thị nó là phản động. Bây giờ, bao nhiêu năm
tháng đã đi qua, ngẫm lại, thấy hóa ra thằng đó nói, có thể là “kháy” nhưng chính
xác. Công Lý và Tự Do là khát vọng thuộc hàng bậc nhất không phải của riêng dân
tộc ta mà của cả nhân loại. Đó là hai chân lý sáng ngời mà bất cứ “phe” nào cũng
phải nêu lên thành mục đích thuộc hàng đầu nếu muốn thu hút quần chúng theo mình.
Nam Kỳ Khởi Nghĩa hay Đồng Khởi cũng đẹp đẽ, chúng sinh ra cũng vì hai chân lý ấy, nhưng dù sao chỉ là những dấu ấn gợi
nhớ về những biến cố hào hùng của một thời đấu tranh cứu nước, vị trí mà chúng
“thích nhất” là ở những viện bảo tàng cách mạng!... Nói chung là muốn đặt hay
thay đổi nhãn mác thế nào mà không được, nhưng thiển nghĩ, đừng để cho dân chúng
đàm tiếu. Một đường phố đang có cái tên tuyệt đẹp rồi, thì cho dù là ai đặt, cũng
việc gì mà “rỗi hơi” thay đổi nó đi? Một tên người, một địa danh đã là nhãn mác
của người nào đó, của nơi nào đó. Nếu những nhãn mác đó thực sự nổi trội thì tự
nhiên sẽ được ghi chép vào sử xanh, được lưu truyền đến hậu thế như một sự ghi
công, như một bài học, như một tấm gương sáng soi và có khi là như một huyền thoại.
Không nhất thiết phải đem những nhãn mác đó đi gắn lung tung. Đường “Him Lam”, đường
“Trường Sơn”, đường “Hà Nội” nghe cứ như mạo danh vì Him Lam, Trường Sơn, Hà Nội
vẫn còn sờ sờ ra đó, nhưng ở chỗ khác, chứ đâu phải ở trong thành phố Hồ Chí
Minh? Mua vé xổ số cứ mỗi lần bấm nhắn tin “XSHCM” qua điện thoại di động để dò
lại thấy kỳ kỳ sao ấy! Cái vĩ đại không cần nhắc đến, vẫn cứ vĩ đại như thường;
cái tầm thường, cho dù có tung hô, vung vãi khắp nơi cũng không thể vượt thoát được
sự tầm thường mà thậm chí còn trở nên tầm thường hơn!). Đang trong thời kỳ phát
triển “vũ bão”, Sài Gòn phình ra rất nhanh, có vẻ như đã bắt đầu hơi “quá cỡ thợ
mộc” kiểu “phát phì”. Không biết nó đã ngốn bao nhiêu héc ta đất trồng trọt để
làm mọc ra các khu công nghiệp rồi? Tất nhiên là phải biết hy sinh nhưng hy
sinh như thế nào và đến đâu thì gọi là hợp lý, là đủ? Và nhìn xem các nước tiên
tiến đi trước chúng ta khá xa, họ đã làm ra sao và có hậu quả gì; nghe xem họ nói
gì?
Nhìn ra miền Bắc,
đất tổ của dòng giống Lạc - Hồng, chúng ta thấy Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn vật
của một đất nước ít ra cũng đã có 4000 năm văn hiến.
Hà Nội là nơi
chúng ta đã từng sống những ngày thơ ấu. Buổi đầu tiên chúng ta cắp sách đến trường
là ở đó. Đã ngót 30 năm rồi kể từ ngày tạm biệt ra đi, chúng ta chưa từng một lần
quay trở lại, dù rằng đó là một ao ước khôn nguôi. Thật không thể hiểu vì sao nữa!
Không phải là cách núi ngăn sông, không phải là nghèo hèn đến mức không đủ lộ
phí, ấy vậy mà chúng ta không thể về thăm lại nơi mà chúng ta đã được bao bọc,
vỗ về, nuôi nấng cho đến lớn khôn; đã ê a đọc bài học đầu tiên về non sông đất nước:
" Học đi em
Học đi em
Học đi mà nhớ mãi
Quê hương ta một dải
Từ mũi Cà mau
Đến địa đầu Móng Cái
Quê hương ta
Đồng ruộng phì nhiêu
Đủ bốn mùa hoa trái
Núi Truòng Sơn vĩ đại
Bờ biển rộng bao la
Có Việt Bắc mồ ma giặc Pháp
Nối liền Đồng Tháp Nam Bộ thành đồng
Học đi em
Học đi mà nhớ mãi
Đất ta liền một dải
Như máu chảy trong người
Kẻ nào định chia đôi
Chia lòng ta sao được
Em học đi cho thuộc
Rằng:
Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam"
(thơ Tố Hữu),
nơi mà chúng ta
đã từng mơ thấy mình bay về một vì sao lấp lánh…, nơi mà từ đó chúng ta nhờ có
sự ưu ái của Nhà Nước Cách mạng, của dân tộc đang thời kỳ gian khổ hy sinh, mà
sớm được tiếp xúc với những thành tựu khoa học của nhân loại. Chúng ta suốt đời
phải chịu cái ơn ấy và cả cái nợ máu xương của cha, anh, bạn bè đã đổ xuống trên
chiến trường chống Mỹ, và nếu có muốn thì cũng chẳng bao giờ trả được. (Tương tự
như thế, chúng ta không bao giờ tạ tội được trước quê hương, nơi chúng ta đã được
chôn nhau cắt rốn, đã cất tiếng chào đời và chưa kịp cảm nhận ánh sáng thì ngoại
đã vội bế xuống hầm tối để tránh bom thả từ máy bay thực dân Pháp; nơi mà mới một
tuổi, mẹ đã bồng chúng ta xuống tàu đi “tập kết”, thế rồi hơn 50 năm đằng đẵng,
chúng ta chưa một lần ghé về!).
Rất đỗi lạ lùng
và có vẻ như một lưu đày của số phận!
Giờ đây, ở chốn
này, nhìn ngắm Hà Nội bằng con mắt hồi ức, lòng chúng ta cứ nổi lên ngổn ngang
thương nhớ. Chúng ta nhớ Ô Cửa Nam
vì có lần lạc mẹ, chúng ta đứng ở đó khóc ơ hờ. Chúng ta nhớ mẹ cho “1 hào” đi
tàu điện ra hồ Hoàn Kiếm chơi, tiền vé đi mất 5 xu, còn lại thấy con tò he thích
quá mua hết, lót tót đi bộ về. Chúng ta nhớ Ngã Tư Sở hồi đó, giữa lòng Hà Nội
mà cảnh vật cứ như một thị trấn nhỏ ngày nay: sau lưng dãy nhà mặt tiền đã là
những sắc màu làng quê, là ruộng lúa, vườn rau, ao cá. Chúng ta nhớ ngõ Thịnh
Quang dẫn vào nơi chúng ta ở. Từ chỗ chúng ta ở, đi tiếp theo con đường gạch nhỏ,
ngoằn ngoèo với hai bên là đồng ruộng sẽ đến đình Thịnh Quang, nơi chúng ta đã
ngồi học ở đó và luôn lấm lét ngó chừng ông Hộ Pháp. Từ căn phòng đầu dãy nhà lá,
rộng chừng 10 m2 (mẹ và hai anh em chúng ta ở đó) hướng về chợ Ngã Tư
Sở, có một khu vực cây cối xum xuê, đó là xóm Chùa, những gian chùa được người
ta mượn làm lớp học và chúng ta cũng đã từng học ở đó (hay nghịch ngợm ở đó (?),
lâu quá rồi, khó lòng mà nhớ rành mạch nữa). Chúng ta nhớ tha thiết trường THPH Thái
Thịnh, nơi chúng ta lần đầu tiên sử dụng que tính, tính toán trên bàn tính, nơi
mà tiếng trống trường đã vĩnh viễn ở lại trong tâm trí chúng ta, nơi mà cảm giác
chiến tranh đến gần hơn bao giờ hết khi cùng trường lớp làm hầm trú ẩn; nơi mà
một đứa học trò nghịch ngợm dù có vẻ muộn mằn, cũng vô cùng hãnh diện khi được
kết nạp vào Đội thiếu niên tiền phong và được quàng khăn đỏ. Lần đó chắc mẹ cũng
rất tự hào vì chúng ta. Các bạn thuở ấy ơi, giờ này ở đâu, và ai còn nhớ bài ca
trường Thái Thịnh: “… ta cùng nhau tiến bước lên, dưới mái trường Thái Thịnh mà
ta vẫn từng chung sống…”? Vài lần Hà Nội hụ còi báo động giả, cả về ban đêm, có
lẽ để nhân dân thành phố làm quen và thực tập xuống hầm trú ẩn. Nhưng có một lần,
vào giữa ban ngày, Hà Nội hụ còi báo động thật. Giọng phụ nữ trên đài phát
thanh: “Đồng bào chú ý!...” nghe bình tĩnh và mạch lạc làm chúng ta hết cả nỗi
sợ hãi ban đầu, chui ra đứng trước cửa hầm, ngẩng mặt lên trời cố tìm máy bay Mỹ.
Mẹ đi trực chiến về nghe mách lại, nọc chúng ta ra quất cho một trận tơi bời.
Sau này mới hiểu mẹ đúng vì bà đã qua kháng chiến chống Pháp, biết được cái tàn
bạo của quân xâm lược. Từ đó, chúng ta được đưa đi sơ tán về nông thôn và nhờ
thế sau này chúng ta mới thấu tình dân dã…
Chúng ta cũng sẽ
nhớ mãi trường Đống Đa, nơi chúng ta học năm cuối cùng của hệ phổ thông cơ sở,
nơi chúng ta (lại cũng muộn mằn) được kết nạp vào hàng ngũ Đoàn Thanh niên Lao động
Việt Nam.
(Nếu chúng ta nhớ không lầm thì Đảng hồi đó cũng được gọi là Đảng Lao động Việt
Nam.
Và nếu đúng thế thì đó là một cái tên tuyệt đẹp mà không gây ngộ nhận. Qua đây
cũng thấy Hồ Chí Minh kỳ tài và uyên thâm về chính trị.); nơi chúng ta đưa tiễn
những bạn học trúng tuyển nghĩa vụ quân sự lên đường vì nước. Nhiều bạn đã không
trở về, chưa kịp “đỏ ngực” đã đành “xanh cỏ”. Các bạn ơi! Dù quê hương các bạn
là tứ xứ, nhưng vì lớn lên trong lòng Thủ đô nên các bạn mang “màu cờ, sắc áo”
Thủ đô; các bạn là con Rồng cháu Tiên nhưng đồng thời cũng là con em Thủ đô, là
hậu duệ của “Trung đoàn Thủ đô”, với truyền thống “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”…
Nhớ thì cũng là
không quên. Chúng ta chẳng bao giờ quên được những tháng hè với những ngày lang
thang vạ vật trong lăng Hoàng Cao Khải, bên những tượng người bằng xi măng sứt
tai gãy gọng , cụt đầu… đứng thành hai hàng im phắc mà như có u hồn, quanh cái
hồ sen tù đọng những rong rêu, rác rưởi bởi không người đoái hoài. Chúng ta không
quên được những ngày hè cùng bạn bè chạy nhảy trên Gò Đống Đa, leo trèo ở đền
Thái Thú mà chưa biết được ngọn nguồn gốc tích của sự ô nhục, những lần vào ra
chùa Mộc mà vô tình không biết nó luôn được giữ gìn và che chở trong nghĩa tình
của lòng dân Bắc Hà - Hà Nội đối với vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ qua suốt thời
đoạn độc địa nhất của tư thù hèn hạ. Chúng ta quên làm sao được Văn miếu - Quốc
Tử Giám nơi hàng bia tiến sĩ và rùa đá dầu dãi nắng sương, thứ thì mịt mờ u uẩn,
thứ thì ngơ ngác bất tường trước sự vô tình đến bạc màu hoang phế, đến lạnh
tanh khói hương. Niềm tin duy vật cực đoan đến khô cứng đã xúc phạm tập tục thờ
cúng, chiêm bái thiêng liêng và thấm đẫm nhân văn. Không phải tất cả mọi hành
vi của mọi lễ hội cổ truyền đều là hủ tục, mê tín dị đoan. Hơn nữa không phải mọi
mê tín dị đoan đều phi lý. Ngược lại, chắc gì một niềm tin cực đoan đã là không
mê tín, chắc gì văn hóa phương Tây đã hợp với lòng người phương Đông; và chắc gì
nền triết học nặng nề thực chứng đã đủ sức đánh giá được sự chứng ngộ huyền diệu
của đạo lý?! Cuối cùng: một chân lý chắc gì đã là chân lý?! Nếu là về tự nhiên
thì chỉ có Tự Nhiên, nếu là về xã hội thì chỉ có Đại Chúng mới có thể trả lời rốt
ráo được câu hỏi đó… Trong dân gian đã từng lưu truyền đẳng thức: Nhiệt tình +
Ngu muội = Đại phá hoại. Phải cho rằng đẳng thức này là một phát kiến lớn, tài
tình và rất hữu dụng, vì nó cảnh báo người ta về một trường hợp riêng dễ xuất
hiện, về những biểu hiện, những tác động trái chiều trong sự phát triển của mọi
quá trình, mọi công cuộc tạo dựng kinh tế - xã hội… Rất may, nhờ có Đổi Mới mà
tư duy chúng ta qua được bệnh “cảm cúm” và đang ngày một lành mạnh hơn. Xin cảm
ơn Ngài Đổi Mới.
Chúng ta còn không
thể quên được nhiều điều nữa về thời niên thiếu sống hồn nhiên giữa lòng Hà Nội.
Làm sao mà quên được những sáng mai đi tìm cỏ gà, đổ dế, những trưa lang thang
tìm bắt ve sầu, những chiều thu gió lộng cánh diều, những tối “trốn tìm”, “thả đỉa
ba ba”, “rồng rắn lên mây”; làm sao mà quên được tình yêu học trò, đi ăn trộm
khế mang về cho “người yêu” tóc kẹp đuôi gà… Nhiều lắm, kể làm sao cho hết được!
Ngót 30 năm rồi,
đứng đây nhìn vào Hà Nội, chúng ta vẫn thấy mình tung tăng trong đó, đi khắp các
phố phường của nó, những phố phường mà chúng ta đã từng thấy thời niên thiếu, mà
bụi thời gian không thể xóa nhòa được trong ký ức dân gian:
“Rủ nhau chơi
khắp Long Thành
Ba mươi sáu phố
rành rành chẳng sai
Hàng
Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng
Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay
Mã
- vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giầy
Hàng
Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn
Phố
Mới, Phúc - Kiến, Hàng Ngang
Hàng
Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng
Hàng
Muôi, Hàng Nón, Cầu Đông
Hàng
Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè
Hàng
Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre
Hàng
Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà
Quanh
đi đến phố Hàng Da
Trải
xem hàng phố, thật là cũng xinh
Phố
hoa thứ nhất Long - Thành
Phố
dăng mắc cửi, đàng quanh bàn cờ
Người
về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút
hoa xin chép nên thơ lưu truyền.”
(Long - Thành tức
thành Thăng Long, tên gọi Hà Nội được đặt vào năm 1010, đời Lý Công Uẩn.)
Đất nước Việt Nam
xinh đẹp nhờ phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp! Dân tộc Việt Nam xinh đẹp nhờ tính tình khoan hòa,
nhẫn nại và khí phách của họ. Hà Nội cũng toát lên những vẻ đẹp tinh hoa đó.
Từ xa xưa lắm,
hơn ngàn thuở trước, hình như vùng đất trời bao dung Hà Nội đã tiềm tàng linh
khí và linh khí đã được ban phát ra liên tục đến tận ngày nay. Ngay từ tiền sử,
hình sông thế núi ở khu vực đó đã tạo nên một đắc địa cho sự hội tụ dân cư. Nhiều
tộc người tiền sử đã hội tụ ở đó chung sống chan hòa trong khí thiêng sông núi đó
và chuyển hóa thành những con người đầu tiên của dân tộc Việt, tổ tiên của chúng
ta. Cũng từ đó số phận của vùng đất trời chứa chấp Hà Nội ngày nay đã gắn kết
chặt chẽ với số phận chung của sông núi Việt Nam. Vừa là bộ phận lãnh thổ không
thể tách rời được của Tổ quốc, vừa là nơi trọng yếu của quá trình hội tụ dân cư
tự nhiên, nên từ rất sớm trong sơ sử đến nay, nó đóng vai trò như một trung tâm
của những biến cố lớn lao trong lịch sử thăng trầm đầy bi hùng của dân tộc Việt
Nam.
Có thể nói cảnh
sắc - con người của vùng đất Hà Nội, vì thế mà mang những nét đặc trưng nhất,
tiêu biểu nhất của non sông nước nhà. Hơn thế nữa, có thể thấy quá trình tồn tại
của vùng đất ấy như là một biên niên sử rút gọn, một tóm tắt khá đầy đủ những
biến cố đã từng xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, một lịch sử cô đọng của dân tộc
Việt Nam.
Đối với chúng
ta, nếu coi Tổ quốc Việt Nam là một báu vật thì Thủ đô Hà Nội là viên ngọc bích
được nạm ngay tại điểm hội tụ, kết tinh của báu vật ấy, và ngời lên biếc trong như một
con mắt bão ở Thái Bình Dương. Trong tiềm thức, chúng ta còn cảm nhận được ý niệm:
Vùng địa linh nhân kiệt trong lãnh thổ địa linh nhân kiệt.
Càng ngắm nhìn
Hà Nội, chúng ta càng đắm chìm vào ký ức, bao nhiêu kỷ niệm của một thời cuồn
cuộn đổ về, bao nhiêu là cảm xúc dào dạt trào dâng, để rồi bỗng rưng rưng cho tất
cả nhạt nhòa, chỉ còn lại một hồi tưởng và vì thế mà đồng thời làm cho sự hồi tưởng
ấy trở nên nổi trội, mạch lạc. Đó là sự hồi tưởng về câu chuyện sử xanh đất Hà
Nội, được kể chủ yếu bởi các giáo sư sử học: Trần Quốc Vượng (chủ biên), Phan
Huy Lê, Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Thanh, nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, nhà văn
Bùi Hạnh Cẩm (trong “Hà Nội - Thủ đô nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, NXB Sự Thật,
năm 1984), bởi các nhà sử học Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (“Các triều đại Việt Nam”,
sđd), bởi giáo sư Nguyễn Phan Quang và tiến sĩ Võ Xuân Đàn (“Lịch sử Việt Nam,
từ nguồn gốc đến năm 1884, sđd)… và bởi cả… NTT nữa. Sau đây là nội dung của “công
cuộc” hồi tưởng được (và vì là hồi tưởng nên không thể nhớ nổi hết được và cũng
không còn chính xác lắm!).
Cách nay vài ba
triệu năm, vùng Hà Nội được nâng lên thành một vùng rộng lớn, có xâm thực và bóc
mòn, nhưng đồng thời cũng có bồi đắp do tác dụng trầm tích của sông suối để tạo
nên một đồng bằng, nằm sâu dưới bề mặt đồng bằng hiện nay 40 - 50 m. Đồng bằng
hồi đó phủ đầy cây cối rậm rạp với một quần thể động vật nhiệt đới phong phú như
voi răng kiếm, heo voi khổng lồ, đười ươi lùn to khỏe, gấu mèo lớn…
Sau đó là một thời
kỳ dài biển tiến. Khảo cổ vẫn chưa phát hiện được dấu vết con người ở vùng Hà Nội
thời kỳ này cũng như trước đó, nhưng đã phát hiện được dấu tích hoạt động của
con người trên vùng đó cách đây trên dưới 2 vạn năm, vào cuối thời đại đá cũ.
Năm 1971 -
1972, giới khảo cổ Việt Nam đã tìm thấy ở xứ đồng Đông Thành, trên khu Đường Cả
- còn gọi là đường Cấm Xứ - thuộc xã Cổ Loa (huyện Đông Anh) - mấy viên đá cuội
có dấu vết ghè đẽo. Trước đó và sau đó (1968 và 1983), họ cũng đã tìm thấy các
di vật đồ đá như thế hoặc được gia công “tinh xảo” hơn, ở những nơi khác nữa
thuộc vùng Hà Nội, thuộc vùng đồi gò các xã Vạn Thắng, Cổ Đô, Thái Hòa, La Xuyên
thuộc huyện Ba Vì và trên địa bàn rộng lớn hơn nữa, hầu như khắp miền Bắc nước
ta.
Giới khảo cổ gọi
đó là “Văn hóa Sơn Vi”. Những bầy người nguyên thủy khi ấy vẫn còn sống trong
những hang núi đá vôi, nhưng phần lớn là sống ngoài trời, dựng nhà lều bên sườn
đồi gò miền trung du Vĩnh Phú, Hà Bắc, vùng đồi gò chân núi Ba Vì và gò sót ở Cổ
Loa - Hà Nội. Những vùng này hồi đó còn phủ kín rừng…
Tiếp đến có một
thời kỳ biến chuyển lớn của tự nhiên. Khí hậu trái đất nóng ấm dần lên, băng
tan làm nước đại dương dâng cao, xâm chiếm đất liền. Trong khoảng giữa từ 1 đến
2 vạn năm cách nay, lại xuất hiện thời biển tiến. Gần một nửa diện tích của mảng
lục địa Đông - Nam Á bị nhận chìm xuống dưới mặt nước biển Vịnh Bắc Bộ lấn sâu
vào đồng bằng, tới vùng thấp trũng nam Hà Nội, làm xuất hiện vùng đầm lầy ngập
mặn. Con người lúc đó phải lùi lên vùng thềm cao, trong các thung lũng và bồn địa
giữa núi thuộc miền Bắc Sơn ở đông bắc, Bắc bộ ngày nay, trong đó có vùng Hà Nội,
không có người sinh sống từ khoảng 1 vạn năm đến khoảng trên 5000 năm cách ngày
nay.
Kế tiếp là thời
kỳ biển lùi. Đồng bằng Hà Nội lúc đó là một vùng biển hay cũng có thể là các vũng
đọng; sau đó được phù sa các sông bồi lấp, dần thành miền rừng rậm, đầm lầy
hoang sơ, chờ bàn tay con người khai phá… Các nhóm cư dân như Môn cổ, Tày cổ, Mã-lai
cổ… bắt đầu quần tụ về miền đồi gò trung du, đất cao châu thổ sông Hồng… và dần
về quanh cùng trũng Hà Nội. Vùng Hà Nội từ đây lại bắt đầu sôi động sự sống con
người, tạo ra một thời huyền thoại về những “ông khổng lồ” trong tâm thức dân
gian - “ông đào sông, ông tát biển, ông đếm sao…” (còn lưu lại trong đồng dao Hà
Nội), ông giết thuồng luồng ở bến làng Xuân Tảo, ông Đổng để lại vết chân “vừa
tày 5 gang” ở Dòng - Đổng viên, ông dâng nước vây giết cáo chín đuôi (cửu vĩ hồ
tinh), biến hang ổ nó thành “Đầm xác cáo” (tức Hồ Tây ngày nay)… (trong những câu
chuyện thần thoại), kết tinh lại thành nhân vật Lạc Long Quân trong huyền sử dân
tộc Việt.
Các nhà khảo cổ
đã phác họa được diễn biến văn hóa và lịch sử liên tục suốt 2000 năm trước CN ở
lưu vực sông Hồng, ở Hà Nội cổ.
Khi đến định cư,
sinh sống ở vùng nội ngoại thành Hà Nội ngày nay, họ đã là những cư dân nông
nghiệp. Họ xây dựng xóm làng cổ trên những doi đất cao, gò cao ven sông Tô, sông
Nhuệ, sông Tích, sông Đáy, sông Cà Lồ, sông Thiếp và ven bờ đầm, hồ - là những
khúc sông đã chết. Tầng văn hóa dưới nền đất thổ cư của làng có nhiều than tro,
chứa đầy mảnh gốm, mảng công cụ gãy, vỡ dày hàng mét (có khi đến 4m), là chứng
cứ của một lối sống định cư lâu dài. Họ dùng rìu đá, rìu đồng lập làng, làm ruộng.
Ngay từ bấy giờ, nền nông nghiệp Việt cổ đã có tính chất đa canh với nhiều giống
cây trồng trọt khác nhau, kết hợp với chăn nuôi gia súc (lợn, gà, dê, chó, trâu),
săn bắt và phát triển nghề chài lưới (đã phát hiện nhiều chì lưới ở các di chỉ đồ
đồng dọc sông Ngũ Huyện như Đồng Vông, Đường Thụt, Xuân Kiều - huyện Đông Anh;
khá nhiều lưỡi câu bằng đồng cũng được tìm thấy ở di chỉ Thành Dền - Mê Linh; ở
Bãi Mén, Đình Chàng - Đông Anh, ở gò Chùa Thông - Thanh Trì…)
Tóm lại cuộc
lan tỏa dân cư từ vùng cao xuống đồng bằng và hội tụ dân cư ở vùng Hà Nội cũng
như quá trình hoạt động sống của con người đã làm xuất hiện cư dân Việt cổ với
những ruộng lúa, đồng rau màu, bãi dâu, vười cây ăn quả, đàn gia súc, và những
ngành nghề làm ruộng, chăn tằm, đánh cá, đi săn, đan lát, xe chỉ, dệt vải, làm
gốm, luyện kim… Cuộc sống vật chất ngày một sung túc tạo điều kiện cho cuộc sống
tinh thần của họ ngày một nâng cao, biểu hiện qua các hoa văn tinh tế trên đồ gốm,
qua các khuyên tai, vòng tay, hạt chuỗi… bằng đá, bằng ngọc được mài, cưa,
khoan, tiện công phu. Trên cơ sở đó, người Việt cổ đã tạo dựng nên Nền Văn minh
sông Hồng mà trung tâm tự nhiên của nó là vùng Hà Nội cổ.
Có điều đáng chú
ý là giới khảo cổ học đã phát hiện được những đoạn đê cổ của sông Cà Lồ (từ Nhạn
Tái, Đông Anh trở xuôi) và đê cổ của sông Ngũ Huyện (từ phía đông Cổ Loa xuôi về
Tiên Sơn - Yên Phong, Hà Bắc). Đê cổ có đoạn đè lên các di chỉ đầu thời đại đồng
thau; là công trình trị thủy của người Việt cổ ở vùng Hà Nội. Đặc biệt chưa có
nơi nào ở nước ta cũng như trong toàn Đông Nam Á, lại phát hiện được nhiều lưỡi
cày bằng đồng (yếu tố nói lên kỹ thuật cày bừa đã có từ thời đó!) như ở Cổ Loa,
bên bờ sông Hêu, xóm Nhồi và Mả Tre với số lượng hàng trăm chiếc các loại, hình
bầu dục, hình thoi, hình tam giác. Ngoài lưỡi cày còn có các lưỡi mai, cuốc, xẻng…
bằng đồng, nhất là vũ khí, đặc biệt nhiều, gồm rìu chiến, mũi giáo, dao găm, mũi
tên đồng các loại, mảnh giáp… Việc xuất hiện lượng vũ khí nhiều như vậy đã mách
bảo có một thời chiến chinh, loạn lạc.
Theo lẽ tự nhiên
về sự phát triển và luật nhân - quả thì nền văn minh sông Hồng với phạm vi khu
vực rộng lớn là đồng bằng Bắc Bộ, không thể xuất hiện ngay như có phép màu được,
mà nó phải có một “lịch sử”, nghĩa là trải qua những trạng thái từ thấp đến
cao, với phạm vi từ nhỏ đến lớn, phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh về tự
nhiên - xã hội (được gọi là “chín muồi”) ở từng giai đoạn cụ thể, biểu hiện ra
như một tiến trình vừa liên tục vừa gián đoạn. Theo đó, chúng ta cho rằng vùng
Hà Nội cổ với vị trí “địa linh” của nó (là “điểm” trung dung, vừa Vô cực vừa Thái
cực, là “thể thứ ba” của các mối tương quan về địa lý - khí hậu…) đã mặc nhiên
làm cho nó luôn là trung tâm của nền văn minh sông Hồng (ngày nay, có thể nó vẫn
còn đặc tính này dù đã có nhiều biến động lớn lao?), và đồng thời là hạt nhân
lan truyền, là yếu tố ban đầu làm hình thành nên nền văn minh ấy. Cái nhân ấy, đến
lượt nó, được tạo dựng ra từ sự hội tụ “nhân kiệt” về “địa linh”.
Chúng ta đoán định
rằng khu vực quần tụ dân cư đầu tiên trong quá trình lan tỏa dân cư xuống Châu
thổ đồng bằng Bắc Bộ chính là vùng đất Hà Nội. Vùng đất ấy đã đóng vai trò như
căn cứ xuất phát, như “bàn đạp” tiến ra miền duyên hải trong thời đại Lạc Long
Quân dẫn 50 người con đi chinh phục thiên nhiên, khai trời mở đất, để tìm sống.
Tiếp theo, sự phát triển đã làm cho vùng đất Hà Nội trở thành một trung tâm
kinh tế - xã hội quan trọng vào bậc nhất trong buổi đầu, rồi đóng vai trò như
linh hồn, đầu não đất nước ở giai đoạn sau của thời các vua Hùng dựng nước và
giữ nước. Phải chăng trong quá trình tạo dựng đó, tự nhiên xuất hiện những yêu
cầu trong vùng đất trọng yếu ấy phải có một trung ương quyền lực để điều hành
trong việc xây dựng, bảo vệ nó và đồng thời cũng là cho đất nước? Phải chăng sự
đòi hỏi đó đã làm bật ra trong đầu các vua Hùng cái quyết định xây dựng Cổ Loa
thành và sau khi việc xây dựng đó hoàn thành (ở qui mô và dạng thức đầu tiên!),
các vua Hùng đã “dời đô” về đó? Nếu đúng như thế thì Cổ Loa chính là thủ đô của
nước Văn Lang và vùng Hà Nội đã là “Đất thần kinh”, đã là “kẻ chợ” của Tổ Quốc
Việt Nam
ngay từ dạo ấy rồi!
Nhưng “dạo ấy”
cụ thể là thời điểm nào? Lịch sử truyền thống đã không thể cho chúng ta biết điều
đó. Đành phải suy tưởng ra! Dù có thể là rất phiêu lưu, nhưng biết đâu chúng ta
lại gặp may mắn.
Trước hết, trái
với nhận định của sử học và khảo cổ học, chúng ta cho rằng Cổ Loa, đóng vai trò
như trung tâm hành chính, nơi tụ hội dân cư như một kinh đô, đã xuất hiện từ rất sâu trong thời đại
Hùng Vương mà Cổ Loa ở đời Thục Phán là “hậu duệ” đã được tu bổ, tạo tác qui mô
hơn của nó. Phải cho rằng “kinh đô” đó đã có trước cả đời vua Hùng thứ VI, nghĩa
là cuộc đấu tranh chống quân xâm lược nhà Ân do Thánh Gióng chỉ huy đã đánh tan
giặc, không cho chúng kịp xâm chiếm kinh đô Cổ Loa và đồng thời cũng bảo vệ được
đất nước Văn Lang.
Theo sử Trung
Quốc thì triều đại nhà Ân - Thương tồn tại trong khoảng thế kỷ XVI - năm 1066
TCN. Lúc đầu gọi là nhà Thương: Vua Thương dời đô nhiều lần, đến cháu 10 đời của
Thang (vua Thương đầu tiên) là Bàn Canh thì dời đến Ân ở phía bắc Hoàng Hà (thuộc
tỉnh Hà Nam). Từ đó triều Ân Thương được gọi là triều Ân. Nếu tính đời một vua
Thương trung bình là 50 năm, thì 10 đời vua Thương là khoảng 500 năm. Vậy thì
giai đoạn mà triều Ân - Thương được gọi là Ân ấy là trong khoảng thế kỷ XI - năm
1066 TCN và Thánh Gióng chỉ có thể đánh tan giặc Ân trong khoảng thời gian đó
thôi.
Mặt khác, chúng
ta đều biết rằng vào năm 258 TCN, Thục Phán đã lật đổ triều đại vua Hùng (đã ở
thế suy yếu), xưng là An Dương Vương và cải tên nước là Âu - Lạc (ghép từ tên của
hai dân tộc anh em Lạc Việt, Âu Việt ?). Nghĩa là triều đại các vua Hùng chấm dứt
tồn tại vào cuối thế kỷ III TCN. Ngoài ra, còn có thêm hai thông tin quan trọng
nữa là triều đại Hùng Vương gồm 18 đời vua và Thánh Gióng đánh giặc Ân vào đời
thứ 6. Dễ dàng thấy đời vua Hùng thứ 6 tồn tại trong khoảng thế kỷ XI - năm 1066
TCN. Nhưng năm 1066 TCN cũng thuộc về XI TCN. Để khỏi thấy “kỳ kỳ thế nào ấy”,
phải cho rằng việc lấy thời gian trị vì trung bình của một vua Thương là 50 năm
có vẻ “hơi bị” nhiều, do đó cần cho giảm xuống khoảng 30 - 40 năm, thậm chí là
thấp hơn nữa. Do đó ít ra triều Ân phải tồn tại được trong suốt khoảng thế kỷ
XIII - 1066 TCN và đời vua Hùng thứ 6 trị vì nước Văn Lang cũng ở đâu đó trong
khoảng thời gian ấy, có thể là ở thế kỷ XIII TCN.
Sau vua Hùng thứ
6, triều đại Hùng Vương còn truyền được 12 đời nữa cho đến năm 258 TCN. Nếu cũng
lấy trung bình một đời vua Hùng là 50 năm và chọn năm 200 TCN làm mốc thì 12 đời
vua Hùng là 600 năm. Suy ra đời vua Hùng thứ 6 chỉ có thể xuất hiện vào khoảng
năm 850 TCN (600+200+50=850). Ở bên Trung Quốc, đó là thời nhà Chu vì nhà Ân đã trở thành thiên cổ từ lâu rồi! Thế thì một
đời vua Hùng phải chọn trung bình là bao nhiêu?
Vì đã suy đoán
rằng vua Hùng thứ 6 tồn tại ở giữa thế kỷ XIII TCN nên chúng ta có thể chọn năm
1250 TCN làm thời điểm xuất hiện đời vua Hùng thứ 7 và do đó một đời vua Hùng lấy
trung bình lúc này là:
(1250 - 250) : 12 = 83,33 năm
Nếu chọn năm
1150 TCN thì có kết quả là:
(1150 – 250) : 12 = 75 năm
Chẳng ai lấy những
kết quả trên để làm giá trị trung bình đếm thời gian cả vì “xấu”quá. Cố lắm cũng
lấy những số “dễ nhớ” như 90 hay 80, nhưng nếu thế thì sao không lấy giá trị
100 trong hệ cơ số mười, dễ nhớ nhất? Có thể nào, theo quan niệm thời xưa; đời
người là 100 năm mà dân gian đã lấy nó làm đơn vị gọi là “đời vua Hùng” để xác định
thời gian tồn tại của triều đại Hùng Vương nhằm dễ dàng lưu giữ trong ký ức của
mình và 18 đời vua Hùng có nghĩa là 18 thế kỷ hay 1800 năm? Nếu điều suy đoán này
đúng thì 12 đời vua Hùng là 1200 năm và như vậy đời vua Hùng thứ 6 phải tồn tại
trong khoảng thời gian trước thời điểm năm 1400 TCN, nghĩa là trong thế kỷ XV
TCN. Nhưng lúc đó thì bên Trung Quốc, triều Thương hay triều Ân đang trị vì? Hơn
nữa, có chắc là triều đại Ân Thương đã tồn tại trong thời gian khoảng từ thế kỷ
XVI TCN đến năm 1066 TCN hay không?
Rất may, Nguyễn
Hiến Lê và Thiên Giang (trong “Lịch sử thế giới”, NXB Văn hóa Thông Tin, năm
1977) lại cho rằng nhà Ân Thương tồn tại hơn 600 năm, từ 1783-1135 TCN. Chúng
ta vớ ngay “cái cọc” này để khỏi phải chết chìm trong bãi lầy mâu thuẫn: cho nhà
Ân Thương tồn tại với khoảng thời gian từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XII TCN là chân
lý. Khi đó tên gọi triều Ân xuất hiện trong thế kỷ XV TCN nghe có vẻ hợp lý hơn
và việc cho rằng vua Hùng thứ 6 tồn tại trong thế kỷ này đã làm cho chúng ta rất
chi là… vừa lòng.
Qua những mô tả
trong truyền thuyết Thánh Gióng thì đời sống dân cư thời đó rất sung túc, làng
mạc trù phú, và vào thời trị vì của vua Hùng thứ 6, nước Văn Lang đang ở trong
sự thịnh vượng. Lúc đó Cổ Loa Thành đã là kinh đô của đất nước từ lâu, có thể là
rất lâu rồi. Nếu lấy đời vua Hùng là 100 năm như trên thì vì 1800 + 250 = 2050
năm nên việc nước Văn Lang xuất hiện vào trên dưới năm 2050 TCN là có thể chấp
nhận được và cách nói theo quan niệm phổ biến của dân gian như: “Nước ta đã có
hơn 4 ngàn năm văn hiến”; “lịch sử hơn 4 ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta…”, là không ngoa ngoắt chút nào.
Và
cũng không
ngoa nếu chúng ta nói rằng: kế thừa thành quả tạo dựng của thời đại Lạc
Long Quân,
Hùng Vương đã lập nước Văn lang vào khoảng năm 2050 TCN (thậm chí có thể
còn sớm
hơn thời khoảng này rất nhiều nếu quan niệm theo triết học duy tồn về
nguồn gốc nhà nước!) và sau đó không lâu, Hùng Vương đã cho xây dựng
Cổ Loa Thành và đóng đô ở đó.
Kính thưa Thủy
Tổ Dân tộc Việt, trong chiều sâu tâm khảm, với quan niệm riêng tư về nhà nước và
đất nước, chúng con tin tưởng mãnh liệt vào điều này: Tổ Quốc Việt Nam cổ đại đã
định hình ngay từ thời đại Lạc Long Quân - Âu Cơ, sau công cuộc vạch đường mở lối,
vỡ hoang của Kinh Dương Vương, mà hình thái kinh tế - xã hội bấy giờ theo thể
chế, tạm gọi là “Liên bang nguyên thủy”, đã có đủ những biểu hiện về Độc lập, Tự
do, Dân chủ, Đoàn kết hiểu theo nghĩa đúng và đẹp nhất mà văn minh ngày nay còn
phải mơ ước! Cái thể chế ấy đã được Hùng Vương tiếp nối, kế thừa những gì quí báu
nhất, để xây dựng đất nước Văn Lang ngày một giàu mạnh và đạt cực thịnh vào khoảng
thời gian cuối nửa đầu tồn tại của một thời đại dài xuyên suốt trên dưới 4000 năm.
Phân định một cách
siêu hình, chúng ta còn tin tưởng rằng “trung tâm quyền lực” đóng vai trò như
kinh đô, hay cứ gọi là thủ đô, thời Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân là ở trong
thung lũng Mường Hoa, có thể là ngay tại bãi đá cổ Sa Pa; của thời Lạc Long Quân
- Hùng Vương ở đâu đó tại Việt Trì - Vĩnh Phúc và gần như của suốt thời Hùng Vương
chính là Cổ Loa thành. Nếu thế và cũng trên cơ sở những di tích khảo cổ có được
thì Cổ Loa thành, ngay từ đầu đã từng là thủ đô của một đất nước có nền văn
minh lúa nước rực rỡ bậc nhất không phải chỉ riêng ở Đông Nam Á!
Trước một đồng
bằng châu thổ mênh mông sông nước, vũng đầm với những đặc điểm thổ nhưỡng, thời
tiết khí hậu, vừa hứa hẹn một tương lai trù phú dẫn đến ấm no, hạnh phúc vừa bộc
lộ những sức mạnh thiên tai to lớn, cũng như trước bức bách của sự tăng dân số
gây ra, Thủy Tổ người Việt, (vì sự thịnh vượng làm cho sinh sản tự nhiên tăng tốc,
tỷ lệ sống sau khi sinh cũng tăng, trình độ kỹ thuật trong trồng trọt chăn nuôi
chưa đủ động lực sáng tạo để đáp ứng kịp thời với tình hình mới, vì đã không thể
quay lại thời kỳ xưa kia, lấy săn bắt hái lượm làm phương thức kiếm ăn chủ yếu
nữa…, do đó) đã không còn con đường lựa chọn nào khác là lan tỏa dân cư xuống,
kề vai sát cánh, chung lưng đấu cật, hợp tác trao đổi kinh nghiệm, cùng nhau
khai mở, qui hoạch đất đai, be bờ đắp đập chế ngự và trị thủy, chống chọi,
chinh phục sức mạnh tàn phá của thiên nhiên, tạo dựng ra một môi trường mới và
không những đã sống thích nghi hòa hợp được mà còn sống thoải mái, sung túc với
nhiều “của ngon vật lạ” do cái môi trường đã trở nên trù phú ấy mang lại. Về cơ
bản, chính cái quá trình đi tạo dựng cuộc sống mới đầy gian lao thử thách nhưng
cũng được thiên nhiên tưởng thưởng xứng đáng một cách hào phóng ấy đã làm xuất
hiện một Tổ Quốc có mối quan hệ nội tại gắn bó keo sơn, độc lập mà tự do, tự chủ
mà đoàn kết, có tính tập trung nhưng dân chủ cao độ, không thấy binh hùng tướng
mạnh nhưng toàn dân vi binh vi tướng khi có biến… Đó cũng chính là nguyên nhân
chủ yếu hun đúc nên bản chất tinh hoa có tính truyền thống của dân tộc Việt:
khoan hòa nhưng kiên cường, nhẫn nhịn nhưng quật khởi, bao dung mà cương trực,
yêu nước thương nòi và lấy nhân ái làm đạo nghĩa…
Nhiều người ngày
nay dựa vào quan niệm nhà nước bị “tiêu chuẩn hóa” một cách máy móc, chủ quan,
siêu hình, đã “đòi” đưa thời điểm dựng nước của Dân tộc Việt lùi lại khoảng
1500 năm, tức vào thời văn hóa Đông Sơn. Kệ họ! Chúng ta đã may mắn được về thăm
đất nước thời tiền sử và do đó đã cảm nhận rất rõ ràng rằng có một Tổ Quốc với
thể chế xã hội đặc thù, hết sức độc đáo và tiến bộ gần đến lý tưởng (phù hợp hoàn
toàn với Đức Huyền Diệu) từng tồn tại và tồn tại bền vững, dài lâu như một Địa Đàng
thu nhỏ trên Trái Đất này, tại lãnh thổ Việt Nam ngày nay, trong thời cổ đại.
***
Sự phát triển xã
hội nào thì cũng không thoát ra ngoài được luật thịnh - suy. Do hạn chế của nhận
thức mà các quá trình phát triển ấy vào những thời xa xưa đều mang nặng tính tự
phát, làm cho mặt trái của dựng xây là phá hoại tự do phát huy tác dụng. Sự phát
triển kinh tế - xã hội nặng tính tự phát trước sau gì cũng dẫn đến mất cân đối
cung - cầu trong xã hội, gây tình trạng ở mức nhẹ là khủng hoảng, khốn đốn ở mặt
này mặt kia, nặng là khủng hoảng toàn diện nền kinh tế, cơ sở sản xuất phá sản
hàng loạt, khó khăn thiếu thốn hoành hành, ở mức trầm trọng là xuất hiện nạn đói,
chiến tranh tàn phá, cách mạng.
Tất nhiên, để đảm
bảo phát triển được liên tục, ổn định và tránh nguy cơ mất cân đối chủ yếu là về
cung cầu thì một cách hợp lẽ tự nhiên cũng sẽ có những hình thức điều tiết mà ở
mức “hiền lành” là chẳng hạn như hạn chế sinh đẻ, lan tỏa dân cư, xuất - nhập
khẩu hàng hóa - sản phẩm…, và ở mức “dữ tợn” là chẳng hạn như: ứng dụng khoa học
- kỹ thuật, qui hoạch lại thiên nhiên, tiếp cận và cải tạo những vùng đất hoang
hóa thời xa xôi, viễn chinh xâm lược…
Có thể nói thịnh
- suy là biểu hiện vận động nội tại luôn vươn tới cân bằng và phá vỡ cân bằng của
mọi tiến trình phát triển kinh tế - xã hội (có tính chu kỳ, theo dạng xoắn ốc).
Sự mất cân đối và biểu hiện thịnh - suy là không thể “tiêu diệt” được một khi còn
xã hội và nền kinh tế. Người ta chỉ có thể tác động tương đối đến chúng, ảnh hưởng
đến mức độ của chúng, cưỡng bức chúng biến dạng chuyển hóa tương đối trong không
gian và thời gian; có thể kéo dài, làm nổi trội hơn quá trình thịnh vượng cũng
như thu ngắn, giảm thiểu tác hại đối với quá trình suy thoái trong những điều
kiện nhất định.
Sự mất cân đối
cung - cầu nghiêm trọng nhất, toàn diện nhất, có thể dẫn đến tai họa là điều kiện
tự nhiên (trong đó có các bộ phận do nhân tạo trong quá khứ chuyển hóa thành) đã
không thể đáp ứng nổi những nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội cũng như con
người nữa.
Tồn tại là phải
có quá trình; quá trình là tập hợp kế tiếp nhau của các biến đổi; quá trình biến
đổi chính là sự phát triển. Vì vậy phát triển là một tất yếu đối với mọi tồn tại,
mọi sự vật - hiện tượng. Lịch sử loài người là lịch sử về một sự phát triển (theo qui ước!). Từ
săn bắt hái lượm bước sang trồng trọt chăn nuôi và khi phát hiện ra cây lương
thực (nhất là cây lúa nước), loài người đã sáng tạo ra nền sản xuất nông nghiệp.
Đó là một bước phát triển nhảy vọt có tính cách mạng và định mệnh của loài người.
Nhờ nó mà khả năng kiếm sống của con người được nâng cao vượt bậc và cũng tại nó
mà mức độ tiêu dùng trong xã hội nhanh chóng tăng cao cả về sự đa dạng lẫn trình
độ, cả về số lượng lẫn chất lượng, tạo nên sự phân hóa trong sản xuất và sự phân
công lao động xã hội, dẫn đến làm xuất hiện nền sản xuất hàng hóa.
Nền sản xuất hàng
hóa và đi liền với nó là thị trường tự do có tác dụng như con dao hai lưỡi: vừa
mở đường cho sự phát triển kinh tế - xã hội vươn lên thịnh vượng, vừa làm cho nó
mất cân đối và hướng tới suy thoái. Tương lai của cực thịnh là suy tàn vì loài
người chỉ biết tiến chứ không biết lùi, bởi nỗi mỗi cá thể của nó là con người
luôn bị khối tham vọng của mình đè dúi về phía trước chứ không phải là con rôbốt
vô tình! Tuy nhiên nguyên nhân sâu xa lại là do nền sản xuất hàng hóa phi kế hoạch,
chạy theo yêu cầu của thị trường cạnh tranh tự do, đầy giả tạo và nguy hiểm. Chính
thị trường tự do ngày nay đã bộc lộ rõ rệt cái mặt trái của nó. Kích thích tiêu
dùng một cách mù quáng và ngày một vô hạn độ; chuyển hóa những nhu cầu không
thiết yếu thành thiết yếu làm tăng khối lượng nhu cầu thiết yếu của đời sống,
khoảng cách giàu - nghèo ngày một tách biệt, gây mất cân đối trong sản xuất và
lãng phí trong tiêu dùng, ảnh hưởng bất lợi, xấu đến sản xuất nông nghiệp… Một
ngày nào đó, khi qui mô sản xuất - kinh doanh đạt đến mức liên thông toàn cầu
thì đó, xét trên tổng thể, là một nền kinh tế tự cung tự cấp, khép kín và duy
nhất. Lúc đó chính là lúc loài người đã hoàn thành việc tạo ra sự mất cân đối toàn
diện; và đứng trước một thảm họa do lẽ tự nhiên của sự phát triển mù quáng và cái
tham vọng mê lầm của chính mình gây ra. Yêu cầu cơ bản về sự phát triển của một
nền sản xuất hàng hóa là phải có một thị trường ngày một mở rộng để tiêu thụ sản
phẩm làm ra và được cung ứng lại nguyên vật liệu duy trì sản xuất. Không được
như thế, nó sẽ bị “gây khó dễ”, đình đốn, thu hẹp và đến nước cùng là sụp đổ.
Khi đã mất cân đối toàn diện trên phạm vi toàn cầu, nghĩa là khi tài nguyên thiên
nhiên đã hao mòn (chưa nói đến cạn kiệt!), ruộng đồng, đất đai trồng trọt bị
thu hẹp, tàn phá bởi quá khứ, tác động trái chiều của sự thịnh vượng (chưa nói đến
tốc độ tiến tới nạn nhân mãn do kích thích!); thì thị trường cũng bị mất cân đối
toàn diện, teo tóp dần và điêu tàn đi, tính hàng hóa của sản phẩm bị biến thái,
lộn xộn và trở nên phi lý đến kỳ quặc. Lúc đó, khả năng của điều kiện tự nhiên
trở nên bất lực, không thể đáp ứng nổi nhu cầu tiêu dùng của loài người nữa, kể
cả lương thực thực phẩm. Điều gì sẽ xảy ra? Có thể là một công cuộc khai hoang
vĩ đại và lạ mắt nhất của loài người: đi đập phá nhà máy, công xưởng, nhà cửa,
thành phố, đường xá, gỡ bỏ, thu dọn những khối lượng bê tông khổng lồ, để hồi
phục lại đất đai trồng trọt; có thể là chiến tranh tàn sát, nạn đói tàn sát, ngộ
độc môi trường tàn sát, để rồi “mười người chết bảy còn ba, chết hai còn một mới
ra thái bình” tạo cơ may trở về với sản xuất thuần túy nông nghiệp, bắt đầu lại
quá trình tạo dựng từ nền sản xuất tự cung tự cấp và nhỏ lẻ.
Thái Dương Hệ còn
đó, thảm họa Vũ Trụ chưa thấy đâu, mà con người đã tự hủy diệt mình. Như thế có
đáng buồn không?!
Không thể trực
tiếp ăn vàng bạc, châu báu, ngọc ngà để sống được. Ấy vậy mà ai cũng thèm khát
chúng, trở nên tham tàn bạo ngược cũng vì chúng. Trong khi đó thiếu không khí vài
phút là chết ngạt; không có nước một đôi ngày là chết khát; không có miếng ăn một
vài chục ngày là chết đói. Nhưng chẳng ai đoái hoài đến không khí, ai cũng lạnh
nhạt với nước. Còn miếng ăn thì cũng… thích đấy, nhưng là thứ tầm thường, chẳng
ai xếp nó vào mục tiêu ưu tiên, thậm chí là ít nhớ đến nó trong hoạch định hoạt
động sống của mình…
Thứ gắn liền với
sinh mạng thì không quí, thứ không có nó cũng chẳng chết được thì quí. Thật kỳ
quái!... Mà cũng chẳng kỳ quái tí nào nếu đem đặt cái thói quen tâm lý quái quỷ
đó vào bối cảnh nền kinh tế, hàng hóa. Nó chính là đứa con vô tình của thị trường
tự do vô cảm, nhưng nguyên nhân sâu xa hơn là “tại” tự nhiên: muốn làm nổi trội
mình, làm hấp dẫn mình để được ưu tiên hưởng thụ khoái cảm trong quan hệ duy trì
nòi giống, hưởng thụ miếng ăn ngon, nhiều hơn trong hoạt động kiếm ăn của bầy đàn.
Theo hướng này có thể tìm thấy được nguồn gốc của ý thức thẩm mỹ và quan niệm
thẩm mỹ ở loài người!...
Có ba thứ thuộc
nhu cầu tiêu dùng thiết yếu nhất của con người được cho là dồi dào vô tận là: ánh
sáng mặt trời (ở dạng ẩn giấu), không khí và nước uống (nổi trội hơn!). Giả sử
rằng hoạt động sống của loài người không ảnh hưởng tiêu cực gì đến những “nhu yếu
phẩm” tự nhiên, sẵn có ấy (nhớ là giả sử thôi đấy nhé!), thì khi sự mất cân đối
toàn diện, toàn cầu xảy ra, khi mà sự sống còn bị đe dọa nghiêm trọng hàng ngày
hàng giờ bởi sự chết đói và chưa có phương hướng vượt thoát, lúc đó vấn đề giải
quyết có miếng ăn sẽ là mối quan tâm chủ yếu, được đặt lên hàng đầu, lương thực
thực phẩm “đắt đỏ kinh khủng”, trở thành thứ quí báu nhất, còn vàng bạc, châu báu,
ngọc ngà mất giá đến độ có khi là “hết sạch”.
Thời công nghiệp
hóa, hiện đại hóa dồn dập, kéo theo phát triển du lịch, mở rộng đô thị tràn
lan… của đất nước, nhu cầu về xây dựng đã bê tông hóa biết bao nhiêu đất trồng
trọt mà vẫn không đủ, làm nên những “cơn sốt đất” hầm hập, giá cả đất đai tăng
vòn vọt đến choáng váng, chóng mặt. Nhiều người đùa: đến giờ mới hiểu được câu
thành ngữ “Tấc đất tấc vàng”. Thực ra, chúng ta chưa giác ngộ được cái ý nghĩa
thâm sâu hơn nhiều của sự đúc kết dân gian ấy. Cái giá đất tưởng như đã cao vút
đụng đến trời xanh kia của ngày hôm nay hóa ra là chẳng nhằm nhò gì nếu mai
sau, buộc phải chuộc đất đó về, cải tạo nó lại thành đất trồng trọt để cứu đói…
Biết đâu chừng? Thủy Tinh ơi - Biển ơi, đừng dâng lên nhiều nhé!
Có cách nào làm
cho cái viễn cảnh mất cân đối toàn diện và toàn cầu không xảy ra không? Có lẽ
không mà cũng có thể là có! Sự lựa chọn một trong hai khả năng đó là tùy thuộc
vào tốc độ đạt đến của trình độ buộc phải có của khoa học - kỹ thuật - công nghệ
và ý thức chờ đợi của loài người, nhưng
trước tiên, hãy tiết giảm tiêu dùng, tiết kiệm và tái tạo có hiệu quả nguồn tài
nguyên, bảo vệ môi trường, đất đai trồng trọt, nguồn nước ngọt… Nghĩa là phải định
hướng cho đúng, khống chế và điều tiết một cách có kế hoạch đối với nền sản xuất
hàng hóa trước tham vọng và thèm muốn còn mù quáng của con người…
Đang chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Không dưng,
lại đứng ra bói toán cho tương lai loài người. Có “lạc quẻ” không đấy? Không lạc
quẻ thì cũng lạc đề!
Không, không lạc
đề đâu! Chỉ vì hứng chí mà nói quá ra ngoài lề thôi! Ý chúng ta là muốn có cơ sở
để diễn đạt điều này. Sau khi đạt đến cực thịnh, nước Văn Lang tiếp tục sự phát
triển tự nhiên của nó theo hướng suy thoái dần do xuất hiện những mất cân đối từ
thời kỳ thịnh vượng tạo ra và không được khắc phục như: trình độ tiêu dùng tăng
lên những khả năng đáp ứng của nền kinh tế không tăng mà thậm chí là giảm xuống
do hiện tượng tăng nhanh dân số; sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng trở nên sâu
sắc mà nông dân là người hứng chịu đói khổ đầu tiên trong khi tầng lớp ở “kiến
trúc thượng tầng” vẫn cứ xa hoa thừa mứa. Có thể rằng quyền lợi giữa hai lực lượng
ấy đã trở thành đối kháng cùng với nạn đè đầu cưỡi cổ, tham quan lại nhũng đã là
duyên cớ trực tiếp làm cho xã hội Văn Lang vào những đời vua Hùng cuối cùng đã
trở nên loạn lạc…
Không loại trừ
khả năng thời bấy giờ vùng đất mà tộc người Âu Việt đã nằm trong lãnh thổ có thể
chế “liên bang nguyên thủy” Văn Lang, hoặc đóng vai trò như một nước kiểu “chư
hầu”. Lạc Việt và Âu Việt là anh em, có quan hệ huyết thống bởi cùng có gốc
chung là Bách Việt và suốt thời gian dài đã kề vai sát cánh bên nhau trong sự
nghiệp chung khai thiên lập địa, là hai tộc người lớn nhất trên lãnh thổ Việt Nam cổ
đại. Hai tộc người ấy chẳng có lý do gì để mà tiêu diệt lẫn nhau. Đất nước lầm
than, nhân dân đói khổ, áp bức bóc lột đè nén đã làm cho nhân dân phản kháng. Các
vua Hùng những đời cuối với quan niệm về dân về nước đã lệch lạc và trở nên phản
động, đã chỉ còn cách duy nhất là nuôi dưỡng bạo lực (lấy hung bạo mà thay cho
trí nhân). Chính hành động đàn áp đó, dù nhất thời là hữu hiệu để bảo vệ ngai vàng
nhưng thực ra làm cho thế nước ngày càng yếu đi và yêu cầu đổi mới toàn diện đất
nước ngày càng bức thiết. Chính trong hoàn cảnh đó mà các thủ lĩnh người Âu Việt
đã đứng lên tập hợp lực lượng, trước hết là tộc người của họ để chống lại bạo lực
cường quyền và đồng thời nhận lãnh nhiệm vụ vì dân mà đổi mới đó. Ở đây, những luận
điểm có tính chân lý: “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”; “Đại nghĩa sẽ thắng
hung tàn”, đã được thể hiện bằng sự nổi dậy đấu tranh vũ trang của các thủ lĩnh
Âu Việt và vì là chính nghĩa, phù hợp với ý nguyện của nhân dân, được lòng dân
hướng về, nên đã đánh bại quân đội triều vua Hùng tại chân thành Cổ Loa, mở ra
thời kỳ mới, sáng sủa hơn cho đất nước. Bản thân việc đổi tên nước từ Văn -
Lang thành Âu - Lạc và việc tiếp tục duy trì Cổ Loa làm kinh đô của Thục Phán đã
phần nào nói lên được cái ý nghĩa tốt đẹp của cuộc nổi dậy ấy.
Tuy vậy, cái hồi
ức về một thời đại thịnh vượng dài lâu (dù cũng có thăng có trầm), trong đó có
những giai đoạn cực thịnh của đất nước, xóm làng an vui, đời sống dân lành ấm
no, hạnh phúc đã không bao giờ mất; cái công lao vĩ đại của triều đại Hùng Vương
đã không bao giờ bị lãng quên trong dân gian - trong lòng dân tộc Việt (Nhờ đức
tính truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” đã được hun đúc
nên trong chính thời đại đó!). Và… cũng không thể quên được sự thực lịch sử và
công lao của Thục Phán - An Dương Vương. Có lẽ vì thế mà truyền sử dân gian sau
này chỉ lưu lại thời đoạn bi kịch của triều đại Hùng Vương một cách “triền miên”,
hoặc nếu có mô tả thì cũng ở dưới dạng ẩn dấu chứ không nỡ nêu tên trực tiếp để
bêu rếu tổ tiên, và những mô tả ấy đã bị làm sai lạc đi bởi dã tâm (hay đơn giản
chỉ là sự ngộ nhận?) của những kẻ đô hộ nước ta sau đó? Có lẽ cũng vì thế mà lịch
sử nước ta giai đoạn này trở nên rối rắm, chứa đựng nhiều mâu thuẫn?
Không nên bôi bác
lịch sử! Đúng thế! Nhưng nếu lịch sử đó có thể đã từng bị quá khứ bôi bác và chưa
một lần tường minh? Không được bóp méo lịch sử! Đúng thế! Nhưng nếu lịch sử đó
chưa bao giờ tròn (cả về sự ghi nhận các sự kiện lẫn cách hiểu chúng!)?
Sự thực lịch sử
bao giờ cũng chỉ là sự thực qui ước. Qui ước đó có gần sát chân lý hay không, lại
phụ thuộc vào “thực chứng” và quan niệm. “Thực chứng” nói được là nhờ sự phân tích
lý giải, mà phân tích, lý giải “liến thoắng” bằng cánh nào nếu không dựa trên cơ
sở quan niệm đầy chủ quan chưa qua kiểm chứng hoặc đã qua kiểm chứng rồi mà… vẫn
sai?
“Ôn cố tri tân”
là con đường độc đạo đến với chân lý; nhận thức và nhận thức lại là quá trình cơ
bản để tìm hiểu tự nhiên - xã hội, để nhận chân được Tự Nhiên Tồn Tại. Trong
khoa học đã xảy ra như thế và trong nghiên cứu lịch sử lại càng phải như thế! Vậy
thì có nên viết lại một lịch sử mà quá khứ đã thừa nhận, nhưng bộc lộ những hỗn
độn và khuất tất, dù vẫn chẳng có bằng chứng xác đáng nào; dù chỉ là trên cảm tính
chủ quan?
Nên hay không nên
thì cũng mặc kệ, khách quan hay chủ quan thì cũng mặc kệ, đã là con người thì
không thể thờ ơ trước một lịch sử hỗn độn mà mình yêu thương, chúng ta cứ viết
lại lịch sử theo cách nghĩ của một con dân yêu Tổ Quốc mình của một hậu duệ tôn
kính tổ tiên mình, như một đóng góp phản biện, và trong khi chờ “thực chứng” đích
thực, chúng ta sẽ lấy đó làm “chính sử” cho tâm hồn mình.
Về thời điểm
triều đại vua Hùng sụp đổ, có sách cho là vào năm Giáp Thìn - 257 TCN, nhưng những
chính sách khác lại chọn năm 208 TCN. Vì chọn như thế nên sách trước cho rằng Triệu
Đà chiếm được Âu - Lạc vào năm 208 và sách sau bảo vào khoảng 179 TCN. Mặt khác,
theo giáo sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát (tức Thượng tọa Thích Trí Siêu) lý giải (rất
có lý) thì Âu - Lạc tồn tại như một nước độc lập đến tận năm 43; không có một lúc
nào bị phong kiến phương Bắc xâm chiếm cả. Vậy thì nên tạm nhìn nhận giai đoạn
lịch sử đó như thế nào?
Có thể sự thể là
như thế này: Trong thời đại đồ đồng, đất Tây Âu do có mỏ đồng, thiếc nên thế lực
ngày càng mạnh, lãnh địa ngày càng mở rộng, trở thành một “bang” mạnh của Văn
Lang, và ngày càng không thần phục Triều Hùng nữa. Năm Giáp Thìn, 257 TCN, thủ
lĩnh Âu Việt đứng lên xưng vương, đặt tên vùng lãnh địa đang chiếm giữ là Tây Âu,
đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phúc) trung tâm quyền lực xưa kia, của thời
đại Lạc Long Quân - Âu Cơ và là cố đô của những triều đại đầu thời Hùng Vương.
Triều Hùng đã nhiều phen cất quân đi đánh dẹp mà không được. Thủ lĩnh Tây Âu cũng
tổ chức nhiều trận tấn công đánh phá nhưng đều thất bại. Tuy nhiên, Tây Âu càng
đánh càng mạnh và đến năm 208 TCN thì chỉ huy Tây Âu lúc đó là Thục Phán đánh
chiếm được Cổ Loa, lật đổ triều Hùng, và sau khi dẹp yên mọi bề xưng là An Dương
Vương, cải tên nước Văn Lang thành Âu - Lạc. (Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy
Tinh mô tả hiện tượng thiên nhiên của vùng sông nước lụt lội cũng như công cuộc
trị thủy gian khổ của đất nước nhưng có thể đó là “cách nói mượn” về cuộc chiến
tranh giữa Vua Hùng và Thục Phán khi dân gian đã để cho câu chuyện đó xảy ra vào
thời Vua Hùng thứ 18. Ngay cả chuyện Nỏ thần với tình sử Mỵ Châu - Trọng Thủy và
kết cuộc bi đát của nó, nếu cho rằng đó không phải là cuộc chiến tranh giữa Triệu
Đà và Thục Phán mà là giữa Thục Phán và Vua Hùng đời thứ 18 thì nghe vẫn có lý
như thường, thậm chí là hợp lý hơn, hay hơn!)
Nước Âu Lạc sóng
yên biển lặng được ngót 30 năm thì có lẽ đến năm 179 TCN, khi An Dương Vương mất,
triều đình trở nên hỗn loạn, đất nước lại bước vào thời kỳ rối ren, loạn lạc, nạn
cát cứ nổi lên. Dẫu thế, về mặt hình thức, triều đình Âu - Lạc vẫn tồn tại, cơ
sở xã hội truyền thống kiểu lạc hầu, lạc tướng về thực chất vẫn không thay đổi.
Cùng thời kỳ này, bên Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sáp nhập sáu nước sau nhiều năm hỗn chiến thời Chiến Quốc. Ông tiếp tục tham vọng xâm chiếm Bách Việt, vùng đất đai của các bộ tộc Việt ở phía nam Trung Quốc và bắc Việt Nam ngày nay. Đạo quân xâm lược nhà Tần do Đồ Thư chỉ huy đã đánh chiếm nhiều vùng đất của Bách Việt, nhập vào lãnh thổ Trung Hoa. Khi vào lãnh thổ phía Đông Bắc nước Âu Lạc, quân Tần gặp phải cuộc kháng chiến trường kì của người Việt do Thục Phán chỉ huy.
Quân Tần đi đến đâu, dân Âu Lạc làm vườn không nhà trống đến đó. Quân Tần chiến đấu trong nhiều năm, Đồ Thư tổ chức tấn công-tiêu diệt không hiệu quả, dần lâm vào tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Khi quân nhà Tần đã kiệt sức vì thiếu lương, thì quân dân Âu Lạc do Thục Phán chỉ huy mới bắt đầu xuất trận, quân Tần muốn tiến hay lui đều bị người Âu Lạc bủa vây đánh úp. Quân của Thục Phán đánh tập kích bất ngờ và dùng cung nỏ
tấn công quân Tần. Đồ Thư lúc này mới hối hận, không biết chớp thời cơ,
bỏ mạng trong trận này. Mất chủ tướng, quân Tần hoang mang mở đường
tháo chạy về nước.
Sử ký Tư Mã Thiên mô tả tình trạng quân Tần lúc bấy giờ như sau:
"Đóng binh ở đất vô dụng… Tiến không được, thoái không xong.
Đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người
ta phải thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau".
Sau gần 10 năm kháng chiến, nhân dân Âu Việt giành được độc lập. Thục Phán củng cố và xây dựng lại đất nước.
Sau chiến thắng trước quân Tần, danh tiếng của Thục Phán vang vọng khắp vùng. Một trong những thủ lĩnh Văn Lang là Cao Lỗ, đã giúp An Dương Vương xây củng cố Thành Cổ Loa trên nền tảng cũ thêm đồ sộ, vũng chắc và sáng chế nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát). Ông ra lệnh cho cấp dưới ra sức huấn luyện cho hàng vạn binh sĩ ngày đêm
tập bắn nỏ. Còn mình thì thường giám sát tập bắn ở trên "Ngự xa đài".
Bộ cung Âu Lạc thời bấy giờ vang danh khắp nơi là bất khả chiến bại, được xưng tụng sánh ngang với kỵ mã nhà Tần, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.
Theo "Sử ký Tư Mã Thiên", trong khoảng thời gian này 208 TCN
- 207 TCN, quận úy Nam Hải là Nhâm Hiêu bị bệnh nặng rồi chết, giao
quyền cho cấp phó Triệu Đà. Triệu Đà nhân dịp đó giết hết những quan lại
nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cất quân đánh chiếm quận Quế Lâm, Tượng quận; tự xưng Nam Việt vương, chính thức ly khai khỏi nhà Tần. Để mở rộng lãnh thổ, Triệu Đà cho quân đánh xuống Âu Lạc.
Theo truyền thuyết của người Việt thì Triệu Đà dùng kế nội gián bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, Trọng Thủy, và con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục Âu Lạc, buộc An Dương Vương bỏ chạy và nhảy xuống biển tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.
Từ khi nhà Triệu tiêu diệt An Dương Vương và thiết lập quyền cai trị trên lãnh thổ Âu Lạc cũ, chế độ thống trị dừng lại ở cấp quận với đại diện là 2 viên quan sứ ở 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Đến khi nhà Tây Hán diệt nhà Triệu và mở ra thời kỳ Bắc thuộc (111 TCN), cấp độ thống trị vẫn ở cấp quận; chế độ các Lạc hầu, Lạc tướng
của người Việt với quyền thế tập trên lãnh thổ Âu Lạc cũ được các chính
quyền phương Bắc chấp nhận cho duy trì, nhưng ngày càng suy yếu. Trong hàng ngũ các Lạc tướng có sự phân hóa giữa một bên là những người
thực sự cộng tác với chính quyền nhà Hán, bên kia là những người chỉ
thần phục bên ngoài.
Nhà Đông Hán thành lập, Hán Quang Vũ Đế
tuy chưa dẹp xong các lực lượng cát cứ phương Bắc nhưng vẫn quan tâm
tới miền Nam. Tích Quang, Nhâm Diên làm Thái thú Giao Chỉ và Thái thú
Cửu Chân của nhà Hán, ra sức thực hiện chính sách đồng hóa,
thay đổi tập tục từ hôn nhân đến y phục, lễ nghĩa của người Việt bắt
theo người Hán, dẫn đến xúc phạm nặng nề tới phong tục cũ nhiều đời của
người Việt. Từ khi Tô Định
sang làm Thái thú Giao Chỉ năm 34, ách thống trị của nhà Đông Hán càng
nặng nề hơn với người Việt. Tô Định tàn bạo và tham lam, tăng cường phục
dịch và thuế khóa đối với người Việt để cống nạp cho triều đình nhà Hán
nhiều hơn, thúc ép các Lạc tướng nhiều hơn.
Sự đụng chạm lớn về văn hóa, tín ngưỡng và kinh tế khiến mâu thuẫn giữa
người Việt – không chỉ nhân dân mà cả các Lạc tướng – với chế độ thống
trị của nhà Hán ngày càng gay gắt. Vì vậy các Lạc tướng đã đoàn kết nhau lại để chống đối.
Trong thời kỳ đất
nước loạn lạc đó có hai cuộc nổi dậy mạnh mẽ nhất còn lưu sử sách là cuộc nổi dậy
“Tây Vu Vương” (Tây Vu là vùng đất lớn hợp với vùng Mê Linh, Chu Diên hợp thành
đất Hà Nội bây giờ, Cổ Loa thuộc vùng Tây Vu) khoảng năm 111 TCN, và cuộc nổi dậy
Hai Bà Trưng. Chúng ta đưa ra giả định khó tin rằng Tây Vu Vương chính là Thi Sách, bị
Tô Định giết và cuộc nổi dậy của ông đã bị dìm trong trứng nước (có thể thời gian xảy ra sự kiện đã lầm lẫn!!!).
Hai Bà Trưng là
tên dân gian gọi chung hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị. Họ đều là con gái lạc
tướng Mê Linh (vùng đất từ Ba Vì đến Tam Đảo, đất bản bộ cũ của các vua Hùng).
Chồng Trưng Trắc là Thi Sách, con trai lạc tướng vùng Chu Diên (vùng Đan Phượng,
Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội). Lãnh địa Chu Diên và Mê Linh gần kề nhau, hai gia
đình lạc tướng là thông gia, khiến thanh thế và uy danh của họ càng thêm lớn
mạnh. Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, hai nhà đồng lòng tập hợp lực lượng chống lại sự cai trị của nhà Hán và đã tập hợp được sự ủng hộ của khá nhiều thủ lĩnh địa phương khác.
Các sử gia thống kê số tướng lĩnh tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng: Khu vực Hà Tây cũ, Vĩnh Phúc và Phú Thọ: 75 người, khu vực ngoại thành Hà Nội (cũ, không bao gồm Hà Tây cũ): 28 tướng. Khởi nghĩa của Hai Bà Trưng diễn biến vào cuối năm 39 đầu năm 40 TCN
Sau khi Thi Sách bị Tô Định giết, Trưng Trắc và các Lạc tướng càng
căm thù, quyết tâm chống lại nhà Hán để trả thù. Bà cùng Trưng Nhị mang
quân bản bộ về giữ Hát Môn.
Ngày mồng 4 tháng 9 năm Kỷ Hợi (39), Trưng Trắc và Trưng Nhị tập hợp các tướng lĩnh cùng nhau làm Hội thề ở bãi đá Tràng Sa, cửa sông Hát (huyện Phúc Thọ, Hà Nội) thuộc huyện Mê Linh thời đó. Thiên Nam ngữ lục ghi lời thề của Trưng Trắc như sau:
- "Một xin rửa sạch nước thù
- Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
- Ba kêu oan ức lòng chồng
- Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này".
Từ Mê
Linh cuộc nổi dậy được các lạc tướng, lạc dân hưởng ứng, đã nhanh chóng lan ra
khắp nước Âu - Lạc. Sau khi đánh chiếm Cổ Loa (thuộc Tây Vu), quân thủy bộ của
Hai Bà Trưng “voi đi nườm nượp, thuyền bè tấp nập”, vượt sông Hoàng, sông Đuống,
xuôi sông Dâu; đánh chiếm Luy Lâu (thuộc Thuận Thành - Bắc Ninh)… Cuộc nổi dậy
có bước phát triển bộc phát vào khoảng tháng 3 năm 40 TCN, trở thành một lực lượng
vô địch và sau khi đánh dẹp, thu phục xong khoảng 65 thành thì cũng trong năm ấy
coi như giải quyết xong nạn cát cứ, lộng quyền trên cả nước.Các sử gia căn cứ theo các thần phả và truyền thuyết tóm lược trình tự cuộc khởi nghĩa như sau:
- Quân Hai Bà trước tiên tấn công đô úy trị quận Giao Chỉ ở Mê
Linh. Chiếm được nơi đây, Hai Bà Trưng tiến đánh huyện Tây Vu, chiếm
thành Cổ Loa.
- Trên đà thắng lợi, từ Cổ Loa, Hai Bà Trưng mang quân vượt sông
Hoàng, sông Đuống đánh trị sở Giao Chỉ ở Luy Lâu bên bờ sông Dâu (lãng
Lũng Khê, Thuận Thành, Bắc Ninh). Quân khởi nghĩa tấn công quá nhanh
khiến Tô Định không kịp trở tay. Trước thế mạnh của quân Hai Bà, các
viên quan cầm đầu không trở tay kịp và không dám chống cự, bỏ chạy về
phương Bắc.
- Thái thú Giao Chỉ là Tô Định
hoảng hốt cũng tháo chạy. Để thoát thân, Tô Định phải cạo tóc, cạo râu,
trà trộn vào loạn quân, vứt bỏ ấn tín mà chạy. Tương truyền người Việt
đương thời vẫn có tục lệ phổ biến là cạo tóc, nên Tô Định làm như vậy để
bắt chước cho khỏi bị phát hiện trên đường trốn.
Cuối cùng Tô Định thoát về quận Nam Hải, bị Mã Viện dâng sớ lên Hán
Quang Vũ Đế hạch tội “thấy tiền thì giương mắt lên, thấy giặc thì cụp
mắt xuống”. Vua Hán hạ ngục trị tội Tô Định.
- Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng được nhân dân khắp nơi hưởng ứng
rất nhiều. Sau khi Luy Lâu bị hạ, các thành khác nhanh chóng tan vỡ và
quy phục. Cuộc khởi nghĩa lan rộng vào Cửu Chân, Nhật Nam, sang Quế Lâm,
Hợp Phố,Tượng Quận,Thương Ngô,...
Sử Trung Hoa có chép:
“Trưng Trắc công phá châu quận, hàng phục được các lạc tướng, họ đều suy tôn Trắc
làm vua” (Thủy Kinh chú).
Có thể cho rằng cuộc nổi dậy của Hai bà Trưng là cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm đầu tiên của dân tộc ta và do phụ nữ lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa có mục đích kép là “trả
thù nhà” và chống áp bức hà khắc. Ý nghĩa lớn lao của cuộc nổi dậy
Hai Bà Trưng là như thế và cuộc nổi dậy đó (với một thủ lĩnh tài ba là “nữ nhi
thường tình”), là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử thế giới cổ đại. Cuôc nổi
dậy của Trưng Trắc, Trưng Nhị và sau này là của Triệu Thị Trinh đã phản ánh một
hiện thực của xã hội Việt Nam
thời đó. Nam nữ bình quyền hoặc không tồn tại quan niệm trọng nam khinh nữ (điều
này cũng thể hiện rõ trong chuyện Lạc Long Quân - Âu Cơ khi chia đôi đàn con để
“thuận vợ thuận chồng” đi khai trời mở đất).
Nước
Âu Lạc thống nhất được khoảng 3 năm và bình yên chưa được tới 2 năm. Chỉ thế thôi,
nhưng cái khoảnh khắc ngắn ngủi ấy đã trở thành dấu son tươi thắm, không phai mờ
trong tâm thức dân tộc Việt:
Đô Kỳ đóng cõi Mê
Linh
Lĩnh Nam riêng
một triều đình nước ta.
(Đại
Nam
quốc sử diển ca).
Mùa hạ năm 42,
vua Đông Hán bên Trung Quốc phong cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, chỉ huy
20 vạn quân thủy, bộ tiến đánh nước ta. Từ vùng ven biển Vịnh Hạ Long, quân thủy
bộ của Mã Viện ngược sông Bạch Đằng đến Lục Đầu rồi đánh sâu vào nội địa, đến Lăng
Bạc ở phía đông Cổ Loa, trên vùng đất cao thuộc các huyện Từ Sơn, Tiêu Du, tỉnh
Bắc Ninh ngày nay.
Nhằm chặn địch
từ xa, bảo vệ Mê Linh, Hai Bà Trưng cũng tập trung lực lượng, tiến quân từ Mê
Linh, qua Cổ Loa, tới Lăng Bạc. Một trận quyết chiến chiến lược đã nổ ra tại đó.
Quân của Hai Bà Trưng thiệt hại nặng, núng thế, phải lui về Cẩm Khê (một địa điểm
dưới chân núi Ba Vì) cố thủ. Tuy xu thế của cuộc chiến tranh về cơ bản đã được định
đoạt, xong Hai Bà Trưng vẫn quyết tâm chống giặc đến cùng. Hàng loạt trận quyết
chiến nữa lại nổ ra, máu chảy đỏ sông Hồng, sông Đáy. Trong trận sống mái cuối
cùng, khi thế đã cùng và lực đã kiệt, không chịu để lọt vào tay giặc, Hai Bà Trưng,
chị trước em sau nhảy xuống dòng Hát Giang tuẫn tiết, hy sinh oanh liệt. Đó là
vào ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão - 43 (có sách nói là khoảng tháng 5 năm 43 theo
lịch Hán hoặc ngày 8 tháng 3 âm lịch theo sử ta). Theo truyền sử thì xác Hai Bà
Trưng trôi về đến làng Đông Nhân huyện Thanh Trì thì nhân dân nơi đó vớt được, đem
chôn cất và lập đền thờ ở bãi làng ấy.
Với thắng lợi của
Mã Viện, có thể nói lần đầu tiên, thế lực phong kiến phương Bắc đã chiếm được nước
ta. Thời kỳ lịch sử nước ta, từ năm 43 đến năm 938 được gọi là thời kỳ Bắc thuộc.
Trong thời kỳ ấy nhân dân ta đã liên tục khởi nghĩa hết cuộc này đến cuộc khác
nhằm chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc và đã không ít lần tạm thời giành
lại được đất nước…
Hai trăm năm
sau có một phụ nữ noi được tấm gương của Hai Bà Trưng, đó là Bà Triệu. Bà Triệu
tên thật là Triệu Thị Trinh, sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (8 tháng 11 năm 226) tại miền núi Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên (hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng
mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: “Lớn lên con sẽ đi đánh
giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị”. Cha mẹ đều mất sớm, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên.
Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Đến năm 19 tuổi gặp phải người chị dâu (vợ ông Đạt) ác nghiệt, bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa (nay thuộc các thị trấn Nưa huyện Triệu Sơn, xã Mậu Lâm huyện Như Thanh, xã Trung Thành huyện Nông Cống, Thanh Hóa), chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.
Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại.
Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm huyện trị Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã.
Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân.
Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng
đồng bằng con sông này.
Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời.
Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Bà đã
phối hợp với ba anh em họ Lý ở Bồ Điền đánh chiếm các vùng đất còn lại ở
phía Bắc Thanh Hóa ngày nay, đồng thời xây dựng tuyến phòng thủ từ vùng
căn cứ Bồ Điền đến cửa biển Thần Phù (Nga Sơn, Thanh Hoá)
để ngăn chặn viện binh của giặc Ngô theo đường biển tấn công từ phía
Bắc. Khi ra trận, Bà Triệu mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng,
cưỡi voi trắng một ngà và được tôn là
"Nhụy Kiều tướng quân".
Quân Bà đi đến đâu cũng được dân chúng hưởng ứng, khiến quân thù khiếp
sợ. Theo truyền thuyết, để mua chuộc, giặc đã phong cho Bà Triệu đến
chức
"Lệ Hải Bà Vương" (nữ vương xinh đẹp của vùng ven biển), còn
bí mật sai tay chân thân tín tới gặp và hứa sẽ cấp cho Bà thật nhiều
tiền bạc, nhưng Bà cũng chẳng chút tơ hào.
Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền liền phái tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam
hiệu úy, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi,
tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương để
làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân. Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền.
Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong
trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng
vững được trong hơn hai tháng.
Bà Triệu chống đỡ với quân Đông Ngô được năm, sáu tháng thì thua. Sau 6 tháng chống cự
ngoan cường không nao núng, cuối cùng vì có kẻ phản trắc do bị giặc mua chuộc,
Triệu Thị Trinh đã tuẫn tiết, hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa). Bấy giờ, Bà Triệu
mới có 23 tuổi. Về sau, Lý Nam
Đế sai lập miếu thờ. Nay ở Phú Điền (Thanh Hóa) vẫn còn đền thờ Bà Triệu.
Theo truyền thuyết, sau khi tìm thấy thi thể nữ chủ tướng, ba anh em họ
Lý đã đắp mộ chu toàn cho Bà ngay trên đỉnh núi. Không bao lâu sau đó,
ba ông cũng đã tuẫn tiết dưới chân núi Tùng để giữ trọn lời thề với nữ
chủ tướng của mình.
Trong dân gian hiện cũng còn truyền tụng nhiều câu thơ:
Ru con con ngủ cho lành,
- Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi.
- Muốn coi, lên núi mà coi,
- Có bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng.
- Túi gấm cho lẫn túi hồng
- Têm trầu cánh kiếm cho chồng ra quân.
-
- Và một câu nói được cho là của bà: "Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người!"
Chúng ta quay lại
với câu chuyện sử của Thủ Đô!.
***
Dưới ách đô hộ,
bóc lột, nô dịch và đồng hóa của nhà Đông Hán, Tổ quốc ta đã không còn tên nước,
mà bị phân thành ba quận là Giao Chỉ, Cửu Châu và Nhật Nam. Chế độ Lạc tướng bị bãi bỏ
thay bằng chế độ quận huyện. Tuy nhiên nhà Đông Hán không dễ gì mà xóa bỏ được
cái nền tảng xã hội, phong tục tập quán lâu đời, đã sâu rễ bền gốc trong đời sống
dân tộc Việt. Chính Mã Viện khi “điều tấu” đã nhận xét: “luật Việt và luật Hán
khác nhau tới hơn 10 việc” (Hậu Hán Thư). Vào thế kỷ III, thái thú Tiết Tống dâng
sớ lên vua Ngô: “Giao Châu đất rộng, người đông, hiểm trở, độc hại, dân xứ ấy rất
dễ phản loạn, rất khó cai trị” (Ngô Chí). Hoặc năm 282 thứ sử Giao Châu là Đào
Hoàng tâu sớ lên Tấn Vũ Đế, có đoạn: “Người Châu ấy, kẻ biết lễ nghĩa Trung Hoa
thì ít, chán sự yên vui, thích gây nổi loạn, chỉ có thể dùng binh mới trấn ngự được,
gần như không khi nào được yên luôn trong năm ngày”
Sau khi Trưng Vương
tử tiết, Mã Viện tâu lên vua Đông Hán là huyện Tây Vu có 32.000 hộ, địa giới cách
xa huyện lị hàng nghìn dặm (khoảng 400 km) nên chia làm ba: Tây Vu thu nhỏ (nay
là Tiên Sơn - Hà Bắc), Phong Khê với trung tâm là Cổ Loa và Vọng Hải (bắc Đông
Anh).
Miền đất Hà Nội
ở tả ngạn sông Hồng ấy đến năm 271 được nhà Ngô lập thành quận Vũ Bình với các
huyện Phong Khê, Bình Đao; đầu thế kỷ VI được gọi là Châu Hưng, rồi sau đó là
Châu Phong, cái tên này có suốt thời thuộc Đường (Trung Hoa) đến tận đời Lý của
ta.
Riêng nội thành
Hà Nội và vùng ven đô, trước là những làng quê thuộc Tây Vu đời Hùng - Thục,
thuộc huyện Tây Vu và Phong Khê vào thời thuộc Hán, huyện Vũ An và Nam Định thời
thuộc Ngô (thế kỷ III) và thuộc Tấn (thế kỷ IV); mãi đến thế kỷ V, trung tâm Hà
Nội vẫn chưa có tầm quan trọng đáng kể trong lịch sử Băc thuộc và chống Bắc thuộc
của đất nước. Giữa thế kỷ V, trung tâm Hà Nội cổ trở thành một huyện mang tên Tống
Bình. Đến thế kỷ VI, nó được nâng lên thành quận Tống Bình, gồm 3 huyện: Nghĩa
Hoài, Tuy Ninh ở nam sông Hồng (tức Từ Liêm, Hoài Đức ngày nay) và Xương Quốc ở
bắc sông Hồng (vươn tới Tận Cổ Loa, Đông Anh). Năm 545, Lý Nam Đế “dựng thành lũy bằng tre gỗ ở
cửa sông Tô Lịch” (sách Lương Thư), Hà Nội có thành quách từ đó.
Sang thế kỷ
VII, nhà Tùy khôi phục lại quận Giao Chỉ đời Hán gồm cả miền đồng bằng Bắc Bộ với
trung tâm di chuyển từ Long Biên (Hà Bắc) đến Tống Bình (Hà Nội). Sau đó, đến lượt
nhà Đường đặt Giao Châu tổng quản phủ kiêm quản 10 châu trong đó có Tống Châu vào
năm 621 (miền nội thành Hà Nội cổ).
Năm 679, nhà Đường
lập An Nam đô hộ phủ, đặt chức kinh lược sử An Nam quản 12 châu (từ Bắc Bộ vào
Trung Bộ ngày nay), trụ sở đóng ở Tống Bình (tức nội thành Hà Nội ngày nay). Từ
đây cho tới đầu thế kỷ X, miền nội thành Hà Nội liên tục trở thành đại bản
doanh, thành dinh lũy chủ yếu của chính quyền đô hộ. Một hệ thống thành quách
ngày càng đồ sộ liên tiếp mọc lên trên đất Tống Bình nhằm bao che cho lũ cướp nước
và cản phá phong trào phản kháng của nhân dân Tống Bình cũng như của cả nước; bắt
đầu bằng Tử Thành (thành con) của viên tổng quản Khâu Hóa xây năm 621 bên bờ Tô
Lịch, chu vi khoảng 1674m, kết thúc bằng Đại La Thành của viên tiết độ sứ Cao
Biền đắp lại năm 865 - 866 với chu vi 5580m. Hà Nội - Tống Bình thời kỳ này đã đông
đúc và mở rộng. Giao Châu (châu thổ sông Hồng) có 55 hương thì Tống Bình chiếm
11 hương. Dân cư nội ngoại thành, theo sử nhà Đường là 15 vạn, có 40 vạn gian
nhà trong nội thành Đại La. Về bộ máy cai trị, phủ thành đô hộ An Nam khi ấy có
khoảng 4200 quan lại, thêm vào đó là khoảng 4-5 ngàn, có lúc lên đến 100.000 quân
đồn trú.
Nhu cầu phục vụ
cho trấn áp và bóc lột của nhà nước đô hộ đã làm cho Kẻ Chợ phình to!
Suốt thời Bắc
thuộc, nhân dân Hà Nội cổ đã nhiều phen nổi dậy trong phong trào chung của cả nước
chống ách đô hộ phương Bắc, bảo vệ lối sống riêng, giành lại chủ quyền dân tộc.
Trong số những
cuộc khởi nghĩa có liên quan mật thiết tới lịch sử Thủ Đô, đầu tiên phải kể đến
cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Lý Bí. Nguyên nhân dẫn đến cuộc KN Lý Bí là do chính sách cai trị tàn bạo của
nhà Lương (Nhà Lương (502-557), còn gọi là nhà Nam Lương, là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ Nam-Bắc triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề và trước thời kỳ của triều đại Trần. Kinh đô đặt tại Kiến Khang, nay là Nam Kinh)
với nhân dân Giao Châu. Chúng thực hiện chính sách phân biệt
đối xử với người Việt, nhân dân phải chịu tô thuế nặng nề khiến đời sống
dân khổ cực.
Đầu năm 542, Lý Bí, người hào trưởng đất
Thái Bình (đôi bờ sông Hồng, mạn Sơn Tây, phía tây - bắc Hà Nội ngày nay) liên
kết hào kiệt các châu nhất tề nổi dậy. Thứ sử Giao Châu, “một kẻ tàn bạo, mất lòng
dân” (Lương Thư) phải chạy trốn về Quảng Châu. Sau 3 tháng, nghĩa quân chiếm được
châu thành Long Biên (Bắc Ninh cũ). Cuộc khởi nghĩa của Lý Bí được sự ủng hộ của nhân dân khắp nơi, nhiều
anh hùng hào kiệt đã tham gia vào nghĩa quân như Triệu Túc và Triệu
Quang Phục ở Chu Diên, Phạm Tu ở Thanh Trì, Tinh Thiều ở Thái Bình, Lý
Phục Man ở Cổ Sơ.
Tháng 4/542, Lý
Bí đánh tan quân phản kích nhà Lương, hoàn toàn làm chủ đất nước. Mùa đông năm ấy,
nhà Lương tập trung quân chuẩn bị tiến đánh báo thù. Đầu năm 543, nhà Lương vẫn chưa từ bỏ ý định tiếp tục cho quân sang tấn công quân ta lần 2. Quân
ta nghênh chiến và đánh địch tại Hợp Phố. Nắm được tình hình địch, Lý
Bí chủ động tổ chức một trận tiêu diệt lớn, quân địch mười phần thì
chết đến 7 - 8 phần, số còn lại tan tác. Sau thời gian chống trả quyết
liệt, quân ta cũng đã giành được thắng lợi, buộc nhà Lương phải rút
quân. Khởi nghĩa Lý Bí dành thắng lợi.
Sau khi giành thắng lợi, xuân Giáp Tý
(năm 544) Lý Bí lên ngôi hoàng đế, tự xưng là Nam Việt đế (Lý Nam Đế), đặt quốc hiệu là Vạn
Xuân, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Lý Nam Đế xây dựng triều đình mới
với 2 ban: ban văn và ban võ. Ban võ do Phạm Tu đứng đầu, ban văn do
Tinh Thiều đứng đầu. Đây được coi là 2 cánh tay đắc lực giúp vua cai quản mọi
việc.
Nói thêm, tổ tiên Lý Bí
là người Trung Quốc lánh nạn sang nước ta, đến Lý Bí là đời thứ 7. Chính sử
Trung Hoa đều coi Lý Bí là “Giao Châu cổ nhân”. Cha mẹ chết sớm, Lý Bí được một
vị Pháp tổ thiền sư mang về nuôi dạy tại chùa Linh Bảo. Lúc nhỏ, Lý Bí trông khôi
ngô, tuấn tú, chăm học nên sau trở thành người học rộng, hiểu sâu, tài kiêm văn
võ. Theo nghiên cứu của mình, giáo sư Lê Mạnh Thát giả định vào khoảng năm 390 -
470, nước ta có một ông vua mà sử sách của cả Trung hoa và Việt Nam đều
không thấy ghi chép. Có 6 lá thư trong “Đại tạng kinh” chữ Hán, mang nội dung
trao đổi giữa hai pháp sư Đạo Cao và Pháp Minh với một “sứ quân” của Giao Châu
tên là Lý Miễu, với lời lẽ coi ông này “ở địa vị của một bậc thiên tử”. Đối chiếu
danh sách những chức danh tương đương với “sứ quân” như “thái thú”, “thứ sử”
Trung Quốc cử sang thì không thấy tên Lý Miễu. Từ đó Giáo sư Lê Mạnh Thát cho rằng
đã từng có một vị vua như ông giả định và người đó chính là Lý Miễu. Theo chúng
ta, có lẽ Lý Miễu chỉ cát cứ một vùng, tự xưng Vương, tương tự như một sứ quân
thời Đinh Bộ Lĩnh: có lẽ nào Lý Miễu là nhân vật đâu đó, thuộc hàng cố, cụ của
Lý Bí?
Các nhà địa lý
học hiện nay, trên cơ sở khoa học, đều thừa nhận Hà Nội là “thủ đô tự nhiên” của
đồng bằng Bắc Bộ. Nhận ra được vị thế ưu việt của mảnh đất Hà Nội, chọn đóng đô
ở đó, quả thật Lý Bí đã có cái nhìn sắc sảo. Chính Nam Việt Đế (hay còn gọi là
Lý Nam
Đế) là người đã cho xây dựng một ngôi chùa lớn ở phường Yên Hoa (Yên Phụ) lấy tên
là Khai Quốc sau này trở thành một trung tâm Phật giáo lớn của nước ta. Chùa
Khai Quốc là tiền thân của chùa Trấn Quốc trên đảo Cá Vàng (Kim Ngư) ở Hồ Tây,
Hà Nội.
Cuộc khởi nghĩa Lý Bí kết thúc thắng lợi và mang lại ý nghĩa vô cùng to lớn:
Ý
nghĩa lớn nhất của cuộc khởi nghĩa Lý Bí là nước Vạn Xuân được thành lập, có
nhà nước riêng, chế độ cai trị tự chủ, đưa đất nước thoát khỏi ách thống
trị của nhà Lương. Cuộc khởi nghĩa Lý
Bí đã giành lại được độc lập cho nước ta, thể hiện được ý chí, lòng yêu
nước và tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Sử cũ (Đại Việt sử ký) đã bình luận rằng,
với quốc hiệu mới, người đứng đầu nhà nước Vạn Xuân có "ý mong xã tắc
được bền vững muôn đời". Lý Bí là người
Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế, Việt đế theo sử Bắc (Tự trị thông
giám) hay Nam đế theo sử Nam. Và bãi bỏ chính sóc (lịch) của Trung Quốc,
ông cũng đặt cho Vạn Xuân và triều đại mới một niên hiệu riêng, Đại Đức
theo sử Bắc hay Thiên Đức theo sử Nam (Thiên Đức phải hơn, vì khảo cổ
học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý Nam Đế). Xưng
đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy
Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức
dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển
một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm "bá chủ toàn
thiên hạ" của hoàng đế phương bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự
khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc
lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh
của mình.
Lý
Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước
của miền sông nước Tô Lịch. Hà Nội cổ, từ giữa thế kỷ 6, bước lên hàng
đầu của lịch sử đất nước. Cơ
cấu triều đình mới, hẳn còn sơ sài, nhưng ngoài hoàng đế đứng đầu, bên
dưới đã có hai ban văn võ. Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng
võ, Triệu Túc làm thái phó, Lý Phục Man được cử làm tướng quân coi giữ
một miền biên cảnh, từ Đỗ Động (Thanh Oai, Hà Sơn Bình) đến Đường Lâm
(Ba Vì) "để phòng ngừa Di Lão" Triều đình Vạn Xuân là mô hình, lần đầu
tiên, được Việt Nam thâu hóa và áp dụng của một cơ cấu nhà nước mới,
theo chế độ tập quyền trung ương. Lý Nam Đế cho xây một đài Vạn Xuân để
làm nơi văn võ bá quan triều hội.
Tháng 6 năm 545, vua Lương là Lương Vũ Đế (Tiêu Diễn) cử Dương Phiêu, Trần Bá Tiên, là tướng giỏi nhà Lương cùng Tiêu bột kéo quân sang xâm lược Vạn Xuân. Lý Nam Đế chặn đánh chúng ở vùng Lục Đầu
(thuốc Hải Hưng) nhưng bị thua, phải rút về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội).
Không bao lâu, thành vỡ, lão tướng Phạm Tu tử trận, nhà vua phải rút quân, ngược
sông Hồng về giữ thành Gia Ninh (thuộc vùng đồi núi Việt Trì). Quân Lương đuổi
theo, đánh chiếm được thành, nhà vua cùng quân tướng tiếp tục rút chạy vào miền
núi Vĩnh Phú. Tại đây, được nhân dân ủng hộ, Lý Nam Đế nhanh chóng khôi phục lực lượng
lên đến vài vạn người để tiếp tục kháng chiến. Tướng nhà Lương là Trần Bá Tiên
lại tiến đánh. Hai bên đụng độ quyết liệt. Trong một trận bị tập kích bất ngờ,
quân Lý Nam Đế thua, một bộ phận cùng nhà vua rút vào động Khuất Lão (Tam Nông,
Vĩnh Phú), bộ phận còn lại do người anh nhà vua là Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật Tử
(một người trong họ), chỉ huy rút vào Thanh Hóa. Ngày 20 tháng 3 năm Mậu Thìn
(tức 13-4-548) Lý Nam
Đế bệnh, mất.
Triệu Quang Phục được trao toàn bộ binh quyền, vốn thông thuộc miền
sông nước, ông đưa hơn một vạn quân về một vùng đồng lầy mênh mông, lau sậy um
tùm, gọi là Đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Hải Hưng), vừa tổ chức trồng lúa tự túc
lương thực vừa tổ chức đánh du kích.
Năm 550, sau thời gian bị vây hãm, biết nhà
Lương có loạn to, giặc đã suy yếu, Triệu Quang Phục chuyển sang phản công toàn
diện đánh tan quân xâm lược nhà Lương, thu lại Kinh đô, khôi phục lại nền độc lập
cho đất nước, tự xưng là Triệu Việt Vương.
Lại nói, bị quân
Lương đuổi đánh, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử từ Thanh Hóa chạy tiếp sang Lào, đóng
ở động Dã Năng. Năm 555, Lý Thiên Bảo chết, binh quyền về tay Lý Phật Tử. Năm
557, Lý Phật Tử kéo quân về đánh Triệu Việt Vương, đòi lại ngôi nhà Lý. Đánh không
thắng, Phật Tử xin hòa, Triệu Việt Vương nghĩ tình Lý Nam Đế xưa, thuận chia đất
cho Phật Tử: Phật Tử đóng ở Ô Diên (làng Đại Mỗ, Từ Liêm), Triệu Việt Vương đóng
Long Biên, lấy bãi Quần Thần (làng Thượng Cát, Từ Liêm) làm ranh giới. Không những
thế Triệu Việt Vương còn gả con gái là Cải Nương cho con của Phật Tử là Nhã
Lang để tỏ tấm chân tình hòa hiếu. Ấy vậy mà Phật Tử đem lòng phản trắc, ngấm
ngầm chuẩn bị lực lượng. Năm 571, Phật Tử bất ngờ khởi binh đánh Triệu Việt Vương.
Triệu Việt Vương trở tay không kịp, bỏ chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường,
nhảy xuống biển tự vẫn. Người đời sau lập nhiều đền thờ ông ở vùng cửa biển Đại Nha (Đại Nha có tên khác là Đại Ác, thời nhà Lý đổi là Đại An), nay là cửa Liêu (cửa sông Đáy). Các đền thờ tập trung chủ yếu ở vùng ven biển hai tỉnh Ninh Bình và Nam Định.
Phật Tử xưng đế
(không thấy ghi đế gì?! Đời sau gọi là Hậu Nam Đế), đóng trung tâm ở Cổ Loa(?) được 30 năm.
Nhà Tùy thống
nhất Trung Quốc vào đầu năm 602 huy động một lực lượng gồm 27 doanh quân (mỗi
doanh có 5000 người) sang chinh phục nước ta. Lý Phật Tử sớm đầu hàng, bị bắt
giải về Tràng An. Nước ta lại rơi vào ách đô hộ.
Nhận định về Lý Phật Tử, các soạn giả của "Đại Việt Sử ký Toàn thư" viết:
"Vua dùng thuật gian trá để gồm lấy nước, mới thấy bóng giặc đã hàng trước, việc làm trước sau đều phi nghĩa".
Tuy nhiên phong
trào khởi nghĩa giành quyền tự chủ của nhân dân cả nước nói chung và của vùng Hà
Nội nói riêng vẫn sôi nổi như của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng…
Mai Thúc Loan
quê ở Mai Phụ, Thạch Hà, Hà Tĩnh, con nhà nghèo, không biết cha là ai (sách
“Thiên Nam Ngũ Lục” chép: mẹ của Mai Thúc Loan đến xem nấu muối, bị một làn khói
ngũ sắc bao lấy mình mà có thai), mẹ chết sớm do bị hổ vồ. Lớn lên, Mai Thúc
Loan có sức khỏe phi thường, lừng danh đô vật và đánh giết được cả hổ dữ, rất được
dân trong vùng khâm phục.
Chuyện dân gian kể rằng trong một lần cùng đoàn dân phu gánh trái vải (cũng có thể gánh món hàng khác) đi nộp
cống, thấy một tên lính áp tải ức hiếp, đánh đập một người phu già, Mai Thúc
Loan nổi nộ khí, xuống tay quá mạnh, giết chết tên lính. bọn lính còn lại cầm gươm
giáo xông đến. Mai Thúc Loan chống lại. Toàn bộ dân phu rút đòn gánh, theo Mai
Thúc Loan thổi bùng lên cuộc bạo động, đánh tan tác đám lính. Cuộc bạo động kích
thích khối phẫn uất đã sưng tấy lâu ngày bục vỡ thành cuộc khởi nghĩa được hưởng
ứng bởi trăm họ. Mai Thúc Loan trở thành thủ lĩnh, trù tính, lên kế hoạch, chọn Rú Đụn (còn gọi là Hùng
Sơn) làm căn cứ địa.
Không để cho giặc kịp tổ chức đàn áp, Mai Thúc Loan cùng
nghĩa quân chớp thời gian, đánh thẳng vào Châu tự (thủ phủ một châu), phát hịch
kể tội giặc Đường. Sau khi mở rộng được địa bàn, Mai Thúc Loan xây thành Vạn An
với qui mô một kinh thành, liên kết với các thủ lĩnh miền núi để tăng cường thêm
lực lượng. Trước khi tiến ra Bắc đánh phủ đô hộ, Mai Thúc Loan được quân dân tôn
xưng là Mai Hắc Đế (ông vua đen họ Mai; có như thế là vì Mai Thúc Loan ngay từ
nhỏ đã có nước da sạm đen). Mai Hắc Đế tiến binh đánh thành Tống Bình (Hà Nội ngày nay), Đô hộ nhà Đường là Quang Sở Khách cùng đám thuộc hạ không chống cự lại được, phải bỏ thành chạy về nước.
Sau một trận giao tranh ác liệt. Mai Hắc Đế đã chiếm
được phủ thành Tống Bình (Hà Nội). Đất nước được giải phóng, nhân dân khắp nơi
nô nức theo, lực lượng nghĩa quân ngày một đông. Lực lượng Mai Hắc Đế lúc đó lên tới chục vạn quân.
Tuy nhiên, nhà Đường
đang thời còn thịnh. Mùa thu năm Nhâm Tuất (722), Nhà Đường bèn huy động 10 vạn quân do tướng Dương Tư Húc và Quang Sở Khách sang đàn áp. Quan quân nhà Đường tiến theo đường bờ biển Đông Bắc và tấn công thành Tống Bình. Sau nhiều trận đánh khốc liệt từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, thành Vạn An thất thủ. Không đương nổi đội quân xâm lược, Mai Hắc Đế phải rút vào rừng, tìm kế đánh lâu
dài. Sau bị bệnh rồi mất, nghĩa quân tan vỡ theo. Quân Đường tàn sát nhân dân
ta vô cùng dã man, xác người chất thành gò cao. Người đời sau cảm phục Mai Hắc Đế,
lập đền thờ và đề thơ ca ngợi, có đoạn:
“Hùng Cứ Hoan Châu
đất một vùng
Vạn An thành lũy
khói hương xông
Bốn phương Mai Đế
lừng uy đức
Trăm trận Lý Đường
phục võ công…”
(Vua
Đường họ Lý nên gọi là Lý Đường)
Tương truyền, con trai thứ ba của ông là Mai Thúc Huy lên ngôi vua tức Mai Thiếu Đế, tiếp tục chống trả các cuộc tấn công của nhà Đường tới năm 723.
Đời sau nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ ông ở trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn. Ngày nay tại địa phận thị trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn có khu di tích tưởng niệm ông.
Khoảng năm 766 -
779, thủ lĩnh vùng Đường Lâm (chân núi Ba Vì) là Phùng Hưng và em là Phùng Hải
nổi dậy, đem quân bao vây phủ thành An Nam (Hà Nội ngày nay). Viên đô hộ lo sợ,
phát bệnh chết. Sau khi tiến công phủ thành thắng lợi, Phùng Hưng duy trì quyền
tự chủ đến năm 791. Nhân dân tôn ông là Bố Cái Đại Vương.
Cho tới nay ngày sinh của ông vẫn chưa rõ. Các sách chính sử như "Đại Việt Sử ký Toàn thư", "Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục" ghi ông mất năm 802, chỉ một thời gian ngắn sau khi đuổi được giặc phương Bắc. Một nguồn dã sử cho biết ông sinh ngày 25 tháng 11 năm Canh Tý (tức ngày 5 tháng 1 năm 761) và mất ngày 13 tháng 8 năm Nhâm Ngọ (tức ngày 13 tháng 9 năm 802), thọ 41 tuổi.
Phùng Hưng vốn là cháu bảy đời của Phùng Tói Cái – người đã từng vào trong cung vua Đường Cao Tổ thời niên hiệu Vũ Đức (618–626) dự yến tiệc và làm Quan lang ở đất Đường Lâm. Bố của Phùng Hưng là Phùng Hạp Khanh, một người hiền tài đức độ. Khoảng năm Nhâm Tuất (722) đời Đường Huyền Tông niên hiệu Khai Nguyên, Phùng Hạp Khanh đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (tức Mai Hắc Đế). Sau đó, ông trở về quê chăm chú công việc điền viên, trở nên giàu có, trong nhà nuôi nô tỳ có đến hàng nghìn người.
Phùng Hưng nối nghiệp cha và đã trở thành Hào trưởng đất Đường Lâm. Cho tới nay dân gian vẫn còn lưu truyền câu chuyện ông dùng mưu kế giết hổ dữ mang lại bình yên cho làng xóm. Việt Nam thời thuộc Đường gọi là An Nam đô hộ phủ,
khi đó đang nằm dưới ách cai trị hà khắc của bọn quan đô hộ. Các quan
đô hộ nhà Đường ra sức vơ vét của cải của người dân Việt Nam, bắt người
dân Việt phải đóng sưu cao thuế nặng khiến lòng người ngày càng căm
phẫn.
Cao Chính Bình, Hiệu úy châu Vũ Định (miền Việt Bắc) giúp Kinh lược sứ An Nam là Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và (Java) ở Chu Diên, sau đó được cử làm đô hộ An Nam. Chính Bình ra sức vơ vét của cải của nhân dân, đánh thuế rất nặng.
Sách "Việt điện u linh" chép rằng: "Giữa niên hiệu Đại lịch nhà
Đường (766–779), nhân An Nam có loạn, anh em Phùng Hưng đem quân đi tuần
các ấp lân cận, đánh đâu được đấy. Phùng Hưng đổi tên là Cự Lão hiệu là
Đô Quân, Hải cũng đổi tên là Cự Lực, hiệu là Đô Bảo. Phùng Hưng dùng kế
của người Đường Lâm là Đỗ Anh Hàn đem binh tuần hành mấy châu Đường Lâm, Trường Phong tất cả đều quy thuận, uy danh chấn động, muốn đánh lấy Đô hộ phủ."Theo "Việt sử tiêu án": "Ông Hưng cùng với em là Hải, xuất phục
được các làng ấp ở chung quanh, tự hiệu là Đô Quân, Hải là Đô Bảo, dùng
kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ, Chính Bình lo phẫn mà
chết, ông Hưng vào ở trong phủ, cho Hải làm Thái úy, rồi ông mất. Dân
chúng lập con Hưng là An làm Đô Phủ Quân".
Chính sử chép rằng Phùng Hưng cầm quyền cai trị không lâu sau đó đã qua đời
ngay trong năm 791. Các sử gia hiện nay xác định ông mất khoảng tháng 5
năm 791. Lăng mộ Phùng Hưng ngày nay nằm ở đầu phố Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền thờ ông được dựng lên ở nhiều nơi như quê hương Đường Lâm, đình Quảng Bá (Tây Hồ), đình Triều Khúc (Thanh Trì, Hà Nội), đình làng Đào Nguyên, xã An Thượng, huyện Hoài Đức, ngoại thành Hà Nội với lễ hội được tổ chức vào ngày 10 tháng 2 âm lịch.
Nổi tiếng ở thế
kỷ IX có một cuộc khởi nghĩa Dương Thanh (819 - 820). Dương Thanh là một hào trưởng
đã từng giữ chức thứ sử Hoan Châu của nhà Đường. Từ Tống Bình, ông phát quân
qua sông Cái rồi nửa đêm bất thần quay trở lại đánh úp phủ thành và giữ thành,
cầm cự hàng mấy tháng trời…
Cuối thế kỷ IX,
chớp thời cơ nhà Đường hấp hối, một hào trưởng ở đất Hồng Châu (Hải Dương) tên
là Khúc Thừa Dụ được dân chúng ủng hộ đã tiến quân đánh chiếm phủ thành Tống Bình
(Hà Nội) tự xưng là Tiết độ sứ. Nhà Đường buộc phải công nhận một sự đã rồi. Khúc
Thừa Dụ đã khéo léo ứng xử với phong kiến phương Bắc: độc lập thật sự, thần phục
danh nghĩa. Dù vẫn mang danh là một chức quan của nhà Đường, dù vẫn giữ nguyên
hình thức tổ chức của bộ máy đô hộ nhưng thực chất đó là chính quyền tự chủ (tất
cả bọn quan lại phương Bắc bị bãi bỏ, thay bằng người Việt), kết thúc về cơ bản
thời kỳ bị Bắc thuộc của nước nhà.
Lịch sử ghi nhớ công lao của Khúc Thừa Dụ như
là một trong những người đặt cơ sở cho nền độc lập dân tộc, ngay giữa trung tâm
Hà Nội. Ngày 11 tháng 9 năm 2009, đền thở Anh hùng dân tộc Khúc Thừa Dụ đã được khánh thành tại Hải Dương
Ngô Quyền là bộ
tướng của Dương Đình Nghệ, sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (tức năm 897) ở Đường
Lâm (Ba Vì, Hà Nội), cùng quê với Bố Cái Đại Vương. Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, một
hào trưởng có tài. Lớn lên, Ngô Quyền là một người cường tráng, tinh thông võ
nghệ, chí khí phi thường, “vẻ khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi như cọp, có
trí dũng, sức có thể nhấc vạc, giơ cao” (Đại Việt sử ký toàn thư). Vì có tài nên
được Dương Đình Nghệ trọng dụng, giao cai quản đất Ái Châu (Thanh Hóa) và ưu ái
gả con gái cho.
Năm 917, Khúc Hạo chết, Khúc Thừa Mỹ lên thay, cho người sang nhà Lương lĩnh tiết việt, muốn lợi dụng sự mâu thuẫn giữa nước Lương và Nam Hán để củng cố sự nghiệp tự cường của mình. Vua Nam Hán là Lưu Cung tức giận, xua quân chiếm cứ Giao Chỉ. Năm 923, tướng Nam Hán Lý Khắc Chính đem binh đánh, bắt được Khúc Thừa Mỹ, Lý Khắc Chính lưu lại Giao Chỉ.
Một hào trưởng người Ái Châu (thuộc Thanh Hóa ngày nay) là Dương Đình Nghệ
nuôi 3000 con nuôi, mưu đồ khôi phục. Ngô Quyền lớn lên làm nha tướng
cho Dương Đình Nghệ, được Dương Đình Nghệ gả con gái cho và giao quyền
cai quản Ái châu, đất bản bộ của họ Dương
Năm 930, Nam Hán
- một trong 10 nước cát cứ của Trung Hoa, ở Quảng Châu, cất quân xâm lược nước
ta. Nhưng từ Ái Châu (Thanh Hóa), một hào trưởng là Dương Đình Nghệ đã tiến quân
ra Bắc, vùng Hà Nội cổ, đánh thành Đại La. Vua Nam Hán được tin, vội đưa quân
sang cứu viện. Viện binh địch chưa đến kịp thì thành Đại La đã bị quân ta công
phá dữ dội. Quân địch trong thành tan vỡ, tướng chỉ huy là Lương Khắc Trinh chết
trận, thứ sử Lý Tiến cùng tàn binh thoát vây, trốn được về cũng bị vua Nam Hán
xử tội chết.
Quân cứu viện của
địch do tướng Trình Bảo chỉ huy định tổ chức bao vây Đại La. Dương Đình Nghệ chủ
động đem quân ra ngoài thành, đánh các doanh trại dã chiến của chúng. Quân địch
rối loạn, tan vỡ, Trình Bảo bị giết ngay tại trận. Cuộc kháng chiến kết thúc, nền
tự chủ của đất nước được khôi phục (931 - 937).
Dương Đình Nghệ
vẫn tự xưng là Tiết độ sứ. Năm 937, hào trưởng Phong Châu (Sơn Tây cũ, tây - bắc
Hà Nội) tên là Kiều Công Tiễn phản trắc, giết chết để đoạt chức Tiết độ sứ. Hành
động đó bị nhân dân phẫn nộ, phản kháng. Lại nghe tin Ngô Quyền sửa soạn cất
binh đi hỏi tội mình, Kiều Công Tiễn cả sợ, vội cầu cứu vua Nam Hán để từ một kẻ
phản chủ, “vươn lên” thành tên phản quốc. Lợi dụng thời cơ, Nam Hán phát động
cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai (lần này nguy hiểm hơn vì quân địch có Kiều
Công Tiễn nội ứng).
Trước tình hình
thù trong giặc ngoài đó, Dương Đình Nghệ gấp rút tập hợp lực lượng. Đầu mùa đông
năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền cùng quân sĩ vượt đèo Ba Dội, tiến như vũ bão vào
Đại La trị tội tên phản phúc Kiều Công Tiễn, bêu đầu hắn trước cổng thành rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán
Lúc này, con
trai vua Nam Hán là Hoằng Tháo, thừa lệnh cha dẫn quân theo đường thủy từ biển
tiến vào nước ta. Bản thân vua Nam Hán (tên là Lưu Cung) trực tiếp đem đại quân
áp sát biên giới nước ta để kịp thời yểm trợ cho con và điều nực cười là chưa đánh
chác gì, chưa biết thắng thua ra sao, đã chắc mẩm phong tước Giao Vương (Vương đất
Giao Chỉ) cho Hoằng Tháo.
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, họp tướng
tá, bàn rằng: “Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi
mệt, lại nghe tin Kiều Công Tiễn bị giết không còn người nội ứng, đã mất vía trước
rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được. Nếu ta sai người
đem cọc lớn vạt nhọn đầu, bịt sắt, đóng ngầm ở cửa biển trước, thuyền của chúng
nhằm khi nước triều lên tiến vào bên trong bãi cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự,
không kế gì hay hơn kế ấy”, và khẩn trương bày binh bố trận tại vùng hạ lưu và
cửa sông Bạch Đằng.
Tháng 12 năm
938, khi nước triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ quân Nam Hán đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều
rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiến quân ra đánh, ai nấy đều liều chết
chiến đấu. Quân Nam Hán không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống
rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nửa. Thế là chỉ trong vòng một ngày và với một trận đánh lớn, toàn bộ binh thuyền giặc
bị đánh tan tành, Hoằng Tháo bị đâm chết tại trận. Vua Nam Hán nghe tin đại bại,
kinh hoàng phải khóc lên, vội vàng rút quân, từ bỏ hoàn toàn ý đồ xâm lược nước
ta.
Sau chiến thắng
vĩ đại ấy, ngày 10 tháng 1 năm Kỷ Hợi (tức ngày 1 tháng 2 năm 939) Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độ sứ, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội),
củng cố trật tự triều chính, đặt ra các chức quan văn võ, qui định nghi lễ
trong triều. Thật đáng tiếc, Ngô Quyền mới tại ngôi được 6 năm (939 - 944) thì
mất trong lúc nước nhà đang rất cần đến ông và tài năng ông đang ở độ sung mãn.
Nhà sử học Việt
Nam
thế kỷ XVIII, Lê Văn Hưu nhận xét: “Tiền Ngô Vương (tức Ngô Quyền) có thể lấy
quân mới họp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoàng Thao, mở nước,
xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói là một cơn
giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy” (Đại Việt Sử Ký).
Ý nghĩa định đô
tại Cổ Loa - Đô cũ đã có từ hàng ngàn năm trước, từ Văn Lang đến Âu Lạc, của Ngô
Quyền thật lớn lao. Sử cũ ghi: “Ngô Quyền đóng đô ở Cổ Loa tỏ ý nối tiếp quốc
thống xưa của An Dương Vương”; “chính thống của nước Việt ta đã nối lại được”.
Có thể nói chiến
thắng Bạch Đằng Giang đã chấm dứt 9 thế kỷ Bắc thuộc và là thắng lợi cuối cùng,
vang dội của cuộc đấu tranh liên tục chống Bắc thuộc của Dân tộc Việt, thêm nữa,
như nhà sử học Ngô Thì Sĩ (thế kỷ XVIII) viết: “… là cơ sở sau này cho việc phục
lại quốc thống. Những chiến công các đời Đinh, Lê, Lý, Trần vẫn còn nhờ vào cái
uy danh lẫm liệt để lại ấy. Trận Bạch Đằng này là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn
thu, há phải chỉ lừng lẫy ở một thời bấy giờ mà thôi đâu” (Việt sử tiêu án).
Còn Trần Trọng Kim thì chép trong "Việt Nam sử lược": "Ngô
Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá
được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu
danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được
ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần về sau này được tự chủ ở cõi Nam vậy".
Ngô Quyền mất, đất
nước như vô chủ, các thế lực địa phương nổi lên cát cứ, tranh quyền đoạt lợi, gây
nên cái nạn mà sử gọi là “loạn 12 sứ quân”. Vùng đất trời Hà Nội cổ như bị lịch
sử bỏ quên hơn nửa thế kỷ.
***
Đinh Tiên Hoàng
người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con của Đinh Công Trứ, một
nha tướng của Dương Đình Nghệ giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Cha mất sớm, Bộ Lĩnh
theo mẹ về quê. Thuở nhỏ cùng chơi với trẻ chăn trâu, lấy bông cỏ lau làm cờ bày
đánh trận giả, thường cầm đầu, vì thế sau gọi là “tướng quân cờ lau”.
Lớn lên, Bộ Lĩnh
cùng chú dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông.
Sau, giữa hai người xảy ra bất hòa, Bộ Lĩnh sang với sứ quân Trần Minh Công ở Bồ
Hải Khẩu (Kiến Xương, Thái Bình). Thấy Bộ Lĩnh có tài thao lược và chí khí,
Minh Công giao cho nắm binh quyền. Khi Trần Minh Công qua đời, Bộ Lĩnh đem quân
về giữ Hoa Lư, chiêu mộ thêm hào kiệt, lực lượng ngày một lớn mạnh.
Cuộc hỗn chiến
của 12 sứ quân, không những làm cho đời sống dân chúng bất ổn, khổ sở mà còn gây
cảnh chia cắt lãnh thổ đất nước, hao mòn lực lượng quân sự, làm thế nước ngày một
yếu đi. Trong khi đó ở Trung Hoa, nhà Tống đã thành lập, chấm dứt tình trạng Ngũ
Đại Thập Quốc, thống nhất lãnh thổ và đang ra sức xây dựng thành một đế chế hùng
mạnh theo gương nhà Đường trước kia. Để đối phó với nguy cơ đó và cũng là thể
theo nguyện vọng của nhân dân, cần phải nhanh chóng thống nhất đất nước, thống
nhất các lực lượng, xây dựng và tập trung nhân tài vật lực, chuẩn bị mọi mặt dưới
sự điều hành, chỉ huy của một chính thể trung ương duy nhất. Thời cuộc đã chọn Đinh
Bộ Lĩnh để đặt lên vai ông vận mệnh đất nước và ông đã đáp ứng được một cách xuất
sắc nguyện vọng thiết tha của Dân Tộc, đã hoàn thành trọng trách đối với thời đại
ấy của lịch sử.
Đinh Bộ Lĩnh dấy
binh, đánh đâu thắng đó, được tôn xưng là Vạn Thắng Vương. Trong vòng một năm, ông
bình định xong các sứ quân và năm mậu Thìn (968), thì lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu
là Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng
xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn võ, phong cho Nguyễn Bặc
là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn là Thập Đạo Tướng Quân (tổng chỉ huy quân đội),
phong cho Đinh Liễn, con ông là Nam Việt Vương. Để tránh đụng độ với nhà Tống,
năm 972, Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua Tống
phong cho Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ Quận Vương.
Đinh Tiên Hoàng
làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.
Con út Đinh Tiên
Hoàng là Đinh Toàn mới 6 tuổi lên nối ngôi. Mẹ của Toàn là Dương Thị (Dương Vân
Nga) được tôn làm hoàng thái hậu (còn gọi là Dương Thái Hậu). Vì vua còn nhỏ, Dương
Thái Hậu giao cho Lê Hoàn quyền chấp chính thay vua. Các tướng của Đinh Tiên Hoàng
là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp sợ Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, bèn họp nhau
khởi binh đánh. Lê Hoàn được tin cấp báo, ra quân giết sạch.
Lê Hoàn quê ở
Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa; được sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, “bố dỡ
dó, mẹ xó chùa”. Cha mẹ mất sớm nên ngay từ bé, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một
vị quan nhỏ, người cùng họ. Lớn lên, Lê Hoàn theo Đinh Liễn. Trong công cuộc dẹp
“loạn 12 sứ quân”, ông là người lính dũng cảm, là chỉ huy tài năng, có công lớn
giúp lập nên cơ nghiệp nhà Đinh, nên được phong chức Thập đạo tướng quân, Diện
tiền đô chỉ huy sứ (Tổng chỉ huy quân đội kiêm chỉ huy đội quân cấm vệ) trong
triều đình Hoa Lư.
Nghe tin Đinh
Tiên Hoàng mất, triều đình nước ta rối ren, các đại thần phân biệt, tranh chấp
gay gắt, nhà Tống cho rằng thời cơ xâm chiếm nước ta đã tới. Mùa thu năm 980,
vua Đường một mặt động binh tiến đánh nước ta, mặt khác sai Lư Đa Tốn đưa thư
sang đe dọa, lời lẽ rất trịch thượng: “Giao Châu của ngươi, xa ở cuối trời… thực
là chỗ thừa của bốn chân tay…, vì thế cần mở lòng ngu tối cho ngươi để thấm nhuần
thánh giáo của ta, ngươi có theo không? Huống chi đời Lý Đường từng đã là đất của
Trung Hoa, cuối Đường vì nhiều khó khăn chưa kịp khu cử, nay Thánh triều ta lòng
nhân trùm muôn nước… mong ngươi đến chầu cho mình ta được vui khỏa, để ngươi khỏi
cái tủi úp mặt vào góc nhà mà làm rầy cho ta, nếu khiến ta phải dùng đến kế chặt
xác băm xương, làm cỏ nước ngươi thì lúc ấy hối sao kịp nữa. Dù là biển của ngươi
có ngọc châu, ta ném xuống suối, núi của ngươi có sẵn vàng, ta quăng vào bụi,
không phải là ta tham của báu của ngươi… Ngươi có theo ta không? Chớ rước lấy tội
lỗi. Ta đang chuẩn bị xe ngựa quân lính, sắp sửa các thứ chiên trống, nếu qui
phục thì ta tha cho, nếu trái lệnh thì ta quyết đánh. Theo hay không, lành hay
dữ, tự ngươi nghĩ lấy”
Lê Hoàn không
nao núng, tích cực cùng toàn dân chuẩn bị kháng chiến, một mặt khẩn trương lập
thế trận chờ địch, một mặt cho người đem thư sang nhà Tống cầu hòa, xin cho Đinh
Toàn được nối ngôi cha để làm kế hoãn binh. Lúc này có một sự kiện mà người đời
sau tốn không ít bút mực để cảm khái. Khi Lê Hoàn cử Phạm Cự Lạng là Đại tướng
quân đem binh đi chống giữ, Cự Lạng cùng các tướng vào thẳng cung nói với mọi
người rằng: “Thưởng người có công và phạt kẻ không vâng lệnh, đó là phép hành binh.
Bây giờ chúa thượng hãy còn thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút
công lao thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn ngay Thập Đạo Tướng Quân lên làm
Thiên Tử, sau sẽ ra quân cũng chưa muộn”. Ở hoàn cảnh khác, đó là câu nói phản
nghịch, dễ bị chém bêu đầu như chơi! Thái Hậu Dương Vân Nga nghĩ gì trước câu nói
đó? Giữ ngôi cho con hay thuận ý Cự Lạng? Dù chuyện hậu trường có thế nào đi chăng
nữa thì hành động lấy áo long bào choàng lên vai Lê Hoàn của bà đã là một sự lựa
chọn sáng suốt, thức thời, được lịch sử nước nhà ghi nhớ một cách trân trọng. Đó
là một sự lựa chọn dứt khoát và hoàn toàn đúng đắn: làm yên lòng quân sĩ; chỉ có
tài năng Lê Hoàn mới có thể đảm đương được tình hình nghiêm trọng và cần kíp của
đất nước lúc đó; sự sống còn của Dân Tộc phải được ưu tiên hàng đầu. Hình ảnh
Thái Hậu Dương Vân Nga choàng áo long bào lên vai Thập Đạo Tướng Quân - Lê Hoàn
trong sự hò reo vang trời dậy đất của quân sĩ thật vô cùng đẹp đẽ. Và “nữ nhi
thường tình” Dương Thị đã là hậu duệ xứng đáng của những Âu Cơ, Trưng Trắc, Trưng
Nhị, Triệu Thị Trinh.
Lê Hoàn lên ngôi
vua (lập nên triều đại mà sử gọi là Tiền Lê), lấy hiệu là Đại Hành nên thường gọi
là Lê Đại Hành. Ông cho quân mai phục chờ địch ở Chi Lăng và noi gương Ngô Quyền,
lập bãi cọc ở lòng sông Bạch Đằng.
Mùa xuân năm
984, quân Tống do các tướng Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Trần Khâm Tô chỉ huy
ồ ạt kéo sang Lạng Sơn, trong lúc cánh quân của Lưu Trường, Giả Thực theo đường
thủy tiến về phía sông Bạch Đằng. Ở Bạch Đằng, quân ta lúc đầu vờ thua chạy để
nhử địch, sau đó quay lại đánh dồn dập làm chúng thiệt hại nặng, không còn đủ sức
tiến sâu vào nội địa nước ta. Trên bộ, khi quân tướng nhà Tống vừa đến Chi Lăng,
bị quân ta đánh úp, chém chết Hầu Nhân Bảo. Nghe tin cánh quân Hầu Nhân Bảo
thua nặng, Trầm Khâm Tộ vội rút chạy, bị quân ta truy kích. Quá nửa quân số của
cách quân Trần Khâm Tộ bị tiêu diệt. Quân xâm lược nhà Tống đại bại. Vua Tống
“quê độ”, tức giận sai chém Tôn Hoàng Hưng ở chợ Ung Châu, bắt giam đến chết Lưu
Trường và Giả Thực.
Thắng lợi to lớn
và nhanh chóng của Lê Đại Hành trong cuộc chống xâm lược nhà Tống đã củng cố vững
chắc niềm tin vào khả năng tự vệ của dân tộc và mở ra kỷ nguyên bách thắng trước
những cuộc xâm lăng của phong kiến phương Bắc.
Lê Đại Hành mất
năm 1005 (Ất Tỵ), thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm. Nhưng triều Tiền Lê còn tồn
tại thêm 4 năm nữa, qua hai đời vua là Lê Trung Tông (trị vì có 3 ngày thì bị
Long Đĩnh giết chết) và Lê Long Đĩnh (hoang dâm và bạo ngược như Kiệt, Trụ: mắc
bệnh không ngồi được, phải nằm mà ngự triều nên tục còn gọi là “Lê Ngọa Triều”)
Tiếp theo triều
Tiền Lê là triều Lý (1009 - 1225) mà người khai lập là Lý Công Uẩn.
Lý Công Uẩn
sinh năm Giáp Tuất (974), người làng Cơ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh). Theo truyền
thuyết, cha thân sinh ra ông là một người nghèo khó, đi làm ruộng thuê, ở chùa
Tiêu Sơn (An Phong, Bắc Ninh), phải lòng một tiểu nữ làm nàng có mang (có sách
nói mẹ Lý Công Uẩn nằm mơ thấy giao cảm với thần núi Tiêu Sơn mà có mang sinh
ra ông). Sư trụ trì thấy thế đuổi đi. Hai vợ chồng dẫn nhau đến khu rừng Báng,
mệt mỏi ngồi nghỉ. Chồng khát nước, tìm đến chỗ có giếng ở giữa rừng để uống,
chẳng may sẩy chân xuống giếng, chết đuối. Vợ ngồi chờ lâu không thấy, đến tìm
thì thấy đất đã đùn lấp giếng rồi, ngồi khóc một hồi rồi vào chùa Ứng Tâm gần đấy
xin ngủ nhờ.
Ông sư trụ trì
chùa Ứng Tâm (tên là Lý Khánh Vân), đêm hôm trước nằm mơ thấy Long Thần báo mộng:
“Ngày mai dọn chùa cho sạch, có Hoàng Đế đến!”. Nhà sư tỉnh dậy, sai tiểu quét
dọn sạch sẽ, chực đợi từ sáng đến chiều, chỉ thấy một người đàn bà có mang xin
vào ngủ nhờ. Nhà sư lấy làm lạ, hỏi rằng: “Chồng con quê ở đâu?”. Người đàn bà
kể tên họ nhà chồng và chuyện sa xuống giếng. Nhà sư nghe vậy, cho ở nhờ ngoài
cửa tam quan. (Có một thuyết khác nói rằng Lý Công Uẩn chính là con của Vạn Hạnh,
anh ruột Lý Khánh Vân).
Được vài tháng,
một đêm, cả chùa thơm nức, nhà sư thức dậy nhìn ra tam quan thì thấy sáng rực lên.
Nhà sư sai bà hộ chùa ra thăm thì người đàn bà ấy đã sinh ra một đứa con trai,
hai bàn tay có bốn chữ son: “Sơn hà xã tắc”. Lúc đó, bỗng nhiên trời nổi cơn mưa
to gió lớn, xem ra thì người đàn bà sinh con xong đã chết. Nhà sư sai đem chôn
người mẹ xấu số ở mảnh vườn sau chùa, còn đứa bé thì được nhà chùa cưu mang từ đó.
Đứa bé được đặt tên là Lý Công Uẩn (mang họ của sư trụ trì Lý Khánh Vân), có tư
chất thông minh và cũng rất tinh nghịch. Chuyện kể rằng, có lần oản chưa kịp dâng
cúng đã bị ai đó khoét ruột ăn mất. Đêm đến, được Long Thần về báo mộng, sáng
ra, nhà sư gọi Lý Công Uẩn đến mắng. Uẩn hỏi: “Ai nói với ông như thế?”. Nhà sư
kể chuyện Long Thần báo mộng, Uẩn đem lòng tức, lẻn vào chùa đánh vào cổ ông
Long Thần ba cái rồi viết sau lưng tượng bốn chữ: “Lưu tam thiên lý” (đày đi xa
ba ngàn dặm). Long Thần lại báo mộng cho sư: “Hoàng Đế đã đuổi tôi rồi. Chào ông
ở lại”. Nhà sư vội vàng vào chùa soát xem thì thấy mấy chữ ấy trên lưng tượng
Long Thần bèn sai tiểu lấy nước chùi rửa ngay nhưng không sao sạch được; chỉ
khi bảo Uẩn rửa thì chú ta chỉ nhổ nước bọt chùi cũng sạch ngay.
Khi 8, 9 tuổi,
nhà sư cho Công Uẩn theo học ông sư tên là Vạn Hạnh bên chùa Tiêu Sơn. Một lần
không thuộc bài, bị sư trói lại bắt nằm dưới đất, đến đêm Uẩn ta nghêu ngao:
“Canh khuya không
dám dang chân duỗi
Vì
sợ non sông, xã tắc xiêu.”
Vạn Hạnh thấy có
khẩu khí thiên tử, tự bấy giờ đem lòng quí trọng Uẩn lắm.
Công Uẩn lớn lên
tỏ rõ chí khí khác thường. Ông tìm đến Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê đến chức Tả
thâu vệ điện tiền chỉ huy sứ, đến thời Lê Long Đĩnh vẫn được tin dùng, giữ chức
Tư tướng quân chế chỉ huy sứ, thống lĩnh hết quân túc vệ.
Bấy giờ ở làng
Cổ Pháp có cây gạo cổ thụ bị sét đánh tước mất vỏ ngoài, lộ ra mấy câu sấm kỳ dị.
Vạn Hạnh đến xem, biết là điềm nhà Lê đổ, nhà Lý lên, bảo riêng Công Uẩn rằng:
“Xem ra thì chắc nhà Lý lên làm vua. Thiên hạ tuy có nhiều họ Lý nhưng không ai
có bụng nhân từ khoan thứ bằng ông; để cho lòng dân tin yêu nhiều thì ngoài ông;
không ai làm nổi”…
Cuối năm 1009,
Lê Long Đĩnh chết. Các triều thần, đứng đầu là Đào Cam Mộc cùng nhau suy tôn Lý
Công Uẩn lên làm vua (nhà Tiền Lê “đi” theo cách giống như “đến”, điều này phải
chăng là linh ứng: công tội phân minh, đúng sai tự xử?). Đào Cam Mộc khuyên Lý
Công Uẩn: “Hiện nay dân chúng khác lòng, trên dưới lìa ý, mọi người chán ghét
tiên đế hà khắc bạo ngược… đều có lòng suy tôn quan thân vệ. Bọn ta không nhân
lúc này cùng nhau tôn phù thân vệ làm Thiên tử, phút chốc có xảy ra tai biến,
chúng ta có giữ được đầu không?”
Sự thay đổi ngôi
vua từ nhà Lê sang nhà Lý, như sau này nhận định, chính là sự đổi mới theo đòi
hỏi của thời cuộc, phù hợp với lòng dân đã chán ghét triều đình Lê Long Đĩnh (với
một ông vua dâm ác vô đạo, với nhiều luật lệ khắc nghiệt như đặt vạc dầu lớn ở
sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, dùng vào việc xét xử, có thể là cần thiết
trong thời kỳ ly loạn, nước sôi lửa bỏng của tình hình đất nước trước đây, vẫn
còn được duy trì áp dụng…), muốn có một triều đại mới, khoan hòa hơn, đủ uy tín
để ổn định xã hội, phát triển đất nước…
Cuối năm 1009,
tại Hoa Lư, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Từ đây,
lịch sử Việt Nam
sang trang mới: Dân tộc Việt bước vào thời kỳ xây dựng đất nước trên quy mô lớn,
phục hưng toàn diện bản sắc và nền văn hóa truyền thống của mình. Trước yêu cầu
mới và to lớn của lịch sử, Kinh đô Hoa Lư thời Đinh - Lê, về vị trí địa lý đã
không còn đáp ứng được vai trò là thủ đô của cả nước.
Trước đây, triều
Đinh và triều Tiền Lê đến đóng đô ở Hoa Lư. Đó là vùng núi non hiểm trở, thích
hợp về mặt quân sự khi chính quyền còn non trẻ, phải đối phó với nhiều hiểm họa,
thù trong giặc ngoài. Sự lựa chọn vị trí làm kinh đô của triều Đinh - Lê vào
giai đoạn lịch sử đó có thể là hợp lý và trên thực tế, Hoa Lư đã làm tròn sứ mạng
của nó một cách xuất sắc. Thời này Hà Nội cổ vẫn mang tên cũ: Đô hộ phủ. Vua Đinh
cử đại thần thân tín là Lưu Cơ làm đô hộ phủ sĩ sư, cai trị miền Hà Nội. Tuy địa
vị chính trị và quân sự không bằng Hoa Lư, nhưng khoảng trời đất có núi Nùng sông
Tô ấy vẫn là nơi muôn vật giàu thịnh, đông vui.
Xuân năm 1010,
vua Lý từ Hoa Lư về thăm quê hương Đình Bảng có ghé thăm đất cũ Đại La và đã thấy
ngay được viễn cảnh của một kinh đô mới. Hà Nội đâu biết rằng nó đã được chọn lựa
để bắt đầu cuộc đời năng động, sôi nổi của Thủ đô Đại Việt, thỏa nguyện cái ý
chí thiêng liêng thoát ra từ thế núi hình sông, đã vang vọng từ rất sâu trong
ngàn xửa ngàn xưa.
Vua Lý - Lý Thái
Tổ đã nhận thức được sâu sắc tầm quan trọng về địa thế của một kinh đô. Theo ông,
việc định đô không thể “theo ý riêng”, không thể “tự tiện chuyển dời”, mà phải
nhằm “mưu toan nghiệp lớn”, tính kế cho con cháu muôn vạn đời. Ông cho rằng:
“thành Hoa Lư ẩm thấp, chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi
khác”. Vì thế, Lý Thái Tổ đã tự tay viết “Chiếu dời đô”, nói rõ lý do về quyết định
chọn thành Đại La làm đô thành mới của nước Đại Việt. Trong đó có đoạn: “Thành Đại
La ở giữa khu vực đất trời, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa nam, bắc, tây, đông
tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa,
dân cư không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh và phồn vinh, xem khắp nước Việt,
chỗ ấy là nơi hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của
kinh sư muôn đời”. Tất cả các quan văn võ trong triều đều vui mừng trước quyết định
ấy, họ nói: “Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng
lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế ai dám không
theo.” (Đại Việt sử ký toàn thư)
Mùa thu, tháng
7 lịch trăng năm Canh Tuất (1010), đoàn thuyền ngự của nhà vua từ Hoa Lư cập bến
thành Đại La. Lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng bay lên, Lý Thái Tổ bèn đổi tên
Đại La thành Thăng Long và từ phút đó cái tên Thăng Long đã gắn liền với biết
bao nhiêu chiến công rực rỡ của giai đoạn lịch sử vô cùng oanh liệt là thời Lý
- Trần, trong thiên anh hùng ca bất hủ về đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc
Việt. Và lịch sử ngàn năm văn hiến của thủ đô Hà Nội ngày nay cũng được định mốc
từ đây (nhưng như chúng ta đã trình bày thì cội rễ của nó đã có từ thời khai mở
đất nước).
Sau khi dời đô
về Thăng Long, công việc đầu tiên của triều Lý là kiến thiết cung điện làm nơi ở,
nơi làm việc của vua, quan, quí tộc và xây dựng thành lũy bảo vệ. Một cụm kiến
trúc trung tâm gồm tám điện ba cung đã được dựng lên: “phía trước là điện Càn
Nguyên, làm chỗ vua chầu, bên tả là điện Tập Hiền, bên hữu là điện Giảng Võ, lại
mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đoan Phượng thông với cung Uy
Viễn, hướng chính nam là điện Cao Minh, đều có Thềm Rồng, trong Thềm Rồng có hành
lang dẫn ra xung quanh bốn phía, sau điện Càn Nguyên lại có điện Long An, Long
Thụy làm nơi vua nghỉ, bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt
Minh, phía sau dựng hai cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ” (Đại Việt
sử ký toàn thư). Khu vực lâu đài cung điện đó được nhiều lần sửa chữa xây dựng
thêm, lớn nhất là vào năm 1029 và năm 1203. Trong lần tu bổ năm 1029, điện Càn
Nguyên đổi tên là điện Thiên An và một loạt kiến trúc được xây mới, trong đó có
lầu Chính Dương trông coi giờ khắc và hai lầu chuông ở hai bên Thềm Rồng để “dân
chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên.”
Khu cung điện của
vua và triều đình gọi là Đại Nội. Bao quanh khu vực này có một vòng thành bảo vệ
nghiêm ngặt gọi là Cấm Thành. Phía ngoài có vòng thành thứ hai gọi là Hoàng Thành
hay thành Thăng Long. Thành đắp bằng đất, phía ngoài đào hào, mở bốn cửa: Tường
Phù phía đông, Quảng Phúc phía tây, Đại Hưng phía nam và Diệu Đức phía bắc. Mười
vệ điện tiền cấm quân làm nhiệm vụ thường xuyên canh phòng và bảo vệ bên trong
Cấm Thành.
Thành Thăng
Long là khu vực thành thị quân vương, giữ vai trò đầu não của nhà nước trung ương
phong kiến tập quyền, trung tâm chính trị của cả nước. Phía ngoài là khu Thị -
Dân cư hay gọi là “thành thị dân sự”, bao gồm những xóm làng nông nghiệp, những
phố phường công thương nghiệp và một hệ thống bến - chợ của kinh thành, gọi là
Thành Đại La, hay La Thành, hay “Thăng Long ngoại thành”. Vòng thành này cũng được
đắp bằng đất với chức năng vừa là thành lũy phòng vệ, vừa là để ngăn ngừa lũ lụt.
Nhà Lý đã nhiều lần sửa chữa, tu bổ thành Đại La trên cơ sở tận dụng thành Đại
La cũ và địa thế tự nhiên của đất Thăng Long. Mặt đông, thành chạy dọc theo hữu
ngạn sông Hồng như một đoạn đê của sông này (từ Bến Nứa cho đến Ô Đống Mác); mặt
bắc dựa theo sông Tô Lịch phía nam Hồ Tây cho đến Yên Thái (đường Hoàng Hoa Thám),
mặt tây theo tả ngạn sông Tô Lịch từ Yên Thái đến Ô Cầu Giấy và mặt nam theo sông
Kim Ngưu qua Giảng Võ, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, nối với đê sông Hồng. Như vậy, trên
đại thể, thành Đại La được giới hạn khá rõ rệt bằng ba con sông: sông Hồng, sông
Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Trong qui hoạch tự nhiên của nó, thành cũng là đê và
sông cũng là hào.
Nét nổi bật của
Thăng Long là sự thích ứng và tận dụng tối đa những điều kiện tự nhiên, sự hài
hòa giữa những kiến trúc nhân tạo với cảnh sắc thiên nhiên. Diện mạo Thăng Long
đời Lý, hồ Dâm Đàm (hồ Tây), đền Voi Phục (năm 1044, vua còn sai đặt cũi lớn ở
Dâm Đàm, dùng voi thuần để nhử voi rừng!), đã làm cho chúng ta liên tưởng mãnh
liệt tới diện mạo Cổ Loa Thành, kinh đô thời Hùng Vương, nước Văn Lang (và hơn
thế nữa, cả hai đều gợi nhớ cách sắp xếp kiểu ba lớp trong hình Hà Đồ!).
Khu dân cư tập
trung ngoài Hoàng Thành tuy không được sắp xếp, bố trí chặt chẽ, nhưng do điều
kiện sinh sống cũng dần dần hình thành một qui hoạch hợp lý, độc đáo. Thăng
Long, cũng như các thành thị phương Đông nói chung, tuy có phân biệt với nông
thôn, nhưng không tách rời và đối lập với nông thôn. Ngay bên trong Thăng Long
cũng có một bộ phận kinh tế nông nghiệp gắn bó chặt chẽ với những xóm làng nông
nghiệp xung quanh.
Do nhu cầu từ sự
phát triển kinh tế, nhu cầu của vua quan và binh lính, do vị trí buôn bán làm ăn
thuận lợi, nhiều thợ thủ công và thương nhân các nơi tụ tập về Thăng Long. Phường
thủ công, phố xá, chợ búa dần dần mọc lên. Bên cạnh những nghề thủ công dân
gian là những xưởng thủ công của triều đình như xưởng đúc tiền, đóng thuyền, làm
vũ khí, xe kiệu của vua quan…
Triều Lý tồn tại
tương đối lâu, khoảng 216 năm với công cuộc xây dựng đất nước về mọi mặt đạt được
nhiều thành tựu to lớn, đã có được điều kiện về công sức của cải để kiến thiết
kinh thành và xây dựng nhiều công trình đồ sộ (đối với thời bấy giờ). Sử cũ ngợi
ca các tác phẩm kiến trúc điêu khắc đời Lý là “chạm trổ trang sức khéo léo, công
trình thổ mộc đẹp đẽ, xưa chưa từng có”.
Thời Lý, Phật
Giáo đã rất thịnh hành. Một loạt các chùa tháp do nhà vua và quí tộc bỏ tiền xây
dựng, tiêu biểu nhất là chùa Diên Hựu và tháp Báo Thiên.
Chùa Diên Hựu được
xây dựng năm 1049, dựa theo một giấc chiêm bao của vua Lý Thái Tông. Chùa được
dựng trên một cột đá giữa hồ nước rộng, tượng trưng một đóa sen nở, nên dân
gian còn gọi là Chùa Một Cột. Chùa được tu sửa nhiều lần và mở rộng thêm vào năm
1125. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh (chùa Đợi ở Hà Nam Ninh), mang niên hiệu
Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1126) còn ghi lại hình ảnh Chùa Một Cột thời Lý: “Đào hồ
thơm Linh Chiểu, giữa hồ vọt lên một cột đá, đỉnh cột nở đóa sen nghìn cánh, trên
bông sen dựng tòa điện đỏ sẫm, trong điện đặt pho tượng vàng, quanh hồ có hành
lang bao bọc, ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, bắc cầu vồng để đi lại, phía
sân trước cầu, hai bên tả hữu, xây bảo tháp lưu ly”. Rõ ràng qui mô và cấu trúc
của Chùa Một Cột đời Lý to lớn hơn nhiều so với Chùa Một Cột còn thấy ngày nay.
Năm 1080, một quả chuông lớn được đúc cho Chùa Một Cột, nhưng chuông ấy đánh không
kêu, nên bỏ ở ruộng chùa. Ruộng ấy thấy nhiều rùa, gọi là Qui Điền (ruộng rùa)
và do đó chuông đồng ấy được gọi là Chuông Qui Điền.
Tháp Báo Thiên
vốn còn có tên là tháp Đại Thắng Tư Thiên, ở chùa Sùng Khánh Báo Thiên. Tháp được
xây năm 1957 trên một gò đất cao bên cạnh hồ Lục Thủy (hồ Hoàn Kiếm), gồm 12 tầng,
đỉnh tháp đúc bằng đồng, cao sừng sững, từ rất xa đã nom thấy, được người đương
thời coi như công trình tiêu biểu của Thăng Long. Trong chùa Báo Thiên còn có một
quả chuông lớn, đúc hết 12000 cân đồng (hơn 7 tấn) với bài minh do Lý Thánh Tông
làm.
Chuông Qui Điền,
tháp Báo Thiên cùng với vạc phổ Minh (Hà Nam Ninh) và tượng Quỳnh Lâm (Quảng
Ninh) là bốn công trình nghệ thuật nổi tiếng nhất đời Lý, được ngợi ca là “tứ đại
khí”.
Ngoài chùa tháp,
Thăng Long còn có nhiều đền miếu như đền thờ Hai Bà ở phường Bố Cái (quận Hai Bà
Trưng), đền Bạch Mã phường Giang Khẩu (phố Hàng Buồm) thờ thần Tô Lịch, miếu Đồng
Cổ ở phía tây thành Đại La (gần Bưởi) thờ thần Trống Đồng (biểu tượng của văn
minh Việt cổ thời dựng nước… Tại miếu Đồng Cổ, hàng năm, vào ngày 4 tháng 4, các
quan văn võ trong triều phải đến làm lễ thề và đọc lời thề: “Làm con bất hiếu,
làm tôi bất trung, xin thần minh giết chết”. Đền Bạch Mã ở phía đông, đền Linh
Lang (đền Voi Phục ở Thủ Lệ), ở phía tây, đền Trấn Võ (đền Quan Thánh) ở phía bắc
và đền Cao Sơn (Kim Liên, dựng vào đời Lê) ở phía nam, trong quan niệm cổ truyền,
được coi là “Thăng Long từ trấn”. Nhà Lý còn dựng đềnViên Khâu (quận Hai Bà Trưng)và
đền Xã Tắc (gần đình Nam Đồng, quận Đống Đa) đề cầu mùa màng phong đăng, mưa
thuận gió hòa.
Khu Văn Miếu -
Quốc Tử Giám cũng được bắt đầu xây dựng vào đời Lý. Năm 1070, nhà Lý lập văn miếu
và cho hoàng thái tử đến đó học tập. Từ lớp học hoàng gia dần dần phát triển thành
trường Quốc Tử Giám, trung tâm giáo dục, đào tạo trí thức của nước Đại Việt, nằm
ở phía nam Hoàng Thành, giữa một địa hình rộng rãi, có nhiều ao hồ và vườn cây yên
tĩnh. Năm 1075, nhà Lý mở khoá thi Nho học đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh.
Năm 1076, triều đình tuyển chọn những quan văn có học cho vào học ở Quốc Tử Giám.
Đấy là những việc làm rất thiết thực, làm cơ sở đặt nền móng cho sự ra đời và
phát triển nền giáo dục đại học truyền thống. Bên cạnh đó, nhà Lý còn lập Điện
Giảng Võ trong Hoàng Thành làm nơi họp bàn của các võ quan. Năm 1170, Xạ Đình
(săn bắn) được thiết lập ở phìa nam thành Đại La. Ở đó, nhà vua đến tập bắn cung, cưỡi ngựa
và các võ quan thường luyện tập phép tiến công, phá trận…
Như vậy là chỉ
trong vòng trên dưới một thế kỷ sau khi định đô, Thăng Long đã được xây dựng về
mọi mặt để trở thành một trung tâm chính trị kinh tế - văn hóa lớn nhất và tiêu
biểu cho cả nước, trong cái diện mạo mà thành quách, đê điều, kiến trúc cung đình,
chùa chiền tôn giáo, đền miếu thờ cúng dân gian… tất cả đều hòa quyện với thiên
nhiên, tạo nên một tính cách rất riêng nhưng không gượng, uyển chuyển, hiếu hòa,
tươi vui mà hào sảng như rồng bay lên, rất phù hợp và cũng chính là biểu hiện của
tâm hồn dân tộc Việt. Thăng Long thời Lý, qua mô tả của sử xanh, quả là đẹp đến
ngoạn mục, vừa giản dị đến sắc sảo như Đại Chúng, vừa phong phú đến tuyệt đích
hài hòa như Tự Nhiên. Đúng là phượng múa rồng bay trong non xanh nước biếc.
Có được một Thăng
Long như thế, công đầu thuộc về Lý Công Uẩn. Với tư chất thông minh, lớn lên trên
mảnh đất giàu văn hóa truyền thống dân tộc, lại được nuôi dưỡng theo những quan
niệm nhân bản của các vị cao tăng Phật Giáo, Lý Công Uẩn đã tiếp thu được những
kiến thức quí báu về tự nhiên - xã hội, để nhận biết sâu sắc về thời cuộc, để có
một tầm nhìn xa rộng, từ đó mà làm nên một “Chiếu dời đô” bất hủ. Thật xứng
danh là người con ưu tú của dân tộc Việt.
Lý Thái Tổ trị
vì được 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi. Chỗ giếng nước mà cha của ông đã mất, ở rừng
Báng ấy, những gò nổi xung quanh trông như hình bông sen nở ra tám cánh, đã như
một điềm báo nhà Lý truyền ngôi được tám đời, bây giờ thuộc về làng Đình Bảng,
huyện Đông Ngàn. Chùa Ứng Tân, nơi ông sinh ra, ngày nay được gọi là chùa Dặn.
Nhận xét
Đăng nhận xét