THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
ĐẠI CHÚNG
----------------------------------------
PHẦN III
Nguồn cội
“Đừng
chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG IV:
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT
“Thủ đô là cái đại tập thành của cả đất nước
từ khí non sông tụ lại. Không bàn tán về những thành phố khác, mà nói về Hà Nội
thì không ai không nhớ đến bài ca chính khí của nó…
Hà Nội không phải là một đất thánh, theo
cái nghĩa tín đồ hành hương, nhưng Hà Nội là một đất thiêng, kẻ ngoài nào mà
xúc phạm vào nó là phải đền tội.”
(Nguyễn Tuân)
“Khi một giống nòi bị dồn đến chỗ chỉ có
thể lựa chọn cái chết và nô lệ thì xông vào cái chết là dũng cảm hơn. Nơi nào mà
nó không phải là thiết yếu thì bạo lực mới bị lên án. Có những trường hợp phải
công nhận bạo lực bởi vì không còn cách nào khác.”
(Nguyễn An Ninh)
Trong thời đại
triều Lý, ở thế kỷ XI, quân dân Đại Việt lại một lần nữa đánh bại quân xâm lược
nhà Tống.
Sau thất bại thảm
hại lần xâm lược trước (thời Lê Hoàn), triều đình nhà Tống vẫn chưa từ bỏ âm mưu
đánh chiếm nước ta, nhưng vì nội tình Trung Hoa chưa dứt rối ren nên ý đồ đó chưa
thực hiện được. Do phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân lớn (như khởi
nghĩa Vương Tắc năm 1047) cũng như phải đối phó với sự quấy nhiễu của các nước
Liêu, Hạ ở phía Bắc và Tây Bắc, nhà Tống buộc phải tạm thời dùng sách lược hòa
hoãn với Đại Việt, nhưng tham vọng vẫn rất lớn.
Tống Thần Tông
lên cầm quyền vào lúc nhà Tống đang lâm vào những khó khăn lớn về kinh tế - chính
trị: ngân khố trống rỗng, mâu thuẫn xã hội căng thẳng… Được vua Tống chấp thuận,
tể tướng Vương An Thạch đã đề ra một chính sách cải cách gọi là “Tân pháp” và
tiến hành thực hiện mong giải quyết tình thế. “Tân pháp” có cái hay nhưng cũng
có cái dở, mà dở nhất là bị sự phản đối kịch liệt của quan lại trong triều vì động
chạm trực tiếp đến quyền lợi cố hữu của họ. Việc thực hiện cải cách theo “Tân
pháp” do đó không mấy hiệu quả và coi như thất bại (bãi bỏ vào năm 1085). Khó khăn
càng thêm chồng chất và nhà Tống đã quyết định mở lối thoát bằng cách xâm lược
nước ta, nơi đang thịnh vượng và giàu có của cải.
Trước hết, nhà
Tống cố tình lôi kéo Chiêm Thành gây chiến ở phía Nam để phân tán, làm yếu lực
lượng quân sự Đại Việt, sau đó là mua chuộc các tù trưởng thiểu số ở biên giới
phía Bắc, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc quân Tống tiến công từ phía Bắc
xuống. Xuất phát từ ý đồ đó, vua Tống khẩn trương xây dựng hàng loạt căn cứ bàn
đạp sát biên giới nước ta và tập trung lực lượng ở những căn cứ đó.
Cuộc bình Chiêm
phá Tống lần này nổi lên hai nhân vật kiệt xuất là Lý Thường Kiệt và Ỷ Lan.
Nói đến triều Lý
không thể không nói về Ỷ Lan. Tên thật của Ỷ Lan là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ
Lỗi sau đổi thành Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh), nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội.
Vì mẹ mất từ lúc 12 tuổi, cha lấy vợ kế, nên thân phận Ỷ Lan khổ như cô Tấm
trong truyện cổ tích “Tấm Cám” (đền thờ Ỷ Lan ở Dương Xá (Gia Lâm, Hà Nội) còn được
gọi là đền thờ Bà Tấm là vì thế). Theo truyền thuyết về bà, Ỷ Lan sinh ngày 7 tháng 3 năm Giáp Thân (7 tháng 4 năm 1044) tại hương Thổ Lỗi (đời Nguyễn thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc khu vực Làng Sủi, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội).
Năm ấy, vua Lý
Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi nên về chùa Dâu cầu tự. Chợt
thấy trong ngày hội vui mà trên nương vẫn có một cô gái hái dâu, vua cho vời xuống
hỏi sự tình. Thấy Lê Thị Yến bội phần xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát, vua cảm mến
đưa về triều, rồi phong làm Nguyên phi, cho xây một cung riêng, đặt tên là cung
Ỷ Lan để nhớ lại kỷ niệm cô gái tựa gốc cây lan ở buổi đầu gặp gỡ. Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép:
... "Tục truyền rằng vua (Lý Thánh Tông)
cúng khấn cầu tự chưa thấy hiệu nghiệm, mới đi chơi khắp chùa quán. Xa
giá đi đến đâu, con trai con gái đổ xô đến xem không ngớt, duy có một
người con gái hái dâu cứ đứng tựa trong bụi cỏ lan. Vua trông thấy, gọi
đưa vào cung, được vua yêu phong làm Ỷ Lan Phu nhân"
Khác với các hậu
phi, Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc để được lòng vua mà lại quan tâm đến
hết thảy công việc triều chính, khổ công học hỏi, miệt mài đọc sách, nghiền ngẫm
ngữ nghĩa nên chỉ trong một thời gian ngắn mọi người đều ngạc nhiên trước sự hiểu
biết sâu sắc về nhiều mặt của Ỷ Lan. Triều thần đều khâm phục.
Mùa xuân, tháng Giêng, năm 1066, Linh Nhân Hoàng nhân sinh ra Hoàng tử Lý Càn Đức. Ngày hôm sau, lập làm Hoàng thái tử, đổi niên hiệu, đại xá, và phong mẹ là Ỷ Lan Phu nhân làm Thần phi. Năm Mậu Thân (1068) bà lại sinh ra Minh Nhân vương, có thuyết sau đó là Sùng Hiền hầu. Thánh Tông cho đổi hương Thổ Lỗi làm hương Siêu Loại, và phong Thần phi làm Nguyên phi, đứng đầu các phi tần trong cung. Địa vị bây giờ của Ỷ Lan chỉ sau Dương Hoàng hậu.
Ỷ Lan là người phụ
nữ có tài. Một lần, vua Lý Thánh Tông hỏi Ỷ Lan về kế trị nước, Ỷ Lan tâu:
- Muốn dân giàu
nước mạnh, điều hệ trọng là biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói
ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng uống khó chịu nhưng
chữa được bệnh. Điều hệ trọng thứ hai là phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ.
Quyền lợi và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hóa
dân thì sâu hơn mệnh lệnh, dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Nước
muốn mạnh, Hoàng Đế còn phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở
nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch.
Nghe Ỷ Lan tâu,
vua phục lắm. Bởi thế, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân cầm quân đi đánh giặc, đã
giao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan,giúp sức có Lý Đạo Thành là Thái sư đầu triều đương thời. Cũng ngay năm ấy, nước Đại Việt không may bị
lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi sinh loạn. Nhưng nhờ có kế sách trị nước đúng
đắn, quyết đoán, táo bạo của Ỷ Lan, loạn lạc được dẹp yên, dân đói được cứu sống.
Cảm cái ơn ấy, cũng là cách suy tôn một tài năng, nhân dân đã tôn gọi Ỷ Lan là
Quan Âm Nữ, lập bàn thờ Ỷ Lan.
Vua đánh giặc lâu không thắng, trao quyền bính
cho Lý Thường Kiệt. Khi đem cánh quân nhỏ về đến châu Cư Liên (Tiên Lữ, Hưng Yên)
thì nghe tin Nguyên phi làm rất tốt việc nội trị, lòng dân cảm hóa hòa
hợp, trong cõi vững vàng, Thánh Tông nói: ... "Nguyên phi là đàn bà còn làm được như thế, ta là nam nhi lại chẳng được việc gì hay sao!". Bèn quay lại đánh nữa, quyết đánh cho kỳ thắng mới thôi và bắt được vua nước ấy là Chế Củ cùng 5 vạn người. Năm sau (1070), Chế Củ xin đem đất ba châu: Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (tức vùng Quảng Bình và Quảng Trị ngày nay) để chuộc tội. Giang sơn Đại Việt bước đầu mở rộng xuống phía Nam.
Tháng Giêng, năm 1072, Thánh Tông Hoàng đế lâm bệnh nặng rồi băng hà, thọ 50 tuổi, trị vì được 18 năm. Hoàng thái tử Lý Càn Đức kế nghiệp, sử gọi là Lý Nhân Tông. Nhân Tông kế nghiệp khi mới 7 tuổi, tôn Dương Hoàng hậu làm Thượng Dương Hoàng thái hậu và để cho Thái hậu cùng dự việc triều chính, có Thái sư Lý Đạo Thành giúp đỡ công việc. Khi đó, triều Lý không tránh khỏi những rối ren.
Ỷ Lan Nguyên phi được tôn làm Hoàng thái phi, không có quyền xen vào việc triều chính. Nhưng rồi, dưới lợi thế là mẹ đẻ của Hoàng đế, cùng sự liên kết với Thái úy Lý Thường Kiệt, bà đã khiến Nhân Tông ra chiếu chỉ phế truất Thượng Dương Thái
hậu. Sau đó, Ỷ Lan đã ra lệnh giam Dương Thái hậu cùng 72 cung nhân khác
vào lãnh cung. Đến khi phát tang chôn cất Thánh Tông Hoàng đế, Thái hậu
cùng các cung nhân bị buộc phải chôn theo. Khu vực trước cánh đồng làng
Sủi (làng Phú Thị)hiện nay, có địa danh là Mả Nàng, theo các cụ cao tuổi ở làng. Khi Ỷ Lan trở thành Hoàng Thái Hậu nhiếp chính và Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể Tướng
thì nước Đại Việt lại yên bề thịnh trị. Ỷ Lan còn thi hành những biện pháp làm
cho sức dân thế nước đều mạnh lên.
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép rằng:
- "Quý Sửu (1073)...
Giam Hoàng thái hậu họ Dương,... (bởi) Linh Nhân có tính ghen, cho mình
là mẹ đẻ mà không được dự chính sự, mới kêu với vua rằng: "Mẹ già khó
nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác hưởng, thế thì sẽ để
mẹ già vào đâu?" Vua bèn sai đem giam Dương Thái hậu và 72 người thị nữ
vào cung Thượng Dương, rồi bức phải chết chôn theo lăng Thánh Tông...
(còn) Thái sư Lý Đạo Thành lấy chức Tả gián nghị đại phu ra coi châu Nghệ An".
Trong cuộc chiến
tranh chống Tống, để Lý Thường Kiệt tập trung lo việc trận mạc, Thái Hậu Ỷ Lan đã
chủ động bỏ qua hiềm khích cũ, không lâu sau lại cho gọi Lý Đạo Thành về, ban chức "Thái phó bình chương quân quốc trọng sự" để cùng với Thái úy phụ chính là Lý Thường Kiệt điều hành đất nước.
Làm nên chiến
thắng chống xâm lược của nhà Tống, công của Thái hậu Ỷ Lan không phải nhỏ.
Ấy vậy mà sử sách
phong kiến đã xóa sạch công lao với dân với nước của Ỷ Lan, chỉ vì cái nguyên
do thế này: khi vua Lê Thánh Tông vừa qua đời, Hoàng hậu Thượng Dương dựa vào
thế lực của Thái sư Lý Đạo Thành, đã gạt Ỷ Lan ra khỏi triều đình. Đến mãi 4 tháng
sau, nhờ có Lý Thường Kiệt giúp sức, Ỷ Lan mới trở lại nắm tiếp quyền nhiếp chính
và vì tức giận, bà đã bắt giam Hoàng hậu Thượng Dương cùng 72 cung nữ vào lãnh
cung, bỏ đói đến chết. Phải cho rằng đó là một hành động sai lầm quá đáng của Ỷ
Lan. Có thể trị tội, thậm chí là cần phải xử tử, nhưng trị tội kiểu như thế thì
rõ ràng là quá tàn độc, quá nhẫn tâm và khó tha thứ (cô Tấm trong chuyện “Tấm Cám”
cũng hành xử tàn khốc để thỏa hận thù kiểu như thế. Về mặt tâm linh, có thể hỏi
rằng Tấm đã vận vào Ỷ Lan hay Ỷ Lan đã vận vào Tấm, và sao Tấm vẫn được dân
gian yêu mến?).
Bên cạnh công lao ổn định và phát triển đất nước, bà Ỷ Lan còn có hai
việc nổi bật đã được sử cũ biên chép, đó là việc "chuộc người" (năm 1103, Hoàng thái hậu đã phát tiền ở kho nội phủ để chuộc con gái do nhà nghèo bị bán ở đợ, đem họ mà gả cho những người đàn ông góa vợ) và việc "đề xuất lệnh cấm trộm trâu và giết trâu bừa bãi" (năm 1117) như đã kể trên. Việc thứ nhất được sử thần Ngô Sĩ Liên khen là: "Thái hậu đổi đời cho họ, cũng là việc làm chân chính vậy". Còn việc thứ hai khiến nhiều người dân càng kính trọng và biết ơn bà, bởi "con trâu là đầu cơ nghiệp".
Tuy nhiên, trong trang sử đời bà không khỏi có một vết đen, đó là
việc giết chết Thái hậu Thượng Dương và 72 người thị nữ. Tục truyền
rằng bà rất hối hận về việc này nên đã làm nhiều chùa Phật (150 chùa) để sám hối,
rửa oan.
Sử sách không ghi rõ thời gian bà thôi nhiếp chính và trao lại quyền hành cho Nhân Tông. Phỏng theo sự kiện Tuyên Từ Hoàng thái hậu Nhà Hậu Lê khoảng 400 năm về sau, có lẽ thời gian nhiếp chính của bà cũng chỉ khoảng 10 năm, tức là đến khoảng năm 1085, hoặc có thể trễ hơn vài năm hoặc sớm hơn vài năm. Tuy nhiên, Ỷ Lan dù thế nào vẫn tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong triều đình. Năm 1117, Thái hậu qua đời, thọ 73 tuổi, thụy hiệu là Linh Nhân Phù Thánh Hoàng thái hậu. Sau đó, triều đình đã làm lễ hỏa táng, có ba người hầu gái được chôn theo.
Mùa thu, tháng 8, cùng năm ấy, chôn Linh Nhân Hoàng thái hậu ở Thọ lăng, thuộc phủ Thiên Đức (nay là đất huyện Tiên Sơn, thuộc Bắc Ninh).
Cảm ơn đức cao dày của Hoàng thái hậu Ỷ Lan, nhân dân đã tôn vinh bà như là "Quan Âm Bồ tát" tái hiện. Bà được tôn thờ ở một số nơi, nhưng đáng kể hơn cả là "Cụm di tích Đền Ghênh và Chùa Bà Tấm". Đình Yên Thái ở ngõ Tạm Thương, phường Hàng Gai, quận Hoàn Kiếm cũng thờ bà.
Sinh thời, Ỷ Lan có làm bài kệ:
- Sắc là không, không tức sắc,
- Không là sắc, sắc tức không.
- Sắc không đều chẳng quản,
- Mới được hợp chân tông.
-
- ***
Lý Thường Kiệt ( 1019 – 1105) là một nhà quân sự, nhà chính trị cũng như hoạn quan rất nổi tiếng vào thời nhà Lý nước Đại Việt. Ông làm quan qua 3 triều Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và đạt được nhiều thành tựu to lớn, khiến ông trở thành một trong hai danh tướng vĩ đại nhất nhà Lý, bên cạnh Lê Phụng Hiểu.
Trong lịch sử Việt Nam, ông nổi bật với việc chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống (1075–1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược Đại Việt của quân Tống do Quách Quỳ, Triệu Tiết
chỉ huy. Đặc biệt, trận chiến ở ba châu Khâm, Ung, Liêm đã khiến tên
tuổi của ông vang dội ra khỏi Đại Việt và được biết đến ở đất Tống.
Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch liệt ông vào một trong 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.
Lý Thưởng Kiệt vốn tên Ngô Tuấn, là người phường Thái Hòa của thành Thăng Long, theo Hoàng Xuân Hãn thì Thái Hòa cũng là tên một núi nhỏ ở phía Tây trong thành Thăng Long, bây giờ, ở phía nam đê Bách Thảo, gần chỗ rẽ xuống trường đua ngựa. Ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Sứ quân Ngô Xương Xí và chắt của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập – con trai trưởng của Ngô Quyền. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", nhà của ông nối đời làm quan theo thức thế tập,
tức là truyền chức này vĩnh viễn qua các đời, do đó có thể thấy gia
đình của ông là một nhà quan lại có gốc gác bền vững. Từ nhỏ Lý Thường
Kiệt đã tỏ ra là người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập, rèn luyện
cả văn lẫn võ, từng nghiên cứu về binh pháp. Lớn lên, là người gồm cả tài văn lẫn võ. Vào đời, ông khởi thân làm thái
giám. Năm ông 18 tuổi (1036), Thường Kiệt được bổ chức "Kỵ mã hiệu úy", tức là một sĩ quan nhỏ về đội quân cưỡi ngựa. Năm 1041, Thường Kiệt còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được sung làm Hoàng môn Chi hậu, một chức hoạn quan theo hầu Lý Thái Tông. Trong 12 năm làm nội thị trong triều, danh tiếng của Thường Kiệt ngày càng nổi. Năm 1053, ông được thăng dần đến chức Nội thị sảnh Đô tri, khi năm 35 tuổi. Từ một chức quan thị vệ theo hầu Lý Thái Tông (1028 - 1054), ông trở thành
một võ tướng, giữ chức Thái Bảo rồi thăng Thái Phó dưới triều Lý Thánh Tông
(1054 - 1072). Ông được vua yêu, nhận làm con nuôi (thiên tử nghĩa nam), được
ban họ vua nên từ đó mang tên Lý Thường Kiệt.
Trong cuộc bình Chiêm, Lý Thường
Kiệt đã lập công lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lấn quấy nhiễu xứ Nghệ An, lấy
luôn ba châu: chiêu mộ dân nghèo đến đó khai khẩn. Năm 1061, người Man ở biên giới Tây Nam quấy rối. Sách "Việt điện u linh", có chép như sau:"Gặp lúc trong nước, ở cõi
Tây Nam, dân nổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấy
rối. Vua thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn sai ông làm Kinh
phỏng sứ vào thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, vào trao quyền tiện nghi
hành sự. Ông phủ dụ dân khôn khéo, nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba
nguồn, hai mươi bốn động đều quy phục và được yên ổn". Bấy giờ Thường Kiệt đã 43 tuổi, và đây là lần đầu tiên ông có một quân công đáng kể. Tháng 2 năm 1069, như đã kể, ông theo vua Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành. Thường Kiệt làm tiên phong đi đầu, truy bắt được vua Chiêm là Chế Củ.
Cuối cùng, Chế Củ phải chịu hàng, dâng 3 châu để được tha về nước. Vì
có công trong cuộc chiến với Chế Củ, Thường Kiệt được ban quốc tính và
từ đó ông chính thức được gọi là Lý Thường Kiệt . Năm 1072, Lý Nhân Tông
lên nối ngôi lúc mới 7 tuổi. Với cương vị Phụ Quốc Thái Úy, Lý Thường Kiệt là
người nắm trọn binh quyền và là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Tống (1075 -
1077)
Sau khi đã thực
hiện được bước đầu của chiến lược “Trước Nam sau Bắc” là bình Chiêm, nhà Lý
tích cực chuyển sang thực hiện bước thứ hai. Sang năm 1075, việc chuẩn bị cho
cuộc chiến tranh tự vệ đã xong, dân tộc đã ở tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành
đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm
lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di làm tri Quế Châu ngầm dấy
binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện
không được mua bán với Đại Việt.
Trước sự chuẩn
bị, ráo riết tập trung binh lực, lương thảo, khí tài của nhà Tống tại các cơ sở
bàn đạp dọc ven biên giới nước ta, cuộc xâm lăng không thể tránh khỏi của giặc
ngày càng rõ rệt và nghiêm trọng. Nhận thấy cơ hội có thể đánh tiêu diệt một bộ
phận địch, ngay từ trong trứng nước, nhằm tiêu hao, làm yếu sức mạnh ban đầu của
chúng, với tư tưởng chủ động, sáng tạo, Lý Thường Kiệt chủ trương: “Ngồi yên đợi
giặc không bằng đem quân ra trước chặn thế mạnh của giặc”. Đó cũng là tư tưởng
chớp thời cơ, bất ngờ ra đòn phủ đầu của võ công: “Tiên hạ thủ vi cường”. Được
triều đình tán thành, Lý Thường Kiệt huy động một lực lượng khoảng 10 vạn người
vượt qua biên giới.
Ngày 26-10-1075,
4 vạn quân ta (gồm phần lớn là thổ binh) bất ngờ tấn công các căn cứ, đồn trại
dọc biên giới từ Quảng Uyên (Cao Bằng) tới Vĩnh An (Móng Cái), tiêu diệt nhiều
sinh lực địch. Cánh quân này còn có tác dụng thu hút lực lượng quân Tống. Ngày
30-12-1075, đại quân ta gồm 6 vạn người, do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy,
di chuyển dọc theo bờ biển đánh vào Khâm Châu. Địch hoàn toàn bất ngờ nên bị tiêu
diệt toàn bộ. Bốn ngày sau, ta đánh vào Liêm Châu, hạ luôn thành này. Đến đây,
10 vạn quân Đại Việt tiến sâu vào đất Tống, nhằm hướng thành Ung Châu.
Trên các mặt trận, quân Đại Việt hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo thẳng lên Ung Châu. Đường
thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập Vạn. Còn đạo đổ
bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, dường như
để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới.
Ngày
18-1-1076, quân ta vây chặt thành Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ.
Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam Ninh, khu tự trị Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
Lúc đầu, trước
sự tấn công mạnh mẽ và bất ngờ của quân ta, nhà Tống rất bị động và lúng túng
chống đỡ, nhưng sau đó, với nhận định cho rằng đại quân ta đang bị giam chân ở
nơi xa xôi, trong nước tất trống rỗng, nhân cơ hội đó có thể đánh úp, rồi sau sẽ
tập trung lực lượng tiêu diệt đại quân Lý Thường Kiệt, nên nhà Tống đã ráo riết
lên kế hoạch: một mặt lo đối phó với quân ta ở trước mặt (di chuyển kho tàng, cố
thủ các thành quan trọng, tăng viện ứng cứu…), một mặt tập hợp đại binh, chọn tướng
lĩnh tiến thẳng sang nước ta. Việc giữ được thành Ung Châu là điểm then chốt của
kế hoạch trên.
Nắm bắt được âm
mưu của giặc, nhận thức được tầm quan trọng của thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt
hạ quyết tâm đánh chiếm bằng được trong thời hạn sớm nhất. Với quyết tâm của cả
hai bên, trận chiến ở đó xảy ra hết sức ác liệt. Vừa tích cực vây chặt và công
thành vừa chủ động chặn đánh tiêu diệt có hiệu quả các đội quân tiếp viện ứng cứu
của giặc. Quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành,
trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Đại
Việt bắt dân Tống chồng bao đất cao đến hàng trượng để họ trèo lên
thành. Ngày thứ 42, thành bị hạ (1-3 -1076), quân ta diệt và bắt sống nhiều địch, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu để khỏi
rơi vào tay quân Đại Việt. Tiếp đó, quân ta đốt phá các kho lương thực của
giặc ở cả vùng Tả Giang.
Kết thúc chiến dịch, Thường dân và quân lính trong thành không chịu hàng nên bị quân nhà Lý giết chết hơn
58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn
100.000, tuy nhiên quân Đại Việt cũng tổn thất đến 10.000 người và nhiều voi chiến
Nhận thấy mục
tiêu chiến lược của cuộc tiến công tự vệ đã đạt được, Lý Thường Kiệt khẩn trương
cho toàn quân rút ngay về nước, chuẩn bị cho cuộc đọ sức một mất một còn với quân
xâm lược nhà Tống. Cuộc rút lui kịp thời của đại quân Lý Thường Kiệt đã làm tiêu
tan luôn âm mưu thâm hiểm của nhà Tống. Sau này, Vương Anh Thạch (đã từ chức Tể
tướng nhà Tống vào tháng 10 năm 1076) còn có vẻ tiếc nuối: “Tôi khi trước thấy
Giao Chỉ đánh Ung Châu chưa hạ được, trong nước chúng bỏ không, nên tính có thể
hành động chóng mà đánh úp hậu phương của nó. Làm như thế thì ta không cần đánh
quân nó đang cướp nước ta mà chúng cũng bị tan. Sau khi Ung Châu mất, việc đánh
úp chúng không thể bàn đến nữa”.
Tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại Việt.
Quân Tống viễn chinh lên đến 10 vạn quân, một vạn ngựa và hai mươi vạn
dân phu, khí thế rất mạnh mẽ, nhất là kỵ binh Tống, nhưng quân Tống muốn
phát huy kỵ binh thì phải làm sao qua khỏi vùng hiểm trở, tới chỗ bằng,
thì ngựa mới tung hoành được. Kế hoạch của chúng là: đại quân sẽ tiến theo hướng Lạng Sơn -
Thăng Long; thủy quân sẽ dọc theo ven biển vào sông Bạch Đằng; sau khi đánh tan
các đạo quân thủy bộ của ta, sẽ hội quân, dùng thuyền vượt sông, đánh chiếm Thăng
Long.
Kế hoạch của ta
là: chủ yếu sử dụng các lực lượng thổ binh, lương binh, bố trí một số nơi ở khu
vực biên giới như Quảng Uyên (Cao Bằng), Hạ Liêu và Cổ Lộng (vùng tiếp giáp giữa
Bắc Cạn và Thái Nguyên), tăng cường một bộ phận quân triều đình tại các vị trí
quan trọng là Quyết Lý, Giáp Khẩu (tức Châu Ôn và Chi Lăng). Mục đích của việc
này là ngăn chặn tạm thời, tiêu hao, sau đó là quấy rối, đánh úp các toán quân
nhỏ làm phân tán lực lượng địch. Tại khu vực ven biển có thủy quân đóng căn cứ
tại Vân Đồng (thuộc Quảng Yên) phối hợp với quân bộ đóng ở Ngọc Sơn (thuộc Móng
Cái), thực hiện nhiệm vụ đánh chặn địch trên vùng biển Đông Kính (ven biển Quảng
Ninh ngày nay), không cho chúng tiến vào sâu trong nội địa. Xác định mặt trận
chính sẽ là vùng trung du, Lý Thường Kiệt cho lập phòng tuyến ở bờ nam sông Như
Nguyệt (sông Cầu), lấy đó làm nơi quyết chiến chiến lược. Phòng tuyến được đắp
cao, có rào dậu chắc chắn, chạy dài từ sườn đông bắc dãy Tam Đảo đến sườn tây
nam dãy Nham Điển (Yên Dũng, Hà Bắc) khoảng trên 200 dặm (chừng 100 km), dưới sông
có thủy quân, trên thành có quân đóng và tuần tiễu. Đại quân gồm 2 bộ phận: quân
bộ đóng ở vùng Thiên Đức (giữa Bắc Ninh và Thăng Long), quân thủy với trên 400
chiến thuyền đóng ở Vạn Xuân (Phả Lại ngày nay)
Từ tháng 7 năm
1076, vài cánh quân nhỏ của giặc đã xâm nhập vào nước ta, chiếm trại Ngọc Sơn,
tháng 10 đánh vào châu Quảng Uyên (Cao Bằng). Ngày 8-1-1077, Quách Quỳ kéo đại
quân qua cửa ải nam Quan đánh vào Quyết Lý, chiếm Quang Lang, Tô Mậu (thuộc Lạng
Sơn)… rồi vòng sang phía tây, theo đường tắt vượt qua dãy Bắc Sơn, tiến đến sông
Phú Lương (đoạn sông Cầu thuộc phần đất Thái Nguyên ngày nay). Đồng thời cho một
bộ phận hành quân đánh vào sau lưng đội quân Thân Cảnh Phúc. Thân Cảnh Phúc phân
tán lực lượng để bảo toàn cho bộ phận chủ yếu về hướng Vạn Xuân, giữ liên hệ với
thủy quân, bộ phận còn lại tản vào rừng núi hiểm trở đánh du kích, chủ yếu nhằm
vào các đoàn cải lương của địch.
Sau thời gian
ngắn tác chiến trên khu vực biên giới, ngày 18-1-1077, đại quân Tống đã tập kết
được đến bờ bắc sông Cầu, cánh phải do Miêu Lý chỉ huy tập trung trên đoạn bến
Như Nguyệt, cánh trái do Quách Quỳ chỉ huy đóng ở Thị Cầu.
Trên biển, thủy
quân địch đã bị quân ta, do tướng Lý Kế Nguyên chỉ huy đánh thua liểng xiểng,
phải rút về cố thủ ở Đông Kinh (có thể là Tiên Yên ngày nay) cho tới hết chiến
tranh.
Chờ mãi không
thấy thủy quân tới, Miêu Lý cho bắc cầu nổi, vượt sông đoạn bến Như Nguyệt. Quân
ta đánh chặn quyết liệt. Nhưng có bộ phận địch cũng đã chọc thủng phòng tuyến, ồ
ạt tiến sâu. Kỵ binh đi trước của chúng có lúc đã đến cách thành Thăng Long khoảng
15 dặm. Tuy nhiên đã bị quân ta từ phía Thiên Đức cơ động tới bao vây tiêu diệt.
Quách Quỳ cũng đóng bè chở quân đánh sang. Cuộc tiến công lớn này bị thất bại hết
sức ê chề, đến nỗi Quách Quỳ phải quay về cố thủ bờ bắc và lệnh: “Ai bàn đánh sẽ
bị chém”.
Chính trong khoảng
thời gian này, trên chiến tuyến sông Như Nguyệt, từ bờ nam, vang lên bài thơ hào
hùng, đi vào bất tử của Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định
phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ
lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan
thủ bại hư”
(Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận
ở sách trời
Cớ sao lũ giặc
sang xâm phạm
Chúng bay sẽ chuốc
lấy bại vong)
Đại quân Quách
Quỳ từ đó ngày càng lún sâu vào thế bị động phòng ngự. Bị quân ta tăng cường đánh
phá tiêu hao cả phía trước lẫn phía sau, uy hiếp phục kích quân lương, tình trạng
giặc càng thêm khốn đốn, thiếu thốn lương thực càng trầm trọng, tinh thần chiến
đấu của binh lính ngày một giảm sút.
Chớp thời cơ đó,
dù lực lượng địch còn đông (8 vạn) nhưng ý chí tiến công không còn, Lý Thường
Kiệt đã tổ chức những đòn phản công lớn. Cuối xuân năm 1077, hai hoàng tử Hoàng
Chân, Chiêu Văn được lệnh, chỉ huy 2 vạn quân cùng 400 chiến thuyền từ Phả Lại,
ngược sông Như Nguyệt, đổ bộ lên bờ bắc đánh thẳng vào trận địa địch, gây cho
chúng nhiều tổn thất, đặc biệt là đội kỵ binh cơ động Quách Quỳ. Quân Tống cố sức
chống đỡ, tung kỵ binh ra phản kích đẩy quân ta lùi về phía bờ nam. Hai hoàng tử
Hoàng Chân và Châu Văn hy sinh. Trong khi địch đang tập trung đối phó ở phía cánh
phải, Lý Thường Kiệt, nhân ban đêm, chỉ huy đại quân vượt sông Phú Lương, tiến
công giặc ở cánh trái “đại phá quân Tống, mười phần chết đến năm sáu” (Việt sử
lược).
Những thắng lợi
to lớn của quân ta đã đẩy địch vào tình trạng khốn quẫn hơn bao giờ hết: binh lực
thiệt hại nặng, lương thảo gần cạn, sức cùng chí nản. Vua quan nhà Tống hoang
mang, mâu thuẫn giữa phe chủ chiến và phe chủ hòa ngày càng gay gắt.
Nắm được tình
thế bế tắc, cùng quẫn của địch và dựa trên sức mạnh, thanh thế đang lên của quân
dân ta, Lý Thường Kiệt lại một lần nữa tỏ rõ cái văn võ gồm tài của mình, đã chớp
thời cơ, chủ động kết thúc sớm chiến tranh bằng một đòn đánh ngoại giao: bàn hòa
với Quách Quỳ. Theo ông: “Dùng biện sĩ để bàn hòa, không nhọc tướng tá, khỏi tốn
máu xương mà bảo an được tôn miếu”. Thật là một vị tướng kiệt xuất đã gồm đủ chữ
“nhân”!
Để tránh bị tiêu
diệt, không còn con đường nào khác, Quách Quỳ chấp nhận hòa ước, và không chờ lệnh
triều đình, lập tức rút quân. Tháng 2 - 1077, 23400 quân chiến đấu và 3174 ngựa
chiến của Quách Quỳ đã về đến đất Tống. Tính ra, trong hơn 3 tháng chiến đấu,
quân ta đã tiêu diệt trên 19 vạn quân chiến đấu và tải lương. Nếu tính cả chiến
dịch hồi đầu đánh sang đất Tống, thì gần 30 vạn quân địch đã bị tiêu diệt. Ta
thu hồi toàn bộ đất đai, trừ Quảng Uyên (nhưng về sau bằng con đường đấu tranh
ngoại giao, ta cũng thu hồi nốt)…
Lý Thường Kiệt
là một đại anh hùng của dân tộc Việt, đồng thời là người con ưu tú của Thăng
Long. Công lao và sự nghiệp của ông đã làm rạng rỡ đất “ngàn năm văn vật” và mãi
mãi tỏa sáng trong lịch sử Việt Nam.
¯¯¯
Trong hơn 2 thế
kỷ dưới triều Lý, giặc ngoại xâm không xâm phạm được đến Thăng Long, nhưng đất
kinh kỳ cũng phải chịu đựng những cơn binh lửa của xung đột triều đình và chiến
tranh phe phái. Đó là “Loạn ba vương” năm 1028 khi Lý Thái Tổ vừa từ trần và nhất
là cuộc tranh chấp cuối đời Lý, mở đầu là “Loạn Quách Bốc” năm 1209. Kinh thành
trở thành bãi chiến trường, cung thất và phố phường nhiều chỗ bị tàn phá. Từ năm
1216 đến 1220, trong vòng 4 năm, vua Lý Huệ Tông phải rời kinh thành về điện
tranh dựng tạm tại Tây Phù Liệt (Thanh Trì) và thành Thăng Long bị gọi là Kinh
Cũ (Cựu Kinh).
Loạn Tam vương là một cuộc nổi loạn do 3 hoàng tử nhà Lý gây ra năm 1028, ngay sau khi Lý Thái Tổ băng hà và Thái tử Khai Thiên vương nối ngôi. Loạn Tam vương do các hoàng thân là Vũ Đức vương, Dực Thánh vương và Đông Chinh vương gây ra do muốn giành ngôi với Khai Thiên vương.
Bấy giờ các quan đứng đầu là Lý Nhân Nghĩa xin
Thái tử Phật Mã cho đem quân ra thành quyết được thua một trận. Khi
quân của Thái tử và quân các vương đối trận, thì quan Vũ vệ tướng quân
là Lê Phụng Hiểu (là một đại tướng quân nhà Lý, phụng sự ba triều vua đầu tiên của nhà Lý là Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông. Ông là người có công rất lớn trong việc phò Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi vua, tức Lý Thái Tông) rút gươm ra chỉ vào Vũ Đức vương mà bảo rằng: "Các người dòm ngó ngôi cao, khi dễ tự quân, trên quên ơn tiên
đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này!". Nói xong tướng quân Lê Phụng Hiểu chạy
xông vào chém Vũ Đức vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ
hãi bỏ chạy cả. Dực Thánh vương và Đông Chinh vương cũng phải chạy trốn.
Cũng trong năm 1028, nghe tin Vũ Đức vương bị giết trong cuộc chiến ngai vàng, Khai Quốc vương đóng ở phủ Trường Yên (Hoa Lư) lòng càng bất bình, cậy có núi sông hiểm trở bèn đem phủ binh làm phản. Lý Thái Tông thân đi đánh. Ngày đến Trường Yên, Khai Quốc vương đầu hàng. Vua hạ lệnh rằng: Ai cướp bóc của cải của dân thì chém. Quân sĩ nghiêm theo, không mảy may xâm phạm. Đại quân vào thành Thăng Long, dân trong thành đem dâng biếu trâu rượu đứng đầy đường. Vua sai sứ tuyên chỉ động viên, cả thành vui to. Vua từ phủ Trường Yên về, xuống chiếu tha tội cho Khai Quốc vương, vẫn cho tước như cũ.
Dẹp xong loạn Tam vương, ngày Kỷ Hợi (tức ngày 1 tháng 4 năm 1028), Thái tử Lý Phật Mã lên ngôi, tức là Lý Thái Tông. Ông đổi niên hiệu là Thiên Thành.
Quách Bốc là tướng nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông cầm đầu cuộc biến loạn đánh đuổi vua Lý Cao Tông năm 1209.
Đầu năm 1209, Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An.
Phạm Du bèn chiêu tập những người vong mệnh nổi dậy chống triều đình.
Lý Cao Tông liền sai Phạm Bỉnh Di đánh Phạm Du. Phạm Bỉnh Di đánh bại
Phạm Du. Phạm Du thua trận bỏ trốn.
Phạm Du ngầm sai người về kinh đút lót cho các quan lại trong triều,
nói rằng Bỉnh Di tàn ác, giết hại người vô tội. Cao Tông triệu Phạm Du
về kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước hầu Cao
Tông, được vua tin cẩn. Cha con Bỉnh Di cùng Quách Bốc mang quân về kinh sau. Phạm Bỉnh Di cùng con là Phạm Phụ vào triều, Quách Bốc ở ngoài
thành. Cao Tông sai bắt cha con Bỉnh Di giam ở Thủy Viên, định xử tội.
Quách Bốc (là bộ tướng của Phạm Bỉnh Di) đóng quân ở ngoài thành nghe tin đó, bèn đem binh lính phá cửa
Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Trong lúc quân Quách Bốc và quân
triều đình đang giằng co ngoài cửa, Cao Tông thấy việc kíp quá, sai
giải Bỉnh Di và Phụ vào chỗ bệ đá nghỉ mát trong điện Kim Tinh. Phạm Du
cùng em là Phạm Kinh ở trong ngự đường đi ra, lấy luôn binh khí trong
cung đâm chết cha con Bỉnh Di rồi cùng Cao Tông bỏ kinh thành Thăng Long chạy trốn.
Lý Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ)
nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực. Thái tử Lý
Sảm cùng mẹ là nguyên phi Đàm Thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình dưới quyền cai quản của Trần Lý. Sảm chạy trốn đến ở nhà Trần Lý, tôn xưng là Thắng Vương, lấy con gái Lý
là Trần Thị Dung làm vợ, phong cho làm phi. Lý Sảm lại phong cho Trần
Lý tước Hải Minh Tự, chức vụ Chinh Bắc Đại Nguyên Soái, lĩnh binh lên
bắc thảo phạt Quách Bốc. Em vợ Trần Lý là Tô Trung Từ (cậu Thị Dung) bấy
giờ đang làm Tổng Binh Phủ Thiên Trường cũng được phong làm Điện tiền Chỉ huy sứ, Phạm Kính Ân được phong Thượng Phẩm Phụng Ngự, người thân tín đều được phong chức phong quan.
Trần Lý và Tô Trung Từ chiêu tập quân đội dưới danh nghĩa giúp thái tử Sảm để đánh Quách Bốc.
Cuối năm 1209, cuộc binh biến của Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về kinh.
Loạn Quách Bốc là cuộc binh biến cuối thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, thúc đẩy thêm sự suy yếu của nhà Lý và mở ra việc nắm chính trường của họ Trần.
Lý Cao Tông trong suốt 37 năm trị vì đã chứng kiến sự suy yếu không thể
vực dậy của nhà Lý vì lối ăn chơi hưởng lạc của mình. Trước khi qua đời,
ông đã cho ban chiếu hối lỗi để tạ tội với thần dân của mình. Với chiếu hối lỗi, Lý Cao Tông được xem là vị vua đầu tiên trong lịch sử
phong kiến Việt Nam "dám" hạ mình xin lỗi dân.
Lý Sảm là đích trưởng tử của Lý Cao Tông, mẹ là hoàng hậu họ Đàm, sinh vào tháng 7 năm Giáp Dần (1194) tại kinh đô Thăng Long, Đại Việt, là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, tức Lý Huệ Tông, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224.
Xác Cao Tông chưa kịp chôn, trong triều đã xảy ra biến loạn. Tô Trung Từ trở thành quyền thần trong triều.
Tháng 7 năm 1211, Tô Trung Từ đang đêm sang Gia Lâm tư thông với công chúa Thiên Cực, bị quan nội hầu Vương Thượng là chồng công chúa giết chết. Con rể Trung Từ là tướng Nguyễn Ma La bị tướng dưới quyền Nguyễn Trinh giết.
Trần Thừa lập kế giết Nguyễn Trinh. Trần Tự Khánh nhân lúc kinh
thành bỏ trống, lập tức mang quân về kinh sư, an táng người cậu Tô Trung
Từ ở làng Hoạch. Các tướng cát cứ ở Hồng châu là Đoàn Thượng và Đoàn
Văn Lôi nói vu Trần Tự Khánh với vua Huệ Tông rằng: "Trần Tự Khánh đem binh về kinh sư là muốn mưu đồ việc phế lập". Huệ Tông tin là thật, nổi giận, bèn hạ chiếu cho các đạo binh đánh
Trần Tự Khánh và giáng Nguyên phi Trần Thị Dung xuống làm Ngự nữ...
Loạn đả trong triều dẫn đến kết cục:
Tháng 12 năm 1216, Thuận Trinh Phu nhân Trần Thị Dung lại được phong làm
Hoàng hậu. Từ lúc đó, anh em, thân thuộc họ Trần chiếm hết các chức văn
võ quan trọng trong triều. Tự Khánh làm Phụ chính Thái úy, Trần Thừa làm Nội thị Phán thủ. Trần Thừa cho đúc vũ khí, dần dần chấn chỉnh lại quân đội.
Vua Huệ Tông lại bị trúng phong, đau yếu luôn, không đi đâu được, lại không sinh được hoàng tử, chỉ có công chúa.
Tháng 3 năm Đinh Sửu (1217), vua phát điên, nhiều lúc tự xưng là
Thiên tướng giáng trần, tay cầm giáo và mộc, cắm cờ nhỏ vào búi tóc và
múa hát:
- Ta đây là tướng nhà trời,
- Hôm nay giáng thế cho người sợ oai.
Chính sự giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Tự Khánh ra tay đánh dẹp các
lực lượng cát cứ của Đỗ Bị, Lý Bát, Hà Cao. Đoàn Thượng thấy thế lực họ
Trần mạnh, tạm quy hàng triều đình, được phong tước vương và vẫn giữ
vùng Hồng châu. Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, quyền lực lại rơi vào tay em họ Tự Khánh là Trần Thủ Độ. Anh Tự Khánh là Trần Thừa được phong là Phụ quốc Thái úy.
Nói chung, Lý Huệ Tông là ông
vua bất tài, bạc nhược, bỏ bê triều chính và vô trách nhiệm. Năm 1224, bệnh vua càng nặng hơn. Vua đem chia cả nước làm 24 lộ, chia cho các công chúa, lại phong Trần Thủ Độ làm Điện tiền Chỉ huy sứ.
Đến tháng 10, dưới sức ép của Trần Thủ Độ, ông chính thức nhường ngôi
lại cho con gái là công chúa Chiêu Thánh mới lên 8 tuổi, tức là Lý Chiêu Hoàng, vì còn nhỏ tuổi nên quyền bính ở cả Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện tiền chỉ huy sứ. Huệ Tông lên làm Thái thượng hoàng và đi tu ở chùa Bát Tháp, lấy pháp danh là Huệ Quang Đại sư
Sau khi làm sư, Huệ Tông vẫn thường đi dạo chơi trong kinh thành. Năm 1226, Trần Thủ Độ sợ lòng dân nhớ vua cũ, bèn chuyển Huệ Quang vào chùa Chân Giáo. Một lần Thủ Độ thấy Huệ Tông nhổ cỏ ở vườn, Thủ Độ nói:
"Nhổ cỏ phải nhổ cả rễ sâu". Huệ Tông nói:
"Điều ngươi nói, ta hiểu rồi". Sau đó, ông tự tử ở sau vườn, trước khi chết còn khấn:
"Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế". Thủ Độ cho hỏa táng xác ông,
chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông.
Có người nói rằng lời nói trước khi chết của ông sau này đã ứng nghiệm, khi Hồ Quý Ly giết hại nhiều tôn thất nhà Trần, sau rồi soán ngôi và lập ra nhà Hồ.
Triều Lý đời Huệ
Tông đã suy yếu cực độ, sang đời Chiêu Hoàng chỉ còn là danh nghĩa, mọi công việc
triều chính thực chất là do họ Trần điều hành. Cuối triều Lý, vua quan ăn chơi
sa đọa, kinh tế đất nước suy thoái, mất mùa đói kém liên miên, các thế lực quý
tộc phong kiến đánh giết lẫn nhau, cướp bóc bừa bãi. Trong khi đó, tai họa xâm
lược đã lồ lộ ngoài biên thùy: đế quốc Nguyên Mông đang là lực lượng vô địch,
tung hoành khắp nơi từ Á đến Âu, đánh Kim, diệt Hạ, chiếm Triều Tiên, sửa soạn
chinh phục Đường và Đại Việt.
Đất nước cuối
triều Lý đang trên đà suy yếu như thế chắc chắn không thể chống nổi một đế quốc
mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
May thay, có lẽ
là nhờ vào khí thiêng sông núi chưa dứt, địa vẫn còn linh và nhân vẫn còn kiệt,
mà đất nước đã chuyển mình, rời bỏ con đường ngày một u tối, tai họa chực chờ, để
tiến về hướng tươi sáng. Không lâu sau, Trần Thủ Độ sắp đặt để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, tức là Trần Thái Tông. Nhà Lý mất về tay nhà Trần từ đó (1225).
Trần Cảnh lên
ngôi, lấy niên hiệu là Thái Tông, mở đầu thời đại nhà Trần (1226 - 1400). Trần
Thủ Độ làm Thái sư.
Triều Trần thành
lập đã chấm dứt tình trạng loạn ly cuối triều Lý, khôi phục lại quyền lực của
chính quyền trung ương. Trên cơ sở kế thừa thành quả đã đạt được của triều Lý,
triều Trần đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp tích cực nhằm thúc đẩy đất
nước phát triển về mọi mặt. Nền văn minh Đại Việt tiếp tục phồn thịnh.
Dưới triều Trần,
Thăng Long vẫn là kinh đô của nước Đại Việt. Thăng Long đời Trần hầu như không
khác Thăng Long đời Lý. Trong 175 năm đóng đô ở đây, nhà Trần tận dụng tất cả
những cơ sở đã được xây dựng từ trước, tu bổ mở mang thêm, kiến tạo một số công
trình được cho là cần thiết…
Thăng Long đời
Trần không có cái sôi nổi dựng xây như đời Lý, nhưng vẫn đầy ắp những sáng tạo
văn hóa và nét đặc biệt nổi trội của nó là trực tiếp tham gia đánh giặc ngoại xâm,
đánh rất giỏi.
Ba lần đại thắng
quân Mông - Nguyên là một trong những võ công chói lọi nhất của dân tộc ta
trong sự nghiệp chống ngoại xâm mà hiếm dân tộc nào trên thế giới có được. Cả
ba lần ấy đều “động chạm” đến địa danh Thăng Long nên không thể không kể về nó
khi muốn kể câu chuyện về lịch sử Hà Nội. Một trong những nguyên nhân quan trọng
làm nên cái vinh quang bất diệt đó chính là sự xuất hiện đúng lúc những con người
vừa tài năng vừa lạ lẫm trong dòng họ nhà Trần, như là sự linh ứng, để lại biết
bao nhiêu giai thoại làm rung động lòng người.
Năm 1209, hoàng
tử Sảm chạy loạn về Hải Ấp, thấy Trần Thị Dung đẹp quá bèn lấy làm vợ. Tháng 11
năm Canh Ngọ (1210), hoàng tử Sảm lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Huệ Tông; sai
quân rước Trần Thị Dung về lập làm Nguyên phi. Anh ruột của Trần Thị Dung là Trần
Tự Khánh được phong là Chương Tín Hầu. Đến giữa năm Bính Tý (1216), Trần Thị Dung
được sắc phong làm Hoàng Hậu, đồng thời Trần Tự Khánh làm Phụ Chính và anh ruột
của Tự Khánh là Trần Thừa được giữ chức Nội thị Phán Thủ. Khi Trần Tự Khánh mất,
vua Huệ Tông cho Trần Thừa làm Phụ quốc thái úy, và năm sau giao cho em họ Hoàng
hậu là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Hoàng hậu chỉ
sinh hạ được hai công chúa. Người chị là Thuận Thiên công chúa, sau này được gả
cho Phụng Kiều Vương Trần Liễu, con cả của Trần Thừa. Người em là Chiêu Thánh công
chúa, sau này là vua Lý Chiêu Hoàng. Con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh
(Trần Thái Tông), đồng tuổi với Chiên Thánh công chúa. Trần Liễu có người con
trai tên là Trần Quốc Tuấn, sau này trở thành đại anh hùng dân tộc. Trần Cảnh có
4 người con trai là Thái tử Hoảng, Trần Quang Khải, Trần Ích Tắc, Trần Nhật Duật
và 2 con gái. Hoảng sau này là vua Trần Thánh Tông, Tắc phản quốc, Khải và Duật
đều là những người có tài xuất chúng.
Trần Thừa, Trần
Tự Khánh, Trần Thị Dung đều là con của Trần Lý. Trần Lý là hậu duệ của Trần Hấp.
Trần Hấp là con của Trần Kính. Kính vốn gốc ở Đông Triều, nối đời làm nghề đánh
cá, trên đường đi tìm đất làm ăn sinh sống đã cắm sào, dừng chân ở Thức Mạc
(Nam Định), lấy vợ ở đó sinh ra Hấp. Lớn lên, Hấp tìm sang Hải Ấp (Thái Bình),
nơi giáp ranh các sông Nhị Hà và sông Hải Triều, là vùng đất cổ trù phú, định cư
luôn ở đó.
Trần Thủ Độ (1194 – 1264), cũng gọi Trung Vũ đại vương, là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử Việt Nam.
Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện lật đổ nhà Lý, lập nên
nhà Trần, thu phục các thế lực người Man làm phản loạn và trong cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất.
Như đã biết, công chúa Chiêu Thánh, tức Lý Chiêu Hoàng lên ngôi khi mới 8 tuổi.
Lúc ấy, Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự
trong ngoài thành thị. Cháu gọi Thủ Độ bằng bác là Trần Bất Cập làm Cận
thị thự lục cục chi hậu, Trần Thiêm làm Chi ứng cục, Trần Cảnh làm Chính
thủ. Trần Cảnh là con của Trần Thừa, lúc ấy mới lên 8 tuổi, chực hầu ở
bên ngoài. Một hôm phải giữ việc bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên
trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến
cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc,
hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng
rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu, đến khi Cảnh
bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh. Cảnh không dám nói gì, về nói
ngầm với Thủ Độ. Thủ Độ nói: "Nếu thực như thế thì họ ta thành hoàng tộc hay bị diệt tộc đây?". Lại một hôm, Chiêu Hoàng lại lấy khăn trầu ném cho Cảnh, Cảnh lạy rồi nói: "Bệ hạ có tha tội cho thần không? Thần xin vâng mệnh". Chiêu Hoàng cười và nói: "Tha tội cho ngươi. Nay ngươi đã biết nói khôn đó".
Cảnh lại về nói với Thủ Độ. Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy
giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa
thành và các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được
vào. Thủ Độ loan báo rằng: "Bệ hạ đã có chồng rồi". Các quan đều vâng lời, xin chọn ngày vào chầu. Đến tháng 12, năm 1225, Lý Chiêu Hoàng cởi áo nhường ngôi cho Trần Cảnh, tức Trần Thái Tông. Phong Trần Thủ Độ làm Quốc thượng phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước. Thủ Độ mới dâng sớ đề nghị cho cha của Trần Cảnh là Trần Thừa làm Thái thượng hoàng, nhiếp chính giúp vua nhỏ, bá quan đồng ý.
Sau khi đã thu
xếp cho Trần Cảnh lên ngôi, tháng 8 năm Bính Tuất (1226), Thái sư Trần Thủ Độ lấy
Trần Thị Dung, Hoàng hậu triều Lý và là chị họ mình, làm vợ. Trần Thị Dung sau đó
được phong làm Linh Từ Quốc Mẫu. Bà đã có công chỉ huy giới hoàng tộc chủ động
rút khỏi kinh thành trong lần giặc Nguyên Mông xâm lược Đại Việt lần thứ nhất
(1257); đảm nhiệm việc lo liệu thu nhặt sắt thép, động viên thợ ngày đêm rèn
binh khí cho quân Trần; trong trận Đông Bộ Đầu cũng có một phần công trạng.
Khi Lý Chiêu Hoàng
làm vua, Trần Thủ Độ đã nghĩ ngay đến việc giành ngôi cho Trần Cảnh, bèn thưa với
Trần Thừa. Trần Thừa ngần ngại:
- Chúng ta với
Thái hậu và Chiêu Hoàng là chỗ họ ngoại chí thân, nay làm cái việc tranh đoạt ấy
tôi e chẳng khỏi mang tiếng với hậu thế.
Trần Thủ Độ phân
trần:
- Tôi xem diện
mạo Trần Cảnh mũi cao, hai gò má trội đúng là long chuẩn dung nhan. Tính lại rộng
rãi, biết thương người, có khí độ của vị thái bình thiên tử. Vả chăng, thời thế
lúc này chỉ có họ Trần thay ngôi nhà Lý mới cứu được vận nước suy vi. Trời cho
mà không lấy sẽ phải chịu tai ương. Xin đại huynh nên suy nghĩ kỹ.
Trần Thừa bảo
Thủ Độ:
- Mọi việc tùy
chú định liệu, làm sao cho thành sự thì làm. Hóa nhà làm nước hay đến phải diệt
tộc cũng ở một chuyện này đó.
Khi Trần Cảnh đã
ở ngôi vua , nhiều đảng loạn mượn cớ phù Lý chống Trần nổi lên. Thủ Độ mời Trần
Thừa làm Thượng hoàng lo giúp vua để ông rảnh tay dẹp loạn. Không đầy một năm,
Thủ Độ đánh dẹp và thu phục được các đảng giặc để trở lại nắm triều chính.
Trần Thủ Độ
sinh năm Giáp Dần (1194) tại làng Lưu Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Ông ít được học
nhưng có tài thiên phú, có bản lĩnh, thẳng thắn và quyết đoán.
Có lần duyệt hộ
khẩu, Linh Từ quốc mẫu xin riêng cho một người làm chức Câu đương (một chức dịch
trong xã). Ông ghi tên họ quê quán. Duyệt đến xã ấy, hỏi tên đương sự, đương sự
mừng rỡ chạy đến. Trần Thủ Độ nói:
- Người vì có công
chúa xin cho được làm Câu đương, không thể ví như những Câu đương khác, phải chặt
một ngón chân để phân biệt.
Đương sự kêu
van xin thôi, hồi lâu Thủ Độ mới tha cho. Từ đấy, không ai dám nhờ cậy việc riêng
nữa.
Sử ghi, có lần
Linh Từ quốc mẫu ngồi kiệu đi qua chỗ thềm cấm, bị người quân hiệu chặn lại. Về
nhà, Linh Từ quốc mẫu than:
- Mụ này làm vợ
ông mà bọn quân hiệu ấy khinh nhờn như thế.
Thủ Độ sai quân
đi bắt về. Nghe người quân hiệu kể lại ngọn nguồn câu chuyện, Thủ Độ khen:
- Người ở chức
thấp mà biết giữ phép nước, như thế ta còn trách gì nữa - Nói rồi lấy vàng, lụa
thưởng cho người ấy.
Có viên quan nhân
lúc vào chầu vua Thái Tông, ứa nước mắt tâu:
- Bệ hạ tuổi còn
trẻ mà thái sư Trần Thủ Độ quyền nghiêng chân chúa, không biết rồi tiền đồ xã tắc
sẽ ra sao? Hạ thần lấy làm lo lắng lắm!
Vua bảo Thủ Độ:
- Trẫm biết Thượng
phụ chỉ có tấm lòng son vì nước chứ không có bụng riêng nào. Vậy mà kẻ kia thấy
ông nắm giữ mọi quyền bính, dám ngờ vực xằng đã tâu với trẫm là đáng lo ngại về
việc Thượng phụ chuyên quyền có thể không hay cho xã tắc. Đó là lời nói hại đến
nghĩa vua tôi và tình cảm chú cháu giữa Thượng phụ và trẫm.
Trần Thủ Độ trầm
ngâm suy nghĩ rồi tâu:
- Kẻ kia nói vậy mà đúng. Quả có chuyện chuyên
quyền thật. Thế mới biết một trăm người vâng dạ không bằng một người nói thẳng.
Trong đám quan lại chỉ duy nhất có người này ngay thẳng, bạo dạn, dám nói những
điều người khác chỉ dám nghĩ. Vậy, một triều thịnh phải khuyến khích người nói
thật.
Nói xong, Thủ Độ
xin phép vua lấy mấy tấm lụa và mấy quan tiền thưởng cho viên quan nọ.
Lại có chuyện,
một lần, nhà vua tỏ ý cho An Quốc, anh ruột của Trần Thủ Độ, làm tể tướng. Với
tư cách là quan đầu triều, Trần Thủ Độ nói: “Nếu bệ hạ thấy anh tôi là người hiền
tài, thì tôi xin từ chức để nhường cho, nếu bệ hạ nhận thấy không phải là hiền
tài thì không nên dùng, chứ nếu cả hai anh em đều làm tướng thì đối với thiên hạ
còn ra thế nào?”. Đó là câu nói khẳng khái của một tâm hồn bộc trực, và nếu một
ông quan đầy quyền uy, không lo đến trăm họ, không biết đặt quyền lợi của quốc
gia, xã tắc là trên hết, thì không thể nói được một câu như thế.
Trần Thủ Độ thực
sự là linh hồn của cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống sự xâm lược của quân
Nguyên Mông. Công lao của ông đối với đất nước, dân tộc là không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, sử sách
phong kiến thường coi Trần Thủ Độ như một quyền thần vô học, có tài mà không có
đức, có công với triều Trần nhưng có tội với triều Lý. Lý do đưa ra là việc Thủ
Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Chuyện kể rằng: năm Nhâm Thìn (1231), nhân làm lễ
Tiên Hậu nhà Lý ở thôn Thái Đường (Đông Ngàn, Bắc Ninh), Thủ Độ sai làm nhà lá ở
trên các hố để đến khi các tôn thất nhà Lý vào tế thì bị sụt cả xuống, rồi lấy đất
đổ lên chôn sống hết. Nhưng trong “Đại Việt sử ký toàn thư”, Ngô Sĩ Liên chú giải
rằng “việc này chưa chắc đã có thực”.
Lý Chiêu Hoàng
sau khi đã nhường ngôi cho Trần Cảnh thì làm vợ Trần Cảnh, được phong là Chiêu
Thánh Hoàng Hậu. Ở với Trần Cảnh - Thần Thái Tông suốt 12 năm (đến 19 tuổi) mà
vẫn chưa có con, triều đình chưa có hoàng tử. Trần Thủ Độ thấy vậy, bắt vua Thái
Tông bỏ Chiêu Thánh, giáng xuống làm công chúa, rồi đem Thuận Thiên công chúa,
vợ của Trần Liễu (anh của vua), đang có thai 3 tháng, vào lập làm Hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem
quân làm loạn. Vua Thái Tông trong lòng áy náy, ban đêm, ra khỏi kinh thành đến chỗ quốc sư Phù Vân
(quốc sư là bạn cũ của Thái Tông) trên núi Yên Tử (Quảng Ninh) rồi ở lại đó, tỏ ý phản đối. Trần Thủ Độ đem quần thần tới đón về. Thái Tông từ
chối, nói rằng:
- "Vì trẫm non trẻ, chưa cáng đáng nổi sứ mạng năng nề, phụ hoàng lại
vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm
nhục xã tắc".
Thủ Độ cố nài xin nhiều lần vẫn chưa được vua nghe, mới bảo mọi người rằng:"Xa giá ở đâu tức là triều đình ở đó".
Thế rồi Thủ Độ cắm nêu trong núi, chỗ này là điện Thiên An, chỗ kia là
các Đoan Minh, sai người xây dựng. Quốc sư nghe thấy thế bèn, tâu rằng: "Bệ hạ nên gấp quay xa giá trở về, chớ để làm hại núi rừng của đệ tư".
Thái Tông bất đắc dĩ theo xa giá về kinh.
Được ít lâu, Trần
Liễu biết không địch nổi, đang đêm giả làm người đánh cá lẻn lên thuyền ngự xin
hàng. Hai anh em ôm nhau khóc. Thủ Độ thấy thế, vội vàng rút gươm, huy động quân đến vây thuyền rồng và quát: "Giết chết tên giặc Liễu!". Thấy thế vua lấy thân hình ra che và phân trần: "Phụng Càn Vương (Phụng Càn là tên hiệu cũ của Liễu hồi còn nhà Lý) đến hàng đầy!" Thủ Độ tức lắm, ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?".
Vua nói giải hòa, rồi bảo Thủ Độ rút quân về. Vua lấy đất Yên Phụ, Yên
Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc. Nhân đất
được phong, mà Liễu có tên Hiệu là Yên Sinh vương, sau có con là Trần Quốc Tuấn. Binh lính theo Liễu làm loạn ở sông Cái đều bị giết. Về sau, người con của An Sinh vương mà Trần Thủ Độ sắp đặt để làm con Thái Tông, tức là Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang, cũng không được làm Hoàng thái tử dù là con trưởng. Năm 1240, Lý Kế hậu sinh được Trần Hoảng, lập làm Hoàng thái tử.
Trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, Trần Thái Tông đã biết dựa vào Trần Thủ Độ,
Trần Quốc Tuấn để lãnh đạo nhân dân Đại Việt chống giặc. Bản thân ông cũng tự làm
tướng đi đốc chiến, xông pha lửa đạn.
Trần Thái Tông
còn là nhà thiền học có tư tưởng sâu sắc, có cốt cách độc đáo, là tác giả của “Khóa
hư lục”, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước
ta. Trong cuốn sách đó có bài “Tự thiền tông chỉ nam”. Trong đó, ông kể lại sự
kiện đang đêm bỏ cung điện vào núi. Khi nghe thái sư Trần Thủ Độ thống thiết:
“Bệ hạ ở tu cho riêng mình thì được. Nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Vì để lời
nói suông mà báo đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho
thiên hạ?”, ông đã “do đấy, trẫm cùng các vị quốc lão về kinh gắng lại lên ngôi”.
Chán nản, bỏ mặc
thiên hạ rối ren, quay lưng giũ bỏ trách nhiệm trước “con dân” khốn đốn, thản
nhiên đi tu, là Lý Huệ Tông. Không màng quyền lực địa vị, bỏ đi tu, nhưng khi
nghe ra lời nói chí lý, lại quay về xả thân vì quốc gia xã tắc, là Trần Thái Tông.
Một con người có tâm hồn thật là nhẹ như thế, nếu thật sự có Niết Bàn thì bây
giờ đang ở cõi ấy. Hình như ở Trần Thái Tông, trong cái khoảng khắc phải lựa chọn
dứt khoát giữa Đạo và Đời, đến với Phật hay về lại với quốc gia xã tắc, ông đã
ngộ ra được con đường duy nhất cần phải đi để đến với cả hai, trước lý lẽ không
“chê vào đâu được” của Trần Thủ Độ, vì xét cho cùng nó phù hợp hoàn toàn với cái
mục đích tối thượng của đời ông: cầu cho quốc thái dân an. Bộ não đó được đốn
ngộ đến lạ lùng và tâm hồn đó đẹp đẽ đến khác thường, trở thành tấm gương sáng
cho hậu duệ sau này.
Mùa xuân năm Mậu
Ngọ (1258), Trần Thái Tông truyền ngôi cho con là thái tử Trần Hoảng, rồi được
triều đình tôn lên làm Thái Thượng Hoàng. Ông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng
Hoàng 19 năm, thọ 60 tuổi.
Thái tử Hoảng lên
ngôi, lấy niên hiệu là Thánh Tông. Trần Thánh Tông là ông vua nhân từ, trung hậu.
Vua hay nói với tả hữu: “Thiên hạ là của cha ông để lại nên để cho anh em cùng
hưởng phú quí”. Trừ các buổi thiết triều mới phân biệt trên dưới, còn thường ngày
vua cho các hoàng thân vào điện ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, hòa hợp thân ái.
Lại nói về Chiêu
Thánh: khi Chiêu Thánh bị giáng xuống làm công chúa, nàng 20 tuổi. Phải rời bỏ
người mà mình đem lòng yêu thương, Chiêu Thánh rất đau khổ, ẩn vào cung sâu,
toan dứt nợ trần tục. Nhưng rồi dù có muộn mằn thì trời cũng ban cho nàng một hạnh
phúc thực sự. Năm Chiêu Hoàng 40 tuổi (tức 20 năm sau), vào mùng một tết năm Mậu
Ngọ (1258), vua Thánh Tông đặt đại lễ ở chính điện, có lệnh gả Chiêu Thánh cho
Lê Phụ Trần (một đại tướng có công lớn trong cuộc chống Nguyên Mông lần thứ nhất).
Chiêu Thánh sinh được hai con: Lê Tông, sau được phong tước Thượng Vị hầu và Ngọc
Khuê, sau được phong là Ứng Thụy công chúa. Chiêu Thánh mất năm 60 tuổi. Tương
truyền lúc mất, tóc bà vẫn đen nhánh, môi vẫn đỏ như tô son, hai má vẫn một màu
hồng đào.
Năm 1264, mùa xuân, tháng Giêng, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời, thọ 71 tuổi. Ông được Trần Thái Tông truy tặng thụy hiệu là Thượng phụ Thái sư Trung Vũ đại vương.
Đình Hoan Ái thờ thành hoàng làng là Thái Sư Trần Thủ Độ. Hàng năm đến
ngày sinh của Trần Thủ Độ 20 tháng 1 (âm lịch), ngày mất của Trần Thủ Độ
24 tháng 1 (âm lịch) nhân dân địa phương mở hội làng: Rước kiệu, rước
nước giữa dòng song Bắc Hưng Hải ở bến Hầu (cầu Hầu), tế lễ tổ chức nhộn
nhịp.
Theo sách "Đại Việt sử ký toàn thư: "Trần Thủ Độ tuy làm Tể tướng,
nhưng mọi việc không việc gì không để ý. Vì thế đã giúp nên vương
nghiệp và giữ được tiếng tốt cho đến lúc mất. Thái Tông hoàng đế có làm
bài văn bia ở sinh từ để tỏ lòng đặc biệt quý mến ông. Thế nhưng cái tội
giết Lý Huệ Tông thì khó lẩn tránh với đời sau vậy.
Còn theo Trần Xuân Sính chép trong sách "Thuyết Trần" thì Trần Thủ Độ tuy không
đỗ đạt khoa cử nhưng mưu lược hơn người, không chỉ là quyền thần nhà Lý mà là quyền thần của ngay nhà Trần. Đối với tình thế Đại Việt, việc làm của ông được cho là có vai trò tích cực. Ông phò nhà Trần bình được nội loạn, làm cho Đại Việt kịp chấn hưng, và đó chính là cơ sở để đủ sức lực và tinh thần chống cự được Mông Cổ.
Nhiều học giả nhất quán rằng sự thay thế của nhà Trần đối với nhà Lý
trong thời điểm đó - mà sự thay thế và kiến thiết ban đầu không thể
không nói tới Trần Thủ Độ - có vai trò quyết định sự tồn vong của Đại
Việt trước nguy cơ ào tới của vó ngựa Mông mà Trung Hoa lớn mạnh ở
phương Bắc cũng không trụ nổi. Sử chép: "Thái Tông lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên quốc gia phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua."
Thánh Tông cũng
là vua dốc lòng xây dựng đất nước thịnh trị. Dưới triều ông, dân nghèo được
quan tâm, mọi người được khuyến khích học hành, những khoa thi chọn nhân tài được
mở và người tài được trọng dụng. Nhờ thế không chỉ có các ông hoàng là hay chữ
mà còn có những trạng nguyên xuất chúng như Mạc Đĩnh Chi, uyên bác như Lê Văn Hưu
và suốt thời trị vì của Thánh Tông không có giặc giã loạn lạc, nơi nơi dân chúng
yên ổn làm ăn, đất nước thái bình thịnh trị.
Trong đối ngoại,
vừa mềm dẻo vừa cương quyết, Trần Thánh Tông đã cố gắng giữ gìn danh dự Tổ Quốc
Đại Việt, ngăn chặn từ xa mọi sự nhòm ngó, tạo cớ xâm lược của nhà Nguyên.
Năm 1278, sau
21 năm trị vì, ông nhường ngôi cho con là thái tử Khâm rồi về phủ Thiên Trường
(Tức Mạc), làm Thái Thượng Hoàng.
Thái tử Khâm lên
ngôi, lấy niên hiệu là Nhân Tông.
Ngay sau khi Nhân
Tông lên ngôi, nhà Nguyên liền sai Lễ bộ thượng thư Sái Thung sang sứ Đại Việt.
Ỷ nước lớn, tên này đặc biệt kiêu ngạo, đến Kinh thành, cưỡi ngựa đi thẳng vào
cửa Dương Minh (cửa Nam của Phượng Thánh (Cấm Thành đời Lý), dẫn đến nơi vua ở)
rồi cho người đưa thư trách vua Nhân Tông tự lập ngôi vua và đòi phải sang chầu
Thiên Triều (Triều đình nhà Nguyên). Vua sai đại thần ra tiếp, Thung không thèm
đáp lễ, vua mời yến, hắn không thèm đến.
Năm Nhâm Ngọ
(1282), vua Nguyên lại cho sứ sang dụ:
- Nếu vua nước Nam không
sang chầu được thì phải đưa vàng ngọc sang thay và phải nộp hiền sĩ, thầy âm dương
bói toán, thợ khéo tay, mỗi hạng 2 người.
Để cố giữ hòa
hiếu, Trần Nhân Tông đành cho chú họ là Trần Di Ái và bọn Lê Tuân, Lê Mục sang
thay mình. Vua Nguyên bèn lập Trần Di Ái làm An Nam quốc vương, Lê Mục làm Hàn
lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư lệnh và Sài Thung dẫn 1000 quân đưa bọn ấy về
nước. Hay tin, Nhân Tông sai tướng đem quân đón đánh lũ nghịch thần. Sài Thung
bị tên bắn mù một mắt, trốn chạy về nước, còn lũ Trần Duy Ái bị bắt, phải tội đồ
làm hình…
Biết không thể
thần phục được vua Trần, nhà Nguyên phát động chiến tranh xâm lược hòng khuất
phục bằng quân sự và thực hiện dã tâm cướp nước ta. Đại Việt dưới triều Trần đã
phải chịu ba lần thử thách lớn lao và cả ba lần đều anh dũng vượt qua, với những
chiến công chói lọi. Vị quân vương cùng quân dân ta vượt qua hai thử thách sau
một cách bất khuất và oai hùng, không ai khác, chính là Trần Nhân Tông.
Trần Nhân Tông
là vị vua anh minh, nhân đức, được sử sách đánh giá là anh hùng cứu nước. Không
những thế, đời sau còn thấy ở ông một nhà Phật học, một thiền sư lớn của nền Phật
Giáo nước nhà và đồng thời là một thi sĩ có tài. Sau 14 năm làm vua, ông nhường
ngôi cho con và đi tu, trở thành thủy tổ phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. Tử tưởng
triết học của ông mang tính thực tiễn và tích cực. Theo sách “Tam tổ thực lục”,
có chuyện rằng một học trò hỏi Nhân Tông:
- Như thế nào là
Phật?
Ông trả lời:
- Như cám ở đáy
cối.
Lần khác, một học
trò hỏi:
- Lúc giết người
không để mất thì như thế nào?
- Khắp toàn thân
là can đảm - Nhân Tông đáp.
Thật là “siêu”,
thật là đặc sắc! Chỉ có những tâm hồn thản nhiên, khoáng đạt, tự do đến hết
cung bậc mới “thiền” ra như thế được và mới có được những vần thơ đầy cảm khái
như:
Xã tắc lưỡng hồi
lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ
điện kim âu.
(Xã tắc hai lần
mệt ngựa đá
Non sông nghìn
thuở vững âu vàng.)
Trần Nhân Tông
qua đời năm Mậu Thân (1308), tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng
Ninh).
Nhà Trần còn có
một điều đặc biệt lạ là có nhiều tướng tá đồng thời là nhân văn thuộc hoàng thân
quốc thích, mang họ Trần và hầu hết đều được lưu vào sử sách. Trong số đó, nổi
lên lừng lẫy một cái tên: Trần Quốc Tuấn.
Trần Hưng Đạo (1231 – 1300), tên thật là Trần Quốc Tuấn, tước hiệu Hưng Đạo đại vương, là một nhà chính trị, nhà quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần, sau khi qua đời dân gian đã suy tôn ông thành Đức Thánh Trần hay còn gọi là Cửu Thiên Vũ Đế. Ông được biết đến trong lịch sử Việt Nam với việc chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên – Mông năm 1285 và năm 1288.
Phần lớn tài liệu nghiên cứu lịch sử và cả dân gian thời sau thường
dùng tên gọi vắn tắt là "Trần Hưng Đạo" thay cho cách gọi đầy đủ là
"Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn", vốn bao gồm tước hiệu được sắc
phong cho ông. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt
Nam.
Ngay từ nhỏ, Trần Quốc Tuấn đã được cha (Trần Liễu) kén những thầy
giỏi về dạy mong con hội đủ được tài văn võ để ủy thác cho con mối thù năm xưa
mà mình chưa trả được. Có lần Trần Liễu dặn Quốc Tuấn: “Sau này nếu con không vì
ta mà lấy lại thiên hạ thì ta sẽ không sao nhắm mắt được khi đã nằm xuống đất”.
Quốc Tuấn tỏ ra
thông minh thiên phú, lớn lên thành người học rộng biết nhiều, văn tài võ kiệt.
Hơn thế nữa, ông là một hiền nhân, tận trung với nhà Trần, tận lòng với dân với
nước. Chính vì thế mà ông luôn đặt quyền lợi đất nước lên trên hết, chủ động xóa
đi mối thù nhà, ra sức xây dựng khối đoàn kết giữa dòng tộc họ Trần và trên thực
tế đã làm cho vương triều nhà Trần luôn gắn bó keo sơn, thống nhất ý chí, nêu tấm
gương sáng và đồng thời nuôi dưỡng được niềm tin trong toàn quân, toàn dân Đại
Việt. Đó cũng chính là một trong những yếu tố quyết định đến ba lần đại thắng
quân Nguyên.
Trong lần chống
Nguyên Mông lần thứ nhất, lúc vua Trần còn lúng túng chọn hướng đi chặn giặc, Trần
Quốc Tuấn đã tình nguyện xung phong và được lĩnh ấn Tiết chế (tổng chỉ huy quân
đội), đem quân lên mạn Hưng Hóa bày trận. Nhờ thế trận và cách dụng binh tài tình
của ông mà nhà Trần đủ thời gian rút khỏi Thăng Long, bảo toàn lực lượng và dẫn
đến thắng lợi quyết định Đông Bộ Đầu. Trong việc bình công ban thưởng, Trần Thái
Tông đã đánh giá chưa công bằng đối với ông. Tuy nhiên ông đã không vì thế mà bận
tâm.
Một lần, Trần
Quốc Tuấn đem lời cha mình lúc trước hỏi thử hai gia nô (và sau này cũng là những
tướng giỏi của ông) là Yết Kiêu, Dã Tượng. Cả hai đều nói:
- Làm việc ấy có
thể giàu sang một thời nhưng tiếng xấu để mãi ngàn thu. Bây giờ đại vương chẳng
giàu rồi ư? Chúng tôi thà chết già làm gia nô còn hơn làm hạng quan vô trung vô
hiếu.
Một lần khác, Trần
Quốc Tuấn đi dò ý các con mình. Ông hỏi người con lớn là Hưng Vũ Vương Trần Quốc
Hiến:
- Người xưa làm
nên giàu có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, vậy con nghĩ sao?
Quốc Hiến thưa:
- Giả sử đối với
họ khác còn không nên làm, huống chi là chỗ họ nhà ta.
Quốc Hiến được
cha khen ngợi.
Ông lại hỏi người
con thứ ba là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng như thế. Quốc Tảng thưa:
- Xưa Tống Thái
Tổ chỉ là một ông lão làm ruộng mà thừa thời dấy vận lấy được thiên hạ.
Nghe vậy, Trần
Quốc Tuấn nổi giận, rút gươm toan chém chết Quốc Tảng. May nhờ các con và những
người tâm phúc van xin, ông mới bớt giận, tha mạng, nhưng bảo:
- Xưa nay, kẻ loạn
thần là từ đứa con bất hiếu mà ra. Từ nay cho đến khi ta nhắm mắt, ta sẽ không
nhìn mặt thằng nghịch tử, phản thần này nữa.
Trước tin nhà
Nguyên đang sửa soạn đại binh sang đánh Đại Việt lần nữa, vua Trần Thánh Tông gửi
tờ chiếu cho Trần Quốc Tuấn, dặn ông lên kế hoạch đánh giữ để ba ngày sau sẽ trình
bày tại hội nghị các vương hầu ở bến Bình Than (Chí Linh, Hải Dương).
Trong khoảng thời
gian chờ bước vào hội nghị, Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải đã gặp nhau. Trên
thuyền tướng của Trần Quốc Tuấn, hai người đã đàm đạo và chơi cờ suốt buổi chiều.
Khi đó Trần Quang Khải có nói:
- Việc điều
binh khiển tướng, tôi chẳng thể bằng Quốc công. Có chiến tranh, mọi việc phải
thu xếp lại. Tôi đã tâu Quan gia (vua) trao ấn Tiết chế cho Quốc công. Chúng ta
phải hợp sức lại đánh quân thù.
Và Trần Quốc Tuấn
đáp:
- Lúc nào tôi cũng
sẵn lòng vì Quan gia và giúp Thượng tướng điều binh khiển mã, xin Thượng tướng
chớ lo.
Trần Quang Khải
cảm động, nói:
- Không phải không
có người e ngại Quốc công mà bận lòng đến chuyện cũ. Lòng Quốc công thật sáng
như sao Khuê…
Đến khi Trần Quốc
Khải vui vẻ cáo lui, Trần Quốc Tuấn ngăn lại, hóm hỉnh:
- Biết Thượng tướng
bận việc nước, ít có dịp tắm gội, tôi đã sai gia nhân đun nước thơm để sẵn. Nay
xin được tắm cho Thượng tướng.
Và Trần Quốc Tuấn
đã tự tay tắm rửa cho người em thúc bá của mình. Trần Quang Khải cảm được cái
nghĩa cử cao đẹp ấy:
- Đến cả cõi lòng
tôi, Quốc công cũng đã gột rửa, huống chi là thân thể. Được Quốc công tắm cho,
thật là may mắn!
Đời Nhân Tông,
vào buổi đầu của chiến tranh, thấy quân Trần bị đánh lui trên hầu hết các mặt
trận, vua cho vời Trần Quốc Tuấn đến hỏi:
- Nay thế giặc
to lắm, chống lại không nổi, hay là trẫm hàng đi để cứu mạng cho muôn dân?
Trần Quốc Tuấn đáp:
- Ra trận được
thua là chuyện thường, chỉ cần bảo tồn được lực lượng và giành được trận thắng
cuối cùng. Vả lại, chỉ sợ giặc tiến binh như tằm ăn lá chứ không sợ giặc hùng hổ.
Nay Thoát Hoan tiến binh như gió lốc, nghênh ngang không coi ai ra gì, chính là
điềm thua đã báo vậy.
Vua đăm chiêu:
- Chuyện sau thì
chưa rõ nhưng trước mắt quân ta đang thua, giặc mặc sức tàn sát dân lành. Chẳng
thà hàng đi cứu dân đã, đợi dịp khác sẽ lấy lại nước.
- Tâu Quan gia!
Quân ta lui không phải là giặc đã thắng. Thế đánh chưa có lợi thì ta lui cho kiêu
lòng giặc. Chứng cớ là tướng lĩnh ta vẫn còn, chưa ai phải bỏ thân ở chiến trường.
Trần Quốc Tuấn
nói mạnh thêm:
- Vẫn biết bụng
Bệ hạ muốn hàng là vì lòng nhân đức. Nhưng còn tôn miếu, xã tắc? Nếu Bệ hạ muốn
hàng, xin trước hãy chém đầu lão thần này đã. Đầu lão thần còn thì xã tắc còn,
xin Bệ hạ chớ lo.
Vị vua trẻ tươi
tỉnh:
- Gần Quốc công,
nghe Quốc công phân giải, trẫm đây thấy yên lòng?
Binh pháp của
Trần Quốc Tuấn là sự sáng tạo trên nền tảng kế thừa được cách đánh giặc luôn chủ
động tiến công, trong sự tiến, lui uyển chuyển phù hợp với từng thế trận, từng
thời đoạn chiến tranh của dân tộc ta, có tiếp thu lý luận quân sự đúng đắn và rất
quý báu của Tôn Tử, Tôn Tẫn… Thiên tài quân sự của ông đã thể hiện rõ ràng
trong thực tiễn chiến tranh ba lần đại thắng quân Nguyên Mông, trong hai bộ
binh thư mà ông trước tác là “Binh thư yếu lược” và “Vạn kiếp tổng bí truyền thư”.
(Năm 1984, tại London, thủ đô nước Anh, ông đã được bầu chọn là một trong mười
danh tướng lừng lẫy cổ kim của thế giới).
Không những thế,
ông còn là một danh nhân văn hóa của dân tộc. “Hịch tướng sĩ”, một chấp bút của
ông, một áng văn kêu gọi tha thiết và hùng hồn, mãi mãi là tinh hoa trong kho tàng
văn học Việt Nam.
Hai tháng trước
khi Trần Quốc Tuấn mất, vua Anh Tông đến thăm và có hỏi:
- Nếu chẳng may
ông mất đi, giặc phương Bắc lại sang xâm lấn thì kế sách làm sao?
Ông đã trăng trối:
- Thời bình phải
khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước!
Làm theo Đạo Lý
và Đức Huyền Diệu cũng là như thế và câu nói đó là một chân lý sáng ngời của mọi
thời đại.
Để ghi nhận công
lao và tỏ lòng kính trọng Trần Quốc Tuấn, vua Trần tiến phong ông là Thái sư Thượng
phụ Hưng Đạo Đại Vương, đối xử theo đạo cha.
Do đã có những công lao to lớn trên con đường vệ quốc, gìn giữ độc
lập, Vua đã trao cho Hưng Đạo vương vị trí tối cao toàn quyền chỉ huy
quân đội Đại Việt, đồng thời đặc cách cho ông quyền phong tước hiệu cho
bất kỳ ai mà ông muốn. Nhưng trong suốt cuộc đời, ông không hề sử dụng
đặc quyền này.
Tháng Tư (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1289),
luận công ba lần đánh đuổi quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo được phong
tước Hưng Đạo đại vương. Sau đó, ông lui về ở Vạn Kiếp, là nơi ông được
phong ấp (nay thuộc xã Hưng Đạo, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Nhân dân lúc bấy giờ kính trọng ông, lập đền thờ sống ông ở Vạn Kiếp. Tại đền có bài văn bia của vua Trần Thánh Tông, ví ông với
Thượng phụ (tức Khương Tử Nha).
Tháng Sáu (âm lịch) năm Canh Tý (1300), Trần Hưng Đạo ốm nặng. Vua Trần Anh Tông ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: "Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?". Ông trả lời: "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (vườn không nhà trống), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê
dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi
suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt
đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã
Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp
sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường
trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường
của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ
chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì
phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời
tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả
lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ
nước vậy".
Mùa thu tháng 8,
ngày 20 năm Canh Tý (1300), Trần Quốc Tuấn qua đời.
Khi sắp mất, Trần Quốc Tuấn dặn các con rằng: "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục".
Nghe tin Trần Hưng Đạo vương mất, triều đình Đại Việt phong tặng ông là "Thái sư Thượng Phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương". Ông được nhân dân cả nước tôn vinh là "Đức Thánh Trần" và lập đền thờ ở nhiều nơi, song nổi tiếng hơn cả là khu di tích Đền Kiếp Bạc nơi thờ phụng ông thuộc địa phận hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp, xã Hưng Đạo, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Người tướng kề
vai sát cánh với Trần Quốc Tuấn, là trụ cột thứ hai của nhà Trần trong cuộc chống
xâm lược Mông Nguyên, giữ nước là Trần Quang Khải.
Trần Quang Khải (1241 – 1294), hay Chiêu Minh Đại vương, là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại Việt thời Trần. Ông làm đến chức Thừa tướng đời Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông, coi cả mọi việc trong nước.
Trong kháng chiến chống Nguyên-Mông (1285), Hoàng đế Trần Nhân Tông phong ông chức Thượng tướng Thái sư; ông giữ vai trò nổi bật trong trận phòng thủ Thanh Hóa, Nghệ An và trận đánh tan quân Nguyên tại Chương Dương độ. Ông được Trần Thánh Tông khen là người bề tôi trung hiếu hiếm có; ngoài ra, sách "Lịch triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú ghi nhận: "Công lao thu phục được nước, ông đứng thứ nhất". Ông còn là người học rộng, giỏi thơ phú, có làm "Lạc Đạo tập" lưu lại ở đời.
Dưới triều vua
Trần Thánh Tông, Trần Quang Khải được phong tước Chiêu Minh Đại Vương. Năm
1274, dưới triều vua Trần Nhân Tông, ông được cử làm Thượng tướng thái sư, nắm
toàn quyền nội chính trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và
ba, ông là vị tướng chủ chốt thứ hai, sau Trần Quốc Tuấn và có nhiều công lớn. Ông giữ vai trò nổi bật trong trận phòng thủ Thanh Hóa, Nghệ An và chính ông đã chỉ huy quân đánh tan giặc ở Chương Dương và Thăng
Long, những trận then chốt nhằm khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5 năm Ất Dậu
(1285).
Bên cạnh năng lực
quân sự, Trần Quang Khải còn là một nhà thơ có tên trong văn học sử Việt Nam.
Theo lời Phan Huy Chú, thơ ông “thanh thoát, tao nhã và lý thú”.
Ngày 3 tháng 7 âm lịch năm Hưng Long thứ hai (tức 26 tháng 7 năm 1294), đời Trần Anh Tông, ông qua đời. Vợ ông là Phụng Dương công chúa đã mất trước đó 3 năm. Ông bà được chôn cất tại thái ấp của mình, được thờ làm Thành hoàng làng Cao Đài.
Trần Quang Khải được người dân Việt Nam lập đền thờ ở một số nơi; như tại đình làng Phương Bông, ngoại thành thành phố Nam Định.
Tại Phường Bông cũng lưu lại điệu múa "bài bông" được người dân ở đây
cho là khởi xướng bởi Trần Quang Khải trong tiệc "Thái bình diên yến" do
Trần Nhân Tông tổ chức sau khi chiến thắng quân Nguyên. Tại đền Thái Vi ở Hoa Lư, Ninh Bình ông cùng với Trần Hưng Đạo được đúc tượng phối thờ trong hậu cung cùng với các vị vua nhà Trần.
Trần Quang Khải
cũng là một cuộc đời lớn!
¯¯¯
Vào thời trung đại,
trong điều kiện đặc thù về khí hậu, đất đai của vùng thảo nguyên mênh mông thuộc
Trung Á và với trình độ lao động, sản xuất bấy giờ, đại bộ phận người Mông Cổ sống
du mục, lấy nghề chăn nuôi súc vật, dùng súc vật (những sản phẩm từ súc vật phần
lớn là cừu, bò, ngựa) đổi lấy lương thực và hàng tiêu dùng thiết yếu, làm phương
thức sinh sống chủ yếu. Trừ một số ít ở vùng rừng núi phía bắc còn sống bằng
nghề săn bắn và đánh cá.
Người Mông Cổ có
lẽ là hậu duệ hoặc chi nhánh của người Hung Nô. Thế kỷ VIII, người Mông Cổ lần
lượt bị phụ thuộc người Đột Quyến và người Hồi Đột. Đến nửa sau thế kỷ IX, họ lập
thành một liên minh bộ lạc do bộ lạc TácTa cầm đầu. Vì vậy, trong một thời gian
dài ở Mông Cổ cũng như ở nước ngoài, cái tên TácTa được dùng để chỉ người Mông
Cổ.
Thế kỷ XI, liên
minh bộ lạc TácTa tan rã vì sự tấn công của nước Liêu. Sang thế kỷ XII, các bộ
lạc Mông Cổ lại thường xuyên bị nước Kim tấn công. Đến thời kỳ này, trên thảo
nguyên mênh mông (gồm nước Mông Cổ, Nội Mông, thuộc Trung Quốc và một dải ở phía
nam Xibêri ngày nay) có nhiều bộ lạc sinh sống, trong đó lớn mạnh nhất là các bộ
lạc TácTa, Kêraít, Nainan, Merơkít.
Đến cuối thế kỷ
XII, đầu thế kỷ XIII, các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc xảy ra liên miên (một
tất yếu của quá trình phát triển tự phát: mất cân đối và phân tầng giàu nghèo
trong xã hội!). Phản ánh tình hình ấy, “Lịch sử bí mật Mông Cổ” chép:
“Bầu trời đầy sao đang
quay cuồng
Các bộ lạc đánh
nhau không dứt
Không còn có thời
giờ để ngủ
Đâu đâu cũng chỉ có
giành giật cướp bóc
Cả mặt đất đang
rung chuyển
Không còn có thời
gian để nằm yên
Mà chỉ có đánh
nhau, chém giết…”
Quá trình thôn
tính lẫn nhau ấy làm một số bộ lạc bị diệt vong, số khác trở nên lớn mạnh và số
khác nữa sống còn trong những liên minh bộ lạc (ulus). Thủ lĩnh đứng đầu liên
minh bộ lạc là Khan (hãn) có thế lực và uy quyền khá lớn.
Thành Cát Tư Hãn (1162 - 1227) là người sáng lập đế quốc Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập ở vùng Đông Bắc Á năm 1206. Ông là một trong những nhà quân sự lỗi lạc và có ảnh hưởng nhất
lịch sử thế giới, được người Mông Cổ dành sự kính trọng cao nhất. Tháng
10/1266, Hốt Tất Liệt - hoàng đế khai quốc của nhà Nguyên, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn truy tôn ông miếu hiệu Nguyên Thái Tổ, thụy hiệu Thánh Vũ Hoàng Đế. Năm 1309, Nguyên Vũ Tông gia thụy thành Pháp Thiên Khải Vận Thánh Vũ Hoàng Đế.
Các cuộc chinh phạt của Thành Cát Tư Hãn trên khắp khu vực Á - Âu
đã đem lại thống nhất và phát triển giao lưu buôn bán. Ông cũng là một
trong những nhà lãnh đạo đầu tiên trên thế giới thi hành tự do tôn giáo.
Nhưng ông cũng nổi tiếng bởi sự tàn bạo, bị nhiều dân tộc coi là hiện
thân của ác quỷ, nhất là từ Trung Á, Đông Âu và Trung Đông
(những nơi bị quân Mông Cổ thảm sát hàng loạt). Ước tính, quân đội Mông
Cổ đã giết hơn 40 triệu người tại các lãnh thổ mà họ xâm chiếm.
Có nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, như Thiếp Mộc Nhi, người lập ra đế quốc Timurid; Babur, người sáng lập đế quốc Mông Cổ trong lịch sử Ấn Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn cai trị Mông Cổ đến thế kỷ XVII rồi bị nhà Thanh thu phục.
Thành Cát Tư Hãn, tên thật là Thiết Mộc Chân, tên la tinh làTêmusin (có sách ghi:1155 -
1227), xuất thân trong một gia đình quí tộc thị tộc, cha là Yêxugây Batua, vốn là
thủ lĩnh bộ lạc Taisiút. Năm 1164, Taisiút tan rã, gia tộc Yêxugây gặp nhiều hoạn
nạn, phải sống phiêu bạt trong cảnh nghèo khổ. Về sau, được sự giúp đỡ của thủ
lĩnh bộ lạc Kêraít và người anh em kết nghĩa từ thưở niên thiếu là Jamuga, Têmusin
đã tập hợp lại được lực lượng trước kia của mình. Sau khi đánh bại và thẳng tay
tàn sát bộ lạc Merơkit, Têmusin cắt đứt quan hệ với Jamuga, lôi kéo nhiều thị tộc
thuộc Jamuga theo mình. Thế lực Têmusin ngày một lớn mạnh. Do đó năm 1189, Têmusin
được giới quí tộc bầu làm Khan.
Tiếp đó, Têmusin
lần lượt đánh bại các bộ lạc khác và đến năm 1205 thì tất cả các bộ lạc ở Mông
cổ đều thần phục Têmusin. Năm 1206, các thủ lĩnh bộ lạc họp đại hội bên bờ sông
Ômôn, quê hương Têmusin, nhất loạt bầu Têmusin làm Khan lớn nhất (Đại Hãn) và gọi
là Singhít Khan (Singhít có nghĩa là biển), tức Thành Cát Tư Hãn. Sự kiện đó đánh
dấu sự thành lập nhà nước Mông Cổ thống nhất.
Mông Cổ lúc bấy
giờ vốn chưa có chữ viết (có thể là do cách sống du mục phân tán trong thảo
nguyên mênh mông và chiến tranh loạn lạc triền miên giữa các bộ lạc ở những thời
gian trước đó). Khi hàng phục được bộ lạc Naiman, Thành Cát Tư Hãn bắt được một
người Duy Ngô Nhĩ, sai người này dùng chữ Duy Ngô Nhĩ phiên âm tiếng Mông Cổ để
dạy cho con em quí tộc. Tuy vậy bản thân Thành Cát Tư Hãn vẫn mù chữ.
Danh từ “Mông Cổ”
chính thức xuất hiện trong sách vở sau khi Thành Cát Tư Hãn thống nhất đất nước,
sử sách Trung Hoa gọi là “Thát”.
Ngay từ năm
1205, Thành Cát Tư Hãn đã từng tấn công Tây Hạ. Sau khi thành lập nước, với thế
và lực càng mạnh, Thành cát Tư Hãn đã lấy chiến tranh xâm lược, cướp bóc các dân
tộc khác làm phương thức kiếm ăn chủ yếu. Ông ta đã động viên toàn bộ nhân tài
vật lực vào cuộc bành trướng lãnh thổ, mở rộng phạm vi thống trị của mình, làm
nên một cuộc chinh phục vĩ đại, vô tiền khoáng hậu, hết sức tàn bạo và khốc liệt,
làm kinh thiên động địa thế giới bấy giờ. Trong vòng nửa thế kỷ, vó ngựa của đội
quân thiện chiến và cường bạo tung hoành, dày xéo khắp Á, Âu, lập nên một Đế quốc
Mông Cổ rộng bao la từ Thái Bình Dương đến tận Hắc Hải.
Mục tiêu đầu tiên
của cuộc chinh phục ấy là hai nước láng giềng: Tây Hạ (nước đã từng đánh nhưng
chưa hạ được) và Kim. Năm 1209, Mông đánh Tây Hạ. Không chống cự nổi, Tây Hạ phải
nộp con gái xin hòa (thực chất là đầu hàng). Năm 1211, quân Mông ồ ạt tấn công
Kim, chiếm rất nhiều đất đai, rồi bao vây Trung Đô (Bắc Kinh). Chịu không nổi, Kim
cũng dâng công chúa xin hòa. Quân Mông rút nhưng vua Kim vẫn sợ nên dời đô xuống
Biện Lương. Nghĩ vua Kim làm vậy là có mưu đồ, mùa thu năm ấy, Thành Cát Tư Hãn
lại tấn công, toàn bộ phần lãnh thổ bắc Hoàng Hà của Kim bị nhập vào Mông Cổ. Năm
1216, sau khi cử một viên tướng của mình ở lại cai quản đất đai đã chiếm được,
Thành Cát Tư Hãn đem quân về nước để hoạch định bước kế tiếp của cuộc chinh phục.
Bắt đầu từ đó
những đoàn kỵ binh đông như kiến cỏ ào ạt tiến sang cả phương đông lẫn phương tây.
Trừ các đại dương, còn hầu như không có chướng ngại nào ngăn chặn được những đoàn
quân hung hãn, thần tốc, đánh phá một cách hủy diệt ấy.
Năm 1218, 2 vạn
quân Mông tấn công và chiếm được Tây Liêu (vùng bắc Trung Quốc), đưa cương giới
Mông Cổ tới sát liền với nước Khôrezmơ. Mùa Thu năm 1219, nhân cớ nước này bắt
giết hết một đội buôn Mông Cổ gồm 450 người (có một người chạy thoát về báo
tin), 500 lạc đà vận chuyển đầy vàng bạc, da thú và hàng hóa quí sang Trung Á
buôn bán, Thành Cát Tư Hãn huy động 20 vạn quân đánh tràn sang Khôrezmơ. Không đầy
một năm nước Khôrezmơ bị diệt vong. Thuận đà, quân Mông tràn vào Adécbaidan, rồi
đóng tại đó chờ cho qua mùa đông. Năm 1222, quân Mông (do Giêbê và Xinbutai chỉ
huy) xâm nhập Grudia rồi vượt núi Cápcadơ, tiến lên phía bắc. Năm 1223, tại chiến
dịch bên bờ sông Camca, quân Mông đánh bại 80.000 liên quân Nga. Tướng lĩnh Mông
Cổ đã bắt trói các vương công Nga, bắc ván lên đầu họ rồi ngồi lên đó để ăn mừng
chiến thắng! Sau đó quân Mông quay về phía đông.
Thành Cát Tư Hãn đã đề ra nhiều chính sách giúp Mông Cổ phát triển cả về
quân sự, chính trị và văn hóa. Tuy vậy, tình trạng bùng nổ dân số dẫn
đến nguồn cung cấp lương thực và tài nguyên cạn kiệt, khiến ông nhắm đến
những vùng đất bên ngoài thảo nguyên, cụ thể là Trung Nguyên mà gần
nhất là nhà Kim. Nhưng vì thời cơ chưa tới nên ông nhắm đến Tây Hạ, vừa
để phá vỡ liên minh Kim - Hạ, vừa làm bàn đạp đánh Kim. Vì vậy, sau khi
bình định các bộ lạc phía Bắc, Thành Cát Tư Hãn dẫn quân đánh Tây Hạ vào
năm 1207. Tây Hạ Tương Tông
sai sứ cầu cứu nhà Kim nhưng không được hồi đáp. Cuối cùng, Tây Hạ phải
thần phục Mông Cổ và cung cấp binh lính cũng như hậu cần cho các chiến
dịch tương lai của Thành Cát Tư Hãn.
Năm 1226, Thành
Cát Tư Hãn lại tấn công Tây Hạ, hủy diệt nhiều thành trì rồi tiến quân vây kinh
đô. Vua Hạ chịu thua, đầu hàng. Nước Tây Hạ không còn nữa. Vương triều Tây Hạ kết thúc tồn tại sau 189 năm (1038 - 1227).
Ngày 25-8-1227,
Thành Cát Tư Hãn bệnh, mất. Con út của ông
là Tôlui tạm thời nắm quyền đất nước. Năm 1229, Hội nghị quí tộc công nhận Ôgôxây
(con thứ ba của Thành Cát Tư Hãn) kế ngôi Đại Hãn theo di chúc, đồng thời bàn kế
hoạch tấn công nước Kim, Nam Tống, Triều Tiên, Ba Tư và Tây Âu.
Năm 1230, Ôgôdây
và Tôlui cùng con mình là Mông Ca đem quân đánh nước Kim, mở màn giai đoạn
chinh phục mới. Lôi kéo được Nam
Tống cùng đánh Kim, đến năm 1233, quân Mông liên tiếp chiếm được nhiều châu của
Kim rồi bao vây Biện Kinh. Vua Kim tháo chạy đến Thái Châu (Cát Lâm). Đến lúc ấy,
Nam Tống mới đưa hai vạn quân đến phối hợp. Năm 1234, liên quân Mông - Tống vây
đánh Thái Châu, vua Kim tự tử, nước Kim chấm dứt tồn tại. Sau này, vào đầu thế
kỷ XVII, xuất hiện một nước Kim khác do người Nữ Chân, Kiến Châu thành lập, vào
năm 1636 được đổi tên là Thanh.
Cùng khoảng thời
gian đó, năm 1231, quân Mông cũng tấn công Cao Li, đánh đến kinh đô Khai Thành
thì vua Cao Li đành xin giảng hòa với những điều kiện ngặt ngèo do quân thắng
trận áp đặt. Năm 1232, vì Cao Li giết bọn Đaruhasi (quan trấn thủ, gồm 72 người
của quân Mông được bố trí ở những nơi trọng yếu trên lãnh thổ Cao Li theo điều
kiện áp đặt trong Hòa ước), và tỏ thái độ chống lại, quân Mông lại tấn công Cao
Li và trước tinh thần kháng chiến ngoan cường của nhân dân nước này, mãi đến năm
1253, mời thần phục được.
Năm 1236, dưới
sự chỉ huy của Batu (cháu Thành Cát Tư Hãn), 15 vạn quân Mông lại ồ ạt tiến
sang phía tây. Mùa đông năm 1237, quân Mông tấn công nước Nga, chiếm được nhiều
công quốc ở Nga, trong đó có Maxcơva, vào cuối năm 1238. Cuối năm 1240, quân Mông
chiếm và tàn phá Kiép cổ kính. Năm 1241, quân Mông chia làm hai đạo, tấn công
Hungari và Ba Lan. Vua Hungari bỏ chạy và đầu năm 1272, bị truy kích đến tận bờ
biển Nam Tư, gần Vênêxia. Châu Âu rúng động!
Đất Ba Tư sau
nhiều phen bị xâm lược, cuối cùng cũng bị sát nhập vào Đế quốc Mông Cổ rộng lớn.
Đất đai Xiri và vùng Lưỡng Hà cũng quằn quại bởi sự dày xéo của vó ngựa quân Mông.
Tuy giành được
thắng lợi liên tiếp, nhưng khả năng binh lực của quân Mông không phải là vô hạn,
và cũng do bị hao tổn, không cho phép tiến sâu hơn nữa vào Châu Âu và Trung Cận
Đông, cho nên năm 1242, Batu đành quay về phía đông, đóng quân tại vùng sông Vônga,
chờ thời.
Năm 1241, Ôgôđây
chết. Sau 5 năm tranh giành ngôi vua, năm 1246, Hội nghị quí tộc cử Guyúc (con Ôgôđây)
lên ngôi Đại Hãn. Hai năm sau (năm 1248), Guyúc chết, việc tranh ngôi lại xảy
ra cho đến năm 1251 thì Mông Ca trở thành Đại Hãn. Sau khi lên ngôi, Mông Ca tiếp
tục tổ chức những cuộc viễn chinh xâm lược mà mục tiêu chính là Nam Tống và Tây
Á.
Ở hướng tây, năm
1253, Mông Ca cử người em thứ ba của mình là Hulagu đem quân tấn công vùng Tây Á.
Năm 1258, quân Mông chiếm được Bát Đa. Vương triều A Bát của Arập bị diệt vong.
Vua Arập là An Muxtaxin bị bỏ vào một cái túi rồi cho ngựa xéo chết. Tiếp đó,
quân Mông đánh sang Xiri, Ai Cập, nhưng bị quân Ai Cập đánh chặn được nên phải
dừng lại. Trên lãnh thổ chinh phục được ở Tây Á, Hulagu lập nên một vương quốc
của người Mông Cổ gọi là Hãn quốc Ilơ.
Ở hướng đông, năm
1252, để tạo nên thế bao vây đối với Nam Tống, Mông Ca sai em thứ hai của mình
là Hubilai (Hốt Tất Liệt) dẫn một cánh quân tiến xuống phía tây nam, tiêu diệt
nước Đại Lý, đặt ách đô hộ lên toàn bộ vùng Vân Nam Trung Quốc (1253). Ngay năm
ấy, Hubilai sai Uriangkhađa (Ngột Lương Hợp Thái) tấn công Thổ Phồn. Thổ Phồn
thần phục vào năm 1254. Đầu năm 1258, Ngột Lương Hợp Thai đem quân tấn công Đại
Việt để làm bàn đạp lấn tiếp xuống phía nam, nhưng trước hết là để chọc vào lưng
Nam Tống.
Chiến tranh Mông Nguyên – Đại Việt hay Kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên (tên gọi ở Việt Nam) là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới thời các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ và nhà Nguyên. Tuy thời gian của cuộc kháng chiến bắt đầu từ năm 1258 đến năm 1288 nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ tổng cộng bao gồm khoảng gần 9 tháng, chia làm 3 đợt. Trước, giữa và sau các đợt chiến sự là thời gian tiến hành tích cực các hoạt động ngoại giao. Kết quả là Đại Việt bảo vệ được nền độc lập của mình nhưng trên danh nghĩa phải chịu làm một nước triều cống của nhà Nguyên để tránh xung đột trong tương lai. Ba cuộc kháng chiến này được xem là một trong những trang sử hào hùng nhất của dân tộc Việt Nam, và cũng là chiến công tiêu biểu của triều đại nhà Trần.
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm Vương quốc Đại Lý (Vân Nam ngày nay), muốn đánh chiếm Đại Việt
để tạo thế "gọng kìm" bao vây Nam Tống. Các đoàn ngoại giao của Mông Cổ
được phái sang Đại Việt đề nghị mở đường cho quân đội Mông Cổ đi qua để
lên đất Tống. Nhưng các vua Trần không những từ chối mà lại còn cho bắt
giam các nhà ngoại giao Mông Cổ.
Trước khi xâm
nhập biên giới nước ta, tướng Mông nhiều lần cho sứ sang dụ hàng, nhưng sứ đi mà
không thấy trở lại. Đại Việt đã chọn con đường kiên quyết kháng chiến, do đó,
vua Trần lệnh bắt nhốt sứ giả của quân Mông. Trần Quốc Tuấn lĩnh ấn Tiết chế, dẫn
quân lên phòng giữ biên giới.
Nước Đại Việt bước
vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông lần thứ nhất.
Dụ không được,
dọa cũng không xong, đầu tháng chạp âm lịch (1257) quân Mông (gồm 3 vạn kỵ binh
Mông và khoảng 2 vạn quân địa phương ở Vân Nam), vượt biên giới, chia làm hai đạo
tiến xuống dọc theo sông Thao. Quân Đại Việt năm 1258, gồm quân cấm vệ và quân các lộ, có khoảng 10
vạn, trong đó có 2 vạn cấm quân (lực lượng chủ lực đóng ở gần kinh
thành) và 8 vạn sương quân (quân đóng ở các địa phương). Tuy nhiên, 8
vạn sương quân này phải đóng quân rải khắp trên lãnh thổ cả nước, bao
gồm việc ngăn ngừa nổi loạn, chống đạo tặc, canh gác biên giới và lăng
tẩm... nên nhà Trần chỉ có thể tập trung được một bộ phận để tác chiến
với Mông Cổ.
Quân ta tổ chức vài trận đánh chặn ở khoảng đông
nam Lào Cai ngày nay, tạo điều kiện cho tiền quân ta lui từng bước về Phú Thọ,
trước một quân địch đang sung sức.
Hai cánh quân Mông
hội sư ở Việt Trì. Đích thân vua Trần Thái Tông và Thái tử Trần Hoảng dẫn quân lên nghênh địch tại Bình Lệ Nguyên (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc),
tự thân chỉ huy chiến đấu. Một cuộc giao chiến giữa tiền quân hai bên đã xảy ra
ở vùng Bạch Hạc. Nhận thấy quyết chiến ngay là không có lợi, đại quân ta chủ động,
tích cực rút lui. Tướng Mông đoán được, định chặn đường phía sau quân ta, cướp
thuyền chiến rồi bao vây tiêu diệt, nhưng đã muộn. Quân Mông Cổ đã không thành công trong việc tiêu diệt quân chủ lực Đại Việt và bắt các vua Trần.
Vồ hụt, quân Mông
tràn xuống đuổi theo, ngày 17-1-1258 tới Bình Lệ Nguyên (gần Hương Canh, Vĩnh
Phú), thì gặp đại quân ta. Nhận thấy tình thế vẫn còn rất bất lợi, một lần nữa,
nhà Trần lại vừa tổ chức đánh chặn địch, vừa khẩn trương cho đại quân rút về Phù
Lỗ, Hưng Yên. Tướng tiên phong của giặc là Triệt Triệt Đô, không thực hiện được
kế hoạch bắt sống vua tôi nhà Trần, sợ bị trừng phạt, đã uống thuốc độc tự tử.
Trận tiếp theo diễn ra bên sông Cà Lồ. Vua Trần sai phá
cầu Phù Lỗ, dàn quân phòng ngự bên này sông, đồng thời chủ trương cùng nhân dân
kinh đô Thăng Long thực hiện kế “thanh giã” làm vườn không nhà trống, di tản
triệt để. Quân Đại Việt lại bị đánh bại. Quân Mông dò tìm
khúc nông, thúc ngựa vượt sông, đánh thẳng vào quân ta. Tuyến phòng ngự bị vỡ,
quân ta tiếp tục rút lui theo hướng Thăng Long, về đóng giữ ở khúc sông Thiên Mạc
(Khóm Châu, Hưng Yên).
Quân Mông truy
kích đến Đông Bộ Đầu (phía đông Thăng Long) rồi xông vào kinh thành đã bỏ trống. Tuy nhiên, Nhà Trần đã dự tính trước
điều này và đã chủ động sơ tán người dân và của cải ra khỏi kinh đô từ
trước. Quân Mông Cổ dù chiếm được Thăng Long, nhưng Nhà Trần đã thực hiện "vườn không nhà trống", đem đi hết lương thực trong thành khiến quân Mông gặp phải khó khăn về lương thực. Chúng
chỉ tìm được mấy sứ giả của chúng trước kia, đang bị trói gô trong ngục (“quê”
thật!). Giận mà không làm gì được, quân Mông tàn phá Thăng Long.
Trước thế mạnh
ban đầu của giặc và việc rút lui, bỏ ngỏ thành Thăng Long không phải không làm
cho vài tướng quân Đại Việt nao núng. Trần Nhật Hiệu, em ruột vua, giữ chức Thái
úy khiếp nhược, khuyên vua nên hàng. Nhưng ý chí quyết chiến và niềm tin thắng
lợi vẫn còn đó, biểu hiện trong câu nói cảm khái mà quyết liệt đến ngàn sau còn
ngưỡng mộ của Trần Thủ Độ: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!”.
Quen thói đánh
nhanh thắng nhanh, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh nên quân Mông không dự phòng
đủ mức cần thiết về lương thảo. Lúc này, trước cảnh vườn không nhà trống, không
cướp bóc được gì làm quân lực bắt đầu mỏi mệt, sĩ khí sa sút, quân Mông lâm vào
tình thế tiến thoái hết sức khó khăn.
Chỉ 10 ngày sau khi rút khỏi Thăng Long, sau khi củng cố
lực lượng, thấy được sự khốn đốn của giặc và nhận định rằng thời cơ đã đến (chúng
ta cho rằng thấy rõ được thời cuộc đã là tài!), quân ta quyết định phản công. Đêm
29-1-1258, quân ta bí mật tiến ngược sông, đánh úp mãnh liệt quân giặc ở Đông Bộ
Đầu. Bị đánh bất ngờ, thua đau và để tránh bị tiêu diệt, quân Mông phải bỏ chạy
khỏi Thăng Long, chạy một mạch dọc theo sông Hồng về Vân Nam. Tuy nhiên, khi qua núi Quí Hóa
(vùng Phú Thọ và Yên Bái trên hữu ngạn sông Hồng), lại bị Hà Bổng, thuộc dân tộc
Mường, chỉ huy dân binh mai phục đánh cho một trận nữa mất hết hồn vía. Cuối tháng
chạp năm ấy, quân xâm lược hoàn toàn rút khỏi nước ta. Kinh đô Thăng Long, sau
11 ngày bị tạm chiếm, được giải phóng và khoảng mấy ngày sau (5-2-1258) ăn mừng
chiến thắng tưng bừng bằng Tết Nguyên Đán năm Mậu Ngọ.
Toàn bộ cuộc chiến lần thứ nhất chỉ diễn ra trong vòng khoảng nửa
tháng, với chỉ khoảng 3-4 trận đánh lớn. Quân Mông Cổ bị thiệt hại
nặng, mất từ quá nửa cho tới khoảng 4/5 quân số. Theo Nguyên sử, khi tiến vào đất Tống, đoàn quân Mông Cổ chỉ còn lại 3.000 kị binh Mông Cổ và 1 vạn quân Đại Lý. Sau thất bại tại Đại Việt, quân Mông Cổ phải tìm đường khác để tấn công Tống từ phía nam.
Bị thua đau bởi
một nước “nhỏ xíu”, Hốt Tất Liệt nuôi ý phục thù. Ỷ vào cái sức mạnh vượt trội
về người và của của một nước có lãnh thổ bao la, hoặc cũng do cái não trạng hống
hách đã quen với sự bành trướng dễ dàng và dễ dàng được thần phục, và cũng có
thể là đóng kịch, che dấu không để cho thiên hạ thấy cảnh bị “mất mặt” mà Hốt Tất
Liệt, trong thời gian chưa đủ điều kiện quay lại “làm gỏi” Đại Việt để thỏa uất
ức, đã có những hành động ngoại giao kiểu bề trên, hết sức lố bịch: mới thua
xong, Ngột Lương Hợp Thai đã lại sang sứ đòi vua Trần sang chầu (sứ giả lập tức
bị trói lại, đuổi về); năm 1261, Hốt Tất Liệt phong cho vua Trần là An Nam quốc
vương (!); tháng 10-1262, đòi nộp cống nho sĩ, thầy bói, thầy thuốc…, lại cử một
viên quan người Mông sang giám trị Đại Việt…
Tuy vậy, nhà Trần
vẫn kiên trì thực hiện đường lối ứng xử ngoại giao mềm dẻo trước kẻ mạnh (mạnh
thật chứ chẳng chơi!), vừa đảm bảo những nguyên tắc về chủ quyền và danh dự của
quốc gia, vừa thỏa mãn có mức độ những yêu sách có tính kẻ cả, xấc xược của chúng.
Trong khi đó, biết rằng trước sau gì quân Mông cũng lại tiến đánh Đại Việt để
thực hiện cái dã tâm chưa đạt được của chúng, nhà Trần đã tích cực chuẩn bị mọi
mặt, sẵn sàng bước vào cuộc thử lửa mới.
***
Tuy cánh quân Mông
xâm lược Đại Việt bị thất bại, nhưng nhận thấy điều kiện tấn công Nam Tống đã
chín muồi, ngay năm đó (1258), Mông Ca và Hốt Tất Liệt chia quân thành 2 mũi,
tiến xuống miền Tứ Xuyên, Hồ Bắc của Trung Quốc. Cuộc chiến đấu của nhân dân
Trung Hoa phía đông nam đã đánh thắng quân Mông trong trận Điếu Ngư (Tứ Xuyên),
Mông Ca trúng tên, chết. Em của Hốt Tất Liệt là Bu Kê đòi chiếm ngôi Đại Hãn,
buộc Hốt Tất Liệt tạm ngưng cuộc chinh phục Nam Tống, kéo quân về quốc đô Mông
Cổ tranh ngôi báu.
Sau 4 năm huynh
đệ tương tàn, Hốt Tất Liệt giành phần thắng. Năm 1271, Hốt Tất Liệt đổi xưng là
Hoàng đế, đặt tên nước là Đại Nguyên, dời đô đến Yên Kinh, gọi là Đại Độ. Sau
khi ổn định tình hình, năm 1274, Hốt Tất Liệt lại đem quân chinh phục Nam Tống.
Năm 1276, triều đình Nam Tống đầu hàng, nhưng lực lượng còn lại vẫn tiếp tục kháng
chiến đến tháng 2-1279 mới hoàn toàn thất bại. Tháng 8 năm đó, Hốt Tất Liệt ra
lệnh đóng chiến thuyền chuẩn bị đánh Nhật Bản và Đại Việt.
Chiếm xong
Trung Quốc, Cao Ly, Đế quốc Mông Cổ đang vào thời kỳ cực thịnh. Vẫn giữ tham vọng
thống trị thế giới, vua Nguyên thực hiện mưu đồ: phía đông, đánh Nhật Bản, phía
nam thì trước tiên chiếm các nước Đông Nam Á, rồi tiến sang đánh Ấn Độ, phối hợp
với cánh quân từ Ba Tư đánh qua. Trong bước chiếm đóng Đông Nam Á thì đánh Đại
Việt là khâu chủ yếu, quyết định. Vì thế, Hốt Tất Liệt đã chuẩn bị một đạo quân
rất lớn gồm 60 vạn quân giao cho con trai là Thoát Hoan chỉ huy. Để chiếm Đại
Việt, trước tiên sẽ dùng 10 vạn quân chiếm Chiêm Thành, sau đó cả 60 vạn quân sẽ
từ hai mặt bắc, nam giáp công đánh tới, tạo một đòn quyết định tiêu diệt quân
nhà Trần.
Năm 1282, Toa Đô
chỉ huy 10 vạn quân vượt biển tiến đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm mở cửa thành thúc
quân ra nghênh chiến. Cuộc chiến ác liệt xảy ra, cuối cùng thành vỡ, quân Chiêm
rút vào núi. Quân Nguyên tiến vào kinh đô Chà Bàn bỏ trống. Ngày 19-3-1283, quân
Chiêm đánh bại cuộc tấn công mới của quân Nguyên. Bị thất bại nặng, Toa Đô phải
rút quân ra vùng bờ biển, lập thế phòng thủ ở Ô Lý và Việt Lý, giáp biên giới Đại
Việt, chờ viện binh. Hốt Tất Liệt đòi vua Trần phải giúp quân và lương thực, phải
cho quân Nguyên mượn đường sang đánh Chiêm Thành, nhưng bị vua Trần cự tuyệt:
“Từ nước tôi đến Chiêm Thành, đường thủy đường bộ đều không tiện”. Mãi đến tháng
4 năm 1284, hai vạn quân tiếp viện của Hốt Tất Liệt mới đến được vùng biển Qui
Nhơn, nhưng chưa gặp quân Toa Đô thì bị bão lớn, binh thuyền tan tác hết.
Cuối năm 1284,
Thoát Hoan động binh, tháng 1-1285, vượt qua biên giới nước Đại Việt, với gần
59 vạn quân, chia làm hai cánh, đánh vào Tuyên Quang và Lạng Sơn.
Cuộc kháng chiến
cứu nước lần thứ hai của quân dân nhà Trần bắt đầu trước một kẻ thù vượt trội về
sức mạnh binh lực.
Trước đó, tháng
8-1282, Trần Quốc Tuấn biết chắc chiến tranh sẽ nổ ra, đã tập trung du quân (quân
tập trung cơ động của triều đình), quân các lộ và của các vương hầu về Đông Bộ Đầu,
tổng cộng 20 vạn quân, duyệt binh, động viên tướng sĩ rồi phân phối lực lượng để
đóng giữ các nơi hiểm yếu. Vua Trần, thuận lời của Trần Quốc Tuấn, triệu tập các
bô lão về kinh thành, mở hội nghị Diên Hồng để thỉnh cầu ý kiến trước lựa chọn:
nên hòa hay nên đánh. Câu trả lời: “Quyết chiến!” lừng vang non sông và hai chữ
“Sát Thát” thích trên cánh tay của từng quân sĩ đã nói lên tinh thần yêu nước vô
song, ý chí bất khuất trước kẻ thù cực mạnh của toàn dân tộc.
Tháng 10-1282,
vua Trần triệu tập Hội nghị Bình Than, cùng triều đình và các vương hầu bàn kế
chống giặc. Trần Quốc Tuấn được cử làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh ba quân.
Theo hoạch định, quân ta bố trí đánh địch theo các hướng: mặt bộ ở Lạng Sơn, mặt
biển ở Quảng Yên, còn đại quân tập trung chủ yếu ở khu vực Lạng Giang, Vạn Kiếp,
Bình Than; phía nam sát biên giới với Chiêm Thành cũng có 3 vạn quân do Trần
Quang Khải chỉ huy ngăn chặn địch.
Tại quân doanh
Vạn Kiếp, khi nghe tin quân tế tác (trinh sát) báo về là quân Nguyên đã bắt đầu
hành binh tiến vào nước ta, Quốc Công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn, một mặt sai người
phi báo về kinh đô Thăng Long, một mặt điều thêm các tướng gấp đem binh tăng cường
cho lực lượng trấn giữ biên thùy, như Lê Phụ Trần, Nguyễn Khoái. Và đặc biệt là
có cả tướng thiếu niên Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng:
“Phá cường địch, báo Hoàng Ân” (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).
Thoạt đầu, quân
Nguyên đánh chiếm ải Chi Lăng và tấn công ải Nội Bàng. Như lần kháng chiến trước,
quân ta vẫn áp dụng chiến thuật vừa đánh vừa rút, tiêu hao và làm chậm bước tiến
của địch, đồng thời bảo toàn lực lượng trước sức mạnh ban đầu của chúng. Mất Lạng
Sơn, sau khi đánh chặn từng bước, ta lui dần về Lạng Giang.
Thấy chủ lực Đại
Việt tập trung ở vùng Lạng Giang - Vạn Kiếp; Thoát Hoan chia quân làm ba mũi đánh
vỗ mặt và hai bên sườn, định hợp vây tiêu diệt.
Đoán biết được ý
đồ đó và trước tình thế vẫn còn nhiều bất lợi, Trần Quốc Tuấn chủ trương: “Nguyên
binh khí nhuệ đang hưng, kíp đánh chẳng bằng kiên thủ chờ suy”. Hiểu được ý nghĩa
“kiên thủ chờ suy” theo quan niệm của Trần Quốc Tuấn, mới may ra thấy được thiên
tài quân sự của ông. Công - Thủ là hai mặt tương phản lưỡng nghi của một cuộc vận
động trong chiến tranh, chúng chuyển hóa qua lại nhau, do đó mà trong công có
thủ và trong thủ có công. Tùy theo sự biến chuyển của tình thế chiến tranh (tùy
vào sự thay đổi về địa hình địa vật, tùy vào sự biến chuyển trong tương quan lực
lượng do tác động của môi trường (của điều kiện địa lý, thời tiết khí hậu thiên
nhiên, của quyền mưu, bày binh bố trận của chính con người, của hai bên tham
chiến…), tùy vào sở đoản sở trường lúc ấy của mỗi bên), tùy từng giai đoạn, từng
lúc, từng nơi mà chọn được phương thức đấu tranh chủ yếu là công hay thủ cho phù
hợp và trong những điều kiện nhất định, có thể lấy công làm thủ và lấy thủ làm
công. Tuy nhiên mục đích cuối cùng của chiến tranh là giành phần thắng, cho nên
xét về toàn cục thì tiến công tiêu diệt vẫn là phương thức nổi trội, có tính nền
tảng trong mối quan hệ công - thủ, và luôn được ưu tiên lựa chọn. Cũng vì thế mà
một vị tướng tài là người biết chủ động tiến công ngay cả khi phòng thủ, chủ động
phòng thủ là tích cực tấn công từng nơi từng lúc khi có cơ hội, là tích cực vận
động để tạo dựng tình thế có lợi, chờ đợi thời cơ chín muồi để chuyển sang phản
công đánh thắng lợi. “Kiên thủ chờ suy” theo cách hiểu của Trần Quốc Tuấn có lẽ
là như thế chăng?
“Kiên thủ chờ
suy” là cách đánh tất yếu của một lực lượng yếu hơn về thế và lực trước đối phương,
nếu muốn giành thắng lợi cuối cùng. Đối với nước ta, đất không rộng, người không
đông, nên “kiên thủ chờ suy” là cách đánh luôn được dân tộc ta lựa chọn trước
những đội quân xâm lược hung hãn, có sức mạnh ban đầu áp đảo, và luôn chế ngự được
ý chí đánh nhanh thắng nhanh của chúng. “Kiên thủ chờ suy” cùng với “toàn dân
vi binh” đã là những phương châm quân sự có tính truyền thống, được nâng lên thành
một nghệ thuật đầy sáng tạo và hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, cần phải thấy rằng: chỉ những cuộc kháng chiến chính nghĩa, với những
thủ lĩnh xuất chúng mới có thể áp dụng vào thực tiễn một cách trọn vẹn hai phương
châm ấy. Đối với dân tộc ta, cách đánh “kiên thủ chờ suy” không phải tự dưng mà
có, không phải đột nhiên mà Trần Quốc Tuấn nghĩ ngay ra được. Cách đánh đó được
đúc kết từ máu xương của các cuộc kháng chiến trước, được rút ra từ những bài học
đau thương trong những lần chống xâm lăng thất bại. Hơn thế nữa, chìm đắm trong
suy tưởng của mình, chúng ta còn cho rằng: cách đánh ấy có nguồn cội từ kinh
nghiệm đấu tranh trường kỳ với thiên nhiên đặc thù sông nước, quanh năm lũ lụt
bão dông của tổ tiên ông cha ta, từ công cuộc trị thủy khởi đầu sâu xa trong tiền
sử: đối phó với cơn thác lũ, phải đắp đập, be bờ, lập đê phòng chống; khi thác
lũ quá cuồng nộ thì chọn chỗ đóng giữ, chọn nơi mở thoát, cuồng nộ hơn nữa thì
tạm thời rút tản, nhưng rút lui không phải là chạy dài, phân tán không phải là
tan rã, mà rút tản ra xung quanh, lên những nơi có thế đất cao, chủ động lên thượng
nguồn để ngăn phá gốc lũ; khi cái cuồng nộ ban đầu do bị dàn trải, do bị tiêu hao…
làm cho yếu đi, thì sau tiếng hô hào, lại đồng lòng xông xuống bao vây, chia cắt,
tiêu thủy, điều thủy, tiếp tục đời sống trước kia. Câu chuyện Sơn Tinh - Thủy
Tinh đã gợi cho chúng ta ý niệm đó. Ngày nay trong ca dao tục ngữ cũng còn thấy
man mác những hàm ý về “Kiên thủ chờ suy”:
Phượng hoàng đậu
chốn cheo leo
Sa chân lỡ bước phải
theo đàn gà
Bao giờ gió thuận
mưa hòa
Thay lông đổi cánh
lại ra phượng hoàng
¯
Con ơi nhớ lấy lời
cha
Mồng năm tháng chín
thật là bão rươi
Bao giờ cho đến tháng
mười
Thì con vào lộng
ra khơi mặc lòng
¯
Những người đi biển
làm nghề
Thấy dòng nước nóng
thì về đừng đi
Sóng lừng bụng biển
ầm ì
Bão mưa ta tránh vội
gì ra khơi.
¯
Chớ thấy sóng cả mà
lo
Sóng cả mặc sóng,
chèo cho có chừng
Thả trí não “lơ
đãng” một chút cho bớt căng thẳng, chúng ta lại trở về chiêm ngưỡng Quốc Công
Tiết Chế Trần Quốc Tuấn đánh trận.
Ngày 11 tháng 2
năm 1285, Thoát Hoan ra lệnh cho tướng Ô Mã Nhi, thống lĩnh thủy quân, tấn công
Vạn Kiếp. Dù Trần Quốc Tuấn đã dày công bố trí trận địa phòng ngự đánh chặn, nhưng
chẳng mấy chốc bị quân Nguyên phá vỡ. Quân ta lại tổ chức chặn địch ở Bình Than
vào ngày 14 tháng 2, sau đó rút lui, dựa vào bờ nam sông Hồng bố trí lực lượng
cản địch, yểm hộ cho đại quân tiếp tục rút. Quân Nguyên tốc chiến, đánh Vũ
Ninh, Đông Ngàn (Bắc Ninh) rồi vượt sông Đuống, đến Gia Lâm. Ngày 18 tháng 2,
ta và địch giao chiến trên bờ bắc sông Hồng. Ngày 19 tháng 2, quân Nguyên đánh
lui được đạo binh tinh nhuệ bậc nhất của triều Trần do Bảo Nghĩa Vương Trần Bình
Trọng chỉ huy, vượt sông, tràn vào Thăng Long bỏ trống. Lúc này toàn bộ quân dân
ta đã rút khỏi kinh đô, chỉ để lại những đội quân nhỏ, tổ chức chiến đấu đến cuối
tháng giêng. Trước khi rời kinh đô, vua Trần đã ra bố cáo: “Tất cả các quận huyện
trong nước, nếu có giặc đến đều phải liều chết mà đánh, nếu sức không chống nổi
thì cho phép lảng tránh vào rừng núi, không được đầu hàng”.
Thoát Hoan cho
quân truy đuổi. Để đảm bảo cho đại quân và vua Trần kịp rút lui an toàn ra các
lộ ven biển; tướng Trần Bình Trọng được lệnh chặn địch. Ngày 21 tháng giêng năm
Ất Dậu (1285), trong trận giao chiến ác liệt với cánh quân của Quan Triệt, Lý Hằng
ở Thiên Mạc (bên bờ sông Cái thuộc địa phận Hưng Yên ngày nay). Bảo Định Vương
Trần Bình Trọng không may rơi vào tay giặc. Chúng dụ dỗ ông phản bội, ông quát
thẳng: “Ta thà là quỉ nước Nam
chứ không thèm làm vương đất Bắc!”. Giặc tức giận , trói ông vào cọc chôn giữa
sông cho nước thủy triều lên dìm chết. Ông đã để lại tấm gương bất khuất cho ba
quân tướng sĩ và cho muôn đời sau.
Khi mũi nhọn của
quân Nguyên đến được Trường An (Ninh Bình)
thì một bộ phận của đại quân ta đã vượt dãy Tam Điệp về tập trung ở Thanh Hóa.
Trong những ngày
này hàng loạt tin dữ từ các mặt trận gửi về:
Bảo Định Vương
Trần Bình Trọng tử trận.
Ngày 1 tháng 2,
Chương hiến hầu Trần Kiện và Lê Tắc trấn giữ Thanh Hóa đã đem tất cả gia quyến
sang hàng giặc (về sau Trần Kiện bị gia nô của Trần Quốc Tuấn là Nguyễn Địa Lô
giết chết). Thanh Hóa - Nghệ An đóng vai trò là hậu cứ hết sức quan trọng của
cuộc kháng chiến. Đây là nơi tích trữ binh lương để đánh lâu dài với giặc, là nơi
trú chân của 10 vạn quân dự bị của ta. Sự kiện đầu hàng của bọn Trần Kiện, Lê Tắc
đã gây không ít tổn thất cho quân nhà Trần, làm tình thế của ta càng lâm vào bất
lợi.
Ngày 2 tháng 2,
các tướng Trần là Nguyễn Tất Dũng, Đinh Xá tử trận ở Thanh Hóa.
Ngày 3 tháng 3,
đạo quân ở Đại Hoàng Giang (khúc sông Cái thuộc Lý Nhân, Hà Nam) bị giặc phục đánh. Văn Nghĩa hầu
Trần Tú Viên và Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng đầu hàng.
Đặc biệt là hai
tin: đạo quân của thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải bị quân Toa Đô có bọn Trần
Kiện giúp sức, đánh thua ở Nghệ An, và Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc, kẻ từng
thèm khát ngôi vua, thèm khát cả chức Tiết chế, đã đem cả gia quyến sang hàng
giặc.
Có sách kể: Quá
nao lòng, mặc cho Trần Quốc Tuấn can gián, vua Trần đã sai Trung Hiếu hầu Trần
Dương đi thương thuyết với Thoát Hoan, dâng công chúa An Tư (em út của Thượng hoàng
Thánh Tông) cho Thoát Hoan để xin được thư nạn nước. Thực lòng, chúng ta không
tin tính chân thực của sự kiện lịch sử này vì nó bộc lộ ra những phi lý. Phải
chăng trong quá trình đánh lạc hướng địch để vua Trần vượt thoát ra biển, công
chúa An Tư đã bị bắt? Là em út của Thánh Tông và là cô của Nhân Tông, thì năm đó
nàng bao nhiêu tuổi? An Tư là Thụy Bảo hay là ai khác? Có thể là trước nguy cơ
bị quân Nguyên hợp vây (quân Thoát Hoan tràn xuống, quân Toa Đô từ Thanh Hóa tiến
ra) tiêu diệt, hai vua Trần (Thượng Hoàng và Nhân Tông) đã thực hiện kế giả hòa
để tạo điều kiện cùng quân ta (bộ phận còn lại) rút lui ra biển an toàn và kịp
thời về phía Vạn Kiếp hội với đại quân của Trần Quốc Tuấn. Còn có một sự kiện nữa
để giải thích trường hợp của công chúa An Tư: tại Giao Hải, đám Văn Nghĩa hầu
Trần Tú Hoãn cùng bố, em trai, con trai, con rể… đã không theo vua Trần mà ra hàng
giặc. Phải chăng do một nguyên nhân đặc biệt nào đó mà trong đó có cả công chúa
An Tư, như một vô tình?
Đến tháng 3 năm
1285, sau ba tháng tác chiến, quân Nguyên đã chiếm được kinh thành và một bộ phận
lớn đất nước Đại việt. Trước tình hình đó và dù đang vấp phải hàng loạt khó khăn
to lớn cũng như những tổn thất không nhỏ nhưng Trần Quốc Tuấn vẫn không hề nao
núng. Ông theo sát diễn biến ở các chiến trường, đề ra kịp thời những nhiệm vụ
cần kíp thực hiện cho các bộ phận để phối hợp hành động, tăng cường và mở rộng đánh
tập kích, quấy phá, gây rối, đánh kìm chân địch, tiêu hao địch, bắt chúng phải
giãn quân ra chống đỡ, đồng thời vẫn bảo toàn được lực lượng chủ lực, chờ thời
cơ.
Tương tự lần xâm
lược trước, lần này cũng vậy, ỷ vào lực lượng quá mạnh, chủ quan tưởng đánh thắng
nhanh được, quân Nguyên không tải theo nhiều lương thảo. Bị cầm chân và phân tán
nhiều nơi trong cảnh vườn không nhà trống, cướp bóc khó khăn, quân Nguyên bắt đầu
thiếu lương thực, vừa bị ảnh hưởng xấu vì không quen thung thổ khí hậu, vừa
luôn bị đánh quấy phá tiêu hao, quân Nguyên giảm dần sức chiến đấu, lâm dần vào
thế sa lầy ngày càng nghiêm trọng. Để nhằm giải quyết thế bí, Thoát Hoan lệnh
cho Toa Đô hành binh gấp rút ra Bắc, đồng thời xin thêm viện binh.
Trước đó, để tránh
thế gọng kìm của giặc, Trần Quốc Tuấn đã phái danh tướng Phạm Ngũ Lão đem quân
vào Nghệ An, hợp sức với Trần Quang Khải phá giặc. Tuy đã bị đánh chặn ở vùng
giáp ranh Nghệ An - Thanh Hóa nhưng sau khi đã hợp quân với Ô Mã Nhi, quân Nguyên
vẫn mở được đường tiến ra.
Quân Nguyên dù
còn đông nhưng hành động của chúng đã trở nên lúng túng, bị động và bộc lộ điểm
yếu. Tình thế đã chuyển biến rất có lợi cho thế và lực của quân ta. Trần Quốc
Tuấn đã xuất sắc thấy được điều đó và chớp thời cơ chuyển sang phản công chiến
lược. Hai vua Trần lại dẫn quân vượt biển vào Thanh Hóa thực hiện kế hoạch lập
thế trận.
Mục tiêu công
phá đầu tiên của quân ta là đạo quân Toa Đô. Đạo quân này đã mệt mỏi, xuống tinh
thần vì chiến tranh với Chiêm Thành, vì bị Trần Quang Khải tổ chức chống cự, đánh
chặn liên tiếp, vì mới hành quân từ xa đến còn chân ướt chân ráo, lại đang thiếu
thốn lương thực. Trận đánh mở màn do đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy, đánh vào
đại đồn A Lỗ (thuộc Nam
Định). Quân Trần xung phong với tinh thần quyết thắng đã nhanh chóng chiếm lĩnh
trận địa, đánh tan tác quân của Vạn hộ Lưu Thế Anh, buộc viên tướng mẫn cán này
phải tháo chạy. Quân ta tiếp tục tiến đánh bến Tây Kết (Hưng Yên). Đồng thời, với
5 vạn quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy, mai phục đón đánh địch ở
cửa Hàm Tử (thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Trong trận đụng độ lớn và ác liệt này,
đội quân tiền vệ của Toa Đô bị tiêu diệt, Toa Đô phải lui lại cửa biển Thiên Trường,
hoàn toàn mất liên lạc với Thoát Hoan. Đến đây, đại quân của giặc đã bị chia cắt
ra làm hai.
Khí thế quân dân
nhà Trần lên cao ngút trời!
Sau chiến dịch,
Trần Quốc Tuấn nhận định: “Quân ta mới thắng, khí lực đương tăng, mà quân Nguyên
mới thua tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi
phục kinh thành”.
Để thực hiện ý đồ
đó, Trần Quốc Tuấn hạ quyết tâm mở chiến dịch Chương Dương - Thăng Long. Đây là
một trận đánh rất lớn, mang ý nghĩa quyết chiến chiến lược, mà cũng rất tài tình.
Đầu tiên, Trần
Quang Khải, cùng sự trợ giúp của các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản, tiến công
mãnh liệt Chương Dương, đánh mạnh vào đạo binh thuyền khổng lồ bảo vệ mạn nam
Thăng Long. Nếu mất Chương Dương, quân Thoát Hoan ở Thăng Long sẽ lâm nguy, do đó
Thoát Hoan phải tổ chức nhiều cánh quân đi cứu viện. một bộ phận kỵ binh, lực lượng
tinh nhuệ, nòng cốt của địch, bị nhử ra ngoài kinh thành. Kết hợp với quân địa
phương, dân binh quanh Thăng Long, quân triều đình tổ chức mai phục diệt viện
hiệu quả, đánh quân địch đi ứng cứu thua tơi bời.
Chương Dương mất,
Thoát Hoan phải vội đốc đại binh ra ứng chiến. Phát huy chiến quả và trước một
Thăng Long đang bộc lộ sơ hở, quân ta do Phạm Ngũ Lão chỉ huy, xuất kỳ bất ý
theo hướng khác đánh thọc sâu vào phường Giang Khẩu (Hàng Buồm) của Kinh Thành.
Để tránh bị vòng vây đang ngày càng siết chặt của quân ta tiêu diệt, Thoát Hoan
phải rút chạy, vượt qua sông Hồng lên Kinh Bắc (thuộc Bắc Giang). Tại đây, Thoát
Hoan củng cố quân còn lại, thu nhặt tàn binh, rút lực lượng ở các đồn binh lẻ về,
ước lượng còn khoảng 10 vạn tên, tổ chức phòng thủ.
Thế là sau hơn
3 tháng (từ 19-2 đến khoảng cuối tháng 5-1285) bị chiếm đóng, kinh thành Thăng
Long đã được giải phóng.
Không để cho quân
địch kịp hoàn hồn, liên kết được với nhau, một mặt, Trần Quốc Tuấn khẩn trương
cho các cánh quân truy sát lực lượng của Thoát Hoan, hành binh đến những vị trí
đã định nhằm chuẩn bị thế trận đánh tiêu diệt đạo quân ấy, truyền lệnh đi các lộ
kêu gọi dân binh nổi lên quét giặc trừ gian, một mặt huy động đại quân từ Thanh
Hóa ra, gấp rút tiến về phía Tây Kết, ngăn chặn ý đồ hội sư của đạo quân Toa Đô
với Thoát Hoan. Bắt đầu từ đây, hàng loạt trận đánh liên hoàn tạo nên một đại
thắng bộc lộ rực rỡ thiên tài quân sự của vị Quốc Công Tiết Chế.
Bắt đầu từ ngày
7-6-1285, quân ta tập kích mạnh mẽ vào đạo quân Toa Đô đóng quân thành ba trại
lớn trong đoạn từ Thiên Trường tới Tây Kết, lần lượt đánh tan địch ở Trường Yên
rồi tập trung đánh thẳng vào Tây Kết. Để chặn đường rút của giặc, Trần Quốc Tuấn
sai Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng đem quân phục vùng sau núi Tây Kết. Quân
Nguyên quyết liệt chống cự nhưng rồi cũng mau chóng bị đánh tơi tả. Tàn quân địch
tháo chạy ra biển đúng như phán đoán của Trần Quốc Tuấn, lọt vào trận địa phục
kích, bị một đòn nữa, tan tành. Toa Đô bỏ mạng trong đám loạn quân, Ô Mã Nhi
may mắn cướp được thuyền con vượt thoát ra biển. Trong chiến dịch này, quân nhà
Trần tiêu diệt và bắt sống không dưới 8 vạn quân địch.
Cuối tháng
6-1285, Trần Quốc Tuấn tiến quân, đánh tăng cường đạo quân Thoát Hoan ở Bắc
Giang. Trước đó, cũng như trận Tây Kết, phán đoán chính xác diễn tiến tiếp theo
của tình hình, ông đã cho triển khai lực lượng đánh chặn một cách tài tình: cử
Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Khoái đem 3 vạn quân lẻn đường núi phục sẵn tại khúc sông
ở Vạn Kiếp; cử các con mình là Hưng Vũ Vương Quốc Hiến, Hưng Hiến Vương Quốc Uy
đem 3 vạn quân đi đường Hải Dương ra Quảng Yên chặn đường về Châu Tư Minh
(Trung Quốc).
Thoát Hoan, kẻ
trong những ngày đầu dẫn binh hùng tướng mạnh rầm rộ xâm lược nước ta; đã từng
ngạo mạn tuyên bố bắt vua Trần và Tiết Chế Trần Quốc Tuấn bỏ rọ đem về nước, biến
dân Đại Việt thành tôi mọi, đã vừa phải chịu những thất bại ê chề và giờ đây vẫn
chưa tỉnh ngộ, đã thực hiện những hành động ngu xuẩn nhất. Không thấy được cục
diện chiến tranh đã biến đổi rất sâu sắc và thất bại là không thể cứu vãn được,
ỷ vẫn còn hơn 10 vạn quân trong tay và cũng có thể là do lòng tự ái không thể kìm
nén được, của một tâm thần đã lỡ quá ư tự phụ, Thoát Hoan quyết định nghênh chiến
với Quốc Công Tiết Chế của nhà Trần, bỏ lỡ cơ hội rút lui an toàn về nước. Và điều
thuận lẽ tự nhiên đã xảy ra: không địch nổi với lực lượng càng đánh càng mạnh,
hừng hực quyết thắng, quân Nguyên cả bộ binh lẫn kỵ binh tinh nhuệ, bị vỡ từng
mảng, rút cục là tháo chạy. Quân Nguyên rút chạy đến sông Như Nguyệt (sông Cầu)
thì gặp quân truy kích của Trần Quốc Toản, chạy đến sông Thương thì sa vào trận
phục kích của Phạm Ngũ Lão. Tại đây, bị chặn đầu chặn đuôi đánh tới tấp, quân
Nguyên căn bản tan rã. Lý Hằng, tướng nhà Tống bỏ theo quân Nguyên, phục vụ mẫn
cán trong đội quân xâm lược nước ta, bị bắn chết tại trận. Cánh quân Đường Ngột
Đãi bắc cầu phao qua sông ứng cứu, bị quân mai phục từ rừng đổ ra đánh, làm đứt
cầu phao nên bị chết vô số kể. Thoát Hoan cùng số ít tàn quân cắm đầu chạy thục
mạng về phía biên giới, gặp quân ta phục sẵn đánh cho một trận nữa. Bản thân Thoát
Hoan phải chui vào ống đồng đặt trên xe mới thoát chết chạy về được đến Tư
Minh. Một đám tàn quân khác định rút chạy về Vân Nam, khi qua Phù Ninh (Bắc Ninh), bị
quân dân miền núi do Hà Đặc, Hà Chương chỉ huy tập kích, cũng tan tác nốt.
Đầu tháng
7-1285, trên đất nước Đại Việt đã không còn một bóng quân xâm lược. Ngót 60 vạn
quân Nguyên hầu hết bị tiêu diệt và bắt làm tù binh (khoảng 5 vạn; sau này được
nhà Trần tha cho về), chỉ còn một số ít không đáng kể chạy thoát.
Cuộc kháng chiến
lần thứ hai chống quân xâm lược của quân dân nhà Trần đã thắng lợi vẻ vang. Chiến
thắng vĩ đại ấy của một đất nước nhỏ nhoi, với dân số khoảng 6 triệu người, trước
60 vạn quân thiện chiến, khét tiếng khắp đất Á trời Âu, phải chăng là một kỳ
quan?!
Nghe tin Thoát
Hoan đại bại, Hốt Tất Liệt phải đình chỉ xâm lược Nhật Bản, chuyển quân và thuyền
chiến xuống phương nam vì không khuất phục được Đại Việt thì không thể nói đến
việc thực hiện ý đồ thâu tóm toàn bộ các nước phía Đông Nam Châu Á vào lãnh thổ
đế quốc Nguyên. Mặt khác cũng vì bị thất bại cay cú và vì thể diện của một nước
lớn mà phải đánh cho được Đại Việt. Vậy đánh Đại Việt một lần nữa trở thành sự
lựa chọn ưu tiên hàng đầu.
Ngày 17-3-1286,
Hốt Tất Liệt điều động 6 vạn quân thiện chiến, lại điều động quân ở Vân Nam và
ra lệnh đóng gấp thêm 300 thuyền chiến. Bên cạnh đó, Hốt Tất Liệt còn phong cho
Trần Ích Tắc là An Nam Quốc Vương, dựng nên một triều đình bù nhìn để chờ ngày đưa
về nước ta làm tay sai cho chúng.
Tuy nhiên tiến độ
thực hiện khâu chuẩn bị của Hốt Tất Liệt gặp phải nhiều khó khăn lớn, trong đó
chủ yếu là do sự phản kháng của nhân dân miền Nam Trung Quốc, thể hiện bằng hàng
trăm cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, gây trở ngại cho việc thu lương thực và tập trung
quân. Mãi đến đầu năm 1287, nhà Nguyên mới tập kết được đầy đủ binh lực, gồm 50
vạn quân và các tướng Áo Xích Lỗ, A Bát Xích, Trịnh Bằng Phi, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp;
cùng 50 thuyền chiến, 17 vạn thạch lương của tướng Trương Văn Hổ, tất cả đặt dưới
quyền tổng chỉ huy của Thoát Hoan (lại Thoát Hoan?!). Lần chuẩn bị này, rút
kinh nghiệm hai lần trước, quân Nguyên đặc biệt chú ý tới việc tải lương và chủ
trương đánh lấn kiểu “tằm ăn dần dà”. Đâu vào đấy, Hốt Tất Liệt hạ lệnh xuất quân
đánh Đại Việt lần thứ ba với lời dặn: “Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà
khinh thường”.
Quân dân Đại Việt
lại đứng trước một thử thách mới. Lần này, khi vua Trần hỏi: “Năm nay thế giặc
ra sao?”, Trần Quốc Tuấn trả lời dứt khoát: “Năm nay thế giặc dễ đánh!”
Ngày
25-12-1287, quân Nguyên vượt biên giới xâm phạm nước ta. Chúng chia làm ba mũi:
một mũi tiến từ Vân Nam do tướng Áo Lỗ Xích chỉ huy, đại quân do Thoát Hoan trực
tiếp chỉ huy tiến vào vùng biên giới phía Bắc, thủy quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp
cùng đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ xuất phát từ Khâm Châu, dong buồm
tiến vào vùng biển Đại Việt.
Ở các hướng tiến
quân của giặc, quân ta đều tổ chức đánh ngăn chặn, bám đánh tiêu hao liên tục. Đại
quân ta tập trung ở vùng Hải Dương, Thái Bình.
Cánh quân giặc
do Áo Lỗ Xích chỉ huy đánh nhau với quân Trần Nhật Duật ở Bạch Hạc rồi tiến xuống
Phú Lương. Quân ta lui về chặn đứng giặc tại Tam Đại Giang (Việt Trì). Hướng khác,
khi thủy binh giặc tiến tới Vạn Ninh, quân ta phục kích đánh chúng ở Lạng Sơn
(khoảng gần Vạn Ninh, dưới Ngọc Sơn), sau đó lui về khu vực Bắc Giang, Vạn Kiếp,
để lại một bộ phận phân tán cùng quân địa phương, dân binh tổ chức đánh nhỏ sau
lưng địch. Ở hướng biển quân ta cũng bám đánh Ô Mã Nhi và lui dần từng bước. Đoàn
binh thuyền của Ô Mã Nhi rồi cũng tiến được vào cửa An Bang (Quảng Ninh), tiếp
tục theo sông Bạch Đằng tiến về phía Vạn Kiếp.
Khoảng thời
gian nửa đầu tháng 1-1288, đại quân Thoát Hoan, quân của Trịnh Bằng Phi và thủy
binh của Ô Mã Nhi đã hội sư được ở khu vực Phả Lại - Chí Linh. Lợi dụng địa hình
và mạng đường thủy bộ ở đây, chúng bố trí lực lượng, xây dựng Vạn Kiếp thành căn
cứ vững chắc cho mục đích chiếm đóng lâu dài, làm chỗ dựa và là bàn đạp để từ đó
xuất phát tiến đánh các nơi.
Bị nghi binh
thu hút, lầm tưởng chủ lực quân Trần tập trung ở khu vực Thăng Long, địch tiến
công về hướng đó. Cuối tháng 1-1288, đại quân Thoát Hoan vượt sông Hồng, đánh vào
kinh đô. Sau khi đánh bật được quân ta ở Đại Than, ngày 2-2-1288, Thoát Hoan tiến
vào Thăng Long đã bỏ trống từ lâu. Nhân dân Thăng Long đã cất dấu hết lương thực,
triệt để “thanh dã” và tích cực chặn đánh địch đi sục sạo cướp phá.
Thoát Hoan tiếp
tục tiến công, đánh các căn cứ quân ta đóng giữ dọc sông Hồng. Ô Mã Nhi xuôi
theo sông Hồng đuổi theo quân ta và vua Trần về phía Hưng Yên. Cay cú lần thất
trận và suýt bỏ mạng ở Tây Kết trước đây, Ô Mã Nhi rất căm tức; phao tin: “Ngươi
(tức vua Trần) chạy lên trời ta theo lên trời, chạy xuống đất ta theo xuống đất,
trốn lên núi ta theo lên núi, lặn xuống nước ta theo xuống nước”. Nhưng vua Trần
đã kịp vào đến Thanh Hóa. Không làm gì được, hắn tung quân cướp phá, giết chóc
nhân dân tàn khốc, quật cả mộ của Trần Thái Tông ở phủ Long Hưng (Thái Bình).
Do tình thế và
mục đích đòi hỏi mà bất cứ cuộc xâm lược nào đều tất yếu ưu tiên lựa chọn đánh
nhanh thắng nhanh. Muốn đạt được điều đó thì phải tìm và tiêu diệt được lực lượng
chủ lực của quân kháng chiến. Hội quân đến Vạn Kiếp không thấy đại quân nhà Trần,
Thoát Hoan khẩn trương đánh tràn xuống Thăng Long cũng không thấy đâu, rồi hối
hả đánh dọc sông Hồng, ồ ạt đến tận Thiên Trường cũng uổng công vô ích, không
những mất tung tích vua Trần mà đại quân cùng với bộ phận tướng lĩnh tối cao của
nhà Trần vẫn biệt tăm, không biết ở đâu và đang hành động gì. Chính vì thế mà
quân Nguyên đã không gặt hái được chiến quả tạo tình thế có lợi nào mà còn lâm
vào bị động, lúng túng và nguy hiểm. Thoát Hoan chẳng còn cách nào hay hơn, đành
thu quân vội vàng lui về Thăng long.
Giữa lúc ấy, quân
ta lại hoạt động mạnh quấy nhiễu, đánh phá ở phía sau, nhất là tìm cách triệt
tiêu các đoàn quân hậu cần, tải lương thực và tiếp tế khí cụ chiến tranh của giặc.
Ở trên bộ, ngày 1-2-1288, quân ta chặn đánh đám hậu quân của địch, trong đó có
lực lượng tải lương, xe cộ quân nhu do Hà Chỉ chỉ huy, có cả lũ việt gian Lê Tắc
tại cửa ải Nội Bàng, vùng gần sông Bình Giang (tức sông Thương). Trận đánh xảy
ra kịch liệt suốt một ngày một đêm. Cuối cùng quân giặc bị đánh tan, 5 ngàn tên
bị tiêu diệt, còn vài mống chạy thoát về biên giới. Đặc biệt, ở ven biển, thủy
quân ta đánh tan tác, triệt tiêu toàn bộ đoàn thuyền tải lương thực, cỏ cho ngựa,
vũ khí do Trương Đình Hổ chỉ huy (là khối lượng hậu cần chủ yếu, tối cần thiết
của quân Nguyên)
Do biết được lần
xâm lược này, quân Nguyên rất chú trọng đến thủy quân, đã tổ chức được một đội
thủy binh mạnh, nên ngay từ đầu, trong thời gian chuẩn bị kháng chiến, Trần Quốc
Tuấn đã cho đắp kè đá ở Kênh Thục, chuẩn bị sẵn cọc gỗ, bố trí nhiều quân tướng
chặn đánh giặc ở miền ven biển và giao trọng trách này cho vị tướng lão luyện
Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư.
Nhiều nhà sử học
xưa nay cho rằng có thể là do sơ suất trong việc bố trí trận địa, điều binh, mà
Trần Khánh Dư đã đánh chặn đạo thủy binh của Ô Mã Nhi không hiệu quả, để cho chúng
dễ dàng đi qua bến Vân Đồn để kịp hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp mà không
chịu thiệt hại quan trọng nào và như thế Trần Khánh Dư đã không hoàn thành nhiệm
vụ. Vì lẽ đó mà vua Trần đã buộc tội Trần Khánh Dư. Theo chúng ta thì có thể
vua Trần vì nhận định tình hình chưa hết, đã có phần vội vã trong việc kết tội đó.
Cần thấy rằng binh lực của Ô Mã Nhi lúc đó, so với của Trần Khánh Dư là rất mạnh.
Nếu cố gắng đánh ngăn chặn quyết liệt ở Vân Đồn để có được những tổn thất đáng
kể về phía địch, thì chắc chắn về phía ta cũng phải chịu những thiệt hại không
nhỏ. Quyết đánh trong tình huống đang bất lợi như thế, vừa không đem lại những
chiến quả tạo lợi thế nổi bật nào, vừa vô ích làm cho quân lực ta suy yếu đi, hơn
nữa, đoàn quân lương, nhu cầu cốt tử của giặc sẽ đến được với Thoát Hoan. Mặt
khác, nếu hành động như thế sẽ trái hoàn toàn với chủ trương “Kiên thủ chờ suy”
của Trần Quốc Tuấn. Trong thâm tâm Trần Khánh Dư, vị tướng tài năng đã kinh qua
trận mạc của cuộc kháng chiến lần thứ 2, phải chăng đã nhận thức như thế và cho
Ô Mã Nhi dù bị đánh chặn vẫn qua dễ dàng Vân Đồn là chủ ý của ông? Có một sự kiện
lạ lùng đã xảy ra mà đời sau rất khó giải thích. Đó là khi có trung sứ (đặc phái
viên triều đình) đem lệnh Thượng hoàng Thánh Tông tới Vân Đồn, bắt Trần Khánh Dư
về trị tội thì ông chỉ xin với trung sứ thế này: “Lấy quân luật mà xử, tôi xin
chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày, để tôi lập công chuộc tội, rồi sẽ chịu
búa rìu cũng chưa muộn”, và vị trung sứ kia nghe theo, vẫn để cho ông tiếp tục
cầm quân chiến đấu. Quân luật nhà Trần thời đó rất nghiêm: “quân pháp vô thân”
(phép quân không kiêng nể riêng ai). Vì sao trung sứ giám không tuân lệnh Thượng
hoàng? Ngẫm kỹ, câu nói trên của Trần Khánh Dư hình như đã hàm chứa những ý sâu
xa. Tại sao ông quả quyết được chỉ “vài ba ngày” là chuộc được tội? Từ đâu mà ông
dám chắc như thế? Trước vị trung sứ, ông đã nói những gì hay chỉ một câu này? Với
chỉ một câu nói thực hư ra sao chưa biết mà vị trung sứ đồng ý “ngồi chờ” thì kể
cũng “kỳ kỳ”. Chắc rằng diễn biến quân sự đang ở giai đoạn cần kíp và vị trung
sứ đã hiểu ra điều gì đó…
Trần Khánh Dư bố
trí quân và thuyền chiến suốt một dải từ Vân Đồn (gần Cẩm Phả) tới Cửa Lục (phía
Hòn Gai), theo trình tự càng gần tới Cửa Lục thì lực lượng của ta càng mạnh.
Khi đoàn thuyền lương cửa Trương Văn Hổ cùng lực lượng quân bảo vệ tới Vân Đồn,
chỉ có 30 chiến thuyền của quân ta đón đánh. Khi giặc tới Cửa Lục thì đụng phải
binh thuyền rất đông của ta ở đó. Giặc không chống cự nổi, bị tiêu diệt hết, Trương
Văn Hổ cùng vài tùy tùng tháo chạy trên một chiếc thuyền. Sử ta ghi: “Bắt được
quân lương, khí giới của giặc nhiều không kể xiết, bắt sống quân giặc rất nhiều”
(Đại Việt sử ký toàn thư). Trận đánh này có ý nghĩa hết sức quan trọng, cùng với
trận Nội Bàng đã triệt phá hoàn toàn quân lương cũng như lương thực và trang
thiết bị chiến tranh hậu thuẫn của quân Nguyên, trở thành một trong những nguyên
nhân chính yếu dẫn đến sự thất bại chóng vánh của chúng. Sau này, có thời gian
các cuộc hành binh của chúng không phải là tìm đánh quân ta mà thực chất là đi
lùng sục, tìm kiếm, cướp bóc lương thực.
Đứng trước tình
hình thiếu thốn lương ăn ngày một nghiêm trọng mà đoàn thuyền lương của Trương
Văn Hổ, chờ mãi vẫn không thấy đâu đồng thời lại bị quân ta tăng cường hoạt đông
quân sự vùng sau lưng như đã nói, còn tuyến giao thông từ Tư Minh sang, từ biển
vào cửa Nội Bàng đều bị quân ta uy hiếp, cắt đứt; Phả Lại - hậu cứ được cho là
an toàn của địch - bị tập kích; và ngay tại Thăng Long cũng đã xuất hiện mối đe
dọa bị bao vây, cô lập, Thoát Hoan vội vã quyết định rút khỏi Thăng Long, trở lại
Vạn Kiếp. Nằm trong kế hoạch đó, Ô Mã Nhi được lệnh đưa binh thuyền ra gấp cửa Nội
Bàng (cửa Văn Úc ngày nay), theo ven biển ngược lên cửa An Bang, tìm đón đoàn
thuyền lương của Trương Văn Hổ rồi theo sông Bạch Đằng về hội quân tại Vạn Kiếp.
Ô Mã Nhi mới đến Tháp Sơn (có thể là Đồ Sơn, tại đó xưa có tháp lớn) thì bị thủy
quân nhà Trần chặn đánh. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” thì: “Ngày mồng 8 (tức
ngày 10-2-1288), quan quân hội chiến ở ngoài cửa biển, bắt được 300 thuyền và
chém 10 đầu giặc. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều”. Dù chịu tổn thất, binh thuyền
mạnh của giặc vẫn vượt qua được.
Ngày 5-3-1288,
Thoát Hoan cùng Áo Lỗ Xích và đại quân của chúng rời khỏi Thăng Long. Khi xuống
Thăng Long từ Vạn Kiếp, giặc chỉ giao tranh hai lần với quân ta thì cũng quãng đường
ấy khi trở về, giặc phải hành quân rất vất vả vì phải vượt qua 32 chốt chặn của
quân ta đánh tiêu hao quyết liệt.
Thế là sau 32
ngày bị chiếm đóng, kinh thành Thăng Long lại sạch bóng quân Nguyên. Lần này,
chính khí thiêng sông núi đã như một luồng gió mạnh quét chúng đi.
Quay về Vạn Kiếp
là hành động tự phơi bày rõ ràng yếu huyệt của quân Nguyên: mọi nỗ lực hành
binh hao người tốn của để mau chóng bao vây tiêu diệt chủ lực đối phương đã trở
nên vô ích và vô vọng; không thể dàn binh đánh lâu dài được. Co cụm về Phả Lại
- Chí Linh có nghĩa rằng quân Nguyên đã không những phải từ bỏ kế hoạch đánh thắng
nhanh để lúng túng bị động quay về phòng thủ mà còn làm cho mục đích của cuộc xâm
lược trở nên xa vời, nếu không muốn nói là đã hoàn toàn tiêu tan.
Ngay tại Vạn Kiếp,
quân Nguyên cũng không thể yên ổn. Tình hình thiếu thốn lương thực buộc chúng
phải tổ chức những cuộc càn quét ra xung quanh để vơ vét miếng ăn và luôn bị chặn
đánh, chưa kể hàng đêm luôn bị quân cảm tử của ta tập kích đánh phá vào quân
doanh. Hy vọng cuối cùng để giải quyết tình trạng quẫn bách là Ô Mã Nhi cùng đoàn
thuyền lương của Trương Văn Hổ đến được Vạn Kiếp. Rút hay tiếp tục cuộc chiến
tranh đều phải dựa cả vào đấy. Thoát Hoan sốt ruột đã cho A Bát Xích đem quân
xuống Trúc Đông (thuộc Thủy Nguyên, Hải Phòng), ra cửa An Bang đến tận Tháp Sơn
để tìm lực lượng của Ô Mã Nhi mà chẳng thấy đâu, lại còn luôn bị chặn đánh, đành
phải bỏ về.
Nửa tháng sau
khi Thoát Hoan rút từ Thăng Long về Vạn Kiếp, Ô Mã Nhi loay hoay trên biển chờ đón
đoàn thuyền lương mà vẫn biệt tăm (vì còn đâu nữa!), đành quay vào đất liền, bị
chặn đánh ở Trúc Động nhưng rồi cũng đến được Vạn Kiếp.
Thấy Ô Mã Nhi mà
chẳng thấy đoàn quân lương, toàn bộ quân tướng ở Vạn Kiếp đều kinh hoàng: không
giải quyết được nạn đói, thì nguy cơ bị tiêu diệt là ở ngay trước mặt. Bí cùng
rồi thì còn nghĩ gì được nữa ngoài: “Tam thập lục kế, dĩ đào thượng sách” (Có
36 kế thì rút chạy là kế hay nhất). Thoát Hoan quyết định cấp tốc rút quân về nước.
Nhưng rút về lúc
này cũng không phải chuyện dễ. Rút cách nào để tránh bị chặn đánh tiêu diệt vì
Vạn Kiếp lúc này đã như cái rọ, trong thiên la địa võng giăng trận của quân nhà
Trần? Có tướng thủy quân, vì đã trải nhiều thất bại “đau thương” trên biển nên
hiến kế: “Thuyền lương hai lần vào đều bị hãm, chi bằng hủy thuyền đi đường bộ
là thượng sách” (An Nam chí lược).
Rút lui kiểu “một
cục” như thế thật nguy hiểm vì ngay lập tức sẽ bị quân ta phát hiện, tổng động
viên binh lực đánh ngăn chặn, nhanh chóng tập trung bao vây tiêu diệt. Do đó Thoát
Hoan quyết định rút lui theo hai đường thủy, bộ.
Nắm chắc tình hình
quân Nguyên sớm muộn gì, không cần đánh cũng phải rút khỏi nước ta nên nhà Trần
đã cho bố trí quân lực và gài đặt chướng ngại vật dày đặc khắp các nẻo đường bộ,
đường thủy, những nơi hiểm yếu mà giặc có thể đi qua.
Vừa nhằm đảm bảo
bí mật đến phút chót cuộc rút chạy, vừa nghi binh đánh lạc hướng, Ô Mã Nhi cùng
Phàn Tiếp thống lĩnh toàn bộ lực lượng thủy quân đi trước, theo đường sông ra
biển, hành động như một cuộc hành binh tiếp tục tiến công đánh phá nước ta. Thoát
Hoan thống lĩnh bộ binh và kỵ binh vẫn nằm yên ở Vạn Kiếp, mười ngày sau mới đột
ngột bí mật rút đi. Quyền mưu như thế kể ra cũng thuộc hạng cao cường đấy chứ?
Nhưng “cao nhân tắc hữu cao nhân trị” (giỏi thì tất có người giỏi hơn trị được)
và ở giữa cái bát quái trận đồ “toàn dân vi binh”, thì cái đạo quân đang đói và
mất hết nhuệ khí ấy thoát đi đâu được?
Sông Bạch Đằng đã
từng là chiến địa làm nên hai đại thắng rực rỡ chống quân xâm lược của tổ tiên
chúng ta vào thế kỷ X: Ngô Quyền đánh tan tành quân Nam Hán vào đầu thế kỷ và Lê Hoàn
phá nát bấy quân Tống vào cuối thế kỷ đó. Địa hình thiên nhiên vùng Bạch Đằng,
bản thân nó, chẳng có gì gọi là hiểm yếu. Nhưng dưới cặp
mắt quân sự sắc sảo và nhất là sự sáng tạo một cách hết sức tài tình, độc đáo đến
bất ngờ trong việc chọn và tạo dựng chướng ngại vật mới làm cho cái địa hình ấy
với qui luật lên xuống của con nước, trở thành cái bẫy khủng khiếp mà những viên
tướng xâm lược tài ba nhất cũng bị mắc lừa. Thấy được cái hiểm yếu chết người
tiềm ẩn trong thế núi hình sông vùng Bạch Đằng, công đầu thuộc về Ngô Quyền.
Đường thủy từ Vạn
Kiếp ra biển là đi theo sông Lục Đầu, vào sông Kinh Thầy, xuôi sông Đá Bạc, xuống
sông Bạch Đằng, qua phía trước dãy núi Tràng Kênh, rồi ra cửa biển Nam Triệu,
hoặc cũng có thể từ sông Đá Bạc, qua Trúc Động, rẽ vào sông Giá, qua phía sau dãy
núi ra cửa biển Nghiêu Phong (thời Trần gọi là cửa An Bang). Ô Mã Nhi hai lần từ
biển đều vào cửa An Bang để lên Vạn Kiếp. Thượng lưu sông Bạch Đằng còn được dân
địa phương gọi là sông Rừng. Khi triều lên, mặt sông rộng tới trên 1 km. Núi U
Bò là ngọn cao nhất của dãy núi đá vôi Tràng Kênh, nằm ở bờ phải sông Rừng có
thể làm nơi quan sát từ xa rất tốt. Bờ bên kia là rừng rậm bạt ngàn thuộc Yên Hưng.
Có câu ca dao nói đến vùng này như sau:
“Con ơi nhớ lấy lời
cha
Mưa nguồn, chớp giật
chớ qua sông Rừng”
Đoàn thủy binh
của Ô Mã Nhi với hơn 600 thuyền chiến rời Vạn Kiếp đâu có thể ngờ rằng đích đến
cuối cùng của chúng gần đến thế: tại đoạn sông Bạch Đằng này. Và Bạch Đằng đang
đứng trước một đại thắng lẫy lừng nữa của dân tộc Việt.
Các khúc sông từ
thượng nguồn Bạch Đằng trở lên không rộng và với một lực lượng thuyền chiến nhiều
như thế làm đội hình hành quân của giặc có thể kéo dài đến 5 - 7 km, khó mà đánh
dồn bao vây tiêu diệt tạo hiệu quả cao được. Do đó Trần Quốc Tuấn quyết định đánh
tiêu hao giặc suốt chặng sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc, đánh chặn quyết liệt không
cho chúng vào sông Giá mà buộc chúng phải theo sông Đá Bạc vào sông Rừng - thượng
lưu sông Bạch Đằng - nơi quân dân ta chọn làm trận địa quyết chiến với chúng.
Trong việc tổ
chức thế trận cũng như trong chiến đấu ở trận Bạch Đằng, nhân dân địa phương đã
kề vai sát cánh với quân triều đình, đã góp công sức rất nhiều như xác định chính
xác thời gian triều cường, mức nước thủy triều lên xuống, chuẩn bị cọc, đóng cọc,
làm bè hỏa công, huy động lương thực, tổ chức dân binh phối hợp chiến đấu…
Làm sao kìm chế,
buộc địch, nhử địch đến được vị trí và thời điểm đã hoạch định từ trước, đó là
yếu tố quyết định làm nên cái lẫy lừng tột bậc của trận đại thắng, và các tướng
lĩnh nhà Trần, dưới sự chỉ huy của vị Quốc Công tiết chế Trần Quốc Tuấn đã thực
hiện được việc đó một cách tài tình.
Từ Vạn Kiếp ra đi
vào ngày 30-3-1288, mãi đến 8-4-1288, đoàn thuyền chiến đi đầu của giặc do tướng
vạn hộ Lưu Khuê chỉ huy mới đến được đầu sông Giá vì đã phải “nghênh chiến, đại
chiến liên tục ngày này sang ngày khác” (An Nam chí lược). Theo đường đã quen
thuộc, Lưu Khuê rẽ vào sông Giá. Quân ta, nhằm thực hiện kế hoạch, đã đánh chặn
chúng rất quyết liệt tại Trúc Động. Giặc chững lại, không tiến lên được, làm
cho toàn bộ lực lượng binh thuyền Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đi sau, nối đuôi nhau dồn
tới. Trong khi đó phía sông Bạch Đằng, quân ta tiến đến khiêu chiến. Để ùn tắc
lâu sẽ rất nguy hiểm và nhận thấy rằng theo hướng Bạch Đằng cũng có thể thoát
nhanh ra biển nhờ thủy triều đang xuống, nước chảy xiết, nên Ô Mã nhi đã chuyển
hướng hành quân xuôi theo sông Bạch Đằng rồi rẽ qua sông Chanh.
Khi toàn bộ
binh thuyền địch đã lọt vào sông Rừng, quân khiêu chiến giả thua chạy của ta tức
tốc quay lại kịch chiến mà sử cũ nói là “quân ta lực chiến”, tức đem hết sức ra
đánh, quân thủy, quân bộ, dưới sông, trên bờ, đằng trước, đằng sau, đều hợp sức
đánh.
Trận đánh mở màn
vào tảng sáng ngày 9-4-1288 và càng lúc càng dữ dội. Tại khúc sông có dãy núi
Tràng Kênh, bộ binh ta bên bờ phải, phối hợp với dân binh địa phương tiến ra đánh
kịch liệt vào đội hình giặc, phóng bè hỏa công đốt phá chiến thuyền giặc. Tướng
giặc Phàn Tiếp phải chỉ huy một lực lượng binh thuyền, cố áp sát bờ, đổ bộ lên
nhằm đánh lùi bộ binh ta, chiếm lấy điểm cao bắn phá yểm trợ cho đại quân của
chúng ở dưới sông vượt thoát. Tuy nhiên đoàn binh thuyền của giặc vẫn vừa đánh
vừa tiến rất khó khăn, trong khi đó lực lượng của Phàn Tiếp bị mắc kẹt trên bờ
và dần lọt vào thế bị bao vây. Đến buổi trưa hôm đó, đoàn thuyền đi đầu của giặc
mới tới được cửa sông Chanh, đúng thời điểm mà ta đã hoạch định cho chúng. Thật
tài giỏi!
Lúc này, một lực
lượng thủy quân lớn của hai vua Trần từ phía sông Đá Bạc ào ào tiến xuống tăng
cường, đánh mạnh hơn nữa vào hậu quân của giặc, “tên bắn như mưa” (Đại Việt sử
ký toàn thư). Đồng thời, đoàn thuyền chiến của quân thánh dực nghĩa dũng triều đình
(quân đặc biệt tinh nhuệ) do tướng Nguyễn Khoái chỉ huy, là lực lượng chịu trách
nhiệm đánh cản địch ở phía trước, bỏ ngỏ cửa sông Chanh, vừa đánh nghi binh, vừa
lui xuống dàn quân ngang sông Bạch Đằng, chặn lối thoát ra cửa sông Nam Triệu.
Nếu lúc đó binh
thuyền giặc vẫn tiến theo sông Bạch Đằng thì sẽ bị đánh sau chặn trước, có nghĩa
là vẫn nằm trong tình thế bị bao vây. Tuy nhiên, trong tình thế đó, dù có thể bị
thiệt hại nặng nhưng bộ phận còn lại vẫn có thể có cơ may chạy thoát được ra biển.
Có lẽ một phần là do đã nhụt chí chiến đấu, một phần lầm tưởng quân ta đoán sai
ý đồ rút theo đường sông Chanh của chúng, hoặc cũng có thể là khí thiêng sông núi
Đại Việt đã làm chúng lú lẫn, mê lầm mà binh thuyền giặc lao đầu vào sông Chanh
theo sức nước cuốn ra cửa thủy triều, vun vút đến bãi cọc cách cửa sông Chanh
khoảng chưa đầy 500m. Đoàn thuyền đi đầu của giặc không cách nào dừng lại được,
né tránh được, đã đâm thẳng vào bãi cọc, tan vỡ, xô đắm lẫn nhau nghẽn chặt sông
làm đại bộ phận thuyền chiến phía sau của chúng dồn đến kẹt cứng từ đó đến cả vùng
ngã ba sông Bạch Đằng - sông Chanh, phơi mình cho thủy binh Nguyễn Khoái đánh lên,
của hai vua Trần đánh xuống, quân bộ ta trên bờ sông đánh từ các mặt ập vào, các
bè hỏa công rực lửa phóng ra. Đại bộ phận giặc bị tiêu diệt tại chỗ (và có thể
còn bị tiêu diệt tại vùng hạ lưu sông Bạch Đằng, nơi có dải đá ngầm chắn ngang
như một chướng ngại vật thiên nhiên, khi nước triều xuống chỉ còn một khoảng hẹp
là tàu thuyền có thể qua lại được).
Bạch Đằng nhất trận
hỏa công
Tặc binh đại phá,
huyết hồng mãn giang
(Bạch Đằng một trận
hỏa công
Đánh tan quân giặc
máu hồng tràn loang)
Quân ta thu được
hơn 400 thuyền giặc, bắt sống Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ và nhiều tướng giặc khác. Một
số quân tướng giặc còn lại, bỏ thuyền chạy lên bờ trái sông Bạch Đằng, liều chết
đánh mở đường máu ra biển, bị quân ta chặn lại bao vây tiêu diệt hết ở vùng Hà Nam:
Bạch Đằng giang là
sông cửa ải
Tổng Hà Nam là
bãi chiến trường
Lại nói lực lượng
Phàn Tiếp bị vây, cố đánh nống ra bờ sông, nhưng thất bại, bị đánh tan, riêng
Phàn Tiếp trọng thương, bị quân ta bắt sống.
Như vậy, trong
trận Bạch Đằng, khoảng 5 - 6 vạn quân giặc không một tên chạy thoát và cuộc chiến
đấu xảy ra vỏn vẹn 20 tiếng đồng hồ kể từ trận Trúc Động ấy đã trở thành một
trong những chiến công chói lọi nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc
Việt.
Vào thời điểm đạo
thủy binh của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp bước vào tử địa (8-4-1288), Thoát Hoan và Áo
Lỗ Xích mới cùng đạo quân bộ binh của chúng bắt đầu rời Vạn Kiếp. Thoát Hoan
cho rằng đó là thời điểm rút chạy thích hợp nhất, khi mà đại binh nhà Trần đã bị
cuốn hút về vùng ven biển Bạch Đằng theo đạo quân của Ô Mã Nhi và có thể Ô Mã
Nhi đã thoát ra được biển cả.
Mở đầu cuộc rút
chạy trên bộ, Tích Đô Nhi được lệnh chỉ huy bộ phận tiến quân đi về phía Tây, tức
đường Chi Lăng - Khâu Ông để đánh lạc hướng truy kích của quân ta. Thoát Hoan cùng
đại bộ phận quân còn lại, đi về phía đông mà đích là cửa quan Nội Bàng, Nữ Nhi.
Tích Đô Nhi dẫn
quân mới tới cửa quan Hố Cát (sau này gọi là Phố Cát) đã bị ta chặn đánh. Trước
hơn 4 vạn quân Đại Việt, Tích Đô Nhi không thể tiến qua được, chỉ còn cách duy
nhất là cố đánh giãn vây, tìm đường sang phía đông hội nhập với Thoát Hoan.
Ngày 11-4-1288,
quân ta mở trận tập kích lớn vào đội quân Thoát Hoan khi chúng mới chân ướt chân
ráo đến Nội Bàng. Giặc tập trung quân cố đánh mở đường, qua được cửa Nội Bàng,
thoát vây. Định tiến gấp về cửa quan Nữ Nhi thì nghe tin mật báo nhà Trần đã
huy động hơn 30 vạn quân đóng mốt dọc đường từ Nữ Nhi tới núi Khâu Cấp dài hơn
100 dặm, mà khắp mặt đường từ Nội Bàng đến Nữ Nhi đều có đào hố bẫy ngựa, Thoát
Hoan hoảng sợ tìm cách chạy theo đường khác, vòng xa sang phía đông lên Lộc Bình,
theo đường tắt chạy bán sống bán chết ra khỏi biên giới nước ta. Tuy nhiên, cuộc
rút chạy theo đường vòng đó cũng vẫn bị quân ta tập kích, truy kích ráo riết và
không kém quyết liệt, bắn tên độc từ các sườn núi xuống như mưa. Giặc liều chết,
vừa đánh đỡ, vừa chạy suốt dọc đường, chết rất nhiều. A Bát Xích trúng ba tên độc,
bỏ mạng: Nhiều tướng giặc, trong đó có Đường Ngột Đãi, Mai Thế Anh, Tiết Văn Chính…
bị bắt sống. Ngày 19-4-1288, lũ bại tướng, tàn binh tơi tả còn lại của đạo quân
Thoát Hoan chạy về tới Tư Minh, lúc đó mới hoàn hồn. Cuộc kháng chiến lần thứ
ba chống xâm lược nhà Nguyên kết thúc, nước ta lại sạch bóng quân thù.
Sau hai cuộc
chiến tranh lớn liền kề, đất nước ta không khỏi bị tàn phá nặng nề. Sản xuất nông
nghiệp, do hoàn cảnh chiến tranh cũng bị đình trệ, giảm sút nhiều, không những
thế, vừa ra khỏi chiến tranh thì thiên tai lại ập tới. Hạn hán kéo dài suốt 5
tháng làm cho việc cày cấy mùa màng hỏng hết. Mùa thu năm 1290, đói to trong cả
nước. Nhà vua phải xuống chiếu phát thóc công để chẩn cấp dân nghèo, đồng thời
miễn thuế nhân đinh. Sang năm sau, 1291, nạn đói càng trầm trọng, nhiều người đã
phải chết đói.
Xây dựng để phục
hồi và phát triển kinh tế sau chiến tranh là đương nhiên đối với mọi quốc gia, ở
mọi thời đại. Nhưng đối với Đại Việt lúc bấy giờ thì yêu cầu đó không những là đương
nhiên mà còn vô cùng cấp bách. Nhà Trần phải có ngay một quyết sách phù hợp. Trước
mắt là gấp rút chấm dứt nạn đói, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời
mau chóng làm cho nước nhà vững mạnh hơn nữa vì sự đe dọa xâm lược của phong kiến
phương Bắc vẫn luôn rình rập chờ cơ hội.
Bằng nhiều biện
pháp tích cực để thực hiện một quyết sách đúng hướng, tựu trung là vì dân như
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thực hành cần kiệm triệt để, giữ vững sự liêm chính,
công tâm, nghiêm trị tham ô, sách nhiễu…
Có một câu chuyện
nhỏ nhưng điển hình, từ đó có thể thấy được quốc sách của nhà Trần về phục hồi
và phát triển đất nước lúc đó.
Thăng Long, nằm
trong số phận của đất nước, cũng ba lần bị quân xâm lược chiếm đóng, cũng bị
chiến tranh, giặc dã tàn phá, vì thế cũng cần phải sửa chữa, phục hồi, xây dựng
lại. Trong quá trình bàn định những việc làm trước tiên của công cuộc xây dựng
lại đất nước, có ý kiến trong triều cho rằng phải sửa chữa, tu bổ, phục hồi lại
thành Thăng Long ngay vì dù sao cũng là kinh đô, bộ mặt của cả nước. Nhưng Trần
Quốc Tuấn có ý khác, ông trình bày:
“Việc sửa lại
thành trì không cần kíp lắm. Việc cần kíp của triều đình phải làm ngay không thể
chậm trễ được là việc úy lạo nhân dân. Hơn 4 năm, quân giặc hai lần tràn sang
quấy rối, từ nơi núi rừng đến nơi đồng ruộng bị tàn phá hầu hết. vậy mà nhân dân
vẫn một lòng hướng về triều đình, xuất tài, xuất lực, đi lính, đóng thuế, làm nên
một lực lượng mạnh cho triều đình chống giặc. Nay nhà vua đã được trở về yên ổn.
Việc làm trước hết là chú ý ngay đến dân, những nơi nào bị tàn phá, tùy tình trạng
nặng nhẹ mà cứu tế, nơi nào bị tàn phá quá nặng, có thể miễn tô thuế mấy năm. Có
như thế, dân mới nức lòng càng qui hướng về triều đình hơn nữa. Người xưa đã nói:
“Chúng chí thành thành” tức ý chí của dân chúng là một bức thành kiên cố. Đó mới
là cái thành cần phải sửa chữa ngay…” (Tài liệu trong quyển sách chữ Hán “Long
Thành dật sự”, được dùng trong sách “Việt Nam, ba lần đánh Nguyên toàn thắng”,
tác giả: Nguyễn Lương Bích, NXB Quân đội nhân dân, năm 1981)
Cách nói người
xưa thật khúc chiết, nhưng dễ hiểu làm sao! Câu nói này ẩn chứa nhiều điều sâu
sắc về triết học, thế mà lại vô cùng sáng tỏ. Nó là một chân lý! Mà đã là chân
lý thì không cần và cũng không thể khoác lên một cái áo nhãn mác chân lý nào khác,
bởi cái vốn dĩ của chân lý là giản dị, chất phác. Chỉ cần “thuộc” được câu nói đó
của ông cha thôi, đã là đủ để biết cách dựng nước và giữ nước, cần chi đến những
học thuyết triết học ở đâu đó xa vời!
Cuối cùng, cần
nhấn mạnh rằng: lời nói đó còn là sự biểu hiện cái “Đại nhân tâm” của một vị Đại
anh hùng Dân tộc - Quốc Công Tiết chế Bình Bắc Đại nguyên soái Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn thiên tài.
Thái sư Trần
Quang Khải có hai câu thơ cảm khái mà qua đó chúng ta còn cảm nhận được cái khí
thế bước vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước một
cách hòa trên thuận dưới thưở ấy:
“Nguyện trương thần
uy thôi Bắc lỗ
Đôn linh hoàn vũ yến
nhiên thanh”
(Nguyện lấy uy thần
trừ giặc Bắc
Quyết xây trời đất
vững thanh bình)
Nhờ thế, đời sống
nhân dân được cải thiện nhanh chóng, nền kinh tế đất nước phục hồi trong thời
gian ngắn và tiến tới thịnh vượng.
Triều đại phong
kiến nào, dù thịnh đến mấy rồi cũng đến lúc suy. Triều Trần cũng không ngoại lệ.
Tuy nhiên, nhìn chung thì triều Trần, một cách nổi trội, vẫn là triều thịnh trị
và nhất là làm rạng danh non sông về chống xâm lược. Vì vậy Hồ Chí Minh trong “Lịch
sử nước ta” (diễn ca viết năm 1942) đã có hai câu thơ hoàn toàn xác đáng:
“Đời Trần văn giỏi,
võ nhiều
Ngoài dân thịnh vượng,
trong triều hiền minh”
***
Như chúng ta đã
nói, bất cứ sự phát triển nào cũng có mặt trái của nó, do đó trong sự thịnh vượng,
nếu tinh ý, sẽ thấy được mầm mống của sự suy vi. Để đánh giá mức độ tốt đẹp của
một nến kinh tế có thể có nhiều chỉ tiêu, nhưng chỉ tiêu hàng đầu, cơ bản vẫn là
mức độ của sự sung túc (của cải dồi dào, có miếng ăn miếng để). Một đất nước được
cho là giàu có chưa chắc đã sung túc. Để đại bộ phận nhân dân còn đói khổ, thiếu
thốn thì một đất nước làm sao mà gọi là sung túc được? Do đó, lấy bình quân thu
nhập đầu người chung chung để đo sự sung túc là không chính xác, mà phải lấy bình
quân thu nhập tối thiểu thực tế, chắc chắn có được sau khi đã đóng các loại nghĩa
vụ, đã nộp đủ thứ lệ phí (lên trời?!), chắc chắn sử dụng được trong đời sống
sinh hoạt thường nhật (hay chính xác hơn nữa là lượng lương thực thực phẩm có
thể và chắc chắn qui đổi được từ khoản thu nhập bình quân ấy!). Tuy nhiên, bằng
mắt “thịt” cũng có thể phán đoán được sự lành mạnh của một nền kinh tế. Khi còn
thấy cảnh làng mạc tiêu điều, dân cư xơ xác, đền chùa vắng ế thì sự sung túc chưa
đến đó hoặc đã bỏ đi.
Mục đích và cũng
là động lực ban đầu có tính cốt lõi, nền tảng của sự phát triển kinh tế là no ấm,
tiếp theo là có dư dả để dành, tích lũy dự phòng, nghĩa là bắt đầu sung túc. Sự
sung túc sẽ tất yếu dẫn đến nhu cầu về ăn ngon mặc đẹp rồi ăn sung mặc sướng
(nghĩa là làm tăng trình độ tiêu dùng, cả về số lượng lẫn chất lượng). Việc đó
tự thân nó cũng đã kích thích kinh tế phát triển theo hướng ưu tiên cho “cái mặc”
(xây dựng nhà cửa, rình rang lễ hội, sắm sửa trang trí, tô điểm làm đẹp, “no lưng
ấm cật dậm dật nơi nơi”, …). Sự sung túc cũng làm cho cuộc sống an toàn hơn, nhẹ
nhàng hơn, vui tươi hơn và “thọ” hơn, trở thành một yếu tố làm tốc độ tăng dân
số cao hơn. Những biểu hiện đáng phấn khởi đó, trong quá trình chuyển hóa của nó,
sẽ dần dà làm xuất hiện những nảy sinh báo hiệu sự mất cân đối của nền kinh tế,
sự không còn phù hợp giữa cung và cầu (đã quen với lối sống tiêu dùng mới, khó
mà tiết giảm được!), giữa cách thức, qui mô sản xuất cũ với nhu cầu ngày một tăng
(hoặc tăng nhanh hơn) của đời sống xã hội (trong đó phải kể đến sự lãng phí không
nhỏ bởi sự kích thích tiêu dùng do cạnh tranh mà sự phát triển của khoa học - công
nghệ, ở đây, cũng có một phần lớn trách nhiệm)… Những biểu hiện mất cân đối
kinh tế sẽ ngày một bộc lộ rõ ràng và nếu không kịp thời phát hiện, chỉnh đốn, đề
ra những chính sách thích hợp để đáp ứng được tình hình mới thì sự suy vi của một
đất nước là không tránh khỏi và sự suy vi của một triều đại là tất yếu. Lúc đó
chính là thời tao loạn và đại chúng chính là bộ phận phải chịu tổn thất trước
tiên. Trong toàn cảnh ấy mà còn gặp phải thiên tai (thường thấy trong lịch sử)
thì ôi thôi, sự tổn thất sẽ vô cùng bi đát, đau thương. Ngay bản thân chúng ta,
chưa chắc đã thấm thía hết được câu ca dao sau đây của dân gian:
“Được mùa chớ
phụ ngô khoai
Đến
khi thất bát lấy ai bạn cùng”
Các triều đại
phong kiến, khi đã đưa đất nước đến cực thịnh thì các đời vua sau, thường thì vì
đã sống quen với nhung lụa, bạc vàng châu báu thừa thãi, ngồn ngộn có sẵn, với
của ngon vật lạ, sơn hào hải vị thừa mứa chứa chan tự nhiên mà ra, với quyền lực
vô hạn trời ban xuống, đã không còn cái tâm huyết vì dân vì nước của ông cha họ
thời lập nghiệp, thời đấu tranh chống ngoại xâm. Những ông vua này có thể đã học,
nhưng như những con vẹt, không hiểu được mảy may những bài học có được từ máu xương
mà ông cha họ để lại. Họ cứ tưởng đời sống xã hội là bất biến, cứ như thế mãi,
nên ưu tiên chú ý của họ chỉ là đề phòng, triệt hạ những nhòm ngó, những âm mưu
tranh quyền đoạt vị trong chốn cung đình, trong nội tộc. Trong huyết quản họ,
những sắc tố cao đẹp, tích cực của ông cha họ không còn nữa mà chỉ còn những sắc
tố bản năng ăn, uống, chơi bời và ngủ mê ngủ mệt. Ở họ, nhân tính tốt đẹp hầu
như không còn nữa, thú tính trở nên nổi trội… (Phải chăng ở đây, dù mờ nhạt, hình
như có phảng phất biểu hiện của quá trình không phải là tiến hóa mà là thoái hóa
thích nghi theo con đường rất giống với di truyền sinh học, hay chính là di
truyền sinh học dạng sơ khai?!)
Vì vậy, có thể
nói hiện tượng thịnh - suy của một đất nước trong thời đại phong kiến là sự biểu
hiện của một tiến trình theo qui luật vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã
hội. Mọi triều đại phong kiến nói chung và triều đại nhà Trần nói riêng đều không
thoát được sự tác động khắc nghiệt của qui luật ấy.
Có thể phán đoán,
sự suy thoái cả về kinh tế lẫn chính trị khó lòng cứu vãn của đất nước Đại Việt
thời nhà Trần đã thể hiện rõ ràng từ những năm đầu tiên của nửa sau thế kỷ XIV.
Tuy nhiên sự bắt đầu thực sự của nó sớm hơn thời điểm đó, vào khoảng giữa nửa đầu
thế kỷ.
Ngay từ năm
1293, nền kinh tế nước ta đã phục hồi thấy rõ. Dưới mắt của sứ thần nhà Nguyên
là Trần Phu (được ông này ghi lại trong “An Nam tức sự” tập “Giao Châu cảo”) thì
năm ấy nước ta đồng ruộng tươi tốt, chợ họp đông vui, hàng hóa trăm thứ bày la
liệt; ở những ruộng muối, hàng nghìn thuyền tới buôn bán; tại phủ “Tinh Hoa”(tức
Châu Hoan), có thuyền bè các nước tới tụ hội, mở chợ ngay trên thuyền, buôn bán
rất sầm uất. Qua đó và qua những sử liệu về hoạt động đối nội và đối ngoại của
nhà Trần, chúng ta thấy rằng vào những năm đầu thế kỷ XIV, đất nước Đại Việt đã
tương đối giàu mạnh và tình hình đó tồn tại cũng khoảng 2 thập kỷ đầu của thế kỷ
đó.
Tuy nhiên, cũng
trong khoảng thời gian đó, khi mà những bậc lão thành đầy tài năng và tâm huyết
với đất nước đã về chầu tổ tiên thì tập đoàn thống trị nhà Trần, từ vua, đám hoàng
thân quốc thích, cho đến đội ngũ quan lại trong triều cũng như ở địa phương bắt
đầu thoái hóa, suy đồi. Chu Văn An, ông quan
chính trực dâng sớ xin chém 7 tên quan nịnh thần, lũng đoạn triều đình (Thất trảm
sớ), không được, đành từ quan về ở ẩn. Nạn ăn chơi sa đọa, tham quan lại nhũng,
cường hào ác bá của tầng lớp thống trị đã như là chuyện thường tình, hiển nhiên
trong xã hội.
Điển hình cho sự
tham nhũng là Trần Khánh Dư. Mức độ tham nhũng của ông này, theo dư luận dân
gian hồi đó được truyền khẩu đến nay thì chó, gà vùng Vân Đồn nghe thấy còn phải
kinh sợ (Vân Đồn kê khuyển diệc giai kinh). Khi vua Anh Tông cho gọi về triều hỏi
tội, Trần Khánh Dư thản nhiên đáp: “Tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt
để nuôi chim ưng thì có gì là lạ”. An phủ sứ Hồ Tòng Thốc khét tiếng ăn lễ lạc
của dân, khi bị phát giác, vua triệu vào triều hỏi, Thốc trơ tráo nói: “Một người
được ơn vua thì cả nhà hưởng lộc nước”.
Nhà Trần đã thoái
hóa về nhận thức chính trị đến cỡ đó! Trần Khánh Dư, người có công lớn trong kháng
chiến đối với đất nước, đã thành ra kẻ có tội nặng trong thời bình đối với nhân
dân.
“Đệ nhất anh hào”
của lối sống phung phí, xa hoa trụy lạc là vua Trần Dụ Tông (1341 - 1369). Sách
“Cương mục” nhận xét: “Dụ Tông nghiện rượu, mê đàn hát, xa xỉ làm cung điện
nguy nga và tường vách chạm trổ, lãng phí tiền của, hoang dâm chơi bời, món gì
Dụ Tông cũng mắc. Cơ nghiệp nhà Trần sao khỏi suy được”.
Vừa chịu tác động
ngày một tiêu cực bởi mặt trái của sự phát triển kinh tế, vừa phải chịu sự vơ vét,
bóc lột đủ cách của tầng lớp thống trị, đời sống đại chúng ngày một khốn đốn. Đã
thế, sản xuất nông nghiệp còn phải chịu những thiên tai gây mất mùa, đói kém lớn
vào những năm 1321, 1344, 1357, 1392, làm cho đời sống nhân dân càng thêm cơ cực,
đời sống xã hội vì thế mà cũng trở nên ngột ngạt. Điều tất yếu phải xảy ra, “bần
cùng sinh đạo tặc” - trộm cướp như rươi, “có áp bức có đấu tranh” - Các cuộc khởi
nghĩa nông dân nổ ra; tiêu biểu là của Ngô Bệ, Trần Tề, Phạm Mã Ôn. Đặc biệt là
cuộc khởi nghĩa của Phạm Mã Ôn (1289), đã tiến đánh, chiếm kinh đô Thăng Long 3
ngày, làm vua tôi nhà Trần phải bỏ kinh thành chạy sang Bắc Giang. Đây là cuộc
khởi nghĩa nông dân đầu tiên trong thời quân chủ, chiếm được kinh thành của một
triều đình.
“Thời bình phải
khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc”, cái kế sách có tầm chân lý phổ quát
trong lời trăn trối của Trần Quốc Tuấn ấy, đến đời Dụ Tông, từ vua đến quan đã
không ai còn nhớ nữa (những cái đầu thấp và mê muội thú tính có hiểu gì đâu mà
nhớ!). Chính vì vậy mà cũng từ đó, nhà Trần bạc nhược nhanh chóng, thế nước suy
yếu thấy rõ.
Thượng hoàng Trần
Minh Tông (làm vua từ năm 1374 đến năm 1329) có 7 người con trai gồm: Hiến Tông
Vượng, Cung Tác Vương Dục, Cung Định Vương Trạch, Dụ Tông Hạo, Cung Tĩnh Vương
Nguyên Trạc, Nghệ Tông Phủ, Duệ Tông Kính Hiến Tông lên ngôi năm 1329, đến năm 1341
thì chết (thọ 23 tuổi). Dụ Tông Hạo lên thế ngôi. Mấy năm đầu, mọi việc triều
chính đều do Thượng hoàng Minh Tông điều khiển, nói chung chính sự còn tương đối
nề nếp, dù đất nước có khó khăn, mất mùa đói kém. Năm 1359, Thượng hoàng mất, các
cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng không còn, triều đình từ đó
rối loạn, bên ngoài loạn lạc can qua nổi lên, dân bắt đầu cực khổ trăm bề.
Năm 1369, Dụ Tông
chết, triều đình càng rối như canh hẹ. Vì Dụ Tông không có con nên triều đình lập
Cung Định Vương lên làm vua, nhưng bà Hoàng Thái hậu nhất định đòi đưa Dương Nhật
Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là một đào hát, lấy kép hát tên là Dương Khương, có
thai Nhật Lễ, sau bỏ Dương Khương lấy Cung Túc Vương. Lên ngôi, Nhật Lễ muốn cải
họ Dương, dứt nhà Trần, giết bà Hoàng Thái hậu cùng Cung Định Vương. Cung Tĩnh Vương nhu nhược, thấy thế, bỏ trốn lên mạn
Đà Giang. Các tôn thất nhà Trần hội binh bắt giết Nhật Lễ rồi rước Cung Tĩnh Vương
về làm vua, tức Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)
Nhật Lễ bị giết,
mẹ Nhật Lễ chạy vào Chiêm Thành cầu cứu. Vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga nổi
binh vượt biển vào cửa Đại An, tiến đánh Thăng Long, Quân Trần không chống cự nổi,
bỏ kinh thành. Vua Nghệ Tông chạy sang Đông Ngàn (Đình Bảng, Bắc Ninh) lánh nạn.
Quân Chiêm vào Thăng Long, đốt sạch cung điện, bắt đàn bà con gái, lấy hết vàng
bạc châu báu rồi rút về.
Theo sử sách, dưới
Triều vua Nghệ Tông, nổi lên nhân vật Hồ Quí Ly. Quí Ly xuất thân từ quí tộc ngoại
thích cuối thời Trần. Quí Ly dòng dõi người Triết Giang, Trung Quốc, là cháu 4 đời
của Hồ Liêm. Hồ Liêm quê ở Nghệ An, vào thời Trần thì dời ra Thanh Hóa, làm con
nuôi một viên quan to. Hai người cô của Quí Ly lấy vua Minh Tông; một người là
Minh Từ Hoàng hậu đẻ ra Nghệ Tông, một người là Đôn Từ Hoàng hậu đẻ ra Duệ Tông.
Bản thân Quí Ly lấy công chúa Huy Ninh - con gái của Nghệ Tông, trong khi em gái
họ của Quí Ly lấy Duệ Tông. Vua Nghệ Tông rất tin dùng Hồ Quí Ly, giao nhiều trọng
trách, quyền hành, với các chức tước Khu Mật Đại Sứ; Trung Tuyên Hầu…
Được tin dùng,
uy thế Hồ Quí Ly ngày càng tăng. Từ đó, Quí Ly tăng cường vây cánh, mưu đồ đợi
cơ hội, cướp ngôi nhà Trần.
Năm 1372, Nghệ
Tông truyền ngôi cho em là Kính rồi về phủ Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng.
Trần Kính lên ngôi, lấy hiệu là Duệ Tông, lập em họ của Quí Ly làm Hoàng hậu. Năm
1276, thấy Chiêm Thành luôn xâm phạm bờ cõi, quấy phá. Duệ Tông thân chinh dẫn
quân đi đánh. Trong trận Đồ Bàn (Kinh đô nước Chiêm Thành) năm 1377, bị mắc mưu,
quân Chiêm mai phục xông ra đánh, quân Đại Việt thua to, Duệ Tông chết trong đám
loạn quân.
Duệ Tông chết,
Thượng hoàng Nghệ Tông lập con Duệ Tông là Hiền lên nối ngôi, lấy hiệu là Phế Đế
(1377 – 1388).
Ngay khi giết được
Duệ Tông, Chế Bồng Nga cho quân sang Đại Việt quấy nhiễu, cướp phá dữ dội. Năm
1378, quân Chiêm đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng, tiến đánh cướp bóc Thăng
Long lần nữa. Năm 1380 và 1382, giặc Chiêm tiếp tục xâm phạm Đại Việt, nhưng 2
lần này chúng bị đánh lui.
Năm 1383, Chế Bồng
Nga lại sang quấy phá Đại Việt, tiến đánh Thăng Long. Thượng hoàng cùng Phế Đế
sợ hãi, phải chạy sang Đông Ngàn. Quân Chiêm lại tàn phá Thăng Long (Kinh đô cuối
nhà Trần sao mà dễ chiếm quá, cứ như bị bỏ hoang vậy!)
Để cứu kho tàng
trống rỗng vì chiến tranh, vua Trần tăng thêm sưu thuế và đặt ra thuế thân: mỗi
xuất đinh, mỗi năm phải đóng 3 quan tiền thuế, khiến dân chúng càng thêm khổ cực.
Có chuyện Thượng
hoàng đến gặp Trần Nguyên Đàm hỏi việc nước. Trước đó, Nguyên Đàm thấy tình thế
gió bắt đầu đổi chiều, bèn kết làm thông gia với Hồ Quí Ly, mong cho con cháu toàn
mạng, phú quí về sau. Trước Thượng hoàng, không biết thế nào mà Nguyên Đàm trả
lời: “Xin bệ hạ thờ nhà Minh như cha, yêu nước Chiêm như con, thì quốc gia sẽ
không việc gì mà lão thần chết cũng không hẩm”
Thế nước rệu rã,
lòng người ly tán đến thế là cùng!
Nhận xét
Đăng nhận xét