Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2018

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 92

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
                                               

Nhà vật lý thông minh nhất thế giới: “Khoa học không thể phá vỡ bí mật của ý thức”





Càng nỗ lực khám phá bí ẩn của ý thức, các nhà khoa học càng nhận ra rằng khoa học bất lực trong việc giải mã thách đố này của tự nhiên. Mới đây, tạp chí Scientific American đưa tin: “Nhà vật lí thông minh nhất thế giới Edward Witten cho rằng khoa học không thể phá vỡ bí mật của ý thức”.
Đây là tin buồn cho các nhà tiến hóa, nhưng là tin vui cho những người tin vào luận đề của Descartes cho rằng ý thức là một hiện thực phi vật chất vượt quá tầm với của khoa học…
Vấn đề bản chất của ý thức quan trọng hơn rất nhiều so với chúng ta tưởng, bởi lẽ ý thức là đặc trưng cốt lõi của sự sống. Muốn giải thích sự sống bằng những cơ chế thuần túy vật chất như thuyết tiến hóa Darwin chủ trương, nhất thiết phải giải thích được bản chất vật chất của ý thức ─ phải trả lời một cách dứt khoát “ý thức là cái gì?”.
Nếu ý thức là một dạng vật chất nào đó, dù bí hiểm đến mấy, thì hy vọng một ngày nào đó khoa học có thể sẽ khám phá ra nó. Nhưng nếu ý thức không phải là vật chất thì tham vọng đó sẽ trở thành không tưởng. Khi ấy lý thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người sẽ lộ nguyên hình là một lý thuyết sai lầm, ảnh hưởng rất xấu đến đạo lý làm người.
Albert Camus, một triết gia nổi tiếng người Pháp đoạt Giải Nobel văn chương năm 1957, từng nói: “Con người là tạo vật duy nhất từ chối trở thành cái mà anh ta phải là” (Man is the only creature that refuses to be what he is).
Ý ông nói rằng con người vốn là một cái gì đó cao quý, nhưng con người đã từ chối đóng vai trò cao quý mà lẽ ra phải đóng, để tự hạ thấp mình xuống thang bậc động vật, cho dù là động vật cao cấp, coi việc đấu tranh sinh tồn là lẽ tự nhiên, và do đó chẳng nề hà làm những việc không xứng đáng với giá trị cao quý mà lẽ ra phải có.
Câu nói của Camus thật chua chát, nhưng phản ánh đúng thực trạng xã hội hiện đại, nơi thuyết tiến hóa Darwin được coi là một khoa học chính thức.
Để hiểu câu nói của Camus, tất nhiên phải tin vào các giá trị cao quý của con người mà các nền văn hóa truyền thống từng khẳng định. Ở Đông phương, Nho giáo quan niệm “… người là cái đức của trời đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành. Trời đất sinh ra người lại phú cho cái tính rất quý, tức là người chịu cái đức của trời đất. Người lại bẩm thụ được hoàn toàn cả cái tinh thần linh diệu và cái khí chất tinh tú, cho nên mới nói là linh hơn cả vạn vật. Nhờ có cái tinh thần và cái khí chất ấy người ta mới có cái sáng suốt để hiểu hết các sự vật….. Cái sáng suốt tự nhiên có sẵn trong người ta là minh đức hay lương tri, có thể gọi là trực giác tức là cái khiếu tri giác rất mẫn tiệp, xem xét cái gì có thể đạt ngay đến cái tinh thần và cái chân lý của các sự vật. Cái khiếu tri giác ấy do ở trong tâm của người ta…” [1] (chữ tô đậm do tôi nhấn mạnh, PVHg).
Ở Tây phương, cuốn sách từng ngự trị trong tâm hồn con người là Kinh Thánh nói rõ rằng “Thiên Chúa lấy đất nặn một hình người, và thổi sinh khí vào mũi nó, tức thì hình nặn ấy thành vật sống động” (Sáng Thế 2:7). Tức là phải có cái sinh khí do Chúa thổi vào thì con người mới trở nên người, nếu không thì chỉ là cái xác vô nghĩa. Sự cao quý của con người được chính Thiên Chúa nói ra: “Ta hãy dựng nên loài người theo hình ảnh Ta và giống Ta…” (Sáng Thế 1:26).
Dù tin hay không tin vào những quan điểm trong các kinh sách truyền thống nói trên, sự thật lịch sử không thể chối cãi là những quan điểm ấy đã ảnh hưởng tích cực đến đạo lý làm người của con người ở cả Đông phương lẫn Tây phương trong hàng ngàn năm qua. Nhưng sự đảo lộn về ý thức làm người đã diễn ra mạnh mẽ kể từ khi thuyết tiến hóa của Darwin được công nhận như một khoa học chính thức.
Chủ nghĩa quốc xã Đức 1930-1945 là đỉnh cao của việc áp dụng thuyết tiến hóa vào xã hội loài người, để lại những đau thương và những vết nhơ đạo lý không bao giờ có thể xóa bỏ khỏi ký ức nhân loại.
Nhưng may mắn thay, khoa học càng phát triển, thuyết tiến hóa càng lộ rõ tính chất ngụy khoa học của nó. Rất nhiều tài liệu vạch trần sai lầm của thuyết tiến hóa đã được công bố. Cuối năm 2012, một cuốn sách lột trần sự bất lực của thuyết tiến hóa trong vấn đề ý thức đã ra mắt công chúng:
Mind and Cosmos: Why the Materialist Neo-Darwinian Conception of Nature Is Almost Certainly False”, xin tạm dịch là “Tinh thần và Vũ trụ: Tại sao khái niệm duy vật về tự nhiên của học thuyết Tân-Darwin hầu như chắc chắn sai”. Tác giả là Thomas Nagel, một nhà triết học nổi tiếng từng ủng hộ thuyết tiến hóa. Ông đã từng có dịp chuyện trò với Kurt Gödel, tác giả của Định lý Bất toàn nổi tiếng.
Lúc tranh luận về vấn đề linh hồn và thể xác, Nagel còn chỉ trích quan điểm nhị nguyên của Gödel là không thể chấp nhận được, vì nó không thể dung hòa với thuyết tiến hóa. Có nghĩa là đối với Nagel, đến lúc ấy thuyết tiến hóa vẫn là một chỗ dựa khoa học để đem ra bênh vực chân lý khi tranh luận [2]. Ấy thế mà giờ đây, chính Nagel lại thất vọng với cái học thuyết mà ông đã từng tin tưởng. Tại sao vậy? Vì thuyết tiến hóa hoàn toàn bất lực trong việc giải thích bản chất của ý thức ─ đặc trưng cốt lõi của sự sống.
Trong khi chưa có cuốn sách của Nagel trong tay, độc giả có thể tìm hiểu quan điểm của Nagel qua bài báo Can science explain consciousness? (Khoa học có thể giải thích ý thức được không?) của Jean-François Gariépy. Trong đó nói rằng: “Trong một cuốn sách mới được xuất bản trong mùa thu vừa qua, Thomas Nagel đã bảo vệ quan điểm cho rằng khoa học không thể giải thích được ý thức ─ rằng tâm trí là một hiện tượng tự nhiên không thể quy giản thành các trạng thái vật lý của bộ não được. Ông cũng lập luận rằng thuyết tiến hóa, hoặc những lý thuyết phiên bản hiện nay của nó, không đủ để giải thích sự xuất hiện của ý thức”.
Xin nhấn mạnh rằng không chỉ Thomas Nagel, mà rất nhiều nhà khoa học hàng đầu khác cũng nhận thấy khoa học bất lực trước bí mật của ý thức. Nổi bật nhất và thú vị nhất là trường hợp của Edward Witten, như tạp chí Scientific American, một tạp chí khoa học nổi tiếng thế giới, mới loan báo gần đây.

1/ Bài báo trên Scientific American ngày 18/08/2016 của John Horgan

Sau đây là bản lược dịch bài báo của John Horgan trên Scientific American ngày 18/08/2016, nhan đề  World’s Smartest Physicist Thinks Science Can’t Crack Consciousness (Nhà vật lý thông minh nhất thế giới cho rằng khoa học không thể phá vỡ bí mật của ý thức).
Nhà lý thuyết dây Edward Witten nói ý thức sẽ “vẫn là một bí mật”
Gần đây tôi đã và đang viết rất nhiều về ý thức ─ điều bí ẩn lớn nhất. Tôi đã từng nghĩ thách đố lớn nhất là câu hỏi “tại sao có cái gì đó còn hơn là không có gì cả”. Nhưng nếu không có ý thức thì có thể cũng chẳng có gì cả.
Một số nhà tư tưởng sâu sắc, đặc biệt là triết gia Colin McGinn, cho rằng bí mật của ý thức là vấn đề không thể giải quyết được. Nhà triết học Owen Flanagan gọi những người có quan điểm bi quan này là “những người bí ẩn”,…
Vậy mà mới đây, nhà vật lí Edward Witten lại xuất hiện như một người bí ẩn. Witten được các nhà vật lý đồng nghiệp của ông kính nể, trong đó một số người đã so sánh ông với Einstein và Newton. Ông là người đóng góp chủ yếu vào việc phổ biến Lý thuyết Dây trong vài thập kỷ qua. Lý thuyết dây cho rằng tất cả các lực của Tự Nhiên bắt nguồn từ những hạt siêu nhỏ rung động trong một siêu không gian bao gồm nhiều chiều phụ trội bổ sung.
Nhà vật lý Edward Witten
Witten vốn là một người có quan điểm lạc quan về sức mạnh của khoa học trong việc làm sáng tỏ các bí ẩn của Tự Nhiên, chẳng hạn như vấn đề tại sao lại có cái gì đó chứ không phải là không có gì. Trong một cuộc trao đổi vấn đáp với tôi năm 2014, ông nói: “Nỗ lực của khoa học hiện đại đã diễn ra trong hàng trăm năm nay rồi, và chúng tôi đã tiến xa hơn những gì mà những người tiền nhiệm của chúng tôi có thể tưởng tượng được.” Ông cũng khẳng định lại niềm tin của mình rằng Lý thuyết Dây rồi sẽ được kiểm chứng là “đúng”.
Thế nhưng trong một video phỏng vấn rất thú vị với phóng viên Wim Kayzer, Witten lại tỏ ra bi quan về tương lai của một giải thích khoa học đối với vấn đề ý thức. Nhà hoá học Ash Jogalekar, tác giả bài báo “The Curious Wavefunction” (Hàm sóng kỳ lạ), đã viết về bài phát biểu của Witten và chuyển thể phần liên quan. Dưới đây là một trích đoạn ý kiến của Witten:
“Tôi nghĩ rằng ý thức sẽ vẫn là một bí ẩn. Vâng, đó là những gì tôi có xu hướng tin tưởng. Tôi có xu hướng nghĩ rằng hoạt động của bộ não có ý thức sẽ được làm sáng tỏ ở mức độ lớn. Các nhà sinh học và có lẽ các nhà vật lý sẽ hiểu rõ hơn cách hoạt động của não. Nhưng tại sao một cái gì đó mà chúng ta gọi là ý thức đi cùng với những hoạt động đó, tôi nghĩ rằng sẽ vẫn là bí ẩn. Tôi cảm thấy việc hình dung làm thế nào mà chúng ta hiểu được Big Bang còn dễ dàng hơn nhiều so với việc hình dung làm thế nào mà chúng ta có thể hiểu được ý thức”.
Mặc dù Witten là một thiên tài nhưng điều đó không có nghĩa là ông không thể sai. Tôi tin rằng ông ta sai khi cho rằng Lý thuyết Dây cuối cùng sẽ được xác nhận, và ông ta cũng có thể sai khi cho rằng ý thức sẽ không bao giờ giải thích được. Tuy nhiên, tôi thấy ý kiến của ông đáng được đưa lên mặt báo ─ rằng một nhà khoa học tầm cỡ như Witten cũng đang thẳng thắn đề cập đến giới hạn của khoa học. Vì những lý do có lẽ quá rõ ràng, tôi thích nhận xét của Ash Jogalekar về ý kiến của Witten. Sau đây là một đoạn trích:
“Điều thú vị là đem đối chiếu tư tưởng của Witten với luận đề của John Horgan về “Sự kết thúc của khoa học” (The End of Science)… (ta có thể thấy rằng, ND) Sự kết thúc của khoa học thực sự là sự kết thúc của việc tìm kiếm nguyên nhân cuối cùng. Theo nghĩa đó không chỉ ý thức mà còn nhiều khía cạnh khác của thế giới luôn luôn có thể là một bí ẩn. Dù bạn cảm thấy dễ chịu hoặc bối rối với điều này thì đó là một sự lựa chọn cá nhân mà mỗi người trong chúng ta phải lựa chọn.

2/ Bình luận của PVHg’s Home về bài báo của John Horgan

Bình luận 1: John Horgan, tác giả bài báo, là một ký giả khoa học nổi tiếng ở Mỹ, chuyên viết cho tạp chí Scientific American. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách phổ biến khoa học nổi tiếng, chuyên về chủ đề giới hạn của khoa học. Theo Horgan, hiện nay khoa học đã tiệm cận tới giới hạn của nó rồi. Từ nay, khó có thể có những lý thuyết khoa học lớn như Thuyết Tương đối của Einstein, Nguyên lý Bất định của Heisenberg,…
Nổi tiếng nhất trong các tác phẩm của John Horgan là cuốn “The End of Science” (Sự kết thúc của khoa học), một cuốn sách từng gây xôn xao dư luận và tranh cãi trong giới khoa học. Cách đây ngót 15 năm, tôi (PVHg) đã có bài giới thiệu cuốn sách này trên tạp chí Tia Sáng. Ngày 23/12/2005, bài báo đó đã xuất hiện trên trang Chungta.com .
Tiêu đề bài báo của tôi đã cố tình giảm nhẹ tuyên bố khó nghe của Horgan, “Sự kết thúc của khoa học” đã được chuyển thể một cách “mềm mại” thành “Buổi hoàng hôn của khoa học”. Ấy thế mà vẫn gặp phải phản ứng gay gắt của một số độc giả trên Tia Sáng. Những độc giả này dường như đã bị nhiễm sâu một căn bệnh khó chữa trong thời đại ngày nay, đó là bệnh tôn thờ khoa học như chúa ─ tôn thờ một cách sùng tín đến nỗi họ muốn ngoảnh mặt đi để khỏi trông thấy những sự thật bộc lộ bản chất hạn chế  của khoa học. Ngay tại Mỹ, Horgan cũng không tránh được nhiều phản ứng gay gắt. Vì thế ông tỏ ra hứng thú khi thấy Edward Witten, người được coi là nhà khoa học giỏi nhất hiện nay, rốt cuộc cũng phải thốt lên những nhận định tương tự như ông, rằng có những giới hạn khoa học không thể vượt qua. Ý kiến thú vị nhất của Witten được Horgan nhắc lại nằm ở phần kết, rằng hình dung tại sao lại có Big Bang còn dễ hơn hình dung tại sao lại xuất hiện ý thức.
Quả thật, dù Big Bang khó hiểu đến mấy, nó vẫn là những sự kiện thuần túy biến đổi vật chất; toán học và vật lý thừa sức giải quyết; nhưng sự xuất hiện của ý thức là một vấn đề hoàn toàn khác: “Làm thế nào mà vật chất bỗng nhiên lại đẻ ra một cái gì đó không phải là vật chất?”. Tại đây, Định luật bảo toàn vật chất sẽ sụp đổ, nếu cố bám lấy niềm tin cho rằng ý thức là sản phẩm của sự hoạt động vật chất trong bộ não và hệ thần kinh nói chung. Rõ ràng là có một bước nhảy vọt ở chỗ này ─ sự xuất hiện của ý thức, một hiện thực phi vật chất, là một PHÉP LẠ của Tự Nhiên, khoa học vật chất hoàn toàn bất lực không thể giải thích được. Đó là lý do để Descartes cho rằng sự tồn tại không thể chối cãi của ý thức buộc chúng ta phải tìn rằng ý thức là do Chúa truyền cho chúng ta.
Với cái nhìn triết học sâu sắc đó, mọi nỗ lực giải thích nguồn gốc của ý thức bằng sự tiến hóa của vật chất đều trở thành một trò hề trên sân khấu khoa học mà thôi.
Rốt cuộc những bộ óc lớn nhất của nhân loại từ cổ chí kim vẫn gặp nhau: Ý kiến của Descartes (thế kỷ 17), Planck, Einstein, Tesla, Gödel, Schrödinger,… (thế kỷ 20), và bây giờ của Edward Witten (thế kỷ 21) chỉ khác nhau về từ ngữ, còn nội dung đều nhất trí cho rằng ý thức là một hiện thực vượt quá tầm với của khoa học [3].
Bình luận 2: Edward Witten, người được coi là nhà vật lý giỏi nhất thế giới hiện nay, là tác giả chủ yếu của Lý thuyết M, một lý thuyết thống nhất các phiên bản khác nhau của Lý thuyết Siêu dây (Superstring Theory). Ông được giới vật lý coi là người có khả năng kế tục Einstein. Lý thuyết M của ông được coi là ứng cử viên sáng giá nhất của Lý thuyết về mọi thứ (Theory of Everything), một lý thuyết có tham vọng khổng lồ là thống nhất Mô hình Chuẩn của Cơ học Lượng tử với Thuyết tương đối tổng quát của Einstein. Mặc dù điều này còn phải chờ sự phán xét của thực tiễn, nhưng về mặt lý thuyết, Lý thuyết M đã làm cho những nhà vật lý hàng đầu hiện nay khiếp sợ trước sự phức tạp, cao siêu và trừu tượng của nó. Nó được mệnh danh là Lý thuyết M vì chứa đựng đủ tất cả những tính chất bắt đầu bởi chữ M: “Matrix” (ma trận), “Mystery” (Bí mật), Murky (tối tăm khó hiểu) + “Magic” (huyền bí) + “Membrane” (màng) +… Như bài báo của John Horgan đã nhấn mạnh, Edward Witten là người không chịu lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào. Hơn bất kỳ ai khác, ông là người tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh vô địch của khoa học trong việc khám phá bí mật của tự nhiên. Bản thân ông là một hiện thân của sức mạnh đó, ấy thế mà ông lại không tin vào sức mạnh của khoa học trong việc khám phá bản chất của ý thức. Điều này làm tôi nhớ lại ý kiến của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong cuốn “Vũ trụ trong một nguyên tử”. Trong cuốn này, Đức Đạt Lai Lạt ma kêu gọi khoa học hợp tác với Phật học trong việc khám phá bản chất của ý thức. Nhưng để làm được điều đó, khoa học phải chấp nhận những kinh nghiệm chủ quan về ý thức mà các nhà đạo học chiêm nghiệm được thông qua những phép tu thiền. Thoạt nghe ta thấy đề nghị hợp tác này có vẻ hấp dẫn, nhưng suy nghĩ kỹ có thể thấy ngay rằng điều này là không tưởng. Nếu khoa học chấp nhận kinh nghiệm chủ quan của các nhà tu hành thì khoa học không còn là khoa học nữa. Thực tế những nghiên cứu PSI (hiện tượng ngoại cảm và tâm linh) không được coi là khoa học. Ấy là vì nó không làm thế nào biến những kinh nghiệm chủ quan của các nhà ngoại cảm hoặc tâm linh thành những định luật khách quan của Tự Nhiên được. Nói như thế không có nghĩa là nên loại bỏ những nghiên cứu PSI. Ngược lại, cần tôn trọng những nghiên cứu này, vì trước hết PSI xác nhận rằng những hiện tượng ngoại cảm và tâm linh là sự thật (có thật). Nếu khoa học không giải thích được những hiện tượng do PSI quan sát được thì đơn giản đó là sự bất lực của khoa học.
Bình luận 3: Thực ra không cần phải đợi đến Edward Witten chúng ta mới biết khoa học bất lực trước bí mật của ý thức. Các nhà khoa học tiền bối đã nói điều đó rồi, xin nhắc lại:
“Tôi coi ý thức là nền tảng căn bản, và vật chất bắt nguồn từ ý thức. Chúng ta không thể biết được những gì đằng sau ý thức. Mọi thứ chúng ta bàn đến, mọi thứ mà ta coi là đang tồn tại, đều do ý thức mặc nhận” (Max Planck)
“Ý thức không thể giải thích được bằng những thuật ngữ mang tính vật chất. Vì ý thức là khái niệm gốc rễ, không thể giải thích được bằng thuật ngữ của bất cứ thứ gì khác” (Erwin Schrödinger).
Hai ý kiến trên chỉ ra rằng phải có ý thức mới nhận thức được vật chất, vì thế việc dùng khoa học vật chất để giải thích ý thức là một hành trình tư duy ngược với quy trình tự nhiên của nhận thức.
Vả lại, dùng khoa học (một bộ phận của ý thức) để nghiên cứu ý thức thực chất là thực hiện một phép suy luận logic tự quy chiếu (tự mình phán xét mình). Theo Định lý Gödel. mọi hệ logic tự quy chiếu đều dẫn tới mâu thuẫn. Đó là lý do để mọi nghiên cứu khoa học về ý thức đều thất bại.
Cũng theo Gödel, muốn nghiên cứu tính đúng đắn của một hệ logic, phải đi ra ngoài hệ logic đó. Vậy muốn nghiên cứu bản chất của ý thức, phải đi ra ngoài ý thức! Làm thế nào để đi ra ngoài ý thức? Đó là câu hỏi dành cho những ai muốn nghiên cứu ý thức bằng những phương pháp bên ngoài khoa học.
Bình luận 4: Tham vọng dùng khoa học để khám phá ra bản chất của ý thức xuất phát từ một ngộ nhận rất ấu trĩ, đó là việc đánh đồng bộ não với ý thức trong bộ não. Những người có tham vọng này không đủ trí thông minh để hiểu điều Thomas Nagel nói: “Tâm trí là một hiện tượng tự nhiên không thể quy giản thành các trạng thái vật lý của bộ não được”. Ở trên chúng ta cũng đã thấy Edward Witten thừa nhận là những nghiên cứu về bộ não sẽ đạt được nhiều tiến bộ, nhưng điều đó sẽ chẳng hề giải thích được ý thức là cái gì. Nhiều người ngây thơ nghĩ rằng hiểu rõ bộ não thì sẽ hiểu rõ ý thức. Nếu tạm ví bộ não như phần cứng của một chiếc computer thì cũng có thể tạm ví ý thức như phần mềm của computer đó. Phần cứng KHÔNG TẠO RA phần mềm, bộ não KHÔNG TẠO RA ý thức!!! Đó là điều các nhà khoa học thần kinh và các nhà sinh học tiến hóa cần biết. Hoàn toàn tương tự, có thể nói phân tử DNA không tạo ra mã DNA. vật chất không tạo ra thông tin! Vì thông tin không phải là vật chất, mọi thông tin đều có nguồn trí tuệ thông minh! “Bất kỳ một lý thuyết vật chất nào không thừa nhận điều này đều không thể tồn tại trong thời đại ngày nay” (Norbert Wiener).
Bình luận 5: Trong bài báo của Horgan, những người không tin vào khả năng của khoa học trong việc “bẻ gãy” bí mật của ý thức bị coi là những người “bi quan”. Thật nực cười, ngay cả Edward Witten, nhà khoa học giỏi nhất thế giới hiện nay, người dám nghĩ đến siêu không gian nhiều chiều để tìm cách thống nhất Cơ học Lượng tử với Thuyết tương đối tổng quát, cũng bị coi  là một người “bi quan” (!). Thế mới biết tại sao Einstein phải chua chát thốt lên rằng “Chỉ có hai thứ vô hạn: vũ trụ và cái ngu của con người!”. Để trở thành sáng suốt, không thể không tốn công nghiên cứu. Nhưng nghiên cứu mà không thoát ra khỏi những định kiến thì cũng vô ích. Chẳng hạn, nền giáo dục trên khắp thế giới đã nhồi nhét vào đầu trẻ em một định kiến rằng con người xuất thân từ vượn. Nếu định kiến này bám chặt trong đầu không thể ra khỏi đó được thì bao nhiêu nghiên cứu, bao nhiêu bằng tiến sĩ cũng vô ích. Không phải bây giờ, và cũng không phải ở Việt Nam, mà ngay tại Pháp thế kỷ 19, Alexandre Dumas, tác giả của những tiểu thuyết lịch sử trứ danh, đã thất vọng với nền giáo dục đến nỗi ông phải thốt lên rằng “Làm thế nào mà trẻ em thì thông minh thế mà người lớn lại ngu xuẩn thế? Ắt là nền giáo dục đã làm ra như thế” (How is it that little children are so intelligent and men so stupid? It must be education that does it). Tình trạng một lý thuyết sai lầm như học thuyết Darwin được nhiều người lớn có bằng cấp hẳn hoi ra sức bênh vực, bất chấp sự thật, chính là kết quả điển hình của nền giáo dục toàn cầu trong hơn 150 năm nay. Vì thế, để nhìn nhận một vấn đề khách quan hơn và độc lập hơn, chúng ta phải tìm cách bổ sung những thông tin từ mọi nguồn khác nhau trong cuộc sống. Những thông tin được giới thiệu dưới đây sẽ giúp độc giả có một cái nhìn đầy đủ hơn và khách quan hơn về vấn đề chúng ta đang thảo luận: Khoa học có giải thích được bí mật của ý thức không?

3/ Khoa học có giải thích được bí mật của ý thức không?

  • Một bài báo trên trang QUARTZ, nhan đề Science can’t totally explain consciousness, and it never will (Khoa học không thể giải thích hoàn toàn vấn đề ý thức, và nó không bao giờ có thể làm điều đó) cho biết: Lisa Miracchi, phó giáo sư triết học tại Đại học Pennsylvania nhận định: “Bạn sẽ không thể hiểu được ý thức chỉ nhờ vào các sự kiện về thần kinh” ( you won’t understand consciousness just by looking at neural facts).
  • Tạp chí New Scientist, trong một bài báo nhan đề Consciousness: The what, why and how (Ý thức: cái gì, tại sao, như thế nào) viết: “Có rất nhiều bài toán khó trên thế giới, nhưng chỉ có một bài toán duy nhất được gọi là bài toán khó”… Đó là bài toán về bản chất của ý thức. Bài báo cho biết, nhà tâm lý học người Anh Stuart Sutherland nói: “Ý thức là một hiện tượng hấp dẫn nhưng khó nắm bắt … Không có một tài liệu nào đáng đọc được viết về ý thức cả”, và cho đến hiện nay, “Bài toán khó vẫn chưa giải được”.
  • Cũng trên New Scientist ngày 23/11/2011, bài báo Consciousness is a matter of constraint (Ý thức là một vấn đề gượng gạo) viết: “Trong một Phụ lục Văn học xuất bản năm 1992 của tờ Times, nhà triết học Jerry Fodor đã than phiền bằng một câu nói nổi tiếng rằng “Không ai có lấy một ý tưởng nhỏ bé nào về bất kỳ một thứ vật chất nào lại có thể là ý thức. Thậm chí không ai biết một cái gì có thể xem như một ý tưởng nhỏ bé về bất kỳ một thứ vật chất nào có thể là ý thức”. Bất chấp hai thập kỷ của những tiến bộ bùng nổ trong những nghiên cứu về bộ não và trong khoa học nhận thức, đến năm 2011 nhận định của Fodor vẫn phản ánh đúng thực tế”.
  • Trong bài báo Why can’t the world’s greatest minds solve the mystery of consciousness? tờ The Guardian ở Anh viết: “Trong vài thập kỷ qua, các nhà triết học và khoa học đã và đang cãi vã chiến tranh với nhau về câu hỏi cái gì làm cho con người phức tạp hơn robots”.
4/ Kết luận
4.1. Khoa học không thể phá vỡ bí mật của ý thức. Khoa học sẽ khám phá ra nhiều bí mật của bộ não và hệ thần kinh, nhưng đó chỉ là bí mật của “phần cứng” thuộc thể xác của con người, không phải là bí mật của ý thức, “phần mềm” chạy trong bộ não và hệ thần kinh của con người.
4.2. Sau 4 thế kỷ nghiên cứu của khoa học, luận đề của Descartes vẫn đứng vững, trong đó khẳng định ý thức là một hiện thực phi vật chất, không tuân thủ mọi định luật của tự nhiên. Khoa học càng tiến lên càng cho thấy Descartes đúng.
4.3. Đã đến lúc khoa học nên từ bỏ thế giới quan duy vật thuần túy, nếu quả thật nó muốn tiến lên để khám phá thế giới hiện thực, bao gồm những hiện thực phi vật chất và siêu vật chất. Nói một cách dễ hiểu, khoa học hiện nay chỉ quan tâm đến những hiện thực hữu hình. Đã đến lúc khoa học cần mở rộng tầm nhìn tới cả thế giới vô hình, thế giới siêu hình, nếu khoa học là tổng hợp tất cả những tri thức về thế giới khách quan. Chú ý: vật chất tối (dark matter) và năng lượng tối (dark energy) nếu tồn tại như vật lý học hiện nay tiên đoán, thì những vật chất này vẫn thuộc thế giới hữu hình. Nhưng ý thức thuộc thế giới vô hình, mặc dù nó có quan hệ gắn bó với thế giới hữu hình.
4.4. Thuyết tiến hóa không xứng đáng được coi là một lý thuyết về sự sống, vì nó hoàn toàn bất lực trong việc giải thích sự hình thành của ý thức ─ đặc trưng cơ bản của sự sống. Hơn 150 năm trước đây, chính ông tổ của thuyết tiến hóa, Charles Darwin, đã thú nhận điều này. Thật vậy, trong cuốn “Về Nguồn gốc các loài của ông” (On the Origin of Species), xuất bản năm 1859, ông viết: “Tôi phải nhấn mạnh rằng tôi không có gì để làm với vấn đề nguồn gốc của những khả năng tinh thần nguyên thủy…” (I must premise, that I have nothing to do with the origin of the primary mental powers,…) (Chương VII, Vấn đề Bản năng (Instinct)), tức là ông không biết gì về nguồn gốc hình thành ý thức ở sinh vật. [4] Hơn 150 năm sau, các đệ tử của ông cũng không biết gì hơn ông. Thậm chí họ còn tảng lờ không nhắc đến chỗ kém cỏi này của thuyết tiến hóa.
CHÚ THÍCH
[1] Xem “Nho giáo”, Trần trọng Kim, NXB Văn hóa Thông tin, trang 78
Tác giả: GS Phạm Việt Hưng.
Đăng tải với sự cho phép. Đọc bản gốc ở đây.

Bí ẩn của sự sống, càng nghiên cứu các nhà khoa học càng tin chắc rằng :”Thượng Đế có tồn tại”





“Sự phát triển của khoa học từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai gây ấn tượng mạnh, khiến nhân loại nghĩ rằng khoa học có một khả năng vô tận trong việc nhận thức thế giới và giải quyết các vấn đề của nhân loại. Sự thực không phải như vậy: khoa học có những giới hạn và những giới hạn đó là từ bản chất bên trong của nó… Càng đi sâu nghiên cứu, nhiều nhà khoa học càng đi đến kết luận không thể tránh được: Thượng đế có tồn tại”.
Đó là Lời Giới thiệu cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC của nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới, do NXB Khoa học & Kỹ thuật Hà-nội xuất bản năm 2004.
Tôi có cuốn sách này ngay từ khi nó vừa ra mắt. Nhưng vì nhiều lý do, tôi đã bỏ quên nó trong một góc khuất của tủ sách hơn 12 năm nay. Gần đây tình cờ “phát hiện” ra, tôi giật mình nhận ra đây là một cuốn sách triết học khoa học vô cùng quý giá. Không hề cường điệu, tôi muốn nói rằng nếu không nắm được những tư tưởng trong cuốn sách này, cách nhìn về thế giới của chúng ta sẽ bị khiếm khuyết đáng kể, bởi chính khoa học hiện đại đã phát triển tới chỗ cho thấy thế giới quan thuần túy duy vật đã trở thành bất lực trước hàng loạt hiện thực diễn ra trước mắt khoa học.
Gấp cuốn sách lại, tôi có cảm giác ân hận vì đọc nó quá muộn. Nhưng “muộn còn hơn không bao giờ”, tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này đến đông đảo bạn đọc, với hai thông điệp chủ yếu mà cuốn sách muốn gửi tới nhân loại thế kỷ 21:
  1. Khoa học có giới hạn, và giới hạn đó là hệ quả tất yếu của nhận thức logic dựa trên nền tảng duy vật chủ nghĩa.
  2. Vì khoa học bị giới hạn, cần phải có một sự thay đổi mang tính cách mạng về thế giới quan để chắp cánh cho sự nhận thức vượt khỏi tầng hiện thực vật chất chật hẹp, vươn tới những tầng hiện thực bên ngoài khoa học ─ tầng hiện thực phi vật chất và tâm linh.
Hai thông điệp đó được chuyển tải thông qua những bài báo hoặc những cuốn sách nhỏ sau đây:
  • Bài báo “Những điều giả định trước và những giới hạn của khoa học” của Peter Hodgson, Trưởng nhóm vật lý lý thuyết của Viện Vật lý Hạt nhân ở Oxford, tác giả cuốn “Nuclear Reactions and Nuclear Structure” (Phản ứng hạt nhân và Cấu trúc hạt nhân), do NXB Clarendon Press xuất bản tại Oxford, 1971.
  • Bài báo “Các giới hạn của khoa học” của Jean Fourastié, nhà kinh tế học, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Đạo đức và Chính trị của Pháp.
  • Bài báo “Các giới hạn của khoa học” của Eugene Wigner, nhà vật lý Mỹ gốc Hungary, đoạt Giải Nobel vật lý năm 1963.
  • Bài báo “Các giới hạn của khoa học” của Peter Medawar, nhà sinh học Anh, đoạt Giải Nobel về sinh lý học và y học năm 1960, từng là chủ tịch Hội nghị quốc tế ở Viện Wistar, Philadelphia, 1966, một hội nghị lớn thảo luận về Học thuyết Tân-Darwin, đã đi tới kết luận học thuyết này không thể bảo vệ được về mặt toán học.
  • Cuốn sách “Thượng đế và khoa học” của các tác giả: Jean Guitton, viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp, một trong những nhà triết học xuất sắc nhất cuối thế kỷ 20, người thừa kế cuối cùng của nhà triết học lớn Henri Bergson, và hai anh em Grichka Bogdanov và Igor Bogdanov, cả hai đều là tiến sĩ vật lý thiên văn và vật lý lý thuyết.
  • Bài báo “Thượng đế và Big Bang” của Dominique Lambert, giáo sư Đại học Notre-Dame de la Paix ở Namur.
Một trong các dịch giả đồng thời là người biên tập chính: GS Đặng Mộng Lân, một nhà vật lý uy tín của Việt Nam, tác giả cuốn “Bẩy hằng số vũ trụ”, một cuốn sách “bán chạy” cách đây khoảng 30 năm.
Tất cả các tác giả nói trên, bằng ngôn ngữ riêng của mình, thông qua lĩnh vực hoạt động cụ thể của mình, đều khẳng định rằng khoa học bị giới hạn, nó không trả lời được rất nhiều câu hỏi do chính khoa học đặt ra hoặc do thực tiễn thách thức. Đó là điều mọi người cần biết, không chỉ để học lấy sự khiêm tốn, mà quan trọng hơn, để suy nghĩ về việc làm thế nào mở rộng sự nhận thức lên những tầng cao hơn khoa học, rộng hơn khoa học.
GIỚI HẠN CỦA KHOA HỌC VÀ KHOA HỌC VỀ GIỚI HẠN
Nếu bạn có cuốn sách này trong tay, hãy đọc ngay lời giới thiệu trên trang bìa cuối:
“Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học có thể gây ấn tượng là khoa học có một khả năng vô tận trong việc nhận thức thế giới và giải quyết các vấn đề của nhân loại. Nhưng sự thực không phải như vậy: khoa học có những giới hạn từ bản chất bên trong của nó. BÊN NGOÀI KHOA HỌC được tập hợp từ nhiều bài viết của các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới, những người đã được Giải thưởng Nobel về các ngành khoa học. Họ là những nguồi đi tìm câu trả lời cho các vấn đề: ‘Đâu là giới hạn của khoa học? Đâu là cầu nối giữa khoa học và tôn giáo? Thượng đế có tồn tại hay không?’. Cuốn sách này chắc chắn sẽ mang lại hứng thú cho đông đảo bạn đọc, những người muốn tìm hiểu về khoa học cũng như các vấn đề ở bên ngoài khoa học”.
Peter Hodgson cũng nhấn mạnh điều tương tự ngay từ lời mở đầu bài báo của ông :
“Các thành tựu của khoa học và công nghệ thật ấn tượng và có ảnh hưởng khiến người ta có xu hướng nghĩ rằng mọi vấn đề đều có thể giải quyết bằng phương pháp khoa học, và bất kỳ vấn đề gì mà không thể giải quyết được như vậy thì đều là những vấn đề giả, vô nghĩa. Một sự tin tưởng ngây thơ như vậy vào sức mạnh toàn năng của khoa học ngày nay đã ít được để ý, vì rõ ràng xã hội đang phải đương đầu với hàng loạt vấn đề nan giải không thể giải quyết được chỉ bằng các phương pháp khoa học, và cũng có những vấn đề thực sự về con người mà chúng mãi mãi vượt ra ngoài khả năng tìm kiếm của khoa học”. (trang 7)
Đọc đến đó, một đầu óc lành mạnh sẽ lập tức bật ra câu hỏi: “Vấn đề thực sự nào về con người có thể mãi mãi vượt ra ngoài khả năng của khoa học?”.
Theo Peter Hodgson, đó là khả năng tồn tại của thế giới tâm linh ─ một thế giới phi vật chất không thể kiểm chứng bằng giác quan và công cụ vật lý nhưng có nhiều dấu hiệu khách quan cho thấy nó tồn tại.
Thật vậy, Peter Hodgson đã dẫn một câu chuyện của Alexis Carrel, một nhà sinh lý học người Pháp từng đoạt Giải Nobel 1912 về sinh lý học và y học năm 1912. Trong một cuốn sách của mình, Alexis Carrel đã kể lại một câu chuyện dị thường mà chính ông đã theo dõi: cô Marie Bailly, một bệnh nhân bị lao phúc mạc sắp chết, đã hành hương tới Lourdes để cầu xin Đức Mẹ chữa bệnh cho cô. Kết quả cô đã tự nhiên khỏi bệnh. Carrel chính là người theo dõi bệnh tình của cô và ông đã kể lại tường tận sự việc. Ông xác nhận đây là một phép lạ mà ông chứng kiến.
Mọi người Công giáo đều biết Lourdes (Lộ Đức), một thị trấn nằm ở phía tây-nam nước Pháp, dưới chân dãy núi Pyrénées, là một vùng đất thánh, nổi tiếng thiêng liêng vì Đức Mẹ từng hiện ra ở đó. Người công giáo từ khắp nơi trên thế giới đều ao ước một lần trong đời được đặt chân tới đó. Họ tin tuyệt đối vào những hiện tượng lành bệnh như của cô Marie Bailly, nhưng các nhà khoa học vô thần thì không tin. Peter Hodgson cho biết những ghi chép của Alexis Carrel về trường hợp lành bệnh của cô Marie Bailly hoàn toàn nằm trong sự quan sát của một nhà khoa học. Theo ông, hiện tượng Marie Bailly tự nhiên khỏi bệnh khi hành hương đến Lourdes là một hiện tượng có thật, nhưng nằm bên ngoài khoa học, vượt quá tầm với của khoa học.
Trong phần phụ lục ở trang 25, GS Đặng Mộng Lân cho đăng lại một bài báo của ông trên tạp chí Vật lý Ngày nay, số Tháng 10/2003, trong đó cho biết từ cuối thế kỷ 19, khoa học đã tiến hành nhiều thí nghiệm chặt chẽ để nghiên cứu hiện tượng tâm linh, nhưng cho đến nay, những nghiên cứu này vẫn chưa được coi là khoa học. Nói cách khác, hiện tượng tâm linh vẫn nằm bên ngoài khoa học. Một trong những lý do cụ thể là ở chỗ những hiện tượng này không mang tính chất lặp đi lặp lại để có thể áp dụng phương pháp quy nạp ─ phương pháp chủ yếu của nghiên cứu khoa học cho phép tổng quát hóa các sự kiện riêng lẻ thành định luật khoa học.
Đứng trước sự thật này (hiện tượng tâm linh nằm ngoài khoa học), có hai thái độ ứng xử: người vô thần theo chủ nghĩa duy khoa học (scientism) lập tức bác bỏ các hiện tượng tâm linh, quy kết đó là ảo ảnh, dối trá, nhưng những người có tư duy mở có thể suy đoán rằng tồn tại một “thế giới tâm linh”, hoặc một tầng “hiện thực tâm linh” (psychic reality / spiritual reality) nằm ngoài tầng hiện thực vật chất thông thường, và do đó khoa học bất lực trong việc nghiên cứu nó. Đó chính là điều Peter Hodgson muốn gợi ý để chúng ta suy ngẫm.
Trong thực tế, những ai từng chứng kiến những phép lạ chữa bệnh của cụ Nguyễn Đức Cần ở Việt Nam những năm đầu thập kỷ 1970 hoặc được biết những phép lạ chữa bệnh của nhà chữa bệnh tâm linh Bruno Groening đều dễ dàng tin trường hợp của cô Marie Bailly là một sự thật. [1] Chỉ có những người thờ phụng chủ nghĩa duy vật như một tín điều mới không tin.
BÍ ẨN CỦA SỰ SỐNG
Có một sự thật rất đáng ngạc nhiên mà bất kỳ ai quan tâm tới thuyết tiến hóa cũng nên biết: một số môn đệ của thuyết tiến hóa Darwin, trong khi bảo vệ niềm tin của mình, đã tuyên bố rằng vấn đề nguồn gốc sự sống không nằm trong thuyết tiến hóa. Sự thiếu hiểu biết này thực ra không đáng tranh luận, vì cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC từ lâu đã trình bày một cách rõ ràng những vấn đề liên quan đến nguồn gốc sự sống, qua đó chúng ta có thể thấy tính chất phi lý và phi khoa học của thuyết tiến hóa.
Thật vậy, tại trang 138, các tác giả viết :
“Nhưng sự sống, nó là cái gì vậy? Câu hỏi mà tôi muốn đặt ra ở đây, câu hỏi mà tôi không thể tránh được, là biết rõ sự sống xuất hiện bằng “phép lạ” nào… Sự sống xuất hiện ngẫu nhiên, hay hoàn toàn ngược lại, nó là kết quả của một tính tất yếu huyền bí?”
Hỏi tức là đã trả lời. Đọc câu hỏi đó chúng ta đã có thể đoán người hỏi muốn trả lời như thế nào.
Cụ thể. Theo cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC, có hai quan điểm đối lập về nguồn gốc sự sống: 1/ Sự sống hình thành một cách ngẫu nhiên từ vật chất không sống; 2/ Sự sống hình thành do một tác động siêu nhiên, một chủ ý có trước của Đấng Sáng tạo.
Quan điểm thứ nhất là quan điểm của thuyết tiến hóa, và cũng là quan điểm của “học thuyết sự sống hình thành tự phát” (doctrine of spontaneous generation) có từ thời Hy lạp cổ đại.
Quan điểm thứ hai là quan điểm của Lý thuyết Thiết kế Thông minh (Theory of Intelligent Design) và của Thuyết Sáng tạo (Creationism).
Quan điểm thứ nhất, học thuyết sự sống hình thành tự phát, đã bị đập tan bởi Định luật Tạo sinh (Law of Biogenesis) do Louis Pasteur khám phá năm 1862, với thí nghiệm bình cổ cong thiên nga nổi tiếng. Nhưng Darwin đã sáng tác ra học thuyết về “cái ao ấm áp”, sau này được các đệ tử chế biến thành lý thuyết về “nồi súp nguyên thủy” (primordial soup) hoặc “nồi súp tiền sinh thái” (prebiotic soup), thậm chí được các môn đệ tôn lên thành “thuyết tiến hóa hóa học” (chemical evolution), trong đó cho rằng vật chất vô cơ vào một dịp may mắn nào đó ngẫu nhiên kết hợp lại thành phân tử sống đầu tiên, rồi phân tử này tiến hóa dần dần thành mọi sinh vật ngày nay. Đây thực chất là học thuyết sự sống hình thành tự phát đã bị bác bỏ. Cơ sở duy nhất của thuyết tiến hóa hóa học là thời gian và cơ may ─ với thời gian gần như vô hạn, ít nhất sẽ có một dịp may xảy ra, và như thế là đủ để sự sống sinh sôi nẩy nở. “Thời gian tự nó sẽ làm các phép lạ” (Time itself performs miracles), George Wald tuyên bố (!!!). Vậy hãy xem các nhà khoa học trong cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC nói gì về khả năng xảy ra “phép lạ” như George Wald nói.
Sau khi so sánh một con bướm (sự sống) với một hòn sỏi (cái không sống), Jean Guitton nhận xét “sự sống chứa đựng một lượng thông tin phong phú gấp bội so với cái không sống”, rồi ông hỏi: “Nếu sự sống chỉ là vật chất chứa nhiều thông tin hơn thì thông tin ấy từ đâu mà ra?” (trang 138).
Nếu thuyết tiến hóa bảo vật chất vô cơ NGẪU NHIÊN tập hợp lại để tạo thành vật chất sống thì, Guitton chất vấn, “Bằng “ngẫu nhiên” nào mà một số nguyên tử lại xích lại gần nhau để tạo thành những phân tử acid amin đầu tiên? Và bằng “ngẫu nhiên” nào mà những phân tử ấy được tập hợp lại để đi tới tòa nhà phức tạp ghê gớm là ADN ấy?… ai đã vạch ra các đề án của phân tử ADN đầu tiên mang theo thông điệp đầu tiên cho phép tế bào sống đầu tiên tự sinh sản?” (trang 139)
Rồi Guitton cho biết: “Những nhà nghiên cứu hàng đầu không còn bằng lòng với việc đọc thuộc lòng các quy luật của Darwin mà không suy nghĩ; họ dựng lên những lý luận mới, thường rất đáng kinh ngạc. Đó là những giả thuyết rõ ràng dựa vào sự can thiệp của một nguyên lý tổ chức siêu việt vào vật chất” (trang 139) [2]
Có nghĩa là những nhà nghiên cứu đi tiên phong trong sinh học không còn tin vào thuyết tiến hóa của Darwin nữa. Họ xây dựng những lý thuyết mới, trong đó nêu lên vai trò thiết yếu của Nhà Tổ chức Siêu việt ─ người ban hành những nguyên lý tổ chức buộc vật chất trong vũ trụ phải tuân thủ sao cho chúng kết hợp lại với nhau theo một tổ chức xác định chính là sự sống.
Guitton kết luận: “Cuộc phiêu lưu của sự sống đã được một nguyên lý tổ chức sắp xếp” (trang 140). Có nghĩa là ông bác bỏ khái niệm sự sống hình thành ngẫu nhiên hoặc tự phát, và hơn thế nữa, chỉ ra vai trò không thể thiếu của Nhà Thiết kế, tác giả của “nguyên lý tổ chức” đó.
Đáp lại ý kiến của Guitton, nhà vật lý Grichka Bogdanov nhắc đến một hiện tượng đáng kinh ngạc của sự sống do Ilya Prigorine, nhà hóa học đoạt Giải Nobel năm 1977, khám phá ra. Đó là hiện tượng các phân tử sống có khả năng giao tiếp với nhau như thế nào. Đây, hãy nghe chính Prigorine nói:
“Điều gây kinh ngạc là một phân tử BIẾT các phân tử khác làm gì đồng thời với nó ở những khoảng cách rất lớn. Những thí nghiệm của chúng tôi cho thấy các phân tử giao tiếp với nhau như thế nào. Tất cả mọi người đều chấp nhận thuộc tính ấy trong những hệ sống, nhưng chính thuộc tình ấy lại ít được chờ đợi nhất trong các hệ không sống” (trang 142).
Chữ “BIẾT” trong câu nói trên đã được tôi, PVHg, viết to để nhấn mạnh, bởi đây là hiện tượng quá kỳ lạ, kỳ lạ đến mức khó tin, nhưng buộc phải tin, vì đó là một kết quả thực nghiệm có thể nhìn thấy tận mắt. Sự thật này làm tôi liên tưởng ngay đến một tư tưởng rất quan trọng của Phật giáo mà Đức Đạt Lai Lạt Ma trình bày trong cuốn sách của ngài: “Vũ trụ trong một nguyên tử”, do Công ty Truyền thông Nhã Nam và NXB Thế giới vừa xuất bản tại Việt Nam năm 2016. Trong cuốn này, Đức Đạt Lai Lạt Ma khẳng định rằng ranh giới phân biệt sự sống với cái không sống là ở Ý THỨC chứ không phải ở cấp độ phức tạp của cấu tạo vật chất ─ cái gì có ý thức thì cái đó là một thực thể sống; cái gì không có ý thức thì cái đó là cái không sống, bất kể cấu tạo vật chất ra sao. Nếu thừa nhận quan điểm này thì lập tức suy ra rằng thuyết tiến hóa hoàn toàn bất lực trước việc giải thích nguồn gốc và bản chất sự sống, bởi nó hoàn toàn bất lực trước khái niệm ý thức. Toàn bộ học thuyết Darwin tảng lờ vấn đề ý thức, vì mọi cơ chế tiến hóa mà nó nêu lên đều là những cơ chế vật chất thuần túy.
Trở lại với hiện tượng các phân tử của sự sống BIẾT lẫn nhau, nếu khái niệm BIẾT ở đây được ví như “trí thông minh” của một phân tử thì, theo Ilya Prigorine, “trí thông minh” của phân tử cũng là ranh giới để phân biệt sự sống với cái không sống!
Vậy “trí thông minh” của phân tử sống từ đâu mà ra? Nếu không thừa nhận một lực lượng bí ẩn nào đó đã cung cấp “trí thông minh” ấy cho phân tử sống thì làm thế nào để giải thích hiện tượng này? Nhà vật lý Bogdanov cho rằng đó là “lối ứng xử thông minh lạ thường” (trang 142) của các phân tử sống mà khoa học không thể giải thích được ─ khoa học dựa trên logic thuần túy vật chất trở nên quá nghèo nàn để có thể hiểu được bản chất sự sống.
Đến lượt Guitton, ông cho rằng hiện tượng đó nói lên rằng vũ trụ có một định hướng, và “cái hướng sâu xa ấy nằm ở bên trong bản thân nó, dưới hình thức một nguyên nhân siêu việt” (trang 142).
Nguyên nhân siêu việt là cái gì, nếu không phải là Nhà Tổ chức Vĩ đại như đã nói ở trên, hay Nhà Thiết kế Vĩ đại, Nhà Lập trình Vĩ đại, Đấng Sáng tạo, Thượng đế, Chúa,…?
Các nhà khoa học thời này rất đáng thương. Họ phủ nhận Thượng đế nhưng chính khoa học đưa họ đến chỗ buộc lòng phải thừa nhận vai trò nhất thiết phải có của Đấng Sáng tạo để giải thích những hiện tượng vượt khỏi tầm với của khoa học. Trong tình huống lưỡng nan như thế, họ né tránh việc sử dụng những từ ngữ quen thuộc như Thượng đế, Chúa, Đấng Sáng tạo,… Họ phải tạo ra những tên gọi mới, thuật ngữ mới, có lẽ vì họ quá nhạy cảm với sự chống đối từ phía các nhà khoa học vô thần. Những từ ngữ mới đó giúp họ tránh được việc đối đầu mất thì giờ với những cái đầu khoa học thô thiển trình độ thấp. Nhưng rốt cuộc họ vẫn phải quay lại điểm ban đầu, rằng Thượng Đế sáng tạo ra tất cả! Đó là điều cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC nói một cách tế nhị với chúng ta.
Và đúng như tôi đã từng trình bày trong nhiều bài viết phê phán thuyết tiến hóa rằng toán học xác suất bác bỏ mọi cơ may để sự sống có thể hình thành ngẫu nhiên từ vật chất không sống, nhà vật lý G. Bogdanov cũng nhấn mạnh:
“Không một thao tác nào đã nhắc tới trên đây có thể được thực hiện ngẫu nhiên cả. Hãy lấy một trong nhiều ví dụ: để cho việc ghép các nucleotid “ngẫu nhiên” dẫn tới chỗ tạo ra ARN dùng được, Tự Nhiên cần phải mò mẫm thử đi thử lại nhiều lần, ít ra trong 10^15 năm, tức là một trăm nghìn lần nhiều hơn toàn bộ tuổi của vũ trụ chúng ta. Một ví dụ khác: nếu đại dương nguyên thủy đã đẻ ra tất cả các biến thể (tức là các đồng phân) có thể được tạo ra theo lối “ngẫu nhiên” từ chỉ một phân tử chứa đựng vài trăm nguyên tử, thì điều đó phải đưa chúng ta tới chỗ tạo dựng được hơn 10^80 đồng phân có thể có. Thế nhưng, cả vũ trụ có lẽ hiện chỉ có dưới 10^80 đồng phân”. (trang 145)
Đọc những phân tích nói trên, tôi muốn chuyển một thông điệp đến ngài George Wald, tác giả câu nói bất hủ “Thời gian tự nó sẽ tạo ra các phép lạ”, và ông Richard Dawkins, cái loa lớn tiếng nhất của thuyết tiến hóa hiện nay, rằng “Thưa các ông, các ông có hiểu những phân tích của G. Bogdanov ở trên không? Nếu không hiểu thì làm sao các ông có thể thấy được tính chất hoang đường của thuyết tiến hóa? Ngược lại, nếu hiểu thì các ông còn ôm lấy cái thuyết tiến hóa dựa trên may rủi như cờ bạc làm gì nữa?”.
Không ngờ những suy nghĩ đó hoàn toàn khớp với những gì Jean Guitton nói tiếp sau đó:
“Do đó, khi quan sát tính phức tạp đáng kinh ngạc của sự sống, tôi đi tới kết luận rằng bản thân vũ trụ thật “thông minh”: một trí tuệ siêu việt tồn tại trên bình diện hiện thực (tồn tại ở khoảnh khắc ban đầu mà chúng ta gọi là Sáng Tạo) đã ra lệnh cho vật chất đẻ ra sự sống” (trang 145).
Đến đây thì chúng ta thấy rõ ràng rằng các nhà khoa học trong cuốn BÊN NGOÀI KHOA HỌC không còn úp mở gì nữa, mà khẳng định rằng Đấng Sáng Tạo là tác giả của sự sống!
Chú thích:
[1] Xem:
Cụ Nguyễn Đức Cần, vị lương y siêu phàm vượt trên mọi giới hạn của khoa học 
Bruno Gröning, an extraordinary spiritual healer / Nhà chữa bệnh phi thường bằng tâm linh 
[2] Trong khi trích dẫn, tôi có sữa chữa một chút về từ ngữ cho thích hợp và dễ hiểu hơn (PVHg)
Tác giả: Phạm Việt Hưng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét