Thứ Hai, 15 tháng 1, 2018

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 220/a

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
                             Chiến dịch phản gián CM-12 chống đảng Việt Tân (1981-1984)

Bí mật của một chiến dịch phản gián (Phần 1)

Thứ hai, 10/08/2015, 20:08 (GMT+7)
(An Ninh Quốc Phòng) - Chiến dịch phản gián mang tên “Kế hoạch CM-12″ được khởi đầu bằng một chiến công ghi đậm dấu ấn của bản lĩnh và trí tuệ của Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam.
Cách nay hơn 30 năm, vào năm 1981 lực lượng công an xác lập, triển khai một số chuyên án, kế hoạch, trong đó CM12 là cốt lõi, thực hiện chiến dịch đấu tranh phản gián, đấu tranh với bọn gián điệp biệt kích, bọn phản động lưu vong cũng như các tổ chức phản cách mạng ở trong nước được sự hỗ trợ đắc lực của các thế lực phản động quốc tế và các cơ quan tình báo thù địch âm mưu phá hoại ta. Kế hoạch CM12 được triển khai trên địa bàn rộng lớn: Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, tphcm, Tây Ninh, các tỉnh miền Trung, dọc biển Đông và vươn ra trung tâm của địch ở nước ngoài. Trong kế hoạch CM12, lực lượng phối hợp của ta đã mưu trí, khôn khéo sử dụng các biện pháp nghiệp vụ, tương kế tựu kế, dùng địch đánh địch, điều khiển trung tâm của địch hoạt động theo ý đồ của ta trong suốt 3 năm (1981-1984), bắt 18 chuyến xâm nhập bằng tàu biển gồm 148 tên, có cả tên cầm đầu là Mai Văn Hạnh; thu hơn 300 tấn vũ khí, đạn dược và phương tiện hoạt động các loại; thu 14 tấn tiền Việt Nam giả; bắt 2 tàu xâm nhập; đồng thời tác động để địch bộc lộ ý đồ và trấn áp 10 tổ chức phản động, 9 đầu mối trong nội địa, bắt 996 tên, gọi đầu thú 1.070 đối tượng…; xóa bỏ, vô hiệu hóa hầu hết cơ sở của chúng, tạo điều kiện cho việc đấu tranh thắng lợi của nhiều chuyên án khác.
Thắng lợi của kế hoạch CM12 có ý nghĩa chiến lược, là thắng lợi toàn diện cả về quân sự, chính trị, kinh tế… và là một trong những chiến công trọn vẹn, lẫy lừng của Công an nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Bộ Chính trị, lãnh đạo Bộ Công an mà trực tiếp là Bộ trưởng Phạm Hùng lúc bấy giờ. Kết thúc thắng lợi kế hoạch CM12 có nhiều tập thể, cá nhân được tặng thưởng các danh hiệu cao quý, trong đó có 2 đơn vị là An ninh K4/2, Đại đội Cảnh sát đặc biệt và 3 cá nhân: Nguyễn Phước Tân, Trần Phương Thế, Phan Thành Lập được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Tháng 9/1981, Chiến dịch phản gián mang tên “Kế hoạch CM-12″ được khởi đầu bằng một chiến công ghi đậm dấu ấn của bản lĩnh và trí tuệ của Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Chiến dịch phản gián có một không hai này được kéo dài 7 năm, từ năm 1981 đến 1988 là kết thúc. Trong đó, Kế hoạch CM-12 là phần cốt lõi nhất, thắng lợi to lớn nhất.
Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh.
Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh.
Vào một ngày thượng tuần tháng 1/1981, đồng chí Phạm Hùng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) gọi điện thoại cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm ở TP HCM:
– Ông biết gì chưa? Có bọn xâm nhập ở biên giới Tây Nam đấy. Cho triển khai ngay công tác xác minh và truy bắt bọn xâm nhập!Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm báo cáo đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng là cũng đã nhận được tin này và triển khai ngay việc thực hiện lệnh của Bộ trưởng. Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm gửi điện cho Công an các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang triển khai phương án truy tìm gián điệp biệt kích. Bức điện có nội dung:“Theo tin từ Campuchia ngày 11 tháng 1, một toán gián điệp đang đi qua tỉnh Tà Keo để xâm nhập vào Việt Nam. Đề nghị các đồng chí triển khai phương án nắm tình hình và truy quét. Cần phải xác nhận tin này đúng không? Có tin tức gì cụ thể báo ngay K4 và K4/2”.
Vào lúc đó, tình hình an ninh miền Nam vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp. Lãnh đạo Bộ Nội vụ phân công đồng chí Cao Đăng Chiếm phụ trách công tác công an ở các tỉnh miền Nam. K4 là ký hiệu của Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm, còn K4/2 là ký hiệu của Tổ An ninh trực thuộc đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm.
Xuất phát từ tình hình thực tế an ninh ở miền Nam, được sự đồng ý của đồng chí Bộ trưởng và tập thể lãnh đạo Bộ, một số cán bộ có kinh nghiệm được bố trí vào ba tổ công tác tham mưu cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm. Tổ K4/1 là bộ phận nghiên cứu tổng hợp. Tổ K4/2 giải quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ của lực lượng an ninh. Tổ K4/3 giải quyết các vấn đề thuộc lực lượng cảnh sát.
Tổ K4/2 về danh chính có chức năng tham mưu cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm là chủ yếu, nhưng trên thực tế, bộ phận K4/2 đã trở thành các đơn vị chiến đấu thực sự khi có các vụ án lớn xảy ra và được đồng chí Thứ trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ.
Lãnh đạo Bộ Nội vụ cử đồng chí Nguyễn Phước Tân, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị 2 làm Tổ trưởng Tổ An ninh K/2. Chức vụ này tương đương Cục trưởng. Các đồng chí Lê Tiền, Phó Cục trưởng phụ trách đơn vị PK9 và đồng chí Hồ Khiết, Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị 1 làm Tổ phó. Các đồng chí Nguyễn Phước Tân và Lê Tiền sau này được bổ nhiệm làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh.
Bộ cũng điều động một số cán bộ an ninh dày dạn kinh nghiệm, có trình độ nghiệp vụ giỏi từ các đơn vị về Tổ An ninh K4/2 như các đồng chí Nguyễn Khánh Toàn, Thi Văn Tám, Trần Tôn Thất,… Hiện nay, đồng chí Nguyễn Khánh Toàn là Thượng tướng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an; đồng chí Thi Văn Tám là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Công an và đồng chí Trần Tôn Thất là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục An ninh.
Trở lại với vụ xâm nhập của bọn gián điệp biệt kích
Ngày 11/1/1981, Công an tỉnh Tà Keo (Campuchia) trao đổi cho chúng ta biết có một tên Khmer Đỏ ra đầu thú khai báo rằng y có tham gia dẫn một toán người Việt Nam từ nước ngoài đi qua Campuchia để xâm nhập về hoạt động chống Việt Nam. Tin này được báo cáo ngay cho đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng, các đồng chí Thứ trưởng Viễn Chi, Cao Đăng Chiếm và đồng chí Huỳnh Thanh Việt (Mười Việt), Giám đốc Công an tỉnh An Giang, địa phương có biên giới giáp tỉnh Tà Keo.
Nguồn tin cho biết: “Một tên Khmer Đỏ tên là Săm Sua đã ra đầu thú chính quyền cách mạng Campuchia tại Tà Keo. Y khai có tham gia dẫn đường cho 23 tên gián điệp biệt kích xâm nhập về Việt Nam”.
Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh (dấu khoanh tròn) cùng những gián điệp biệt kích khi ở nước ngoài.
Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh (dấu khoanh tròn) cùng những gián điệp biệt kích khi ở nước ngoài.
Thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ, được sự đồng ý của chính quyền Campuchia, đồng chí Huỳnh Thanh Việt, Giám đốc Công an tỉnh An Giang và một số cán bộ an ninh là đồng chí Trần Văn Lệnh, Trưởng phòng Chấp pháp và đồng chí Huỳnh Hữu Chiến, Trưởng phòng Tổng hợp (hiện đồng chí Huỳnh Hữu Chiến là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh) ngay lập tức lên đường sang Tà Keo, Campuchia. Qua trực tiếp xét hỏi tên Săm Sua, đoàn Công an An Giang nhận thấy khả năng là tên Săm Sua đã khai báo thật. Ngày 12/1/1981, đồng chí Mười Việt đã báo cáo cho lãnh đạo Bộ nhận định về việc có một toán gián điệp biệt kích mang vũ khí, điện đài xâm nhập Việt Nam.
Tiếp đó, ngày 13/1, Công an Kiên Giang điện báo cáo lãnh đạo Bộ Nội vụ biết về việc có một toán gián điệp, biệt kích xâm nhập. Theo báo cáo của Công an Kiên Giang, ngày 8/1/1981, bộ đội làm kinh tế ở Bình Sơn (Kiên Giang) bắn chết 1 tên gián điệp, biệt kích từ nước ngoài xâm nhập về Việt Nam.
Qua nguồn tin của quần chúng phát hiện, Công an Kiên Giang đã thu được 12 súng AK báng gấp, 7 quả lựu đạn, 2 tay quay máy phát điện dùng cho điện đài và một số quân trang, quân dụng. Đáng chú ý là có một số phù hiệu đề là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam”… Có dấu hiệu đây là một tổ chức phản cách mạng đưa quân xâm nhập vào Việt Nam.
Ngày 15/1/1981, đồng chí Phạm Hùng đã điện chỉ thị cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm tổ chức xác minh, khai thác và truy bắt cho hết bọn xâm nhập. Đồng thời, tin này còn được thông báo cho các Cục nghiệp vụ kiểm tra.
Báo cáo của lực lượng trinh sát kỹ thuật cũng phù hợp với những diễn biến toán gián điệp biệt kích xâm nhập trong thời gian cuối năm 1980.
Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm trực tiếp đi miền Tây để chỉ đạo tại hiện trường. Các đơn vị nghiệp vụ an ninh của Bộ cũng được huy động tham gia, phối hợp cùng với công an các địa phương điều tra, truy bắt bọn xâm nhập. Các biện pháp nghiệp vụ trinh sát, điều tra được sử dụng. Chính vì vậy, chỉ ít ngày sau khi bọn địch xâm nhập bị phát hiện, công tác truy bắt đã có sự chỉ đạo thống nhất của lãnh đạo Bộ.
Chỉ trong vòng một thời gian tương đối ngắn, với sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ mà trực tiếp là đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng và đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm, các Cục nghiệp vụ an ninh và công an các địa phương Nam Bộ đã nhanh chóng phối hợp truy bắt và khai thác bọn gián điệp biệt kích xâm nhập.
Trong khi đang khẩn trương triển khai công tác truy bắt bọn gián điệp biệt kích xâm nhập, thì Công an Kiên Giang báo cáo là đã bắt giữ được 1 tên trong bọn chúng. Ngày 18/1/1981, Trần Minh Hiếu sau khi được lệnh của toán trưởng cho phân tán, y về quê ở An Biên. Sau một thời gian biền biệt không được tin gì kể từ ngày Hiếu vượt biên, nay thấy con trở về, mẹ của Hiếu vừa mừng lại vừa lo.
Hiếu nói thật cho mẹ biết về việc tại sao y lại trở về Việt Nam. Ông cậu ruột của Hiếu làm việc ở Tỉnh đội Kiên Giang biết được chuyện của Hiếu và động viên anh ta ra đầu thú công an. Trong khi Hiếu đang lừng chừng vì sợ thì người cậu của Hiếu đã báo cho công an địa phương biết. Công an Kiên Giang ngay lập tức bắt giữ Trần Minh Hiếu và khai thác.
Được công an động viên, giáo dục và thuyết phục, Trần Minh Hiếu đã khai nhận là một trong số 23 tên gián điệp biệt kích của tổ chức “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam” của Lê Quốc Túy – Mai Văn Hạnh. Hiếu đã khai quá trình xâm nhập của toán gián điệp.
Qua lời khai của Hiếu, ta biết chúng sẽ gặp nhau vào ngày 15 và 30 hàng tháng ở bến Ninh Kiều (Cần Thơ). Hiếu cũng khai nơi ẩn náu của tên toán trưởng Lê Hồng Dự. Công an Kiên Giang và Công an Hậu Giang đã tổ chức bắt giữ Lê Hồng Dự tại Cần Thơ. Qua các buổi xét hỏi, Lê Hồng Dự khai báo quá trình xâm nhập của y và những hiểu biết của y về tổ chức phản cách mạng của Lê Quốc Túy – Mai Văn Hạnh. Những lời khai này khớp với lời khai của Trần Minh Hiếu.
Qua lời khai của Lê Hồng Dự và Trần Minh Hiếu, bước đầu chúng ta đã xác định đây là một tổ chức phản cách mạng do Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh cầm đầu có cơ sở hoạt động ở nước ngoài.
Để tiến hành đấu tranh với tổ chức này, về mặt tổ chức chỉ đạo, trên cơ sở tính chất, phạm vi hoạt động khá phức tạp và rộng của bọn Lê Quốc Túy – Mai Văn Hạnh, lãnh đạo Bộ nhất trí với đề xuất của Tổ An ninh là thành lập Ban chuyên án do đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm chỉ đạo và K4/2 trực tiếp thực hiện.
Chỉ vài ngày sau, đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng từ Hà Nội vào TP Hồ Chí Minh để trực tiếp chỉ đạo đấu tranh với vụ án này. Đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng đã yêu cầu đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm triệu tập ngay một cuộc họp để bàn biện pháp, kế hoạch đấu tranh với vụ án này tại TP Hồ Chí Minh.
(An Ninh Quốc Phòng) - Lê Quốc Túy cho Hạnh biết là y đang làm việc cho nhóm Trần Văn Hữu với ý đồ tiến tới thành lập “Chính phủ hòa hợp, hòa giải dân tộc”.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Các thế lực đế quốc xâm lược và tay sai thất bại thảm hại. Nhưng Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh vẫn không chịu nhìn nhận ra mà lại nảy ra một kế hoạch riêng. Đó chính là âm mưu tiến hành một cuộc “kháng chiến” để “giải phóng” miền Nam.
Lúc nhỏ Lê Quốc Túy được bố mẹ cho đi học tại Trường tiểu học Hồng Ngự, sau đó sang học tại An Giang. Học xong tiểu học, Túy lên Sài Gòn học trung học tại Trường Pétrus Ký. Năm 1950, thi đậu tú tài 1. Năm 1953, trượt tú tài 2.
Tháng 7/1953, Túy tình nguyện gia nhập không quân Pháp. Khoảng một năm sau Túy được đưa đi đào tạo lớp phi công ở căn cứ 707 tại Marrakech (Maroc). Lúc đó Maroc là thuộc địa của Pháp. Một năm sau, Túy được chuyển về học tại căn cứ 702 của không quân Pháp ở Avord thuộc tỉnh Bourges.
Tháng 2/956, Lê Quốc Túy trở về Việt Nam và phục vụ tại Đệ nhất Phi đoàn Vận tải số 3 Tân Sơn Nhất. Tháng 5/1958, Túy giải ngũ và sau đó xin làm huấn luyện viên phi công cho Nha Hàng không dân sự. Vốn có bản tính thích tự do và chơi bời, Túy đã bị truy nã và bị truy tố trước Tòa án binh quân đội Sài Gòn về tội đào ngũ nhưng lại được tha bổng. Trong phiếu cá nhân của Túy khi giải ngũ đã bị chỉ huy đơn vị của y ghi: “Kém về kỷ luật, tầm thường về chuyên môn, ham thích đời sống của Pháp hơn là Việt Nam, cho giải ngũ sớm vì không cần thiết cho quân đội Việt Nam Cộng hòa”.
Cuối năm 1958, Lê Quốc Túy cùng vợ và hai con xuất cảnh sang Pháp. Đến tháng 7/1961, Lê Quốc Túy xin nhập quốc tịch Pháp và ở luôn bên đó. Sau đó Túy có học thêm đại học và tốt nghiệp kỹ sư hóa học tại Paris.
Khoảng cuối năm 1963, Túy sang Phnôm Pênh làm đại diện cho một cơ quan của Liên Hiệp Quốc. Đến năm 1966 thì trở lại Pháp. Trong thời gian ở Phnôm Pênh, Lê Quốc Túy đã có dịp gặp và làm quen với cha con Hồ Tấn Khoa, Bảo đạo Cao Đài Tây Ninh đang chạy nạn do chính quyền Ngô Đình Diệm o ép.
Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh (dấu khoanh tròn) cùng những gián điệp biệt kích khi ở nước ngoài. (Ảnh: Internet)
Lê Quốc Túy và Mai Văn Hạnh (dấu khoanh tròn) cùng những gián điệp biệt kích khi ở nước ngoài. (Ảnh: Internet)
Từ đầu năm 1967, Túy làm giám đốc cho Hãng LUSTUCRU chuyên sản xuất bìa cáctông do Trần Văn Hữu làm chủ.
Đầu năm 1975, Túy về miền Nam Việt Nam hai lần: một lần đầu tháng 3 và một lần vào tháng 4 và sau đó bị kẹt lại vì miền Nam đã được giải phóng. Đến tháng 7/1975, ta cho Túy xuất cảnh trở lại Pháp vì y mang quốc tịch Pháp.
Còn Mai Văn Hạnh (bọn chúng thường gọi là Năm Hạnh hay chú Năm), sinh năm 1928, quê quán ở Hà Nội. Mai Văn Hạnh xuất thân trong một gia đình công chức thời Pháp thuộc. Lớn lên, Hạnh gia nhập lực lượng hải quân của quân đội Sài Gòn và đã được mang lon trung úy.
Mai Văn Hạnh là người có cá tính mạnh nhưng lại biết kiềm chế. Do bất mãn với chế độ Sài Gòn, Hạnh sang Pháp, lấy vợ Pháp, nhập quốc tịch Pháp và đi học nghề lái máy bay. Vợ của Mai Văn Hạnh là Mary Vone Dagorne nhưng đã ly dị vào năm 1976, kịp có với nhau 3 con: một trai, hai gái.
Sau khi học nghề lái máy bay, Mai Văn Hạnh làm phi công cho Hãng Hàng không AirFrance của Pháp trong nhiều năm. Hạnh quen biết Túy trong thời gian học lái máy bay tại Avoir. Năm 1972, lúc đang làm cho Hãng Hàng không AirFrance tại Algeria, trong một lần về thăm gia đình và ăn tết tại Paris, Mai Văn Hạnh đến chúc tết Trần Văn Hữu, cựu Thủ tướng chế độ Sài Gòn thời Bảo Đại làm “Quốc trưởng”.
Tại đây, Hạnh gặp lại Lê Quốc Túy sau 16 năm xa nhau. Lê Quốc Túy cho Hạnh biết là y đang làm việc cho nhóm Trần Văn Hữu với ý đồ tiến tới thành lập “Chính phủ hòa hợp, hòa giải dân tộc”. Năm 1973, Lê Quốc Túy sang Algeria tìm gặp Mai Văn Hạnh và mời Hạnh đến mùa hè 1974 sang Paris để đưa vợ chồng Trần Văn Hữu đi “du lịch” ở Nhật Bản. Hạnh đã nhận lời. Tuy nhiên, ý định của Trần Văn Hữu không thành. Mai Văn Hạnh biết điều đó nhưng vẫn ham làm chính trị và cộng tác với Trần Văn Hữu và Lê Quốc Túy trong một âm mưu đen tối.
Qua công tác khai thác hồ sơ, công tác trinh sát và khai thác một số tên ta đã bắt như Lê Chơn Tình, N.V.M… chúng ta đã nắm được âm mưu và quá trình hoạt động của chúng trong thời kỳ đầu năm 1975.
Khi cục diện của cuộc chiến tranh Việt Nam đầu năm 1975 xuất hiện một tình thế mà các lực lượng thân Pháp, trong đó có Trần Văn Hữu thấy có thể chen chân vào chính trường Sài Gòn, thậm chí nhảy ra cầm quyền. Lê Quốc Túy muốn tận dụng cơ hội này để kiếm một chức vụ trong chính quyền Sài Gòn và sau đó có thể thực hiện ý đồ leo lên đến chức vụ cao hơn. Vào ngày 5/3/1975, Lê Quốc Túy bay về Sài Gòn với bức thư của Trần Văn Hữu gửi cho Nguyễn Văn Thiệu. Bức thư đề ngày 28/2/1975 có đoạn:
“… Chưa đặng tiện về xứ, tôi giao cho bạn Lê Quốc Túy đặc phái đến trình với Tổng thống ý kiến của chúng tôi về phương cách đem lại hòa bình và hạnh phúc cho dân tộc. Tôi rất mong đây là một bước đầu để cùng nhau tiếp tục củng cố quyền lợi tối cao của nước nhà”.
Đồng chí Trần Phương Thế (tự Tám Thậm), bí số NKA1 (bìa trái) cùng Mai Văn Hạnh (bìa phải) và đồng bọn tại căn cứ giả ở Cà Mau. (Ảnh: Sggp)
Đồng chí Trần Phương Thế (tự Tám Thậm), bí số NKA1 (bìa trái) cùng Mai Văn Hạnh (bìa phải) và đồng bọn tại căn cứ giả ở Cà Mau. (Ảnh: Sggp)
Ý đồ thực của Trần Văn Hữu là lợi dụng quy định của Hiệp định Paris, ông ta vận động Nguyễn Văn Thiệu chọn phương án thành lập một chính quyền liên hiệp trong đó “lực lượng thứ ba” đóng vai trò chủ yếu. Theo cách giải thích của Túy thì “lực lượng thứ ba” không phải do Trần Ngọc Liễng ở Sài Gòn đứng đầu. Có lần Túy kể lại với đám tay chân rằng, vì Nguyễn Văn Thiệu dây dưa chứ nếu chấp nhận kế hoạch của Trần Văn Hữu thì y đã trở thành “phó tổng thống” rồi.
Về đến Sài Gòn, Túy tìm cách tới dinh Độc lập để xin gặp Nguyễn Văn Thiệu. Tuy nhiên, vào thời điểm này, Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa chịu rời bỏ chức vụ và đang cố bấu víu vào quan thầy Mỹ để tiếp tục duy trì quyền lực, chờ thời cơ phản công. Nguyễn Văn Thiệu tiếp Lê Quốc Túy một cách xã giao, không mặn mà gì.
Vài ngày sau, Lê Quốc Túy bay trở về Pháp báo cáo lại tình hình không mấy khả quan cho Trần Văn Hữu.
Trong khi đó, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ở cả hai miền Nam-Bắc đang chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Trận đánh bất ngờ, táo bạo vào thị xã Buôn Ma Thuột ngày 10/3/1975 đã gây choáng váng cho ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Quân ngụy rút chạy khỏi Tây Nguyên…

Bí mật của một chiến dịch phản gián (Phần 3)

Thứ tư, 12/08/2015, 19:25 (GMT+7) (An Ninh Quốc Phòng) - Chỉ trong vòng một ngày, ta tóm gọn toán gián điệp biệt kích xâm nhập đêm 15/5/1981. Toàn bộ toán “Minh Vương 2” sa lưới, riêng toán trưởng Nguyễn Văn Thanh bị bắn chết.
Chỉ trong vòng một ngày, ta tóm gọn toán gián điệp biệt kích xâm nhập đêm 15/5/1981. Toàn bộ toán “Minh Vương 2” sa lưới, riêng toán trưởng Nguyễn Văn Thanh bị bắn chết. Tiếp đó, lực lượng của ta tiến ra bờ biển thu giữ toàn bộ 3,5 tấn vũ khí. Đến khoảng 3 giờ chiều 17/5/1981 thì vớt được hết và đưa toàn bộ về đến Công an huyện.
Ngày 27/1/1981, tại phòng họp lớn của Văn phòng Bộ Nội vụ ở phía Nam, có một cuộc họp rất quan trọng để bàn chủ trương, phương hướng, biện pháp đấu tranh và lề lối làm việc trong vụ án gián điệp biệt kích mới xảy ra. Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Hùng dự họp nhưng giao nhiệm vụ chủ trì cho đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm.
Đồng chí Phạm Hùng đã từng là Phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau này là Phó chủ tịch HĐBT, Chủ tịch HĐBT – Thủ tướng), khi vào miền Nam công tác là Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, nhưng đồng chí Phạm Hùng đã nhạy cảm nhận thấy đây là một vụ án có tầm quan trọng đối với an ninh quốc gia. Chính sự chỉ đạo sát sao và việc đồng chí trực tiếp vào TP HCM để chỉ đạo đấu tranh vụ án này đã góp phần quyết định bước mở đầu đúng hướng của kế hoạch đấu tranh.
Dự cuộc họp quan trọng này gồm các đồng chí lãnh đạo Công an TP HCM, Công an một số tỉnh ở Nam Bộ và một số Cục nghiệp vụ.
3
Biệt kích bị bắt sau khi xâm nhập Việt Nam.
Không khí của cuộc họp rất khẩn trương. Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm trình bày tóm tắt diễn biến chính của vụ án, rút ra âm mưu, tính chất hoạt động của địch và phát biểu ý kiến chỉ đạo về phương hướng đấu tranh với chủ trương nghiên cứu đánh lại địch.
Sau đó, đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng phát biểu ý kiến đánh giá những kết quả bước đầu và thông báo tình hình chính trị, an ninh và những yêu cầu của cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới.
Nói về vụ lực lượng của Lê Quốc Túy – Mai Văn Hạnh xâm nhập Việt Nam, đồng chí Bộ trưởng nhận định:
– Đây là một toán biệt kích hoạt động táo bạo, có nhiệm vụ móc nối cơ sở, xây dựng căn cứ, gây tiếng vang chính trị. Vụ này rất nghiêm trọng, chúng xâm nhập vào nội địa ta bằng lực lượng vũ trang. Nếu trót lọt chúng sẽ còn những toán khác tiếp theo. Ta làm triệt để, ngăn được một toán đầu tiên mà còn phá được âm mưu của chúng. Tuy nhiên, ta cũng cần xem lại âm mưu và hoạt động tiếp theo của chúng.
Đồng chí Phạm Hùng nêu chủ trương của ta là: Đối phó phải toàn diện, trung ương phối hợp với địa phương, thống nhất hành động, truy quét và khai thác… Vụ này nằm trong âm mưu chung của địch, nên công tác đấu tranh của ta cũng phải thống nhất chỉ huy. Tất cả tin tức phải báo cáo về Bộ (tại TP HCM), không báo cáo nhiều nơi. Tất cả tài liệu báo cáo về Bộ phải tập trung vào anh Sáu Hoàng (đồng chí Cao Đăng Chiếm). Không được điện báo lung tung, không được dùng điện thoại. Tất cả tài liệu đều phải tập trung vào một đầu mối. Khi khai thác có những việc cần trao đổi, nếu khẩn trương lắm thì được phép trao đổi thẳng. Phải khẩn trương, không được làm theo lối hành chính.
Sau cuộc họp ngày 27/1/1981 do Bộ trưởng Phạm Hùng và Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm chủ trì, Công an các địa phương và các Cục nghiệp vụ ở phía Nam nhanh chóng triển khai chỉ đạo của lãnh đạo Bộ. Chỉ sau một thời gian ngắn, với tinh thần cảnh giác cao và được sự giúp đỡ của nhân dân các địa phương, chúng ta đã bắt gọn cả toán gián điệp biệt kích do tên Lê Hồng Dự cầm đầu xâm nhập.
Trên cơ sở kết quả khai thác bọn xâm nhập, tổng hợp các nguồn tin, lãnh đạo Bộ phán đoán địch sẽ tiếp tục tổ chức xâm nhập bằng đường biển. Vấn đề là chúng ta chưa biết đích xác địch sẽ xâm nhập vào thời gian nào, khu vực bờ biển tỉnh nào. Do đó, Công an các tỉnh ven biển từ Khánh Hòa đến Kiên Giang đều phải triển khai các phương án sẵn sàng đón bắt bọn xâm nhập.
Thế trận của ta được bố trí chặt chẽ, liên hoàn.
Lại nói về phía địch.
Sau khi tung toán “Minh Vương 1” xâm nhập Việt Nam không thành, Lê Quốc Túy quyết định tung toán “Minh Vương 2” xâm nhập Việt Nam bằng đường biển, tiếp tục thực hiện ý đồ tung quân vào rừng U Minh, xây dựng “căn cứ” và tăng cường hoạt động ở thành phố. Kế hoạch này hình thành trong đầu của Túy. Ý đồ của Lê Quốc Túy là sẽ đưa vào Việt Nam 10 tấn vũ khí và chiến cụ cùng với một toán quân nhằm mục đích trước mắt là thành lập “mật khu kháng chiến”. Để thực hiện kế hoạch có tên là “Chiến dịch Hồng Kông 1”, Lê Quốc Túy nhờ nước ngoài tạo điều kiện về chỗ neo đậu và cấp các thủ tục giấy tờ cho quân của Túy hoạt động.
Được T.V.V (K12) giới thiệu K64 là người Cà Mau, am hiểu vùng này và có thể lập kế hoạch xâm nhập được, cho nên Túy cho điều K64 từ “Mật cứ Tự Thắng” về trung tâm.
K64 là một người khá nhạy cảm, anh đoán được ý đồ của Túy và Hạnh là muốn đưa vũ khí và quân xâm nhập bằng đường biển nhưng chưa biết đưa vào vùng nào. Vì muốn thoát khỏi cái “án tử hình” treo lơ lửng do bị nghi là cộng sản, K64 chủ động gợi ý với Mai Văn Hạnh nên tổ chức xâm nhập vùng Cà Mau và nói thêm là muốn xâm nhập thì phải có người địa phương quen thuộc vùng này. Trong toán “Minh Vương 2” có hai người cùng quê với K64 là K59 và K61. Buổi chiều hôm đó, Mai Văn Hạnh cùng nhóm này bàn kế hoạch xâm nhập vùng biển.
Nhiệm vụ của toán “Minh Vương 2” là xây dựng cơ sở và phát triển lực lượng ở trong nước theo kế hoạch “Hồng Kông 1”. Chúng được giao những nhiệm vụ cụ thể là sau khi đã xâm nhập Việt Nam thì tổ chức tiếp nhận người và vũ khí từ nước ngoài chuyển về các chuyến sau, đưa khối lượng vũ khí đó về các địa bàn hoạt động. Toán này còn có nhiệm vụ tổ chức phá hoại, ám sát cán bộ ở các mục tiêu: trụ sở các cơ quan của đảng, chính quyền, công an, bộ đội, nhất là Tổng lãnh sự quán Liên Xô tại TP HCM, các cơ sở công nghiệp, điện, nước, kho xăng Nhà Bè, cầu cống, các trại cải tạo… Chúng dự kiến sẽ dùng tiền thuê bọn bụi đời, bọn tù được thả về, ngụy quân ngụy quyền cũ; giao vũ khí, mìn để bọn này làm những việc phá hoại.
(Theo Truyền Hình Cà Mau)

Bí mật của một chiến dịch phản gián (Phần 4)

Thứ hai, 17/08/2015, 19:40 (GMT+7) (An Ninh Quốc Phòng) - Sau thắng lợi ban đầu là thực hiện việc liên lạc giữa CM-12 và “Tổng hành dinh” đã được “nối”, cơ quan an ninh bàn kế hoạch đón chuyến xâm nhập mới của địch.
Do phạm vi, đối tượng đấu tranh của CM-12 đã vượt tầm cỡ một “chuyên án”, mặt khác, do các đối tượng đấu tranh lại không đơn thuần là gián điệp biệt kích mà còn mang tính chính trị hết sức nhạy cảm, nên đến đầu tháng 6/1981, đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng gọi đây là “Kế hoạch CM-12”.
Trong phiên liên lạc đầu tiên với trung tâm địch dưới danh nghĩa là “Tổ đặc biệt” vào lúc 21giờ ngày 25/5/1981, ta chỉ gửi một bức điện ngắn có nội dung như sau: “Tất cả đều an toàn và công tác đang xúc tiến. Vũ khí đã chôn giấu xong. Cần thêm cán bộ thành và tiền bạc. Hẹn 20 giờ ngày 28/5/1981 lên máy”. Trung tâm của địch cũng chuyển cho “Tổ đặc biệt” một bức điện: “Tàu đã về tới B. vô sự. Ngày giờ khởi hành chuyến thứ nhì sẽ cho biết sau. Tổng đài sẽ trực máy theo giờ quy định”.
Phiên liên lạc đầu tiên thành công.
Đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm rất vui, khen ngợi các cán bộ, chiến sĩ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này. Đêm hôm đó tất cả cùng được thưởng thức một nồi cháo gà thật ngon lành. Anh em cảm thấy sung sướng vì công việc bước đầu đã thành công.
Sau khi anh em về nghỉ, đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm và đồng chí Nguyễn Phước Tân bàn bạc về những công việc sắp tới. Đồng chí gợi ý là ta phải thiết kế một kế hoạch, chọn bãi đổ, làm “mật cứ” giả… Rồi cần phải đấu tranh với các mảng của địch trong nội địa như thế nào, làm sao cho địch bộc lộ hết những cơ sở của chúng ở trong nước…
Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm (bên trái) và đồng chí Nguyễn Thới Bưng, Tham mưu trưởng Quân khu 9 (sau này là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) tại "trụ sở" Ban chỉ đạo Kế hoạch CM-12 ở Minh Hải.
Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm (bên trái) và đồng chí Nguyễn Thới Bưng, Tham mưu trưởng Quân khu 9 (sau này là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) tại “trụ sở” Ban chỉ đạo Kế hoạch CM-12 ở Minh Hải.
Sau thắng lợi ban đầu là thực hiện việc liên lạc giữa CM-12 và “Tổng hành dinh” đã được “nối”, cơ quan an ninh bàn kế hoạch đón chuyến xâm nhập mới của địch. Kế hoạch được vạch ra rất khẩn trương và được báo cáo lên đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng. Sau đó vài hôm, ngày 29/5, Bộ trưởng có ý kiến chỉ đạo và nêu rõ 4 điểm cần chú ý nghiên cứu kỹ và bố trí kế hoạch thực hiện cho chu đáo. Đồng chí Bộ trưởng còn chỉ đạo cụ thể về cách tổ chức đón bắt địch xâm nhập.
Do phạm vi, đối tượng đấu tranh của CM-12 đã vượt tầm cỡ một “chuyên án”, mặt khác, do các đối tượng đấu tranh lại không đơn thuần là gián điệp biệt kích mà còn mang tính chính trị hết sức nhạy cảm, nên đến đầu tháng 6/1981, đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng gọi đây là “Kế hoạch CM-12”.
Lãnh đạo Bộ Nội vụ nêu yêu cầu của Kế hoạch CM-12 là: Thu hút, đánh bắt hết các lực lượng xâm nhập theo kế hoạch của ta. Thông qua bọn Túy – Hạnh để bóc gỡ lực lượng bí mật của chúng ở trong nội địa. Từ công tác đấu tranh phản gián trong Kế hoạch CM-12 ta cần nắm cho được toàn bộ âm mưu của các thế lực thù địch với cách mạng nước ta. Bảo đảm an toàn tuyệt đối an ninh của đất nước, kiên quyết không để cho địch phá hoại. Nâng cao trình độ năng lực chiến đấu của lực lượng an ninh. Từng bước rút kinh nghiệm về tổ chức công tác an ninh trong quá trình đấu tranh.
Trong thời gian này, một mặt ta vẫn tiếp tục chuẩn bị về việc đón nhận chuyến xâm nhập tiếp theo của bọn gián điệp biệt kích, đồng thời tiến hành các biện pháp điều tra đối với các mảng khác trong nội địa có liên quan đến CM-12 như cụm Lê Quốc Quân, cụm Lê Chơn Tình và cụm Hồ Tấn Khoa trong đạo Cao Đài. Tổ An ninh K4/2 được giao nhiệm vụ chỉ đạo và phối hợp với các đơn vị, công an các địa phương liên quan như thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, An Giang… đấu tranh với các chuyên án có liên quan. Yêu cầu bảo đảm bí mật đối với công tác đấu tranh với CM-12 rất cao, nhưng ta lại phải đấu tranh với nhiều chuyên án có liên quan, phạm vi khá rộng, có nhiều đối tượng, vì vậy nhiệm vụ lại càng khó khăn gấp bội.
Trong khi đó, các yêu cầu của “chủ tịch” Lê Quốc Túy đều được “tổ công tác đặc biệt” thi hành một cách “nghiêm chỉnh” nhưng cũng làm cho Túy hiểu là không phải hoàn toàn dễ dàng.
Để có lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh trong chuyên án này, đồng chí Trần Phương Thế, tức Tám Thậm, Trưởng phòng Bảo vệ chính trị của Công an Minh Hải được chọn vào vai NK-A1, nghĩa là “Kinh Kha số 1” ở trong nước. Để tránh lộ bí mật, ta thường gọi NK-A1 là A1, tên thường dùng khi hoạt động của anh Tám Thậm là Hai Tài, còn bọn biệt kích thường gọi là Hai Râu vì anh Tám Thậm vốn có bộ râu quai nón rất đẹp.
Đồng chí Tám Thậm lúc đó mới ngoài ba mươi tuổi, tính điềm đạm, cẩn thận và chắc chắn. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí làm hiệu thính viên, chữ viết rất đẹp. Địa bàn Cà Mau thì anh rất thông thuộc. Nếu có các tình huống xuất hiện ngoài dự kiến của Ban lãnh đạo kế hoạch anh cũng có đủ khả năng để xử lý khi cần thiết. Tuy nhiên, đồng chí Tám Thậm chưa hoạt động trong lòng địch, kinh nghiệm hoạt động bí mật chưa nhiều, chưa sử dụng ngôn ngữ trong chế độ cũ thường dùng trước đây.
Mặt khác, ở Minh Hải, rất nhiều người biết mặt đồng chí Tám Thậm, ta không loại trừ một số người vượt biên hoặc bọn biệt kích có thể nhận biết, nhất là trong trường hợp Túy, Hạnh yêu cầu ra nước ngoài để huấn luyện, hội họp… Nhưng đồng chí Tám Thậm có ngoại hình phù hợp với “vai” được giao, nhất là khi anh để râu quai nón, rất dễ ngụy trang và có thể khắc phục những “nhược điểm” ấy. Đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng và đồng chí Thứ trưởng Cao Đăng Chiếm tỏ ý hài lòng về sự lựa chọn này.
Người đóng vai NK-A2 là đồng chí Hồ Việt Lắm (hiện nay là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục An ninh Tây Nam Bộ), lúc đó là Phó Công an huyện phụ trách An ninh của Công an huyện Trần Văn Thời.
Đồng chí Mười Lắm cũng là người địa phương này, am hiểu ngọn nguồn sông lạch và là người đã được đào tạo về nghiệp vụ trinh sát. Một số cán bộ của Tổ An ninh K4/2 như Nguyễn Khánh Toàn, Vũ Thành Hà, Trần Tôn Thất, Trần Lương Tư…, khi cần có thể thực hiện các vai được phân công. Đồng chí Nguyễn Văn Xíu, tức Ba Tài cũng được chọn đưa vào kế hoạch với vai phụ tá điện đài và lo cơm nước, bảo vệ…
Kiểm tra vũ khí, tiền giả thu được của bọn biệt kích phản động. (Ảnh: Tư liệu)
Kiểm tra vũ khí, tiền giả thu được của bọn biệt kích phản động. (Ảnh: Tư liệu)
Các đồng chí này đều phải làm việc trong điều kiện giữ bí mật tuyệt đối. Thậm chí, họ hàng và người ngoài không biết các đồng chí này còn làm việc cho công an nữa…
Trong các bức điện gửi cho “Tổ đặc biệt”, Lê Quốc Túy cho biết ý đồ của y là định đưa vào 3 chuyến trong tháng 9/1981 với khối lượng vũ khí khoảng 40-50 tấn. Ngày 25/8/1981, trung tâm địch gửi một bức điện hỏi “Tổ đặc biệt” là “trong đêm có thể đổ hai bãi cùng một lúc được không, khoảng 15 tấn 2 tàu”. Cũng trong bức điện này chúng còn yêu cầu K64 chuẩn bị một địa điểm an toàn tạm trú cho “6 cán bộ thành”.
Như vậy là có thêm tình huống địch sẽ cho một toán gián điệp biệt kích xâm nhập trong chuyến này. Công việc chuẩn bị của ta không chỉ đón “hàng” mà còn bắt bọn gián điệp biệt kích, tổ chức khai thác để phục vụ công tác nghiệp vụ tiếp theo.
Trong phiên liên lạc vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 31/8/1981, trung tâm địch thông báo cho “Tổ đặc biệt” 2 tàu xâm nhập sẽ khởi hành vào ngày 6/9/1981. Qua biện pháp trinh sát khác, chúng ta cũng nắm được quá trình chuẩn bị, tên tuổi cụ thể số “cán bộ thành” sắp xâm nhập và chỉ huy chuyến xâm nhập này là T.N.C, có ám danh là K19.
Trong những ngày hạ tuần tháng 8/1981, công việc chuẩn bị rất khẩn trương. Sau khi nghiên cứu kỹ, ta quyết định chọn các bãi đổ cho Kế hoạch CM-12 ở vùng phía tây mũi Cà Mau chứ không ở phía đông. Vùng biển phía tây vừa có nhiều luồng lạch và thường lặng sóng. Bãi đổ ở khu vực này không sình lầy nhiều như vùng phía đông.
Kế hoạch được báo cáo lên đồng chí Bộ trưởng Phạm Hùng và được đồng chí Bộ trưởng phê duyệt.
Chiều 7/9/1981, đồng chí Cao Đăng Chiếm và đồng chí Nguyễn Phước Tân từ TP Hồ Chí Minh đi xuống Minh Hải. Các đồng chí Sáu Phương, Ba Dũng, Sáu Sáu, Tám Phú, Hoài Việt, Năm Xinh, Hai Minh từ công an các tỉnh đã có mặt tại trại Cây Gừa. Đồng chí Nguyễn Phước Tân thông báo tình hình và phân công từng đồng chí chuẩn bị khai thác đối tượng khi chúng bị bắt.
(Theo Truyền Hình Cà Mau)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét