Đây Là Thất Bại Thảm Hại Nhất Của Quân La Mã Cổ Đại Từ Hàng Ngàn Năm Qua - Bí Ẩn Lịch Sử Thế Giới
Sử sách chép rằng Lê Lợi lên ngôi ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân
(1428), "đặt quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông Kinh. Tức thành Thăng
Long, vì Thanh Hóa có Tây Đô nên gọi Thăng Long là Đông Kinh" (Đại Việt
sử ký toàn thư).
Trong thời gian ở ngôi, ông chỉ đặt một niên hiệu là Thuận Thiên; sử
sách ghi theo miếu hiệu, gọi ông là Lê Thái Tổ và có nhiều lời ca ngợi,
như trong sách Đại Việt sử ký toàn thư có đoạn viết:
"Vua dấy nghĩa binh, chưa từng giết bừa một người nào. Chỉ biết lấy
mềm chống cứng, lấy yếu địch mạnh, lấy ít thắng nhiều, không đánh mà
khuất phục được người, cho nên có thể đổi vận bĩ sang vận thái, chuyển
thế nguy thành thế yên, đổi cuộc loạn thành cuộc trị. Câu "Người có
nhân, thiên hạ không ai địch nổi" chính hợp với vua. Cho nên, vua lấy
được thiên hạ, truyền cơ nghiệp đến muôn đời là phải lắm!".
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng viết: "Nhà vua ở
ngôi 6 năm, thọ 49 tuổi. Trước kia, nhà vua trỗi dậy, khởi nghĩa, dẹp
yên giặc Minh, trải mười năm trong nước được bình định. Kịp khi lên
ngôi, quy định thuế khóa, chia ruộng đất, ban hành luật lệnh, mở khoa
thi, tổ chức quân cấm vệ, cất đặt quan chức, tưởng lục công thần, dựng
trường học... Quy mô sáng nghiệp có thể gọi là rộng lớn".
Dưới thời Lê Thái Tổ cầm quyền, tuy đất nước thái bình thịnh trị,
nhưng có một số thời điểm, tại một số nơi đã nảy sinh các thế lực chống
đối buộc triều đình trung ương phải có biện pháp mạnh mẽ để trấn áp.
Thí dụ như vua từng trực tiếp cầm quân đánh dẹp vào năm Canh Tuất
(1430): "Mùa đông, tháng 11, vua đi đánh bọn nghịch tặc ở châu Thạch
Lâm, trấn Thái Nguyên là Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái. Bấy giờ, Khắc
Thiệu và Đắc Thái tranh nhau tự lập, nên phải đi đánh" (Đại Việt sử ký
toàn thư).
Hay như vào tháng giêng năm Nhâm Tý (1432) vua sai con trai cả là
thân vương Lê Tư Tề đem quân đi đánh châu Mường Lễ (vốn là châu Ninh
Viễn, sau đổi là châu Phục Lễ, nay thuộc tỉnh Lai Châu); đến tháng 11
năm ấy, vua tự mình cầm quân đi đánh châu Phục Lễ buộc Tù trưởng châu là
Đèo Cát Hãn phải quy phục…
Có thể thời gian đầu nhà Hậu Lê mới lập, có những khu vực còn chưa
kiểm soát được, có những lực lượng vẫn ra mặt chống đối, nhất là ở những
vùng rừng núi, biên cương xa xôi; tuy nhiên sử sách không thể ghi chép
đầy đủ, tường tận được hết.
Chân dung vua Lê Thái Tổ. (Hình minh họa – Nguồn: baothanhhoa)
Trong số các lực lượng không được chính sử nhắc đến, có một lực lượng
tự xưng là dòng dõi của nhà Hồ, nhưng gốc tích sự thực đến đâu chưa thể
khảo xét tường tận được. Một số sách sử địa phương có nhắc đến thế lực
này, tuy sơ lược nhưng cũng cho chúng ta biết được ít nhiều thông tin lý
thú.
Trong sách Nội tự thất tộc lược sử viết bằng chữ Hán, được dịch lấy
tên là Sự tích thổ ty Lạng Sơn, trong mục về họ Vi có nhắc đến ông Vi
Kim Thắng từng làm quan cuối thời Trần, sau khi Hồ Qúy Ly cướp ngôi, ông
đi ở ẩn tại vùng biên giới.
Khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Vi Kim Thắng liền mộ dân
đinh trong các động, sách để hưởng ứng và sau này trở thành công thần
khai quốc, được Lê Thái Tổ phong chức Trụ quốc, tước Lỗ Đề đốc Mật quận
công.
Sách Sự tích thổ ty Lạng Sơn có đoạn viết: "Lúc bấy giờ dòng dõi nhà
Hồ tiếm cứ đất Lạng Sơn xưng vương, tức Hồ Nhất Khuê, có Mao quốc công
làm Nguyên soái. Năm Thuận Thiên thứ 4 [1431] vua sai con trưởng của ông
là Vi Phúc Hân, chức Đô đốc Đồng tri Hoàn quận công dẫn hơn 30.000 quân
lên Lạng Sơn đánh giặc, chiêu dân (lúc bấy giờ dân phiêu tán), kiêm
quản xứ Quảng Yên. Sau ông trấn thủ biên thùy, vua cho lấy Lộc Châu
(châu Lộc Bình) làm quê quán, thế tập phiên thần (đời đời nối nghiệp làm
quan ở biên thùy), không cho về quê nữa". Sách Thất tộc thổ ty Lạng Sơn
cũng ghi chép tương tự như vậy.
(Hình minh họa – Nguồn: sachcuonline)
Về nhân vật Hồ Nhất Khuê (còn gọi là Hồ Kim Khuê) có tài liệu chép là con Hồ Qúy Ly nhưng không rõ gốc tích cụ thể ra sao.
Có sách thì chép rằng người này là dòng dõi con cháu Hồ Qúy Ly tụ tập
đồ đảng, lại được hậu thuẫn của đám giặc cướp bên kia biên giới nên đã
nổi binh làm loạn, chiếm cứ đất Lạng Sơn xưng vương, đặt quan thuộc như
một triều đình riêng. Lực lượng này cướp phá gây bất ổn cả một vùng rộng
lớn tại Lạng Sơn và Cao Bằng, trở thành mối lo cho triều đình.
Để diệt trừ, nhà Hậu Lê đã sử dụng các tướng lĩnh người dân tộc thiểu
số, vừa có uy tín lớn, lại thông thuộc địa hình, phong tục tập quán
người dân vùng biên cương.
Lập công trong đánh dẹp Hồ Nhất Khuê, ngoài Vi Phúc Hân còn có Nguyễn
Đức Minh (có tên khác là Nguyễn Cẩm Miên). Theo bản Lộc mệnh chi phả
của dòng họ Nguyễn Đình thì Nguyễn Đức Minh xuất thân trong gia tộc
nhiều đời, ông làm quan đến chức Đô đốc tướng quân, tước Nhị quận công.
Khi Hồ Nhất Khuê làm loạn, ông phụng mệnh vua Lê Thái Tổ đem 15.000
quân đánh Lạng Sơn, kiểm soát nhiều cửa ải từ Nam Lân đến Lạc Nhi, Bình
Nhi, Bình Lăng, Lâm Kết… cho đến sát địa phận Cao Bằng, lại chia quân
đóng giữ, vận dụng xen kẽ binh lính người Nùng với người Thổ theo tỷ lệ 1
+ 2, 1 + 3.
Trong đánh trận, Nguyễn Đức Minh lập công bắt được một thủ lĩnh quan
trọng của quân phản loạn là Mao quốc công tại trận Đoỏng Én (Lạng Sơn),
sau đó bắt được "ngụy vương" Hồ Nhất Khuê ở cửa ải Nam Lân (nay thuộc
huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn) rồi đánh bại đám giặc cướp "thiên triều".
Gia phả dòng họ Nguyễn Đình (chi trưởng) ở xã Xung Minh, châu Thoát
Lãng (nay thuộc xã Hoàng Việt, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn), bản Lộc
mệnh chi phả cũng có những phần viết về công tích của Nguyễn Đức Minh.
Đặc biệt trong giả phả một chi thuộc dòng họ Nguyễn Đình ở thôn Vĩ
Thượng, Vĩ Hạ xã Hoàng Đồng, Thành phố Lạng Sơn ghi chép rất rõ về công
dẹp loạn của Nguyễn Đức Minh như sau:
"Hồi đó có tên Hồ Kim Khuê, đem tướng là Mao quốc công vào vùng Cao –
Lạng nhiễu hại nhân dân, không tuân theo phép nước, không nộp thuế
khóa. Hồ Kim Khuê tức là con Hồ Qúy Ly. Nhân dân phiêu tán, chỉ còn lại
người Ngô; ruộng đất bỏ hoang, có xã không còn dân, có xã chỉ còn vài ba
người vào núi ở, ra ngoài thì ẩn nấp.
Vâng mệnh [triều đình] làm Khâm sai, con thứ 8 là Nguyễn Cẩm Miên,
sắc phong Vũ Dực bình Ngô thượng tướng quân đi Lạng Sơn đóng đồn ở Phia
Vệ, xã Khánh Dương. Trước tiên ông diệt gian đảng Hồ Kim Khuê, sau đó
ông chiêu tập thổ dân đến Lạng Sơn làm ăn, nộp thuế khóa như trước.
Lúc đó bọn giặc đến Lạng Sơn tự xưng là binh sĩ, đem thuốc súng ra
phơi nắng. Tướng quân biết tin này cho một người dân ở bản Hoa Hồng giả
vờ hút thuốc, châm lửa cháy hết thuốc súng phơi trên chiếu.
Sáng hôm sau diễn ra trận đánh lớn. Giặc ra thành giáp công, sai
tướng Mao quốc công dẫn một toán quân ra đánh nhau một ngày đêm. Tướng
Mao quốc công bị tướng ta đuổi đánh, chạy đến xã Hoàng Đồng thôn Đoỏng
Én, lún vào cái đầm sâu Tà Nghiều, cả người và ngựa bị chém chết. Hồ Kim
Khuê nghe tin Mao quốc công bị giết liền bỏ chạy.
Trận ấy ta giết quân Ngô, mười tên chết chỉ còn một sống, đuổi đến
ngoài cửa Nam Quan, thực là "thập nhân khứ, nhất nhân hoàn". Ta lại bắt
sống được Hồ Kim Khuê, đảng giặc chạy tan hết".
Sau khi dẹp yên phản loạn, vua Lê Thái Tổ luận công ban thưởng ban
cho họ Vi, họ Nguyễn đời đời được làm quan, nối chức Thổ tù; phong Vi
Kim Thắng làm Trấn ải xứ Lạng Sơn, Nguyễn Đức Minh làm Phó trấn ải,
riêng Nguyễn Đức Minh được ban "đất xã Xung Minh, châu Thoát Lãng để làm
tổ quán cho con cháu mai sau" (Lộc mệnh chi phả).
Sự kiện dẹp loạn nói trên không chỉ thể hiện sự quyết tâm xây dựng
đất nước ổn định, thống nhất của Lê Thái Tổ - bậc đế vương sáng nghiệp
nhà Hậu Lê, người đề ra chủ trương: "Biên phòng phải chăm lo phương
lược/Giữ nước cần toan tính kế lâu"; mà còn cho thấy vai trò quan trọng
của các thổ ty người dân tộc thiểu số trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng
đất nước, đặc biệt là ở vùng biên cương.
Chiến tranh thế giới thứ II, cuộc chiến đẫm máu nhất lịch sử nhân
loại. Bên cạnh những tổn thất không thể đong đếm về nhân mạng, tài sản
và nhiều vấn đề khác. Cuộc đại chiến còn ẩn chứa nhiều bí mật “động
trời” mà đến nay 71 năm trôi qua nhân loại vẫn chưa tìm thấy câu trả
lời.
Trang mạng War History Online đã tổng hợp 5 bí mật tồn tại suốt 71
năm qua cho dù rất nhiều người cố gắng đi tìm đáp án. Các sự kiện này
chứa nhiều thuyết âm mưu và chúng có thực sự tồn tại hay không vẫn là
một ẩn số.
Chuyến tàu chở vàng của Đức quốc xã
Tháng 12/2015, trong một cuộc họp báo được tổ chức bởi Piotr Koper
và Andreas Richter tuyên bố rằng họ đã phát hiện ra manh mối về chuyến
tàu chở vàng mất tích của Đức quốc xã. Các thợ săn kho báu khẳng định
đoàn tàu vẫn nằm đâu đó và cách tốt nhất để tìm thấy là đào.
Một đường hầm được cho là nơi che giấu đoàn tàu chở vàng bí mật của Đức quốc xã. Ảnh: AFP.
Đội ngũ những người săn kho báu mất tích đã tìm kiếm đoàn tàu hơn 3
năm qua. Họ tuyên bố tìm thấy đường hầm có thể dẫn đến nơi đoàn tàu được
Đức quốc xã che giấu những năm cuối Thế chiến II. Quá trình khai quật
đường hầm diễn ra rầm rộ nhưng sau đó phải ngưng lại vì không tìm thấy
gì.
Đoàn tàu chở vàng của Đức quốc xã có thể chỉ là tin đồn nhưng khối
tài sản khổng lồ đó vẫn là động lực để hàng trăm người lao vào cuộc tìm
kiếm trong vô vọng.
Phòng hổ phách
Đó là một căn phòng nổi tiếng được trang trí bằng những tấm hổ phách
với vàng lá và gương nằm trong cung điện Catherine ở thị trấn Tsarskoye
Selo gần St. Petersburg. Ban đầu, căn phòng được xây dựng vào thế kỷ 18 ở
Vương quốc Phổ (Đức ngày nay).
Căn phòng được cho là đã biến mất trong Thế chiến II. Nó từng được
xem là kỳ quan thứ 8 của thế giới trước khi biến mất. Có tin đồn cho
rằng căn phòng vẫn nằm đâu đó ở Ba Lan.
Kho báu Yamashita
Vàng của Yamashita, hay kho báu Yamashita là tên gọi được đặt cho số
của cải mà quân đội Đế quốc Nhật Bản bị cáo buộc đánh cắp ở khu vực Đông
Nam Á trong Thế chiến II. Kho báu này được cho là cất giấu trong các
hang động, đường hầm và khu phức hợp trong lòng đất ở Philippines.
Kho báu được đặt theo tên tướng Tomoyuki Yamashita, người nổi tiếng
khắp thế giới với biệt danh “Con hổ Mã Lai”. Các thợ săn kho báu trên
thế giới bị hấp dẫn bởi khối tài sản khổng lồ nói trên lao vào cuộc tìm
kiếm suốt hơn 50 năm qua.
Số lượng lớn vàng thỏi được cho là tìm thấy từ kho báu của tướng Yamashita. Ảnh:Tthedailytrends.
Có nguồn tin nói rằng vàng liên quan đến kho báu bí ẩn là chủ đề của
một vụ kiện phức tạp được đệ trình lên tòa án Hawaii vào năm 1988. Vụ
tranh chấp diễn ra giữa cựu Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos và
thợ săn kho báu Rogelio Roxas.
Pháo đài Alpine
Đây là một pháo đài quốc gia theo kế hoạch của Heinrich Himmler, một
trong những người quyền lực nhất Đức quốc xã sau Adolf Hitler. Theo kế
hoạch quân đội và chính phủ Đức sẽ rút theo tuyến đường từ miền nam
Bavaria vào tây Áo để đến miền bắc Italy nhằm thiết lập căn cứ dự phòng
trong trường hợp Berlin thất thủ.
Tuy nhiên, kế hoạch không nhận được sự ủng hộ của Hitler và hầu như
không được triển khai. Tuy vậy, phe Đồng minh vẫn tin rằng Đức quốc xã
sẽ rút lui về căn cứ ở Alpine và một lượng quân sự lớn đã chuyển đến đây
để tiếp tục chiến đấu vào cuối Thế chiến II.
Sau chiến tranh, tướng Omar Bradley, tư lệnh lực lượng Mỹ ở mặt trận
phía tây nói rằng pháo đài Alpine là một sự phóng đại quá mức và tôi rất
ngạc nhiên vì sao chúng ta đã tin tưởng điều đó một cách ngây thơ như
vậy. Nhưng ở thời điểm đó, mối đe dọa từ tin đồn này quá lớn để có thể
bỏ qua.
Du thuyền Awa Maru
Đây là một du thuyền được đóng mới trong giai đoạn 1941-1943 tại
Nagasaki, Nhật Bản. Con tàu được chế tạo để phục vụ mục đích vận chuyển
du khách. Khi Thế chiến II bước vào giai đoạn ác liệt, con tàu được hải
quân Đế quốc Nhật Bản trưng dụng cho mục đích quân sự.
Ngày 28/3/1945, tàu rời cảng ở Singapore với hàng nghìn nhân viên
ngoại giao, quân sự và thường dân trở về Nhật Bản. Có tin đồn cho rằng
tàu chở theo khối tài sản trị giá tới 5.000 tỷ USD bao gồm vàng, kim
cương, bạch kim và nhiều tài sản giá trị khác.
Đêm ngày 1/4/1945, trong khi đi qua eo biển Đài Loan, tàu bị đánh
chìm bởi tàu ngầm USS Queenfish của Mỹ vì nhầm với một tàu khu trục. Chỉ
một người duy nhất sống sót trong số 2.004 người trên tàu. Kho báu
khổng lồ nếu có đã chìm theo tàu xuống đáy đại dương.
XEM THÊM: