Chuyện tình cảm động thời chiến: Người đàn bà 60 tuổi và hành trình tìm người yêu đã hy sinh
Bức thư tình cảm động của người lính trong thời chiến
Ông
là bộ đội đóng quân ở Nghệ An, còn bà khi ấy là một thiếu nữ học cấp 2.
Với tình yêu mãnh liệt, họ đến với nhau bằng một tiệc cưới bình dị.
Nhưng sau ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ phải xa cách gần 14 năm. Để giữ
liên lạc và gửi gắm nỗi niềm nhớ thương, họ đã viết cho nhau hàng trăm
lá thư thấm đẫm mồ hôi, máu và nước mắt…
Đó là chuyện tình cảm động và đáng ngưỡng mộ của người cựu binh Huỳnh
Phương Bá (84 tuổi) và vợ là bà Vương Thị Tiệng (74 tuổi), sống trong
hẻm đường Trưng Nữ Vương (TP.Đà Nẵng). 14 năm gửi tình yêu qua những lá thư
Trong không khí những ngày đất nước vui Tết Độc lập, chúng tôi vô
tình được nghe câu chuyện tình cảm động trong thời chiến của anh lính
Huỳnh Phương Bá và cô nữ sinh Vương Thị Tiệng.
Vợ chồng ông Huỳnh Phương Bá và bà Vương Thị Tiệng.
Năm 1954, chàng thanh niên Huỳnh Phương Bá tập kết ra Bắc và đóng
quân tại Nghệ An. Tại đây, ngay từ cái nhìn đầu tiên, Bá đã đem lòng yêu
thương cô nữ sinh xứ Nghệ dịu dàng, tóc xõa ngang vai, môi cười chúm
chím. Cô nữ sinh Vương Thị Tiệng cũng nhanh chóng rung động trái tim
trước chàng trai bộ đội phong độ, khỏe mạnh ngay từ lần gặp đầu tiên.
Sau 6 năm yêu nhau, họ quyết định kết hôn. Tiệc cưới “nhà binh” diễn ra
bình dị, giản đơn.
Nhưng sau ngày hạnh phúc ấy là gần 14 năm biền biệt xa cách vì anh
lính Huỳnh Phương Bá phải lên đường tham gia chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Mọi tình cảm nhớ thương, đôi vợ chồng trẻ đều gửi gắm vào những lá thư.
Những lá thư luôn được ông Bá nâng niu, giữ gìn như kỷ vật vô giá.
Lá thư đầu tay, ông Bá viết cho vợ vào ngày 9/4/1961 với nội dung:
“… Vợ chồng ai chả muốn sống gần nhau trong tình âu yếm! Nhưng Tổ quốc
còn bị chia đôi, cho nên cảnh sum vầy tạm thời bị gián đoạn. 7 năm rồi,
anh xa ba mẹ yêu dấu, xa các anh, các chị mến thương và giờ đây phải xa
người vợ thân yêu nhất của mình mà chưa hẹn ngày gặp mặt, mà chắc chắn
rằng ngày ấy phải đến với chúng ta…”.
Các bức thư được ông viết vào lúc nghỉ hành quân giữa đường, những
đêm trắng thức canh cho đồng đội ngủ. Nội dung các lá thư là niềm tin
thắng lợi, những lời hỏi thăm sức khỏe, công việc học hành của bà. Phía
hậu phương, mỗi lần nhận được thư chồng, bà hồi âm lại bằng những dòng
thư gửi niềm tin, lý tưởng sáng ngời cách mạng cho ông yên tâm chiến
đấu: “… Anh ạ! Trong gian khổ, trong chiến đấu mới thấy được tinh
thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết đấu của quân và dân ta. Anh ơi! Cả
miền Bắc đang hướng về miền Nam ruột thịt. Miền Bắc sẽ làm tất cả để
cung cấp sức người, sức của cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược…”, thư bà Tiệng viết cho chồng ngày 10/4/1965.
Cứ thế, suốt gần 14 năm trời ròng rã, họ giữ liên lạc qua gần một trăm lá thư thấm đẫm mồ hôi, máu và nước mắt…
Những lá thư thời chiến thấm đẫm mồ hôi, máu và nước mắt…
Những lá thư vượt thời gian
Sau ngày đất nước giải phóng, vợ chồng gặp lại, hạnh phúc vỡ òa. Đất
nước hòa bình, họ mới thực sự xây tổ ấm gia đình. Hai vợ chồng chào đón
người con đầu là chị Huỳnh Thị Phương Trinh (năm nay đã 39 tuổi). Bốn
năm sau, ông bà sinh thêm cậu con trai là anh Huỳnh Phương Nam (36
tuổi). Cuộc sống sau ngày giải phóng chật vật, nhưng hai ông bà vẫn
thương yêu, đùm bọc, cùng nuôi dạy hai con ăn học đến nơi đến chốn.
Cho tới tận bây giờ, những lá thư đều được ông Bá trân trọng, nâng
niu như một kỷ vật vô giá. Tập thư ngày ấy, ông đánh máy, in ra đóng
thành tập sách mang tên “Những lá thư vượt thời gian - Ba mẹ tặng các
con thân yêu”.
“Tôi muốn cho các con giữ những lá thư này, để các con đùm bọc, yêu
thương nhau, nhất là trong đời sống hôn nhân", ông Bá tâm sự.
Một lá thư ông Bá viết gửi cho vợ.
Câu chuyện về tập thư được chia sẻ với mọi người, bà Tiệng lúc đầu
còn trách ông Bá, nhưng rồi bà hiểu ra đó không chỉ là chuyện tình cảm
của cá nhân, mà còn là vật chứng của lịch sử, nó sống, đi qua thời khắc
đau thương của cả nước, và tồn tại cho đến ngày độc lập, thì nên để mọi
người cùng biết. Năm 2012, Bảo tàng Quân khu 5 đã về xin hơn 10 lá thư
của ông bà để đưa vào trưng bày và lưu trữ.
Mất mát và hy sinh trong chiến tranh là không thể nào tránh khỏi.
Nhưng tình yêu cao đẹp, thủy chung đã giúp họ vượt qua những khó khăn,
trở ngại. Đến bây giờ, ông đã già, bà cũng không còn đủ sức khỏe để tự
bước đi. Ngày ngày, ông chăm sóc bà từng tô cháo, ly nước và đọc lại
những bức thư để ôn lại những ký ức năm xưa… rồi ông bà nhìn nhau cười
hạnh phúc. Câu chuyện tình yêu của ông bà đẹp và giản dị như chính cuộc
sống của họ vậy…
Nguyễn Dương
Ở Hai Đầu Nỗi Nhớ - Anh Thơ
Những chuyện tình thời chiến: Hẹn ước không lời
07:00 25/07/2017
662
Nghe tin ông bị tử hình, rồi bị đày đi Côn Đảo, bà quyết định nhận lời
cầu hôn rồi lặng lẽ chờ ông suốt 14 năm đằng đẵng dù không một lời ước
hẹn.
Chiến tranh không chỉ có bom đạn, máu đổ và
hy sinh, vẫn có những tình yêu được ươm mầm trong xa cách, chia ly.
Những người lính đi chiến trận không hẹn ngày về và cả người con gái ở
hậu phương cũng ngã xuống vì bom đạn. Chỉ còn những bức thư, những dòng
nhật ký lưu lại những chuyện tình đẹp như cổ tích nhưng đầy day dứt
trong khói lửa chiến tranh. Zing.vn xin trân trọng giới thiệu
đến quý bạn đọc loạt bài "Những chuyện tình thời chiến", nhân 70 năm
Ngày thương binh liệt sĩ 27/7/1947 - 27/7-2017.
Một ngày đầu năm học năm 1956, có cô gái mặc áo dài trắng đến trường
Văn Lang ở Sài Gòn nhập học. Đó là ngày đầu tiên Lê Hồng Tư gặp bà
Nguyễn Thị Châu. “Đó là người con gái mặc áo dài trắng, xinh đẹp, thuỳ
mị hiền hoà”, ông Tư nhớ như in cái ngày đầu tiên đó.
Những lần tỏ tình thất bại
Khi đó Lê Hồng Tư đang làm trưởng lớp đệ tam, đồng thời là bí thư chi
đoàn có nhiệm vụ cảm hoá, thuyết phục học sinh theo cách mạng. “Hồi đó
thi cử khó lắm, không phải như bây giờ. Học sinh miền Nam khi đó hiếu
học, muốn thi đậu, chỉ tập trung học hành nên hoạt động chính trị rất
khó”, ông kể.
Rung động vì người con gái ấy, nhưng Lê Hồng Tư cũng không dám nghĩ
đến việc lập gia đình. “Cuộc chiến chưa biết ngày kết thúc, bao nhiêu
người đã đổ máu xuống, giờ đi lập gia đình thì lấy ai làm cách mạng”,
người thanh niên trẻ thầm hứa.
Cô nữ sinh Nguyễn Thị Châu năm 1956. Ảnh tư liệu.
Người con gái mặc áo dài trắng hôm đó tên là Nguyễn Thị Châu, nhà ở
Biên Hoà. Thời ấy, Biên Hoà không có lớp đệ tam, Châu phải lên Sài Gòn
trọ học trong xóm lao động nghèo. Bố của Châu tham gia Việt Minh, bị
lính Pháp sát hại. Tiền đi học được người chú cho mượn với cam kết phải
học giỏi về giúp mẹ nuôi 4 em nhỏ.
Hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên được khoảng 2 năm thì
Lê Hồng Tư phải chuyển đi nơi khác làm nhiệm vụ. Để có thể ở lại hoạt
động, Nguyễn Thị Châu phải cố tình thi trượt. “Mà hồi đó thi đỗ mới khó
chứ thi trượt dễ lắm”, ông Tư cười.
Sợ “xa mặt cách lòng” chàng thanh niên lấy hết can đảm tỏ tình. Một
chiều thứ 7 mưa lâm râm, Lê Hồng Tư tìm đến xóm trọ gặp Châu. Lời tỏ
tình vụng về bị Nguyễn Thị Châu dội nước lạnh: “Anh đi tìm người khác
đi, tôi không muốn lập gia đình”.
“Lúc đó tôi lên gác xép ngồi nhìn xuống, thấy cô ấy vẫn làm bài tập
đại số. Lòng tôi quặn thắt kêu thầm, trời ơi người con gái mình vừa tỏ
tình vẫn điềm nhiên ngồi làm đại số như chưa có gì xảy ra”, ông Lê Hồng
Tư nhớ lại.
Lê Hồng Tư tính 6 tháng sau hỏi tiếp nhưng rồi không dám vì sợ đau
lòng thêm lần nữa. Nhiều năm sau đó, người con gái đó vẫn kiên quyết từ
chối lời tỏ tình. Năm 1961, một lần nữa Nguyễn Thị Châu từ chối gặp mặt,
cô cũng không ngờ rằng sau đó là 14 năm xa cách đằng đẵng trong đau đớn
và tù đày.
Tháng 2/1961, Nguyễn Thị Châu bị mật vụ chặn đường bắt cóc. Cô nữ
sinh bị chuyển từ nhà giam này đến nhà giam khác với đủ trò tra tấn:
Giật điện, treo ngược, đi máy bay… mỗi đêm. Ban ngày, xà lim bị đổ đầy
nước cống. Cứ thế, bà chết đi sống lại giữa những trận đòn roi, nhiều
lúc tưởng như không thể trở về.
“Ngày tôi ở Hà Nội, có chị bạn người Đà Nẵng ôm tôi khóc nói Lê Hồng
Tư hy sinh rồi, đừng đợi nữa, nên xây dựng gia đình đi. Tôi nói anh chưa
có hy sinh đâu, em vẫn chờ anh về” Bà Châu bồi hồi
Một ngày, khi bị áp giải lên nha tổng, Châu nghe tin sét đánh. Báo
chí đăng tin Lê Hồng Tư bị kết án tử hình do cầm đầu nhóm ám sát đại sứ
và một sĩ quan Mỹ. “Tôi nấc lên mà không dám khóc, sợ mai mắt sưng đỏ
tụi lính biết được”. Lòng cô nhói lên khi nhớ lại những lần Lê Hồng Tư
bị mình từ chối.
Ngày hôm đó, Nguyễn Thị Châu đi đến quyết định nhận lời cầu hôn của
Lê Hồng Tư dù ông đã không còn đứng đó để tỏ tình thêm lần nữa. Dù ông
có bị tử hình, cô vẫn sẽ là vị hôn thê của ông. Chuyện đó, tù chính trị
và những người ở chiến khu đều biết, chỉ trừ… Lê Hồng Tư.
Cuối 1964, Nguyễn Thị Châu được thả về. Lúc đó Lê Hồng Tư đã bị đày đi nhà tù Côn Đảo.
Lê Hồng Tư và Nguyễn Thị Châu tổ chức đám cưới sau hơn 14 năm xa cách đằng đẵng bởi tù đày. Ảnh tư liệu.
Ở Côn Đảo, Lê Hồng Tư gặp một tử tù tên là Phạm Văn Dẫu. “Gặp tôi,
ông Dẫu nói: Có chị Chín ở Cà Mau tìm tôi nói khả năng các anh sẽ bị đày
ra Côn Đảo, nếu ra đó gặp Lê Hồng Tư thì nói chị Châu, hôn thê của anh,
gửi lời hỏi thăm”, ông Tư nhớ lại.
Nguyễn Thị Châu không biết ông Dẫu, nhưng đồng đội của hai người ở
chiến khu biết chuyện nên thấy ai sắp ra Côn Đảo, họ đều gửi theo lời
nhắn. “Tôi nghe mà vui, xúc động lắm. Tôi khóc. Thương người con gái ấy.
Lúc mình hỏi thì không chịu nhưng khi biết mình sắp chết thì lại nhận
lời”, ông Tư bồi hồi.
Ở chiến khu, Nguyễn Thị Châu không biết lời hẹn ước của mình đã được
những tử tù Côn Đảo chuyển đến Lê Hồng Tư. “Ngày tôi ở Hà Nội, có chị
bạn người Đà Nẵng ôm tôi khóc nói Lê Hồng Tư hy sinh rồi, đừng đợi nữa,
nên xây dựng gia đình đi. Tôi nói anh chưa có hy sinh đâu, em vẫn chờ
anh về”, bà Châu bồi hồi.
Đám cưới với gần 600 khách, trong đó hơn một nửa... tự đến. Ảnh tư liệu.
Năm 1975, đất nước thống nhất, tàu chở các tù chính trị từ Côn Đảo về
đất liền. “Người ta báo anh ngồi ở ghế đá chờ tôi mà tôi sốt ruột dọc
đoạn đường đi. Người từ Côn Đảo về nói sức khoẻ của anh yếu lắm, không
đi lại được, giờ ngồi ghế đá chờ là tốt rồi”.
“23h đêm tôi đến gặp anh. Cũng chỉ dám nắm tay anh hỏi anh khoẻ không chứ nào dám ôm”, bà Châu kể.
17/8/1975 là ngày cưới của họ. Đám cưới mời 250 bạn bè nhưng người đi
dự tới gần 600. Cả hai đều không có tiền, bạn bè mỗi người góp 1 đồng
mua bánh và trà giúp tổ chức. Năm đó, Lê Hồng Tư 40 tuổi, Nguyễn Thị
Châu 37 tuổi, họ về chung một nhà sau 14 năm cách xa đằng đẵng.
Tướng Hy và hơn 500 bức thư từ lửa đạn
Hơn 500 bức thư đi về giữa đạn bom sợi dây nối dài tình yêu của thiếu
tướng Phan Khắc Hy và vợ Nguyễn Thị Ngọc Lan trong suốt 24 năm xa cách
đằng đẵng. Hết chống Pháp rồi đến chống Mỹ, ông đi chiến trường, bà ở
hậu phương, chỉ nhờ những cánh thư nói hộ lòng mình... Mời bạn đọc Zing.vn đón xem trong kỳ tiếp theo.
Chuyện tình thời chiến: Tướng Hy và hơn 500 bức thư từ lửa đạn
07:00 26/07/2017
Tướng Hy đi chiến trường biền biệt, hết chống Pháp rồi đến chống Mỹ, hơn
500 lá thư đi và về giữa bom đạn chiến tranh là tình yêu của ông dành
cho người vợ ở hậu phương.
Chiến tranh không chỉ có bom đạn, máu đổ và
hy sinh, vẫn có những tình yêu được ươm mầm trong xa cách, chia ly.
Những người lính đi chiến trận không hẹn ngày về và cả người con gái ở
hậu phương cũng ngã xuống vì bom đạn. Chỉ còn những bức thư, những dòng
nhật ký lưu lại những chuyện tình đẹp như cổ tích nhưng đầy day dứt
trong khói lửa chiến tranh. Zing.vn xin trân trọng giới thiệu đến quý
bạn đọc loạt bài "Những chuyện tình thời chiến", nhân 70 năm Ngày thương
binh liệt sĩ 27/7/1947 - 27/7-2017.
Hơn 500 bức thư đi về giữa đạn bom chính là sợi dây nối dài tình yêu
của thiếu tướng Phan Khắc Hy và vợ Nguyễn Thị Ngọc Lan trong suốt 24 năm
xa cách đằng đẵng. Hết chống Pháp rồi đến chống Mỹ, ông đi chiến
trường, bà ở hậu phương, chỉ nhờ những cánh thư nói hộ lòng mình.
Những lá thư vượt bom đạn
Đó là những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Thị Ngọc
Lan xếp bút nghiên xung phong vào mặt trận Bình Trị Thiên. Phan Khắc Hy
là Phó bí thư Tỉnh uỷ, Tỉnh đội trưởng Quảng Bình, được điều vào xây
dựng lực lượng chủ lực. Họ gặp nhau giữa chiến trường.
“Đó là tiếng sét ái tình đấy. Thanh niên tham gia cách mạng, coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng nhưng lòng vẫn thầm mong có tình yêu làm chỗ
dựa”, tướng Phan Khắc Hy nhớ lại.
Thiếu tướng Phan Khắc Hy và người vợ nổi tiếng với hơn 500 bức thư tình xuyên suốt hai cuộc kháng chiến. Ảnh tư liệu.
Nhưng chuyện tình cảm của chàng trai Quảng Bình không được suôn sẻ
như ông mong muốn. Suốt thời gian dài, cô gái Ngọc Lan cứ tránh mặt.
Cuối cùng ông mới biết lý do rằng bà là cháu ngoại của một nhà nho xứ
Nghệ, bà sợ ông ngoại mắng vì vừa ra chiến trường, chưa đóng góp được gì
đã vội yêu đương. “Đó là lý do tôi cứ tấn công, còn bà ấy cứ phòng
thủ”, ông cười.
Phan Khắc Hy phải nhờ đến Tư lệnh mặt trận Bình Trị Thiên viết thư
cho ông ngoại người yêu, xin phép cho hai người tìm hiểu. Phải chờ tới
bức thư đồng ý của ông ngoại gửi từ Hà Tĩnh vào, bà Ngọc Lan mới thôi
tránh mặt.
Yêu nhau một năm, tháng 9/1952, đám cưới được tổ chức tại chiến khu
Ba Lòng (Quảng Trị). Sau đó là những tháng ngày biền biệt. Ông đi từ
chiến dịch này sang chiến dịch khác.
Những ngày ở Việt Bắc, ông viết thư cho bà trên mọi loại giấy có thể
tận dụng được. Có những bức thư chữ nhỏ chi chít trong diện tích bằng
bao thuốc lá. “Em ơi, thương em nhiều lắm, nói và viết khó khi nào hết.
Tìm ở đây tất cả tha thiết của lòng anh... Lan vẫn luôn gần anh, đôi mắt
hiền và bàn tay mềm mại. Hôn em nhiều”.
Thư "cho phép" của ông ngoại bà Ngọc Lan gửi Tư lệnh mặt trận Bình Trị Thiên. Ảnh: Hà Hương.
Thi thoảng dưới thư ông ký tên Khắc Ngọc, ghép tên đệm của ông và bà
với nhau. Ông nói những bức thư như sợi dây tình cảm đậm đà nhất vượt
qua bom đạn và thử thách. Ông đi chiến trường, thi thoảng ghé thăm nhà
gửi thư nhờ mẹ cất giùm. Cứ thế, thư của ông và bà được mẹ gói lại trong
mo cau, treo trên gác bếp, chờ ngày con về.
Như nghe cả hơi thở của em
Hết chống Pháp, ông lại biền biệt trên những nẻo đường Trường Sơn
chống Mỹ. Ông viết thư cho bà dọc đường hành quân, rồi tranh thủ gửi khi
qua các binh trạm hoặc đồng đội đi ngang. Thư chỉ nhớ thương người vợ ở
hậu phương nhưng chẳng bao giờ hẹn ngày về.
Năm 1966, trong một quyển nhật ký, ông viết: “13 năm rồi, nếu tính từ
ngày mình gặp gỡ thì đúng 14 năm 8 ngày. Ngoài trời gió mưa đang thổi,
anh như nghe cả hơi thở của em và nhìn thấu đáo tâm tư tình cảm của em
lúc này...
Ừ, tình cảm cuộc sống của ta đã qua hai kỳ kháng chiến, từ những phút
hồi hộp, bồng bột buổi đầu đến những giờ phút hạnh phúc bên nhau rất ít
ỏi mà nói với nhau nhiều, yêu nhau nhiều qua những lá thư và hăng say
trong công tác, chiến đấu...”.
Những bức thư tình được tướng Hy và vợ giữ gìn cẩn thận, chờ ngày hoà bình. Ảnh: Hà Hương.
Khi ông được điều về miền Bắc phụ trách không quân, bà lại đi sơ tán.
Có những hôm về nhà, ông viết thư cho vợ: “Hôm nay về nhà lần thứ 3 kể
từ hôm em đi, tờ lịch vẫn nguyên, có cả tờ báo chủ nhật. Rất nhiều việc
đã làm, nhiều máy bay Mỹ rơi và cũng rất nhiều thương nhớ”.
“Có lần nhớ vợ quá tôi đánh liều nhắn lên làng sơ tán trên Thái
Nguyên nói con ốm nặng. Thế là bà đạp xe trong đêm lên ga Thái Nguyên
rồi mua vé tàu về Hà Nội. Về đến nơi thì hoá ra bị chồng lừa”, ông nhớ
lại.
Thiếu tướng Phan Khắc Hy (sinh năm 1927 tại Quảng Bình), nguyên Phó
tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Phòng không
Không Quân.
Vì việc này, bà sau đó viết thư “kiểm điểm nhẹ” chồng. “Em thấy anh
thương con nhưng lại chưa thương em phải đạp xe gần 60 cây số và thức
gần trắng hai đêm trên tàu... Em có thể phê phán nhẹ là anh hơi 'cá
nhân' đấy vì ít thấy anh nghĩ đến chuyện em phải đi vất vả, cả những hôm
em phải đi suốt đêm. Nếu có sự gì bất trắc thì sao nhỉ?”.
Sau ngày thống nhất đất nước, trong bức thư gửi từ Sài Gòn sang Tiệp
Khắc, ông viết: “Em yêu! Chắc em không ngờ ngày 7/5 năm nay anh lại ngồi
viết thư cho em tại Sài Gòn đã giải phóng... Nhiều cảm xúc đặc biệt.
Anh sẽ ghi lại nhật ký 2 tháng qua để sau này em cùng được sống lại với
anh những ngày bằng hàng chục năm đó. Anh đến Sài Gòn ngày 1/5. Sài Gòn
rất đông, suốt các ngả đường, dòng người, dòng xe cứ như nước... Vấn đề
lớn bây giờ và sắp tới là xây dựng đất nước thống nhất, phồn vinh, em sẽ
về cùng tham gia vào sự nghiệp đó. Viết vội chừng này... Gửi em tất cả
niềm vui, xúc động, nhớ thương và tự hào...”.
Thiếu tướng Phan Khắc Hy và bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Lan chụp ảnh cùng 1 trong ba người con. Ảnh tư liệu.
Hơn 1 tháng sau, từ Praha (thủ đô Tiệp Khắc lúc đó), bà viết: “...Từ
khi được tin giải phóng Sài Gòn thì đã sung sướng và mừng vui vô hạn,
tuy nhiên niềm vui chưa hoàn toàn trọn vẹn vì vẫn còn chờ thư anh. Từ
nay, em bớt đi phần lo lắng, cái lo lắng thường xuyên như cơm bữa... Giá
trị của độc lập, hoà bình cảm thấy thiết thân và cụ thể như sờ thấy
được anh ạ”.
Năm 1976, bà học xong về nước, gia đình đoàn tụ sau 24 năm ròng rã
chia cách bởi chiến tranh. Thư ông để trong chiếc túi xanh bà thêu, ông
giữ trọn vẹn từng bức đến ngày hoà bình.
Bức thư của liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm gửi một người yêu bí mật
có tên là M. Người con trai đó tên là Khương Thế Hưng, tác giả điệu múa
Chàm Rông nổi tiếng trên chiến trường đánh Mỹ.
Đặng Thuỳ Trâm đã hy sinh, Khương Thế Hưng cũng đã qua đời vì di
chứng chất độc da cam. Chỉ có những dòng thư, nhật ký hé lộ câu chuyện
tình đầy day dứt và tiếc nuối của họ. Kính mời quý bạn đọc đón xem trong kỳ tiếp theo.
Chuyện tình cảm động của nữ thanh niên xung phong bị chiến tranh cướp mất đôi tay
Nữ thanh niên xung phong năm nào bây giờ đã 72 tuổi,
bị thương trong chiến tranh đã khiến bà mất đôi tay. Sức khỏe tuy đã
yếu, nhưng vẫn giữ tinh thần lạc quan của người chiến sĩ, nữ thương binh
Trần Thị Hồng (Trung tâm Điều dưỡng Thương binh huyện Thuận Thành, Bắc
Ninh) vui vẻ chia sẻ: "Mình tàn nhưng không phế".
Sinh năm 1945, tại huyện
Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, bà Trần Thị Hồng là thương binh hạng 1/4, tỉ lệ
thương tật 92% loại A (có vết thương đặc biệt).
Năm
1965, cô gái Trần Thị Hồng mang chí lớn vào chiến trường Trường Sơn,
trở thành cô thanh niên xung phong của tuyến đường ác liệt này.
Thương binh Trần Thị Hồng bị chiến tranh cướp mất đôi tay nhưng sự lạc quan và vui vẻ vẫn luôn hiện hữu trên môi người chiến sĩ.
Bà
Hồng bồi hồi nhớ lại: “Ngày đó, thanh niên ai cũng khí thế hừng hực,
quyết tâm đánh cho giặc lui, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Máy bay lùng
sục trên đầu ngày đêm, nhưng chết thì chết sống thì sống, ai cũng sợ,
nhưng ai cũng nghĩ về cái sợ thì ai làm”.
Tiểu
đội của Trần Thị Hồng có hơn chục chiến sĩ, tuổi đời còn rất trẻ, chỉ
cỡ 18, 20 tuổi. Trong rừng, cuộc sống vô cùng gian khó. Bà Hồng kể: “Con
gái chúng tôi hồi ấy, da ai cũng vàng như nghệ. Ăn uống kham khổ, phải
chia nhau từng miếng calathầu đen thui, cuộc sống ngày chiến tranh là
thế. Không chỉ chống chọi với bom đan, mũi súng của địch, những cơn sốt
rét rừng khiến những người lính vàng bủng, gầy tong teo, các chị em thì
tóc rụng trọc cả đầu. Dù gian khổ như vậy, nhưng bom Mỹ còn thả bom thì
cả tiểu đổi còn cuốc xẻng không ngừng nghỉ, quyết tâm phải bảo vệ tuyến
đường huyết mạch”.
Đôi mắt nhăn nheo, cúi xuống vai áo để
lau đi hàng nước mắt, bà Hồng kể về cái ngày bị chiến tranh cướp mất đôi
tay, đang lúc tuổi xuân còn phơi phới: “Tôi bị thương năm 1968, đợt đó
Mỹ thả bom dữ dội, tôi đang cùng các chị em làm nhiệm vụ, bị trúng B52.
Tỉnh dậy tôi thấy mình ở bệnh viện 14 thuộc Binh trạm 12 trong rừng
Trường Sơn, đôi tay mình không còn. Lúc ấy, tôi chỉ nghĩ về cuộc sống
sau này và những ước mơ còn dang dở. Vì tôi còn muốn chiến đấu, còn muốn
cống hiến cho tổ quốc”.
Khi biết tin bà Hồng bị thương, ông Uyên tự nhủ sẽ là đôi tay của người thương đến hết cuộc đời.
Chồng
bà Hồng, ông Hoàng Văn Uyên, cũng là một thương binh, tiếp lời: “Khi
Hồng bị thương, chúng tôi đã yêu nhau được ba năm, biết tin Hồng bị
thương tôi rất đau lòng và tự nhủ mình sẽ là đôi tay của cô ấy hết cuộc
đời”.
Bà Hồng xúc động tâm sự: “Lúc
ấy, ông Uyên đang ở chiến trường B, tôi không muốn báo tin, chỉ mong
người ta quên mình đi. Thế nhưng ông ấy vẫn lặn lội đến tận đoàn an
dưỡng tìm thế đấy!”.
Chiến
tranh đang thời khốc liệt, chưa biết ngày nào đất nước hòa bình, nhưng
bà Hồng, ông Uyên đã quyết định “nên duyên” với nhau giữa chiến trường
lửa đạn. Năm 1970, bà Hồng được đưa tới khu điều dưỡng thương binh tại
Thuận Thành, Bắc Ninh. Ông Uyên dính bom gần, chịu sức ép, bị nặng tai
nên xin ra quân và chuyển công tác về khu điều dưỡng để tiện chăm sóc
vợ, sinh con. Giờ cả hai con trai của ông bà đã trưởng thành. Con lớn
tốt nghiệp Thạc sĩ Toán- Tin, ĐH Sư phạm Hà Nội, hiện là giáo viên Toán
của một trường chuyên Năng khiếu tỉnh Bắc Ninh. Con thứ hai tốt nghiệp
ĐH Giao thông vận tải Hà Nội, là Thạc sĩ kinh tế, hiện đang công tác tại
Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Bắc Ninh.
Tấm ảnh đại gia đình ông bà Uyên - Hồng.
Đã
mấy chục năm nay, hai vợ chồng thương binh gắn bó với nhau trong mái
nhà của Trung tâm Điều dưỡng Thương binh Thuận Thành (Bắc Ninh). Hằng
ngày, ông Uyên vẫn nấu cơm, làm việc nhà, tự tay chải tóc, bón cơm cho
vợ. Mất mát, đau thương là vậy, nhưng tinh thần người lính vẫn bền bỉ
sống trong họ, sự lạc quan, tích cực vẫn còn đó. Thời gian bao cấp, gia
đình bà Hồng gặp muôn vàn khó khăn do thương tật cụt 2 tay, mọi chi phí
sinh hoạt của gia đình phụ thuộc hoàn toàn vào trợ cấp của Nhà nước và
tiền lương ít ỏi của chồng, các con thì đang tuổi ăn học… để có thêm thu
nhập bà luôn cố gắng ra chợ buôn chè, chăn nuôi lợn, gà.
Bà
Hồng tâm sự: “Ngày ấy vất vả lắm, sau khi ra khỏi cuộc chiến, về với
đời sống thường, hai vợ chồng thương binh chúng tôi chật vật để nuôi
được hai đứa con trưởng thành, tuy mất hai tay, nhiều khi đau yếu nhưng
tôi vẫn đi chợ buôn chè để có tiền cho hai con ăn học”
Chiến tranh đã đi qua hơn 40 năm, biết bao người con ưu tú đất Việt đã
vùi mình dưới lòng đất sâu, không thể trở về. “Tuy mất 2 tay, nhưng tôi
còn là người may mắn. Nhiều người bạn của tôi đã ra đi mãi mãi…”, ánh
mắt người nữ thương binh trầm tư, rơi vào vô định. Chiến tranh khốc
liệt, để lại những mất mát và tàn dư đau đớn không gì có thể bù đắp. Vậy
mà tình yêu của họ trải qua cùng những thăng trầm của đất nước, can qua
biết bao vất vả của cuộc sống thường nhật, bà Hồng vẫn có một người
chồng trọn tình, vẹn nghĩa luôn bên cạnh, những đứa con giờ đây đã
trưởng thành, đó là niềm an ủi đối với người nữ thương binh quả cảm.
Bài viết thật hay và đoạn kết có nhân hậu. Phải thế vì hai
người đàn ông đều là những anh hùng của Sông Hương. Nghe cái tên rất có
cảm tình.
Sông Hương luôn đi liền với Núi Ngự như ‘bi’ phải đi với ‘trí’ của nhà Phật.Cảm ơn một câu chuyện hay
CHUYỆN TÌNH THỜI CHIẾN
Wendy Nicole Dương Như Nguyện
Lời Giới Thiệu: Sách của Wendy Nicole Dương (Dương Như Nguyện), cuốn ” Mimi and Her
Miror” và “Postcards From Nam”, nữ thẩm phán Hoa Kỳ đầu tiên gốc Việt,
vừa đoạt luôn giải nhất và giải nhì của cuộc giải thưởng sách quốc tế,
dạng tiểu thuyết đa văn hóa (category: multicultural fiction), được tổ
chức bởi JPX Media Group của Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ.
Chào đời tại Hội An, Quảng Nam và đến Hoa Kỳ năm 1975, Nicole tốt
nghiệp Cử Nhân Báo Chí tại ĐH Southern Illinois, sau đó Tiến Sĩ Luật của
ĐH Houston và LLM của Harvard. Tuổi 24, cô đã làm Tổng Giám Đốc Vụ Bồi
Thường Rủi Ro cho Quận Học Chánh Houston, rồi tốt nghiệp luật sư năm
1984. Hành nghề luật được 18 năm thì cô trở thành giáo sư luật thực thụ ở
đại học Denver.
Cô viết văn từ khi còn ở Việt Nam và là người cuối cùng đoạt giải
danh dự cuộc thi Văn Chương Phụ Nữ Toàn Quốc Lễ Hai Bà Trưng của Việt
Nam Cộng Hòa. Cuốn “Con gái của sông Hương” xuất bản năm 2005 gây nhiều tiếng vang.
———————— CON GÁI CỦA SÔNG HƯƠNG Một thời để yêu
Cuộc chiến Việt Nam đã để lại biết bao nhiêu cuộc tình éo le sầu
thảm. Một thời để yêu và một thời để chết. Một thời bên nhau, đại bác xa
xa vọng về và hỏa châu thắp sáng chân trời. Rồi tù đầy chia cắt. Anh
trở về dang dở đời em. Nhiều trường hợp sau hơn 10 năm tù, anh trở về,
em đã đem con qua Mỹ và đi xa hơn nữa, em đã sang ngang. Cũng như hàng
trăm người khác, chuyện cô gái sông Hương mà tôi kể cho quý vị hôm nay
cũng vậy mà thôi.
Nhưng đây là câu chuyện trong gia đình anh chị em cùng khóa của chúng
tôi, xin kể lại để quý vị nghĩ rằng đây là khổ đau hay hạnh phúc. Ðặc
biệt đây là câu chuyện liên quan đến mặt trận Quảng Trị năm 1972. Chàng
là sĩ quan thủy quân lục chiến, tốt nghiệp Ðà Lạt, cùng khóa với chúng
tôi. Năm đó đã trên 30 tuổi, ly dị vợ, sống độc thân, đẹp trai và có thể
nói là hào hoa phong nhã. Ðời thủy quân lục chiến, 12 tháng anh đi, nay
đây mai đó. Còn nhớ bài ca của lính mũ xanh. Tháng hai đem quân ra Huế…
và ở đó trung tá Nguyễn đã gặp cô Lan Hương, sinh viên văn khoa, người
con gái sông Hương. Lúc đó vào đầu thập niên 70, em mới 20 tuổi. Cô gái
Huế cũng có nhiều bạn trai theo đuổi và phần cô cũng rất đào hoa.. Ðược
coi là người đẹp văn khoa xứ Huế. Gặp chàng sĩ quan Bắc Kỳ, áo mầu lính
biển với mũ xanh, mang vóc dáng của người hùng thời chinh chiến, Lan
Hương bỏ tất cả để theo chàng. Cô Lan Hương
Chị cả một gia đình lễ giáo bảo thủ, cha mẹ cô hoàn toàn chống đối
cuộc hôn nhân hết sức phiêu lưu. Anh chàng Bắc kỳ hơi lớn tuổi, quá khứ
chẳng biết ra sao, đi thứ lính không biết chết ngày nào, không ai lại
muốn con gái sớm thành góa phụ. Nhưng cô gái sông Hương bướng bỉnh đã bỏ
nhà theo sư đoàn thủy quân lục chiến vào Saigon mất tăm dạng. Nàng chỉ
trở về với đứa con trong bụng để rồi gia đình cũng phải đành chấp nhận
cho chàng rể bất đắc dĩ ra mắt nhạc gia và chờ đón đứa cháu ra đời.Lúc
đó đúng vào giai đoạn trung tá Nguyễn cùng với lữ đoàn đang chiến đấu
tại mặt trận Quảng Trị. Lan Hương đau bụng vào nhà thương khi Bắc quân
tấn công thủy quân lục chiến tại Ái Tử. Hương kể rằng đại bác chẳng biết
từ đâu vọng về ngày đêm. Rồi bom nổ, tiếng máy bay xé ngang trời. Dân
chúng bị thương, bị chết đem vào bệnh viện cho đến ngày 6 tháng 4 năm
1972 đứa con trai đầu lòng của cô gái sông Hương ra đời. Ðặt tên cháu là
Vũ. Cũng ngày hôm đó, từ mặt trận trung tá Nguyễn bay trực thăng về hậu
cứ, rồi xe nhà binh cùng với binh sĩ ào vào thăm vợ con được ít phút
rồi lại ra đi. Lính tráng đi với ông thầy, súng đạn đầy người, áo quần
tơi tả, đến rồi đi tưởng như trong phim ảnh.Cô sinh viên nay trở thành
bà mẹ trẻ ôm con khóc không biết rồi đây anh có trở về không ? Ðó là
những ngày đầu của người con gái nếm mùi đau thương chinh chiến. Mấy năm
trước, dù Mậu Thân với bom đạn và xác người chôn ở vườn nhà, tuy có sợ
hãi nhưng vẫn còn ở tuổi ngây thơ. Bây giờ chiến tranh mới thâm nhập vào
da thịt.
Suốt 6 tháng dài từ tháng 4 tới tháng 9 năm 1972, Lan Hương thực sự
sống với chiến trường Quảng Trị. Theo tin chiến sự mỗi ngày. Quân ta
quân địch đánh nhau ở đâu. Thủy quân lục chiến rút lui ra sao, rồi đơn
vị về Huế dưỡng quân để lên đường vượt Mỹ Chánh thế nào. Người con gái
sông Hương cùng thở theo hơi thở của cả đoàn quân mũ xanh. Khi đánh vào
Cổ Thành, lính bên ta chết bao nhiêu, xác đem về đầy các xe nhà binh,
máy bay chở về Saigon không kịp còn nằm chờ ở phi trường. Cô sống trong
những cơn ác mộng ngày đêm, không đêm nào là không có cơn mộng dữ. Ðứa
con đầu lòng đã sống trong niềm lo bất tận của mẹ.Tiếp theo là 1 tin vui
trong giai đoạn mới của binh nghiệp. Trung tá Nguyễn đổi về Saigon làm
trung đoàn trưởng 1 trung đoàn bộ binh. Mặt trận miền Ðông cũng không
kém phần ác liệt, tuy nhiên không khí thủ đô làm cho gia đình có được
những giây phút tương đối an toàn.Mới đây, từ bên Arizona, đọc những bài
viết về trận Quảng Trị và dự trù làm phim, cô Lan Hương đã viết cho gia
đình tôi một đoạn email. “Ðọc những chuyện về trận Quảng trị 37 năm về trước, em hết sức
xúc động. Ðó là một phần cuộc đời của em không bao giờ quên được. Cuộc
đời làm vợ lính thủy quân lục chiến, làm mẹ lần đầu. Và do những tình cờ
em lại quen biết với gia đình anh chị suốt bao năm nay.” Tháng Tư, ngày định mệnh
Mặc dù là bạn cùng khóa, nhưng tôi không hề biết về gia cảnh của
trung tá Nguyễn. Hai tuần trước ngày 30 tháng 4-1975, tôi có dịp đi cùng
người anh của Nguyễn lên chiến trường miền Ðông để thăm trung đoàn tại
Bến Cát. Anh của Nguyễn là trung tá Tâm, cùng làm việc với chúng tôi tại
Tổng Tham Mưu. Xem tình hình tại chỗ, thấy hoàn cảnh của Nguyễn, với
trách nhiệm chỉ huy tại chiến trường, rõ ràng là việc di tản hoàn toàn
không có điều kiện. Sáng 30 tháng 4-1975, chúng tôi đi bằng tàu quân vận
tại Khánh Hội, theo sau đoàn tàu Hải quân.
Gia đình anh Tâm chạy theo chúng tôi lại có cả cô em dâu và một đứa
con 3 tuổi. Cô em dâu lại đang mang bầu, chính là Lan Hương của trung tá
Nguyễn. Người con gái sông Hương của thủy quân lục chiến và đứa con
trai là thằng bé ra đời trong thời gian mùa hè 72 tại Quảng trị. Mang
bầu đứa con thứ hai, với thằng bé 3 tuổi, chạy theo anh chị, xuống tàu
ra khơi. Lúc đó, thực sự tất cả chúng tôi cũng mơ hồ không biết đi đâu..
Có thể về miền Tây, ra Phú quốc, ra Côn sơn theo Hải quân hay chờ tàu
Mỹ vớt. Nhiều gia đình hy vọng thoát cơn hồng thủy, nhưng Lan Hương tan
nát trong lòng. Biết thế này em ở lại Saigon chờ anh Nguyễn. Sau cùng,
trải qua chuyến hải hành đầy nước mắt, mẹ con theo anh chị đến đảo Guam
thì cô quyết định xin ghi danh theo con tàu Việt Nam Thương Tín để trở
về. Tuy nhiên vì sắp đến ngày sanh, lại thấy những người xin về có những
hoạt động đấu tranh quá dữ dội nên sau cùng cô ở lại. Khóc thì vẫn
khóc.Qua đến miền đông nước Mỹ, Lan Hương sanh đứa con trai thứ nhì
trong trại tỵ nạn Fort Chaffee đặt tên là thằng Việt. Họ Ðạo miền Trung
Mỹ bảo trợ cho Lan Hương nuôi con. Hai đứa bé còn thật nhỏ. Những bà vú
Hoa Kỳ tình nguyện thay phiên đến trong nhà trông con để mẹ đi học. Xứ
Huế với dòng sông Hương, gia đình cha mẹ, các em vẫn xa tít mù khơi.
Không có tin tức gì về anh Nguyễn. Nào biết còn sống hay chết. Ðã đi tù
hay mất tích. Những buổi tối mùa đông của miền băng giá, cô vẫn lặn lội
đi học. Xa cách những vùng có đông người Việt. Gia đình anh chị bên nhà
Nguyễn cũng bận rộn về sinh kế. Những đứa con còn nhỏ dại. Cô sinh viên
văn khoa của sông Hương lầm lũi trở thành bà mẹ trẻ học trò tỵ nạn trong
kiếp sống cô đơn. Lỡ bước sang ngang
Trong hoàn cảnh đó, trải qua gần 5 năm hấp thụ nền văn minh Mỹ quốc,
Lan Hương gặp ông giáo sư dạy chương trình điện toán. Ông thầy Mỹ cũng
đã ly dị vợ từ lâu đem lòng thương yêu cô gái Việt và xin cưới.Trung tá
Tâm, anh của Nguyễn, điện thoại cho chúng tôi nói rằng 2 người đến nói
chuyện để xin phép được lập gia đình. Tuy là vai anh chồng và là bác của
những đứa con nhưng làm sao trả lời được. Ai mà có thể quyết định Yes
hay No? Nếu không đồng ý thì cũng không ngăn cản được. Vả lại, nếu cô
Hương ở vậy làm sao nuôi con thành người .
Những đứa nhỏ sắp sửa vào trường. Rồi trung học, đại học. Tin nhà
không có. Biết Nguyễn sống chết ra sao và sẽ chờ đến bao giờ. Hơn nữa
cũng chẳng phải thuần túy vì sinh kế. Cô gái sông Hương ngày xưa đã có
một thời nhiệt tình để yêu. Ðã có can đảm bỏ nhà đi theo sư đoàn thủy
quân lục chiến. Ngày nay nàng đã tìm thấy hơi ấm tình yêu mới bên cạnh
ông thầy đại học vào những lớp tối mùa đông. Cô ở vào tuổi 30 khi gặp
anh chàng người Mỹ, cũng cao lớn đẹp trai vững vàng như trung tá Thủy
quân lục chiến của mùa hè Quảng Trị ngày xưa. Ngày cưới đã ấn định.
Tháng 7 năm 1980. Hai đứa con trai nhỏ vô tư vui vẻ làm quen với người
cha Hoa Kỳ bao dung và tận tụy.
Nhưng số mệnh vẫn còn nhiều cay đắng. Ba ngày trước khi làm đám cưới,
Lan Hương nhận được thư nhà từ Huế gửi qua. Kèm theo là mẩu giấy nhỏ
nhắn tin của Nguyễn, còn sống, vẫn ở tù, chẳng biết ở đâu. Không biết
còn sống được bao lâu. Nhưng còn sống. Lan Hương nhớ lại, những ngày xa
xưa của năm 80, gần 30 năm về trước là những giờ phút hết sức trăn trở.
Vui mừng cho 2 đứa con vẫn còn bố. Nhưng bẽ bàng cho duyên phận. Sau
cùng, đám cưới vẫn tiến hành qua những ngày đầy nước mắt. Rồi ngày tháng
trôi qua, cuộc sống trên đất Mỹ với người chồng yêu thương, hết sức
quân tử đã tạo thành 1 gia đình kiểu mẩu. Lan Hương có nhiều cơ hội giúp
đỡ cha mẹ và các em. Gửi quà về tiếp tế cho Nguyễn trong trại tù từ Bắc
vào Nam.Từ trong trại, anh Nguyễn mơ hồ biết là vợ con đã qua Mỹ nhưng
không có nhiều tin tức. Sau hơn 13 năm “ lao động cải tạo “ người anh
hùng TQLC một thời được trở lại Saigon. Biết tin vợ con hạnh phúc trong
gia đình mới. Anh tìm lại người vợ cũ, làm hồ sơ HO đưa tất cả qua Hoa
Kỳ. Ðịnh cư tại miền Trung Mỹ. Tuy giấy tờ là 1 gia đình nhưng Nguyễn
vẫn sống độc thân như thời kỳ trước 75 . Gia đình mới của Lan Hương bây
giờ đã dọn qua sống tại miền Tây. Anh trở về, dang dở đời em…
Mùa xuân năm 1991, cô gái sông Hương giờ đây đã 40 tuổi, đem 2 con
qua miền Ðông gặp bố lần đầu tiên. Trước khi đi, người chồng Mỹ cầm tay
Hương mà nói rằng: “Em hãy đi và thử hỏi lòng mình 1 lần cho rõ ràng.
Nếu đây là lần chúng ta chia tay, anh cũng đành chấp nhận. Chuyện của
chúng ta sau 10 năm, đến đây là đoạn cuối. Nhưng nếu em trở lại, thì xin
nói lời chia tay rõ ràng với Mr.. Nguyễn. Ðối với anh, Nguyễn luôn luôn
là 1 người anh hùng. Nếu cần thì anh cũng phải hy sinh. Cảm ơn em đã
cho anh một gia đình trong 10 năm hạnh phúc”.Tiếp đến cuộc gặp gỡ
đầy đau thương của vợ chồng và bố con ông HO. Trời mùa đông Hoa Kỳ hình
như có cả cơn gió Lào thổi về Quảng trị.
Nguyễn cũng có tâm trạng ước mong đoàn tụ nhưng rồi chợt biết là đã
ngàn trùng xa cách. Nàng đã có gia đình mới. Mẹ con thấm nhuần văn hóa
Mỹ. Anh không thể và cũng không có khả năng phá vỡ được bức tường ngăn
cách đã xây dựng từ 15 năm qua. Ðành để cho định mệnh đóng vai trò quyết
định. Dự trù ra đi 1 tuần nhưng 4 ngày sau Lan Hương đã đem con trở về
với ông bố Mỹ. Và 1 lần nữa người cha Hoa Kỳ sung sướng đón mẹ con Việt
Nam trong vòng tay mở rộng. Gia đình Lan Hương sống tại San Francisco
nên có cơ hội gần gia đình chúng tôi như cô em gái. Chúng tôi biết hết
gia cảnh, và cô cũng vui lòng kể hết chuyện đời. Cay đắng nở hoa…
Tháng 5 năm 2002, chúng tôi nhận được thiếp mời đi dự đám cưới cháu
Việt tại Arizona. Bác sĩ Việt 27 tuổi lấy cô vợ Mỹ, bạn học thời sinh
viên tại nơi tiểu bang đồng khô cỏ cháy nhưng mang đầy truyền thống hết
sức Hoa Kỳ. Gia đình nhà vợ giàu có và bề thế. Bạn bè anh chị em nhà cô
dâu Mỹ rất khích động ồn ào khi đón được chú rể bác sĩ Việt Nam đẹp trai
độc đáo như tài tử Kung Fu Bruce Lee. Lễ cưới cử hành long trọng tại
nhà thờ. Ông bố vợ đại diện gia đình nhà gái chào mừng nhà trai và quan
khách. Nhà trai của bác sĩ Việt gồm cả 2 quốc gia Hoa Kỳ-Việt Nam từ bốn
phương kéo về.. Ông bố chồng Hoa Kỳ đứng lên giới thiệu ông bố chồng
Việt Nam là trung tá Nguyễn của chúng ta. Vị giáo sư điện toán của đại
học nói rằng đây là người anh hùng Thủy quân lục chiến Việt Nam, đã
chiến đấu 20 năm cho miền Nam tự do từ Tết Offensive 68 cho đến Easter
Offensive 72. Ðã trải qua hơn 13 năm làm tù binh trong trại tù cộng sản.
Mr. Nguyễn là anh hùng của ngày xưa và là anh hùng của ngày hôm nay.
Với tư cách là bạn bè và là khách của nhà trai, tôi có dịp lên tiếng
nhắc lại những ngày Nguyễn chiến đấu tại Quảng Trị, những ngày anh ở lại
Bến Cát cho đến khi Tư lệnh sư đoàn tự vẫn và ông bị bắt vào tù. Mrs.
Nguyễn mang bầu đi cùng chúng tôi ra khơi, được tàu Mỹ vớt, sanh cháu
Việt trong trại tỵ nạn. Ðặt tên Việt để nhớ mãi về quê hương. Và hôm
nay… Không khí cảm động và hơi căng thẳng, nên chúng tôi tìm cách kết
luận nhẹ nhàng,… và hôm nay, Dr. Việt bỏ người cha Marine Corp Việt Nam
và cả người cha giáo sư đại học Hoa Kỳ để về ở rể với người cha vợ
Arizona chỉ vì cậu bác sĩ của chúng tôi đi theo tiếng gọi của ái tình…
Tiếp theo, MC là em gái của cô dâu giới thiệu bà mẹ Lan Hương đi lên
chứng kiến lễ cưới của con trai. Ông chồng cũ Việt Nam đi một bên, ông
chồng hiện tại Hoa Kỳ đi một bên. Cô gái sông Hương khoác tay cả 2 chàng
đi lên bàn thờ. Quan khách vỗ tay tán thưởng còn nhiều hơn là dành cho
cô dâu chú rể. Trong đời chúng tôi, chưa từng dự một đám cưới nào như
vậy. Chú rể mới chụp hình kỷ niệm với 3 ông bố. Bức hình là một di tích
lịch sử của gia đình. Họp khóa mùa Xuân.
Tháng 3 năm 2004, kỷ niệm 50 năm của một khóa quân trường. Anh em
chúng tôi vào trường Ðà lạt tháng 3 năm 1954. 50 năm sau anh em gặp lại
tại Orange County, điểm danh xem ai còn ai mất. Cô Lan Hương đến dự đi
cùng gia đình chúng tôi. Anh Nguyễn độc thân từ miền Ðông về gặp anh em.
Ði cùng gia đình trung tá Tâm, chúng tôi đều là những ông già 70 tuổi.
Riêng cô gái sông Hương vẫn còn trẻ như ngày xưa. Anh em họp mặt hết sức
cảm động. Giới thiệu từng trung đội của năm 1954 xa xôi. Thời gian đó
chúng tôi xa Hà Nội năm lên 18 chưa từng biết yêu. Ðến năm 1975 thì bao
nhiêu mộng đẹp bay ra thành khói tan theo mây chiều.
Từ Vũ thế Quang, Nguyễn hữu Luyện và anh Nguyễn của đại đội 5, cho
đến các bạn của đại đội 6 như Lại Thọ, Trần quốc Lịch, Lê xuân Ðịnh.Tiết
mục sau cùng là người đẹp trao vòng hoa chiến thắng một đời cho các
chiến sĩ cao niên. Chị Thiều, nữ sinh Sài Gòn trao vòng hoa cho nhẩy dù
Ngô quang Thiều như chuyện tình năm xưa của thời chiến dịch Hoàng Diệu.
Lan Hương của xứ Huế trao hoa cho anh Nguyễn, thủy quân lục chiến. Bây
giờ anh Thiều và một số bạn khác đã ra đi, nhưng Nguyễn và Lan Hương vẫn
còn đây. Vẫn là cha mẹ của những đứa con, là ông bà của các cháu, nhưng
chàng trai Hà Nội và cô gái xứ Huế chỉ còn biết nhau trong tình bạn.
Vì đây là chuyện thật nên vào tháng 10 năm nay 2009, nếu các bạn tò
mò muốn biết mặt những nhân vật từ trong tiểu thuyết bước ra cuộc đời,
thì xin đến San Jose. Khóa chúng tôi họp mặt lần cuối, kỷ niệm 55 năm kể
từ khi ra trường tháng 10 năm 1954.Sau này, có lẽ lực bất tòng tâm. Năm
2014 kỷ niệm 60 năm nhập ngũ, anh em chúng tôi sẽ tổ chức tại gia. Nhà
ai nấy làm. Chỉ có thể mời cô Lan Hương đến dự.Vì cô gái sông Hương mãi mãi tuổi 20.
Nicole và Bà Hoàng Đức Nhã trong buổi trao giải Văn Chương 1975.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét