TRÀ DƯ TỬU HẬU 16/a2
Vụ nổ lớn Big Bang
-Không có khoa học vì khoa học, không có nghệ thuật vì nghệ thuật. Khoa học nghệ thuật tồn tại để phục vụ xã hội, để làm con người hạnh phúc hơn, cao thượng hơn, có kiến thức phong phú hơn và có nhiều tiện nghi vật chất hơn trong đời sống...
Khuyết danh
-
Cuộc sống đặt mục tiêu cho khoa học, khoa học soi đường cho cuộc sống.
Khuyết danh.
-Phương pháp thích đáng nhất để nghiên cứu đặc tính của sự vật là suy luận xuất phát từ những cuộc thí nghiệm.
Isaac Newton
-Ngu
dốt sinh ra sự quả quyết hơn là tri thức; chính những người biết ít chứ
không phải những người biết nhiều mới quả quyết khẳng định vấn đề này
hay vấn đề kia sẽ không bao giờ được khoa học giải đáp.
Charles Darwin
-Khoa học cho chúng ta tri thức, nhưng chỉ triết học mới có thể cho chúng ta sự thông thái.
-
Thật sai lầm khi nghĩ rằng nhiệm vụ của vật
lý là tìm ra bản chất của Tự nhiên. Vật lý là điều chúng ta nói về Tự
nhiên.
Will Durant
Niels Bohr
-Trí tuệ trực giác là một năng khiếu thiêng liêng và trí tuệ thuần lý là
đầy tớ trung thành. Chúng ta đã tạo ra một xã hội chỉ tôn kính tên đầy
tớ mà quên mất đi cái năng khiếu.
Albert Einstein
-Khoa học không bao giờ có điểm dừng, nó là một câu đố vĩnh hằng.
Albert Einstein
-Rồi đây, khoa học sẽ nhận thấy rằng hoang tưởng vừa là kẻ thù lung lạc tinh thần, vừa là người bạn đồng hành thân thiết đóng vai trò cứu cánh không thể chối bỏ cuối cùng của vật lý học nghiêm túc trong công cuộc đi tìm sự thực khách quan của Tự Nhiên.
NTT
Chuyện 16: SỰ THỰC KHÁCH QUAN
2/KHỞI THỦY:
Không để ý đến câu nói khích bác của ông C, ông A vừa với tay lấy laptop trên kệ, mở mạng,dò tìm, vừa mở đầu bài nói chuyện: "Đây, các anh hãy đọc bài này của nhà vật lý Phạm Việt Hưng:
"Lý thuyết Big Bang: Lời giải thích đẹp nhất cho “Sự Sáng Tạo” Vũ Trụ

Sau quá trình nghiên cứu thuyết
Big Bang, nhà bác học Einstein từng thốt lên rằng: “Đây là lời giải
thích đẹp đẽ và thỏa đáng nhất về sự sáng tạo mà tôi từng được nghe”!
Lý thuyết Big Bang là một trong những
thành tựu khoa học lớn nhất trong thế kỷ 20. Sau khi thảo luận với
Georges Lemaître, cha đẻ lý thuyết này, Albert Einstein thốt lên: “Đây
là lời giải thích đẹp đẽ và thỏa đáng nhất về sự sáng tạo mà tôi từng
được nghe”! Thật không may, Lý thuyết Big Bang đặt ra một câu hỏi triết
học quá lớn cho khoa học đến nỗi các nhà khoa học không thể trả lời…
Ngày nay, mặc dù Lý thuyết Big Bang đã
trở nên phổ biến trong nền văn hóa hiện đại, nhưng dường như số người
thực sự hiểu Lý thuyết Big Bang vẫn không nhiều. Thậm chí vẫn có người
nghi ngờ đây không phải một lý thuyết khoa học thực sự, tương tự như mối
nghi ngờ dành cho Thuyết Tiến hóa. Nhiều người không biết rõ cơ sở khoa
học của lý thuyết này, đặc biệt, người ta vẫn tranh cãi rất nhiều xung
quanh những câu hỏi do lý thuyết này đặt ra ─ những thách đố khoa học
liên quan tới triết học nhận thức.
Để có một cái nhìn toàn diện về lý
thuyết này, hôm nay chúng ta nên nhìn lại toàn bộ lịch sử diễn biến của
nó thông qua những sự kiện mang tính chất cột mốc của lý thuyết này, qua
đó có thể thấy chính khoa học đã dẫn khoa học tới những câu hỏi triết
học khó như thế nào…..
1/ LƯỢC SỬ BIG BANG

- 1915 Thuyết Tương đối Tổng quát của Albert Einstein ra đời, tạo ra một cái khung toán học và vật lý cho vũ trụ học hiện đại. Lý thuyết Big Bang bắt nguồn từ đây.
- 1922-1924 Alexander Friedmann , một nhà toán học và vũ trụ học người Nga, giải phương trình của Thuyết Tương đối Tổng quát, tìm thấy nghiệm tương ứng với một vũ trụ co hoặc giãn. Ông thông báo kết quả này cho Einstein. Lúc đầu Einstein bác bỏ. Nhưng xem xét kỹ, Einstein thừa nhận là đúng. Vì thế Einstein bổ sung vào phương trình của mình một hằng số, nhằm chống lại hệ quả vũ trụ co giãn, vì Einstein cho rằng vũ trụ xét trên tổng thể là tĩnh. Hằng số này đi vào lịch sử vũ trụ học với tên gọi HẰNG SỐ VŨ TRỤ (Cosmological constant). Tuy nhiên Friedmann không phát triển kết quả nghiên cứu của mình thành một lý thuyết mới mang tính hệ thống về vũ trụ học.
- 1927 Georges Lemaître , một linh mục Công giáo kiêm nhà toán học và vũ trụ học người Bỉ, hoàn toàn độc lập với Friedmann, cũng giải phương trình của Thuyết Tương đối Tổng quát và rút ra nghiệm tương ứng với một vũ trụ giãn nở. Ông đã công bố những khám phá của mình trong một công trình có một cái tên rất dài: “ A homogeneous universe of constant mass and increasing radius accounting for the radial velocity of extra-galactic nebulae ” (Một vũ trụ thuần nhất có khối lượng không đổi và bán kính tăng lên, giải thích tốc độ xuyên tâm của các thiên hà). Trong đó Lemaître không chỉ chứng minh sự giãn nở của vũ trụ mà còn nêu lên một hệ số mà hai năm sau Edwin Hubble cũng tìm thấy bằng quan sát thiên văn. Đó là cái được gọi là “Định luật Hubble”.
- 1929, Edwin Hubble , một nhà thiên văn lỗi lạc người Mỹ, khám phá ra hiện tượng các thiên hà chạy xa nhau ra, cho thấy hiện tượng vũ trụ giãn nở là sự thật. Hubble tìm ra mối tương quan giữa khoảng cách với tốc độ rời xa của các thiên hà, được gọi là Định luật Hubble ( Hubble’s Law ). Định luật này trước đó cũng đã được Georges Lemaître tìm ra bằng con đường hoàn toàn lý thuyết, và được gọi là nguyên lý vũ trụ. Khám phá của Hubble làm cho Einstein muốn loại bỏ hằng số vũ trụ ra khỏi phương trình của Thuyết Tương đối Tổng quát của ông, vì nó không còn cần thiết nữa. Nhưng Lemaître đã thuyết phục Einstein về sự cần thiết của hằng số vũ trụ. Sau này Einstein thừa nhận ý định vứt bỏ hằng số vũ trụ là một sai lầm lớn nhất trong đời ông.
- 1931, Lemaître tiếp tục phát triển giả thuyết của mình, khẳng định rằng nếu hiện tượng vũ trụ giãn nở là một hiện thực đã được xác nhận thì đi ngược về quá khứ, vũ trụ phải co lại, và cuối cùng ắt phải có điểm khởi đầu. Ông đã phát triển tư tưởng này thành một lý thuyết mô tả lịch sử vũ trụ, công bố lý thuyết đó dưới tên gọi “ Giả thuyết Nguyên tử Nguyên thủy ” ( Hypothesis of Primeval Atom ), sau này được gọi là Lý thuyết Big Bang.
- Trong những năm 1920 – 1930, hầu hết các nhà vũ trụ học lớn đều ưa thích một vũ trụ tĩnh và ổn định vĩnh cửu. Một số phàn nàn rằng lý thuyết của Lemaître là sự nhập cảng các khái niệm về sự sáng tạo của Chúa trong Sáng Thế ký của Kinh Thánh vào vật lý. Sự phản đối này xuất phát từ chỗ Georges Lemaître, người khởi xướng Lý thuyết Big Bang, là một linh mục Công giáo. Chính Arthur Eddington, một thầy dạy của Lemaître, vẫn tin vào lý thuyết của Aristotle, cho rằng vũ trụ không có khởi đầu và không có kết thúc, tức là một vũ trụ ổn định vĩnh cửu. Lý thuyết của Lemaître bị xem như chống lại Aristotle. Nhưng chính Lemaître, dựa trên sự phù hợp giữa kết quả chứng minh toán học chặt chẽ của chính ông với quan sát thiên văn của Hubble, nhất định cho rằng vũ trụ phải có khởi đầu. Thậm chí ông tỏ ra có trực giác sắc sảo khi cho rằng: “ Nếu vũ trụ khởi đầu với một lượng tử duy nhất, các khái niệm về không gian và thời gian hoàn toàn sẽ không có bất kỳ ý nghĩa nào ngay từ đầu; chúng chỉ bắt đầu có một ý nghĩa hợp lý khi lượng tử ban đầu đã được phân chia thành một số lượng lượng tử đầy đủ. Nếu đề xuất này là chính xác, thì sự khởi đầu của vũ trụ đã xảy ra sớm hơn một chút trước khi hình thành không gian và thời gian ” . Đó là một viễn kiến táo bạo, sau này được hầu hết các nhà vật lý ủng hộ.
- 1949, Fred Hoyle , một nhà toán học và thiên văn học nổi tiếng người Anh, trong một lần trả lời phỏng vấn của Đài BBC London vào Tháng 3, lần đầu tiên đã gieo thuật ngữ “Big Bang” để mô tả lý thuyết của Lemaître, mặc dù ông có nhiều ý kiến chống đối Lý thuyết Big Bang. Từ đó tên gọi “Lý thuyết Big Bang” chính thức ra đời và nhanh chóng được các nhà khoa học ưa thích sử dụng và trở nên phổ biến như hiện nay.
- 1953, Lý thuyết Big Bang bùng nổ với các công trình của George Gamow và nhiều người khác. George Gamow, một nhà vật lý xô viết định cư tại Mỹ năm 1934, nêu lên mô hình “Big Bang nóng” (Hot Big Bang), tiên đoán Big Bang ắt phải để lại những vết tích của bức xạ của vũ trụ nguyên thủy, lúc đầu phải nóng ít nhất tới hàng triệu độ, sau nguội dần vì vũ trụ giãn nở. Thực nghiệm khoa học sau này đã tìm thấy những vết tích đó đúng như Gamow đã dự đoán. Việc khám phá ra Nền Bức xạ Vi sóng Vũ trụ (Cosmic Microwave Background) là bằng chứng quyết định ủng hộ mô hình “Big Bang nóng”

- 1964, Arno Penzias và Robert Wilson khám phá ra những “tiếng ồn vi sóng” vũ trụ tương quan với nhiệt độ 2,7 độ K, nhưng không giải thích được đó là cái gì. Tuy nhiên, sau những trao đổi với Robert Dick tại Đại học Princeton, họ biết đó là những vi sóng phát đi từ vũ trụ trẻ còn nóng hổi trong quá khứ sau Big Bang. “Tiếng ồn vi sóng” chính là sóng tàn dư của Big Bang. Georges Lemaître nhận được thông tin này xác nhận Lý thuyết Big Bang của mình đúng một tuần trước khi ông ra đi rời khỏi thế gian. Có lẽ ông thấy hạnh phúc vì đã hoàn thành sứ mệnh trần gian. Arno Penzias và Robert Wilson đã được tặng Giải Nobel vật lý năm 1978.
- 1968 – 1970, Roger Penrose , Stephen Hawking , và George Ellis lần lượt công bố những công trình nghiên cứu chứng minh một cách toán học rằng sự khởi đầu của vũ trụ là điều không thể tránh khỏi. Có nghĩa là tiên đoán của Lemaître hoàn toàn đúng.
- Trong những năm 1970 – 1990, các nhà vũ trụ học sử dụng mô hình Big Bang giải thích được nhiều bài toán lớn của vũ trụ học. Năm 1981, Alan Guth xây dựng mô hình vũ trụ lạm phát (inflationary universe) ngay sau Big Bang, trong đó vũ trụ giản nở với tốc độ vô cùng lớn, nhờ đó giải thích được nhiều hiện tượng vật lý lượng tử.
- Cuối thế kỷ 20 , nhiều bằng chứng cho thấy vũ trụ không giản nở chậm lại hoặc thậm chí sẽ co lại như nhiều dự đoán trước đó, mà thực tế giãn nở ngày càng nhanh lên. Điều này dẫn tới dự đoán sự tồn tại của lực phản hấp dẫn mà nguyên nhân của nó là một dạng “năng lượng tối” (Dark Energy) nào đó, tương ứng với hằng số vũ trụ âm trong phương trình của Thuyết Tương đối Tổng quát. Hơn bao giờ hết, khoa học đã thấy rõ vai trò vô cùng quan trọng của Hằng số Vũ trụ. Thậm chí Hằng số Vũ trụ được xem như không phải là một hằng số nữa, mà là một hàm số theo thời gian. Những khám phá khoa học này dẫn tới kết luận về số phận tương lai của vũ trụ: Vũ trụ giãn nở gia tốc mãi mãi và do đó sẽ loãng dần về zero! Kết luận này đã được công bố trên tạp chí TIME vào thời điểm bản lề chuyển từ thế kỷ 20 sang thế kỷ 21.
Với tất cả những diễn biến nói trên,
phải khẳng định rằng Lý thuyết Big Bang là một lý thuyết khoa học, được
hầu hết các nhà khoa học ủng hộ, kể cả Einstein và những nhà vũ trụ học
hiện đại. Hiện nay Lý thuyết Big Bang vẫn đang là một lý thuyết xương
sống của vũ trụ học, thậm chí nhờ nó mà vũ trụ học đã đạt được nhiều
khám phá rực rỡ, đến nỗi thời đại hiện nay được gọi là “Thế kỷ vàng của
vũ trụ học”. Murray Gell-Mann , nhà vật lý đoạt Giải Nobel năm 1969, ca ngợi
Lý thuyết Big Bang như “một cuộc phiêu lưu bền bỉ và vĩ đại nhất trong
lịch sử nhân loại, nhằm hiểu vũ trụ vận hành ra sao và từ đâu tới “

Tuy nhiên Lý thuyết Big Bang chỉ là một
lý thuyết kể lại lịch sử của vũ trụ kể từ ngày nó ra đời chứ không phải
một lý thuyết khoa học giải thích được nguồn gốc của vũ trụ. Điều này đã
bị nhiều người hiểu lầm, bao gồm cả Einstein lúc ban đầu. Thật vậy, lúc
đầu Einstein cũng hiểu lầm như vậy, và vì thế ông không thích thú với
Giả thuyết Nguyên tử Nguyên thủy của Lemaître, mặc dù ông hoàn toàn chấp
nhận tính chính xác toán học của giả thuyết đó. Nhưng sau nhiều cuộc
tiếp xúc và thảo luận với Lemaître, Einstein đã thay đổi quan điểm.
Những cuộc gặp gỡ và thảo luận giữa Einstein và Lemaître đóng một vai
trò then chốt trong lịch sử thai nghén Lý thuyết Big Bang. Điều này đã
được mô tả rất thú vị trong một bài báo của Dominique Lambert trên trang
“Interdisciplinary Encyclopedia of Religion and Science” (Bách khoa
Toàn thư về những nguyên lý liên kết Tôn giáo với Khoa học). Tôi xin
trân trọng giới thiệu bài báo đó trong mục sau đây.
2/ EINSTEIN VÀ LEMAÎTRE: HAI NGƯỜI BẠN, HAI VŨ TRỤ HỌC…
Chúng ta đều biết Lý thuyết Big Bang dẫn
tới sự khởi đầu của vũ trụ, và điều này “vô tình” ủng hộ tư tưởng về sự
sáng tạo của Chúa mà Kinh Thánh đã mô tả trong Sáng Thế ký. Đó là một
NAN ĐỀ của khoa học hiện đại , bởi khoa học không muốn chấp nhận bất cứ
một nguyên nhân siêu hình nào cho bài toán nguồn gốc của vũ trụ. Albert
Einstein tuy là một người tin vào Đấng Sáng tạo, nhưng mô hình chung ông
không tin Chúa của các tôn giáo (Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo). Vì thế
không dễ gì để ông tin vào một lý thuyết ủng hộ Kinh Thánh như Lý
thuyết Big Bang (nhưng vào những năm cuối đời ông đã bày tỏ niềm tin
mãnh liệt vào các nguyên lý của Đạo Phật, tuy nhiên Đạo Phật nguyên gốc
không bàn luận đến Đấng Sáng Tạo). Tuy nhiên quan điểm của ông đối với
lý thuyết này đã có những thay đổi lớn, từ chống đối đến ủng hộ. Người
làm cho Einstein thay đổi là Georges Lemaître. Những cuộc trao đổi thảo
luận giữa Einstein và Lemaître có ý nghĩa rất lớn cả về mặt vật lý lẫn
mặt triết học. Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua bài báo sau đây của Dominique Lambert , viện sĩ Viện hàn lâm Bỉ và Giáo sư Đại học Namur, nhan đề:
“ Einstein and Lemaître: two friends, two cosmologies… ”
Sau đây là bản lược dịch của tôi:
Abbé Georges Lemaître (1894-1966) gặp Albert Einstein
lần đầu tiên vào Tháng 10 năm 1927, trong quá trình diễn ra Hội nghị
Solvay lần thứ năm về vật lý ở Brussels. Những hội nghị này, như chúng
ta đã biết, đóng vai trò chủ yếu trong lịch sử vật lý. Hội nghị năm 1927
chứng kiến sự có mặt của Marie Curie, Bohr, Born, Dirac, de Broglie,
Schrödinger, Heisenberg,… Người gợi ý với ban tổ chức hội nghị nên mời
Lemaître tới dự hội nghị này có lẽ là Théophile de Donder, Giáo sư Đại
học Tự do ở Bruxelles (Université Libre de Bruxelles”), ông là người đã
viết một trong những cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Pháp về Thuyết Tương
đối Tổng quát của Einstein. De Donder biết rõ chàng trai Lemaître, vì
ông nằm trong ban giám khảo trao cho anh một học bổng du học tại Đại học
Cambridge ở Anh, sau khi Lemaître đoạt giải trong một kỳ thi mang tên
“The Physics of Einstein” (Vật lý của Einstein). De Donder nói, bằng
cách đó ông đã giới thiệu Lemaître với Arthur Eddington rằng “ông thấy
Lemaître là một sinh viên thông minh, có một viễn kiến cực kỳ nhanh nhạy
và sáng suốt, và một khả năng toán học lớn”.
Năm 1926, Lemaître lấy bằng tiến sĩ tại
Đại học MIT ở Mỹ, và trong năm 1927, ông đã công bố một công trình nổi
tiếng của mình mang tên “A homogeneous universe of constant mass and
increasing radius accounting for the radial velocity of extra-galactic
nebulae” (Một vũ trụ thuần nhất có khối lượng không đổi và bán kính tăng
lên, giải thích tốc độ xuyên tâm của các thiên hà). Công trình này giải
thích cái mà chúng ta gọi là “Định luật Hubble”. Khởi đầu từ một nghiệm
của các phương trình của Einstein tương ứng với một vũ trụ giãn nở
Lemaître lần đầu tiên suy luận một cách chặt chẽ ra một thực tế là tốc
độ các thiên hà rời xa nhau tỷ lệ với khoảng cách giữa chúng (hằng số tỷ
lệ được gọi là “hằng số Hubble”). Công trình phôi thai này, trong đó
người ta có thể tìm thấy tính toán hằng số Hubble (hai năm trước khi
định luật Hubble được công bố!), đã được công bố trên tạp chí của Bỉ:
Les Annales de la Société Scientifique de Bruxelles. Tạp chí này thực tế
là tạp chí của Hội Khoa học Bruxelles, một hội tập hợp các nhà khoa học
Công giáo đóng vai trò trung tâm trong tổ chức Hội nghị Khoa học Quốc
tế của Công giáo vào cuối thế kỷ 19. Nhờ một người bạn, Einstein đã đọc
công trình của Lemaître. Đi bộ dọc theo những lối đi trong “Công viên
Léopold” tại Brussels, gần tòa nhà nơi Hội nghị Solvay diễn ra, Einstein
và Lemaître thảo luận về công trình năm 1927 của Lemaître. Einstein
không nói gì với nhà khoa học trẻ Lemaître về phần toán học của công
trình đó, vốn đã hoàn hảo về mặt kỹ thuật, nhưng ông hoàn toàn không
đồng ý với Lemaître về những diễn giải vật lý của công trình đó.
Einstein nói rất thô: “Từ quan điểm vật lý điều này làm tôi thấy thật
tồi tệ”. Lý do của phản ứng cục súc như thế là gì? Thực tế vào thời điểm đó Einstein không thừa nhận một vũ trụ giãn nở
. Có lẽ chịu ảnh hưởng hoàn toàn bởi triết học của Spinoza, ông không
chấp nhận sự thật là vũ trụ có một lịch sử thực sự. Mọi người vẫn nhớ
rằng Einstein đã thể hiện sự chống đối mạnh mẽ của ông đối với công
trình của Alexander Friedmann , nhà toán học và thiên
văn người Nga này khám phá ra từ những năm 1922-1924 những nghiệm của
các phương trình của Einstein tương ứng với sự giãn và co của vũ trụ. Theo Einstein, vũ trụ xét về tổng thể là không biến đổi
. Mô hình vũ trụ đầu tiên của Einstein, công bố năm 1917, thực ra là
một vũ trụ cầu và hoàn toàn tĩnh. Cần nhấn mạnh rằng Georges Lemaître,
lúc viết công trình của mình về sự rời xa của các tinh vân, không biết
gì về những khám phá của Friedmann. Năm 1929 Lemaître nói rằng chính
Einstein đã thông báo cho ông về sự tồn tại của “các vũ trụ co và giãn
của Friedmann”.
Cùng đi bộ trong “Công viên Léopold” với
Einstein còn có Giáo sư Auguste Piccard. Piccard muốn chỉ cho Einstein
phòng thí nghiệm của ông nằm bên trong Đại học Tự do Bruxelles. Piccard
cũng là một nhà vật lý nổi tiếng thuộc đẳng cấp thế giới. Ông quan tâm
đến nghiên cứu về Tia Vũ trụ nhằm kiểm tra Thuyết Tương đối… Piccard đề
xuất với Lemaître để có cuộc gặp gỡ này với Einstein. Đi đến khuôn viên
Đại học Tự do Bruxelles, Lemaître tiếp tục cuộc thảo luận của mình. Ông
đã nói về các dữ liệu thiên văn (các thiên hà được liệt kê trong cái gọi
là danh mục của Strömberg) mà ông đã sử dụng để rút ra “hằng số
Hubble”. Lemaître cảm thấy bối rối khi nhận ra rằng vào thời điểm đó
Einstein thực ra đã không được thông báo về những dữ liệu thiên văn như
vậy.
Cuối năm 1932, Lemaître đến Đại học Công
nghệ California (Đại học Caltech nổi tiếng) tại Pasadena gần Los
Angeles, theo lời mời của nhà vật lý đoạt Giải Nobel năm 1923 Robert
Millikan, người rất quan tâm đến bản chất và tính chất của Tia vũ trụ.
Vào tháng 1 năm 1933, Lemaître vẫn còn ở Caltech, khi Einstein cũng đến
đó từ Los Angeles. Einstein rất quan tâm đến các tư tưởng về vũ trụ của
Lemaître, trình bày trong công trình “ Primeval Atom Hypothesis ” ( Giả thuyết nguyên tử nguyên thủy ), vừa được công bố năm 1931
. Einstein đã tham dự một hội thảo vào ngày 11 tháng 1 do Lemaître
trình bày về các Tia Vũ trụ tại Đài quan sát trên núi Wilson gần
Pasadena, nơi Edwin Hubble đã làm việc. Chúng ta biết rằng Lemaître coi
những bức xạ đó là một loại “bức xạ hóa thạch”, chúng có thể nói cho
chúng ta biết điều gì đó về những khoảnh khắc đầu tiên của vũ trụ. Sau
buổi hội thảo của Lemaître, Einstein sẽ phải đến một buổi hội thảo về
vật lý lý thuyết. Nhưng ông đã bỏ cuộc hội thảo thứ hai này vì ông thích
tiếp tục thảo luận với Lemaître về vũ trụ học! Thực tế là trong những
cuộc thảo luận này, Einstein cho Lemaître biết rằng ông không thích “Giả
thuyết nguyên tử nguyên thủy” bởi vì, ông nói, “nó gợi ý quá nhiều ý
tưởng (thần học) của sự sáng tạo”. Nhưng thật là kỳ lạ và có lẽ có một
chút trớ trêu, sau một cuộc thảo luận với Lemaître ở Pasadena, nơi
Lemaître trình bày giả thuyết nguyên tử nguyên thủy của mình, Einstein
tuyên bố: “ Đây là lời giải thích tuyệt vời và thỏa đáng nhất về sáng tạo mà tôi từng được nghe
”! Lemaître chưa bao giờ thảo luận triết học thực sự với Einstein.
Nhưng tất nhiên, nhờ đã từng giảng dạy triết học của Thomas Acquinas ở
Louvain, Lemaître nhận thấy rõ sự lẫn lộn của Einstein về sự “SÁNG TẠO”
và sự “KHỞI ĐẦU”, giống như một số lớn các nhà vũ trụ học sau Einstein.
Theo Lemaître, điểm kỳ dị ban đầu không phải là “sự sáng tạo” (theo nghĩa thần học) mà chỉ là “sự khởi đầu tự nhiên” như ông đã nói nhiều lần.

Vào thời điểm này, Einstein đã chấp nhận
ý tưởng về một vũ trụ giãn nở nhưng ông không thể chấp nhận một điểm kỳ
dị ban đầu, một sự khởi đầu của vũ trụ. Ông đề nghị Lemaître sửa đổi
một chút mô hình vũ trụ của mình, vốn đẳng hướng và đồng nhất, để chấp
nhận một bất đẳng hướng nào đó với hy vọng rằng nhờ sự thay đổi đó vũ
trụ sẽ tránh được điểm kỳ dị ban đầu. Ngay lập tức Lemaître đã chứng
minh rằng vũ trụ bất đẳng hướng này (cái mà ngày nay chúng ta gọi là vũ
trụ Bianchi) sẽ không tránh được điểm kỳ dị. Một số manh mối chỉ ra rằng
trong các cuộc thảo luận của họ tại Pasadena, Lemaître nắm lấy cơ hội
để biết một chút về các giả định nằm trong cốt lõi quan điểm của
Einstein về vũ trụ. Ví dụ, Lemaître mạnh mẽ ủng hộ một vũ trụ hữu hạn
bởi vì ông cho rằng một vũ trụ vô hạn không thể thực sự thích hợp với tư
duy của con người. Do đó, Lemaître đã cố gắng hiểu liệu Einstein có
thực sự tin vào khả năng của một vũ trụ vô hạn hay không.
Ngày 17 tháng 1 năm 1933, Lemaître đã tổ
chức một buổi hội thảo về vai trò của “hằng số vũ trụ” (nằm trong các
phương trình Einstein, liên quan với một loại lực hấp dẫn đẩy, chịu
trách nhiệm cho sự giãn nở gia tốc vũ trụ hiện tại). Tại đây Einstein
tham gia thảo luận cùng với Paul Epstein và Richard Tolman, cả hai giáo
sư vật lý tại Caltech. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề của hằng số vũ trụ,
bởi vì Einstein, người đã giới thiệu hằng số này vào năm 1917 để có được
vũ trụ hình cầu và tĩnh của mình, không đồng ý với Lemaître về tầm quan
trọng vật lý của hằng số như vậy. Có một giai thoại từ thời gian này.
Nhiều nhà báo đã cố gắng lấy thông tin từ các cuộc thảo luận của
Einstein-Lemaître. Hằng số vũ trụ được viết trong các phương trình của
Einstein bởi một chữ cái tiếng Hy Lạp, một “lambda nhỏ”, và một số nhà
báo nói đùa về hằng số đó như “chú cừu nhỏ”!…Tháng 2 năm 1933, Lemaître
quay lại Louvain để bắt đầu một học kỳ mới.
Năm 1933, hai nhà vật lý rất vui khi
được gặp lại nhau một lần nữa. Einstein, người không thể quay trở lại
Đức do Đức Quốc xã, được chào đón và bảo vệ ở Bỉ, bởi gia đình hoàng gia
Bỉ: Vua Albert và Nữ hoàng Elisabeth đã trở thành bạn thân. Ông đã nhận
được một biệt thự tại De Haan (Le Coq-sur-Mer), một thị trấn nhỏ ven
biển trên bờ biển Bỉ, và Lemaître đã đến thăm Einstein ở đó một lần.
Trong thời gian lưu trú tại Bỉ, Einstein đã diễn thuyết tại ba cuộc hội
thảo về Lý thuyết spinor tại “Hội Đại học” (Fondation Universitaire) ở
trung tâm Brussels. Théophile De Donder đã tổ chức một trong các cuộc
hội thảo này. Điều đáng lưu ý ở đây là De Donder đã có ảnh hưởng sâu sắc
đến Lemaître ngay từ đầu sự nghiệp của Lemaître về những hiểu biết đối
với Thuyết tương đối rộng. Bài báo khoa học đầu tiên của Lemaître thực
ra là dành riêng cho một đề tài về các biến thể do De Donder xây dựng.
Lemaître đã được Einstein mời để nói về Lý thuyết spinor. Một số nhà báo
hỏi Einstein liệu ai trong số các khán giả có thể hiểu được điều gì đó
trong các bài diễn thuyết của ông? Einstein cười trả lời: “De Donder có
lẽ hiểu, Abbé Lemaître thì chắc chắn hiểu!”. Lý thuyết spinor là một lý
thuyết rất quan trọng được sử dụng để mô tả các electron tương đối tính.
Ngài Arthur Eddington là một trong những giáo sư của Lemaître ở
Cambridge (Vương quốc Anh) đã giới thiệu với Lemaître hình thức đại số
của một lý thuyết như vậy. Lemaître cũng đã đóng góp cho lý thuyết này,
nhìn thấy trước một số tác phẩm của nhà vật lý người Ý nổi tiếng Ettore
Majorana, và đến cuối đời Lemaître vẫn chú ý đến lý thuyết này. Ông dạy
lý thuyết này trong những bài giảng của ông ở Đại học Louvain và thảo
luận về lĩnh vực này với nhà toán học nổi tiếng người Pháp Elie Cartan.
Tháng 1 năm 1935, Lemaître trở lại Mỹ
theo lời mời của Trường Toán học thuộc Viện Nghiên cứu Cao cấp
Princeton, nơi Einstein được bổ nhiệm làm giáo sư. Trong thời gian lưu
trú ở đây, Lemaître đã tổ chức một cuộc họp của một số giáo sư của Viện
để thảo luận về những tư tưởng cuối cùng của Einstein liên quan đến Lý
thuyết Trường Thống nhất (Theory of Unified Theory) của ông. Nhưng thực
ra Lemaître nhận thấy ý tưởng của Einstein không dễ được chấp nhận, bởi
vì nhiều người cho rằng ông đang đi đến bế tắc. Lemaître rất ngưỡng mộ
các tác phẩm của Einstein nhưng ông đã nhận rõ giới hạn của một số nỗ
lực lý thuyết cuối cùng của Einstein. Ông lễ độ phê phán tính xu hướng
trong lý thuyết của Einstein về trường thống nhất ─ tính xu hướng ấy
loại trừ các khái niệm không phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ của riêng
Einstein. Điều này rất quan trọng bởi vì nó cho thấy một cái gì đó về
triết lý của Lemaître. Lemaître cho rằng một nhà khoa học luôn luôn phải
đi theo con đường hẹp ngang qua cùng một khoảng cách giữa hai chướng
ngại vật: “chủ nghĩa thực chứng cận thị vốn không thể đi xa quá kinh
nghiệm và chủ nghĩa lý tưởng mơ mộng đánh mất mọi sự tiếp xúc với kinh
nghiệm”. Lemaître nhận ra rằng một số công trình của Einstein, vốn cố
gắng khái quát hóa lý thuyết hấp dẫn của ông, đã tiến về phía chướng
ngại vật này. Lemaître rời Mỹ vào tháng 6 năm 1935. Thực ra đó là lần
cuối cùng ông gặp Einstein.
Năm 1949, P.A. Schilpp đề xuất với tu sĩ
Lemaître viết một chương trong cuốn sách “Nhà triết học và nhà khoa học
Albert Einstein” sẽ được xuất bản nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70
của Einstein. Ở Pasadena và ở Princeton, phần lớn các cuộc thảo luận
của Einstein-Lemaître đã được dành cho vấn đề hằng số vũ trụ. Einstein
muốn bỏ hằng số đó đi nhưng Lemaître cho rằng đó là một đại lượng rất
quan trọng, nhưng có thể nó chưa được xây dựng tốt như một đại lượng thể
hiện tính tương đối của vũ trụ. Trong một bức thư ngày 30 tháng 7 năm
1947 gửi Einstein, Lemaître nói rằng theo ông việc nêu lên hằng số vũ trụ là một trong những đóng góp lớn nhất của Einstein đối với khoa học
! Do đó Lemaître quyết định viết một bài liên quan đến hằng số này, như
một cách để tiếp tục các cuộc thảo luận ở Pasadena. Ngày nay, thật thú
vị khi nhận ra rằng Lemaître thực sự có một trực giác rất sâu sắc và
đúng đắn. Trên thực tế, dữ liệu thiên văn gần đây cho thấy hằng số vũ
trụ không thể bị loại bỏ vì nó liên quan đến sự giãn nở gia tốc của vũ
trụ mà khoa học quan sát được, và liên quan tới “năng lượng tối” nổi
tiếng. Để hiểu rõ ý nghĩa của hằng số này, có lẽ chúng ta cần một số lý
thuyết trường lượng tử và Lemaître cũng nghĩ như vậy. Trong khi giải
thích về hằng số vũ trụ, Lemaître chưa bao giờ thuyết phục được
Einstein. Thậm chí Lemaître thú nhận rằng ông luôn luôn không hiểu được
những lý lẽ mà cha đẻ của thuyết tương đối sử dụng nhằm loại bỏ hằng số
nổi tiếng này. Đến cuối đời, Einstein xem hằng số vũ trụ thật là “đáng
ghét” khi nó mô tả lực hấp dẫn theo hai ý nghĩa độc lập: nó là lực hút
(theo nghĩa cổ điển) và là lực đẩy (theo nghĩa làm vũ trụ giãn nở gia
tốc).
Có thể nhấn mạnh ở đây sự khác biệt giữa
hai nhà vật lý, Einstein và Lemaître Trong vật lý lý thuyết, trước hết
Lemaître không bị dẫn dắt bởi những cân nhắc về mặt thẩm mỹ hoặc logic.
Ông thường từ chối đi quá xa trong các suy đoán toán học và ông đã cố
gắng duy trì các quan sát chấp nhận những hình thức không đầy đủ hoặc
gần đúng. Lập trường của Einstein liên quan đến hằng số vũ trụ là một
vấn đề rất quan trọng. Năm 1945, sau khi tham dự một hội nghị của
Lemaître ở Fribourg (Thụy Sĩ), một bạn thân của Einstein là Michele
Besso đã thảo luận với Einstein về một thực tế là Lemaître từ chối việc
đưa hằng số vũ trụ về zero.
Chúng ta có thể kết luận rằng Lemaître
chắc chắn là một trong những nhà khoa học hiểu sâu sắc Thuyết tương đối
tổng quát. Mặc dù có sự khác biệt về mặt lý thuyết và triết học, những
cuộc thảo luận và các bức thư cho thấy Einstein đánh giá cao những đóng
góp về vũ trụ học của Lemaître. Trước mặt Einstein, vị tu sĩ Lemaître
chưa bao giờ thay đổi ở tất cả các lập trường mà Lemaître coi là cơ bản.
Hoàn toàn ngược lại, Lemaître đã cố gắng thuyết phục người cha nổi
tiếng của Thuyết Tương đối Rộng về tư tưởng thích đáng của lý thuyết đó
đối với hiện tượng vũ trụ giãn nở, điểm kỳ dị ban đầu và hằng số vũ trụ
học. Chúng ta biết rằng Einstein đã thay đổi lập trường của mình, chấp
nhận ý tưởng về một vũ trụ giãn nở. Lý do không liên quan trực tiếp đến
cuộc trò chuyện với Georges Lemaître, nhưng chúng ta có thể cho rằng
công trình năm 1927 của Lemaître có thể đóng một vai trò nào đó trong sự
chuyển đổi lý thuyết này. Lemaître có một sự ngưỡng mộ lớn đối với
Albert Einstein, nhà khoa học và nhà tư tưởng, người được ông coi là một
trong những “trí tuệ cao quý nhất của nhân loại”.

3/ CÂU HỎI LỚN VỀ TRIẾT HỌC CỦA LÝ THUYẾT BIG BANG
Như bài báo trên đã nói, Lemaître thấy
rõ rằng nhiều người đã hiểu sai Lý thuyết Big Bang khi cho rằng nó là lý
thuyết giải thích sự SÁNG TẠO ra vũ trụ. Lemaître giải thích rằng đó là
một sự hiểu lầm, và rằng lý thuyết của ông chỉ chứng minh VŨ TRỤ ẮT
PHẢI CÓ MỘT KHỞI ĐẦU, chứ không hề giải thích AI đã tạo ra sự khởi đầu
đó.
Và như chúng ta đã thấy, chính Einstein
lúc đầu cũng hiểu lầm, nhưng MAY MẮN THAY, rốt cuộc ông đã hiểu ra để
thốt lên rằng Lý thuyết Big Bang là lời giải thích đẹp nhất và thỏa đáng
nhất về sự sáng tạo.
Phải chăng có điều gì mâu thuẫn ở đây?
Rõ ràng là Lemaître không muốn mọi người hiểu lầm lý thuyết của ông là
một lời giải thích về sự sáng tạo, nhưng Einstein lại thích thú với lý
thuyết ấy vì nó là lời giải thích đẹp nhất và thỏa đáng nhất về sự sáng
tạo?
KHÔNG! Không có mâu thuẫn gì cả.
Lý thuyết khoa học của Lemaître dừng lại
ở Nguyên tử Nguyên thủy, mà sau này các nhà vũ trụ học gọi là “điểm kỳ
dị” (singularity point), tức điểm ban đầu của vũ trụ. Và Einstein cuối
cùng cũng đã thừa nhận điều đó. Các nhà vật lý và toán học hàng đầu
trong nửa sau thế kỷ 20 như Roger Penrose và Stephen Hawking, bằng những
nghiên cứu toán học riêng của mình, cũng đi tới kết luận về sự khởi đầu
tất yếu của vũ trụ. Nói cách khác, từ Thuyết Tương đối Tổng quát và các
dữ liệu quan sát thiên văn, toán học và vật lý học đã chứng minh rằng
vũ trụ thực sự có một lịch sử với một khởi đầu không thể tránh được. Có
nghĩa là khoa học thế kỷ 20 rốt cuộc đã đoạn tuyệt dứt khoát với tư
tưởng của Aristotle từng thống trị trong hơn hai thiên niên kỷ trước đó
về một vũ trụ không có khởi đầu và cũng không có kết thúc.
Nhưng oái oăm thay, Lý thuyết Big Bang, một lý thuyết 100% vật lý học, tự động dẫn tới một CÂU HỎI TRIẾT HỌC VÔ CÙNG LỚN mà vật lý học hoàn toàn bất lực, không thể trả lời.
Câu hỏi đó là:
Ai đã SÁNG TẠO ra điểm khởi đầu và châm ngòi cho nó nổ, giãn nở, và đi vào vận hành theo những định luật vật lý xác định?
Chuyện oái oăm này từ đâu mà ra? Từ Lemaître chăng? Không! Vậy từ Einstein chăng? Không!
Câu trả lời là từ Thuyết Tương đối Tổng
quát của Einstein mà chính Einstein cũng bị bất ngờ, tương tự như ông đã
bị bất ngờ với sự cần thiết phải có một Hằng số Vũ trụ trong mô hình vũ
trụ của ông!
Nói cách khác, chuyện oái oăm này bắt nguồn từ chính KHOA HỌC ─
khoa học tự đưa mình đến những câu hỏi mà khoa học không thể trả lời.
Đó chính là tình trạng khoa học của thế kỷ 20, như một hệ quả thực tế mà
Định lý Gödel đã dự đoán!
Định lý Bất toàn của Gödel chỉ ra rằng
tư duy lý trí có giới hạn. Và nay là lúc chúng ta có thể chứng kiến khoa
học đang tiệm cận tới giới hạn đó. Thật vậy:
Định lý Gödel chính là một cảnh báo cho thấy siêu toán học đã đi tới giới hạn của toán học!
Vật lý lượng tử chính là một cảnh báo
cho thấy nhận thức về thế giới vật chất bị dừng lại ở Hằng số Planck.
Nhà vật lý Grichka Bordanov nói rất rõ về điều này:
“Thật ra các nhà vật lý không hề nghĩ
tới cái gì có thể giải thích được sự xuất hiện của vũ trụ. Họ có thể đi
ngược lên tới 10^(-43) giây, nhưng quá điểm đó thì không. Lúc đó họ húc
phải “bức tường Planck” nổi tiếng. Sở dĩ nói như thế vì nhà vật lý xuất
sắc người Đức này là người đầu tiên chỉ ra rằng khoa học không thể giải
thích được các ứng xử của nguyên tử trong những điều kiện trong đó lực
hấp dẫn trở thành cực đại… Chính điều đó ngăn cản chúng ta biết về những
gì xảy ra trước 10^(-43) giây: lực hấp dẫn dựng lên một chướng ngại
không vượt qua được đối với sự tìm tòi: bên kia bức tường Planck là sự
huyền bí tuyệt đối” .
Tiến sĩ vật lý Igor Bordanov cũng biểu lộ quan điểm tương tự:
“10^(-43) giây, đó là Thời gian Planck…
Đó cũng là giới hạn cuối cùng của nhận thức của chúng ta, là điểm cuối
cuộc hành trình trở về nguồn gốc. Đằng sau bức tường đó còn ẩn giấu một
hiện thực không thể tưởng tượng ra được. Một cái gì đó không bao giờ
chúng ta hiểu được,…”.
Dường như ý thức được một cách sâu sắc
về giới hạn như thế nên bản thân Georges Lemaître, một tu sĩ Công giáo,
người đặt nền móng cho Lý thuyết Big Bang, không hề có ý định đưa ra một
câu trả lời nào cho CÂU HỎI LỚN VỀ TRIẾT HỌC của Lý thuyết Big Bang.
Toàn bộ nghiên cứu của ông chỉ là những suy diễn chính xác về toán học,
xuất phát từ Thuyết Tương đối Tổng quát của Einstein, và đã được xác
nhận bởi các quan sát thiên văn và vũ trụ học. Tiên đoán của Lemaître về
sự khởi đầu của vũ trụ hoàn toàn là một kết quả tự thân của toán học,
không dính dáng gì đến thần học ở đây cả.
Nhưng CÂU HỎI LỚN VỀ TRIẾT HỌC do Lý
thuyết Big Bang nêu lên lại là kết quả tự nhiên không thể né tránh.
Einstein là người cực kỳ nhạy cảm, nên ông đã lập tức nghĩ đến câu hỏi
đó, để rồi chính ông đã tự trả lời theo cách nhìn của ông về thế giới: Lý thuyết Big Bang là lời giải thích đẹp nhất và thỏa đáng nhất về sự SÁNG TẠO.
Không có gì để ngạc nhiên về kết luận
của Einstein, vì ông đã nhiều lần thể hiện niềm tin vào Đấng Sáng tạo Vũ
trụ. Chúa của Einstein là Chúa của Spinoza, tức Đấng sáng tạo ra vũ trụ
và những định luật vật lý buộc vũ trụ phải tuân thủ.
Đối với Einstein, Chúa ẩn mình sau những
công trình vĩ đại của Ngài. Ông dạy cho những người muốn chối bỏ Đấng
Sáng tạo bằng những lời gợi mở rất rõ ràng và sinh động:
“Tôi nhìn thấy một mô hình, nhưng trí
tưởng tượng của tôi không hình dung được người tạo ra mô hình đó. Tôi
nhìn thấy chiếc đồng hồ, nhưng tôi không hình dung được người chế tạo ra
chiếc đồng hồ đó. Tư duy của con người chỉ nhận thức được bốn chiều,
vậy làm sao nó có thể nhận thức được một Chúa, mà đối với Ngài thì một
nghìn năm hay một nghìn chiều cũng chỉ như MỘT mà thôi” (I see a
pattern, but my imagination cannot picture the maker of that pattern. I
see a clock, but I cannot envision the clockmaker. The human mind is
unable to conceive of the four dimensions, so how can it conceive of a
God, before whom a thousand years and a thousand dimensions are as
one?).
Câu nói của Einstein có thể được hiểu
như sau: Tôi nhìn thấy một mô hình, tôi kết luận chắc chắn phải có một
tác giả của mô hình đó. Tôi nhìn thấy chiếc đồng hồ, tôi kết luận chắc
chắn phải có người chế tạo ra chiếc đồng hồ. Vũ trụ là một mô hình vĩ
đại, chắc chắn phải có ĐẤNG SÁNG TẠO ra mô hình đó. Nhưng Đấng Sáng tạo
đó quá vĩ đại nên giác quan tầm thường và trực giác ngu tối của con
người không thể tiếp cận trực tiếp với Ngài được, nhưng lập luận logic
có thể tin chắc chắn Ngài tồn tại ─ Ngài ẩn mình sau những công trình
sáng tạo vĩ đại của Ngài.
Thiết tưởng logic của Einstein rất dễ
hiểu và thuyết phục, ấy thế mà vẫn có những người không hiểu hoặc không
muốn hiểu. Có lẽ Einstein đã từng va chạm với những người như thế nên
ông không còn cách nào để nói ngoài sự thất vọng vô hạn trước “cái NGU
của con người”. Quả thật, không chỉ một lần, mà nhiều lần ông đã công
khai bày tỏ nỗi thất vọng đó:
- “Chỉ có hai thứ vô hạn: vũ trụ và cái ngu của con người; tôi không chắc về cái thứ nhất” (Only two things are infinite: the universe and human stupidity; I am not sure about the former) [6]

- “Tính đa số của những người ngu xuẩn là vô địch và thiên thu trường tại”
Đứng trước những người chậm hiểu, các
bậc cao thâm thường hay sử dụng lối nói ẩn dụ để lay động trái tim của
người nghe. Einstein là một nhà khoa học vĩ đại thường sử dụng lối nói
ẩn dụ đó. Hãy suy ngẫm câu nói sau đây của ông:
“Tự Nhiên chỉ để lộ cho chúng ta thấy
cái đuôi con sư tử. Nhưng tư duy của tôi không có gì để nghi ngờ rằng có
một con sư tử gắn với cái đuôi ấy, mặc dù nó không thể để lộ toàn bộ
bản thân nó cho ta thấy ngay tức khắc, bởi vì kích thước của nó quá
khổng lồ” (Nature shows us only the tail of the lion. But there is no
doubt in my mind that the lion belongs with it even if he cannot reveal
himself to the eye all at once because of his huge dimension).
Trong thực tế không thiếu gì những nhà
khoa bảng, thậm chí những nhà khoa học xuất sắc trông thấy cái đuôi con
sư tử nhưng không chịu thừa nhận sự hiện hữu của con sư tử.
Tại sao vậy?
Vì họ đã chót tuyên bố không cần đến Chúa để giải thích ai đã châm ngòi cho vũ trụ bùng nổ và đưa nó vào vận hành.
Nhưng khoa học đưa họ đến những thách thức oái oăm buộc họ phải dứt khoát lựa chọn một trong hai câu trả lời:
- Hoặc thừa nhận Chúa sáng tạo ra vũ trụ
- Hoặc phải giải thích được nguyên nhân vật chất tạo ra vũ trụ.
Họ không thể chọn câu trả lời thứ nhất.
Nhưng sự lựa chọn câu trả lời thứ hai đưa họ đến NAN ĐỀ không thể giải
quyết được. NAN ĐỀ ấy vượt quá tầm với của khoa học.
Stephen Hawking , trong bải giảng nổi tiếng của ông năm 2002, nhan đề “ Gödel and The End of Physics” (Gödel và sự kết thúc của vật lý) , đã nói:
“ Cả chúng ta lẫn các mô hình
của chúng ta đều là một bộ phận của vũ trụ mà chúng ta đang mô tả. Như
vậy, một lý thuyết vật lý là một hệ tự quy chiếu, như trong định lý của
Gödel. Do đó người ta có thể cho rằng nó hoặc không nhất quán hoặc không
đầy đủ ”.
Trong kết luận của mình, ông nhấn mạnh:
“Cho đến nay, các lý thuyết hiện có vừa không nhất quán vừa không đầy đủ” .
Nếu vậy thì làm sao vật lý học có thể giải thích được nguồn gốc của vũ trụ?
Vậy đứng trước CÂU HỎI LỚN VỀ TRIẾT HỌC do Lý thuyết Big Bang đặt ra, chúng ta nên trả lời ra sao?
Thay cho KẾT LUẬN, xin trích một đoạn trong bài báo của Perry Marshall, nhan đề “ Định lý Bất toàn của Gödel: Khám phá Toán học #1 trong thế kỷ 20 ”:
“Nếu bạn có dịp thăm một trang mạng vô
thần lớn nhất thế giới có tên là Infidels, bạn sẽ thấy trên trang chủ
lời tuyên bố sau đây: “Chủ nghĩa tự nhiên (naturalism) là giả thuyết cho
rằng thế giới tự nhiên là một hệ đóng, ngụ ý rằng không có cái gì không
phải là thành phần của thế giới tự nhiên mà lại ảnh hưởng lên nó”. Nếu
bạn biết Định lý Gödel, bạn sẽ thấy rằng mọi hệ logic phải phụ thuộc vào một cái gì đó ở bên ngoài hệ thống . Vậy theo Định lý Bất toàn của Gödel, tuyên bố của trang mạng Infidels không thể chính xác. Nếu vũ trụ là logic, nó phải có một nguyên nhân bên ngoài
. Do đó chủ nghĩa vô thần vi phạm các định luật của lý lẽ và logic.
Định lý Bất toàn của Gödel chứng minh một cách dứt khoát rằng khoa học
không bao giờ có thể lấp kín những lỗ hổng của chính nó. Chúng ta không
có lựa chọn nào khác là nhìn ra bên ngoài khoa học để tìm câu trả lời.
Tính Bất toàn của vũ trụ không phải là chứng minh cho việc Chúa tồn
tại. Nhưng… đó LÀ chứng minh cho nhận định rằng để kiến tạo nên một mô
hình vũ trụ hợp lý thì niềm tin vào Chúa không chỉ logic 100%… mà đó là
điều cần thiết ”.
Đó cũng là kết luận của câu chuyện hôm
nay: Lý thuyết Big Bang là lời giải thích đẹp nhất và thỏa đáng nhất về
sự SÁNG TẠO mà Albert Einstein từng được nghe trong đời ông!
Tác giả: Phạm Việt Hưng"
***
( Còn nữa)
Nhận xét
Đăng nhận xét