Bãi cọc sông Bạch Đằng.
Kinh
thành Thăng Long hoang tàn vì đã ba lần bị giặc vào phá nát cùng với
chính sách vườn không nhà trống - tự tiêu thổ để kháng chiến (1258,
1285, 1288). Sau ngày toàn thắng, trở lại kinh sư, đến Thượng hoàng Trần
Thánh Tông cũng phải trú tạm nơi hành lang của đám thị vệ, nên có người
trong triều chủ trương dồn sức để xây lại cung điện thành quách.
Vị
tổng tư lệnh cầm quân đánh giặc can rằng, lúc này phải lo lắng cho cuộc
sống của người dân và phải năng vun đắp cho lòng người thì nền móng xã
tắc mới mong bền vững .
Đó cũng là lời tổng kết
sâu sắc từ trải nghiệm của ba thập kỷ bền bỉ chống chọi với ba lần quân
xâm lược Nguyên-Mông kéo sang đánh chiếm Đại Việt. Quốc công Tiết chế
Hưng Đạo Đại vương không chỉ bằng tài dụng binh cùng quân dân cả nước để
lại những chiến công hiển hách, mà còn trao truyền cho đời sau những tư
tưởng sáng suốt về kế sách giữ nước như “khoan thư sức dân để làm kế
sâu rễ bền gốc, coi đó là thượng sách giữ nước” hay “Vua tôi đồng lòng,
anh em hòa thuận, nước nhà chung sức”...
Người
anh hùng trong chiến tranh giữ nước đã viết hai bộ binh thư (Binh thư
yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư) và để lại một áng hùng văn về
cuộc kháng chiến cứu quốc (Hịch tướng sĩ văn); cái còn, cái đã thất
truyền, nhưng ngài luôn dạy rằng để học hỏi người xưa, người đời sau này
phải “sáng suốt mà thi hành, bày xếp, không được ngu dốt mà trao chữ
truyền lời”. Có nghĩa là phải sáng tạo, chớ có giáo điều.
Vì
thế mà sau ngày ngài mất, Vua Trần Anh Tông còn truy phong Hưng Đạo Đại
vương thêm hai chữ “Nhân vũ” (nhân tướng, có tài cầm quân lại cố kết
được lòng người). Và vị đại vương họ Trần đã hiển thánh trong lòng dân
ta muôn đời như một trong “tứ bất tử” của Thần điện Việt Nam.
Tuần
này nhắc tới tên ngài là vì tại Quảng Yên, một cuộc hội thảo vừa được
tổ chức nhân kỷ niệm 725 năm Chiến thắng Bạch Đằng (1288-2013) lại đúng
vào dịp Thủ tướng Chính phủ vừa xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt cho
quần thể các di tích liên quan đến trận chiến lịch sử này trên địa bàn
thị xã Quảng Yên và huyện Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Trong
một cuộc hội thảo khoa học về một trận đánh lớn tầm vóc của một trận
quyết chiến chiến lược không chỉ tiêu diệt và bắt sống toàn bộ đạo binh 4
vạn quân cùng sáu trăm chiến thuyền do tướng Ô Mã Nhi chỉ huy tại cửa
sông Bạch Đằng, mà còn đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế chế
Nguyên-Mông, thế nào cũng phải bàn đến những nội dung của chiến tranh.
Những phân tích về bối cảnh, thời cơ, về chiến lược chiến thuật, về
tương quan lực lượng, về thời tiết, thủy văn cho một trận đánh trên sông
nước và về các di sản vật thể hay phi vật thể còn lại đã hóa thân vào
đời sống văn hóa, nghệ thuật và đời sống tâm linh v.v...
Nhưng
cái tâm điểm của hội thảo đều quy về yếu tố con người. Con người Việt
Nam cách đây đã hơn bảy thế kỷ và thể chế chính trị xã hội của nó như
thế nào mà làm nên cái kỳ tích hiển hách ấy. Và câu kết của cả hai áng
thơ và phú nổi tiếng đương thời viết về Bạch Đằng Giang đều có chung môt
ý tứ: “Tại đâu đất hiểm, cốt người đức cao” (Trương Hán Siêu) hay “Bán
tại quan hà, bán tại nhân” (một nửa nhờ địa thế núi sông, một nửa do con
người - Nguyễn Sưởng).
Ngoài vị đại tướng đã
hiển thánh, không thể không nhắc tới các đấng quân vương đã làm nên
triều đại nhà Trần. Trần Thái Tông- vị vua đầu ngôi của triều Trần lên
ngôi khi mới 7 tuổi mà ở ngôi có 20 năm (1225-1258)- đã đủ sức trưởng
thành trực tiếp thống lĩnh quân dân cả nước đánh tan cuộc xâm lăng đầu
tiên của giặc phương Bắc, khẳng định vương hiệu nhà Trần của quốc gia
Đại Việt, được sử sách khen “tính khoan hậu, chuộng văn học, đặt khoa
mục, dùng hiền tài, dụng lễ nghi, đặt hình luật, điển chương chế độ rõ
rệt.”.
Chính Thái Tông- ngay sau khi thắng giặc-
đã tự mình rời bỏ ngai báu trao lại cho con trai, người cũng đã từng
tham gia chiến trận, đặt ra chế độ “Thái thượng hoàng” để lo kế sách đại
sự quốc gia, tự mình dành hơn một thập kỷ cuối đời (1258-1277) để mài
dùi kinh sách, Phật pháp (viết Khóa hư lục) và chăm sóc vua con Trần
Thánh Tông giữ gìn chính sự.
Nối nghiệp vua cha,
Trần Thánh Tông ngồi trên ngai báu cai quản quốc gia đến lúc vua cha
vừa băng hà (1277) đã rời ngôi trao lại cho con mang vương hiệu Trần
Nhân Tông, để làm Thái thượng hoàng rồi cả hai cha con tiến hành liên
tục hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên-Mông sang xâm lăng cho đến
thắng lợi hoàn toàn. Sử sách khen: “Tính vua trung hiếu, nhân từ, nhân
với người thân, hòa mục với họ hàng, tôn hiền, trọng đạo, thực là một vị
vua hiền”.
Đến Trần Nhân Tông không chỉ vang
danh là một vị anh hùng cứu nước khi cùng vua cha đánh hai trận giặc rồi
cũng noi theo tiền nhân, khi vua cha qua đời lại trao ngôi báu cho con
làm Thái thượng hoàng,rồi lên núi Yên Tử tu thiền sáng lập ra cả một
Thiền phái Trúc Lâm lấy nhân nghĩa, yêu thương, hòa giải làm hồn cốt
xứng đáng với ngôi vị Phật hoàng trong dân chúng và tín đồ đạo Phật Việt
Nam. Sử sách khen là “vua nhân từ, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng
hưng sáng ngời thuở trước” cũng được gọi là “vua hiền của nhà Trần”, lại
thêm lời bình “biết dùng người giỏi, lập nên võ công, nếu không có tư
chất nhân, chính, anh, võ thì sao được như thế”...
Lại
nói tổ tiên của họ Trần chỉ là những người đánh cá, nên buổi đầu Thái
sư Trần Thủ Độ tuy là người mưu lược biết xoay chuyển chính trị để dựng
nghiệp nhà Trần từ cuộc hôn nhân với Chiêu Hoàng của tiên triều Nhà Lý.
Sách sử có chê là “ít học”, nhưng lại ngợi ca hành xử hào hùng và tiết
tháo bằng câu nói để đời cũng trong sử sách: Nếu bệ hạ đầu hàng hãy chém
đầu thần đã. Và triều đại nhà Trần đã thể hiện trong lịch sử không chỉ
nổi tiếng với nhiều chiến tướng, chiến công trong trận mạc, mà còn đạt
tới nhiều đỉnh cao trí tuệ của thời đại Đông A mà bác học Lê Quý Đôn
đánh giá là một trong những triều đại “có tiếng văn hiến”...
Đây
cũng là triều đại để lại nhiều tên tuổi trong lịch sử và cho hậu thế
bên cạnh các đấng quân vương anh hùng cái thế của nhà Trần cùng Hưng Đạo
Đại vương còn có Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư hay Yết
Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu...
Đó
là những danh nhân được ghi trong quốc sử; nhưng còn trong pho sử hoành
tráng của dân gian thì có biết bao nhiêu ngôi đền thờ không chỉ Đức
thánh Trần, mà còn của rất nhiều nhân vật có tên hay không có tên trong
một hệ thống truyền thuyết dân gian rất phong phú gắn với các ngôi đền
hay các lễ hội, không chỉ được dân gìn giữ bảo tồn mà còn được người
đứng đầu mọi triều đại nối nhau công nhận và phong sắc như một truyền
thống văn hiến...
Do vậy không lấy gì làm ngạc
nhiên, ngay sau khi nước ta giành được độc lập, vào vào dịp “tháng tám
giỗ Cha” theo tập quán dân gian, truyền thống vẫn không bị đứt đoạn như
một tờ báo đương thời mô tả: “Từ năm này sang năm khác, cái sóng người
làm ngập đền Kiếp Bạc đã giữ vững cho chúng ta cái kỷ niệm của bậc danh
tướng đời Trần, đã luôn luôn bắt chúng ta không được quên chiến công
oanh liệt trên sông Bạch Đằng.
Năm nay, lần thứ
nhất chúng ta được tự do làm giỗ Đức Trần Hưng Đạo có tính cách quốc
gia. Cái quyền yêu nước, cái quyền sùng kính danh nhân Việt Nam chúng ta
lấy được lại rồi... Dựa vào những tầng lớp thanh niên quả cảm, dân tộc
Việt Nam lại thắng một lần nữa cũng như các vị anh hùng cứu quốc khi
xưa” (Báo Dân Quốc).
Nhưng vào năm đầu của nền
dân quốc ấy, lễ giỗ Đức thánh Trần được tổ chức ngay trung tâm thủ đô
của nước Việt Nam vừa độc lập. Hàng vạn người dân đã đến dự một cách
thành kính và nghiêm trang. Thể theo lời kêu gọi của chính quyền mới,
không ai mang vàng mã đến đốt mà chỉ mang theo vật phẩm dâng lễ để sau
đó mang đến cứu giúp đồng bào bị đói, trẻ em mồ côi hay các đơn vị quân
đội mới thành lập còn đang thiếu thốn mọi bề. Báo chí mô tả, lễ diễn ra
suốt một ngay và số lễ vật thu được đến 5 tấn nhu yếu phẩm được dùng vào
đúng những mục đích thiết thực.
Ôn lại sử sách,
xem chuyện người xưa anh hùng quả cảm trong sự nghiệp lại biết cách gìn
giữ truyền thống không khỏi chạnh nghĩ đến chuyện nay. Vẫn non sông ấy,
nhưng cái nửa con người (bán tại nhân) thì mỗi thời mỗi khác. Đọc lại ý
thơ xưa “Tại đâu đất hiểm, bởi người đức cao” mà thấy lo, để đọc lại
lời răn xưa: “Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, nước nhà chung sức”.
Đọc
lại tư tưởng xưa coi khoan thư sức dân là thượng sách để làm kế sâu rễ
bền gốc... Soi vào phẩm cách của các đấng quân vương xưa dám nhường ngôi
để mưu tính lâu dài cho cơ đồ quốc gia, biết dùng người hiền, biết tạo
người tài, biết nghe lời ngay thẳng và biết dựa vào dân...; hay biết học
người xưa bằng sáng tạo mà không giáo điều như lời dặn của Đức thánh
Trần... thì không thể không nghĩ về lời răn của người xưa về “Chúng chí
thành thành”.
Vẫn diễn ra cái người ta đến với
ngôi đền biểu tượng cho hào khí Đông A của người xưa trong cảnh chen
chúc, xô đẩy hay “ra luồn vào cúi” chỉ để có được miếng lá ấn hão huyền
cầu xin thăng quan tiến chức thì thật đáng hổ thẹn với người xưa...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét