Thứ Tư, 24 tháng 1, 2018

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 224

(ĐC sưu tầm trên NET)

Lawrence of Arabia. Đại tá T.E. Lawrence

VietnamDefence - Thomas Edward Lawrence (1888-1935), sĩ quan tình báo quân sự Anh, kiêm nhà khảo cổ và nhà văn Anh, có biệt danh "Lawrence of Arabia", tức "Lawrence của xứ Arabia".

T.E. Lawrence - Lawrence of Arabia
Buổi chiều đó ở Cairô rất ngột ngạt và các vị khách đến dự buổi chiêu đãi ngoại giao tiếp theo do tướng Clayton, trưởng phái bộ quân sự Anh - Phòng  Arập, tổ chức, đang nóng ruột chờ đợi được biến khỏi khách sạn mà không làm mếch lòng vị chủ nhân tinh mắt.
Những người Anh và Pháp có mặt tại buổi chiêu đãi - những đồng minh trong cuộc chiến tranh thế giới vừa bùng nổ là những đồng minh khá chân thành trong các vấn đề liên quan đến chiến trường châu Âu. Nhưng ở đây, tại thế giới Arập ở phương Đông này, ngai vàng Anh chẳng cần có đồng minh. Đế chế Anh cần các thuộc địa. Và nó chẳng muốn chia xẻ chúng với ai. Bởi vậy, những người phụ nữ có vẻ là nhàn tản nhất trong bữa tiệc ngột ngạt này. Mặc dù, cũng chẳng phải là tất cả...Vào buổi chiều ấy, nữ hầu tước Margarit d'Anduren, người luôn khiến những "chàng hiệp sĩ" thuộc đủ lứa tuổi tôn sùng không chỉ bởi nét kiều diễm của mình mà cả vì bà ta coi thường tính thiêng liêng của hôn nhân, hình như đang rất lo nghĩ về điều gì đó. Bà ta tới dự tiệc mà không có chồng đi theo. Hơn nữa, hầu tước Pierre d'Anduren, người đã đem đến cho vợ mình không chỉ tước vị quý tộc mà cả một tài sản khá lớn, đã từ lâu chả thèm quan tâm đến những trò nghịch ngợm của bà ta. Chiến tranh đã buộc họ phải ở lại Ai Cập trong kỳ nghỉ tuần trăng mật và hầu tước thì chẳng hề vội vã trở về quê hương mình. Margarit cũng chẳng vội về Paris bởi vì bộ sưu tập những kẻ ái mộ của bà đã bổ sung thêm một người nữa, lần này là một sĩ quan Anh trẻ trung.
Anh ta đứng trong góc phòng, tay cầm chiếc ly đại chân cao đầy nước khoáng trong đó bập bềnh mấy cục đá. Mái tóc vàng bồng bềnh trên vầng trán cao, đôi mắt xanh, khô khan, gương mặt cạo nhẵn nhụi. Nhưng Margarit có lẽ đã hiểu rằng, chẳng thể cưỡng nổi vẻ quyến rũ kỳ lạ đầy mê hoặc trong giọng nói của con người này. Chờ cho đến khi đám đông những dại gái tản đi khỏi nữ hầu tước, anh ta lại gần bà với gương mặt rầu rĩ, kiểu cách nghiêng mình và khẽ lẩm nhẩm: "Tôi đợi bà trong phòng ở tầng hai".
... Đây là cuộc hò hẹn kỳ lạ nhất trong cuộc đời đầy những chuyến phiêu lưu tình ái của Margarit. Viên sĩ quan nói rất đơn giản cứ như họ đã quen nhau từ nhiều năm nay và đã nhiều lần đề cập đến việc này: "Thưa bà hầu tước thân mến, bà hãy giúp nước Anh. Chúng tôi rất cần bà làm quen với Pasa (tổng trấn) Said. Ngày mai, tướng Clayton sẽ tiếp bà. Chúng ta sẽ không trả miếng nhau. Bà đồng ý chứ?"
T.E. Lawrence - Lawrence of Arabia
Không, quả thực bà đã không thể cưỡng nổi vẻ quyến rũ kỳ lạ đầy mê hoặc trong giọng nói của con người này và đã đồng ý. Vài tháng sau, nữ hầu tước Margarit d'Anduren đã trở thành tình nhân của một trong các thủ lĩnh các bộ lạc Arập và bắt đầu cung cấp tin tức cần thiết. Nhân viên tình báo quân sự Anh Lawrence đã nhận được lời cảm ơn từ London vì lần tuyển mộ thành công mới này. Đây là vụ tuyển mộ có lẽ thuộc loại khó nhất đối với ông ta. Lawrence rất không ưa phụ nữ. Ông ta không yêu họ trong suốt đời mình...
Về ông, người ta đã viết những cuốn sách, dựng những bộ phim, đưa ra những nhận xét trái ngược nhau, trong đó "thiên tài" đối nghịch với người đối lập với tính "quỷ quyệt" hèn hạ đặc trưng. Hơn nữa, đến Jago của Shaekspeare cũng bị người ta gọi là "thiên tài của cái ác". Tất cả phụ thuộc vào việc tài năng con người nhằm phục vụ cái gì, việc gì và mục đích nào, cái thiện hay cái ác, sự thật hay giả dối.
Lawrence là một nhà tình báo quân sự xuất chúng vào thời của mình. Ông rất giỏi tiếng Arập và các thổ ngữ của nhiều bộ lạc Beduin, nghiên cứu không chỉ phong tục, tập quán mà cả tín ngưỡng của họ. Ngay từ trước Thế chiến I, ông đã đi khắp thế giới Arập, thiết lập những mối liên hệ chặt chẽ với những thủ lĩnh của các bộ lạc Arập lớn nhất, hiểu rõ như lòng bàn tay những điểm yếu của họ nhờ đó ông đã đứng trong hàng ngũ tiên phong của những người tổ chức nổi dậy của người Arập. Đế quốc Anh chính là cần có một diễn viên như vậy trên sân khấu của chiến trường Arập.
Điều gì đã gắn bó quân lính Anh với một đầu cầu bất tiện như vậy, nơi họ phải không chỉ đánh nhau mà còn phải chi nhiều tiền để xây dựng đường sá và căn cứ? Trước hết, đó là vì ý nghĩa chiến lược của khu vực này. Vùng này có các đường sắt Hejas và Damas chạy qua - đó là những tuyến đường hậu cần huyết mạch cho quân đội Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng kênh đào Suez. Sử dụng lính chính quy, bị phụ thuộc vào các căn cứ, để đánh nhau với người Thổ là một điều rất bất tiện. Cần phải có các đơn vị cơ động nhỏ thạo di chuyển đường dài trong sa mạc không bóng người và có khả năng xuất hiện bất ngờ trong hậu phương quân Thổ, phá hoại các tuyến đường sắt. Do đó, bộ tổng tham mưu Anh mới nảy ra ý định lợi dụng tâm trạng chống Thổ của người Arập, thậm chí tập hợp họ vào những đơn vị khởi nghĩa chiến đấu lưu động. Điều đó phải trông chờ vào người nào có thể giành được sự tín nhiệm của các thủ lĩnh bộ lạc Arập hám tiền và bất lương và lái hành động của họ vào một hướng thống nhất mà đế quốc Anh đang cần để đánh Thổ Nhĩ Kỳ bằng tay người khác mà không không phải rút bớt lực lượng từ mặt trận phía Tây.
***
Chúng ta sẽ tìm kiếm kỹ càng trong tiểu sử của Lawrence những nét tính cách siêu nhân nào đó, những điều được các nhà nghiên cứu phương Tây nghiên cứu sự nghiệp của "siêu điệp viên" Anh này thích tô vẽ. Chúng ta sẽ chỉ ra tính hám danh quá đáng đến cùng cực, sự giả nhân giả nghĩa, khuynh hướng thích mạo hiểm và sự gàn bướng hiếm có ở con người này. Chúng ta vạch ra chỉ để hiểu rõ hơn cái kính vạn hoa của những cảnh ngộ éo le của cuộc đời mà Lawrence đã trải qua. Khác với nhiều đồng nghiệp của mình, ông ta thờ ơ không chỉ đối với phụ nữ mà cả với tiền bạc.
Thomas Edward Lawrence sinh ngày 15 tháng 8 năm 1888 ở Tremadoc, Northen Wales trong một gia đình khá nghèo, sau thời gian phiêu bạt tha phương ở Scotland và Anh, ông ta dừng chân lại ở Oxford. Tại đây, Edward bắt đầu đi học. Sau này, ông ta viết: "Trường học là một việc làm vô bổ và mất thì giờ mà tôi cực kỳ căm ghét". Đúng là ông ta không có đủ thời gian. Không có đủ thời gian để đọc những cuốn sách về những cuộc thập tự chinh và khảo cổ học. Sự ham mê thơ dại đối với lịch sử đã lớn lên, trở thành một sự say mê nghiêm túc đối với khảo cổ học. Khi còn ngồi trên ghế ở trường đại học, Lawrence đã viết luận văn với đề tài "ảnh hưởng của các cuộc thập tự chinh đối với kiến trúc quân sự châu Âu thời Trung Cổ"; công trình nghiên cứu này đã giành được giải nhất. Trước khi trình luận văn cho các thầy giám khảo, Lawrence đã tới Syria và nghiên cứu tất cả những phế tích được biết đến của các pháo đài của thập tự quân.
"Sự nghèo khó của tôi - Lawrence viết trong hồi kỳ - đã cho phép tôi nghiên cứu những tầng lớp người vốn xa cách với một du khách giàu có bởi tiền bạc và những kẻ đồng hành của anh ta. Tôi đắm mình vào tầm lớp quần chúng cặn bã nhất, lợi dụng những cảm tình của họ giành cho tôi... Trong người Arập không có sự khác biệt về truyền thống, sắc tộc; toàn bộ quyền lực vô thượng thuộc về Shah (quốc vương) vĩ đại. Người Arập nói với tôi rằng, không ai, bất kể anh ta có những đức tính gì, cũng không thể trở thành thủ lĩnh của họ nếu như không ăn thức ăn mà họ ăn, không mặc thứ mà họ mặc và không sống cuộc sống mà họ sống". Lawrence không đơn độc khi nghiên cứu văn hoá của những người Arập cổ và cuộc sống của người Arập hiện đại. Hướng dẫn ông là nhà khảo cổ nổi tiếng, giáo sư Hoggarth, người đã đóng vai trò rất quan trọng trong bước ngoặt đột ngột của số phận của một sử gia đầy triển vọng. Vấn đề là ở chỗ, Hoggarth là một chuyên gia xuất chúng không chỉ về khảo cổ học, mà cả về nghề gián điệp mà ông ta đã làm trong nhiều năm để phục vụ tình báo Anh. Khi chuẩn bị cho chiến tranh thế giới, nước Anh liên tục phái tới biên giới Thổ Nhĩ Kỳ-Ai Cập các đoàn "thám hiểm" này nọ và đều do giáo sư Hoggarth đứng đầu. Nhà văn Anh nổi tiếng R. Aldington không giấu vẻ châm biếm khi nhận xét: "Do trung thực là cách làm tốt nhất, nên người ta quyết định làm những bức bản đồ địa hình dưới vỏ bọc một đoàn thám hiểm khảo cổ học có sự tham gia của Lawrence, người được cử tới Sinai theo yêu cầu của Bộ Chiến tranh".
Lawrence đã kề vai sát cánh làm việc với giáo sư Hoggarth từ năm 1910 đến năm 1914, nhiều lần tới Syria và Palestin làm nhiệm vụ thu thập những tin tức cần cho tình báo Anh và thiết lập những mối quan hệ có triển vọng tương lai. Bắt đầu con đường binh nghiệp tại Phòng địa lý của Bộ Chiến tranh, Lawrence, sau đó, đã chuyển sang chi nhánh dưới cái tên "Phòng Arập". Khi chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, Phòng Arập biến thành trung tâm điều phối của cơ quan tình báo Anh ở thế giới Arập phương Đông. Chỉ huy phòng này là tướng Clayton.
Các sử gia Anh và các nước khác đã viết hàng trăm trang sách về việc Lawrence, "bạn" của người Arập, đã trở thành con người không thể thay thế trong đám cận thần của vua Arập Xêut Hussein như thế nào,và sau đó trở thành cái "tôi" thứ hai của một người con trai vị vua đó là Faisal, dưới quyền ông này có rất nhiều bộ lạc. Khẩu hiệu được tung ra thành công nhằm đoàn kết người Arập đấu tranh chống lại Thổ Nhĩ Kỳ, nước đang đứng cùng phe với nước Đức chiến đấu chống lại phe Đồng Minh, đã cho phép Faisal-Lawrence tổ chức cuộc nổi dậy của dân chúng, kiểm soát ông ta và lập ra một quân đội khá mạnh gồm các đội phá hoại, những đội đã gây ra nhiều khó khăn cho quân đội chính quy Thổ Nhĩ Kỳ. Cho tận những ngày cuối cùng của cuộc chiến, đại tá Lawrence vẫn phục vụ trong quân đội của Faisal với tư cách chính thức là cố vấn quân sự và sĩ quan liên lạc của mặt trận Arập với đại bản doanh bộ chỉ huy Anh ở Trung Đông.
"Bạn" của người Arập ư? Chúng tôi đặt từ này trong ngoặc kép và đó không phải là ngẫu nhiên.  Chỉ thị mật của Lawrence cho các sĩ quan Anh khi quan hệ với người Arập một lần nữa lại đến thì chứng tỏ điều ngược lại. "27 điều" của chỉ thị là bằng chứng khá rõ ràng về cách thức mà Lawrence cư xử với những "người bạn" Arập. Chúng tôi xin trích một số trong 27 điều trên.
"Cố chiếm lòng tin của thủ lĩnh và giữ được sự tín nhiệm ấy. Tìm cách nâng cao uy tín của thủ lĩnh trước những người khác bằng tiền của mình. Không bao giờ từ chối và không làm đổ vỡ những kế hoạch mà ông ta có thể đề xuất. Luôn tán thành những kế hoạch ấy, vừa tán thưởng, khen ngợi vừa thay đổi từng tí và buộc chính thủ lĩnh phải nêu thêm những đề nghị cho đến chừng nào chúng trùng khớp với ý kiến riêng của anh...
Mặc dù, ta khó mà ép buộc người Beduin làm một việc gì đó, song họ lại dễ sai khiến miễn là anh có đủ kiên nhẫn. Sự can thiệp của anh càng khó thấy bao nhiêu thì ảnh hưởng của anh càng lớn bấy nhiêu. Người Beduin sẵn sàng làm theo lời khuyên của anh, thậm chí cũng chẳng nghĩ rằng anh hay người nào khác biết về điều đó.
Không nên nguỵ trang che giấu... Đồng thời, khi đang ở giữa những người Arập, nếu anh biết ăn mặc như họ, anh sẽ giành được lòng tin và sự thân thiện, những cái mà khi mặc quân phục, anh không bao giờ có thể giành được. Tuy vậy, điều này vừa khó, vừa nguy hiểm. Do anh ăn mặc như người Arập, họ sẽ không làm một điều gì ngoại lệ riêng cho anh. Anh phải tự thấy mình như một diễn viên trong một nhà hát xa lạ, diễn vai của mình hết ngày đến đêm không ngưng nghỉ trong suốt nhiều tháng và với độ mạo hiểm cao...
Nhiều khi anh phải tham gia vào các cuộc tranh luận về tín ngưỡng. Hãy cứ nói thoải mái về tín ngưỡng của mình, song tránh chỉ trích các quan điểm của họ...
Đừng bắt chước người Arập và tránh nói chuyện tuỳ tiện về phụ nữ. Đây cũng là vấn đề khó như tín ngưỡng. Về mặt này, các quan điểm của người Arập khác với các quan điểm của chúng ta đến mức những nhận xét vô hại theo quan điểm của người Anh chúng ta lại là những lời nói láo xược đối với họ, cũng như một số tuyên bố của họ nếu dịch máy móc từng chữ có thể lại là láo xược đối với anh.
Toàn bộ bí quyết đối xử với người Arập là ở chỗ phải nghiên cứu họ liên tục. Phải luôn cảnh giác, không bao giờ được nói những điều không cần thiết, luôn theo dõi mình và các bạn bè mình. Hãy nghe những gì đang diễn ra, hãy tìm cho ra những nguyên nhân thật sự. Hãy nghiên cứu tính cách của người Arập, những sở thích và những điểm yếu của họ và hãy giấu kín cho mình những gì mà anh đã phát hiện ra... Thành công của anh sẽ tỷ lệ với số năng lượng trí tuệ mà anh đã bỏ ra cho việc này".
Như người Anh thường thích nói: "No comment" - miễn bình luận. Giá như người Arập được đọc chỉ thị mật này mà "người bạn" của họ chuẩn bị với những sắc thái tâm lý như thế!... Nhưng khi đó họ đang rất tin tưởng Lawrence bởi vì anh ta là một diễn viên khôn khéo, biết giành lấy sự tín nhiệm của các thủ lĩnh, biết cách mua chuộc các quốc vương một cách "ít tốn kém", biết nguỵ trang và diễn vai của mình trong "nhà hát của kẻ khác" một cách không ngừng nghỉ, mạo hiểm đối với tính mạng, nhưng không bao giờ mắc sai lầm và đã giành được quyền lực đối với những vùng lãnh thổ và những con người.
Trong cuốn sách nhiều tập "Lịch sử gián điệp" xuất bản ở Italia, người đã viết về đặc điểm tính cách của "người bạn" của người Arập: "Chỉ trong biên chế của "Phòng Arập", Lawrence mới có thể phát huy tối đa tài năng dàn dựng âm mưu của mình. Ông ta là con cáo tinh ranh, cực kỳ khôn khéo, không thèm đếm xỉa đến ai, nhổ toẹt vào thượng cấp và do đó làm cho cả bộ tổng tham mưu Anh chống lại mình. Chỉ có một nhóm chuyên gia nhỏ biết đánh giá ông thực sự là cuốn bách khoa từ điển sống và là người biết làm việc với người Arập. Lawrence biết rằng, ông có những người bạn đầy thế lực ở London. Bởi vậy, ông không do dự đuổi thẳng cổ những kẻ gây phiền nhiễu hoặc những kẻ mà ông không ưa. Tự tin và táo bạo, mơ mộng và kênh kiệu, Lawrence là sĩ quan của chi nhánh SIS tại Cairo trong 20 năm am hiểu nhất về người Arập và có một mạng lưới điệp viên Arập rộng rãi, được tổ chức tốt tại những vùng đất bị quân Thổ chiếm. Khép kín, hiếu danh, say mê sự tôn sùng đối với bản thân, ông ta thật can đảm khi đối diện với hiểm nguy và phiêu lưu đến tuyệt đỉnh. Lawrence đã trở thành một người dân du mục thực sự, mặc trang phục của người Beduin, dễ dãi trong ăn uống, dễ dàng chịu nóng, chịu khát và cuối cùng đã trở thành chỉ huy của các đơn vị khởi nghĩa Arập, những đơn vị đã chiến đấu hiệu quả với quân Thổ. Ông được an táng trong nhà thờ Thánh Paul ở London giữa những anh hùng chiến tranh và những nghệ sĩ danh tiếng của nước Anh".
Thiếu tá Sterling, một trong những sĩ quan liên lạc với bộ tham mưu quân Anh nhớ lại: "Khi đến Abu-El-Lissal, tôi tìm được Lawrence vừa trở về sau một cuộc tập kích thành công vào đường sắt khi ông đang ngồi trong lều của mình trên một tấm thảm Ba Tư tuyệt đẹp lấy được từ một đoàn tàu hỏa nào đó của quân Thổ. Ông ăn mặc như thường thấy: trang phục trắng, sau thắt lưng dắt con dao găm bằng vàng. Phía ngoài, đây đó trên cát có một số vệ sĩ người Arập trong đội cận vệ của ông đang ngồi lau súng trường... Bảo vệ là biện pháp đề phòng cần thiết bởi vì đầu Lawrence được treo giá 20.000 bảng Anh, còn người Arập là loại người hay phản phúc nếu họ đã không tuyên thệ với anh và không nhận được tiền thưởng. Bất cứ vệ sĩ nào trong đội cận vệ cũng sẵn sàng vui lòng hy sinh tính mạng cho ông... Cái gì đã giúp ông thống trị được người Arập và khiến họ tuân phục? Đây là câu hỏi rất khó trả lời. Người Arập nổi tiếng là cá nhân chủ nghĩa và vô kỷ luật, nhưng mặc dù vậy, ta chỉ cần nói rằng, hễ Lawrence muốn gì thì điều đó nhất định sẽ được thực hiện. Làm sao mà ông có thể có được quyền lực như vậy đối với họ? Điều đó có thể lý giải một phần là Lawrence giả vờ làm người ủng hộ phong trào giải phóng của người Arập. Người Arập nghĩ rằng do ông ta đã dẫn dắt họ đến một sự nghiệp quan trọng như vậy nên ông ta đứng ngang hàng với các quốc vương hay con cháu của Đấng tiên tri, không phải vô cớ mà Faisal đã đối xử với ông như với một người anh em, như một người ngang hàng, hơn nữa hiển nhiên ông còn ta còn có một nguồn dự trữ vàng vô hạn, mà người Arập lại là loại người dễ bị mua chuộc nhất..."
Đại tá Lawrence là kẻ khiêu khích theo đúng nghĩa đen của từ này, bởi vì cuộc nổi dậy của người Arập không phải là để thực hiện "nhiệm vụ vĩ đại thành lập nhà nước Arập" như bản thân Lawrence cố làm ra vẻ như vậy trong hồi ký của mình. Nó, cái phong trào này, cùng với cuộc khởi nghĩa đã trở thành công cụ của chính sách thôn tính của đế quốc Anh, kẻ đang muốn biến các vùng đất Arập thành thuộc địa của mình, điều mà nó đã làm được sau Thế chiến I bằng cách lợi dụng chiêu bài uỷ trị của Hội Quốc Liên. Một trong những người bênh vực kiên trì nhất cho Lawrence, sử gia Liddel Hart, khi ca ngợi chế độ uỷ trị mà dưới vỏ bọc đó, nước Anh đã cố nô dịch dân tộc Arập, đã viết: "Bằng cách đó, Anh quốc đã có thể đưa ra một sự khẳng định hùng hồn rằng, ý tưởng nằm trong nền tảng của quyền uỷ trị có thể đưa vào cuộc sống cả về tinh thần, cả về câu chữ. Danh dự của Lawrence cũng đã được phục hồi. Đối với người Arập, Lawrence thậm chí còn giành được nhiều hơn điều mà ông ta dự tính ban đầu. ông đã cho họ khả năng đứng vững trên đôi chân mình và lợi dụng điều đó một cách phù hợp với nguyện vọng và tài năng của họ. Ông không thể làm hơn được. Việc thiết lập một nhà nước thân Anh ở Iraq đã là mục tiêu chính của Lawrence..."
Như vậy, theo Liddel Hart, ta có được bức tranh khá hấp dẫn: người Arập đã đạt được cái mà họ đang có, Anh quốc thì hài lòng, còn Lawrence thì biến thành một anh hùng. Chả lẽ lại thế?
Người Arập đã nhận được cái gì? Faisal lên ngôi, trở thành Vua Faisal I ở Iraq với, em ông ta là Abdullah lên ngôi ở Transjordanie để tiến hành chính sách của đế quốc Anh nhằm thủ tiêu phong trào giải phóng dân tộc của người Arập.
Nước Anh đã được cái gì? Những thuộc địa mới: Iraq, Palestin, Hejas, cơ sở dầu mỏ và căn cứ hải quân ở Haifa... Nói một cách ngắn gọn, đế quốc Anh đã củng cố vững chắc nền thống trị của mình đối với bán đảo Arập.
Lawrence đã nhận được cái gì? Sự thoả mãn tinh thần, Liddel Hart khẳng định. Có thể... Chính là tinh thần bởi vì cuộc nổi dậy của người Arập mà nhân viên tình báo quân sự Anh Lawrence tự coi mình là người cổ suý, đã không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến kết quả của các hội nghị sau chiến tranh xác định số phận của đế quốc Ottoman và các vùng đất Arập của nó. Tại hội nghị các nước Đồng Minh ở San-Remo diễn ra vào tháng 4 năm 1920, quyền uỷ trị đã được phân chia xong. Dưới áp lực của Pháp, Anh phải rút quân khỏi Syria và quân Pháp đã giành lấy Damas nơi mà vào năm 1918, một đơn vị cưỡi lạc đà trong đó có Lawrence, lợi dụng việc quân Thổ đã rút lui, đã tiến vào đánh chiếm. Người "bạn" tốt nhất của người Anh Faisal đã bị lật đổ và ông ta đã nguyền rủa ầm ĩ người "anh em" phản trắc - đại tá Lawrence của mình.
Thực ra cũng có một số nhà nghiên cứu phương Tây đã cố chứng minh rằng, dường như Lawrence rất đau khổ vì việc người Anh đã không thực hiện những cam kết của mình đối với người Arập nên đã đoạn tuyệt hẳn với cơ quan tình báo Anh Secret Intellgigence Service. Tuy nhiên, giả thiết này khó có cơ sở để tồn tại. Đơn thuần là Lawrence với tư cách một nhân viên tình báo quân sự phải thực hiện nhiệm vụ được giao cho ông và các công việc khác. Còn một giả thiết sai lầm khác cố chứng minh rằng, Lawrence, bằng hành động chống quân Thổ của mình, đã hình thành một học thuyết mới trong nghệ thuật tác chiến. Không! Toàn bộ hoạt động quân sự của ông ta tập trung vào việc tổ chức các trận tập kích của các đơn vị Arập nhỏ trong hậu phương quân địch, tiêu diệt các đồn bốt và sinh lực địch. Nói một cách ngắn gọn, đó là chiến tranh du kích đã buộc quân Thổ phải tăng cường canh phòng bảo vệ các tuyến đường sắt, khiến quân Thổ phải phân tán lực lượng, gây những tổn thất vật chất và tất nhiên là làm suy yếu lực lượng quân Thổ trên hướng quyết định. Kết hợp với hành động của quân chính quy, cuộc chiến tranh du kích đã luôn tạo ra một tác động đáng kể trên một chiến trường rộng lớn.
Phần tiểu sử sau chiến tranh của Lawrence rất rắc rối và mờ nhạt. Năm 1921, Winston Churchill, người đứng đầu Bộ Thuộc địa, đã đề nghị ông ta giữ chức cố vấn chính trị trong Cục Trung Đông mới thành lập. Khi xuất hiện vấn đề khen thưởng, Lawrence yêu cầu cấp cho mình 1.000 bảng/năm. Churchill thấy đây là yêu cầu khiêm tốn nhất từng được đề đạt với ông ta và dã quyết định cấp cho vị cố vấn mới khoản tiền 1.600 bảng/năm. Tại hội nghị Cairo tháng 3 năm 1921, Lawrence đã thuyết phục được Churchill đưa lên ngôi vua Iraq, nước nằm dưới quyền uỷ trị của Anh, vị quốc vương Faisal mới bị lật đổ ở Syria. Như vậy là viên đại tá đã trả được món nợ cũ với người "anh em" xưa. Sau đó, Lawrence về hưu và mặc dù có sự thuyết phục của Churchill, ông vẫn rời bỏ Bộ Thuộc địa. Tháng 8 năm 1922, ông bất ngờ gia nhập làm binh nhì trong không quân Anh với tên họ là J.H. Ross. Bản thân Lawrence đã giải thích hành động của mình như sau: "Mỗi người hoặc là phải gia nhập không quân hoặc là phải giúp cho nó phát triển".
Trên thực tế, mọi việc hoàn toàn khác. Có những tin tức cho rằng, chính các xếp tình báo Anh đã phái "con ngựa đua Arập" của mình vào không quân với tên giả. Tuy vậy, Lawrence đã không thể giữ kín được tung tích. Sau khoảng 6 tháng phục vụ, một viên sĩ quan thù địch từ lâu với viên đại tá đã nhận ra ông ta. Với khoản tiền nhỏ, viên sĩ quan đã tiết lộ phát hiện của mình cho báo chí. Sau sự kiện này, tình báo Anh quyết định phái Lawrence đi công tác ở đâu đó xa hơn, nơi mà khả năng bị lộ mặt ít hơn. Lawrence lại đội lốt một thợ máy trong lực lượng xe tăng tên là T.E. Shaw và đồng thời làm thầy tu Pir-Karam-shah. Vỏ bọc đầu được dùng để giao tiếp với người Anh, vỏ bọc thứ hai dùng để giao tiếp với người Hindu: Lawrence được cử sang ấn Độ, tới pháo đài kiêm khu dân cư Miram-shah trên biên giới với Afghanistan.
Khi đó, ngồi trên ngai vàng Afghanistan là tiểu vương Amanullah, người với thiện chí của mình đã quyết định tiến hành những cải cách xã hội trong nước. Điều đó làm cho London không thích thú. Người Anh quyết định bằng mọi cách phá vỡ những kế hoạch của Amanullah, gạt bỏ ông ta khỏi ngai vàng và thay thế bằng một tiểu vương ngoan ngoãn khác sẵn sàng nhảy múa theo tiếng sáo của các ông chủ thực dân. Một trong những kẻ thực hiện chủ chốt kế hoạch này là Lawrence khi đó dưới lốt Pir-Karam-shah.
Sau khi đến pháo đài Misram-shah, Lawrence bắt đầu bắc những "chiếc cầu" với Kabul. Ông ta không hề tiếc tiền, mà trái lại, ông ta được phép mua chuộc hay mua chuộc lại những giáo sĩ Hồi giáo hám tiền, cũng như những tên cướp thuộc các băng cướp địa phương thường xuyên qua lại biên giới ấn Độ-Afghanistan.
Pir-Karam-shah căm thù người Afghanistan giống như căm thù người Arập thời ông ta làm việc ở Trung Đông. Ông ta không hề ngượng ngùng nói thẳng điều đó với những người hầu của mình. Thực ra, đó là một thủ đoạn đặc biệt để gây khiếp sợ cho những người dưới quyền ông ta: ông ta là chủ nhân của họ và là người có quyền bắt chết là phải chết, cho sống là được sống.
Một lần, một liên lạc viên hoả tốc đi từ Kabul tới Miram-shah sau 4 ngày đi đường mang theo một tin mật cho Lawrence. Liên lạc viên hoả tốc và đội bảo vệ anh ta hầu như không ăn gì suốt dọc đường. Đám người này hầu như hoàn toàn kiệt sức. Khi nhìn thấy cảnh này, Pir-Karam-shah đã hạ lệnh cho người hầu của mình: "Cho ngựa ăn. Còn bọn này thì cho uống nước, hay là..."
Trong tin mật nói rằng, cựu tiểu vương Bukhara là Seid Alim-khan sống ở ngoại ô Kabulk và đang buôn bán lông cừu non London, đồng thời cũng duy trì những quan hệ chặt chẽ với bọn thổ phỉ, ông này cấp tiền thu được từ tiêu thụ bán lông cừu non cho chúng. Nhưng bức thư còn có một chi tiết nữa thu hút sự chú ý của Lawrence. Cựu tiểu vương Bukhara hoá ra đang có quan hệ thân thiết với Bachaji Sacao. Tên hung thần này tàn bạo và hung ác đến mức giết cả cha mình, vợ, giáo sĩ Hồi giáo... Lawrence quyết định: đây là đồng minh lý tưởng chỉ có trong mơ. Với sự giúp đỡ của Bachaji Sacao, Lawrence rắp tâm trước hết làm mất uy tín các sáng kiến cải cách của tiểu vương Amanullah, sau đó giành toàn bộ quyền lực ở Afghanistan thông qua những tay chân của mình.
Nhưng Lawrence không thể tìm ngay ra Bachaji Sacao. Tên cướp này cướp bóc các đoàn súc vật chở hàng ở đâu đó trong vùng núi và tránh xuất hiện gần những khu dân cư. Đôi khi hắn vượt biên giới và tham gia các cuộc ăn chơi trác táng nhiều tuần liền ở gần Peshawar. Cuối cùng thì Bachaji Sacao cũng diện kiến với Lawrence. Nắm được bản tính tinh quái của tên cướp, Pir-Karam-shah lập tức chơi bài liều: nếu Sacao giúp ông ta lật đổ Amanullah thì ông ta, Pir, sẽ bảo đảm trao ngai vàng Kabul cho hắn.
"Trước tiên cần phải làm gì? Tuyên truyền chống những cải cách của Amanullah trong dân chúng. Những chủ trương có thể gây bất bình trong nhân dân là những vấn đề sau. Một là Amanullah từ chối mang khăn đóng mà Đấng tiên tri đã quy định. Ông muốn mọi người đội mũ. Hai là Amanullah từ chối mặc trang phục Hồi giáo, thứ trang phục mà tổ tiên người Afghanistan đã từng mặc. Ông hạ lệnh cho tất cả phụ nữa bỏ tấm mạng che mặt. Ba là, ông hạ lệnh cho tất cả đàn bà, con gái đều phải đến trường. Ông quyết định đàn ông không bắt buộc phải để râu, ria. Bốn là ông hoan ngênh sự khinh thường với tôn giáo. Amanullah đưa các bà vợ của mình ra nước ngoài học cách cư xử tốt nhưng trái với tập tục truyền thống. Năm là ông muốn để người dân được bác sĩ điều trị. Ông huỷ bỏ âm lịch..."
Bachaji Sacao không cần những lời bình luận cho bản liệt kê những "hành động có dụng ý xấu" của người cầm quyền tại Kabul. Hắn coi lời huấn thị này như một mệnh lệnh hành động. Một tuần sau đó, ngọn lửa căm hờn đối với Amanullah đã bùng lên như đám cháy trong gió, lan khắp từ làng này đến làng khác. Đã nổ ra các cuộc nổi loạn, bạo loạn có vũ trang chống chính phủ.
Đồng thời, Pir-Karam-shah đã cho phát tán thông qua các điệp viên của mình những bức ảnh giả mạo chụp các cô gái bề ngoài giống như phụ nữ Afghanistan đang ở những tư thế tục tĩu ngồi trên đùi đàn ông. Dòng chữ viết dưới các bức ảnh là: "Amanullah đang thực hiện những giáo huấn thiêng liêng của Đấng tiên tri và luật Hồi giáo Shariat thiêng liêng vốn ghi rõ không ai có quyền để cho người đàn ông khác thấy mặt vợ mình".
Thủ đoạn hèn hạ này đã gây ra làn sóng phẫn nộ mới ở khắp Afghanistan. ở London, nơi Lawrence phải gửi báo cáo về, người ta đang xoa tay hài lòng. Trong một báo cáo, viện đại tá viết: "Vừa mới phát tán tại Afghanistan tuyên bố với nội dung dưới đây thay mặt tất cả những tín đồ sùng tín: "Chúng tôi, tất cả những người Hồi giáo, tước bỏ của Amanullah quyền cai trị chúng tôi và thừa nhận mình theo đúng lời mệnh lệnh của thượng đế và giáo huấn của Đấng tiên tri vĩ đại là thần dân trung thành của tiểu vương Sacao. Chúng tôi tình nguyện coi người là chủ nhân của Kabul... Kẻ nào không muốn sự vĩnh hằng của Padishah (quốc vương) thì kẻ đó sẽ chết". Với những tin tức và mong muốn tốt lành nhất. Pir-Karam-shah".
Đoạn cuối cùng: "Với những tin tức và mong muốn tốt lành nhất" chính là mật khẩu. ở London, người ta biết rằng, điều đó có nghĩa là: đã đến lúc thể hiện sức mạnh quân sự của Anh quốc. Bộ chỉ huy Anh đã hạ lệnh cho các máy bay chiến đấu cất cánh ngay lập tức từ các sân bay của Anh ở ấn Độ và bay vào lãnh thổ Afghanistan. Một số máy bay chiến đấu đã bay tới tận Kabul. Còn dưới tiếng gầm rú của động cơ máy bay Anh, Bachaji Sacao đang bí mật thương lượng với đại sứ Anh tại Afghanistan Hamphris. Tờ báo Anh "Daily Mail" ngày 28 tháng 2 năm 1929 thông báo: "Hamphris đã giúp Bachaji Sacao lên nắm quyền". Ta thừa hiểu rằng, nhân vật chính của toàn bộ câu chuyện phiêu lưu này chẳng phải là Hamphris mà là đại tá Lawrence.
Bachaji Sacao đã chiếm lấy Kabul và tự tuyên bố là tiểu vương Afghanistan. Theo chỉ thị của Pir-Karam-shah, Bachaji Sacao đã triển khai hoạt động điên cuồng chống phá Liên Xô. Có tới 20.000 tên thổ phỉ đồn trú tại miền Bắc Afghanistan đã bắt tay vào thực hiện các cuộc tập kích ăn cướp vào lãnh thổ các nước cộng hoà Xôviết Trung á.  Song bản thân Lawrence cũng hiểu rằng, những đám mây đen đang quần tụ. Ông ta hiểu rằng ngai vàng của Bachaji Sacao không vững chắc. Cần phải thoát thân.
Tháng 2 năm 1929, ông ta trở về London. Chính vào lúc đó, các đảng viên Công đảng đã đưa ra nghị viện Anh chất vấn về "các hoạt động của Lawrence trên biên giới Afghanistan". Còn trong một cuộc tuần hành do những người cộng sản Anh tổ chức, những người tuần hành đã đốt hình nộm Pir-Karam-shah - Lawrence để phản đối.
Rồi thời gian trôi đi, tưởng chừng như người ta đã quên Lawrence. Người ta chỉ nhớ lại ông ta vào tháng 10 năm 1929 khi mà những người ái quốc Afghanistan lật đổ ngai vàng của tên bù nhìn, tay sai của Anh quốc Bachaji Sacao và sau đó hành hình hắn. Còn khi mà các băng đảng thổ phỉ đã bị hoàn toàn đánh tan ở Afghanistan thì những hy vọng của bọn đế quốc sử dụng Afghanistan làm bàn đạp cho hoạt động lật đổ chống Liên Xô cũng sụp đổ.
Còn Lawrence - Pir-Karam-shah thì sao? Ông ta quyết định đặt dấu chấm hết cho một tiểu sử lạ kỳ của mình. Ông ta quyết định chuyển sang viết lách.
Với ngòi bút, ông ta đã cho ra đời 2 cuốn sách: "Nổi dậy trong sa mạc" và "Bảy trụ cột của sự sáng suốt". Ông ta đã không kịp đưa cuộc phiêu lưu Afghanistan của mình thành sách. Chiều 19 tháng 5 năm 1935, một chiếc môtô đang lao nhanh trên một con đường tỉnh lộ. Không ai nhìn thấy tai nạn xảy ra như thế nào. Những người chứng kiến vội vã đổ tới hiện trường tai nạn khi mà người đi xe môtô đã hấp hối. Ông ta chính là Sir Thomas Edward Lawrence, 47 tuổi... Vị cựu tình báo viên quân sự này vội vã đi đâu vậy? Theo một số nguồn tin, người ta biết rằng, một ngày trước khi xảy ra tai nạn, Lawrence đã nhận được một bức thư của một người bạn trong đó đề nghị Lawrence tổ chức một cuộc gặp với Hitler. Mải suy nghĩ về đề nghị này, Lawrene vội vã đi tới bưu điện (ông ta sống ở ngoại ô) để gửi bức điện khẩn thông báo sự nhận lời của mình về cuộc gặp. Trên đường về bằng xe máy, ông ta đã gặp nạn. Người ta còn biết rằng, không lâu trước khi chết, Lawrence đã có những mối liên hệ chặt chẽ với bọn phát xít ở Anh và thủ lĩnh của chúng Oswald Mosley.
Vậy thì đại tá Lawrence là ai?
Về bản thân mình, Lawrence đã một lần từng nói: "Tôi, nói chung, giống như một khách bộ hành khôn khéo đang tránh né các xe ôtô đang chạy trên đường phố chính".

John Caircross: Người thứ năm

VietnamDefence - Sir John Calwill, bí thư riêng của Churchill, đã đúng khi cho rằng Cairncross là người "rất thông minh, mặc dù đôi khi còn là kẻ buồn tẻ khó hiểu". Thế mà "kẻ buồn tẻ" ấy lại rất giỏi trong việc lấy từ két sắt và chuyển cho tình báo Liên Xô những tài liệu bí mật nhất.

John Cairncross
Ông mất trong một buổi chiều tháng 10 năm 1995 ở tuổi đã rất cao, 80 tuổi. Những năm cuối đời thật là kinh khủng: ông bị hành hạ không chỉ bởi tuổi già buồn tẻ đang giết dần giết mòn ông, cái tuổi già tuy có được tô điểm chút ít nhờ có người vợ mới còn trẻ, mà còn bị sự ồn ào xung quanh tên tuổi ông giày vò, làm khổ.
Vào năm 1951, khi mà ông nhận lời với phản gián, bỏ việc nhà nước, gạt nước Anh già nua yêu dấu sang một bên và ra đi, ông những tưởng đã đoạn tuyệt được với quá khứ và nó không bao giờ trở lại nữa.
Nhưng không phải thế! Ban đầu, Peter Wright, trợ lý chỉ huy phản gián Anh (MI-5, tức Secrete Service/SS) nhắc đi nhắc lại tên ông, sau đó đã trắng trợn vi phạm mọi nguyên tắc nghề nghiệp và đã xuất bản những cuốn sách động trời vào cuối những năm 80.
Thực ra, bà Thatcher đã cấm những sách này ở Anh, cho mở một phiên toà ầm ĩ và kẻ vi phạm luật im lặng đã phải sống nốt những ngày tàn của mình ở nước Australia xa xôi, nhưng điều đó có ích lợi gì?
Một lần nữa, các phóng viên lại lao bổ đến ông, lại vẫn đưa ra mỗi một câu hỏi ấy: ông có phải thành viên thứ năm của "Bộ năm Cambridge" lừng danh không? Ai là người đã tuyển mộ ông: Philby hay Blunt? Hay là chính người Nga? Mẹ kiếp, làm gì có "người thứ năm"! Chỉ mỗi một trường tổng hợp Cambridge đã sản sinh ra không dưới một tá điệp viên Nga, chứ chưa cần nói tới trường Oxford, đúng là lịch sử đang im lặng về điều đó. Và ơn Chúa.
Sau Peter Wright, vụ của ông lại bị khuấy động ban đầu là bởi người bạn Blunt, còn sau đó vào đầu những năm 90 là bởi tên Gordievski đào thoát sang phương Tây - tên này đã không bỏ phí thời gian ở Moskva, tìm cách bảo đảm cho mình một tương lai khấm khá, đã đào bới các tư liệu lưu trữ và sau đó ghi tất cả ra giấy.
Và một lần nữa vòng quay ngựa gỗ lại quay đi: ai là người thứ năm? Các phóng viên bay đến Provence tới tấp như ruồi, một tên súc sinh đã phục kích ông, lao vọt ra từ trong một xó với máy quay camera trên tay và hỏi thẳng: ông có phải là người thứ năm không? Tất nhiên là ông nói rằng tất cả điều đó là lời nói bậy, là sự bịa đặt ác ý, là sự vu khống. Ông đứng như thế ở trong khuôn hình, gầy guộc với gương mặt tức giận và buồn bã, cứ đúng và nói: tôi không có gì bình luận, chẳng có gì hết, tôi chẳng làm việc cho người Nga!
Trong những trường hợp như thế, người ta thường kiện ra toà vì tội vu khống, nhưng liệu ông có thể làm điều đó không khi mà phản gián Anh biết rằng, ông là một trong những điệp viên Xôviết hiệu quả nhất?! Là người thứ năm cũng được nếu đám công chúng ngu ngốc muốn thế, cái đám người đang nuốt tất cả những gì báo chí nhét vào mõm họ.
Lại còn những hồi ký của các nhân viên KGB (Uỷ ban An ninh quốc gia Liên Xô, cơ quan tình báo chủ chốt của Liên Xô trước đây, bị giải tán ngày 11 tháng 10 năm 1991) cũ tuôn ra như nấm độc với cái trò công khai ngu xuẩn của Gorbachev nữa và một lần nữa tên ông lại xuất hiện, mặc dù không có những chi tiết thừa...
Bản thân ông cũng bắt tay vào viết hồi ký, song việc viết lách tiến triển chậm chạp, ông nghĩ về cái chết, về nước Pháp, nơi ông sống dã nhiều năm, bỗng bắt đầu run sợ, ông nhớ lại rằng những chiến hữu trong "Bộ năm" là Donald Maclean và Guy Burgess đã lệnh cho ông phải đem hài cốt của họ từ Moskva tới vùng Albion khắc nghiệt. Nếu còn sống, họ sẽ bị bắt ngay lập tức và tống vào xà lim cho đến mạt đời, còn hài cốt... kiểu tr thù nhằm vào hài cốt chỉ có ở nước Nga ngu xuẩn này thôi.
Từ lý tưởng đến làm tình báo
Phía trước là cả tương lai sự nghiệp khoa học sáng chói, là chiếc áo choàng và chiếc mũ vuông đen của giáo sư, là sự thừa nhận của những độc gi và sinh viên mến mộ.
Có lẽ ông cũng đã muốn như thế nhưng trái tim Scoltland đã không cho phép. Tại Glasgow, nơi ông đã lớn lên đầy rẫy cảnh nghèo đói không thể tưởng tượng được với London trong những năm đó, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã giáng mạnh vào nước Anh, quan hệ xã hội trong nước trở nên căng thẳng, ở Đức chủ nghĩa phát xít ngóc đầu dậy lăm le chuẩn bị thôn tính cả châu Âu. Những lý tưởng cộng sản đã ngấm sâu vào con tim của chàng trai trẻ, những lý tưởng ấy xâm chiếm ông và thậm chí ông đã gia nhập đảng cộng sản. Tưởng chừng không ai, ngoài những người cộng sản và nhà nước vô sản vĩ đại đầu tiên trên thế giới, mặc dù còn bí hiểm, mới có thể chấm dứt sự bất công xã hội trong nước và chặt đầu những kẻ đại diện cho "trật tự thế giới mới".
Người giảng khoá học văn học Pháp ở Cambridge cho Cairncross chính là Anthony Blunt, chính là Blunt ấy, người là một trong những điệp viên của "Bộ năm", người đã phục vụ trong phản gián Anh và trong các phòng/ban trọng yếu của cơ quan này và cuối cùng đã trở thành người quản lý các bảo tàng hoàng gia và một trí thức được sủng ái trong hoàng cung của Nữ hoàng cao quý.
"Về công việc của mình từ năm 1937 cho đến đầu chiến tranh, có thể nói rằng, tôi hầu như chẳng làm gì - Blunt viết như vậy trong một báo cáo tin gửi về Moskva vào năm 1943. - Tôi chỉ mới bắt đầu làm việc và cố gắng hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng: tạo cảm tưởng rằng tôi không chia xẻ những quan điểm thiên tả., mặt khác cố gắng duy trì quan hệ chặt chẽ với những sinh viên thân tả mà trong số đó có thể có những tài năng mà chúng ta quan tâm. Như các anh đã biết, tôi đã tuyển được các đồng chí sau: M.S. và L.L. Tôi cũng được yêu cầu thiết lập quan hệ với C. (Cairncross) và tôi đã làm điều này cho B. (Burgess)".
Vậy mà ông nói là chẳng làm gì! Cầu trời cho mỗi tình báo viên có thể làm được "cái chẳng làm gì" ấy!
Không ai trong "Bộ năm" coi mình là điệp viên Xôviết, tất cả họ đều xem mình là những người cộng sản và những người của Quốc tế Cộng sản, họ không mặn mà lắm với hoạt động bí mật (đâu có phải là gián điệp!) và công khai trao đổi thông tin về việc ai và làm việc gì cho tình báo Liên Xô, có vẻ như một phòng của Quốc tế Cộng sản.Blunt đã chuyển Cairncross sang liên hệ với thành viên khác của "Bộ năm" là Guy Burgess để tiếp tục tìm hiểu, xây dựng; sau đó đến một tình báo viên bất hợp pháp Xôviết là Arnold Deutsch, cán bộ tình báo về nhân sự nhập cuộc và Arnol Deutsch đã tuyển Cairncross và đặt bí danh cho anh là Moliere.
Tiện thể cũng nói thêm là trong bảng thành tích của vị tiến sĩ Czech gốc Do Thái thông minh và trầm lặng Deutsch, người đã bị bọn SS sát hại vào năm 1942, có rất nhiều hồ sơ tuyển mộ cực kỳ quý giá (chỉ riêng ở Anh là khoảng 20 hồ sơ), điều mà gộp tất cả các vị tướng tình báo Liên Xô cũng không tài nào làm được. Thế chúng ta biết gì về người anh hùng ấy? Chỉ có một tấm biển lưu niệm tại ngôi nhà ở Viena, nơi ông đã sống, trên tấm biển đó có ghi công lao của ông trong cuộc kháng chiến chống bọn quốc xã và giải phóng nước Áo.
Trong vụ tuyển mộ Cairncross, đảng viên cộng sản Klougman cũng đã đóng một vai trò không nhỏ - trong những năm đó, tất cả các đảng cộng sản đều coi việc làm việc cho tình báo Xôviết là nghĩa vụ vô sản của mình.
Trong hang cọp
 Theo nguyên tắc hoạt động bí mật, vào năm 1936, khi đã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Cambridge, Cairncross đã cắt đứt liên hệ với đảng cộng sản, bắt đầu tăng cường thể hiện những quan điểm ái quốc của mình và đã hoàn thành xuất sắc các môn thi nói tại Foreign Office (Bộ Ngoại giao Anh) và giành điểm cao hơn tất cả. Như vậy, tình báo Xôviết đã có thêm một điệp viên nữa trong Bộ Ngoại giao Anh.
Thực ra thì Cairncross không có cơ hội củng cố tại một vị trí, tới năm 1938, anh đã phải chuyển vị trí công tác qua các phòng Mỹ, phòng phương Tây và phòng trung ương của Bộ Ngoại giao Anh. Về tính chất, khác với các điệp viên khác của "Bộ năm", anh không phải là người quảng giao, rất chật vật trong việc mở quan hệ, Sir John Calwill, bí thư riêng của Churchill, đã đúng khi cho rằng Cairncross là người "rất thông minh, mặc dù đôi khi còn là kẻ buồn tẻ khó hiểu". Thế mà "kẻ buồn tẻ" ấy lại rất giỏi trong việc lấy từ những két sắt và chuyển cho các sĩ quan hoạt động của tình báo Liên Xô những tài liệu bí mật nhất, ông thậm chí còn có điểm yếu là hay lấy nhiều tài liệu nên gây ra nhiều điều bất tiện cho công tác giao thông.
Năm 1938, theo sáng kiến của Trung ương (Cách gọi riêng chỉ trung ương điều hành một cơ quan tình báo. Nói một cách chính xác hơn là bộ phận ra các chỉ thị và nhận báo cáo của các nhân viên tình báo), Cairncross chuyển sang Bộ Tài chính Anh, nơi mà tình báo Xôviết chưa "vươn tới" được, đồng thời là nơi lưu giữ nhiều bí mật không kém gì Foreign Office.
Tiện đây, cũng xin lưu ý rằng, từ năm 1938 đến cuối năm 1940, "Bộ năm" huyền thoại, trong đó có Cairncross, và nhiều điệp viên khác đã bị mất liên lạc với Trung ương vì các sĩ quan tình báo chỉ huy họ đã bị triệu hồi về Moskva và nhiều người trong số đó đã bị xử bắn.
Năm 1940, Cairncross trở thành thư ký riêng của một thành viên nội các là Huân tước Hankey, người được quyền tất cả những tài liệu bí mật nhất của nội các và các bộ chủ chốt. Cairncross vẫn không khắc phục được "nhược điểm" của mình và như người ta thường nói, ông vẫn "khuân đến hàng tấn tài liệu"!
Hankey cũng chỉ đạo một uỷ ban tư vấn khoa học gồm những nhà khoa học nổi tiếng của Anh và điều phối các dự án khoa học liên quan đến quân sự; tin tức tình báo khoa học-kỹ thuật được lấy ra chính từ đây. Điều đáng chú ý là khi chính phủ thời chiến của Churchill hạn chế luồng công điện ngoại giao đến văn phòng Hankey, Hankey và Cairncross đã khiếu nại với Bộ Ngoại giao và thế là biện pháp hạn chế được dỡ bỏ.
Thông tin lấy trực tiếp từ chính phủ thời chiến của Anh có sử dụng cả những bức điện mã hoá của Đức mà Anh chặn thu được đã cho thấy rõ Hitler chuẩn bị chiến tranh chống Liên Xô. Nhưng Stalin đã không tin vào những lời cảnh báo của kẻ thù độc ác nhất của chính quyền Xôviết là Churchill, lý trí mù quáng đã không nghe theo những báo cáo tin từ các điệp viên của ông. Đối với những báo cáo như vậy, Stalin thường viết nhận xét: "Khiêu khích của Anh. Kiểm tra lại!" Việc Hess (Rudolf Hess (1894-1987), nhân vật số hai trong đảng quốc xã của Hitler, trở thành nhân vật số ba của Đế chế thứ ba (Reich), tức nước Đức phát xít, ngay sau Hitler và Goering, vào năm  1939. Chạy sang Anh năm 1941, bị giam cho đến khi Toà án Nuremberg năm 1945-1946 kết án tù chung thân và tự sát năm 1987 trong nhà tù Spandau, Tây Berlin) bí mật bay sang Anh với ý đồ rõ ràng là định ký hiệp ước hoà bình riêng rẽ với nước Anh (cho đến nay, người Anh vẫn chưa công bố tất cả những tư liệu liên quan đến vụ việc này) càng làm cho Stalin thêm nghi ngờ.
Cairncross làm việc với Huân tước Hankey cho đến tận khi vị bộ trưởng này về hưu vào tháng 3 năm 1942, tình báo Xôviết rất hài lòng với hoạt động của Cairncross.
Ngay trong đầu não bộ máy nhà nước Anh  
Cần lưu ý rằng, trong thời gian chiến tranh, do ách chiếm đóng của Đức đối với nhiều nước, do sự đổ vỡ của các trạm tình báo và việc tăng cường truy tìm các điện đài bí mật bằng radar, vấn đề liên lạc với điệp viên đã trở thành vấn đề ưu tiên số một. Do đó, London với lưới điệp viên Xôviết mạnh và đường liên lạc tin cậy qua sứ quán đã trở thành một nguồn cung cấp tin quan trọng, trong đó có cả thông tin về dự án bom nguyên tử. Số phận đã mỉm cười với Cairncross vì anh đã lọt được vào ngay vào đầu não của bộ máy nhà nước - Cục Cơ yếu Anh quốc, nằm ở vùng Bletchley Park và nổi danh về tài "bẻ khoá" mật mã những nước khác. Mặc dù Cairncross chỉ làm việc tại đó có 1 năm với công việc phân tích các bản mật mã chặn thu được của Không quân Đức (Luftwaffe), nhưng sự có mặt của anh lại trùng với cuộc tiến công của Hồng quân.
Chính anh cũng xem thời kỳ đó là giờ phút sáng chói định mệnh của mình. Anh lấy tài liệu từ Bletchley Park để đem về London vào những ngày nghỉ trên chiếc xe ôtô cũ mua bằng tiền của trung tâm điệp báo Liên Xô.
Ngay trước trận đánh ở vòng cung Kursk, Cairncross đã báo tin về bố trí của 17 sân bay Đức để không quân Liên Xô bất ngờ oanh tạc các sân bay này. 500 máy bay Đức đã bị diệt, không thể tính được số chiến sĩ Hồng quân có lẽ đã được cứu mạng nhờ người Scotland dũng cảm này.
Lập dị và ngang ngạnh
Anh khá khó tính, anh không thể dừng lại ở đâu được lâu. Đúng là những lần "thuyên chuyển" của anh diễn ra rất dễ dàng, cứ như là có các tình báo viên Liên Xô đang làm việc ở phòng nhân sự: sau thời gian phục vụ tại Cục Cơ yếu, anh vào làm việc cho tình báo Anh - Cục Tình báo Anh SIS, và anh làm việc ở đây cho đến khi chiến tranh kết thúc.Xếp của anh, David Footman đã thấy ở người thuộc cấp của mình một con người "lập dị và ngang ngạnh", và ông ta đã đúng phần nào: Cairncross không trụ được lâu trong ngành tình báo và trở về Bộ Tài chính, nơi anh đã công tác ở các phòng ban có liên quan với Bộ Quốc phòng Anh. Cairncross nắm được tất cả những bí mật trong việc thành lập và cung cấp tài chính của khối NATO - Bộ Tài chính Anh nuôi sống toàn bộ những huyết mạch của đất nước mà - vì thế tình báo Liên Xô không thấy nuối tiếc về việc Cairncross rời khỏi SIS, hơn nữa tại đó Kim Philby đang hoạt động rất hiệu quả.
Sự tẻ nhạt với tính cách nặng nề không đem lại sự thành đạt lớn về đường công danh, nhưng được cái cứ tháng một lần, anh cung cấp cho trung tâm điệp báo những tài liệu mật. Cũng xin bổ sung là vào năm 1945, khi người ta báo cáo thành tích, nhất là trong thời kỳ chiến tranh, của Cairncross cho Stalin, lãnh tụ Xôviết đã quyết định cấp cho anh khoản tiền hàng năm 1000 bảng Anh - theo thời giá hiện nay là gần 30.000-40.000 đô la Mỹ, đó hoàn toàn chẳng phải là quá nhiều đối với một điệp viên tầm cỡ như thế, hơn nữa, tình báo Liên Xô không phải là cơ quan quen vung vãi tiền bạc.
Nhưng Cairncross đã từ chối nhận tiền. Nói chung thì cả "Bộ năm Cambridge" đều cực kỳ nguyên tắc đối với sự hỗ trợ vật chất, họ làm việc vì Lý tưởng, họ chỉ lấy tiền để chi cho công tác nghiệp vụ.
Trong hồ sơ của Moliere luôn có ý cho rằng, anh đã bất mãn với việc làm cho tình báo Xôviết, cho rằng, anh đã làm được ít. Lương tâm của anh bị cắn rứt vì dường như đóng góp của anh cho chủ nghĩa cộng sản là quá ít ỏi. Nói lên điều đó chính là con người đã dũng cảm và vô tư không vụ lợi trao cho chúng ta vô số những thông tin quý giá nhất! Đó chính là điều ngạc nhiên cho những ai coi sức mạnh đồng tiền là trên hết!
Sấm giữa trời quang
Chuyện không may xảy ra rất bất ngờ, họ cũng đã phỏng đoán là sẽ có việc truy tìm "những con chuột chũi" ở Anh nhưng tất cả đã bắt đầu thật đột ngột.Tất cả các quốc gia kể cả hiện nay cũng đều muốn khám phá mật mã của nước khác. Vào cuối chiến tranh, một số sổ mật mã của Hồng quân mà người Phần Lan bắt được lọt vào tay các nước đồng minh và họ đã nghiên cứu chúng để giải mã các bức mật điện của Liên Xô. Nhân đây cũng xin bổ sung những tin tức chung chung, không chỉ rõ họ tên về các điệp viên Liên Xô do các điệp viên phương Tây và bọn đào ngũ cung cấp.
Vào cuối chiến tranh, các cơ quan cơ yếu của Liên Xô đã phải làm việc với tải rất lớn và các nhân viên cơ yếu đã không luôn luôn tuân thủ những quy định chung về cơ yếu. Có một số trường hợp, người ta đã dùng cùng một trang sổ mã để mã - đó là điều hoàn toàn không được phép.
Như vậy, các cơ quan đặc vụ phương Tây đã có được khoá để giải mã các bức điện của Bộ Dân uỷ Nội vụ Liên Xô (NKVD) (tất nhiên là tất cả các bức điện này đều được ghi từ làn sóng điện vào băng từ) và họ đã bắt đầu công việc ngay sau chiến tranh với chiến dịch mang tên Venona. Tuy nhiên trong các bức điện, họ chỉ đụng phải những tên lóng nên không thể biết được lý lịch và tình hình của các điệp viên. Tình báo phương Tây đã phải mất nhiều năm để giải mã và hệ thống hoá tất cả những tài liệu thu được và cố khoanh vùng những người có quyền tiếp cận đến thông tin và tài liệu mật.
Bại lộ
Mãi đến năm 1951, người ta mới lần ra được một thành viên của "Bộ năm Cambridge" là quan chức ngoại giao cấp cao Donald Maclean. Thật may mắn là Kim Philby đã nắm chắc được tình hình và cảnh báo cho Trung ương và các đồng đội của mình. Maclean và Burgess đã cấp tốc chạy khỏi Anh sang Liên Xô. Anthony Blunt đã lao ngay đến căn hộ chất đầy giấy tờ của Burgess để cố lấy đi tất cả những gì có thể làm lộ anh và các điệp viên còn lại.Khốn nỗi Blunt đã chẳng thể tìm ra trong đống tài liệu hổ lốn mà anh chàng Burgess vốn chẳng bao giờ cẩn thận thu thập những bản ghi các cuộc nói chuyện ở Whitehall do chính tay Cairncross ghi từ trước chiến tranh, và phản gián Anh đã tìm thấy những tài liệu này.Việc theo dõi ngoài gắt gao đối với Cairncross chẳng đem lại kết quả gì, mặc dù, theo kết luận của phản gián, ông có đi liên lạc bí mật, nhưng không bắt quả tang được ông gặp gỡ với tình báo Liên Xô. Trên thực tế, theo hồ sơ của KGB, việc liên lạc vẫn thực hiện được khi thoát khỏi sự giám sát của nguời Anh. Bởi vậy, Trung ương luôn nắm rõ được mọi diễn biến tình hình.
Các cuộc thẩm vấn nặng nề bắt đầu, nhưng ông đã chọn giải pháp đối phó đúng đắn: khẳng định ông không phải là gián điệp Liên Xô, quả thật có đưa cho Burgess các tờ ghi chép, nhưng làm sao ông biết được anh ta có liên hệ với người Nga? Cairncross đã bị đuổi việc mà không được nhận một khoản lương hưu nào, ông sang Mỹ, sau đó tới Roma và ở đó ông làm cho Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc. Sức khoẻ của ông không được tốt, ông có những rối loạn thị giác và thính giác.
Cuộc săn tìm vẫn tiếp tục
Cuộc chạy trốn của Maclean và Burgess, sự bại lộ trên thực tế của Philby, Blunt và Cairncross đã nhấn tình báo Anh xuống bùn đen. Người Mỹ đã tỏ ra e ngại khi làm việc với cơ quan tình báo lẫy lừng này vì họ cho rằng ở đó có nhung nhúc các "con chuột chũi". Tuy vậy, các cơ quan tình báo đã không có đủ tài liệu để chuyển vụ việc sang toà án, hơn nữa họ cũng không quan tâm đến việc công khai rửa sạch bộ mặt của mình. Những người Anh sáng suốt đã quyết định không thổi phồng vụ việc, nhưng vẫn tiếp tục tích cực tìm kiếm các chứng cứ không chỉ về "bộ năm" mà cả về những quan chức Anh đáng ngờ khác, kể cả xếp của chính cơ quan phản gián Anh - Sir Roger Hollis.
Năm 1963, sau khi một tên phản bội của KGB chạy sang phương Tây, Philby đã lẳng lặng sang Liên Xô mà không hề thú nhận gì cả. Thế là kể cả những người đã ngờ vực Philby hoạt động cho tình báo đối phương cũng hiểu rằng, sự kiện này đã gây nên những giông tố trong các cơ quan tình báo: chẳng lẽ không phải là quá láo xược khi mà tất cả những con chim đó, sau khi đã gây ra những hành động tội ác chưa từng có ở nước Anh lại yên ổn chuồn mất ngay trước mũi?
Quỷ tha ma bắt, nếu họ mà còn chẳng đưa được ra toà thì còn có thể lôi được ai nữa!
Trong sự o ép của người Anh
 Năm 1964, phản gián Anh đã sờ đến gáy Anthony Blunt và hứa không mở bất kỳ một cuộc điều tra nào nếu như ông thú nhận và khai ra tên những điệp viên Liên Xô mà ông biết. Blunt đã khai tên Cairncross và King, người đã qua đời. Nhờ vậy, Blunt vẫn giữ được chức vụ cao của mình trong triều đình Hoàng gia Anh.Nhân viên phản gián lừng danh của Anh Arthur Martin đã cấp tốc bay sang Roma và ông cũng hứa bảo đảm quyền bất khả xâm phạm nếu Cairncross thú tội. Cairncross không phủ nhận vai trò của mình, nhưng lại nhấn mạnh rằng, ông làm tất cả là vì lý tưởng chung chống phát xít trong thời gian chiến tranh.
Với Blunt và Cairncross, phản gián Anh hiểu rằng, các cuộc thẩm vấn này chỉ nhằm một mục đích quan trọng hơn là tìm ra những "chuột chũi" còn chưa bị lộ trong bộ máy nhà nước Anh. Người ta đề nghị Cairncross gặp gỡ với đảng viên cộng sản cao tuổi Klougman, người từng là một trong những người tuyển mộ Cairncross và là người đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thiết lập lưới tình báo Xôviết tại Anh. Phản gián Anh muốn thông qua Cairncross để tiếp cận với Klougman và moi từ ông này những cái tên mới, nhưng Klougman đã từ chối cuộc gặp với các nhân viên tình báo Anh.
Hồi kết
Sau đó, những dấu vết của một điệp viên đắt giá dần bị xoá nhoà, báo chí không còn viết về ông nữa, các cơ quan tình báo thấy không còn lý do để tiếp tục thẩm vấn, ông không liên hệ với KGB từ năm 1951, Cairncross lặng lẽ làm việc cho hoạt động của Liên Hiệp Quốc và lấy làm mừng vì không tổn hại gì sau tất cả những rắc rối này.
Tính ông hay bẳn gắt, kín đáo, sở thích là đọc, ông chẳng mấy quan tâm đến người khác.Tuổi già đã đến với ông từ thời còn ở Provence, cũng chính ở đó ông bị bọn báo chí đáng nguyền rủa hành hạ, ông chuyển tới miền Tây Anh để vĩnh biệt cuộc đời.
Ông nghĩ gì trong những năm cuối đời? Ông có tiếc nuối quá khứ không? Ông có vui mừng với cuộc cải tổ ở Liên Xô không? Hay là, trái lại, ông hy vọng một lúc nào đó sẽ có chủ nghĩa cộng sản tràn trề hạnh phúc, cái mà ông đã cống hiến những năm tháng tươi đẹp nhất đời mình? Ông có oán trách không khi tất cả xa lánh, bỏ rơi ông? Hay là ông sống an phận thủ thường với người vợ trẻ, nốc thứ rượu Whisky quê hương, nhổ toẹt vào tất cả những trò gián điệp; bởi vì cuộc sống là một cái mà khi vào tuổi hơn 70 người ta cảm nhận nó sâu sắc hơn khi còn trẻ.
Chúng ta đã không bao giờ biết được về điều đó nữa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét