-Luật
chống tham nhũng đưa ra dù "hay mọi nhẽ" bao nhiêu chăng nữa, nhưng
không quyết tâm thực hiện triệt để, thì đúng chỉ là "hổ giấy" (tờ giấy
làm xấu hổ chính quyền!) mà thôi. -Muốn
dân tin yêu mình thì mình phải hết lòng vì dân, nghĩa là trong chống
tham nhũng phải nói được, làm được và ưu tiên bênh vực người "thấp cổ bé
họng"! -Ta
đã thắng lợi vẻ vang trên mặt trận ngoại xâm, thì hà cớ gì trên mặt
trận chống tham nhũng, cũng được nhân dân đồng lòng ủng hộ i hệt, ta lại
thua!? -Phải chăng cán bộ chính quyền hiện nay không còn tinh thần xả thân vì nước như xưa kia nữa!? -Hay không muốn thắng vì như thế té ra..."gậy ông đập lưng ông"!...
---------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo, ông được rửa tội tại Nhà thờ Tam Tòa với tên thánh là Phanxicô.
Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì
liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm
Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh
ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự
y có danh thời vua Tự Đức), sinh hạ được 8 người con:
1-Nguyễn Bá Nhân (tức nhà thơ Mộng Châu) cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn.
2- Nguyễn Thị Như Lễ.
3- Nguyễn Thị Như Nghĩa.
4- Nguyễn Trọng Trí (tức nhà thơ Hàn Mặc Tử).
5- Nguyễn Bá Tín (người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày ngày 13 tháng 2 năm 1959).
6- Nguyễn Bá Hiếu;
7- Nguyễn Văn Hiền
8- Nguyễn Văn Thảo.
Hàn Mặc Tử mang vóc mình ốm yếu, tính tình hiền từ, giản dị, hiếu học
và thích giao du bè bạn trong lĩnh vực văn thơ. Do cha ông là Nguyễn
Văn Toản làm thông ngôn, ký lục nên thường di chuyển nhiều nơi, nhiều
nhiệm sở, nên Hàn Mặc Tử cũng đã theo học ở nhiều trường khác nhau như
Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Pellerin Huế (1926).
Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông cũng đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của chí sỹ này. Ông được Phan Bội Châu giới thiệu bài thơ Thức khuya của mình lên một tờ báo. Sau này, ông nhận một suất học bổng đi Pháp nhưng vì quá thân với Phan Bội Châu nên đành đình lại. Ông quyết định vào Sài Gòn lập nghiệp, năm ông 21 tuổi; lúc đầu làm ở Sở Đạc Điền.
Đến Sài Gòn, ông làm phóng viên phụ trách trang thơ cho tờ báo Công luận. Khi ấy, Mộng Cầm ở Phan Thiết
cũng làm thơ và hay gửi lên báo. Hai người bắt đầu trao đổi thư từ với
nhau, và ông quyết định ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Một tình yêu lãng
mạn, nên thơ nảy nở giữa hai người.[3]
Theo gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát
hiện những dấu hiệu của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng
không quan tâm vì cho rằng nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng
kể. Cho đến năm 1936, khi ông được xuất bản tập "Gái quê", rồi đi Huế,
Sài Gòn, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn lần thứ hai, được bà Bút Trà cho biết đã lo xong giấy phép cho tờ Phụ nữ tân văn,
quyết định mời Hàn Mặc Tử làm chủ bút, bấy giờ ông mới nghĩ đến bệnh
tật của mình. Nhưng ý ông là muốn chữa cho dứt hẳn một loại bệnh thuộc
loại "phong ngứa" gì đấy, để yên tâm vào Sài Gòn làm báo chứ không ngờ
đến một căn bệnh nan y.
Năm 1938 - 1939, Hàn Mặc Tử đau đớn dữ dội. Tuy nhiên, ở bên ngoài thì
không ai nghe ông rên rỉ than khóc. Ông chỉ gào thét ở trong thơ mà
thôi. Trước ngày Hàn Mặc Tử vào trại phong Quy Hòa, Nguyễn Bá Tín, em ruột của nhà thơ cho biết tình trạng bệnh tật của anh mình như sau: Da
anh đã khô cứng, nhưng hơi nhăn ở bàn tay, vì phải vận dụng sức khỏe để
kéo các ngón khi cầm muỗng ăn cơm. Bởi vậy, trông như mang chiếc "găng"
tay bằng da thô. Toàn thân khô cứng.
Ông Nguyễn Bá Tín, trong một chuyến thăm Bệnh viện Quy Hòa, có đến thăm bác sĩ Gour Vile. Bác sĩ nói rằng: Bệnh cùi rất khó phân biệt. Giới y học (thời đó) chưa biết rõ lắm. Tuy triệu chứng giống nhau, nhưng lại có nhiều thứ. Ông bác sĩ quả quyết bệnh cùi không thể lây dễ dàng được. Nhiều thông tin cho rằng, một hôm Hàn Mặc Tử đi dạo với bà Mộng Cầm ở lầu Ông Hoàng (Phan Thiết),
qua một cái nghĩa địa có một ngôi mộ mới an táng thì gặp mưa. Bỗng ông
phát hiện ra từng đốm đỏ bay lên từ ngôi mộ. Sau đó ông về nhà nghỉ, để
rồi sớm mai ông phát hiện ra mình như vậy. Đó là căn bệnh do trực khuẩn Hansen gây nên.
Trước đây vì thành kiến
sai lầm rằng đây là căn bệnh truyền nhiễm nên bao nhiêu bệnh nhân đã bị
hắt hủi, cách ly, xa lánh thậm chí bị ngược đãi, thì Hàn Mặc Tử cũng
không là ngoại lệ. Lúc này, gia đình ông phải đối phó với chính quyền địa phương vì họ đã hay tin ông mắc căn bệnh truyền nhiễm,
đòi đưa ông cách ly với mọi người. Sau đó gia đình phải đưa ông trốn
tránh nhiều nơi, xét về mặt hiệu quả chữa trị thì đúng là phản khoa học
vì lẽ ra cần phải sớm đưa ông vào nơi có đầy đủ điều kiện chữa trị nhất
lúc bấy giờ là Bệnh viện phong Quy Hòa.. Trong câu chuyện với người em
của thi sĩ Hàn Mặc Tử, bác sĩ
Gour Vile cũng nói rằng kinh nghiệm từ các trại cùi, không có bệnh nhân
nào chỉ đau có từng ấy năm mà chết được. Ông trách gia đình Hàn Mặc Tử
không đưa nhà thơ đi trại phong sớm. Và bác sĩ cho rằng, Hàn Mặc Tử chết
là do nội tạng hư hỏng quá nhanh do uống quá nhiều thuốc tạp nham của
lang băm trước khi nhập viện phong Quy Hòa.
Ông bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20 tháng 9 năm 1940) mang số bệnh nhân 1.134 và từ trần vào lúc 5 giờ 45 phút rạng sáng 11 tháng 11 năm 1940 tại nhà thương này vì chứng bệnh kiết lỵ,[4] khi mới bước sang tuổi 28.[5]
Cuộc đời Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình: sinh tại Quảng Bình, làm
báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Ông được
biết đến với nhiều mối tình, với nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại
nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có những người ông đã gặp, có
những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người ông chỉ biết tên
như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương, Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Bút danh Hàn MặcTử
Mộ Hàn Mặc Tử tại Trại phong Quy Hòa
Nguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm mười sáu tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử"
nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn
bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả
cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. "Mặt Trăng khuyết"
đã được "đặt vào" chữ "Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là
"chàng trai bút nghiên".
Tác phẩm
Các sáng tác của Hàn Mặc Tử, gồm có:
Lệ Thanh thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật)
Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời)
Thơ Điên (hay Đau Thương, thơ gồm ba tập: 1. Hương thơm; 2. Mật đắng; 3. Máu cuồng và hồn điên_1938_chú thích SGK Ngữ Văn Nâng Cao lớp 11 tập 2)
Xuân như ý
Thượng Thanh Khí (thơ)
Cẩm Châu Duyên
Duyên kỳ ngộ (kịch thơ_1939_chú thích SGK Ngữ Văn Nâng Cao lớp 11 tập 2)
Quần tiên hội (kịch thơ, viết dở dang_1940_chú thích SGK Ngữ Văn Nâng Cao lớp 11 tập 2)
Chơi Giữa Mùa Trăng (tập thơ-văn xuôi)
Ngoài ra còn có một số bài phóng sự, tạp văn, văn tế...[6] Xem thêm chi tiết ở bên dưới.
Bình luận và nhận xét
Đánh giá và bình luận về tài thơ của Hàn Mặc Tử có rất nhiều, sau đây là một số đánh giá của các nhà thơ văn nổi tiếng:
Mộ Hàn Mạc Tử ở Ghềnh Ráng
"Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao
chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình"
"Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm
thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này,
chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử."
"Sẽ không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu
chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh
thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và
chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử,
người ta không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất
thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể
và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn
lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ pháp và
thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những
đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối
với người đọc."
"Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ
toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi
Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm
trong những bài thơ còn rất nhiều xộc xệch..."
Một
người đau khổ đến nhường ấy, lúc sống ta hờ hững bỏ quên, bây giờ mất
rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất
nhẫn.
”
—Mai 1941
Một số bài thơ nổi tiếng
Nhiều bài thơ của Hàn Mặc Tử đã được phổ nhạc vì tính lãng mạn của
nó. Sau đây là một số bài được nhiều nhà phê bình đánh giá là hay và đã
được đưa vào sách giáo khoa bậc trung học.
Phật
giáo chia thế giới làm hai cõi: Thế gian và xuất thế gian, tức là thế
giới hữu hình và thế giới vi vô, đây sánh xuất thế gian với cõi thanh
tịnh của lòng.
Sau khi Hàn Mặc Tử mất, Mộng Cầm lập gia đình và sinh
được bảy người con. Người bạn đời của bà cũng biết rõ mối quan hệ của bà
với Hàn Mặc Tử nhưng vẫn tôn trọng nhà thơ quá cố.
Vào thời điểm bà Mộng Cầm đã lập gia đình với người khác, gia đình hạnh phúc đề huề, dù người chồng có cao thượng đến mấy thì người vợ cũng phải ý tứ tế, nhị với chuyện tình cũ.
Những bóng hồng trong cuộc đời… “chàng điên”
Qua hai cuộc phỏng vấn đăng trên báo, đã có một cuộc tranh luận, rằng
tình kia là có thật, dù chính người trong chuyện tình kia nói không. Xin
trích dư luận trái chiều về cuộc tranh luận này.
Trong bài trả lời phỏng vấn đăng ở tạp chí Phổ Thông số 63, ra ngày
15/8/1961, Mộng Cầm đã phủ nhận hoàn toàn chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử:
"Một dịp thứ bảy đi chơi lầu Ông Hoàng, anh thổ lộ mối tình với tôi.
Tôi có trả lời anh: Chắc là không thể đi đến chỗ trăm năm được, tôi nói
trước để anh đừng hy vọng.
Anh hỏi lý do. Tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau, nhưng thật ra vì biết
Hàn Mặc Tử mang chứng bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được, ý tôi
muốn một người chồng mạnh khỏe, tráng kiện... Tuy vậy, chúng tôi vẫn
giao thiệp thân mật một hai năm như thế.
Trong thời gian này, có nhiều lần, Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng
Ngãi thăm nhà và trong nhiều bức thư, anh đề cập đến vấn đề hôn nhân.
Tôi vẫn trả lời, nhưng luôn luôn ngụy biện để từ chối: Em thiết nghĩ
chúng ta sống như thế này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt
buộc em phải nghe lời thân mẫu".
Nhà thơ hàn Mặc Tử.
Ngày 23/7/2007, bà Mộng Cầm qua đời tại số nhà số 300, Trần Hưng Đạo, Phan Thiết. Theo lời trăng trối của bà Mộng Cầm,
cô con gái Hồ Mộng Đức đã mai táng bà trên lưng đồi lầu Ông Hoàng. Và
lầu Ông Hoàng từ lâu đã đi vào tâm thức bao thế hệ khi nghe những bài
hát về mối tình lãng mạn này, như Hàn Mặc Tử, Mộng Cầm Ca… và cả bài ca
vọng cổ Tâm sự Mộng Cầm…
Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, năm 1930 Hàn Mặc Tử - tên thật là
Nguyễn Trọng Trí phải thôi học về Quy Nhơn giúp đỡ mẹ và các em. Trong
thời gian chưa tìm được việc Trí tạm ở nhà đọc sách, làm thơ. Đến năm
1933, Trí vào làm cho Sở Đạc Điền Quy Nhơn và quen với Hoàng Tùng Ngâm,
em thúc bá với Hoàng Cúc (tên thật là Hoàng Thị Kim Cúc, SN 1913, phố
Khải Định, TP.Quy Nhơn), mối tình lãng mạn của chàng thi sĩ đa tình.
Trong những lần qua nhà Tùng Ngâm bàn luận chuyện thơ ca, Hàn Mặc Tử
gặp và làm quen với Hoàng Cúc - khi đó cũng đang tập tành làm thơ, viết
văn. Ngay cái nhìn đầu tiên, Hàn Mặc Tử đã đem lòng si mê cô hàng xóm
xinh đẹp, đài các. Chàng đã làm một số bài thơ gửi tặng nàng như: bài
“Vịnh hoa cúc”, “Trồng hoa cúc”... Nhưng số phận đưa đẩy, Hàn Mặc Tử
phải rời mảnh đất Quy Nhơn để vào Sài Gòn làm báo khi cuộc tình hai người
vừa mới chớm nở.
Sau một thời gian, chàng về lại Quy Nhơn. Lúc này gia đình chàng đã
rời đến cách nhà Hoàng Cúc chỉ vài căn và tình xưa lại dậy sóng. Chàng
trai trẻ vốn đã quen sương gió đất Sài Gòn giờ đã bạo dạn và tự tin
hơn trước. Hàn Mặc Tử đã sáng tác bài “Hồn cúc” để thổ lộ tình cảm của
mình: “Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường/Không dám sờ tay sợ lấm
hương/Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá/Muốn ôm hồn cúc ở trong sương”.
Nhưng vốn là con gái xứ Huế, Hoàng Cúc chỉ giữ mối tình đầu e ấp trong
lòng, còn bên ngoài vẫn như hai phương trời xa lạ với Hàn Mặc Tử. Mãi
đến sau này, năm 1971, khi viết thư cho một người bạn của Hàn Mặc Tử là
nhà thơ Quách Tấn, Hoàng Cúc mới nói rõ tâm tình rằng không có tình ý
với chàng thi sĩ trẻ: “Hồi ấy tuy Tử ở gần nhà tôi, song Tử và tôi cách
xa nhau như hai ngọn núi. Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như con gái, còn tôi
thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử cũng đã tìm cách để
gặp, nhưng vẫn chưa toại nguyện…”.
Mối tình lặng lẽ trôi qua
Mối tình âm thầm, lặng lẽ trôi qua như cuộc tình đơn phương đã khiến
chàng thi sĩ ngẩn ngơ, say đắm trong vô vọng. Buồn vì nàng không đáp lại
tình cảm, chàng thi sĩ tìm đường trở lại Sài Gòn như một cuộc chạy trốn
cảm giác bị bỏ rơi. Sau gần 1 năm chàng trở lại Quy Nhơn, mối tình với
Hoàng Cúc lại nồng nàn hơn nhưng cũng vẫn chỉ là một thứ tình cảm chôn
chặt trong đáy tâm hồn.
Thế rồi Hoàng Cúc theo cha về Vĩ Dạ và “ẩn cư” thành nữ tu sĩ suốt đời
ăn chay niệm Phật, Hàn Mặc Tử coi như nàng đi lấy chồng. Trong nỗi đau
của mối tình đầu tuyệt vọng, Tử mang tập thơ “Gái quê” (được viết trong
những ngày nhớ thương Hoàng Cúc), định tặng người con gái mình yêu nhưng
cũng không đủ can đảm để trao tận tay nàng.
Mùa hè năm 1939, Hoàng Tùng Ngâm viết thư về Huế cho Hoàng Cúc biết Tử
mắc bệnh nan y, khuyên Cúc viết thư an ủi một tâm hồn trong trắng nhưng
bất hạnh. Thay vì viết thư thăm hỏi, Cúc đã gửi cho Tử một bức ảnh
phong cảnh có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có cả
ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Phía sau tấm ảnh là lời hỏi
thăm sức khoẻ. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ra đời từ hoàn cảnh đó. Đây là
lần đầu tiên Hàn Mặc Tử được trực tiếp thổ lộ mối tình với Hoàng Cúc -
một tình cảm đẹp, trong sáng nhưng buồn và thoáng chút hoài nghi.
Giai nhân thứ hai và là mối tình da diết nhất trong cuộc đời tình ái
của Hàn Mặc Tử là Mộng Cầm. Sau này, trong những Tử đối mặt với cái chết
cận kề nhưng hồn thơ dính máu ấy vẫn thê lương cuộc tình với nữ sĩ Mộng
Cầm.
Và chính trong lúc Hàn Mạc Tử đau khổ, tuyệt vọng nhất, bóng hồng nhan
thứ ba đã bước ngang cuộc đời thi sĩ. Mai Đình – người tình thứ ba
trong bước đường tình ái gian truân của Hàn Mặc Tử. Không mang nét đẹp
kiêu sa, lộng lẫy như Mộng Cầm, không mang vẻ yểu điệu, xa lạ của Hoàng
Cúc, Mai Đình là cô gái “bình thường”, vóc nhỏ gầy, mộc mạc chân quê.
Mai Đình gặp và quen biết Mặc Tử qua một người quen là Trần Kiên Mỹ,
bạn cùng chiêu văn của Hàn Mặc Tử. Năm 1937, Mai Đình đến Quy Nhơn và
tìm cách giáp mặt chàng “hiệp sĩ trong mộng”. Lần đầu tiên, Hàn Mặc Tử
vì tự ti bệnh tật nên không chịu tiếp. Nàng bèn vào Nha Trang, thông qua
Quách Tấn để “tiếp cận” chàng.
Trong quyển hồi ký của mình, nhà thơ
Quách Tấn có viết: “Gặp tôi, nàng không chút e lệ, ngồi nói chuyện như
người quen biết đã lâu. Phê bình bài thơ “Gái quê” xong, nàng tỏ thật
nỗi lòng đối với Tử: “Biết Tử mang bệnh ngặt nghèo, lòng tôi hết sức
thương cảm. Tôi mong sao chia sớt được nỗi đau khổ của Tử
một đôi phần”.
Trong hoàn cảnh buồn đau cô đơn, Hàn Mặc Tử hết sức cảm kích trước mối
tình của Mai Đình nhưng lúc đầu anh nghĩ rằng đó cũng chỉ là một mối
tình vô vọng. Về sau, trước tấm lòng vị tha gần như hy sinh của Mai
Đình, anh đã đáp lại mối tình ấy.
“Lúc đó, bệnh phong đã và đang từng ngày hành hạ anh Trí, những mảng
ửng đỏ trên gò má, lông mi rụng hết trên đôi mắt đã không làm cho Mai
Đình xa lánh. Kể cả những lúc bị anh hắt hủi do tâm lý của người mắc bạo
bệnh, Đình vẫn một lòng an ủi và gần gũi anh. Gia đình tôi lúc đó biết
tin cũng vô cùng thương cảm, xem cô ấy như người trong nhà...” (trích
hồi ký Nguyễn Bá Tín).
Nhưng vũ trụ cũng không cưu mang, sẻ chia hết cõi hoang vắng cô đơn
nơi trần thế. Thương bạn, năm 1938, Bích Khê gửi cho Tử tấm ảnh bán thân
của Ngọc Sương, ngụ ý mai mối cho cuộc tình nhiều trắc trở. Ngọc Sương
cũng là bạn Bích Khê. Từ lâu, Ngọc Sương đã thương thầm nhớ trộm Hàn Mặc
Tử.
Mối tình Hàn - Ngọc giao thoa sinh nở thêm “Người Ngọc” trong bầy đàn
của tập “Thơ Điên”, một bài thơ làm cho những người tỉnh nhất phải mềm
lòng mà tận hưởng từng câu, từng chữ: “Ta đề chữ Ngọc lên tàu lá. Sương ở
cung thềm giọt chẳng thôi”.
Hình như trữ lượng tình ái và thơ ca không hề vơi cạn trong trái tim
kiệt sức, cạn máu của Hàn Mặc Tử. Năm 1940, Thương Thương, một nữ sinh
Huế đem đến cho Tử nguồn sống, nguồn thơ bất tuyệt. Cô gái mười sáu tuổi
như dòng suối đầu nguồn trong trẻo, thơm tho, tinh khiết làm vơi nhẹ
đau thương phần xác, phần hồn của Tử. Cuộc tình cuối cùng này đã thụ
thai thành “Cẩm Châu Duyên”, “Quần Tiên Hội”…
Những tác phẩm mà ngày nay vẫn nhấp nháy ánh sáng lạ như những vì sao
xa, ngoài thái dương hệ làm cho những người yêu thơ Hàn Mặc Tử mãi viễn
vọng một cảm xúc thiên thu vời vợi.
Hoàng Linh Hàn Mặc Tử - Nhà thơ với cuộc đời đau thương
Hàn Mặc Tử (1912-1940)
Nhà thơ với cuộc đời đau thương có một không hai này, tên thật là Nguyễn
Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 ở Lệ Mỹ (Đông Hới). Ông làm thơ từ thuở
nhỏ. Lấy hiệu là Phong Trần và Lệ Thanh, trong những năm 16 tuổi. Vốn ở
Qui Nhơn từ nhỏ. Cha mất sớm, nhà nghèo. Học đến năm thứ ba ở trường Qui
Nhơn, kế đó mắc bịnh hủi, đưa vào nhà thương Qui Hòa rồi mất ở đó, ngày
11-10-1940.
Ông từng chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mặc Tử.
Đã đăng thơ: Phụ Nữ Tân Văn, Saigon, Trong Khuê Phòng, Đông Dương Tuần Báo, Người Mới.
Đã xuất bản: Gái quê (1936), Thơ Hàn Mặc Tử (1959) gồm có: Thơ Đường Luật, Gái Quê, Đau Thương, Xuân Như Ý.
Tất cả các thi phẩm nầy được nhà xuất bản Tân Việt in lại (1959). Càng
ngày thơ Hàn Mặc Tử càng được phổ biến rộng và có nhiều người say sưa.
Phần nhiều những người mê thơ Hàn Mặc Tử, lớp thanh niên ngày nọ...
thường lê thê lếch thếch ở cá hè quán dơ bẩn và điên loạn... họ điên
loạn để tỏ ra giống Hàn Mặc Tử, họ bày đặt đau thương khốn đốn, thơ thì
dùng chữ cho sáo, cho kêu, tiếc rằng không tìm được một Hàn Mặc Tử thứ
hai để cho mình chiêm ngưỡng.
Hàn Mặc Tử
Tiểu sử
Hàn Mạc Tử (1912-1940)
Chính tên là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22 Septembre 1912 ở Lệ Mỹ (Đông
Hới), mất ngày 11 novembre 1940. Trú ngụ ở Qui Nhơn từ nhỏ. Nhà nghèo,
cha mất sớm. Học trường Qui Nhơn đến năm thứ ba. Làm sở Đạc Điền một độ,
bị đau rồi mất việc. Vào Nam làm báo ít lâu lại trở về Qui Nhơn. Kế đó mắc bịnh hủi, đưa vào nhà thương Quy Hòa rồi mất ở đó.
Làm thơ từ ngày mười sáu tuổi (lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh). Đến
năm 1936, khi chủ trương tờ phụ trương văn chương báo Saigon mới đổi
hiệu là Hàn Mạc Tử. <1>
Đã đăng thơ: Phụ Nữ Tân Văn, Saigon, Trong Khuê Phòng, Đông Dương Tuần Báo,Ng Người Mới.
Đã xuất bản: Gái Quê (1936).
* * *
Tôi đã nghe người ta mạt sát Hàn Mạc Tử nhiều lắm. Có người bảo: "Hàn
Mạc Tử? thơ với thẩn gì! toàn là nói nhảm." Có người còn nghiêm khắc hơn
nữa: "Thơ gì mà rắc rối thế! mình tưởng có ý nghĩa khuất khúc, cứ đọc
đi đọc lại hoài, thì ra nó lừa mình!" Xuân Diệu có lẽ cũng nghĩ đến Hàn
Mạc Tử trong khi việt đoạn này: "Hãy so sánh thái độ can đảm kia (thái
độ những nhà chân thi sĩ) với những cách đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà
cười, chân vừa nhảy, miệng vừa kêu: tôi điên đây! tôi điên đây! -- Điên
cũng không dễ làm như người ta tưởng đâu. Nếu không biết điên, tốt hơn
là cứ tỉnh táo như thường mà yên lặng sống." <2>
Nhưng tôi cũng đã nghe những người ca tụng Hàn Mạc Tử. Trong ý họ, thi ca Việt Nam
chỉ có Hàn Mạc Tử. Bao nhiêu thơ Hàn Mạc Tử làm ra họ đều chép lại và
thuộc hết. Mà thuộc hết thơ Hàn Mạc Tử đâu có phải chuyện dễ. Đã khúc
mắt mà lại nhiều: tất cả đến sáu bảy tập. Họ thuộc hết và chọnn những
lúc đêm khuya thang vắng, họ sẽ cao giọng, ngâm một mình. Bài thơ đã
biến thành bài kinh và người thơ đã trở nên một vì giáo chủ. Chế Lan
Viên nói quả quyết: "Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những
cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ
này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử." <3>
Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mạc Tử. <4> Tôi đã theo Hàn
Mạc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần Tiên Hội. Và tôi đã
mệt lả. Chính như lời Hàn Mạc Tử nói trong bài tựa Thơ Điên, vườn thơ
của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh. Bây giờ đã ra
khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý
nhị, tôi thử xếp đặt lại những cảm tưởng hỗn độn của tôi.
Thơ Đường Luật: Theo Ông Quách Tấn, <5> Phan Sào Nam hồi trước xem
Thơ Đường Luật Hàn Mạc Tử có viết trên báo đại khái nói: "Từ về nước
đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều, song chưa gặp được bài
nào hay đến thế... <6> Ôi hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp
gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng lớn ấy là thỏa hồn thơ đó." Thơ
Đường Luật Hàn Mạc Tử làm ra nhiều nhưng bị thất lạc gần hết, tôi không
được xem mấy bài. Song trong những bài tôi được xem, tôi cũng đã gặp ít
câu hay, chẳng hạn như:
Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi.
Dầu sao tôi vẫn nghĩ cái khuôn khổ bó buộc của luật Đường có lẽ không
tiện cho sử nẩy nở một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng như nguồn thơ Hàn
Mạc Tử.
Gái Quê: Nhiều bài có thể là của ai cũng được. Còn thì tả tình quê trong
cảnh quê. Lời thơ dễ dàng, tứ thơ bình dị. Nhưng tình ở đây không có
cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào trong khung
cảnh những vườn tre, những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi
lả, rạo rực, đầy hình ảnh khêu gợi. Ông Phạm Văn Kỳ đề tựa tập thơ ấy là
phải lắm: Gái Quê và Une voix sur la voie đều bắt nguồn trong tình dục.
Thơ Điên: Thơ Điên gồm có ba tập:
1) Hương Thơm
2) Mật Đắng
3) Máu Cuồng và Hồn Điên
Hương Thơm: Ta bắt đầu bước vào một nơi ánh trăng, ánh nắng, tình yêu và
cả người yêu đều như muốn biến ra hương khói. Một trời tình ái mới dựng
lên đâu đây. Tuy có đôi vần đẹp, cảm giác chung nhạt tẻ thế nào.
Mật Đắng: Ta vẫn đi trong mờ mờ. Nhưng thỉnh thoảng một luồn sáng lạ
chói cả mắt. Nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt
gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng
trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì, nhưng thường là
một thứ buồn dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mạc Tử mới
thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu.
Máu Cuồng và Hồn Điên: Đến đây ta đã hoàn toàn ra khỏi cái thế giới thực
và cái thế giới mộng của ta. Xa lắm rồi. Ta thấy những gì chung quanh
ta? Trăng, toàn trăng, một ánh trăng gắt gao, ghê tởm, linh động như một
người hay đúng hơn một yêu tinh. Trăng ở đây cũng ghen, cũng giận, cũng
cay nghiệt, cũng trơ tráo và cũng náo nức dục tình. Hàn Mạc Tử đi trong
trăng, há miệng cho máu tung ra làm biển cả, cho hồn văng ra, và rú lên
những tiếng ghê người... Ta rùng mình, ngơ ngác, ta đã lục lọi khắp
trong đáy lòng ta, ta không thấy có tí gì giống cái cảnh trước mắt. Trời
đất này thực của riêng Hàn Mạc Tử. Ta không hiểu được và chắc cũng
không bao giờ ai hiểu được. Nghĩ thế ta bỗng thương con người cô độc. Đã
cô độc ở kiếp này và e còn cô độc đến muôn kiếp. Hàn Mạc Tử chắc cũng
biết thế nên lúc sinh thời người đã nguyền với Chúa sẽ không bao giờ cho
xuất bản Thơ Điên. Một tác phẩm như thế, ta không có thể nói hay hay
dở, nó đã ra ngoài vòng nhân gian, nhân gian không có quyền phê phán. Ta
chỉ biết trong văn thơ cổ kim không có gì kinh dị hơn. Ta chỉ biết ta
đương đứng trước một người sượng sần vì bệnh hoạn, điên cuồng vì đã quá
đau khổ trong tình yêu. Cuộc tình duyên ra đời với tập Hương Thơm, hấp
hối với tập Mật Đắng, đến đây thì đã chết thiệt rồi, nhưng khí lạnh còn
tỏa lên nghi ngút.
Một nhà chuyên môn nghiên cứu những trạng thái kỳ dị của tâm linh người
ta xem tập Máu Cuồng và Hồn Điên có lẽ sẽ lượm được nhiều tài liệu hơn
một nhà phê bình văn nghệ. Tuy thế, đây đó ta gặp những câu rất hay.
Như tả cảnh đồi núi một đêm trăng có câu:
Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ
Đầy mình lốm đốm những hào quang.
Lên chơi trăng có câu:
Ta bay lên! Ta bay lên!
Gió tiễn đưa ta tới nguyệt thiềm.
Ta ở côi cao nhìn trở xuống:
Lâng lâng mây khói quyện trăng đêm.
Đọc những câu ấy có cái thú vị ở xứ lạ gặp người quen, vì đó là những
cảm giác ta có thể có. Lại có khi những cảm giác ở ta rất thường mà
trong trí Hàn Mạc Tử rất dễ sợ. Một đám mây in hình dưới dòng nước thành
ra:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cõi vô biên.
Cái ý muốn mượn lời thơ để tả tâm sự mình cũng trở nên điên cuồng và đau đớn dị thường:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút;
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt,
Như mê man chết điếng cả làn da.
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết,
Trải niềm đau trên mảnh giấy monh manh;
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đương siết,
Cả lòng ta trong nhớ chữ rung rinh.
Tôi chỉ trích ra vào đoạn có thể thích được. Còn bao nhiêu đoạn nữa tuy
ta không thích vì nó không có gì hợp với lòng ta, nhưng ta cũng biết
rằng với Hàn Mạc Tử hẳn là những câu tuyệt diệu. Nó đã tả đúng tâm trạng
của tác giả. Lời thơ có vẻ thành thực, thiết tha lắm.
Xuân Như Ý: Mùa xuân Hàn Mạc Tử nói đây có khi ở đâu hồi trời đất mới
dựng lên, có khi ra đời một lần với Chúa Jésus, có khi hình như chỉ là
mùa xuân đầu năm. Nhưng dầu sao cũng không phải là một mùa xuân ta vẫn
quen biết. Đây là một mùa xuân trong tưởng tượng, một mùa xuân theo ý
muốn của thi nhân, đầy dẫy những lời kinh cầu nguyện, những hương đức
hạnh, hoa phẩm tiết, nhạc thiêng liêng, cùng ánh trăng, ánh thơ. Nhất là
ánh thơ. Với Hàn Mạc Tử thơ có một sự quan hệ phi thường. Thơ chẳng
những để ca tụng Thượng Đế mà cũng để ban ơn phước cho cả và thiên hạ.
Cho nên mỗi lần thi sĩ há miệng -- sao lại há miệng? -- cho thơ trào ra,
làm chín từng mây náo động, muôn vì tinh tú xôn xao. Người sẽ thấy:
Đường thơ bay sáng láng như sao sa
Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc
Thêu như thêu rồng phượng kết tinh hoa.
Hình như trong các thi phẩm xưa nay có tính cách tôn giáo khôngcó có gì
giống như vậy. Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu
lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi
nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ
huy hoàng, trang trọng, linh lung, huyền ảo của lâu đài kia? Có những
câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng
láng. Xuân Như Ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử.
Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của
các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie. Cho
nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật Giáo, chắc
những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với di thảo của thi
nhân.
Huống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng rằng đạo Thiên Chúa ở xứ
này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin
rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm
đã thấm tận đáy hồn đoàn thể.
Thượng Thanh Khí: Một vài bài đặc sắc ghi lại những cảnh đã thấy trong
chiêm bao, ở đâu giữa khoảng các vì tinh tú trên kia Đại khái không khác
cảnh Xuân Như Ý mấy, chỉ thiếu tính cách tôn giáo, huyền bí nhưng không
thiêng liêng.
Cẩm Châu Duyên: Một hai năm trước khi mất, sự tình cờ đưa đến trong đời
Hàn Mạc Tử hình ảnh một giai nhân có cái tên khải ái: nàng Thương
Thương. Nàng Thương Thương có lẽ chỉ yêu thơ Hàn Mạc Tử và Hàn Mạc Tử
hình như cũng không biết gì hơn ngoài hai chữ Thương Thương. Nhưng như
thế cũng đủ để thi nhân đưa nàng vào tháp thơ. Nàng sẽ luôn luôn đi về
trong những giấc mơ của người. Có khi người mơ thấy mình là Tư Mã Tương
Như đương nghe lời Trác Văn Quân năn nỉ:
Đã mê rồí! Tư Mã chàng ôi!
Người thiếp lao đao sượng cả người.
Ôi! ôi! hãm bớt cung cầm lại,
Lòng say đôi má cũng say thôi.
Song những phút mơ khoái lạc ấy có được là bao. Tỉnh dậy, người thấy:
Sao trìu mến thân yêu đâu vắng cả?
Trơ vơ buồn và không biết kêu ai!
Bức thư kia sao chẳng viết cho dài,
Cho khăng khít nồng nàn thêm chút nữa.
Ta tưởng nghe lời than của Huy Cận.
Nhưng cuộc đời đau thương kia đã đến lúc tàn, và nguồn thơ kia cũng đã
đến lúc cạn. Hàn Mạc Tử chốc chốc lại ra ngoài biên giới thơ, lạc vào
thế giới đồng bóng.
Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội: Mối tình đối với nàng Thương Thương còn
khiến Hàn Mạc Tử viết ra hai vở kịch bằng thơ này nữa. Quần Tiên Hội
viết chưa xong và không có gì. Duyên Kỳ Ngộ hay hơn nhiều. Đây là một
giấc mơ tình ái, ngắn ngủi nhưng xinh tươi, đặt vào một khung cảnh tuyệt
diệu. Thi nhân dẫn ta đến một chốn nước non thanh sạch chưa từng in dấu
chân người. Ở đó tiếng chim hót, tiếng suối reo, tiếng tiêu ngân đều
biến thành những lời thơ tình tứ. Ở đó Hàn Mạc Tử sẽ gặp nàng Thương
Thương mà người không mong được gặp ở kiếp này. Nàng sẽ nói với người
những lời nồng nàn âu yếm khiến chim nước đều say sưa. Nhưng rồi người
sẽ cùng tiếng tiêu cùng đi như vụt nhớ đến cái nghiệp nặng nề đương chờ
người nơi trần thế. Và giữa lúc nàng gục đầu khóc, cảnh tiên lại rộn rã
tiếng suối ca.
Trong thi phẩm Hàn Mạc Tử có lẽ tập thơ này là trong trẻo hơn cả. Còn từ Thơ Đường Luật với những câu:
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối;
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.
cho đến Gái Quê, Thơ Điên, Xuân Như Ý và các tập khác, lời thơ thường vẩn đục.
* * *
Tôi đã nói hết cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mạc Tử. Không có
bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến
người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình
che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được
vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu
bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra
ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích.
Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn
cùng tan rã...
Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất
rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất
nhẫn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét