THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 24/a
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (II)
ĐẠI CHÚNG --------------------------------
ĐẠI CHÚNG --------------------------------
CHƯƠNG II:
NƯỚC NON
“- Non cao đã biết hay chưa:
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề”
Tản
Đà
Chúng ta rảo bước
trên con đường quê ngoằn ngoèo dưới trời xanh gió lộng. Biết bao nhiêu dự định
còn ngổn ngang và đè trĩu nỗi lòng. Khối lượng công việc của tương lai hiện lên
ngồn ngộn như những ngọn núi lam biếc ở phía trước mặt. Quĩ thời gian của chúng
ta không biết còn nhiều hay ít và trí lực của chúng ta có đủ kham nổi không đây?
Thôi thì được
chăng hay chớ! Chúng ta cứ đi theo sự quyến rũ của đam mê và theo ý muốn của định
mệnh!
Mới hôm qua còn
ngồi co cẳng trên chạc ba của một cái cây cổ thụ thời sơ sử mà hôm nay đã lại
tung tăng trên con đường hiện tại để tiếp tục cuộc hành trình đi tìm kiếm những
ước mơ. Thời gian có lúc trôi nhanh đến huyễn hoặc. Chúng ta chợt cảm thấy vui
nhộn hẳn lên khi nhớ sáng nay, lúc ngồi uống cà phê trong một quán nhỏ ven đường,
nghe những người trong quán bàn tán xôn xao về việc hôm qua tại vùng này xuất
hiện UFO (vật thể bay không xác định được)! Rất nhiều người nhìn thấy và thấy rất
rõ: nó xuất hiện trên vùng trời biển Đông, sà xuống rất nhanh vượt qua miền duyên
hải, ngóc lên bay về phía dãy Trường Sơn rồi đột ngột quay lại, đứng yên như
treo phía trên ngọn núi có khối tháp chàm di tích khoảng độ năm phút đồng hồ, rồi
cũng đột ngột như thế, bay vút ra biển Đông, mất hút. Báo chí đăng tin và đưa ý
kiến giải thích rùm beng. Người nói đó là phi thuyền của người ngoài hành tinh,
kẻ nói đó là ảo tượng. Cũng có người cho rằng đó là phương tiện chiến tranh cực
kỳ hiện đại, đang trong giai đoạn thí nghiệm bí mật của Nga hoặc Mỹ hoặc cũng có
thể là của Trung Quốc. Nói chung là mù tịt và đoán mò, chẳng ai biết thực hư ra
sao, chỉ có điều rất nhiều dân địa phương đã tận mắt chứng kiến hiện tượng đó,
ngay giữa ban ngày ban mặt. Còn một điều nữa là chỉ riêng chúng ta biết tỏng đó
là cái gì rồi. Chính vì thế mà chúng ta cứ im lặng ngồi nghe mọi người bàn tán,
lộ vẻ khoái chí ra mặt. Con tàu Vượt Thời Gian của thế giới Hoang Đường đã chở
chúng ta về đây và chúng ta rời tàu đúng vào ngày hôm qua!...
Chúng ta đang có
mặt ở miền duyên hải Trung - Trung Bộ. Càng đi về phía núi cây cối càng có vẻ
xum xuê và làng quê vì thế mà hình như cũng trù phú hơn. Hai bên đường, dưới trũng,
thường xuyên có những mảng nước khá lớn, các con mương con rạch cũng khá đầy nước.
Mấy bữa trước chắc là đã có những đợt mưa lớn.
Người ta nói bên
kia dãy núi trước mặt là cao nguyên trung phần, xứ sở của đồng bào các dân tộc
người Thượng. Phải chăng trước đây hàng vạn năm, tất cả các vùng duyên hải của
lãnh thổ Việt Nam, vùng Tây - Nam Bộ, vùng đồng bằng Bắc Bộ vẫn còn ngập chìm
trong nước biển hoặc là những vùng sình lầy nhiễm mặn? Chúng dần lộ ra như là
những vùng đồng bằng vào thời kỳ biển thoái và lác đác những cụm dân cư nhỏ đã
xuất hiện ở đó vào khoảng trên dưới 3 ngàn năm trước đây? Chúng ta có ý tưởng rằng
miền duyên hải của dải đất Việt Nam
cổ xưa đã ở khá sâu trong lục địa so với ranh giới ngày nay. Thế thì thời Kinh
Dương Vương, miền duyên hải Bắc Bộ nằm ở đâu và vùng hạ lưu sông Hồng lúc đó phải
chăng là khu vực sình lầy?
Chúng ta nói các
vua Hùng đã xây dựng Cổ Loa thành làm Kinh đô nước Văn Lang. Nhưng trước khi có
Cổ Loa thành thì kinh đô của vua Hùng đầu tiên ở đâu? Rất có thể là ở đâu đó
thuộc Việt Trì - Vĩnh Phú và cũng chính là quê hương của vua Hùng. Tạm chấp nhận
là vậy!
Còn trước đó nữa,
thời Lạc Long Quân thì kinh đô ở đâu? Chẳng ở đâu cả vì đang là thời kỳ mở nước
nên chưa có nước Văn Lang, và như thế cũng chẳng có kinh đô.
Khi nói đến
kinh đô thời xưa, người ta thường gắn liền nó với thành quách và những cung điện,
đền đài nguy nga tráng lệ. Thực ra linh hồn của kinh đô chỉ là trung tâm quyền
lực và thường cũng là trung tâm văn hóa của một quốc gia. Chính vì phải bảo vệ
và cung phụng cho cái linh hồn đỏng đảnh có một bộ não nhạy cảm ấy mà phải có một
cái xác vừa đồ sộ vừa diêm dúa là thành quách và cung điện.
Nếu chúng ta
quan niệm kinh đô là trọng tâm của một khu vực quần tụ dân cư và cũng chính là
trung tâm văn hóa của bộ phận quần tụ dân cư ấy thì thời Lạc Long Quân cũng có
kinh đô. Kinh đô đó ở đâu? Nó ở chỗ mà thời Kinh Dương Vương cũng đã chọn làm
kinh đô? Chợt nhớ tới câu chuyện ly kỳ về bãi đá cổ Sa Pa, chúng ta vội bám víu
vào đó và cho rằng kinh đô của thời Kinh Dương Vương và của nửa đầu thời kỳ Lạc Long Quân là ở Lào
Cai ngày nay và cụ thể hơn có thể là thung lũng Mường Hoa. Đến nửa sau thời kỳ
Lạc Long Quân, đã có một cuộc “dời đô” đến Việt Trì - Vĩnh Phú và tại đây đã xảy
ra cuộc phân ly huyền thoại giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân: một bộ phận dân cư lan
tỏa xuống miền duyên hải để khai phá và sinh cơ lập nghiệp; bộ phận ở lại tiếp
tục phát triển và trong đó có người con trưởng của vợ chồng Âu - Lạc, sau này
trở thành vua Hùng đời đầu tiên.
Bãi đá cổ Sa Pa vẫn còn là một bí ẩn
lớn đối với giới nghiên cứu lịch sử - văn hóa của Việt Nam cũng như trên thế giới.
Mường Hoa là một
thung lũng được bao bọc bởi những núi cao trên dưới 2000 mét. Dọc theo thung lũng
Mường Hoa, trải dài từ xã Tả Văn đến Lao Chải là những khối đá lớn, có kích thước
khác nhau từ 1x2x2 mét đến 6x8x12 mét. Vì giàu chất vôi nên những khối đá đó có
độ cứng thấp, dễ bị phong hóa. Các khối đá tập trung ở khe suối, từ lòng thung
lũng đến độ cao 150 mét. Phần lớn trong số chúng đều có hình khắc ở những mặt
phẳng nhất. Số lượng đá cổ có hình khắc tập trung nhiều nhất thành hai bãi lớn
tại xã Hầu Tháo. Một bãi nằm cạnh bản Pho của người H’Mông. Một bãi nằm giữa địa
giới xã Hầu Tháo và Lao Chải trên các thửa ruộng bậc thang. Tại bãi này có trên
100 hòn đá có hình khắc. Hai xã Tả Văn và Sử Pán nằm bên rìa trung tâm bãi đá cổ
nên chỉ có rải rác vài hòn đơn lẻ với nội dung hình khắc tương tự. Như vậy bãi đá
cổ Sa Pa nằm lọt
trong thung lũng Mường Hoa, cách thị trấn Sa Pa 7 km theo hướng Đông Nam.
Người đầu tiên
trong giới nghiên cứu phát hiện ra bãi đá cổ Sa Pa là giáo sư Victor Goloubew,
người Pháp, thuộc viện Viễn Đông Bác Cổ, vào năm 1925. Sau đó, nhiều thế hệ các
nhà khoa học cả người Việt Nam
lẫn người Pháp đã phát hiện thêm hàng trăm hòn đá có hình khắc nữa, nâng tổng số
hòn đá có hình khắc, tính đến nay, là 200 hòn.
Đã có rất nhiều
kiến giải đa chiều về bãi đá cổ huyền vĩ này.
Theo giáo sư Lê
Trọng Khánh, một chuyên gia về chữ viết của người Việt Cổ thì hình khắc trên vách
đá là hiện tượng phổ biến khắp nơi trên thế giới có từ cuối thời đại đồ đá cũ, ở
Châu Phi (Sahara), Ý, Pháp, Bắc Âu, Mông Cổ, Nam Xibia, Băng Đảo, Châu Mỹ… Chúng
còn được phát hiện ở các nước quanh Việt Nam như Ấn Độ, Miến Điện, Hồng Công,
Quảng Tây... Ở nước ta, các hiện vật khảo cổ bằng đá, xương, gỗ, sừng… có hình
khắc tìm thấy được ở nhiều nơi từ trước đến nay, như ở hang Đồng Nội, Động Ky,
NaCa, Lèn Đạt, Làng Bon, Gò Mun, Gò Hên. Trong đó, hiện vật sớm nhất có niên đại
thuộc văn hóa Bắc Sơn, cách nay 10.000 năm. Những hình khắc ấy có loại thuộc trang
trí, ngoài ra, chủ yếu là tiền văn tự đồ họa (proto écriture). Theo Maxime Gorce,
chuyên gia nổi tiếng về tiền văn tự của Pháp, những yếu tố trước chữ viết ra đời
từ thế kỷ XVIII - VIII TCN, thuộc thời đại đồ đá mới.
Cũng theo giáo
sư Lê Trọng Khánh thì SaPa nằm trên trục đường giao lưu quốc tế của Giao Chỉ xưa
về phía Tây và Tây Bắc. Đó là một địa bàn có tầm quan trọng chiến lược từ trước
đến nay. Hiện nay có nhiều tộc người sinh sống ở đó như người H’Mông, Da, Giáy,
Phù Lá… nhưng qua nghiên cứu thì thấy lớp địa danh cổ vùng SaPa không thuộc ngôn
ngữ các tộc người ấy mà có yếu tố tiếng nói chung của Lạc Việt, phân bố rộng khắp
đất nước Văn Lang xưa và còn lưu dấu khá vững chắc đến tận ngày nay. Chẳng hạn địa
danh có từ tố “Mường” còn tìm thấy khá phổ biến ở vùng người Việt mường từ Vĩnh
- Phú, Hòa Bình, Thanh Hóa đến Nghệ - Tĩnh như Mường Khong, Mường Lam (Quý Châu,
Nghệ - Tĩnh). Cứ liệu về địa danh ngôn ngữ cổ là một trong những cơ sở quan trọng
để xác định con người đã sống và sáng tạo ra hệ thống chữ viết hình vẽ
(Pictogramme) được khắc trên đá ở SaPa không phải là tổ tiên những tộc người đang
sống ở đây. Họ là lớp người đến sau. Chính người Lạc Việt là chủ nhân hệ thống
chữ viết hình vẽ ấy. Những hình khắc trên đá ở SaPa có một quá trình lịch sử rất
lâu dài, từ đồ đá mới đến giai đoạn đồ đồng phát triển (Gò Mun), bao gồm những
ký hiệu tiền văn tự và cả hệ thống văn tự đồ họa đã hoàn chỉnh, có xu hướng
chuyển sang một loại hình chữ viết cao hơn. Chữ viết hình vẽ SaPa về hình người
(anthropomorphique) là đồng nhất với hình người khắc trên rìu lưỡi xéo. Đây là
cứ liệu quan trọng khác để xác lập mối quan hệ nguồn gốc chữ viết đồ họa SaPa và
Đông Sơn. Chữ viết hình vẽ SaPa đã mang tính chất sơ đồ hóa rất cao, nhất là hình
người. Trong đó có một số hình có thể nói lên được ý nghĩ của con người. Trường
hợp này, nó đã trở thành chữ viết biểu ý (idéographique) đầu tiên. Theo những tài
liệu đã được công bố của các nhà khoa học Liên Xô, chữ viết đồ họa Tchoulouent
(Mông Cổ) được xác định thuộc văn hóa đồ đồng, thiên niên kỷ thứ II TCN. Chữ viết
SaPa, nhất là chữ viết hình vẽ, rất tương đồng với loại hình chữ viết đó. Trên
một hòn đá ở độ cao 150 m, trên đường đi Lao Chải có khắc năm dòng chữ. Chúng
thuộc một kiểu chữ đã tiến bộ, chứng tỏ những người khắc chúng đã đạt đến một
trình độ văn minh nhất định. So sánh với những thứ văn tự hiện đại biết được như
chữ Môn, Miến, Thái, Lào, Lô - lô… chưa thấy có sự tương đồng.
Giáo sư Lê Trọng
Khánh còn cho rằng những hình khắc trên đá SaPa không nhằm vào yêu cầu chủ yếu
là trang trí. Ông cũng cho rằng nhà khoa học lớn về ngôn ngữ và chữ viết, Marcel
Cohar, đã nói rất đúng: trong trường hợp hình vẽ không sử dụng cho trang trí, mà
thuộc về lĩnh vực trí tuệ thì hình vẽ đó là chữ viết hình vẽ. Ông còn dẫn lời của
Morgan, nhà nghiên cứu bậc thầy về xã hội cổ đại: “Khi con người cần cố định tư
tưởng của mình, phương tiện đầu tiên để thể hiện là bằng hình vẽ giản đơn mà họ
nhận thức”.
Cuối cùng, giáo
sư Lê Trọng Khánh nhận định: “Qua thời gian khá dài nghiên cứu hình khắc trên đá
SaPa, dưới góc độ chữ viết, thì thấy một điểm nổi bật là mỗi tập hợp hình khắc
từng khối đá, có nội dung quan hệ nối tiếp lẫn nhau. Trên phương diện này, có
thể nghĩ rằng, tổng thể hình khắc ấy là một bộ sách đá khổng lồ, được khắc bằng
văn tự đồ họa”.
Quan sát trên bình
diện lịch sử hình thành văn tự - chữ viết thì theo chúng ta cảm nhận, lập luận
trên của giáo sư Lê Trọng Khánh về bãi đá cổ SaPa là tương đối xác đáng. Tuy nhiên cũng còn
rất nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này, và nhất là về ý nghĩa của những hình
khắc.
Chỉ riêng về vấn
đề thời gian xuất hiện hình khắc trên bãi đá cổ SaPa thôi mà cũng có nhiều luồng
ý kiến khác nhau rồi. Người thì nói đó là công trình của người H’Mông, người
Dao, sống ở vùng này từ 200 đến 600 năm trước. Người thì cho là của người Tày cổ,
sống ở đây vào khoảng 900 năm về trước. Có người lại khẳng định những hình khắc
đó là của cư dân văn hóa Đông Sơn, cách nay từ 2300 năm đến 3000 năm. Và cũng có
người đi xa hơn, quả quyết rằng các hình khắc đã có cách đây 5000 năm, thậm chí
là lâu hơn nữa, thuộc về một nền văn minh nào đó đã mất.
Xét một cách tổng
thể, có qui cách hình khắc về vài nhóm chính: hình tròn và hình tròn khắc vạch
làm liên tưởng đến mặt trăng, mặt trời, thái cực, bánh xe nước; hình tượng người
và nam, nữ khuyếch đại bộ phận sinh dục; các đường lượn, vạch song song làm liên
tưởng đến đồng ruộng, ruộng bậc thang, các quái trong Kinh Dịch; các hình vuông
và chữ nhật làm liên tưởng đến nhà, cửa… Nói chung, đại bộ phận đều toát lên trình
độ tư duy tạo hình giản đơn, chất phác của con người thời nguyên sơ, sống gắn bó
mật thiết với thiên nhiên. Có lẽ vì thế mà mỗi nhà nghiên cứu đều có thể nhìn
thấy cái mình muốn từ lý giải riêng của mình từ bãi đá cổ Sapa và không nhiều
thì ít đều… có lý? Tựu trung thì gồm những ý kiến chính sau đây về nội dung của
quần thể hình khắc trên bãi đá Sapa:
- Đó là những hình
vẽ hoa văn trang trí; là hình khắc thông thường, thậm chí… lăng nhăng.
- Đó là những hình
vẽ những trận đánh chống xâm lăng của người H’Mông hoặc của người Lạc Việt
- Đó là những bản
đồ mô tả thung lũng Mường hoa và các vùng xung quanh
- Đó là những bài
cúng hoặc là những lời tiên tri (!)
- Đó là những
ghi chép về Kinh Dịch hay có thể gọi là “Lạc thư chu dịch” - Sách của người Lạc
Việt nói về sự vận động tuần hoàn của Vũ Trụ.
Chúng ta theo
ai bây giờ?
Chúng ta theo…
Lương Khải Siêu!
***
***
Mường Hoa, thưở
xa xưa có thể là gần biển và đã từng là môi trường khá thuận lợi cho con người
sinh sống. Do đó, không thể là ngoại lệ, con người nguyên thủy đã có mặt ở đó từ
rất sớm. Thời Kinh Dương Vương mang theo văn hóa Bách Việt di cư sang thì dân cư
ở Mường Hoa đã có một trình độ văn hóa bản địa nhất định. Thời đó, nhờ Mường
Hoa nằm ở vị trí địa lý thuận tiện mà nó dần trở thành một trọng tâm của khối
quần cư mới, đóng vai trò như một Kinh đô, hòa hợp hai bản sắc văn hóa Bách Việt
và bản địa, làm hình thành nên một nền văn hóa mới. Đó là cội nguồn của nền văn
minh Lạc Việt.
Nền văn hóa Bách
Việt cổ và nền văn hóa bản địa cổ tuy đã bộc lộ ra những nét đặc thù khác nhau,
nhưng cũng có những nét cơ bản giống nhau và suy cho cùng thì sâu xa trong quá
khứ chúng đều xuất phát từ nền văn hóa Địa Đàng. Do đó có thể vì văn hóa Lạc Việt
là sự kết hợp của hai cá thể cùng giống loài, nảy mầm trên cái nền văn hóa của
vùng đông nam Châu Á, vừa có tính kế thừa, vừa có tính sáng tạo; biểu hiện ra tương
tự như bị chi phối bởi nguyên lý tính trội tính lặn.
Một vùng đất đầy
tiềm năng chỉ có ý nghĩa đối với một lực lượng dân cư mới, tương hợp với nó (“mới”
ở đây có nghĩa rộng, người cũ nhưng tư duy mới cũng là mới!) và đó chính là thiên
thời, địa lợi, nhân hòa. Một khu vực, khi đã đạt được độ chín muồi như vậy sẽ dễ
dàng đột khởi lên thịnh vượng. Khu vực thung lũng Mường Hoa, hoặc khu vực rộng
lớn hơn mà Mường Hoa là trung tâm, thời kỳ Kinh Dương Vương đã là như vậy. Và vì
vậy, chúng ta tin rằng thời đó Mường Hoa nói riêng và vùng Sapa nói chung đã từng
một thời vàng son, rất thịnh vượng và rực rỡ văn hóa.
Hệ thống hình
khắc cổ trên bãi đá Sapa được hình thành trong điều kiện, hoàn cảnh đó và là biểu
trưng của văn hóa Lạc Việt. Tuy nhiên với một khối lượng lớn các hình khắc trải
rộng trong không gian như thế thì sự hình thành của chúng cũng phải trải dài
theo thời gian. Chúng ta tin giáo sư Lê Trọng Khánh khi ông nói sự hình thành hệ
thống văn tự đồ họa trên bãi đá Sapa như ngày nay chúng ta thấy, phải là một quá
trình lâu dài. Có thể đã là công lao của nhiều thế hệ. Thậm chí là có những nét
được thêm thắt vào của người hiện đại do sự tinh nghịch vô ý thức hoặc định “ăn
theo” tổ tiên để lưu chút danh còm!
Quan sát hình
khắc vẽ trên đá cổ Sapa, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng vào lúc đương thời, nó
phải là kết quả của một ý đồ lớn, đầy uyên bác và của một “tay nghề lão luyện”
về vạch vẽ.
Người hiện đại
bình thường không thể vẽ được như thế. Ngay cả họa sĩ được đào tạo bài bản cũng
không thể vẽ được “một cái ăn ngay” những nét song song uốn lượn (có chủ đích);
bao trùm lên toàn bộ một hòn đá như thế mà không cần qua một lần “vẽ nháp” nào.
Ngoài ra, “cái bút” dùng để viết những chữ viết hình vẽ ấy không thể là gỗ đá được
mà phải bằng vật liệu gì đó cứng hơn thứ đá của bãi đá cổ ấy để tạo được những
vết khắc dài, uốn lượn, đều nét… Phải chăng là mảnh gốm?
Có thể nói rằng
hệ thống chữ viết hình vẽ ở bãi đá Sapa là một công trình đòi hỏi sự công phu,
kiên trì, tỉ mỉ nhằm cố gắng giải bày những vấn đề gì đó của người xưa. Những hình
vẽ đầu tiên chí ít cũng xuất hiện từ thời Kinh Dương Vương và khi mà chất liệu đồng
(đồng thau) và gốm đã được phát hiện (nhưng chưa được ứng dụng thay đá trong việc
chế tác ra các dụng cụ, phương tiện phục vụ đời sống và lao động!?)
Nhận định như
thế có nghĩa là chúng ta cũng nói luôn: ý kiến cho rằng những hình vẽ đó chỉ là
trang trí tùy tiện, thậm chí lăng nhăng là một ý kiến thuộc loại… không tưởng.
Thế còn ý kiến
cho rằng đó là “Lạc thư chu dịch” - giải thích vũ trụ theo Kinh Dịch, thì sao? Đó
là ý kiến lý thú, đáng để suy nghĩ, chúng ta vẫn tin rằng Kinh Dịch là niềm tự
hào sáng tạo, là thiên cổ kỳ thư của dân tộc Trung Hoa.
Người có ý kiến
này (đề xướng ra giả thuyết Kinh Dịch là của người Lạc Việt) là nhà nghiên cứu
Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Ông nói: “Cả đời tôi đã và sẽ dành toàn bộ trí lực để chứng
minh luận điểm của mình, cũng như bảo vệ quan điểm cội nguồn Kinh Dịch là của dân
tộc Lạc Việt, có nguồn gốc từ nước Bách Việt cổ xưa”; “Sau khi quán xét bãi đá
cổ Sapa, tôi thấy không cần phải tiếp tục viết sách chứng minh cho nền văn minh
Lạc Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Bởi vì, sự kỳ vĩ của trí tuệ tổ tiên cho
thấy sớm muộn nền văn minh này sẽ được làm sáng tỏ”. Và có lần, ông còn nói có
phần hài hước: “Rất nhiều người ôm một đống sách Hán và bĩu môi trước những lý
thuyết của tôi. Họ khẳng định một cách chắc chắn rằng Kinh Dịch chính là của người
Hoa Hạ. Trong khi đó, hàng ngàn năm trôi qua chính người Trung Quốc lại không lý
giải được cội nguồn của nó cũng như không hiểu được rất nhiều chỗ huyền bí
trong Kinh Dịch mà tiêu biểu là họ không tìm thấy căn nguyên của thuận tự 64 quẻ
Hậu Thiên từ nền văn minh Hoa Hạ. Còn tôi lại có thể lý giải được cội nguồn của
Kinh Dịch dựa trên rất nhiều cơ sở khoa học mà sự kỳ vĩ trên các hình khắc ở bãi
đá cổ Sapa đã nói tất cả thì tôi chẳng thấy xấu hổ gì mà không nhận Kinh Dịch là
của người Việt mình. Tôi tin rằng, nếu có người giải mã được toàn bộ bãi đá cổ
Sapa thì đó phải là lúc một lý thuyết thống nhất Vũ Trụ được chứng minh”.
Ngoài
Nguyễn Vũ
Tuấn Anh còn có nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Liễn cũng lý giải bãi đá cổ
Sapa theo
hướng này. Ông cũng cho rằng toàn bộ nội dung hình khắc ở đó là kiến
thức về Vũ Trụ có liên quan đến Kinh Dịch. Hơn thế nữa, ông còn gọi đó
là pho sách khá hoàn
chỉnh mô tả khởi nguyên Vũ Trụ hay có thể đặt tên là “Mô hình Vũ Trụ”.
Ý kiến của hai
nhà nghiên cứu nêu trên không phải là không có lý. Tuy nhiên việc gán cho một số
đường khắc vạch thành những “quái” cụ thể nào đó (chẳng hạn là Sơn Địa Bác, Địa
Lôi Phục…) lại có vẻ hơi quá, không những không làm tăng thêm chút giá trị nào
cho bãi đá cổ Sapa mà vô tình còn hạ thấp nó đi.
Đúc rút các lý
giải đa chiều của các nhà nghiên cứu, chúng ta cũng xin phép nêu ra vài nhận định
riêng về bãi đá cổ đó nhằm góp phần gây… rắm rối thêm cuộc lần mò làm sáng tỏ sự
bí ẩn:
- Đó là bộ bách
khoa toàn thư của dân tộc Lạc Việt thời mở nước, “ghi chép” những hiểu biết của
con người lúc đó về thiên nhiên, về xã hội và về những sự kiện lịch sử cũng như
đương thời.
Con người được
sinh ra là để sống, muốn sống thì phải ăn. Do đó việc đầu tiên mà con người phải
làm là kiếm ăn và kiếm ăn cũng là mục đích tối hậu trong suốt quãng đời sống còn
của loài người tối cổ. Mọi hành vi của họ trong lao động, quan sát, suy nghĩ,
nhận thức, sáng tạo… đều có kết quả sâu xa từ đòi hỏi tìm ra được miếng ăn và
trực tiếp hay gián tiếp phục vụ cho sự sống còn. “Có thực mới vực được đạo”, nhưng
vực đạo lên để làm gì nếu không vì sự sống? Những vết khắc vạch lên đá đầu tiên
của loài người không có tính mỹ thuật và cũng không vì nghệ thuật, mỹ thuật cũng
như nghệ thuật là hậu quả của quá trình phát triển của hành động vạch vẽ nhằm cố
gắng mô tả rõ ràng hơn những kiến thức, kinh nghiệm, ý tưởng về cuộc sống, về
thiên nhiên trong truyền đạt và lưu giữ lâu dài. Không thể có một cá nhân nào,
một bầy người nào ở thời tiền sử lại “rỗi hơi” khắc vạch một cách tỉ mỉ với số
lượng lớn những hình họa như thế lên một bãi đá rộng lớn như thế với mục đích lăng
nhăng không vì cái gì cả, trong khi bụng lại đang đói meo.
- Để ghi chép được
thành một pho sách như thế, tổ tiên ta ắt hẳn đã sáng tạo được một hệ thống những
ký hiệu vạch vẽ qui ước nhằm mô tả hình thể thiên nhiên, diễn đạt khái niệm
thay thế cho ngôn ngữ. Sẽ không thể trình bày, diễn đạt một sự việc hay hiện tượng
nào đó bằng ngôn ngữ hay chữ viết nếu chưa có nhận thức. Mà khi đã nhận thức thì
sẽ có quan niệm. Một người, khi giải thích một quá trình biến hóa nào đó của
thiên nhiên thì đồng thời cũng bộc lộ quan niệm (cách hiểu) của mình về bản chất
của thiên nhiên.
- Vì là bách
khoa toàn thư nên nếu giải mã được nội dung của những hình vẽ ở bãi đá cổ Sapa,
rất có thể chúng ta sẽ thấy “đủ thứ” trong đó: những “truyền thuyết” lịch sử, câu
chuyện về một chiến thắng oai hùng, bản đồ địa lý - phân bố dân cư của khu vực,
kiến thức về khí hậu - thủy văn - bão lụt, những quan sát thiên văn, quan niệm
về tự nhiên cũng như xã hội…
Tóm lại hệ thống
chữ viết hình vẽ ở bãi đá cổ Sapa có thể đã ra đời vào giai đoạn phát triển thịnh
vượng của thời Kinh Dương Vương (tương ứng với bước đi mở đầu của nền văn hóa
Phùng Nguyên) và hoàn thành vào nửa cuối thời đại Lạc Long Quân. Đó là một pho
sách đá và là cuốn bách khoa toàn thư đầu tiên của dân tộc ta. Đơn giản chỉ có
thế!
***
Tuy nhiên vào
thời hình thành nên đất nước, ngoài pho đá bách khoa toàn thư đó ra, chúng ta
cho rằng còn có (những) cuốn sách đá “mini” gọi là “Lạc thư” như đã từng nói tới
nữa. Nếu không như thế thì những hoang tưởng “hùng hồn” trước đây của chúng ta
sẽ trở thành… bố láo bố toét. Chúng ta không muốn thế! Vậy thì phải cho rằng có
cuốn sách ấy. Nhưng nó xuất hiện vào lúc nào trong thời đại ấy?
Dù có lần giở,
soi mói từng tảng một của bãi đá cổ Sapa, chúng ta cũng chẳng thể nào thấy được
bóng dáng của Hà Đồ - Lạc Thư đâu cả, thậm chí là những gợi ý để liên tưởng đến
chúng cũng khó mà có nốt. Thế nhưng cuốn sách đá Lạc Thư không thể xuất hiện vào
đời vua Hùng thứ 6, có thời gian tương đương với thời nhà Ân - Thương bên Trung
Quốc được, vì chúng ta cho rằng nó đã xuất hiện vào thời vua Nghiêu (được người
Việt - Thường tặng!). Chỉ còn một khả năng là cuốn sách đó ra đời vào khoảng thời
gian thời Lạc Long Quân và vì thế mà ở bãi đá cổ đã không thấy sự hiện diện của
Hà Đồ - Lạc Thư. Dù sao thì những vòng tròn nhỏ dùng để ký hiệu như những đơn vị
đếm thể hiện trên Hà Đồ - Lạc Thư sau này đã nằm chờ sẵn trong hình vẽ của bãi đá
cổ Sapa rồi!.
Chúng ta cho rằng
khi thực hiện “ghi chép” lên bãi đá cổ đó, con người Lạc Việt đã có quan niệm rõ
ràng về tính lưỡng phân lưỡng hợp, tương phản đối ứng, tam thể (thiên, địa, nhân)
thống nhất của tự nhiên, vũ trụ và quan niệm ấy đã thể hiện xuyên suốt và nhất
quán trong pho sách cổ. Từ những hình vẽ trên bãi đá, chúng ta có thể suy diễn
ra ý tưởng ấy dễ dàng hơn nhiều so với việc suy ra Kinh Dịch với những “Quái” của
nó.
Hà Đồ - Lạc Thư
được sáng tạo ra, vào buổi đầu tiên, từ yêu cầu toán học thuần túy nhằm phục vụ cho thực tiễn đời sống.
Tuy nhiên chính sự sắp xếp hợp lý của chúng, phù hợp với nguyên lý tương tự của
Tư Nhiên, đã phần nào thỏa mãn được sự giải thích vũ trụ theo quan niệm lưỡng
phân lưỡng hợp, tam tài đồng nhất thể… Và, sau này,“người Việt Thường” nào đó đã có “sáng
kiến” dùng nó để kể câu chuyện về cuộc khai thiên lập địa theo quan niệm của dân
tộc Lạc Việt cho vua Nghiêu nghe (?)!
Trên cơ sở cuốn
sách đá Lạc Thư và tính chân lý hàm chứa trong đó, người Trung Hoa cổ đã phát
triển nên, sáng tạo ra những khái niệm mới như lưỡng nghi, âm dương, ngũ hành,
tứ tượng, bát quái… mà có được thiên cổ kỳ thư Kinh Dịch.
Nền tảng của
Kinh Dịch là Hà Đồ - Lạc Thư. Hà Đồ - Lạc Thư, sau khi mất đi công dụng toán học
của nó, trở thành một “mô hình Vũ Trụ”, được xây dựng nên từ quan niệm lưỡng phân
lưỡng hợp, tương phản đối ứng. Điều này đã lý giải vì sao mà có những nhà nghiên
cứu nhìn thấy ở bãi đá cổ Sapa những biểu hiện rất giống Kinh Dịch và sự lập luận
của họ nghe thật là bùi tai. (Cầu mong cho ai đó cũng bùi tai như thế khi nghe
chúng ta “ní nuận”. Được vậy thì thật là hân hạnh!).
Sự hoang tưởng
giúp cho chúng ta phán đoán thêm điều này nữa: Phải chăng thần Kim Qui chính là
con rùa đá mang trên mình nó cuốn sách Lạc Thư? Nhờ có cuốn sách ấy, nhờ có hình
tượng với cách sắp xếp hợp lý các dấu tròn cũng như sự biến hóa của mối tương
phản đối ứng đã gợi ý tưởng mà Cổ Loa thành được xây dựng thành công, bắt đầu
cho một công cuộc trị thủy hào hùng và dài lâu của dân tộc Lạc Việt?
Quá trình trị
thủy thời dựng nước xảy ra như thế nào nhỉ? Nếu không chú ý đến tính thời đại cũng
như phương tiện và công cụ có được của từng thời đại thì về mặt hình thức, có lẽ
tất cả các công cuộc trị thủy đều tương tự nhau. Và nếu điều vừa nói là xác đáng
thì có thể hình dung công cuộc trị thủy của tổ tiên ta từ việc quan sát công cuộc
trị thủy gần đây, ở Nam Bộ - Việt Nam của ông cha ta. (thực ra là sự
“âm thầm rút tỉa” từ những trang viết của cuốn “Lịch sử Việt Nam, từ nguồn gốc đến
năm 1884”, NXB Thành phố HCM, năm 2005 và cuốn “Nam Bộ - Đất và Người” tập II,
NXB Trẻ, năm 2003).
Nước Việt Nam ở Đông - Nam lục địa Châu Á với diện tích đất
liền 329.600 km2, diện tích thềm lục địa 700.000 km2. Vào
thế kỷ thứ ba thời tân sinh, do biển lùi, toàn bộ lục địa châu Á được dâng lên
một lần nữa. Cộng thêm sự bồi đắp phù sa của các con sông lớn, hiện tượng nâng đất
tạo thành nhiều đồng bằng ven biển.
Những kết quả
khảo cổ được về dấu tích con người (xương cốt vượn người Java sống cách đây khoảng
70 - 80 vạn năm (Indonexia); xương cốt người vượn Bắc Kinh (Trung Quốc) sống cách
nay khoảng 40 - 50 vạn năm…) đã đưa đến kết luận: miền nam châu Á, trong đó có
Việt Nam, là một trong những quê hương, những nơi định cư đầu tiêu của loài người (cùng với Châu Phi và Nam
Âu).
Phần đất liền của
nước ta có một hình dáng đặc biệt: hai đầu phình ra (Bắc bộ và Nam bộ),
ở giữa thu hẹp lại. Địa thế miền Bắc tương đối phức tạp: rừng núi nhiều, kéo dài
từ biên giới Việt - Trung đến vùng Tây Bắc Thanh Hóa, nổi bật là các dải núi đá
vôi (ở Cao bằng, Bắc Sơn, Hà Bình, Ninh Bình, Quảng Bình). Sự xâm thực của thời
tiết - nhất là nước - ăn mòn đá vôi tạo nên nhiều hang động. Những thung lũng màu
mỡ rải rác khắp nơi với những vùng đất trũng bao phủ rừng rậm (ở Cao Bằng, Lạng
Sơn, Đông Triều…) rất thuận lợi cho cuộc sống của loài người thời cổ. Vùng đất đỏ
Tây Nguyên do sự xâm thực của mưa nắng tạo nên, là một vùng thuận lợi cho sự
sinh trưởng của cây cối và động vật, đặc biệt là việc trồng trọt các loại cây
nhiệt đới. Từ xưa, rừng núi Trung bộ đã nổi tiếng về nguồn hương liệu, lâm sản
quí.
Việt Nam là
một nước có nhiều sông ngòi. Hai sông lớn nhất là sông Hồng và sông Cửu Long. Sông
Hồng với tốc độ và lưu lượng rất lớn (từ 700 m3/s đến 2800 m3/s),
hàng ngày hàng giờ chuyển phù sa bồi lấp vịnh biển, góp phần tạo nên cả đồng bằng
Bắc Bộ rộng lớn. Sông Cửu Long (MêKông) khi chảy vào nước ta chia làm hai nhánh
(sông Tiền, sông Hậu) cùng với các sông Đồng Nai, Vàm Cỏ đem phù sa tạo nên đồng
bằng Nam Bộ. Lưu lượng của sông Cửu Long rất lớn (4000 m3/s), nhưng
vì lòng sông rộng, độ dốc thấp, lại đã chảy qua Biển Hồ ở Cămpuchia nên không gây
nạn lũ lụt lớn như sông Hồng ở đồng bằng Bắc Bộ.
Bên cạnh những
thuận lợi do nguồn nước dồi dào của các con sông đem lại, Việt Nam còn
được ưu đãi bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa rất thuận lợi cho việc phát triển động
thực vật cũng như cây lúa và các loại hoa màu khác. Nhờ vậy, từ ngày dựng nước,
dân tộc Việt Nam
đã là một cư dân nông nghiệp; sách xưa chép: “đất đai có ruộng gọi là ruộng Lạc,
theo nước thủy triều lên xuống mà làm, dân khẩn lấy ruộng để ăn” …
Nếu qui ước thời hình thành các thị tộc là thời tiền sử Việt Nam thì trước khi tập hợp
thành thị tộc là thời thượng cổ - thời kỳ bầy người nguyên thủy. Các nhà khảo cổ học Việt Nam và Liên bang Nga vừa phát hiện một nhóm các
di tích sơ kỳ đồ đá cũ có một tầng văn hóa ổn định, đây là cơ sở cho
thấy gần một triệu năm về trước, loài người đã có mặt ở khu vực Đông -
Nam Á, trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Những phát hiện này có ý nghĩa
bản lề trong việc nhận thức sự tồn tại của một thời đại đồ đá cũ ở Đông -
Nam Á. Trong khảo cổ học, thời kỳ này
tương ứng với thời kỳ đá cũ và trong nhân loại học thì tương ứng với thời của
những người vượn. Theo nghiên cứu năm 2019 về bộ gien của người Việt thì cho rằng loài người hiện đại đã di cư lan tỏa từ Châu Phi 200.000 năm trước, vào khoảng từ 40.000 - 60.000 năm trước đã đến cư trú tại Việt Nam, sau đó tiếp tục di cư lên các nước Đông Á.
Giai đoạn bản địa của văn hoá Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I TCN.Đây là một giai đoạn dài và có tính chất quyết định; là giai đoạn hình thành; phát triển và định vị của văn hoá Việt Nam. Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loài người. Cách đây khoảng 40- 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Thời gian vào khoảng từ 20 đến 15 nghìn năm TCN; con người (người hiện đại- Homo sapiens) đã cư trú trên một địa bàn rất rộng; họ là chủ nhân của nền văn hoá Sơn Vi từ Lào Cai ở phía Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam; từ Sơn La ở phía Tây đến vùng sông Lục Nam ở Phía Đông. Người Sơn Vi sống chủ yếu trên các gò đồi của vùng trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra; người Sơn Vi còn sống cả trong các hang động núi đá vôi.
Công cụ bằng đá
của người vượn tìm thấy trên đất Việt Nam lần đầu vào năm 1960 ở núi Đọ,
Thanh Hóa. Núi Đọ thực ra chỉ là một ngọn đồi không cao lắm, đã bị bào mòn nhiều,
sườn thoải, cách sông Chu khoảng 5000m. Hàng vạn
mảnh đá ghè mà các nhà khảo cổ học gọi là mảnh tước, cho đến nay vẫn còn nằm trên
sườn núi Đọ. Những mảnh tước thô, nặng nói lên kỹ thuật ghè đẽo vụng về, thô sơ,
được người vượn dùng để cắt, nạo. Những di vật quan trọng hơn, tìm thấy trên núi
Đọ là những hòn đá được ghè đẽo qua loa, dùng làm công cụ chặt thô sơ mà các nhà
khảo cổ học thường gọi là “Trốp-pơ” (chopper). Hiếm hơn là những chiếc rìu tay,
được ghè đẽo nhiều hơn và có hình dáng cân xứng hơn, dùng để cắt hay chặt; là công
cụ được chế tác công phu nhất của người vượn. Theo đoán định thì núi Đọ là một
“di chỉ xưởng”, vừa là nơi cư trú của con người, vừa là nơi chế tác công cụ.
Tại núi Quảng Yên
(cách núi Đọ khoảng 3km) và núi Nuông (cách núi Đọ khoảng 3,5km), các nhà khảo
cổ cũng tìm thấy công cụ đá giống như ở núi Đọ, có thể cùng niên đại.
Ở các địa điểm
Hang Gòn và Dầu Giây trong vùng Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai) cũng đã tìm thấy công
cụ đá của người vượn, tuy số lượng rất ít, gồm một số rìu tay và “Trốp-pơ” nằm
rải rác trên mặt đất.
Các nhà khảo cổ
học cũng đoán rằng bầy người nguyên thủy ở Việt Nam có thể đã phát triển đến trình
độ những “nhóm địa phương” sống bằng săn bắt hái lượm, và cũng có thể đã xuất
hiện các gia đình (mỗi bầy khoảng 20-30 người, có từ 5 đến 7 gia đình) và có tính
mẫu quyền. Như vậy, bầy người nguyên thủy ở núi Đọ đã vượt qua giai đoạn tạp hôn
và bước vào giai đoạn tiền thị tộc. Người nguyên thủy đã biết dùng lửa và đã biết chôn người chết. Việc chôn người chết cạnh nơi ở, trong nơi cư trú nói lên niềm tin của người nguyên thuỷ về một thế giới khác; mà ở đó người chết vẫn tiếp tục “sống”. Những công cụ lao động được chôn bên cạnh người chết đã chứng tỏ niềm tin ấy.
Tuy nhiên, có
thể người vượn núi Đọ, Lạng Sơn và Xuân Lộc chưa phải là những con người xưa nhất
ở Việt Nam,
còn có khả năng tìm ra dấu vết của những người cổ xưa hơn nữa trên đất nước ta.
Những kết quả
thu được chứng minh rằng cách đây khoảng 10.000 đến 4.000 năm, hầu như trên khắp
dải đất Việt Nam ngày nay đã là nơi cư trú của người nguyên thủy. Việc mở rộng
từng bước địa bàn sinh hoạt phản ánh các bước tiến về sản xuất, chế tạo công cụ
của người nguyên thủy cũng như sự biến đổi dần từ những vùng ngập nước ven biển,
những vùng ngập mặn sình lầy thành đất có thể canh tác nông nghiệp…
Ở hang Thẩm Ồm
trên miền Tây Nghệ An đã tìm thấy những chiếc răng vừa có đặc điểm của răng người
vượn vừa có đặc điểm của răng người hiện đại. Có thề cho rằng người Thẩm Ồm là
dạng người vượn đi thẳng muộn ở Việt Nam, đang chuyển hóa thành dạng tiến
bộ hơn. Ở hang Hùm thuộc tỉnh Yên Bái lại tìm được răng người có nhiều đặc điểm
hiện đại trong lớp trầm tích có niên đại từ 140.000 năm đến 80.000 năm. Một số
nhà khảo cổ học cho rằng người Hang Hùm là người hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Đặc
biệt, đã tìm thấy răng và mảnh xương trán của người hiện đại mà các nhà khảo cổ
khẳng định họ là chủ nhân của văn hóa hậu kỳ đá cũ.
Văn hóa hậu kỳ đá
cũ ở Việt Nam
có thể xác định chắc chắn cho đến nay là văn hóa Sơn Vi. Các bộ lạc chủ nhân của
văn hóa này đã cư trú trên một địa bàn rất rộng ở miền Bắc nước ta, từ Lào Cai ở
phía bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh ở phía nam, từ Sơn La ở phía tây đến vùng sông Lục
Nam
ở phía đông. Đó là các bộ lạc săn bắt hái lượm, hoặc sống ngoài trời hoặc sống
trong hang động các núi đá vôi. Ở vùng Phú Thọ và Bắc Giang, nhiều gò đồi có di
tích văn hóa Sơn Vi nằm gần nhau, có thể là nơi cư trú của các thị tộc trong một
bộ lạc, chủ nhân văn hóa Sơn Vi dùng đá cuội để chế tác công cụ, tiêu biểu là
những hòn cuội được ghè đẽo ở rìa cạnh, phần lớn những công cụ đó là dùng để chặt,
nạo, cắt. Nhìn chung công cụ của người Sơn Vi vẫn còn thô sơ nhưng đã có những
bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác đá (nhiều loại hình công cụ ổn định, rìu lưỡi
được ghè đẽo tỉ mỉ, cẩn thận).
Trong hang Con
Moong ở huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa) thuộc khu vực rừng Cúc Phương, các nhà khảo
cổ đã tìm thấy lớp chứa công cụ văn hóa Hòa Bình và văn hóa Bắc Sơn. Đó là hai
văn hóa muộn hơn văn hóa Sơn Vi. Tuy nhiên ngay trong lớp văn hóa Sơn Vi, người
ta cũng đã thấy xuất hiện những công cụ đặc trưng cho văn hóa Hòa Bình, tuy số lượng
rất ít. Từ đó có thể kết luận lớp văn hóa Sơn Vi phát hiện ở hang Con Moong thuộc
giai đoạn cuối cùng của nền văn hóa này, có niên đại được xác định cách nay vào
khoảng 11.000-12.000 năm. Có thể coi niên đại đó cũng là lúc mở đầu cho văn hóa
Hòa Bình.
Hiện nay người
ta vẫn chưa xác định được thời điểm bắt đầu của văn hóa Sơn Vi nhưng đã phát hiện
được hai địa điểm văn hóa Sơn Vi có niên đại sớm hơn, là hang Núi Một ở huyện Cẩm
Thủy (Thanh Hóa), cách nay khoảng 14.500 năm, và hang Ông Quyền ở huyện Mai Châu
(Hòa Bình), cách nay khoảng hơn 18.000 năm.
Đặc biệt, vừa mới
đây, tiến sĩ Nguyễn Việt, Giám đốc trung tâm Tiền sử Đông Nam Á, vào ngày
9-1-2009, đã có buổi thuyết trình tại Viện Gớt (Hà Nội) về kết quả khảo cổ
trong 20 năm qua tại hang Xóm Trại đi đến kết luận rằng tầng văn hóa ở đó có niên
đại cách đây 18.000 - 22.000 năm. Trong số những phát hiện khảo cổ quan trọng,
có một bộ xương người 17.000 năm tuổi và dấu vết một đường mòn của người nguyên
thủy tồn tại cách nay 21.000 năm.
Một nhóm các nhà
khoa học Hàn Quốc đã tiến hành định tuổi mẫu khảo cổ tại hang Xóm Trại bằng phương
pháp AMS hiện đại nhất cũng cho kết quả tương đồng với kết luận của tiến sĩ
Nguyễn Việt.
Trong năm 1982,
các dấu tích khảo cổ về thực vật tại khu vực hang Xóm Trại được tìm thấy rất
nhiều, đặc biệt trong đó có lúa. Trung Quốc đã phát hiện dấu tích hạt lúa cách
nay 12.000 năm và từng được cho là quê hương của lúa nước. Nếu người nguyên thủy
tại khu vực Xóm Trại thực sự đã sử dụng lúa làm
một dạng của lương thực từ 18.000 - 22.000 năm trước thì quả thật vùng
hang Xóm Trại mới là nơi xuất hiện cây lúa nước do người trồng sớm nhất trên thế
giới mà giới khảo cổ biết được.
Khu vực có hang
Xóm Trại là một thung lũng đồng bằng được bao bọc kín xung quanh bởi núi đá vôi.
Thung lũng này có địa tầng nguồn gốc Các-tơ, có chiều rộng từ 2 đến 4 km, kéo dài
theo hướng Bắc - Nam 7km. Toàn khu vực thuộc thượng nguồn sông Dôm có mạng dòng
chảy hình nan quạt với hướng chảy từ Bắc đến Nam. Thung lũng nằm ở độ cao 60 - 70
m so với mặt nước biển.
Cách đây khoảng
hơn 20.000 năm, thế giới dần qua một thời kỳ băng hà, lạnh nhất cho đến nay. Lòai
người lúc đầu trốn chạy băng giá bằng cách tụ hội về những vùng xích đạo nhưng đến
lúc đó lại bắt đầu lan tỏa ra nhờ hiện tượng “ấm” dần lên toàn cầu. Nhiệt độ trung
bình ở khu vực Xóm Trại trong thời gian này vào khoảng 18 oC, đã tạo
ra một vùng có khí hậu tối ưu cho đời sống con người cũng như cho việc phát triển
phong phú hệ thống rừng, thảm thực vật với nhiều thứ củ, hạt có giá trị lương
thực cao, ví dụ như hạt dẻ…
Gotman, chuyên
gia người Mỹ về khảo cổ học, khi đến đến hang Xóm Trại nghiên cứu, đã khẳng định:
“Ở nơi đây là quê hương trồng lúa, Hòa Bình - Việt Nam mới là cái nôi của văn hóa Hòa
Bình chứ không phải Thái Lan như nhiều nhà khoa học giả định”.
Các cư dân thuộc
văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu trong hang động, phân bố rộng rãi từ vùng núi Tây
Bắc và vùng núi đá vôi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hóa,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Có lẽ người văn hóa Hòa Bình đã biết nấu ăn trong
ống tre, bương hay trong vỏ quả bầu.
Công cụ văn hóa
Hòa Bình cũng đều bằng đá cuội, nhưng đã tiến bộ rất nhiều trong kỹ thuật chế tác.
Phần lớn công cụ đá của văn hóa Hòa Bình dùng vào việc chế tác ra những công cụ
và phương tiện bằng tre, gỗ. Chính những công cụ tre gỗ mới đóng vai trò quan
trọng trong đời sống cư dân nguyên thủy Việt Nam và Đông Nam Á, nhất là trong hoạt
động săn bắt hái lượm. Săn bắt và hái lượm vẫn còn là phương thức kiếm ăn chủ yếu
của cư dân văn hóa Hòa Bình. Tuy nhiên trồng trọt và chăn nuôi sơ khai đã bắt đầu
hình thành như một nguồn kiếm ăn bổ sung quan trọng. Theo phát hiện của khảo cổ
học thì nông nghiệp đã nảy sinh trong lòng văn hóa Hòa Bình, mà dấu vết hoa của
họ rau đậu tìm thấy trong một số hang động thuộc văn hóa Hòa Bình ở Hòa Bình, Hà
Tây và Lai Châu là những chứng cứ, có niên đại hơn 10 ngàn năm cách ngày nay.
Hoạt động nghệ
thuật của văn hóa Hòa Bình đã khá phong phú: những hình khắc mặt người và con
thú trên vách đá trong hang Đồng Nội (Hòa Bình), những viên cuội khắc hình cành
cây hay lá cây (hang Làng Bon ở Thanh Hóa), những đồ trang sức bằng vỏ ốc biển được
mài thủng lưng để xâu dây đeo (hang Bưng ở Hòa Bình)…
Văn hóa Bắc Sơn
nảy sinh từ văn hóa Hòa Bình, tuy vẫn giữ truyền thống chế tác công cụ bằng đá
cuội nhưng đã biết mài đá, đánh dấu một thành tựu lớn trong kỹ thuật chế tác công
cụ. Những chiếc rìu đá được mài lưỡi có hiệu suất lao động hơn hẳn so với các công
cụ ghè đẽo. Rìu mài lưỡi của văn hóa Bắc Sơn đã phát huy tính ưu việt của nó,
thao tác dễ dàng hơn trong việc xử lý những vật liệu tre, gỗ; còn có thể chặt cây,
phá rừng, phát triển nghề trồng trọt, đặc biệt là trong việc làm nương rẫy vùng
núi.
Một thành tựu kỹ
thuật nữa của cư dân văn hóa Bắc Sơn là đã biết đến chế tác đồ gốm bằng tay (lấy
đất sét nhào trộn với cát rồi nặn ra các vật dụng đem nung lửa). Người ta gọi đó
là văn hóa đá mới có gốm sơ kỳ. Tuy nhiên cư dân Bắc Sơn vẫn nằm trong khuôn khổ
công xã thị tộc mẫu hệ.
Người Bắc Sơn đã
có nhiều loại đồ trang sức hơn người Hòa Bình. Ngoài những vỏ ốc biển xuyên lỗ,
người Bắc Sơn còn có đồ trang sức bằng đá phiến có lỗ đeo và những hạt chuỗi bằng
đất nung hình trụ hay hình thoi, giữa có xuyên lỗ.
Một văn hóa đá
mới có gốm khác phân bố ở vùng ven biển là văn hóa Quỳnh Văn mà tiêu biểu là di
chỉ Quỳnh Văn ở huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An). Dù các công cụ được phát hiện thuộc
văn hóa này vẫn là do ghè đẽo, chưa có dấu vết mài, nhưng đã xuất hiện đồ gốm nên
người vẫn coi là đã bước vào thời đại đá mới. Kết quả nghiên cứu cho thấy cư dân
của văn hóa này sống chủ yếu bằng điệp, sò, ốc ở bờ biển và vùng nước lợ, và có
thể đã có thuyền ra biển để đánh bắt xa bờ, do tìm thấy các đốt xương sống và vẩy
của các loài cá biển khá lớn.
Tóm lại cư dân
văn hóa Bắc Sơn hay Quỳnh Văn đều đã phát triển nghề nông sơ khai từ sự kế thừa
tiền nông nghiệp trồng rau củ và có thể là cả lúa nước đã phôi thai trong văn hóa
Hòa Bình.
Đến nay vẫn chưa
biết chính xác, nông nghiệp trồng lúa nước trở thành đại trà, đóng vai trò là
phương thức tìm nguồn thức ăn chủ yếu của con người ở Việt Nam và Đông Nam Á bắt
đầu vào niên đại nào. Nhưng có thể nói rằng vào cuối thời đại đá mới, khoảng
5000 - 6000 năm trước đây phần lớn cư dân cổ trên đất nước ta đều đã ở giai đoạn
nông nghiệp trồng lúa này. Và sự phân bố dân cư cũng đã rộng khắp các miền của đất
nước trên các địa hình khác nhau, từ Bắc xuống Nam, từ vùng núi đến đồng bằng,
tận ven biển và hải đảo. Đáng chú ý là các văn hóa sau:
- Văn hóa Hạ
Long: người của văn hóa này ngoài mài đá còn biết cưa đá, khoan đá. Khoan tách
lõi là một kỹ thuật phổ biến của nhiều bộ lạc hậu kỳ đá mới ở Việt Nam.
Trong di chỉ văn hóa Hạ Long có rất nhiều đồ gốm làm bằng bàn xoay (nồi, niêu,
vò, hũ, bát, ống…). Họ đã có cuộc sống định cư lâu dài. Săn bắt và đánh cá không
còn đóng vai trò chủ yếu trong đời sống văn hóa Hạ Long nữa.
- Văn hóa Bàu
Tró: địa bàn phân bố dọc vùng ven biển và đồng bằng các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, bắt nguồn và phát triển từ văn hóa Quỳnh Văn. Trong di chỉ văn hóa
Bàu Tró tìm được rất nhiều đồ gốm làm bằng tay và bằng bàn xoay, có kích thước
lớn, chứa đựng nhiều, miệng rộng, thêm nữa, còn phát hiện được những bàn nghiền,
bàn xát rất lớn, đặc biệt là những chiếc cuốc đá có chuôi lắp vào cán, lưỡi cuốc
mỏng và thường cong về phía trước. Điều đó chứng tỏ đối với con người văn hóa Bàu
Tró, nông nghiệp đã trở thành phương thức tạo nguồn thức ăn chủ yếu…
- Di chỉ Cầu Sắt:
ở huyện Xuân Lộc (Đồng Nai) được coi là thuộc hậu kỳ đá mới. Di chỉ chứa nhiều đồ
sắt và gốm, trong đó có những chiếc dao đá hình bán nguyệt, lưỡi cong và sóng
thẳng được mài nhẵn mà có khả năng dùng để gặt lúa…
Nhìn chung vào
cuối thời đại đá mới, nông nghiệp trồng lúa đã thực sự phát triển ở mọi miền đất
nước. Nhờ thế đời sống cư dân đã ổn định, lối sống định cư lâu dài đã trở thành
nổi trội. Những di chỉ có diện tích lớn gần nhau chứng tỏ thời đó đã hình thành
sự quần tụ dân cư kiểu xóm làng đông đúc. Với sự phát triển của nông nghiệp dùng
cuốc, có thể thấy hình thái xã hội đã ở giai đoạn công xã thị tộc mẫu hệ. Đã xuất
hiện các công xưởng chế tác đá rộng lớn. Như vậy là trong công xã đã có sự chuyên
môn hóa sản xuất để thỏa mãn nhu cầu nhiều mặt; đã nổi trội sự trao đổi sản phẩm
lao động trong nội bộ công xã cũng như giữa các cộng đồng thị tộc.
Cư dân cuối thời
đại đá mới trên đất nước ta trong quá trình lao động sáng tạo, chế tác công cụ,
đã tìm được loại vật liệu mới là đồng. Những công cụ được chế tác từ đồng đã tác
động mạnh mẽ đến sức sản xuất xã hội, làm biến chuyển tích cực đến cơ cấu xã hội
nguyên thủy.
Các nhà khảo cổ
học đã định hình được văn hóa Phùng Nguyên qua các di tích rõ ràng về hoạt động
chế tác kim loại. Văn hóa Phùng Nguyên phân bố trong lưu vực sông Hồng với nhiều
di chỉ thuộc các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, Hà Tây, Hòa Bình, Hà Nội, Hải Phòng.
Công cụ và đồ trang sức của văn hóa Phùng Nguyên đều được mài nhẵn. Kỹ thuật cưa
đá và tiện đá đã đạt đến độ tinh tế. Đáng chú ý là một số loại công cụ kích thước
nhỏ, có lẽ không phải dùng để chặt mà dùng vào việc làm đồ xương, đồ gỗ, nạo khắc
đồ gốm, có tác dụng như những con dao nhỏ.
Nền nông nghiệp
trồng lúa của cư dân văn hóa Phùng Nguyên là điều không cần bàn cãi: đã tìm thấy
gạo cháy ở di chỉ Đồng Đậu (Vĩnh Phú), tìm thấy phấn hoa của một loài lúa nước ở
di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng).
Điều đáng lưu ý
là ngay từ giai đoạn sớm nhất, trong văn hóa Phùng Nguyên đã xuất hiện đồng và
thuật luyện kim. Tuy vậy, đồ đồng chưa lấn át được đồ đá với vai trò là công cụ
sản xuất. Theo kết quả phân tích các bon phóng xạ (C14), người ta đoán
định văn hóa Phùng Nguyên xuất hiện cách nay khoảng trên dưới 4000 năm.
Văn hóa Phùng
Nguyên đóng vai trò quyết định trong quá trình hình thành nền văn minh sông Hồng.
Đó là lực lượng tiên tiến đương thời, tạo nên những cơ sở vật chất và tinh thần
đầu tiên cho thời kỳ Hùng Vương. Quá trình phát triển từ văn hóa Phùng Nguyên đến
văn hóa Đông Sơn qua các giai đoạn Đồng Đậu, Gồ Mun ở lưu vực sông Hồng là liên
tục. Điều này chứng tỏ văn hóa Phùng Nguyên không những là cội nguồn của văn hóa
sông Hồng mà cư dân Phùng Nguyên cũng chính là cái lõi đầu tiên của dân tộc Việt.
Thời kỳ này có thể công xã thị tộc mẫu quyền đã chuyển sang công xã phụ quyền và
tiến lên thành Liên minh các bộ lạc.
Về phía Nam,
trong lưu vực sông Đồng Nai, bước phát triển văn hóa tiếp nối sau giai đoạn Cầu
Sắt là giai đoạn tương ứng với các di chỉ Bến Đò, Phước Tân, Hội Sơn, Ngãi Thắng…
Các di chỉ này đánh dấu giai đoạn mở đầu của thời đại đồng thau, báo hiệu một bước
phát triển rực rỡ của nghề luyện đồng ở trung tâm văn hóa miền Đông Nam Bộ.
Tây Nguyên và
miền Đông Nam Bộ là hai vùng địa lý thuộc lãnh thổ Việt Nam. Chúng ta sẽ “lược sử” lại một
chút.
Tây Nguyên ngày
nay gồm bốn tỉnh KonTum, Gia Lai, Đắc Lắc và Lâm Đồng với tổng diện tích là
56119 km2. Đặc trưng cơ bản của Tây Nguyên là những cao nguyên xếp tầng,
nằm sau lưng vòng cánh cung gờ núi Trường Sơn Nam. Các cao nguyên này có độ cao khác
nhau, từ 400 đến 1500m.
Đông Nam Bộ ở
phía nam Tây Nguyên, tiếp giáp với hai tỉnh Đắc Lắc và Lâm Đồng. Đông Nam Bộ gồm
các tỉnh Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu và thành
phố Hồ Chí Minh; có diện tích khoảng 23.476 km2. Về địa hình, Đông
Nam Bộ hầu như đối lập với Tây Nguyên, song vẫn là sự kéo dài nối tiếp của cao
nguyên xuống phần phía nam. Nơi đây, kế tiếp Nam Tây Nguyên là các núi thấp và
bình sơn nguyên đất đỏ badan trải rộng ở tỉnh Bình Phước, một phần ở Xuân Lộc (Đồng
Nai) với độ cao trung bình là 200m, rồi chuyển dần sang các phù sa cổ, đất xám ở
phía đông sông Sài Gòn và phía đông sông Đồng Nai (cao vài chục mét), để rồi hạ
thấp dần xuống đồng bằng thung lũng vùng Tây Ninh và đồng bằng châu thổ Cần Giờ
và Vũng Tàu (cao vài mét).
Có một nhịp cầu
văn hóa cổ xưa nhất nối liền Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
Đã có những dẫn
liệu để xác định rằng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là nơi có vết tích hoạt động của
cư dân hậu kỳ đá cũ, cách đây vài vạn năm.
Có thể muộn hơn
một chút, trong bình tuyến sơ kỳ đá mới, trên cả hai vùng này cùng tồn tại công
cụ ghè đẽo hai mặt hình bầu dục kiểu kỹ thuật Hòa Bình.
Mới đây ở Tân Lộc
(Đắc Lắc) đã phát hiện di cốt động vật hóa thạch có vết chặt của con người ở độ
sâu 9m dưới lớp đất đỏ badan, có niên đại cách nay chừng 50 - 60 vạn năm, ứng với
hoạt động núi lửa cuối cùng ở vùng này (tương ứng với niên đại các hóa thạch
Homoerectus, ở hang Thẩm Khuyến - Lạng Sơn). Người ta cho rằng dưới lớp đất đỏ
badan rất dày ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ còn ẩn chứa những di sản văn hóa cổ xưa
nhất của nhân loại(!)...
Bước vào giai đoạn
hậu kỳ đá mới và sơ kỳ thời đồng thau, sự phát triển văn hóa không đều diễn ra
khá rõ không chỉ giữa Tây Nguyên và Đông Nam Bộ mà còn ngay cả trong mỗi vùng đó.
Ở Tây Nguyên đã nảy nở các nhóm dân cư cổ khác nhau, cư trú trên các địa hình
khác nhau, có đặc trưng văn hóa riêng và có mối giao lưu cởi mở. Trong khi đó,
cùng bình tuyến này, ở Đông Nam Bộ tồn tại một loạt di tích cổ, song tính thống
nhất hội tụ văn hóa hầu như không rõ ràng, chưa đủ cơ sở để xác lập các văn hóa
khảo cổ thành nhóm văn hóa với sắc thái riêng (chí ít là chưa có sự nhất quán
trong các nhà khảo cổ học). Có thể cho rằng con đường và khuynh hướng phát triển
tiền - sơ sử Đông Nam Bộ không
chỉ khác với Tây Nguyên mà còn khác với các vùng đất khác như Trung Bộ và Bắc Bộ
Việt Nam.
Thế nhưng sự thống
nhất văn hóa cho toàn khu vực Đông Nam Bộ mà đỉnh cao là văn hóa Óc Eo vẫn diễn
ra tuy rất muộn vài thế kỷ sau công nguyên. Trong khi ở Bắc Bộ, từ các ngả đường
của Tiền Đông Sơn tới văn hóa Đông Sơn diễn ra khá sớm vào thế kỷ IV-V TCN, hay
ở Trung Bộ, sự hình thành văn hóa Sa Huỳnh trên cơ tầng các văn hóa Tiền Sa Huỳnh
cũng chỉ muộn hơn Đông Sơn một chút.
Người ta đã nhận
ra những ảnh hưởng qua lại giữa văn hóa Đông Sơn với Đông Nam Bộ cũng như giữa Đông
Sơn và Tây Nguyên nhưng là Đông Sơn muộn…
Nam Bộ ngày nay
gồm hai vùng đất có nét riêng rõ rệt. Đông Nam Bộ, như đã nói, là vùng đồi thấp
với những thềm phù sa cổ được nhìn nhận như diềm phía Nam của đai khối cao Tây Nguyên. Còn
Tây Nam Bộ (tức đồng bằng sông Cửu Long), là vùng đất tiếp nối địa hình bán sơn
địa ấy với một đồng bằng châu thổ phẳng và thấp, cao chừng chỉ từ 0,5 mét đến 1
mét, độ dốc rất nhỏ (1m/km). Đây là sản phẩm bồi tụ của sông MêKông (đoạn chảy
trong lãnh thổ nước ta chia làm chín dòng chính, gọi là sông Cửu Long). Đây là
con sông dài nhất, nhiều nước và nhiều phù sa nhất Đông Nam Á trên một khuôn vịnh
nông kéo dài từ bồn địa Tông-lê-sáp (Cămpuchia) tới đồng bằng sông Tiền và sông
Hậu. Việc bồi tụ này vẫn đang tiếp diễn để nới rộng, kéo dài những dải rừng sác
mỗi năm mỗi lan ra ở Mũi Cà Mau, phần đất tận cùng của nước ta. Đất thấp và xốp
của địa hình bằng phẳng cộng với thủy triều cao, sông nhiều nước nên đất thường
bị xẻ vun bởi những chi lưu sông ngòi dày đặc. Có những nơi tuy là đất liền nhưng
lại có thể hiểu là cù lao vì sông nước bao vây khắp phía, người ta ví như “bán đảo
của bán đảo”.
Thật vậy, đồng
bằng Cửu Long có ba phía đông, tây, nam đều giáp biển với chiều dài là 600 km.
Cũng vì thế mà kiểu khí hậu bán đảo - nhiệt đới gió mùa thể hiện rất rõ ở vùng đất
này. Hàng năm, lượng mưa ở đây biến động từ 1500 mm đến 2500 mm cho tương đương
khoảng 150 tỷ m3. Lượng mưa cao nhất ở thời điểm tháng 8, tháng 9, có
khi đạt đến 3145 mm. Tổng lượng nước chảy các sông trong năm khoảng 400 tỷ m3.
Vào
mùa nước nổi,
đồng bằng Cửu Long hầu hết bị ngập. Nước phù sa tràn về nhấn chìm
600.000 ha đất canh tác, kéo dài từ các bờ sông Tiền, sông Hậu đến tận
bờ biển Rạch Giá - Kiên
Giang. Mùa lũ, đồng bằng Cửu Long thường ngập 1,3 đến 1,4 triệu hecta,
có nơi
ngập đến 10m, kéo dài 3-4 tháng, thậm chí là 5-6 tháng.
Trong khi đó, đến
mùa khô, nhiều nơi ở đồng bằng Cửu Long lại thiếu nước ngọt trầm trọng, nhất là
ở mạn biển với hiện tượng xâm mặn. Có những cánh đồng không nước, nứt nẻ; có những
vùng cây cối phải chịu cảnh khô héo…
Có thể nói đồng
bằng sông Cửu Long với điều kiện tự nhiên như vậy vừa là ưu đãi vừa là thử thách
đối với đời sống cư dân ở đó, nhất là khi sự lan tỏa dân cư cũng như sự phát
triển dân số tại chỗ làm tổng số dân tăng lên đáng kể và ngày càng đông đúc.
Đồng bằng Bắc Bộ
thời Lạc Long Quân - Hùng Vương phải chăng cũng có điều kiện tự nhiên như thế:
sông ngòi chằng chịt, lúc nắng cháy da, lúc mưa thối đất, khi thì lũ lụt nước nổi
mênh mang, khi thì hạn hán khô cằn đến nứt nẻ chân chim và thậm chí còn khắc
nghiệt hơn thế nữa? Và con người, trong quá trình phát triển dân cư đã buộc phải
quần tụ sinh sống ở đó. Để quần tụ định cư lâu dài được ở vùng sông nước như thế
con người phải chuyển đổi lối sống để thích nghi, phải tích cực sáng tạo để đáp
ứng cho sự phát triển trong điều kiện sống chung với hạn, lũ, bão và như lẽ của
tự nhiên, đến một giai đoạn nhất định, con người sẽ phải đi đến một quyết định
tích cực nhất, chủ động nhất có tính triệt để nhất, toàn diện nhất, đó là trị
thủy, cải tạo thiên nhiên phục vụ đời sống con người…
Từ những tư liệu
nói về thời kỳ biển tiến biển thoái; về quá trình và tiến độ bồi tụ của sông MêKông,
chúng ta đoán rằng thời tiền sử, tương đương với cuộc lan tỏa dân cư giai đoạn
Kinh Dương Vương, miền Tây Nam Bộ hầu hết vẫn còn chìm trong nước biển, với vài
vùng là sình lầy ngập mặn.
Căn cứ vào các
di chỉ khảo cổ đã phát hiện được thì trên đồng bằng sông Cửu Long từ xa xưa (ít
nhất là khoảng thời gian trước - sau công nguyên), đã có sự hiện diện dân cư
thuộc các cộng đồng cổ xưa như Phù Nam và sau là Thủy Chân Lạp. Vì nhiều
lý do mà trước hết có thể là vì hoàn cảnh khí hậu thuở đó còn khắc nghiệt, mà cư
dân trên địa bàn Tây Nam Bộ còn rất thưa thớt, thậm chí có thể coi Tây Nam Bộ là
vùng đất hoang hóa và tình trạng này kéo dài hàng trăm năm. Khi người Việt, người
Hoa… đặt chân đến khai phá cùng đất này, họ thấy có sự hiện diện của người Khơme,
những hậu duệ của vương quốc Chân Lạp xưa kia, nhưng đó chỉ là những cụm dân cư
phân tán, sống rải rác chủ yếu trên những giồng đất ven sông.
Địa hình lãnh
thổ Việt Nam
được mô tả gọn lại là: “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền” (ba phần là núi, bốn
phần là nước, chỉ còn một phần là đất ruộng). Phân chia tỷ lệ như thế chắc là
không đúng. Đó chỉ là cách nói ví von (và rất hay) để làm nổi bật đặc điểm hàng
đầu của địa lý Việt Nam là vùng sông nước; là đất nước của hai ngàn dòng chảy kể
từ 10 km trở lên, của hàng trăm cửa sông đổ ra biển sau khi cắt xẻ địa hình thành
từng thùy, từng giải hẹp của mấy châu thổ chi chít sông cả, sông con và kênh rạch,
mà điển hình nhất là châu thổ đồng bằng sông Cửu Long với “chín con sông” phun
nước ra biển Đông ào ạt ngày đêm.
Con người cổ đại,
khi săn bắt hái lượm còn là phương thức kiếm ăn chính thì địa bàn cư trú của họ
chủ yếu là rừng rú và những vùng “bám” vào rừng rú. Trồng trọt chăn nuôi xuất
hiện làm cho địa bàn cư trú có khả năng mở rộng xuống những vùng khác mà chủ yếu
là lưu vực thượng lưu và trung lưu của các dòng sông. Quá trình ấy sẽ dần đưa
trồng trọt, chăn nuôi lên thành phương thức kiếm ăn chủ yếu của loài người thượng
cổ và việc lan tỏa dân cư xuống các châu thổ, những đồng bằng, những vùng đất
“trũng nước” là một quá trình tất yếu và sản xuất nông nghiệp ra đời cũng là hiển
nhiên. Quá trình phân bố dân cư thời cổ trên lãnh thổ Việt Nam cũng không nằm ngoài qui luật ấy.
Dân tộc Việt, khởi đầu quần cư vùng cao và trung du (khảo cổ cho thấy thời kỳ
Kinh Dương Vương, trồng trọt và chăn nuôi đã đạt một trình độ nhất định), sau đó
lan tỏa xuống đồng bằng - châu thổ; ở những vùng đắc địa, nơi dồn tụ những dòng
nước phù sa màu mỡ. Sau khi đã hoàn thành cuộc “chinh phục” đồng bằng Bắc Bộ,
người Lạc Việt tiếp tục cuộc lan tỏa dân cư xuống phương Nam, đến các vùng duyên
hải miền Trung và cuối cùng là Nam Bộ.
Có thể mường tượng
tương đối về cuộc lan tỏa dân cư xuống đồng bằng Bắc Bộ từ việc quan sát quá trình
lan tỏa dân cư đã được sử sách ghi lại của người Việt xuống vùng đồng bằng Tây
Nam Bộ, nơi như đã nói là vùng sông nước, “Sông rạch dọc ngang la liệt, đi trên
sông ấy không phải người thổ dân thuộc đường thì ắt bị cùng đường, lộn rạch”
(Trịnh Hoài Đức, “Gia định thành thông chí”), và:
“Không đi thì nhớ
thì thương
Đi thì lại mắc cái
mương cái cầu”
(Ca
dao Việt Nam)
***
Theo nhà văn Sơn
Nam (“Văn minh miệt vườn hay đồng bằng sông Cửu Long, NXB An Tiên, năm 1970) thì
từ thế kỷ XVII, các lưu dân người Việt đã lần lượt đến định cư và tiến hành
khai khẩn ở bờ sông Vàm Cỏ Tây, bờ bắc sông Tiền và các cù lao nơi cửa sông Tiền.
Ở ven Đồng Tháp Mười, ven khu tứ giác Long Xuyên, rải rác cũng có nhiều giồng đất
phì nhiêu, ít bị ngập lụt, cũng đã được lưu dân đặt chân tới và trụ lại, khai
khẩn một vài vuông “đất phước”, nổi tiếng nhất là vùng Tân Châu và Cao Lãnh. Những
dải đất phù sa màu mỡ ven sông là vùng cư trú đông đúc của lưu dân Việt, thường
được gọi là “miệt vườn”. “Trước kia, cư trú ở miệt vườn là loại hình cư trú hãy
còn hoang vu, nghèo nàn. Mãi đến năm 1910 mới bắt đầu có người Việt đến sinh sống
đông đảo” (sđd). Làng mạc Nam Bộ không như làng mạc Bắc Bộ là có lũy tre bao bọc
(có lẽ do địa hình bằng phẳng, nước lũ không gây sói mòn đất mạnh mẽ như Bắc Bộ
thời chưa có đê che chắn?).
Theo Lê Quí Đôn
trong “Phủ biên tạp lục” thì: “Những người Việt đầu tiên đến định cư tại đồng bằng
sông Cửu Long đều ở trên vùng cao (Đông Nam Bộ), sau đó tiến dần xuống những vùng
đất thấp lúc đó đang còn nằm trong trạng thái đầm lầy, trừ những dải ven sông”.
Dưới đây là trích
lược từ cuốn “Sài Gòn năm xưa”, NXB Tp.HCM, năm 1995, của học giả Vương Hồng Sển:
“Căn cứ theo tài
liệu sách sử để lại, đại cương cuộc Nam
tiến không ngừng của dân tộc Việt Nam gồm có những năm này, quan trọng
nhứt:
- 939, tổ tiên Việt
còn ở vùng Thanh Hóa, và nhờ có ông Ngô Quyền, cởi được ách Bắc thuộc, mở đầu
cho Đinh, Lê, Lý, Trần về sau được tự chủ ở cõi Nam.
- 1069, xuống đến
Quảng Bình, Quảng Trị.
- 1037, Nhà Trần
gả Huyền Trân công chúa cho vua Chàm, mở rộng cõi bờ thêm hai châu Ô, Lý (Thừa
Thiên).
- 1425, đến Thuận
Hóa.
- 1471, đến Qui
Nhơn.
- 1611, đến Phú
Yên.
- 1653, đến Nha
Trang.
- 1658, Cao Miên
xin thuần phục chúa Nguyễn, nhìn nhận quyền của triều đình Huế.
- 1680, Nguyễn
chúa cho bọn tàn binh nhà Minh khai khẩn hoang địa vùng Đồng Nai.
- 1693, đến
Phan Thiết.
- 1698, đến Biên
Hòa và Gia Định (Sài Gòn).
- 1708, Mạc Cửu
dâng Hà Tiên cho chúa Nguyễn, Mạc được phong làm tổng binh đời đời vĩnh trấn Hà
Tiên.
- 1755, Cao Miên
quốc vương nhượng đất Tần Bôn và Lôi Lạp cho Võ Vương. Trong Nam, ông Nguyễn Cư
Trinh với những kế hoạch khẩn hoang, dinh điền ở miền Nam. Vào cuối thế kỷ
XVIII, tại Gia Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Lê Quang Định, ba người cùng
lập thị xã nâng cao đuốc văn hiến một thời.
- 1780, Mạc Thiên
Tứ (con Mạc Cửu) mất, không con nối hậu. Từ đây, đất Hà Tiên sát nhập cơ đồ
Nguyễn chúa: cuộc Nam tiến của
dân tộc Việt Nam,
đến đây đã hoàn thành.
(…)
Về tổ chức đồn điền,
xét ra đã có từ đời Hồng Đức (Lê Thánh Tôn). Từ ngày vua Lê Lợi đuổi được quân
Tàu, thế nước rất mạnh, hiềm vì đất đai chật hẹp không đủ cho dân cày cấy nên Lê
Thánh Tôn thi hành chính sách bành trướng vào Nam, lập kế đồn điền. Tổ chức này
có hai phương lợi: một là trấn an biên thùy, hai là mở rộng bờ cõi một cách hòa
bình. Nhơn thế, một chức quan được đặt ra, gọi quan Thu ngự Kinh lược sứ với
nhiệm vụ chiêu tập những lưu dân (gồm những dân tình nguyện, những người phải tội
lưu trú ngoài biên cương, hoặc những người bỏ làng để trốn lính và tránh sưu
thuế…). Những người ấy được đưa đi khai khẩn đất hoang; và được quan K_inh lược
giúp đỡ và ủng hộ. Họ lấn sang đất Chiêm Thành rồi sau này đất Thủy Chân Lạp và
vẫn yên tâm mở rộng khu vực vì sẵn bên có quân đội bảo vệ an ninh.
Sau một hai đời
thì những hạt mới được sung nhập lãnh thổ Việt. Lần lần, những lưu dân miền Bắc,
miền Trung dùng phương pháp “tàm thực” ấy mà mở rộng đất đai bờ cõi Việt từ sông
Cả đến tận mũi Cà Mau. Sự bành trướng này đến ngày chạm súng với Lang sa (thực
dân Pháp) mới ngưng.
(…). Có một khoảng
trên dưới một trăm năm, cần phải nhấn mạnh nhứt là khoảng từ năm 1658 đến năm
1759, tức đoạn tổ tiên ta chung đụng với người Căm Bốt (Campuchia) trên cõi Nam nầy.
(…)
Lúc ấy đã có người
Căm Bốt ở trên đất Nam
nầy rồi. Nói chính đáng mà nghe, từ Huế, chúa Hiền Vương đã từng cắt quân đi
chinh phục miền Nam.
Quân ta cả thắng Chàm và sau những chiến công rực rỡ, dân Việt đã có dịp chen
vai thích cánh sát với người Khơme, nơi những vùng biên giới cũ Chàm, kể từ năm
1658.
Một điều nên nhớ
kỹ, là vào thời buổi ấy, dân thưa đất rộng, dân làm ăn không hết, việc đi khai
khẩn đất hoang là thường sự và không hề sanh ra việc gì rắc rối. Tục thường ví
“chím trời cá nước”, ai bắt được nấy nhờ.
Một điều khác cần
nói rõ thêm là đất miền Nam của bán đảo Ấn Độ - Chi Na (Đông Dương) cũng không
phải thiệt thọ “phần đất phụ ấm” của Phù Nam đã bị tiêu diệt từ thế kỷ thứ VII,
lại mấy có sự đòi hỏi tranh tụng gì? Tha hồ lúc ấy ai khai phá được khoảng nào
thì nấy làm chủ ăn hoa lợi. Và như đã nói “đất ở không hết”, tội gì tranh giành
cho nhọc lòng lo, cho mệt xác.
(…)
(…)
Thời cổ đại,
theo sử Trung Quốc ghi lại thì có giống người Phù Nam
chiếm cứ sơ khởi cùng gọi Phù Nam.
Đất Phù Nam sau đổi lại là
Thủy Chân Lạp để phân biệt với đất Lục Chân Lạp. (Về danh từ “Phù Nam”,
có đến hai thuyết khác nhau. Trong sử Tàu, gọi đó là đất Phù Nam, tức xứ Nam nổi phù. Đời thượng cổ, vùng đất
này có lẽ quanh năm ngập lụt, không ai thấy được; đất chỉ lồi lên khỏi mặt nước
cho ngó thấy vào mùa hạn, khi nước rút đi hết và trời dứt mưa. Nhà lão thành thông
thái Pháp, ông G.Coedès lại cắt nghĩa: “Phù Nam” do tiếng Khơme “Phnom” đọc ra
như vầy. Theo cố học giả Pháp Pierre Dupont, thì xứ Phù Nam gồm đất Nam Kỳ cũ
(Thủy Chân Lạp), đất Cao Miên (Lục Chân Lạp) và một phần xứ Xiêm La, và Phù Nam
là một nước có từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ V sau Gia-tô)”.
Như vậy, chúng
ta thấy rằng, xét về mặt lãnh thổ thì đến năm 1780, cuộc Nam tiến vĩ đại của dân
tộc Việt coi như kết thúc, hình thù lãnh thổ và diện tích đất đai đã được xác định
như ngày nay thấy. Tuy nhiên, sự lan tỏa dân cư từ Bắc xuống Nam đến đó vẫn chưa
chấm dứt mà lúc nổi rộ, lúc âm ỉ, dưới hình thức này hay hình thức khác, quá trình
thiên di vẫn tiếp tục đến tận ngày nay. Chẳng hạn hàng loạt người đi phu đồn điền
thời Pháp thuộc, từng đợt dân cư nông thôn miền Bắc di chuyển vào Nam sinh cơ lập
nghiệp trong phong trào đi “Kinh tế mới” ở những khoảng thời gian sau Giải Phóng
(1975)…
Ngay từ buổi đặt
chân đến khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhờ đã có kinh nghiệm sống ở đồng bằng
Bắc Bộ, dân Việt đã mau chóng thích nghi với đời sống sông nước vùng này và cũng
đã bắt tay vào công cuộc trị thủy từ sớm.
Một trong những
biểu hiện thích nghi dễ thấy là việc sử dụng ghe xuồng làm phương tiện vận chuyển
đi lại chủ yếu. Chính sự phong phú về sông ngòi mà người dân ở đây có thể ngồi
trên ghe, thuyền đi khắp đồng bằng sông Cửu Long, qua các thành phố, thị trấn,
làng mạc, miệt vườn, thậm chí là qua cả Cămpuchia mà không cần đặt chân lên bờ.
Giao thông đường thủy trở thành nổi trội, có tầm quan trọng đặc biệt, có lúc, có
nơi trở thành phương thức lưu thông chính của miền Tây và cả Nam Bộ. Xưa kia, các
cư dân Đàng Ngoài cũng phần nhiều sử dụng đường thủy, mang cả ghe bầu vào đồng
bằng sông Cửu Long để sinh sống. Họ lập thành làng xóm ở rìa những cù lao để tiện
cho việc đi lại bằng đường thủy và cũng để thuận tiện cho việc dừng chân, trao đổi,
mua bán sản phẩm. Thông thường, hàng quán xuất hiện ở nơi đổi con nước, ghe xuồng
ghé lại nghỉ ngơi ăn uống để đợi con nước sau. Điều kiện đó đã làm xuất hiện
nhiều gia đình, đời này qua đời khác lập nghiệp trên ghe, xuồng, làm giàu cũng
nhờ ghe, xuồng và khi hợp lại thì thành những chợ nổi trên sông, những cụm dân
cư trên bè, mảng hết sức độc đáo…
Tuy nhiên, có
thể do tăng dân số (tăng tự nhiên, tăng do tiếp tục thiên di đến) và có thể là
do cả chế độ tư hữu điền địa phong kiến mà sự phân bố dân cư buộc phải mở rộng
ra khắp vùng châu thổ, đến cả những nơi khắc nghiệt hơn, ít hoặc không có sông,
đất đai thì nhiễm phèn ngập mặn. Do đó mà công tác trị thủy được đề ra, phải đào
kênh mương để dẫn thủy nhập điền và đồng thời để lưu thông. Quá trình này làm
xuất hiện hình thức cư trú ven kênh (nhất là kênh cái), trên gò nổi như ốc đảo,
giữa mênh mông nước, gọi là “ấp”.
Từ đời này qua đời
khác, công việc trị thủy đã làm hình thành nên một mạng lưới kênh đào rộng khắp
và chằng chịt không kém sông rạch tự nhiên. Những kênh đào qui mô do Nhà nước
trung ương tổ chức thực hiện, hình thành từ cuối thế kỷ XVIII để phục vụ đời sống:
tưới tiêu, giao thông và cả phòng vệ. Kênh đào tới đâu, làng mạc thôn xóm tiến
theo tới đó. Nhờ có mạng lưới kênh đào mà nước ngọt từ sông Hậu về tới những vùng
xa xôi tận Mũi Cà Mau. Nếu coi hệ thống đê điều ở đồng bằng Bắc Bộ với biểu tượng
Cổ Loa thành là một thành tựu đáng tự hào của dân tộc Lạc Việt thì mạng lưới kênh
đào ở đồng bằng Nam Bộ là một sáng tạo tuyệt vời của dân tộc ấy trong công cuộc
trị thủy một miền sông nước có đặc điểm tương đối khác. Và đó cũng bộc lộ tính
năng động sáng tạo trên cơ sở kế thừa của dân cư Nam Bộ trong việc chinh phục
thiên nhiên.
Nhìn chung, sông
ngòi kênh rạch ở đồng bằng sông Cửu Long nhiều không kể siết, tạo thành mạng lưới
tưới tiêu và giao thông thuận tiện, nối liền với các vùng trong và ngoài đồng bằng
mà theo Trần Hoàng Kiêm thì gồm “2500 km sông rạch tự nhiên và 2500 km kênh rạch
đào đắp; phần lớn kênh rạch được đào từ thế kỷ XIX; riêng ba năm đầu thế kỷ XX,
nhân dân đã đào trên 15 triệu km3 đất kênh rạch”.
Để đối phó với
nạn lũ lụt ngập sâu kéo dài, trong những năm cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ
XXI đã hình thành nên những kênh rạch mới, chẳng hạn như các tuyến kênh T4, T5
- Tuần Thống Nhất, T6. Đất đào mới cũng như đất nạo vét được đắp thành đường dọc
theo kênh như con đê; đắp những nền cao tạo nên, những làng xóm mới “sống chung
với lũ”; những cụm dân cư “mùa nước nổi” mênh mông như biển cả suốt 5 - 6 tháng…
Đây là một kết quả của công cuộc trị thủy qui mô, mang lại hiệu quả to lớn cho
sản xuất nông nghiệp và đời sống của cư dân đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và
của cả đất nước nói chung.
Nói đến công cuộc
trị thủy ấy thì trước hết phải nói đến một cái tên lừng lẫy của thời “đổi mới”,
đó là Võ Văn Kiệt (1922 - 2008). Nhưng vì đâu mà xuất hiện thuật ngữ “đổi mới”
và trước thời kỳ đổi mới ấy là thời gì?
Ngày 31-8-1858,
thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Đà Nẵng, mở màn cuộc chiến tranh xâm lược nước
ta. Quan quân nhà Nguyễn, được nhân dân ủng hộ, đã tổ chức chống trả kịch liệt,
nhưng trước ưu thế vược trội về vũ khí và phương tiện quân sự, họ cũng có phần
nao núng. Dù vậy truyền thống quật khởi của dân tộc đã tạo ra một không khí kháng
chiến ngày càng hừng hực ở khắp nơi. Ở đâu có giặc Pháp thì ở đó xuất hiện những
đạo quân “ứng nghĩa” hoạt động sôi nổi, đêm ngày phục kích, quấy nhiễu, tiêu
hao địch. Rất tiếc là triều đình Huế, một triều đình mà ngay từ ông vua đầu tiên
đã mang tiếng là “cõng rắn cắn gà nhà”, không thấy được sức mạnh to lớn của
truyền thống “toàn dân vi binh”, đã trở nên ngày một bạc nhược. Sự sợ hãi đã làm
cho nó phòng thủ “cứng đờ”, chống đỡ thụ động, phạm hết sai lầm này đến sai lầm
khác dẫn đến đầu hàng từng bước và chính thức quì gối đầu hàng hoàn toàn vào ngày
6-6-1884 bằng việc ký hiệp ước Pa-tơ-nốt (Patenôtre).
Chính sự bạc nhược
đến tê liệt của triều đình Huế đã không những làm cho cao trào kháng chiến của
nhân dân không có được một sự lãnh đạo tập trung để phối hợp hành động mà còn làm
giảm đáng kể nhuệ khí cũng như gây cản trở rất lớn đến sự phát triển lực lượng
của cuộc kháng chiến ấy bằng việc cắt đất dâng cho giặc Pháp và ra lệnh “bãi
binh” hết sức phi lý. Ngay đương thời đó đã xuất hiện câu phán xét cay đắng và
ai oán: “Phan, Lâm mãi quốc, triều đình khí dân” (Phan, Lâm bán nước, triều đình
bỏ dân). Thực ra chính triều đình Huế mới là kẻ chủ mưu và cũng là tội đồ “mãi
quốc, khí dân”. Phan, Lâm (Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp) chỉ là những người thừa
sai, mắc vào cái vạ ấy. Phụng sự một triều đình như vậy mà những nhân cách lớn
với quan niệm trung quân ái quốc theo Nho Giáo như Phan Thanh Giản, không trở
thành bi kịch mới là chuyện lạ! Nhiều người đời nay cố biện minh cho Phan Thanh
Giản nhưng theo chúng ta thì không cần thiết vì chính ông đã làm điều đó, đã tự
thấy và tự chịu trách nhiệm bằng sự quyên sinh của mình.
Nói không ngoa,
“mãi quốc khí dân” không phải là hành động nhất thời mà thường thấy trong suốt
triều đại nhà Nguyễn, từ Gia Long đến Bảo Đại. Bản hiệp ước “Tương trợ tấn công
và phòng thủ” ký tại Véc-xây (Versailles) ngày 28-11-1787 giữa chính phủ Pháp và
Bá Đa Lộc (đại diện cho Nguyễn Ánh - Vua Gia Long sau này) có nội dung: vua Pháp
sẽ giúp Nguyễn Ánh đánh lại phong trào Tây Sơn, khôi phục đất đai, sẽ gửi sang
thường xuyên 4 tàu chiến, 1200 quân, 200 pháo binh, 250 lính Châu Phi cùng các
loại quân khí, quân trang và trọng pháo; đáp lại, Nguyễn Ánh sẽ nhường cho Pháp
chủ quyền và sở hữu tuyệt đối cảng Hội An ngay sau khi quân đội Pháp chiếm lại được
cảng này; người Pháp sẽ được quyền sở hữu về quần đảo Côn Lôn… Rõ ràng, đây là
bản hiệp ước giữa hai kẻ rắp tâm bán nước và âm mưu cướp nước, không thể nghĩ
khác đi được.
Còn về cái sự
“khí dân” của triều Nguyễn thì ôi thôi, được thể hiện dày đặc trong các tài liệu
sử. Sau đây là những trích đoạn từ “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm
1884”, tác giả Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, NXB thành phố HCM, năm 2005:
“Ngay dưới triều
Gia Long, khi các quan phủ, huyện bị nhân dân thưa kiện, nhà vua nói: “Phủ huyện
có trách nhiệm trị dân, nếu mới bị dân kiện, chưa biết sự tình nặng nhẹ ra sao
mà đã đưa ra giam chấp nhục nhã thì làm sao mà tiêu biểu, xướng xuất được nhân
dân”, hoặc: “Quan là cha mẹ dân, làm nhục phủ huyện thì làm gì còn uy tín nhà
quan”.
(…)
(…) Ngay từ năm
1804, giáo sĩ Ây-ô (Eyot) viết trong một bức thư: “Thuế khóa cực kỳ nặng nề”.
(…) Một giáo sĩ khác là Ghê-ra (Guerard) cho biết thêm: “Gia Long bóp nặn dân
chúng bằng đủ mọi cách, mọi sự bất công và lộng hành làm người ta rên xiết hơn
cả thời Tây Sơn, thuế khóa và lao dịch thì tăng lên gấp ba”.
(…)
(…)
Ngay khi Gia
Long mới lên ngôi, hàng chục vạn nông dân, thợ thủ công và binh lính bị lôi cuốn
vào việc xây dựng lâu đài, cung điện, thành lũy, lăng tẩm(…)
(…)
Một người Pháp
là Bô-ren (Borel) đến nước ta năm 1818 viết: “Nhà vua sử dụng tất cả nhân lực vào
việc xây thành lũy…”. (…) Tác giả Giôn Oai-tơ nhận xét thêm: “Riêng việc xây bờ
thành đã tốn kém những khoản tiền khổng lồ và làm thiệt hàng ngàn nhân mạng vì
phải khổ dịch liên tục”.
Trong cùng một
năm 1819, ngoài 9000 dân phu đang đào con sông Bảo Định dài 14 dặm, Gia Long
huy động hơn 10.000 dân phu người Việt và Khơ-me (Khmer) đào đắp con sông từ Châu
Đốc thông với Hà Tiên, gọi là sông Vĩnh Tế. Theo sự mô tả của Giôn Oai-tơ, sông
Vĩnh Tế dài 23 dặm Anh, sâu khoảng 3m80, rộng 26m, đào xuyên qua rừng rậm, chân
núi đá và đầm lầy: “26.000 dân phu thay phiên nhau làm việc suốt ngày đêm trên
công trường kỳ lạ này; 7000 đã chết vì nặng nhọc và bệnh tật”.
(…)
Cho mãi đến giữa
thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp đã thực sự nổ súng xâm lược nước ta, triều Nguyễn
vẫn tiếp tục việc xây dựng các lăng tẩm nguy nga ở ngoại vi thành phố Huế, tiêu
biểu là việc xây “Vạn niên cơ” (Khiêm Lăng), tái diễn một thảm họa lao dịch:
“Vạn
niên là vạn niên nào
Thành
xây xương lính, hào đào máu dân”
Khi mới lên ngôi,
Minh Mạng nhiều lần tỏ lòng “yêu dân” bằng lời lẽ thống thiết: “Trẫm nghĩ rằng
trời đã vì dân mà đặt ra vua thì kẻ làm vua phải coi dân như con…, chưa rét đã
lo cho mặc, chưa đói đã lo cho ăn, há lại đợi khóc oe oe đòi bú mới cho con ăn ư?
Trẫm từ khi lên ngôi, không ngày nào không lo cho dân cư đông đúc, được mùa”.
Nhưng trong thực tế, Minh Mạng vẫn tiếp tục chế độ lao dịch của thời Gia Long.
Một loạt thành lũy từ Nam
chí Bắc được sửa đắp hoặc xây dựng thêm.
Riêng việc xây đắp
thành Huế, Minh Mạng ra lệnh phải hoàn thành khẩn trương: “Ta nghĩ đi nghĩ lại
mãi, có nhọc một lần rồi được nhàn rỗi lâu bền… Hết thảy công trình xây dựng
kinh thành đều sửa sang xây đắp lại cho mới. Từ tiền công đến vật liệu trước
sau đã chi đến hơn trăm ngàn vạn, số tiền thật không hạn lượng được.” (Thực Lục)
Tình trạng lao
dịch dưới triều Thiệu Trị và Tự Đức cũng không kém phần khủng khiếp. Năm 1841
khởi công xây dựng lăng Minh Mạng, cung điện, đường vào lăng, lầu các, thuyền
xe, voi, ngựa, các đồ dùng của tiên đế không thiếu thứ gì. Dân các tỉnh Quảng
Nam, Thanh Hóa, Bắc Ninh vận chuyển vật liệu về kinh, chủ yếu là khuân vác bằng
đường bộ, đi hàng tháng mới tới nơi. Dân phu bị ốm ngày càng nhiều, khi mới phát
chỉ có 50, 60 người chết, rồi đến 400, 500 người, rồi lên đến hơn 3000 người.”
(Thực Lục)
(…)
(…)
Thời Tự Đức, việc
xây đồn lũy ở các địa phương càng nhiều hơn các triều vua trước. Năm 1856, dân
60 xã thôn ở Sơn Tây kêu: “Việc đắp đồn lũy, đài… quá nặng, khó gánh vác nổi”.
Tự Đức mắng: “Thói dân điêu ngoa, không trừng trị lũ ấy thì bao giờ cho hết được.”
(Thực Lục). Trong dân gian có câu ca:
“Từ ngày Tự Đức
lên ngôi
Cơm chẳng đầy nồi,
trẻ khóc như ri
Bao giờ Tự Đức
chết đi
Thiên hạ bình
thì mới dễ làm ăn”.
Hậu quả tai hại
nhất của chế độ lao dịch dưới triều Nguyễn là sự hủy hoại sức dân, đúng như nhận
xét của Bơ-ren (Borel): “Nhà vua trong khi nghĩ rằng sự cơ cực sẽ giam hãm nhân
dân trong cảnh tôi mọi và đời sống nhọc nhằn đặc biệt thích hợp với chế độ chuyên
chế và có như vậy thì mới bảo đảm được trị an, đã phá hoại một tiềm lực của đất
nước và kìm hãm mọi khả năng phát triển của nông nghiệp”.
(…)
(…)
Tô thuế, lao dịch,
binh dịch, hạn hán, lụt lội, đê vỡ… dẫn đến tình trạng mất mùa, đói kém, dịch bệnh
liên miên, cứ dăm bảy năm lại diễn ra một nạn đói hay một nạn dịch lớn làm thiệt
hàng chục vạn nhân mạng. Riêng thời Gia Long đã xảy ra 6 lần đói lớn trong cả nước
(những năm 1803, 1804, 1810, 1811, 1814, 1816). Từ đầu đời Minh Mạng đến khoảng
giữa thế kỷ XIX có 10 trận đói lớn: năm 1824 ở Thanh Nghệ và đồng bằng Bắc Bộ,
năm 1827 ở khắp các tỉnh châu thổ sông Hồng,
năm 1835 ở Quảng Trị, năm 1840 ở khắp các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, năm 1841
ở Thanh Hóa và Quảng Ngãi, năm 1844 ở khắp các tỉnh Nam Bộ, năm 1848 ở Hà Tĩnh,
năm 1854 ở Bắc Ninh, Sơn Tây, các năm 1856, 1857 ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ liên
tiếp bị bão lụt, kéo dài sang năm 1858.
Về nạn đói năm
1858, sử triều Nguyễn chép: “Dân lưu tán ở các tỉnh Bắc Kỳ nhiều người chết, có
người bán mình, bán con, dân kiếm ăn ở Hà Nội có hơn 3 vạn người”. Trong thư đề
ngày 2-4-1858, giáo sĩ Retord cho biết thêm: “Dân nghèo bán những mảnh ruộng của
mình cho nhà giàu với giá rất hạ, hoặc vay vài đấu gạo và hứa sẽ trả gấp 4 lần
trong mùa gặt tới, thành thử số thóc sắp thu hoạch chỉ đủ trả các món nợ, và họ
sẽ lại rơi ngay lập tức vào một vụ đói mới. Khi tôi đang viết những dòng này, hầu
như không còn tìm đâu ra gạo để vay mượn nữa, dù với những điều kiện nặng nề như
vậy”.
(…)
(…)
Những lần đói kém,
tai dịch, triều đình nhà Nguyễn tìm cách xoa dịu nỗi thống khổ, phẫn uất của nhân
dân bằng cách mở kho thóc phát chẩn. Trên thực tế, phát chẩn là dịp tốt để quan
lại thừa hành tham ô đục khoét, trong lúc nhân dân vẫn chết đói hàng vạn.
Nói về tình hình
phát chẩn năm 1858, vẫn giám mục Retord viết: “Nhà vua đã mở nhiều vựa lúa
trong 3, 4 tỉnh để phát chẩn cho dân chúng. Trong mỗi tỉnh có từ 15 đến 20 vựa
lúa luôn đầy ắp, đủ biết số thóc lúa được chứa trữ nhiều biết bao. Nhưng việc bố
thí đã thực hiện quá sớm, hỗn độn và bất lương: bắt đầu từ tháng 11, 12 và hiện
nay khi nạn đói lên đến cực điểm thì các vựa lúa đã trống rỗng. Thêm nữa, khi
phát chẩn, dân chúng chen lấn nhau đến nỗi nhiều người bị xéo đạp và 9/10 số người
đi lĩnh chẩn phải trở về tay không, mặc dầu phải chờ đợi rất lâu và đói lả khi
về đến nhà. Sau hết, khi các quan chức trích gạo trong kho nhà nước để phát chẩn
cho dân nghèo, cũng không quên trích một phần để làm giàu cho bản thân họ, và sự
tham ô này hoàn tất công việc phung phí”.
Đoạn thư trên đây
của Retord cũng phù hợp với bản tâu về tình hình ở Thanh Hóa trong một nạn đói
dưới triều Minh Mạng: Lê Đăng Doanh được sai đến Thanh Hóa phát chẩn, “bọn
Doanh đến nơi, dân đói đến lãnh chẩn ngày càng nhiều, có người chưa đến nơi đã
chết, có nơi tranh nhau sang đó chết đuối đến 600 người, có người phơi nắng dầm
sương ngồi chờ mà chết.” (Thực lục)
(…)
(…)
Đời sống cơ cực
thê thảm xô đẩy hàng vạn gia đình nghèo khó phải bỏ quê hương làng mạc đi lưu
vong ở thời Nguyễn trở thành hiện tượng phổ biến, thường xuyên, không riêng ở Bắc
Bộ và Trung Bộ mà cả ở Nam Bộ. Miền Gia Định đồng bằng phì nhiêu, đất rộng dân
thưa mà năm 1854 có đến 20.000 dân phiêu tán.
(…)
Cảnh đói khát lưu
vong thê thảm cũng được phản ánh sinh động và chua chát trong một bài vè thời Tự
Đức:
“ Cơm thì chẳng có
Rau cháo cũng không
Đất trắng xóa ngoài
đồng
Nhà giàu niêm kín
cổng
Còn một bộ xương sống
Vơ vất đi ăn mày
Ngồi xó chợ lùm cây
Quạ kêu vang bốn
phía
Xác đầy nghĩa địa
Thây thối bên cầu
Trời ảm đạm u sầu
Cảnh hoang tàn đói
rét…
… Sẵn bút đây ta tả
Để giữ lại vài câu
Cho ngàn vạn năm
sau
Biết cảnh tình cơ
cực
Là cái thời Tự Đức…”
(…)
(…)
Nạn lưu vong là
tai họa thê thảm nhất đối với người nông dân dưới triều Nguyễn. Một số không ít
đã chết dần mòn vì bệnh tật, đói rét, như Nguyễn Du phản ánh trong một bài văn tế:
“Cũng có kẻ nằm cầu
gối đất
Dõi theo ngày hành
khất ngược xuôi
Thương thay cùng một
kiếp người
Sống nhờ hàng xứ,
chết vùi đường quan”.
Chỉ với ít ỏi từng
đó dẫn liệu đã đủ để khẳng định sự khí dân có “truyền thống” của triều đình nhà
Nguyễn chưa? Theo chúng ta thì không cần phải trả lời câu hỏi này nữa!
Lại sẽ là một
chuyện lạ nếu giữa sống dở chết dở như thế mà nông dân không nổi dậy “như rươi”
chống lại triều đình Huế. Cũng trong cuốn sách nói trên viết:
“Trên thực tế nông
dân lưu vong đã trở thành đội quân chủ lực trong các cuộc đấu tranh của nhân dân
ngày một quyết liệt suốt nửa đầu thế kỷ XIX và còn tiếp diễn trong nửa sau của
thế kỷ đó.
(…)
(…)
(…) Chu Thiên dựa
vào “Thực lục” sơ bộ thống kê 70 cuộc nổi dậy ở thời Gia Long, hơn 230 cuộc nổi
dậy ở thời Minh Mạng, hơn 50 cuộc nổi dậy trong 7 năm ngắn ngủi của triều Thiệu
Trị và khoảng 40 cuộc nổi dậy ở thời Tự Đức (tính đến năm 1869). Phan Đại Doãn
trong một báo cáo khoa học cho biết: “Theo sự ghi chép của sử nhà Nguyễn (Thực
lục) thì từ Gia Long năm đầu (1802) đến Tự Đức năm cuối (1883) có hơn 350 cuộc
khởi nghĩa lớn nhỏ, trong đó, thời Tự Đức là nhiều nhất. Cụ thể hơn: trong 17 năm
đời Gia Long đã có 90 cuộc đấu tranh khắp mọi miền đất nước. Đời Minh Mạng là đời
thịnh trị nhất của nhà Nguyễn cũng có trên 230 cuộc, trong đó năm nhiều nhất
(1833) có 37 cuộc và ít nhất (1838) có 4 cuộc. Đời Thiệu Trị, chỉ trong 7 năm cũng
có 58 cuộc đấu tranh”.
(…)
(…)
Phong trào đấu
tranh của nông dân và nhân dân các dân tộc chống triều Nguyễn liên tục, quyết
liệt trong hơn 50 năm, xét cho cùng là nhằm chống lại sự hủy hoại tiềm lực dân
tộc của nhà nước quân chủ chuyên chế. “Con giun xéo lắm cũng quằn”, nhân dân và
các tầng lớp bị trị không thể cam chịu chết dần mòn vì đói rét, bệnh tật, đã vùng
lên tìm lối thoát cho sự sống của bản thân mình, cũng tức là đấu tranh cho sự tồn
tại của xã hội, của cả dân tộc, vì bảo vệ sự sinh tồn của nông dân là bảo vệ thực
lực của dân tộc”.
Đức Huyền Diệu
thực chất là quan niệm truyền đời của đại chúng về thị phi, là ước vọng của toàn
dân về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vì vậy mà hành động phù hợp với Đức Huyền
Diệu cũng có nghĩa là hợp lòng dân, là chính nghĩa, là nhân văn. Để cho nông dân
cầm vũ khí nổi dậy là điều bất thường. Bất thường hơn nữa là sự nổi dậy ấy trở
thành phong trào rộng khắp và kéo dài trong suốt quá trình tồn tại của nhà Nguyễn.
Nói ra như thế để thấy triều đình Huế đã làm cho lòng dân ly tán đến cỡ nào và đã
chà đạp lên Đức Huyền Diệu một cách tàn bạo và đê hèn như thế nào!
Rất rõ ràng là
quan niệm về quần chúng của các vua triều Nguyễn là hoàn toàn sai lầm, dẫn đến
mù quáng, thiển cận trong việc đề ra những quốc sách, trong việc bảo tồn độc lập
dân tộc cũng như phát triển đất nước gắn liền với sinh mạng chính trị và quyền
lợi của chính dòng họ nhà Nguyễn: về đối nội thì chỉ lo đàn áp, đề phòng nổi dậy,
vắt kiệt sức dân vào những mục đích xa hoa ích kỷ, phi quốc kế dân sinh, mà không
biết khoan dung an dưỡng sức dân để tạo thế sâu rễ bền gốc; về đối ngoại thì một
phần bị ám ảnh bởi “món nợ đất đai” mà Gia Long đã hứa với người Pháp (hiệp ước
Véc-xây, năm 1787), một phần theo chính sách cổ hủ của nhà Thanh (Trung Quốc) mà
“đóng cửa” kín mít, không mạnh dạn bang giao, mở rộng thương mại với các nước
nhằm kích thích sản xuất trong nước phát triển, tiếp thu khoa học kỹ thuật từ bên
ngoài.
Tất cả những điều
đó đã đưa triều đình Huế đến một khúc ngoặt bi kịch: buộc phải chấm dứt tồn tại
như một chính thể có thực quyền lãnh thổ vào ngày 6-6-1884 bởi hiệp ước Patơnốt
(mà thực ra là sớm hơn, vào ngày 25-8-1883 bởi hiệp ước Harmand), để nhục nhã
biến thành chính quyền bù nhìn làm tay sai cho kẻ xâm lược.
Đó cũng là bi kịch
lớn trong sự nghiệp giữ nước và cứu nước đầy chất bi hùng mà bền bỉ phi thường
của dân tộc Việt.: vua có thể bán nước bỏ dân, còn nhân dân thì không cần thứ
vua ấy, vẫn tiếp tục kháng chiến đến cùng để giành lại bờ cõi mà tổ tiên, ông
cha để lại cho chính họ chứ không phải cho bất cứ thứ vua nào, bất cứ loại triều
đình nào!
***
Nhận biết được
những biến động thuận lợi của tình hình thế giới, Hồ Chí Minh đã tài tình lèo lái
con thuyền giành độc lập tự do của dân tộc đi đến thành công vào ngày
19-8-1945. Ngày 2-9-1945, nước ta tuyên bố độc lập với một cái tên trong thời đại
mới: Việt Nam
dân chủ cộng hòa!
Nhưng thực dân
Pháp vẫn không chịu từ bỏ những quyền lợi ăn cướp của chúng ở Đông Dương, trong
đó có Việt Nam.
Chúng tích cực ngấm ngầm chuẩn bị, tập trung lực lượng để đánh úp Hà Nội nhằm
tiêu diệt chính quyền non trẻ của nhân dân ta - đầu não của cuộc Cách Mạng Tháng
Tám. Trước đó chúng đã đánh chiếm Sài Gòn và ngày 23-9-1945 sau này trở thành
ngày kỷ niệm “Nam Bộ kháng chiến”.
Tại Thủ đô, 21
giờ ngày 18-12-1946, thực dân Pháp gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí của tự vệ và
công an ta. Trong thư đó có câu: “Nếu đến ngày 20 tháng 12, những điều đó không
được chấp nhận, quân đội Pháp sẽ đảm nhận việc trị an ở Hà Nội”. Trước tình hình
đó, ngay chiều hôm sau (19-12), kế hoạch và giờ nổ súng toàn thành được bí mật
phổ biến đến khắp các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Thủ đô.
Đúng 20 giờ ngày
19-12-1946, công nhân nhà máy điện phá máy. Đèn điện trong thành phố vụt tắt. Đó
cũng là lệnh chiến đấu. Cả thành phố nổ súng. Các pháo đài Láng, Xuân Tảo, Xuân
Canh, Đào Xuyên nã đại bác vào trại lính Pháp ở trong thành.
Cuộc chạm súng
của quân dân ta và thực dân Pháp tại Đà Nẵng năm 1858 lại tái hiện, nhưng lần này
đã theo một kịch bản hoàn toàn khác. Kẻ xâm lược làm sao mà biết được vì sao có
sự biến đổi lớn lao đó?!
Cả Hà Nội vùng
lên anh dũng chiến đấu, mở đầu cuộc kháng chiến cả nước đánh thực dân Pháp.
Sáng ngày
20-12-1946, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân kháng chiến:
“Hỡi đồng bào toàn
quốc!
Chúng ta muốn hòa
bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng
lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
Không! Chúng ta
thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông,
đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ
là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ Quốc. Ai có súng
dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc,
ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước.
Hỡi anh em binh
sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã
đến! Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước!
Dù phải gian
lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về
dân tộc ta.
Việt Nam độc
lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng
lợi muôn năm!”
Sau ngót nghét
9 năm trường kỳ “toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến” đầy hy sinh gian
khổ, với chiến thắng Điện Biên Phủ “vang dội địa cầu” vào ngày 7-5-1954, dân tộc
ta đã đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp. Ngày
20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết: hòa bình được lập lại
trên cơ sở Pháp và các nước ký vào bản hiệp ước tôn trọng độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia; Pháp phải rút khỏi Đông
Dương; nước Việt Nam tạm chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (sông Hiền Lương) làm
phân giới tạm thời với miền Bắc - Việt Nam hoàn toàn giải phóng, đến tháng
7-1956, nhân dân Việt Nam sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.
Sau 100 năm giày xéo, đến đây, thực dân Pháp đã phải cút khỏi đất nước ta.
Tuy nhiên, đế
quốc Mỹ đã không chịu ký vào bản hiệp định (nhưng ký hay không ký thì có ăn
thua gì đối với sự tráo trở thường thấy ở thực dân, đế quốc?!) vì đã có sẵn mưu
đồ thay Pháp, can thiệp trực tiếp vào Đông Dương.
Được sự hà hơi
tiếp sức của đám âm mưu cướp nước, đám âm mưu bán nước nổi dậy ầm ầm ở miền Nam
- Việt Nam, đứng đầu là Ngô Đình Diệm, đàn áp khốc liệt những người “kháng chiến
cũ”, đẻ ra luật 10/59 để lê máy chém đi khắp miền Nam chặt đầu không biết bao
nhiêu người yêu nước. Giới tuyến tạm thời, chờ tổng tuyển cử bỗng chốc trở thành
sự đành đoạn chia lìa gây biết bao nhiêu đau khổ cho hàng triệu gia đình, hàng ức
vạn trái tim biết yêu thương.
Sự thao túng của
một cường quốc đế quốc đã làm xuất hiện một chính quyền cực kỳ phản dân hại nước
ở miền Nam, gọi là chính quyền “gia đình trị họ Ngô”, và như thế, cùng với sự độc
đoán của nó, chẳng khác gì một triều đình họ Nguyễn mà ông vua cuối cùng triều đại
đó đã bị nó lừa! Triều đình họ Ngô tàn bạo và mù quáng đến nỗi đi đàn áp cả đạo
Phật chỉ vì đạo này muốn yêu nước và được tự do tín ngưỡng như đạo Thiên chúa
(là đạo mà gia đình họ Ngô thích, theo). Có thể thấy đạo Phật là một trong những
đạo hiền lành nhất thế giới mà còn phải nổi dậy biểu tình rầm rộ, thậm chí là tự
thiêu (Thích Quảng Đức) để phản đối chế độ họ Ngô thì thử hỏi còn gì để nói về
chế độ ấy?!
Có một điều lạ
lùng là Ngô Đình Diệm cứ gợi cho chúng ta nhớ về Gia Long - Nguyễn Ánh và Nguyễn
Văn Thiệu gợi nhớ về Bảo Đại (vơ vét để lưu vong và làm ma xứ người). Trong chiều
sâu tâm linh, chúng ta cảm nhận rằng triều đình họ Ngô cũng như “triều đại” miền
Nam đã làm tổ tiên dân tộc Việt phẫn nộ, do đó chúng đã trở thành những bi kịch
nếu không muốn nói là thảm kịch, chóng vánh hơn triều đại nhà Nguyễn. Ngay cả đế
quốc Mỹ cũng phải chịu rút lui nhanh chóng và ê chề hơn nhiều so với thực dân
Pháp. (Chúng ta không đánh đồng thực dân, đế quốc với nhân dân. Nhân dân Pháp,
nhân dân Mỹ cũng như nhân dân Việt Nam, đều là bộ phận của nhân dân thế giới, đều
yêu chuộng hòa bình, muốn chí thú làm ăn, đều góp phần làm nên Đức Huyền Diệu và
đều thiết tha với Đức Huyền Diệu!).
Tâm linh thì
nghĩ thế nhưng thực tế là thế này: trước sự phá bỏ hiệp định Giơnevơ một cách
trắng trợn của Mỹ - Diệm làm cho sự thống nhất nước nhà bị đe dọa nghiêm trọng,
dân tộc ta, tin theo sự dẫn đường chỉ lối sáng suốt (đã được thực chứng) của chủ
tịch Hồ Chí Minh (mà chúng ta liên tưởng như Phù Đổng Thiên Vương thuở xưa) -
người con ưu tú nhất của tổ tiên trong thời đại mới, tiếp tục cuộc trường
chinh, chiến đấu ngoan cường suốt 20 năm nữa. Cuộc trường chinh ấy là sự đương đầu
với một đế quốc hùng mạnh nhất thời đại và đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Nó
có cái tên giản dị: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Nó được nhân dân thế
giới ủng hộ và vì thế nó phù hợp với Đức Huyền Diệu. (Cũng định nhắc đến “ông”
Ngụy quyền một chút để thấy vai trò vớ vẩn của ông ta lúc đó, nhưng coi lại, thấy
chán quá xá, nên thôi!). Chúng ta cho rằng cuộc kháng chiến cứu nước đó đích thực
là cuộc kháng chiến thần thánh, tổ tiên ông bà đều thức dậy cùng con cháu đánh
giặc. Biết bao nhiêu câu chuyện phi thường đã xảy ra trong cuộc tranh đấu ấy, mà
dù có giải thích khoa học này nọ đến mấy chăng nữa thì cũng không cắt nghĩa được
tính linh thiêng của chúng.
Chiến dịch Hồ
Chí Minh kết thúc vào trưa ngày 30-4-1975. Đó cũng là thời điểm đất nước ta trở
về một mối: độc lập, tự do và thống nhất, thỏa lòng ước nguyện của Hồ Chí Minh
nói riêng và toàn thể dân tộc Việt Nam nói chung.
Xem tư liệu ảnh,
đọc tư liệu thành văn, nghe tư liệu âm thanh của thời điểm lịch sử ấy, chúng ta
tin rằng, thế hệ hôm nay cũng như mai sau đều trào dâng trong lòng niềm hân
hoan và tự hào khó tả. Thời khắc ấy đã được tạc vào lịch sử Việt Nam như
một trong những trang oai hùng nhất, tươi vui nhất và hy vọng nhất của lịch sử
nước nhà và sống còn mãi theo lịch sử.
Và rồi thời
gian cứ không ngừng trôi, cái ngày 30-4-1975 ấy cùng với niềm hân hoan tột cùng
cũng qua đi với cái danh gọi là ngày Giải Phóng. Một thời kỳ mới bắt đầu với tất
cả sự lạ lùng, trái khoáy của nó. Đó là thời kỳ mà ngày nay người ta không biết
gọi là gì. Người thì gọi nó là thời kỳ sau Giải Phóng, kẻ thì gọi là thời kỳ
“Kinh tế thời chiến trong hòa bình”, ông thì gọi là thời: “quan liêu bao cấp”, thằng
thì mạnh miệng: “Thời mà ngay cột điện, nếu đi được, nó cũng vượt biên”; có đứa
mạnh miệng hơn, giở giọng phản động, nói: “Thời phát xít”. Nhưng sau này, khi đã
có những bước phát triển về kinh tế - xã hội, khi đời sống vật chất đã được nâng
lên đáng kể và khi không còn chú ý đến cuộc “kháng chiến thần thánh” đã qua nữa,
thì hầu như mọi người đều chung gọi thời kỳ này là: “Thời trước đổi mới”, hoặc
văn vẻ hơn: “Đêm trước của sự đổi mới”. Nhưng tại sao lại phải đổi mới?
Rất có thể giai
đoạn hơn 10 năm sau Giải Phóng là thời kỳ kỳ dị nhất trong lịch sử đất nước Việt
Nam.
(còn nữa)
(còn nữa)
Nhận xét
Đăng nhận xét