Thứ Hai, 22 tháng 1, 2018

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 93

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Khám phá sự va chạm giữa các lục địa

Alfred Lothar Wegener và câu chuyện về Thuyết Các Lục Địa Trôi Dạt (Continental Drift)

Alfred Lothar Wegener là cái tên tiếp theo lọt vào Top những "anh tài" mà M21love giới thiệu. Trong quá trình nghiên cứu, Alfred Wegener luôn thể hiện khoa học như một hoạt động tinh mỹ của con người và không phải là cơ chế thu thập tin tức khách quan.

Khi bạn nhìn vào bản đồ thế giới, bạn thấy điều gì ? Nếu bạn nhìn kỹ, bạn sẽ thấy lục địa châu Mỹ và châu Phi tuy xa cách nhau nhưng hai bờ biển lại mang một dáng vẻ như là một mảnh giấy bị tách đôi, có thể gắn lại khít khao ? Vào những năm đầu 1900, một nhà địa chất, tên là Alfred Wegener, sau khi quan sát và suy nghiệm, ông đã cho ra lý thuyết các lục địa trôi dạt, và vào thuở ban đầu, các lục địa là một mảnh đất vĩ đại gắn liền nhau, mang tên là Pangea.

Alfred Lothar Wegener (1 tháng 11, 1880 – 3 tháng 11, 1930) là một nhà nghiên cứu khoa học đa lĩnh vực người Đức, ông trở nên nổi tiếng với học thuyết trôi dạt lục địa.


Alfred Wegener là người khởi đầu cho thuyết trôi dạt lục địa được trình bày trong tác phẩm "Sự hình thành của lục địa và đại dương". Ông không ngừng nỗ lực khôi phục vật lý địa cầu, địa lý học, khí tượng học và các bộ môn liên quan đến địa chất, các vấn đề được mổ xẻ phân tích và chuyên môn hoá, kết hợp các phương pháp lại để luận chứng cho thuyết trôi dạt lục địa. 

Do trình độ khoa học đương thời còn có nhiều hạn chế nên thuyết trôi dạt lục địa của ông còn thiếu sự kết hợp bổ trợ thích hợp của động lực học vật lý và trái ngược với những lý thuyết chính thống. Nhưng lý thuyết của Alfred Wegener đã vượt qua lý luận của thời đại và khiến chúng ta phải khâm phục. Sau 30 năm, "cấu tạo địa tầng học" đã đến được toàn thế giới, cuối cùng mọi người đã chứng nhận sự đúng đắn trong lý thuyết của Alfred Wegener.

Trôi dạt lục địa là sự chuyển động tương đối với nhau của các lục địa trên Trái Đất. Lý thuyết trôi dạt lục địa được Alfred Wegener đưa ra lần đầu tiên năm 1912 và tồn tại cho đến khi nó được thay thế bởi lý thuyết kiến tạo mảng.

Năm 1912, Alfred Wegener đã nhận thấy rằng hình dáng của các lục địa ở hai bên bờ của Đại Tây Dương có thể được xếp khít vào nhau (ví dụ Châu Phi và Nam Mỹ). Sau đó, Benjamin Franklin cũng có nhận xét tương tự. Sự tương đồng giữa các cấu trúc địa lý và hóa thạch ở các lục địa làm cho các nhà địa chất, vào năm 1900, cho rằng các lục địa đã từng xuất phát từ một "siêu lục địa" với cái tên là Pangaea. 

Ban đầu, giả thuyết đó không được chấp nhận rộng rãi vì người ta không hiểu tại sao các lục địa lại có thể trôi dạt ra xa nhau. Cho đến tận thập niên 1950 nó mới được chấp nhận ở Châu Âu và phải đến thập niên 1960 nó mới được chấp nhận ở Bắc Mỹ. Giả thuyết trôi dạt lục địa trở thành một bộ phận của một lý thuyết lớn hơn là lý thuyết kiến tạo mảng.

Wegener, khi nhìn thấy hai châu Mỹ và Phi, đã tưởng tượng là nếu ông bỏ đi Đại Tây Dương, đem hai châu lại gần nhau, thì giống như tấm tranh nhiều mảnh nhỏ, hai mảnh đại lục này nằm sát bên nhau vừa vặn.

Dựa vào những quan sát cặn kẽ, Wegener nhận thấy rằng cỏ cây, xương hóa thạch ở hai bên lục địa châu Phi và châu Mỹ đều giống nhau. Điều đó chứng tỏ là ngày xưa, hai lục địa này là một, bởi thế mới có hiện tượng có những cây cỏ, xương thú hóa thạch giống nhau. Dĩ nhiên là các con vật này không thể lội biển từ bên này qua bên kia được. Nếu không có lý thuyết Các Lục Địa Trôi Dạt, hiện tượng này khó có thể được giải thích. Ngoài ra, Wegener cũng nhận thấy là ở hai lục địa có những loại đá giống nhau, và những chứng có khí hậu giống nhau ở thời xa xưa cũng được tìm thấy trên nhiều lục địa.  Một trong những bằng cớ hùng hồn nữa là các lối đi của những băng đá (glacier), nếu để riêng rẽ, thật không thể giải thích được, nhưng khi bỏ tất cả những lục địa trở lại hình thể nguyên thủy, các lối chảy của các băng rõ ràng là xuất phát từ một tụ điểm.


Sự Tan Rã Của Đại Lục Pangea : Alfred Lothar Wegener tin rằng mọi đại lục đều bắt nguồn từ một siêu lục địa, mà ông đã gọi là Pangea, có nghĩa là “Toàn Bộ Đất”, Pangea có khoảng 245 triệu năm trước.  Một trong nguyên nhân khiến siêu lục địa này tan rã là vì phần đất dưới đáy biển tiếp tục mở rộng và đưa các lục địa ra xa nhau.

Khi Wegener đưa ra lý thuyết Lục Địa Trôi Dạt, các nhà khoa học gia khác không nhìn nhận giả thuyết của ông. Họ hỏi là, sức mạnh thiên nhiên nào có thể di chuyển cả một lục địa ? Vào thời Wegener còn sống, không ai có thể trả lời câu hỏi đó. Mãi tới nhiều năm sau đó người ta mới có thể giải thích được nhờ những chứng cớ mới tìm thấy.

Các nhà khoa học gia nhận thấy là ở giữa lòng Đại Tây Dương có một dãy núi ngầm dưới biển. Chính ở nơi đây đã xảy ra việc mặt đất dưới biển mở lớn ra vì những mảng đất trôi, chúng chạy tách xa nhau gây nên những kẻ hở vĩ đại và nham thạch trồi lên lấp kín.

Một chứng cớ nữa là cục nam châm của địa cầu trong suốt chiều dài của lịch sử trái đất đã thay đổi, không phải luôn luôn kim nam châm cũng hướng về hướng bắc. Sự thay đổi này xảy ra nhiều lần. Những bằng chứng tìm được trong đá (rock) cho ghi nhận hướng của từ trường trái đất. Chứng cớ này cho thấy là việc mặt đất dưới biển đang phát triển rộng ra là điều có thật.

Các mảng kiến tạo và sự trôi dạt lục địa trên Trái Đất

  • 1 2 3 4 5
  • 2.920
Quá trình tương tác giữa các mảng kiến tạo, một phần vỏ Trái Đất, là nguyên nhân tạo ra những ngọn núi lửa, động đất và nhiều hiện tượng địa chất khác.
Quá trình đối lưu đá nóng chảy trong lớp manti tạo ra sự chuyển động của các mảng kiến tạo.
Quá trình đối lưu đá nóng chảy trong lớp manti tạo ra sự chuyển động của các mảng kiến tạo.
Hình dạng của những lục địa trong quá khứ khoog giống với hiện nay.
Hình dạng của những lục địa trong quá khứ khoog giống với hiện nay.
Sự va chạm giữa các mảng kiến tạo gây ra động đất.
Sự va chạm giữa các mảng kiến tạo gây ra động đất.
Cập nhật: 21/05/2016 Theo VnExpress

Vỏ trứng hóa thạch của đà điểu khẳng định thuyết trôi dạt lục địa

In bài viết
  Theo tạp chí PLOS ONE, họ hàng của loài đà điểu từng sống tại Ấn Độ 25.000 năm trước đây.
Các nhà khoa học đã khẳng định như vậy trong một công trình nghiên cứu vừa công bố, các kết quả xét nghiệm ADN trong các vỏ trứng đà điểu đã xác nhận một số khía cạnh của lý thuyết trôi dạt lục địa.
Phân tích các vỏ trứng hóa thạch được phát hiện ở Ấn Độ cho thấy rằng đó là vỏ trứng của họ hàng xa xưa của đà điểu. Nhưng quê hương của đà điểu vẫn được giới khoa học coi là lục địa châu Phi, vốn không kết nối với lục địa Âu Á.
Điều này khẳng định lý thuyết trôi dạt lục địa, ban đầu tồn tại siêu lục địa Gondwana, sau đó, siêu lục địa mới chia thành châu Phi, Nam Mỹ, Nam Cực, Úc, Madagascar, Ấn Độ, New Zealand và Ả Rập.
Có lẽ tổ tiên của loài đà điểu đã sống ở châu lục Gondwana này trước khi nó tách ra.
Trước đây, các nhà nghiên cứu khác đã từng nêu giả thiết rằng những con đà điểu có thể đã sống ở Ấn Độ, nhưng bằng chứng cho lý thuyết này là chưa đủ. Những mảnh vỡ của vỏ trứng được tìm thấy trước đây tương tự như vỏ trứng đà điểu, nhưng trong đó không có đủ ADN để phân tích.
Còn bây giờ, giả thiết này đã được chứng minh ở cấp độ phân tử.
Vũ Trung Hương
 
Va Chạm Giữa Các Lục Địa
 

Lục địa bí ẩn Zealandia

08:16 17/08/2017

Những nhà địa chất học từ Đại học Texas, Mỹ cho rằng các lục địa trên bề mặt Trái đất trôi nổi rất bất thường và khó có thể hình dung ra vị trí của chúng trong quá khứ cũng như trong tương lai. 

Siêu lục địa sẽ lại xuất hiện trên Trái Đất

Siêu lục địa sẽ lại xuất hiện trên Trái Đất
(PLO)- Các nhà khoa học dự đoán rằng một lục địa mới, Amasia, sẽ hình thành trong 250 triệu năm nữa
Theo Daily Mail, các nhà khoa học từ ĐH Tổng hợp Yale và Cơ quan Khoa học công nghệ đại dương của Nhật Bản cho biết trong 250 triệu năm nữa,
Bắc và Nam Mỹ sẽ xích gần nhau, biển Caribe và Bắc Băng Dương sẽ biến mất trong khi châu Á và châu Mỹ sẽ cùng nhập lại, kết quả là xuất hiện một siêu lục địa mới có tên Amasia.
Điều này diễn ra là do sự chuyển động của các mảng kiến tạo trên Trái đất. Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Nature dựa trên lý thuyết Orthoversion. Nghĩa là sau khi siêu lục địa bị tách rời, các lục địa trội dạt tách rời nhau nhưng bị kẹt lại ở một vành đai, nơi mảng kiến tạo chồng lên nhau. Trên Trái đất của chúng ta hiện nay, dải phân cách này chính là Vành đai lửa Thái Bình Dương, nơi siêu lục địa mới nói trên sẽ hình thành.
trái đất
Trái đất sau 250 triệu năm nữa sẽ có hình gì? Ảnh: Daily Mail
Để kiểm tra mô hình này, các nhà khoa học đã sử dụng dữ liệu cổ địa từ (paleomagnetic data) để nghiên cứu các biến đổi của Trái đất khi nó tự quay quanh trục của nó.

Những biến đổi được biết là TPW (true polar wander), được tạo nên do sự thay đổi trong phân bố khối lượng của Trái đất. Những thay đổi này diễn ra trong hàng triệu năm thông qua quá trình quay và tự điều chỉnh cân bằng khi quay quanh trục của Trái đất.
Khi kết hợp các dữ liệu này lại, các nhà khoa học đã có thể dự đoán về siêu lục địa Amasia.
Bắc Mỹ và Nam Mỹ sẽ xích lại gần nhau dẫn đến sự mất đi của Bắc Băng Dương và biển Caribe. Khi Bắc và Nam Mỹ cùng di chuyển về phía Bắc để sáp nhập với nhau thì châu Âu và châu Á cũng sẽ xảy ra một cuộc đụng độ.
“Sau khi những lục địa này xích lại gần nhau, siêu lục địa mới sẽ dần hình thành. Châu Mỹ và châu Á-Âu sẽ gặp nhau tại Bắc Cực” - tác giả chính của cuộc nghiên cứu, TS Ross Mitchell cho biết.
Siêu lục địa gần đây nhất là Pangaea hình thành từ cách đây khoảng 300 triệu năm. Trung tâm của Pangaea là châu Phi ngày nay.
trái đấtSau 250 triệu năm nữa, một siêu lục địa mới sẽ hình thành có tên Amasia. Ảnh: Daily Mail
Siêu lục địa này bắt đầu nứt gãy và phân tách thành các lục địa như ngày nay và hình thành nên Băng Bắc Dương vào khoảng 100 triệu năm sau đó. Các nhà nghiên cứu cho rằng Pangaea là siêu lục thứ ba hoặc thứ tư trong lịch sử Trái đất. Trước đó là siêu lục địa Rodinia, hình thành khoảng 1 tỉ năm trước và siêu lục địa Nuna, hình thành khoảng 1,8 triệu năm trước.
Ý tưởng lục địa trôi dạt được nhà khoa học Đức Alfred Wegener giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1912. Ông đã giải thích lý do tại sao những châu lục này trông giống như những mảnh ghép nằm rải rác trên bản đồ thế giới.
Bề mặt Trái đất được cấu thành từ bảy mảng kiến tạo chính và chúng di chuyển với các tốc độ khác nhau từ vài mm đến khoảng 2 cm một năm, tương đương tốc độ phát triển của móng tay người. Khi các mảng kiến tạo va vào nhau gây ra động đất.
THÁI LAI

Trên Trái đất sẽ có thêm một lục địa mới nhưng biến mất một đại dương

© AFP 2018/ Jerry Lampen
Khoa học
URL rút ngắn
0 0 0
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Tổng hợp Yale và Cơ quan Khoa học và Công nghệ Đại dương-Trái đất của Nhật Bản với sự hỗ trợ của thiết bị mô phỏng đã cho thấy diện mạo Trái đất sau 250 triệu năm nữa.
Các trích đoạn của báo cáo này được công bố trên tạp chí Nature, — Daily Mail dẫn.
Những kết luận chính mà các chuyên gia đạt được là như sau: Bắc và Nam Mỹ sẽ xích gần nhau hơn, ngoài ra, cả châu Á cũng trở thành tiếp giáp, kết quả  sẽ là xuất hiện một siêu lục địa mới — Amasya. Do hệ  quả của việc này biển Caribe và Bắc Băng Dương sẽ biến mất.
Các nhà khoa học giải thích rằng bản đồ thế giới thay đổi nhanh chóng như vậy do sự chuyển động của các mảng kiến ​​tạo Trái đất. Ý tưởng lục địa trôi dạt được nhà khoa học Đức Alfred Wegener nêu ra lần đầu tiên vào năm 1912, khi ông đã cố gắng giải thích lý do tại sao trên bản đồ Trái đất những châu lục này trông giống như những mảnh nằm vỡ rải rác của một bức tranh lắp ghép.
Nếu tin theo giả thuyết khoa học, lục địa cuối cùng đã tồn tại trên Trái đất được gọi là Pangaea, và nó hình thành từ khoảng 300 triệu năm trước đây. Ở trung tâm của Pangaea có châu Phi ngày nay. Các nhà nghiên cứu cho rằng Pangea là siêu lục thứ ba hay thứ tư trong lịch sử Trái đất.



Lục địa trôi dạt được phát hiện ra như thế nào?

đã trả lời 1 Tháng 3, 2015 bởi tearryo Thiếu tá (4,290 điểm)
bằng chứng về sự trôi dạt của các lục địa hiện nay rất nhiều. Các hóa thạch động thực vật có tuổi như nhau (ví dụ hóa thạch của một loại cá sấu được tìm thấy ở Brasil và Nam Phi) được tìm thấy ở bờ của các lục địa cho thấy rằng chúng đã từng có một nguồn gốc chung.
Hình dáng các bờ của Nam Mỹ và Châu Phi có thể xếp khít lại được với nhau. Trong hàng triệu năm, đáy biển bị di chuyển, các lục địa bị trôi dạt và lực kiến tạo mảng (tectonophysics) sẽ làm cho các lục địa rời xa nhau hơn và xoay hai lục địa này. Đó là điều mà Alfred Wegener nghiên cứu và đưa ra giả thuyết của ông.
Trước khi có nhiều bằng chứng địa lý học thu thập được từ sau Đệ nhị thế chiến, ý tưởng về sự trôi dạt của các lục địa đã từng gây ra tranh cãi nảy lửa giữa các nhà khoa học. Ngày 15 tháng 11 năm 1926, Hiệp hội Địa chất Dầu mỏ Mỹ (AAPG) mở một hội thảo, trong đó bàn cãi về thuyết lục địa trôi dạt. Kết quả là tập các bài báo ra đời năm 1928 với tên Lý thuyết về trôi dạt lục địa (Theory of continental drift). Wegener cũng viết bài cho tập này.

Vấn đề gây khó hiểu nhất trong lý thuyết của Wegener là các lục địa bị "đào xới" lên từ nền đá của các đại dương. Đa số các nhà địa chất học đã không tin như vậy. Thuyết kiến tạo mảng, một phiên bản cập nhật hiện đại cho ý tưởng của Wegener, giải nghĩa chuyển động của các lục địa thông qua sự tách giãn đáy đại dương. Các lớp đá mới được hình thành nhờ hoạt động của núi lửa ở các dãy núi giữa các đại dương và sẽ quay trở về vỏ Trái Đất tại các vực sâu của đại dương. Đáng chú ý là, trong tập bài báo xuất bản năm 1928 của AAPG, G. A. F. Molengraaf làm việc tại Viện Công nghệ Delft (nay là Đại học Công nghệ Delft) đã đề xuất một mô hình về tách giãn đáy đại dương khi miêu tả sự mở rộng của Đại Tây Dương và đới tách giãn Đông Phi. Giả thuyết này vẫn cần kiểm tra thêm bằng các bằng chứng thực nghiệm.

SỰ HÌNH THÀNH CÁC LỤC ĐỊA VÀ ĐẠI DƯƠNG. THUYẾT KIẾN TẠO MẢNG

1 - Vài nét khái quát về hiện tượng di chuyển các lục địa
Hiện này đa số các nhà Bác học về Trái đất đã đi đến kết luận là, các lục địa cũng như đại dương đều chuyển động không ngừng và thay đổi vị trí cho nhau. Ở rìa các lục địa và đại dương người ta thấy có chỗ thì ép lên nhau, có chỗ lại giãn ra. Những hố sâu đại dương lại nằm ở rìa lục địa, trong khi đó ở giữa đại đương lại phát hiện thấy các dãy núi cao. Bờ biển phía Tây Châu Mỹ và bờ biển phía Đông Châu Phi rất giống nhau. Những sự kiện đó làm cho mọi người đều phải suy nghĩ. Các lục địa chuyển động khi va vào nhau tạo thành những dãy núi cao, lúc giãn ra tạo thành những đại dương mới. Sự “gặp gỡ”, cũng như sự ''ly dị'' đó của các lục địa thường xảy ra nhiều hậu quả như động đất và núi lửa tạo thành các đại dương mới và sự biến mất các đại dương cũ. Luận thuyết ''kiến tạo mảng" tức là luận thuyết bàn về chuyển động của các mảng lục địa và đại dương mới ra đời vào khoảng 30 năm nay nhưng đã có tiếng vang lớn trên toàn thế giới vì rằng nghiên cứu sự di chuyển của các mảng vỏ Trái đất có ý nghĩa khoa học và thực tiễn vô cùng lớn lao.
Luận thuyết này cho chúng ta chiếc chìa khóa quý báu để nghiên cứu sự tiến hóa của vỏ Trái đất cũng như nguồn gốc các đại dương. Ý nghĩa to lớn của luận thuyết này là hiện nay các chuyên gia đã dựa vào nó để tìm ra các mỏ quý ở trên lục địa, dưới đáy đại dương cũng như ở thềm lục địa. Đồng thời dựa vào luận thuyết này, chúng ta có thể đoán trước được động đất và vị trí trong tương lai của các lục địa và đại dương.
Ít người dám nghĩ rằng lục địa Châu Phi và Nam Mỹ, lãnh thổ Ấn Độ, châu Úc và Nam cực trước kia là một. Đầu thế kỷ XX, những ý nghĩ tương tự được xem như là hoang đường. Ngày nay, nhờ kiến thức mới về cấu tạo hành tinh của chúng ta, lời tiên đoán đó được xem như hoàn toàn đúng.
Năm 1912, nhà Bác học Đức A. Wegenner, (1880-1930) đã nêu lên sự di chuyển của các lục địa. Mặc dù một số nhà Bác học thế kỷ XIX đã nêu lên khả năng đó, nhưng Wegenner là người đầu tiên đã đưa ra một giả thuyết tương đối chắc chắn về sự di chuyển các lục địa.
Với mục đích phổ biến rộng rãi học thuyết của mình, nhà Bác học đã cắt các lục địa từ bản đồ địa lý và xếp chúng lại với nhau thành một lục địa thống nhất. Wegenner gọi lục địa thống nhất đó là lục địa Panghea. Wegenner cho rằng lục địa Panghea bắt đầu bị rứt ra từng mảng vào đầu thời kỳ xuất hiện giống thằn lằn kinh khủng (còn gọi là khủng long) tức là vào khoảng 150 triệu năm trước đây. Trong giai đoạn đầu, lục địa Panghea bị tách ra thành hai lục địa cổ là Gonđvana và Lauraxia. Lục địa Lauraxia bao gồm Bắc Mỹ và Âu, Á; lục địa Gonđvana gồm có Châu Nam Cực, Châu Úc, Ấn Độ, Châu Phi và Nam Mỹ. Về sau Châu Phi và Nam Mỹ lại bị tách ra và tạo thành Đại Tây Dương.
Lúc đầu luận thuyết Wegenner được các nhà chuyên môn đánh giá như là một giả thuyết không có cơ sở. Người ta đối xử với nó giống như giả thuyết Quả đất quay xung quanh Mặt trời và Quả đất không phải trung tâm Vũ trụ của Galilée (Galilê, 1564-1642). Sử chép rằng khi các nhà truyền đạo bắt Galilée phải quỳ xuống tuyên thệ từ bỏ luận thuyết của mình trước tượng Chúa, khi đứng dậy Galilée đá nói thầm: “Dù sao Trái đất vẫn quay!”.
Vô số các số liệu mới đã chứng tỏ rằng, các lục địa vẫn chuyển động và phạm vi chuyển động của chúng còn lớn hơn dự đoán của Wegener nhiều. Vả lại không những các lục địa di chuyển mà các đại dương cùng với lục địa cũng chuyển động. Nếu như trong luận thuyết của Wegener, các lục địa được xem như những con tàu còn đại dương được xem như những đường ray thì luận thuyết kiến tạo mảng hiện nay xem lục địa như hành khách còn đại dương được xem như những con tàu. Khi con tàu di chuyển thì mang theo luôn  hành khách.
Theo luận thuyết mới, bề mặt rắn chắc của Trái đất được chia làm sáu mảng không bằng nhau. Mảng Thái Bình Dương chỉ gồm có đáy đại dương. Những mảng khác vừa có đáy đại dương vừa có lục địa thí dụ Bắc Mỹ và phía Tây - Bắc Đại Dương tạo thành một mảng kéo dài từ Aixơlen (nằm giữa Grơnlen và Tây Âu) đến tận Sanfrancisco (cảng lớn phía Tây Hoa Kỳ).
Có thể ví hành tinh của chúng ta như quả táo. Nhân quả đất rắn hơn lớp vỏ bao quanh và có lẽ bao gồm sắt, vàng và niken. Vì thế cho nên người ta gọi nhân Trái đất là Ni, Fe, Au. Phần ngoài nhân có lẽ bị nóng chảy và do đó ở thể lỏng, còn phía trong cùng vì áp suất quá lớn vẫn ở trong trạng thái rắn. Vỏ Trái đất chia làm hai phần: phần bao quanh nhân gọi là lớp áo trong hay theo thuật ngữ khoa học là lớp Manti bao gồm Silic và Manhê cho nên còn gọi là lớp Sima, còn lớp vỏ ngoài kể cả mặt đất và đáy đại dương bao gồm Silic và Nhôm nên còn gọi là lớp Sial. Phần ngoài của lớp Manti ở trạng thái mềm và dẻo cho nên các nhà Bác học đặt tên là quyển mềm. Quyển mềm dày chừng 150 kilômet. Chính quyển mềm được xem như bề mặt trượt của các lục địa và đại dương. Nói cách khác, đáy đại dương và lục địa được trượt trên quyển mềm theo chiều hướng khác nhau.
2. Một số sự kiện thú vị và kỳ lạ
Trong thế kỷ thứ XX, loài người đã phát hiện ra một số nghịch lý sau đây:
a) Về khí hậu: các nhà Bác học từ xưa tới nay đều ngạc nhiên, tại sao lại có sự thay đổi khí hậu kỳ lạ như vậy trên các miền khác nhau của thế giới. Thí dụ quần đảo Xpitxbeghen (thuộc Na Uy) nằm ở Bắc Băng Dương lại giàu than đá tức là trước kia đã tồn tại nhiều thực vật kiểu nhiệt đới: ở xung quanh Grơnlen cũng nằm ở Bắc Băng Dương lại có nhiều đảo san hô tạo thành từ xưa. Như ta đã biết các đảo san hô có nguồn gốc ở các biển nhiệt đới (ở Vịnh Hạ Long nước ta hiện nay san hô phát triển rất nhiều). Ở Nam Cực người ta tìm thấy khá nhiều cây nhiệt đới đã hóa đá chứng tỏ lục địa này: trước kia đã tồn tại một loại rừng kiểu nhiệt đới. Trong lúc đó, ở miền xích đạo Châu Phi người ta lại tìm thấy dấu vết của các thời kỳ băng hà xưa còn lại. Những hiện tượng này trước kia không giải thích được. Ngày nay nhờ thuyết kiến tạo toàn cầu còn gọi là thuyết kiến tạo mảng hoặc thuyết tách giãn đáy đại dương hay gọi một cách nôm na là thuyết di chuyển các lục địa và đại dương, người ta có thể lập lại các vị trí của các lục địa trong không gian theo từng thời gian.
b) Về động vật: về động vật, cũng có nhiều hiện tượng thú vị. Như ta đã biết con
kanguru (con vật có túi nuôi con) phát sinh từ Châu Mỹ nhưng bây giờ chúng lại phát triển ở Châu Úc. Trong lúc đó, ở Châu Á lại không tìm thấy con kanguru nào để chứng tỏ nó đã di cư từ Châu Mỹ qua Châu Á đến Châu Úc.
c) Về đường viền lục địa: từ xưa đến nay các nhà địa chất và địa lý đều nhận thấy sự giống nhau của các đường viền lục địa bị Đại Tây Dương ngăn cách. Bờ Đông Nam Mỹ và bờ Tây Châu phi đã được ghép khít lại ở độ sâu 1000 mét. Chúng khít nhau đến nỗi nhà Bác học Nga Viện sĩ A.N.Kônmôgốrôv đã nói ''Hai châu lục địa Nam Mỹ và Châu phi trước kia là một”.
d) Về các dãy núi giữa đại dương: giây phút đột biến về lịch sử nghiên cứu cấu trúc vỏ trái đất xảy ra cách đây khoảng 45 năm khi người ta phát hiện ra rằng ở giữa đại dương không phải là các vực thẳm mà lại là các dãy núi ngầm. Các dãy núi này được gọi là các dãy núi giữa đại dương. Ngược lại, người ta lại phát hiện các hố nước sâu chạy ven lục địa. Chỗ sâu nhất của các đại dương trên thế giới là 11,033 kilômét đo được ở máng nước sâu Marian (144 độ kinh Đông, 11 độ vĩ Bắc, tức là cùng một vĩ độ với thành phố Hồ Chí Minh và cách thành phố Hồ Chí Minh 315 kilômét về phía Đông). Các hố nước sâu nằm cạnh vành đai núi lửa chạy quanh Thái Bình Dương.
e) Về khối lượng nước và diện tích các đại dương:
Một sự kiện mà không ai để ý nhưng lại rất quan trọng: đó là khối lượng nước và  diện tích các đại dương được giữ nguyên trong hàng trăm triệu năm. Mực nước biển tất nhiên thay đổi theo thời gian. Trước kia trong thời đại băng hà, khi mà một khối lượng lớn nước đã đống bằng trên các lục địa, mực nước biển đã thấp hơn hiện nay và ngày xưa các thềm lục địa Châu Âu và Bắc Mỹ không bị nước biển bao phủ và đã lộ ra trên mặt đất. Trong các thời kỳ biển tiến, biển có lúc đã tiến lên các đồng bằng gần biển nhưng chưa bao giờ phủ toàn bộ các lục địa. Chúng ta chưa biết tại sao có động lực cân bằng đó. Chúng ta có thể nghĩ rằng, nước đã được giải phóng từ phần trong của Trái đất và đo đó biển đã được mở rộng hoặc ngược lại trên bề mặt biển nước đã phân hóa thành Hyđrô và Ôxy và một phần Hyđrô đã bay hơi và do đó, làm cho biển ngày càng cạn dần. Tuy nhiên các quá trình đó có lẽ cân bằng nhau làm cho khối lượng nước đại dương không bị thay đổi.
3. Đại Tây Dương ngày càng mở rộng, Thái Bình Dương ngày càng hẹp dần.
Như trên đã nói, vỏ Trái đất được chia thành sáu mảng lớn và chuyển động ngược hướng nhau. Khi hai mảng rời khỏi nhau thì đáy đại dương được tách ra theo các dãy núi giữa đại dương. Dãy núi giữa đại dương kéo dài từ Bắc cực về Nam cực và được lặp lại đường bờ biển phía Đông Châu Mỹ và phía Tây Châu Phi. Dãy núi này ngày càng bị tách ra và Đại Tây Dương, do đó, ngày càng mở rộng, New York và Paris cũng như Nam Mỹ và Châu Phi ngày càng cách xa nhau. Khi đáy đại dương được tách ra, các vật liệu dưới lòng đất được phun lên lấp đầy kẽ hở đó .
Khi hai mảng chuyển động tiến sát vào nhau thì gây ra hiện tượng trượt. Mảng Thái Bình Dương tiến vào mảng Á, Âu. Khi tiên sát đến rìa lục địa mảng Thái Bình Dương đã chui xuống mảng Á - Âu và tạo ra vành đai núi lửa phía Đông Thái Bình Dương chạy dọc từ Camtrátca thuộc Nga xuống Nhật Bản và chạy dài xuống tận phía Tây Châu Úc. Cũng tương tự như vậy mảng phía Tây Thái Bình Dương tiến sát vào lục địa Châu Mỹ và chui xuống rìa phía Tây Châu Mỹ. Hậu quả của sự trượt lục địa lên đại dương đó đã tạo ra vành đai núi lửa chạy đọc theo bờ biển phía Tây Thái Bình Dương.
Chính sự trượt các mảng kiến tạo ở khu vực Thái Bình Dương đã thường sinh ra động đất ở Nhật Bản và Philippines. Mới đây, ngày 7-1-1995, trận động đất khủng khiếp ở cảng Kobe (Nhật Bản) làm 5400 người chết, 22.000 người bị thương, hàng nghìn nhà cửa bị phá huỷ, 10 vạn người vô gia cư, gây thiệt hại cực kỳ nặng nề, ước tính khoảng 30 tỷ đô la.
Vỏ Trái đất được giãn ra chỗ này và bị co lại hay nói cách khác bị chui xuống hoặc trượt lên chỗ kia cho nên cuối cùng khối lượng Trái đất vẫn giữ nguyên. Nói cách khác, khi đại dương được mở rộng, tức là Âu, Á ngày càng xa Bắc Mỹ thì trong lúc đó Thái Bình Dương ngày càng hẹp dần. Ở giữa Thái Bình Dương, đáy đại dương vẫn ngày càng mở rộng. Nhưng tốc độ tách giãn đáy Thái Bình Dương bé hơn tốc độ bị lún chìm ở hai bên bờ Thái Bình Dương cho nên kết quả cuối cùng diện tích Thái Bình Dương ngày càng hẹp lại.
4. Vì sao có dãy núi Himalaya hùng vĩ?
Nếu như hai mảng là hai lục địa tiến sát vào nhau thì hậu quả ra sao? Vì hai mảng đều là lục địa, tức là đều bao gồm vật chất Sial nhẹ thì lúc đó sẽ bị nén vào nhau và bị nâng lên cao tạo ra những mái nhà của thế giới như các dãy núi Himalaya ở Châu Á, Alpes ở Châu Âu, Ural ở giữa Âu - Á, Appalash ở Châu Mỹ. Himalaya được tạo thành khi Ấn Độ tiến sát vào Châu Á, Alpes được nâng lên khi Châu Phi đụng vào đuôi phía Nam Châu Âu, dãy Ural hình thành khi Âu - Á gặp nhau, còn Alpes phát sinh do đáy Đại Tây Dương nén vào Đông Bắc Châu Mỹ. Hiện nay, dãy núi Himalaya ngày càng cao dần, chứng tỏ Ấn Độ còn đang dịch chuyển về phía Bắc.
5. Động lực nào đã chuyển động các lục địa?
Rất đáng tiếc là hiện nay, chúng ta chưa biết được động lực nào đã gây ra sự chuyển động các lục địa. Có giả thuyết cho rằng, những dòng chảy do đối lưu nhiệt trong manti Trái đất là nguyên nhân chính của sự dịch chuyển các mảng. Dòng nhiệt đối lưu đó dưới các dãy núi giữa đại dương có khuynh hướng đi lên, còn dưới các máng nước sâu đại dương ở ven rìa lục địa có khuynh hướng đi xuống và dưới các mảng thì chúng nằm ngang.
Tại sao trong khi động lực chuyển động các mảng chưa biết mà luận thuyết này lại có tiếng vang lớn đến như vậy? Trên thế giới, có ba tập san khoa học lớn nhất là tạp chí Báo cáo của Viện Hàn lâm khoa học Liên Bang Nga (DANFR), tạp chí Thiên nhiên (NATURE) của Anh và Tạp chí Khoa học (Sciences) của Mỹ. Chỉ riêng tập san Nature của Anh, trong năm 1971 in 69 công trình thì 26 công trình bàn về luận thuyết kiến tạo toàn cầu. Theo tài liệu của Viện Hàn lâm khoa học Liên bang Nga, trong năm 1994, trên toàn thế giới đã công bố 366 công trình về kiến tạo mảng, tức là trung bình mỗi ngày một công trình. Tất cả các báo hàng ngày của các nước tiên tiến đã và đang tiếp tục đăng dưới dạng phổ cập luận thuyết này. Riêng Việt Nam ta có vị trí kiến tạo trung tâm vừa nằm giữa đại lục Gônđvana và Lauraxia, vừa nằm giữa múi Thái Bình Dương và múi lục địa thì việc hiểu biết luận thuyết này lại càng quan trọng.
Hiện nay, luận thuyết kiến tạo mảng hay còn gọi là luận thuyết tách giãn đáy đại dương là luận thuyết dẫn đầu trong ngành khoa học về Trái đất. Lần đầu tiên trong ngành địa chất, một luận thuyết được đề nghị đưa ra để xét tặng giải Nobel.
6. Sự thay đổi cực từ trong quá khứ
Từ đầu thế kỷ XX này, người ta đã biết rằng các phần tử sắt chứa trong đất sét, trong dung nham núi lửa và trong các vật liệu khác, khi nung nóng đến một nhiệt độ nhất định, sẽ phân bố phù hợp bởi từ trường của Trái đất. Khi để nguội, các phần tử sắt có dạng những kim nam châm nhỏ không chuyển động. Như vậy, những phần tử này đã chỉ hướng từ trường của Trái đất trong thời gian và trên địa điểm mà chúng bị nung nóng cách đây hàng nghìn hay hàng triệu năm.
Trên cơ sở phân tích từ dư trong đất đá lấy ở các đảo và lục địa, người ta đã tìm ra hàng loạt các phát minh quan trọng. Một trong những phát minh đó là đã xác định một cách chắc chắn rằng cực từ trong quá khứ đã “đi du lịch”. Và quan trọng hơn nữa hướng từ trường trong đất đá Châu Âu và Bắc Mỹ lại chỉ ra những vị trí khác nhau của cực từ Bắc cũng như cuộc “hành trình du lịch”  khác nhau của nó. Và chỉ khi chúng ta nhập hai lục địa này làm một rồi sau đó cho chúng tách ra thì cuộc hành trình du lịch của cực từ Bắc mới trùng hợp.
Một phát minh quan trọng nữa do các nhà Bác học mới phát hiện là trong mấy triệu năm gần đây từ trường Trái đất đã thay đổi ít nhất là 16 lần (cực Bắc đổi thành cực Nam và ngược lại). Nguyên nhân của những sự đảo cực từ đó không rõ. Dù sao chăng nữa, những hiện tượng này có liên quan đến cấu tạo nhân của Trái đất.
Nghiên cứu các mẫu đá khoan được ở đáy Thái Bình Dương, các nhà khoa học Nga và Mỹ đã phát hiện hàng loạt dải nhiễm từ song song từ Bắc xuống Nam. Vả lại người ta nhận thấy rằng, từ trường của các dải đối xứng nhau qua dãy núi giữa đại dương lại trùng nhau và từ trường của hai dải nằm cạnh nhau thì ngược hướng nhau. Điều đó được giải thích như sau: khi đáy đại dương được tách ra thì dung nham núi lửa từ lòng đất phun lên lấp đầy kẽ hở và tạo thành hai dải song song đối xứng với trục dãy núi giữa đại dương và hai dải này có chung hướng từ trường ngự trị trên Trái đất lúc bấy giờ.
7. Nam cực là mồ chôn của các động vật nhiệt đới
Sự phát hiện các mảng trôi dạt trên đây đã giải thích được một loạt các phức hệ động vật hóa đá tìm thấy ở Nam cực. Cuối năm 1967, một nhà địa chất Tân Tây Lan đã tìm ra một mẫu xương thuộc bộ thằn lằn răng rối (labirinthodonta).
Thằn lằn răng rối thuộc loài lưỡng thê và là loài động vật đầu tiên đã từ nước lên sống ở cạn cách đây 350 triệu năm về trước.
Tháng 11 năm 1969, một đoàn khảo sát Hoa Kỳ đã khảo sát Nam cực và đã tìm ra được vô số xương loài bò sát của thời kỳ Tơriát (cách đây từ 195 đến 240 triệu năm). Thật là vô lý nếu loài bò sát này là loài động vật sống trên cạn và trong nước ngọt lại có thể bơi qua đại dương sang Châu Phi trên khoảng cách 4000 cây số đấy sóng to gió lớn?
Điều đó chỉ có thể giải thích là cách đây từ 195 đến 240 triệu năm, Châu Nam cực đã gắn liền với Châu Phi thành một lục địa thống nhất. Trong thời gian đó, Đại Tây Dương chưa tồn tại do vậy, Nam Mỹ và Châu Phi cũng như Bắc Mỹ và Âu, Á còn dính liền với nhau.
8. Sự di chuyển lục địa và sự hình thành các mỏ kim loại, mỏ dầu
Những luận điểm chính của thuyết kiến tạo mảng mở ra một con đường mới cho việc nghiên cứu những điều kiện tạo thành các mỏ khoáng sản như kim loại, cũng như mỏ dầu, mỏ khí đốt và mỏ than.
Thật thú vị khi loài người biết các lục địa Nam Mỹ, Châu Phi, Ấn Độ, Châu Úc và Châu Nam cực trước kia chỉ là một do đó sẽ dự đoán được sự kéo dài các đai quặng từ lục địa này sang lục địa khác. Nhờ đó mới đây người ta đã phát hiện ra được những mỏ kim cương, mỏ sắt ở Nam Mỹ và ở Châu Úc. Các mỏ này là phần nối tiếp của các mỏ kim cương và các mỏ sắt từ Châu Phi kéo dài sang.
Hiện nay, các mỏ ở lục địa đã được nghiên cứu kỹ, còn các mỏ ở đại dương mới được nghiên cứu sơ lược. Giữa các mỏ lục địa và các mỏ đại dương có nhiều điểm gắn bó chặt chẽ với nhau ở dưới vỏ lục địa và vỏ đại dương, nếu biết được đặc điểm của các mỏ đại dương thì ta có thể dự đoán được những mỏ nằm sâu dưới vỏ lục địa.
Xem xét sự phân bố các mỏ dầu trên thế giới, ta thấy chúng đều gắn bó chặt chẽ với các hệ thống đứt gãy sâu cực lớn.
Trong các vùng mỏ dầu và hơi đốt có một điều làm các nhà địa chất chú ý là nguồn gốc phần lớn các mỏ dầu gắn bó với quá trình tạo thung lũng kiểu tách giãn bậc thang. Phần lớn các mỏ dầu là hơi đốt gắn bó với vùng chuyển tiếp từ vỏ lục địa sang vỏ đại dương và nằm trong lớp trầm tích Trung sinh và Tân sinh, tức là hình thành cùng một lúc với hầu hết các đáy đại dương trên thế giới.
So sánh tiếp giáp giữa các mảng di chuyển lục địa, ta thấy có ba kiểu: tiếp giáp kiểu Himalaya là tiếp giáp nén, tiếp giáp kiểu Đại Tây Dương là tiếp giáp giãn, còn tiếp giáp kiểu Địa Trung Hải là vừa nén vừa giãn. Từ cơ chế chuyển động ba kiểu tiếp giáp đó, có thể hình thành các loại khoáng sản khác nhau. Việt Nam là nơi gặp gỡ giữa hai vành đai kiến tạo - sinh khoáng lớn nhất thế giới là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải. Vùng Việt Bắc có thể thuộc sinh khoáng miền nền hoạt động. Trũng An Châu, trũng Hà Nội, trũng đồng bằng Sông Cửu Long hình thành do sự tách giãn. Các trũng đó cũng như vùng thềm lục địa nước ta đặc biệt ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ và Nam Bộ là nơi thuận tiện cho việc tích tụ các mỏ dầu. Miền Tây Bắc Việt Nam là miền vỏ Trái đất hoạt động mạnh có nhiều mỏ kim loại. Khối trung tâm Đông Dương bao gồm miền Nam Việt Nam, Hạ Lào, Bắc Campuchia và miền Đông Thái Lan là một khối trung tâm điển hình được các nhà kiến tạo trên thế giới thừa nhận rộng rãi.
Cần chú ý một điều là hệ đứt gãy sông Hồng - sông Chảy phần Tây Bắc bị nén, còn phần Đông Nam bị tách giãn, do đó tạo thành kiểu đứt gãy bản lề lấy Thủ đô Hà Nội làm điểm tựa: phần Tây Bắc được nâng lên tạo thành dãy núi Con Voi và dãy Hoàng Liên Sơn có lợi cho sinh khoáng nội sinh, phần Đông Nam bị hạ thấp tạo thành miền trũng kéo dài từ Hà Nội đến Thái Bình và chạy dài ra Biển Đông tới Bạch Long Vĩ thuận tiện cho việc hình thành các mỏ dầu, hơi đốt và than đá.
Mặc dù còn một số điểm yếu và nhất là chưa giải thích được trọn vẹn nguyên nhân vì sao các lục địa và đại dương di chuyển được, thuyết “kiến tạo mảng” được hầu hết các nhà địa chất trên thế giới hiện nay xem như học thuyết dẫn đầu và tổng hợp trong ngành địa chất hiện đại. Nhưng một giả thuyết dù có cơ sở khoa học đến thế nào đi nữa cũng cần được bổ sung, chính xác hóa hoặc là thay đổi nó đi khi có đủ số liệu thực tế chứng minh.
TSKH. NGUYỄN ĐÌNH CÁT

Chuyện về 5 lý thuyết lớn không được trao tặng giải Nobel

12:00' AM - Thứ bảy, 15/03/2003
Mặc dù giải thưởng Nobel được coi là  một trong những giải thưởng cao quý và có ý nghĩa quan trọng nhất trong khoa học, nhưng thực tế cho thấy, nhiều phát hiện lớn làm thay đổi thế giới quan của chúng ta - từ Thuyết tương đối đến Thuyết tiến hóa -đã chưa bao giờ được Uỷ ban xét tặng giải thưởng Nobel công nhận. Một số phát hiện có tính đột phá trong các lĩnh vực như Toán học, Các khoa học về Trái đất, Sinh thái học, không được xét trao giải thưởng. Một số lĩnh vực khác như Vật lý thiên văn cũng bị ủy ban xét duyệt loại khỏi phạm vi xét duyệt trong một thời gian dài. Một số tác giả của các khám phá quan trọng đã mất trước khi ủy ban này kịp xét trao giải cho họ: Theo quy định, người ta không truy tặng giải thưởng Nobel cho những người đã mất, trừ những người không may mất trong khoảng thời gian ngắn từ khi được đề cử (tháng 10 hàng năm) đến khi làm lễ trao giải (tháng 12 năm đó). Và điều rõ ràng là những người xét duyệt giải đã tỏ ra lạnh nhạt với một số khái niệm có tính cách mạng làm thay đổi những quan niệm kiểu mẫu giáo điều. Ví dụ nổi tiếng nhất là trướng hợp Thuyết tương đối. Einstein chưa bao giờ được trao tặng giải thưởng Nobel cho lý thuyết quan trọng nhất của mình.
Nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác với những phát hiện có ảnh hưởng quan trọng mà không được trao giải. thưởng Nobel. Những ví dụ nổi bật là nhà đa chấn học lỗi lạc Beng Gutenberg, người đã xác định được lõi của Trái đất; Vilhelm Bjerkness, người đã giải thích các Frông gây ra các tác động thời tiết; Ed Knipling và Raymond Busland, những người đã tạo ra các giống côn trùng vô sinh và sử dụng chúng để chiến đấu chống dịch bệnh trong nông nghiệp. Trong số những khám phá lớn nhất của thế kỷ 20 không được trao giải thưởng Nobel, có ít nhất 5 ý tưởng được các nhà khoa học cho rằng có tầm quan trọng khoa học lớn nhưng không may lại nằm ngoài phạm vi quy định của giải thưởng theo di chúc của Alfred Nobel. Đó là:
Thuyết vũ trụ giãn nở
Trong những thập niên 1920 - 1930, nhà thiên văn học Edwin Hubble đã giúp khám phá sự nhỏ bé của giải Ngân hà trong một vũ trụ mênh mông và đang giãn nở. Từ ngôi nhà của ông trên đỉnh núi Wilson, Hubble là người đầu tiên đã chỉ ra, ngoài Thiên hà của chúng ta trong vũ trụ còn có rất nhiều thiên hà khác. Sau đó ông đưa ra ý tưởng là các thiên hà xa xôi đang chạy ra xa khỏi chúng ta, vì vậy chúng tạo ra sự "dịch chuyển đó" nổi tiếng trong quang phổ của mình. "Định luật Hubble" cho rằng, những thiên hà chuyển động nhanh nhất là những thiên hà nằm xa chúng ta nhất và chúng nằm ở vùng rìa của một vũ trụ đang giãn nở nhanh. Các phát hiện này làm cho Hubble trở nên nổi tiếng, nhưng Tiểu ban vật lý của ủy ban xét tặng giải Nobel không có ý định xem xét lại việc loại trừ ngành vật lý thiên văn ra khỏi các ngành khoa học được xét trao giải. Theo lời đồn, ủy ban giải thưởng Nobel chỉ bỏ phiếu trao giải cho Hubble ngay sát trước khi ông mất vào năm 1953, vì vậy Hubble cuối cùng đã không được nhận giải thưởng này.
Thuyết địa lý sinh vật về những đảo sinh tồn
Trong các thập niên 1950-1960, Robert Macarthur và Edward Wilson đã làm rung chuyển ngành sinh thái học bằng việc liên kết môn toán học với các công việc thực địa sáng tạo để phát triển một lý thuyết về việc các loài sinh vật đã chiếm đóng các lãnh thổ mới như thế nào. Ngày nay, ý tưởng đó giúp các nhà bảo vệ môi trường hình dung xem các loại sinh vật bị đe dọa tuyệt chủng cần môi trường sống lớn như thế nào để có thể sống sót. Các nhà sinh thái học cấp tiến áp dụng ý tưởng của hai nhà khoa học trên cho lý thuyết về các loài và sự tuyệt chủng. Mạc Arthur mất vào năm 1972 , còn Wilson đã nhận được nhiều giải thưởng có uy tín và có giá trị, nhưng họ đã không bao giờ được nhận giải thưởng Nobel.
Thuyết lục địa trôi giạt
Năm 1915, các đồng nghiệp đã cười nhạo nhà địa chất học Alfred Wegener khi ông đưa ra giả thiết là các lục địa có thể di chuyển trên bề mặt Địa cầu. Wegner đã chết vì lạnh trong chuyến thám hiểm Greenland năm 1930, chỉ một thời gian ngắn trước khi các nhà  nghiên cứu khác bắt đầu xem xét  thuyết lục đa trôi giạt của ông một  cách nghiêm túc. Vào thập niên 1950,  khi có những chứng minh không thể chối cãi được thì lý thuyết của Wegener trở thành một trong những lý thuyết kinh điển của khoa học.
Lý thuyết về tiềm thức
Ngày 31-10-1929, nhà khoa học  Đức 73 tuổi, Sigmund Freud, đã mở sổ nhật ký và ghi vào đó dòng chữ "trượt giải thưởng Nobel". Vào lúc đó, nhiều thập niên sau ngày Freud cho ra đời các lý thuyết có tính cách mạng về tiềm thức và ảnh hưởng của tiềm thức đối với hành vi, ông đã quen với việc mình bị từ chối trao giải thưởng Nobel. Mặc dù vậy, các nhà viết tiểu sử của ông kể rằng cho đến tận những ngày trước khi mất, tức là một thập niên sau ngày viết dòng chữ trên, Freud vẫn hy vọng sẽ nhận được tin mừng từ Stôckhôm. Nhưng vào thuở Nobel còn sống, khoa học tâm lý và khoa học xã hội vẫn còn trong giai đoạn sơ khai, vì vậy phần lớn những nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học này thường nằm ngoài phạm vi được đề cử giải thưởng Nobel.
Thuyết tiến hóa
Darwin là người đầu tiên đã đưa ra giả thuyết rằng tổ tiên loài người là khỉ. Nhưng chính cặp vợ chồng Louis và May Leakey mới là những người đầu tiên tìm ra những hóa thạch để chứng minh giả thuyết này bằng tài liệu. Năm 1959, hai vợ chồng nhà khoa học này đã khai quật được một hóa thạch vượn người có 1,75 triệu năm tuổi tại Olduvai Gorge, Bắc Tanzania. Tuy nhiên, như các nhà cổ sinh học than phiền, cái nghề "săn lùng xương" của họ bị một số người cho rằng không phải là một công việc khoa học.
THẾ NGHĨA
Theo Science, 10/2001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét