Trung Tướng NGUYỄN VĂN PHIỆT Tiết Lộ Cách Phá Màn Nhiễu, Hạ 2 Chiếc B52 Trong 10 Phút | Hà Nội 1972
Trung Tướng NGUYỄN VĂN PHIỆT Tiết Lộ Cách Phá Màn Nhiễu, Hạ Đo Ván B52
Trong 10 Phút
chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, Mời các bạn cùng trở lại những năm
tháng khói lửa hào hùng trong lịch sử đấu tranh của dân tộc qua hồi ức
của Trung Tướng Nguyễn Văn Phiệt – Nguyên Phó Tư Lệnh Quân Chủng PKKQ VN
– người anh hùng với chiến công hạ 2 mb B52 trong 10 phút.
Trung tướng, Anh hùng Nguyễn Văn Phiệt sinh năm 1938, quê tại
thôn Vệ Dương, xã Chiến Thắng (Tân Phúc), huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.
Trong chiến dịch “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”, trên cương bị Tiểu
đoàn trưởng Tiểu đoàn 57, ông cùng đồng đội đã lập công xuất sắc bắn
rơi 4 máy bay B52.
Nguồn cội tổ tiên của ông là dòng họ
Nguyễn làng Kim Đôi (xã Kim Chân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) - một
dòng họ có 18 tiến sĩ được vinh danh ở các triều đại trong lịch sử dân
tộc. Trong số đó, có 2 vị làm tới chức quan Lễ bộ Thượng thư, 2 vị giữ
chức Binh bộ Thượng thư, 2 vị làm Lại bộ Thượng thư và 2 vị làm Hộ bộ
Thượng thư. Đây là một điều đặc biệt mà hiếm có của một dòng họ, tạo
động lực giúp ông ngày đêm đèn sách để học tập, thi cử.
Khi 18 tuổi, khát vọng của Nguyễn Văn
Phiệt là tiếp bước truyền thống cha anh và gia nhập bộ đội Cụ Hồ. Thế
nhưng, khi khám sức khỏe thì ông lại không đủ tiêu chuẩn để nhập ngũ.
Phải đến tháng 2/1960, ông mới nhập ngũ. Tháng 12/1963, ông được kết nạp
vào Đảng.
Trung tướng Anh hùng Nguyễn Văn Phiệt
Từ một chiến sĩ ra đa thuộc Đại đội 12,
Trung đoàn ra đa 290, Bộ tư lệnh Phòng không, đến năm 1965, ông được lựa
chọn đi học chuyển loại Binh chủng Tên lửa Phòng không tại Liên Xô. Về
nước năm 1966, ông được biên chế làm sỹ quan điều khiển, Tiểu đoàn 93,
Trung đoàn 278, Quân chủng Phòng không - Không quân. Chiến công đầu tiên
của ông và đơn vị chính là việc bắn hạ một máy bay F-105 của Mỹ trên
bầu trời miền Bắc ngày 22/10/1966.
Đến tháng 7/1972, ông được giao nhiệm vụ
là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57, Trung đoàn tên lửa 261, Sư đoàn phòng
không 361, Quân chủng Phòng không - Không quân. Trong trận “Điện Biên
Phủ trên không”, đêm 20 rạng sáng 21/12/1972, khắc phục tình trạng đạn
dược thiếu thốn, ông cùng đồng đội đã mưu trí chiến đấu, dùng những quả
đạn cuối cùng tiêu diệt 2 máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội.
Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt cùng kíp chiến đấu bắn rơi B-52 trong chiến dịch 12 ngày đêm cuối 1972.
Tháng 6/1976, ông học tại Trường Văn hóa
Quân đội. Tháng 9/1978, ông giữ chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn
Tên lửa Phòng không 257, Sư đoàn Phòng không 363 Quân chủng Phòng không.
Tháng 8/1979, ông được cử giữ chức vụ Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng
Sư đoàn Phòng không 363 Quân chủng Phòng không. Tháng 10/1979, ông là
Phó Tư lệnh Sư đoàn Phòng không 369 Quân chủng Phòng không. Tháng
9/1980, ông đi học bổ tục tại Học viên Quân sự Cấp cao Bộ Quốc phòng.
Sau đó trở lại làm Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn
Phòng không 369 Quân chủng Phòng không.
Tháng 6/1985, ông được bổ nhiệm Sư đoàn
trưởng Sư đoàn Phòng không 369 Quân chủng Phòng không. Tháng 11/1988,
ông tiếp tục đi học bổ túc tại Học viện Chính trị Quân sự.
Từ năm 1989 - 2000, ông liên tục giữ
chức Chủ nhiệm chính trị, Phó Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Quân chủng
Phòng không - Không quân. Đến năm 2001, ông nhận quyết định nghỉ hưu.
Với những thành tích tiêu biểu trong quá
trình công tác, ngày 3/9/1973, Thượng úy Nguyễn Văn Phiệt - Tiểu đoàn
trưởng, Tiểu đoàn Tên lửa 57, Trung đoàn Tên lửa 261, Sư đoàn Phòng
không 361 Quân chủng Phòng không Không quân được Chủ tịch nước CHXH Chủ
nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân
dân. Đồng chí được tặng thưởng Huân chương Chiến công (hạng Nhất, Nhì),
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang
(hạng Nhất, Nhì, Ba), Huy chương Quân kỳ quyết thắng, Huy chương Vì sự
nghiệp Giải phóng phụ nữ, Huy chương Vì Sự nghiệp Khoa học và Công nghệ.
Vị Tướng phòng không hạ 2 máy bay B-52 trong 10 phút
GiadinhNet - Ở cái tuổi 78 nhưng
Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt nom còn khỏe khoắn lắm. Trải qua nhiều
cương vị quan trọng như Phó Tư lệnh chính trị, Bí thư Đảng ủy Quân chủng
Phòng không - Không quân nhưng con người dạn dày trận mạc ấy không chịu
nghỉ ngơi. Ông lại bắt đầu một “cuộc chiến” mới: Giúp trẻ em tật nguyền
tự đứng lên trong cuộc sống.
Trung tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Phiệt. Ảnh: Cao Tuân
Từng bị “trượt” nhập ngũ
Dù không hẹn trước nhưng chúng tôi vẫn
được Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt ân cần đón tiếp tại phòng khách ấm
cúng của gia đình. Hình ảnh nổi bật trên tường là danh hiệu cao quý Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân do cố Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng trao
tặng cho ông năm 1973. Phía dưới là dòng chữ ghi nhận thành tích đặc
biệt xuất sắc của ông trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, góp phần
cùng toàn dân, toàn quân đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi
vẻ vang.
Ông Phiệt sinh ra trong một gia đình
nông dân lao động nghèo ở vùng quê đồng chiêm trũng thôn Vệ Dương, xã
Tân Phúc, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Nguồn cội tổ tiên của ông là dòng
họ Nguyễn làng Kim Đôi (xã Kim Chân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) - một
dòng họ có 18 tiến sĩ được vinh danh ở các triều đại trong lịch sử dân
tộc. Trong số đó, có 2 vị làm tới chức quan Lễ bộ Thượng thư, 2 vị giữ
chức Binh bộ Thượng thư, 2 vị làm Lại bộ Thượng thư và 2 vị làm Hộ bộ
Thượng thư. Đây là một điều đặc biệt mà hiếm có của một dòng họ, tạo
động lực giúp ông ngày đêm đèn sách để học tập, thi cử.
Thuở 18, khát vọng của chàng thanh niên
dòng họ Nguyễn Kim Đôi là tiếp bước truyền thống cha anh và gia nhập
hàng ngũ bộ đội Cụ Hồ. Thế nhưng, lên xã đội khám sức khỏe thì ông lại
bị trượt. “Năm 1959, tôi đi khám bộ đội, bên y tế còn kết luận tôi có
vấn đề về tim nên không nhận. Phải đến năm 1960 khi có đợt khám tuyển đi
bộ đội, tôi tiếp tục đăng ký tham gia thì lần này mới đủ điều kiện”,
ông nhớ lại.
Niềm vui nhập ngũ với ông như vỡ òa thì
cũng là lúc ông phải đối mặt với áp lực từ phía gia đình. Cha mẹ và gia
đình nhất quyết khuyên ông trước khi lên đường chiến trận phải… lấy vợ.
Và rồi, một việc tưởng chừng phải tính toán kỹ đã được diễn ra một cách
nhanh chóng. Khi đó, chàng thanh niên 22 tuổi đã quyết định kết hôn với
một cô thôn nữ cùng quê mới vừa tròn 20 tên là Đào Thị Hoa.
Ông tâm sự: “Chúng tôi chỉ biết nhau từ
hồi còn tham gia đội thiếu niên chứ đã có thời gian tìm hiểu yêu đương
đâu. Được hai gia đình đồng ý, chúng tôi nên duyên vợ chồng. Thương
người vợ trẻ nhưng trọng trách đất nước trên vai nên tôi cũng chỉ biết
động viên vợ ở nhà cố gắng, chăm lo cho gia đình”.
Hạ thêm một máy bay bằng quả đạn cuối cùng
Xác máy bay B52 bị bắn rơi năm 1972, trưng bày tại Bảo tàng Phòng không - Không quân. Ảnh: Nhật Minh
Cuộc
đời binh nghiệp hơn 40 năm của Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt có vô vàn kỷ
niệm đáng nhớ. Từ một chiến sĩ radar thuộc Đại đội 12, Trung đoàn radar
290, Bộ tư lệnh Phòng không đến năm 1965, ông được lựa chọn là số ít
học viên đi học chuyển loại binh chủng tên lửa phòng không tại Liên Xô.
Về nước năm 1966, ông được biên chế làm sĩ quan điều khiển, Tiểu đoàn
93, Trung đoàn 278, Quân chủng Phòng không - Không quân. Chiến công đầu
tiên của ông và đơn vị chính là việc bắn hạ một máy bay F-105 của Mỹ
trên bầu trời miền Bắc ngày 22/10/1966.
Đến tháng 7/1972, ông được phân công làm
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57, Trung đoàn tên lửa 261, Sư đoàn phòng
không 361, Quân chủng Phòng không - Không quân. Trận đánh mà ông không
thể quên được đó là đêm 20, rạng sáng 21/12/1972, khi đạn dược thiếu
thốn, ông cùng đồng đội đã mưu trí chiến đấu, dùng những quả đạn cuối
cùng để tiêu diệt 2 máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội.
Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt cùng vợ chụp
hình kỷ niệm với lãnh đạo Trung đoàn không quân 935 tại sân bay Biên
Hòa, Đồng Nai năm 2014 (ảnh nhân vật cung cấp).
Trong ký ức của người lính năm xưa, khi
chiếc B-52 (số hiệu 318) lọt vào tầm ngắm của radar, bộ phận giải nhiễu
lập tức bám sát theo đường chì trên tiêu đồ. Mục tiêu đã vào đến cự ly
32km, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt lập tức lệnh cho sĩ quan điều
khiển Nguyễn Đình Kiên phóng một quả đạn. Tuy nhiên, đạn không rời bệ
phóng. Không để cho B-52 chạy thoát, ông tiếp tục lệnh bắn tiếp quả đạn
thứ hai. Đạn rời bệ phóng và bắt được tín hiệu ở cự ly 28km. Kíp trắc
thủ nhanh chóng bám sát và khôn khéo đưa đạn đến mục tiêu chính xác. Đạn
nổ tiêu diệt mục tiêu ở hướng Tây Nam vào lúc 5h09.
Ngay sau đó, chưa đầy 10 phút, chiến sĩ
tiêu đồ lại báo động tiếp tục xuất hiện chiếc B-52 ở cự ly 45km. Còn quả
đạn cuối cùng, Tiểu đoàn quyết tâm đổi một quả đạn lấy một máy bay B-52
cho bằng được. Ông Phiệt ra lệnh phát sóng bắt mục tiêu ở cự ly 29km và
bắn. Trên màn hiện sóng, 2 tín hiệu tiệm cận nhau và tiến sát. Đạn nổ,
chiếc máy bay B-52 (số hiệu 532) rơi tại khu vực chợ Thá, gần núi Đôi
lúc 5h19.
Với thành tích xuất sắc này, đơn vị của
ông đạt kỷ lục về hiệu suất tiêu diệt B-52 trong toàn chiến dịch. Năm
1973, ông Phiệt được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang
nhân dân. Từ năm 1989 - 2000, ông liên tục giữ chức Chủ nhiệm chính trị,
Phó Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Quân chủng Phòng không - Không quân.
Đến năm 2001, ông nhận quyết định nghỉ hưu.
Khi hỏi về những “bí mật” của Quân đội
nhân dân Việt Nam khi liên tiếp bắn hạ “pháo đài bay” B-52 của Mỹ khiến
cả thế giới thán phục, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt tâm sự: “Ta bảo vệ
Tổ quốc ta. Ta bảo vệ bầu trời của ta. Ta lại biết trước âm mưu của
địch, nên bộ đội Phòng không - Không quân đã xây dựng thế trận, bố trí
trận địa và luyện tập từ trước nhiều năm, chỉ có đợi B-52 vào là đánh.
Tôi nghĩ nếu bị động, lại không quen địa hình, địa vật thì có tài giỏi
mấy cũng không thể chiến thắng được.
Trung tâm từ thiện không lương giúp đỡ người khuyết tật
Trở về quê hương nhưng đau đáu trước bất
hạnh của đồng đội cùng những di chứng chất độc da cam khiến nhiều con
em cựu chiến binh bị tật nguyền, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt đã bàn với
các đồng đội tổ chức trung tâm nuôi dưỡng và dạy nghề cho những số phận
bất hạnh này. Với sự tâm huyết của những cựu binh, Trung tâm nhân đạo
Hồng Đức ra đời. Thời điểm đó, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt đã trích
tiền tiết kiệm của mình và vận động bạn bè ủng hộ thêm để trung tâm duy
trì hoạt động.
Chỉ sau một thời gian, trung tâm của ông
Phiệt ngày càng phát triển với sự góp sức của 12 thành viên cựu chiến
binh Phòng không - Không quân. Ban đầu, họ góp tiền mua cơ sở vật chất,
nhờ “trụ sở” tại nhà của một người tại Lạc Trung, Hà Nội. Ông Phiệt giữ
chức danh giám đốc.
Xong phần trụ sở, ông Phiệt và đồng đội
bắt đầu liên lạc với các Hội chữ thập đỏ ở các huyện vùng sâu, xa để
nhận trẻ em bị chất độc hóa học, khuyết tật… về để chăm sóc, nuôi dưỡng
và dạy nghề. Khóa học đầu tiên gồm 13 học viên, em thì khoèo tay, cụt
chân, em thì vẹo lưng… Số tiền nuôi các em và trả cho giáo viên dạy
nghề, ông Phiệt và nhóm bạn phải tự trích từ quỹ lương hưu của mình và
đi xin tài trợ khắp nơi.
Để duy trì hoạt động bền vững của trung
tâm, trên cương vị giám đốc, ông mời giáo viên dạy nghề mây tre đan,
nghề may, thêu cho các em, rồi lặn lội tìm nơi tiêu thụ. Trời chẳng phụ
công người, các sản phẩm các em làm ra đều được bao tiêu hết. Nhờ đó,
nhiều em có thể tự lo liệu cuộc sống và cưu mang thêm nhiều người có
cùng cảnh ngộ.
Đầu năm 2010, do tuổi cao, ông Phiệt đã
bàn giao chức Giám đốc cho một cựu chiến binh khác. Nhưng không vì thế
mà việc từ thiện của ông bị gián đoạn, hiện ông vẫn dành thời gian rảnh
rỗi của mình đến các cơ sở, thăm nom các cháu ở Trung tâm nhân đạo Hồng
Đức. Với ông, “mặt trận” giúp đỡ người khuyết tật sẽ theo đến cuối cuộc
đời…
C.Tuân – Đ.Tuệ/Báo Gia đình & Xã hội
Trong chớp lửa SAM-2
QĐND - Đã gần 80 tuổi nhưng Trung tướng Nguyễn Văn
Phiệt, Anh hùng LLVT nhân dân, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57,
Trung đoàn 261, Sư đoàn 361 trong Chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên
không” chỉ huy đồng đội bắn rơi 4 máy bay B-52, vẫn còn mẫn tiệp với nụ
cười hào sảng và phong thái đĩnh đạc, dễ gần...
BỘ KHÍ TÀI ĐẶC BIỆT
Nhớ về những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt cho biết, năm 1965, sau chiến công
đầu của bộ đội tên lửa, ta xác định cần phải tiếp tục xây dựng đội ngũ
cán bộ, chiến sĩ tên lửa phòng không có trình độ. Đảng, Bác Hồ đã quyết
định đưa một số cán bộ, chiến sĩ sang Liên Xô học chuyển loại khí tài,
trong đó có Nguyễn Văn Phiệt. Quá trình học tập ở nước bạn, có một kỷ
niệm mà cho đến giờ Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt vẫn không quên. Ông kể
rằng, khi mình và đồng đội học tập, thực hành trên bộ khí tài điều khiển
tên lửa, một vị tướng của bạn đã nói: “Nếu các bạn sử dụng tốt bộ khí
tài này thì sau này chúng tôi sẽ chuyển nó về cho các bạn”. Người sĩ
quan trẻ Nguyễn Văn Phiệt cứ nghĩ đó là câu nói đùa nhưng vẫn lấy bút
viết tên mình lên bóng đèn báo sóng để đánh dấu.
Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt. Ảnh: DUY ĐỨC
Kết thúc khóa học, về nước đầu tháng 10-1966, Nguyễn Văn Phiệt được
điều động về làm sĩ quan điều khiển tại Tiểu đoàn 93, Trung đoàn 278, Sư
đoàn 365. Khi tiến hành các thủ tục nhận khí tài, Nguyễn Văn Phiệt rất
đỗi mừng vui khi nhận ra bộ khí tài mà ông và đồng đội đã được học tập,
huấn luyện và bắn thử tại Capakum (thuộc Liên Xô). Sau khi nhận khí tài,
đơn vị được lệnh cơ động lên Cao Phong, Hòa Bình chiến đấu. Ngày
22-10-1966, trong một trận đánh, Tiểu đoàn 93 đã bắn rơi tại chỗ một máy
bay F105 của địch. Cũng từ đây, bộ khí tài này đã theo tiểu đoàn chiến
đấu liên tục suốt 1.300 giờ trên khắp các chiến trường Vĩnh Linh (Quảng
Trị), Quảng Bình...
“Tháng 5-1968, tại trận địa thuộc địa bàn huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An, bộ khí tài này bị hư hỏng, được sửa chữa và đưa vào kho làm khí tài
dự trữ. Thời điểm này, hai trung đoàn 278 và 275 được điều vào miền Nam
tham gia chiến đấu. Trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc
Mỹ ra miền Bắc, tôi được điều động về làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 57,
Trung đoàn 261, Sư đoàn 361 bảo vệ Thủ đô Hà Nội. Thêm một sự may mắn
và ngẫu nhiên nữa, trên cương vị Tiểu đoàn trưởng, trong khi nhận khí
tài bổ sung, tôi gặp lại bộ khí tài này và nó đã tham gia chiến dịch 12
ngày đêm bảo vệ bầu trời Hà Nội”-Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt nhớ lại. “PHÁO ĐÀI BAY” ĐỀN TỘI
Kể lại những năm tháng hào hùng 45 năm trước, Trung tướng Nguyễn Văn
Phiệt cho rằng, căn cứ tình hình thực tế lúc bấy giờ, ta xác định ưu
tiên đạn tên lửa để đánh B-52. Có ý kiến cho rằng chúng ta thiếu đạn,
điều đó không hoàn toàn đúng. Thế nhưng có những lúc cả trung đoàn tên
lửa với 4 tiểu đoàn thì 2 tiểu đoàn không có đạn trên bệ, bởi lý do bộ
phận kỹ thuật lắp ráp đạn không kịp... Khó khăn là vậy nhưng giữa các
tiểu đoàn không thể bổ sung đạn cho nhau vì mỗi tiểu đoàn tên lửa có một
“phách” riêng, đó là tần số sóng của từng đơn vị. Ông cũng cho rằng,
trong Chiến dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”, chúng ta có một số
cải tiến trên SAM-2 nhưng việc “nối tầng” tên lửa là thông tin không
đúng. Những chi tiết ta cải tiến trên tên lửa SAM-2 là cải tiến phần đầu
nổ để các mảnh nổ nhiều hơn, dẫn đến xác suất tiêu diệt mục tiêu cao
hơn; ta thay đổi về công suất điện áp của cánh sóng để chế áp điện tử
gây nhiễu của máy bay địch gây ra cho các đài điều khiển tên lửa của ta.
Rút kinh nghiệm chiến đấu cùng kíp trắc thủ trong Chiến dịch “Hà
Nội-Điện Biên Phủ trên không”, đồng chí Nguyễn Văn Phiệt ngồi bên phải.
Ảnh tư liệu
Bên cạnh các yếu tố về kỹ thuật, Phòng không Việt Nam đã kết hợp yếu
tố về chiến thuật để tiêu diệt B-52. Để thả bom chính xác, B-52 phải căn
cứ vào các địa tiêu cố định trên thực địa, do vậy bắt buộc phải bay
theo những đường bay cố định. Lợi dụng điểm yếu này, ta đã bố trí các
trận địa tên lửa tập trung đánh vào những đường bay cố định của B-52...
Kể về 12 ngày đêm chiến đấu ác liệt, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt cho
biết: 15 giờ ngày 18-12-1972, toàn đơn vị nhận được lệnh ăn cơm sớm để
chuẩn bị chiến đấu. 19 giờ, một tốp F111 bỏ bom vào trận địa. Một lúc
sau, màn hình ra-đa trắng xóa do bị ảnh hưởng nhiễu tích cực từ các tốp
máy bay địch phát ra. Đêm đó, Tiểu đoàn 57 phóng 11 quả đạn nhưng không
hạ được chiếc máy bay nào. Toàn đơn vị củng cố quyết tâm phải bắn rơi
B-52 tại chỗ. 4 giờ 30 phút ngày 22-12, đơn vị báo động vào cấp 1, cấp
trên giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn phải tiêu diệt tốp B-52 đánh vào khu
vực Yên Viên. Lúc này, Tiểu đoàn 57 chỉ còn 3 quả đạn trên bệ, Tiểu đoàn
trưởng Nguyễn Văn Phiệt trực tiếp chỉ huy kíp chiến đấu. Theo lý thuyết
thì phải dùng 2, 3 quả tên lửa đánh một tốp B-52 nhưng lúc này để tiết
kiệm đạn, tiểu đoàn trưởng đề nghị đánh “mổ cò”, dùng quả một. 5 giờ 9
phút, máy bay vào cự ly phóng 35km. Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt ra
lệnh phóng quả thứ nhất, quả đạn không rời bệ; phóng tiếp quả thứ hai,
đạn đi điều khiển tốt. Khi quả đạn đi được 15km thì nhìn thấy tín hiệu
B-52 trùm trên dải nhiễu. Bộ phận trắc thủ sau nhiều ngày chiến đấu đã
có những kinh nghiệm điều khiển sao cho mỗi đường đi của B-52 nằm gọn
trên một dải nhiễu và lúc này trên màn hình xuất hiện 3 dải nhiễu riêng
biệt, tượng trưng cho đường đi của 3 chiếc B-52. Trên mỗi dải nhiễu là
một tín hiệu của chiếc B-52 dù rất mờ nhưng kíp trắc thủ đã nhanh chóng
bám chặt tín hiệu B-52, đạn được điều khiển đúng và B-52 bị tiêu diệt.
Sau đó 10 phút, kíp chiến đấu lại bắt được mục tiêu B-52 vẫn đi theo
đường bay cũ. Trên bệ phóng chỉ còn duy nhất một quả đạn, kíp chiến đấu
Tiểu đoàn 57 quyết tâm tiêu diệt máy bay địch. Khi máy bay địch vào cự
ly sát thương hiệu quả, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt lệnh phóng
đạn. Đạn nổ ở cự ly 24km, bắn rơi thêm một máy bay B-52 tại địa phận núi
Đôi. “Có thể nói đây là chiến công đặc biệt xuất sắc, Tiểu đoàn 57 là
đơn vị duy nhất của bộ đội tên lửa trong một đêm bắn rơi 2 chiếc B-52.
Đến đêm 22-12, đơn vị chúng tôi lại tiếp tục bắn rơi thêm một B-52 và
trở thành một trong hai tiểu đoàn bắn rơi nhiều máy bay nhất trong Chiến
dịch “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”-Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt kể
lại đầy tự hào. NGÔ DUY ĐÔNG
Bài 1: Chuyện kể của vị tướng già
Thứ ba, 18/12/2012 | 11:44:16 Sáng
Trung tướng, anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Phiệt
nói chuyện truyền thống đánh B52 trong chiến thắng 12 ngày đêm “Hà Nội -
Điện Biên Phủ trên không” với CBCS đoàn H50.
(HBĐT) - Không hẹn nhưng chúng
tôi được Thượng tá Lưu Văn Đại, Chính ủy Đoàn H50 cho biết: “Nhân kỷ
niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, chúng tôi
có mời Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Phiệt, người trực
tiếp chỉ huy tiểu đoàn tên lửa 52 chiến đấu bắn rơi 4 máy bay B52 trong
12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội năm 1972”. Với chúng tôi và cả cánh
lính trẻ Đoàn H50 đều coi đó là một dịp may hiếm có để được nghe, được
sống lại không khí chiến đấu trong 12 ngày đêm của những con người quả
cảm, kiên cường.
Người đặt bệ phóng cho chiến thắng B52 trên bầu trời Hà Nội
Dù
đã ở cái tuổi 75, nhưng vị tướng hai sao Anh hùng LLVT nhân dân, nguyên
là Bí thư Đảng ủy, Phó Tư lệnh về chính trị của Quân chủng phòng không -
không quân (PK-KQ) vẫn còn mẫn tiệp, luôn nổi bật với nụ cười hào sảng
và phong thái đĩnh đạc dễ gần, dễ mến. Giữa đám lính trẻ, ông bảo: ngày
xưa khi bắt đầu đi lính tớ cũng như các cậu, nhiều bỡ ngỡ lắm. Nhưng môi
trường quân ngũ đã rèn dũa để ngày càng trở nên mạnh mẽ, kiên cường.
Trong
câu chuyện của vị tướng già, tôi thấy ông nói nhiều về những trận đánh
của bộ đội tên lửa với những chiến công đã làm cho cả thế giới ngả mũ
thán phục trong chiến thắng 12 ngày đêm “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên
không” năm 1972. Dẫu thế, ông vẫn không quên kể về người đã đặt bệ phóng
cho bộ đội tên lửa lập nên những chiến công vang dội trong cuộc kháng
chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc. ông kể: năm 1962, trước tình hình
chiến tranh ngày càng quyết liệt đòi hỏi ta cần phải có sự chuẩn bị để
đủ sức đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi của chiến trường, Bác Hồ đã gọi
đồng chí Phùng Thế Tài, lúc đó đang là Tư lệnh phòng không lên. Trong
cuộc gặp đó, Bác đã hỏi: “chú làm Tư lệnh phòng không, chú có biết loại
máy bay B52 chưa”. Trong khi vị Tư lệnh còn đang lúng túng trước câu hỏi
đó thì Bác nói tiếp “cho dù chú có biết nhưng chú cũng không làm gì
được nó đâu, vì nó bay cao trên 10km. Chú mới có pháo cao xạ thì làm sao
mà bắn được nó. Nhưng bây giờ chú đã là Tư lệnh Phòng không rồi thì chú
phải tiếp tục theo dõi nó, nghiên cứu nó để rồi đánh nó”.
Sau
đó, cho đến tháng 6/1965, Mỹ đưa B52 bắt đầu đánh ra khu vực Bến Cát
thuộc phía tây bắc Sài Gòn, Bác lại theo dõi nó, đồng thời Người đã tiên
đoán sau này nhất định Mỹ sẽ dùng B52 đánh ra Hà Nội. Để sẵn sàng cho
kịch bản xấu nhất khi Mỹ dùng B52 đánh ra Hà Nội, trước đó, tại cuộc gặp
với đồng chí Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô vào tháng 2/1965 trong
chuyến sang thăm Việt Nam, Bác đã đề nghị Liên Xô giúp cho Việt Nam
tên lửa. Bởi Bác biết chỉ có tên lửa mới đánh được B52. Đây là loại vũ
khí, khí tài đặc biệt được Liên Xô bố trí bảo vệ xung quanh thủ đô
Matxcova. Với tên lửa SAM 2, lực lượng phòng không của Liên Xô đã bắn
rơi máy bay do thám U2 của Mỹ khi đang bay ở độ cao 20km trên bầu trời
Matxcơva. Lời đề nghị đó của Bác đã được phía bạn đồng ý, sau chuyến
thăm Việt Nam của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Bang Xô Viết từ tháng
2 cho đến cuối tháng 4/1965, Việt Nam đã tiếp nhận những bộ khí tài tên
lửa SAM 2 hiện đại nhất lúc bấy giờ. Và ta bắt tay ngay vào học tập sử
dụng.
Bởi
vì tên lửa SAM2 Liên Xô sản xuất từ năm 1952 bố trí ở Matxcơva lực
lượng phòng không Liên Xô đã bắn rơi máy bay do thám U2 của Mỹ khi đó
bay ở độ cao 20km. Khi bắt đầu học tập bạn yêu cầu phải 1 năm ta mới
đánh, nhưng trước yêu cầu đó, ta chỉ xin 3 tháng. Nhưng trên thực tế chỉ
59 ngày là ta đã làm chủ được loại khí tài đặc biệt này. Bạn đồng ý
ngay, từ tháng 2 đến cuối tháng 4 tên lửa đã sang đến Việt Nam
rồi. Bắt đầu 1/5/1965 ta bắt đầu học tập làm chủ khí tài tên lửa. Trong
những ngày đầu bỡ ngỡ, bạn sang giúp ta không chỉ huấn luyện mà còn
trực tiếp chiến đấu. Nhớ lại thời điểm ấy, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt
cho biết thêm: Mặc dù yêu cầu để sử dụng thành thạo bộ khí tài đặc biệt
này theo như phía chuyên gia Liên Xô thì phải mất đến 1 năm huấn luyện.
Thế nhưng với sự sáng tạo, trí tuệ của bộ đội ta chỉ mất có 59 ngày huấn
luyện đã có thể chiến đấu. Sau trận đầu đánh thắng máy bay Mỹ bằng tên
lửa, Bác mới bảo: Muốn bắt được cọp thì phải vào hang cọp. B52 đánh ở
miền nam thì bộ đội tên lửa phải vào trong đó để tìm hiểu cách đánh,
tích lũy kinh nghiệm cho những trận đối đầu với chúng trên bầu trời miền
Bắc. Có thể nói, ngay từ khi B52 còn chưa xuất kích, Người đã xây bệ
phóng, chuẩn bị cả khí tài và tinh thần cho cuộc đối đầu lịch sử 12 ngày
đêm trên bầu trời Hà Nội.
Chuyện về bộ khí tài đặc biệt
Năm
1965, sau chiến công đầu của bộ đội tên lửa, ta đã xác định cần phải
tiếp tục xây dựng đội ngũ CBCS tên lửa phòng không có trình độ, chất
lượng cao làm xương sống cho lực lượng bộ đội tên lửa còn non trẻ, Đảng
và Bác Hồ đã quyết định đưa một số CBCS sang học tập ở Liên Xô. Trong
đoàn chiến sỹ sang Liên Xô học tập về điều khiển tên lửa năm ấy có
Nguyễn Văn Phiệt. Trong quá trình học tập về điều khiển tên lửa ở Liên
Xô, có một kỷ niệm mà Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt không thể quên. ông
kể: khi mình học tập, thực hành trên bộ khí tài điều khiển tên lửa, một
vị tướng của bạn phụ trách việc đào tạo đã nói với anh em là các bạn mà
sử dụng tốt bộ khí tài này thì sau này chúng tôi sẽ chuyển nó về cho các
bạn. Lúc đầu tôi cứ nghĩ đó là câu nói đùa nhưng tôi vẫn lấy bút viết
tên mình lên bóng đèn báo sóng để đánh dấu. Và đúng như lời hứa, saukhi
về nước, chúng tôi đã nhận lại được đúng bộ khí tài đó. Đó là một món
quà thật đặc biệt. Nó đã theo Tiểu đoàn chiến đấu một cách bền bỉ liên
tục suốt 1.300 giờ trên khắp các chiến trường từ Vĩnh Linh, Quảng Bình
và tham gia hiệu quả, bền bỉ trong chiến dịch 12 ngày đêm bảo vệ bầu
trời Hà Nội trước những cuộc không kích ác liệt của hàng nghìn lượt máy
bay chiến đấu không lực Mỹ ném bom, bắn phá. Với bộ khí tài này, dưới sự
chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt, Tiểu đoàn 52 anh hùng đã
bắn rơi 21 máy bay các loại, trong đó có 4 máy bay B52, 7 máy bay F111
và 10 máy bay các loại trên khắp các chiến trường mà nó tham chiến.
(Còn nữa)
Mạnh Hùng
Bài 2: Chiến thắng của bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc Việt Nam
Thứ tư, 19/12/2012 | 4:44:32 Chiều
Sát cánh cùng Bộ đội ra-đa, tên lửa, lực lượng pháo
cao xạ cũng được củng cố, với quyết tâm tạo nên lưới lửa dày đặc, thiêu
cháy giặc trời. (ảnh intenet).
(HBĐT) - “Trong 12 ngày đêm
chống lại cuộc tập kích lớn nhất trong lịch sử chiến tranh bằng không
quân của nước Mỹ, cho dù tương quan về sức mạnh quân sự nghiêng hẳn về
phía Mỹ nhưng ta vẫn giành thắng lợi, bắn rơi 34 máy bay B52 và hàng
chục máy bay các loại buộc Mỹ phải ký kết hiệp định Pari rút quân về
nước và công nhận Việt Nam là một quốc gia. Chiến thắng đó đã khẳng định
bản lĩnh, trí tuệ và tầm vóc của dân tộc Việt Nam, mở đầu cuộc nói
chuyện với cánh lính trẻ Đoàn H50, vị tướng Anh hùng LLVT nhân dân
Nguyễn Văn Phiệt đã nhấn mạnh.
12 ngày đêm vạch nhiễu tìm thù
Trong
chiến dịch 12 ngày đêm Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không, Sư đoàn phòng
không 361 anh hùng là đơn vị bắt rơi nhiều máy bay nhất với 29 chiếc,
trong đó có 25 máy bay B52, 4 máy bay F111. Trong chiến công đó, riêng
Tiểu đoàn 52 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phiệt chỉ huy trong 2 ngày
21 và 22/12 đã bắn rơi 4 máy bay B52 bằng... 5 quả đạn tên lửa. Với
chiến công này đã làm quân thù khiếp sợ. Sau này, trong cuộc gặp gỡ lại
những cựu binh Mỹ lái máy bay B52 bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội, gặp
ông ai cũng bảo: Khi nhận lệnh bay vào ném bom Hà Nội, cứ nghĩ đến những
quả đạn tên lửa của Tiểu đoàn do Nguyễn Văn Phiệt chỉ huy là thấy bủn
rủn tay chân với những dự cảm lành ít, dữ nhiều.
Dù
thế, theo như Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt, để bắn hạ máy bay B52 không
phải là chuyện dễ. Bởi khi đó, Tổng thống Nixon và bộ máy chiến tranh
của Mỹ tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh hủy diệt của máy bay B52. Chúng
cho rằng pháo đài bay B52 là bất khả xâm phạm. Ngoài việc được tích hợp
những công nghệ tiên tiến, hiện đại nhất lúc bấy giờ, máy bay B52 còn
được trang bị những công nghệ điện tử gây nhiễu chủ động làm mù hệ thống
rada của ta. Bên cạnh đó, khi làm nhiệm vụ ném bom, mỗi máy bay B52 còn
được cả một phi đội với hàng chục chiếc máy bay chiến đấu hiện đại bậc
nhất hộ tống, bảo vệ nhằm ngăn chặn mọi cuộc tấn công của hỏa lực phòng
không với đồng thời các máy bay hộ tống cũng trở thành một nguồn gây
nhiễu tích cực. Dù vậy, với trí tuệ và sự nhạy bén ta đã kịp thời rút
kinh nghiệm, tìm ra những phương án, cách đánh sáng tạo để bắt máy bay
Mỹ đền tội trên bầu trời Hà Nội, Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt nhấn mạnh.
Cuối
năm 1972, nhằm cứu vãn sự thất bại trên bàn đàm phán tại Pari và cứu
vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn tại miền Nam, Tổng thống Nixon đã
phát động cuộc chiến tranh, leo thang dùng máy bay B52 bắn phá miền Bắc
với mưu đồ đưa Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá. Để thực hiện chiến dịch quân
sự này, Mỹ dùng 193/400 máy bay B52 của cả nước Mỹ, 1077/3044 máy bay
chiến thuật, số máy bay này bằng với số máy bay của cả nước Anh và Tây
Đức cộng lại. Ngoài ra, Mỹ còn đưa đến 6/24 tàu sân bay, 50 máy bay tiếp
dầu để tham chiến tại Việt Nam.
Đồng thời tích cực đẩy mạnh chiến tranh điện tử với việc huy động 15
máy gây nhiễu phủ sóng toàn miền Bắc. Để dọn đường cho B52 ném bom vào
Hà Nội, trước đó, Mỹ đã huy động hàng trăm máy bay F111 đánh phá các
trận địa tên lửa, phòng không làm cho chúng ta bị uy hiếp ngay từ lúc
đầu về tinh thần. Về phía ta, khi đó chỉ có 9 tiểu đoàn tên lửa và 6
trung đoàn pháo cao xạ bảo vệ thủ đô Hà Nội. Dù vậy, tất cả đã sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ thủ đô Hà Nội.
Sau
ngày 17/12, địch bắn phá ác liệt, đến đêm ngày 18/12, lực lượng phòng
không của ta bắn rơi tại chỗ được 2 máy bay B52. Còn ở Tiểu đoàn 52, sau
những trận chiến đấu ác liệt, đến 20h11 ngày 21/12 kíp chiến đấu của
tiểu đoàn đã bắt được dải nhiễu B52 đánh, khi đó chỉ còn 3 quả đạn, sau
khi vạch nhiễu, bắt mục tiêu, lệnh phóng nhưng đạn không đi do ống thu
áp lực bị hỏng. Dù tiếc nhưng ngay lập tức Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn
Phiệt đã phát lệnh phóng quả thứ 2. Đạn phóng tốt, điều khiển đến khoảng
cách 14 - 15km thì bắt được máy bay và ở cự ly 21km thì đạn nổ tiêu
diệt 1 B52. Ngay sau khi tiêu diệt máy bay B52, kíp chiến đấu lại tiếp
tục chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới trong khi chỉ còn 1 quả đạn. Với quả
đạn này, chỉ sau 10 phút kíp chiến đấu của Nguyễn Văn Phiệt cũng đã tiêu
diệt thêm 1 chiếc B52 nữa. Tiếp đó, đến đêm ngày 22/12/1972, cũng chỉ
với 4 quả đạn tên lửa, kíp chiến đấu của Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn
Phiệt cũng đã tiêu diệt thêm 2 máy bay B52 khi chúng chưa kịp ném bom.
Như vậy, trong chiến dịch 12 ngày đêm, Tiểu đoàn 52 của Nguyễn Văn Phiệt
đã bắn rơi 4 máy bay B52, góp vào chiến công chung của quân và dân Hà
Nội khi đã bắn rơi 34 máy bay B52.
Tiếp tục phát huy truyền thống đánh giỏi, bắn trúng
Sự
háo hức, tò mò của cánh lính trẻ Trung đoàn tên lửa 250 đã được thỏa
mãn với những câu chuyện chiến đấu, những chiến công và những kinh
nghiệm quý báu của lớp cha anh đi trước. Điều mà ngay từ đầu Thượng tá
Lưu Văn Đại, Chính ủy Trung đoàn tên lửa 250 đã khẳng định: buổi nói
chuyện này là dịp để CBCS trong Trung đoàn hiểu biết sâu sắc hơn về
truyền thống quý báu của quân chủng PK - KQ và truyền thống đánh giỏi,
bắn trúng của Sư đoàn 361 phòng không anh hùng cùng các trận đánh hay,
những gương chiến đấu tiêu biểu, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo trong sử
dụng vũ khí, khí tài được trang bị. Nhất là để những CBCS trẻ của Trung
đoàn hiểu và thấy được ý nghĩa, tầm vóc vĩ đại của chiến thắng Hà Nội -
Điện Biên Phủ trên không năm 1972. Từ đó xác định mục tiêu phấn đấu,
nâng cao chất lượng huấn luyện, làm chủ vũ khí, khí tài được Đảng và Nhà
nước trang bị, đảm bảo SSCĐ trong mọi tình huống, không để tổ quốc bị
bất ngờ với các tình huống từ trên không.
Với
ý nghĩa đó, trong những năm qua, CBCS Trung đoàn tên lửa 250 đã tích
cực thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ SSCĐ - quản lý vùng trời. Duy
trì nghiêm nề nếp, chế độ canh trực tác chiến từ cấp Trung đoàn đến các
phân đội. Thực hiện tốt nội dung 4 biết trong quản lý vùng trời. Chấp
hành nghiêm 10 chế độ SSCĐ, tổ chức canh gác ngày đêm chặt chẽ. Thiếu tá
Bùi Văn Trường, Chính trị viên Tiểu đoàn 152 cho biết: với việc không
ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện SSCĐ cũng như phát huy truyền thống
đánh giỏi, bắn trúng của đơn vị, trong năm 2011 và đầu năm 2012 thực
hiện nhiệm vụ công tác diễn tập, đơn vị đã tham gia bắn đạn thật với
những bài bắn khó tại trường bắn TB1 với 6 quả đạn đã đảm bảo xác xuất
trúng mục tiêu 100% được Tư lệnh quân chủng PK - KQ tặng bằng khen và Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng khen. Thiếu úy Trần Văn Nguyện, chiến sỹ Tiểu đoàn
152 khẳng định: chúng tôi luôn cảm thấy vinh dự khi được là chiến sỹ
của quân chúng PK - KQ anh hùng. Là thế hệ cán bộ chiến sỹ trẻ, chúng
tôi luôn xác định phải tích cực huấn luyện, không ngừng học hỏi, nâng
cao kỹ chiến thuật để phát huy hiệu quả vũ khí khí tài hiện có đảm bảo
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, quản lý tốt vùng trời.
Hồng Hà
21-12-2019
Tô Huy Rứa sinh ngày 4/6/1947 tại làng Đồn Điền, tổng Thủ Hộ, huyện
Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, nội trấn Thanh Hoá; nay là xã Quảng Thái,
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình dân chài ven biển.
Làng Đồn Điền, nơi “chôn nhau, cắt rốn” của Tô Huy Rứa thuở xưa vô cùng
nghèo khổ, còn có tên là “làng ăn mày”.
Giai thoại cho rằng, ông tổ của làng Đồn Điền là một ông lão ăn mày.
Nơi đây có ngôi đền thờ ông tổ cái bang, thờ một cây gậy và một cái bị,
cũng như lưu truyền những tập tục về xin ăn. Hàng năm, ba ngày Tết cả
làng có lệ bỏ đi ăn xin, bất kể già trẻ, nam nữ và những người quyền
cao, chức trọng… Sau Tết mới về, khi trở về, những gì xin được phải mang
ra đền làm lễ tế.
Chuyện xưa thực hư không rõ, nhưng điều này thì có thật: Những năm
1980, mưa bão triền miên, mất mùa thất bát. Để có thể sống sót, rất
nhiều người dân làng Đồn Điền bỏ quê đi tứ xứ hành khất, xin ăn. Phong
trào tha phương cầu thực cũng bắt đầu từ đó. Những năm 1982-1983, Quảng
Thái có hàng trăm người bỏ xứ đi tha phương cầu thực. Nhiều gia đình, vợ
chồng con cái đều dắt díu nhau đi ăn xin. Đặc biệt, những năm sau đó,
tình trạng trẻ em đang trong độ tuổi đi học bỏ học đi lang thang khắp
nơi.
Thống kê những năm 1993-1994, cả xã có hơn 700 em nhỏ đi lang thang,
có gia đình 3-4 trẻ đi lang thang đánh giày, bán báo, ăn xin… Một tư
liệu cho biết: “Trong số hơn 400 hộ dân ở Quảng Thái, có 249 hộ có
người ăn xin chuyên nghiệp. Năm 1995 có 571 lượt, năm 1998 có 167 lượt
người đi ăn xin“. Các nhà nghiên cứu gọi chuyện dân Quảng Thái đi ăn xin là “hiện tượng Quảng Thái”.
Năm 2012, khi Tô Huy Rứa tái cử Bộ Chính trị khoá XI, yên vị trên
chiếc ghế Trưởng Ban tổ chức Trung ương, vinh quang và cực kỳ quyền lực.
Lúc này tiền của bắt đầu đổ về nhà Tô Huy Rứa không đếm xuể, mệnh phụ
phu nhân Trương Tuyết Nhung về quê chồng ở Đồn Điền tạ ơn, công đức kinh
phí trùng tu tôn tạo đền thờ Thành hoàng của làng trở nên hoành tráng.
***
Nhà quá nghèo, học hành không đến nơi đến chốn, năm 1965, Tô Huy Rứa
tình nguyện vào lực lượng TNXP. Ngày 6/2/1967, Rứa được kết nạp vào ĐCS
và mấy năm sau, nhờ có tài ăn nói, hoạt ngôn, khéo tuyên truyền, cấp
trên gởi Rứa theo học tập ở trường Tuyên huấn Trung ương (sau nâng lên
Đại học Tuyên giáo, Phân viện Báo chí và tuyên truyền, nay là Học viện
Báo chí và tuyên truyền thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
Từ đây, Rứa xin ở lại trường, lần lượt làm trợ giảng, giảng viên… rồi
không biết bằng cách nào, lại kiếm được tấm bằng cử nhân Toán tại ĐHTH
Hà Nội. Học toán học, nhưng năm 1982 Rứa lại đi Nga để hoàn thành tiến
sĩ… Triết học.
Cuối năm 1993, tại hội nghị Trung ương 6 khoá VII, Lê Khả Phiêu được
bầu bổ sung vào Bộ Chính trị cùng với Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Hà Phan.
Năm 1995, trước thềm đại hội VIII, các phe quyết đấu để tranh giành
quyền lực. Nguyễn Hà Phan, đương kim Thường trực Ban Bí thư, là người
được Nguyễn Văn Linh ủng hộ để ngồi vào ghế thủ tướng khoá sau, bất ngờ
bị tố cáo, quy chụp chính trị.
Tháng 4/1996, hội nghị Trung ương 10, khoá VII đã khai trừ Nguyễn Hà
Phan ra khỏi đảng, chấm dứt sự nghiệp chính trị. Lê Khả Phiêu thay
Nguyễn Hà Phan ngồi ghế Thường trực Ban Bí thư, quyền lực nghiêng Trời.
Nhờ vậy, tại đại hội VIII tháng 12/1996, Lê Khả Phiêu đã đưa được một
loạt các đàn em đồng hương Thanh Hoá ngồi vào ghế Uỷ viên Trung ương,
trong đó có Tô Huy Rứa và Phạm Quang Nghị. Nếu như Phạm Quang Nghị trúng
cử Bộ Chính trị tại đại hội X năm 2006, thì Tô Huy Rứa phải đợi đến hội
nghị trung ương 8 khoá X tháng 1/2009 mới được bầu bổ sung vào Bộ Chính
trị.
Cuối năm 2009 đến đầu năm 2010, một sự việc gây chấn động dư luận cả
nước, đó là vụ Nguyễn Trường Tô chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang, hiệu trưởng
và đồng bọn “cưỡng dâm, mua dâm học sinh trung học”.
Ngày đó Tiến sĩ – Luật sư Trần Đình Triển là người bào chữa hai nữ
sinh bị xét xử tội “môi giới mại dâm” đã gởi đơn kiến nghị đến các cơ
quan trung ương, đơn cho rằng, vụ án có dấu hiệu oan sai và bỏ lọt tội
phạm: 15 cháu gái từ 13 – 17 tuổi bị gạ gẫm, ép buộc tình dục trong vụ
án này đều là nạn nhân, tính chất gần tương đồng nhau, đều bị cưỡng ép,
dụ dỗ, khống chế, đe dọa… buộc phải quan hệ tình dục hoặc lôi kéo người
khác phục vụ cho nhóm người của Sầm Đức Xương. Nếu gọi cho đúng tội danh
thì phải là “cưỡng dâm” hoặc “hiếp dâm trẻ vị thành niên”.
Luật sư Trần Đình Triển gửi kèm văn bản kiến nghị khẩn cấp, đơn kêu
cứu của hai bị cáo Hằng và Thúy, trong đó ghi rõ tên, số điện thoại và
chức vụ của một số cán bộ cấp tỉnh, huyện, doanh nhân tại Hà Giang đã
từng quan hệ tình dục với các cháu.
“Danh sách đen” khách mua dâm của Thuý và Hằng gồm 17 cán bộ Hà Giang. Trong đó có một số tên:
Nguyễn Trường Tô – Thường vụ tỉnh uỷ, Phó Bí thư – Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang – ĐT: 0913271133
Hùng – Giám đốc Ngân hàng Chính sách tỉnh – ĐT: 0913271307
Nguyễn Hoàng Tiến – sĩ quan Công an tỉnh (em ruột Nguyễn Binh Vận, Giám đốc CA Hà Giang) – ĐT: 0912061622
Định – Phó Chủ tịch huyện Vị Xuyên
Thành – Giám đốc Doanh nghiệp – ĐT: 0912144888
Dũng – GĐ Bưu điện tỉnh.
Sầm Đức Xương – Hiệu trưởng trường PTTH Việt Lâm.
Đinh Xuân Hùng – Giám đốc Ngân hàng Chính sách tỉnh Hà Giang
Bích – Trưởng phòng Tổ chức Công an tỉnh.
Hướng – Cán bộ Hải quan cửa khẩu Thanh Thủy.
Minh – Cán bộ Công an tỉnh Hà Giang.
Hoà – GĐ sở Nông nghiệp & Phát triển nông thôn.
…
Dư luận xã hội Việt Nam ngày đó “sốc toàn tập”. Bộ mặt nhà nước pháp
quyền đã bị “giáng một đòn chí mạng” bằng sự tha hoá đạo đức và suy đồi
về nhân cách của những cán bộ đảng viên có trọng trách, chức vụ, cũng
như một số trọc phú doanh nhân ở Hà Giang trong vụ án này.
Thậm chí, khi đứng trước nguy cơ bị cách tất cả các chức vụ, trong
bản báo cáo đề ngày 27/5/2010 gởi Uỷ ban Kiểm tra Trung ương, Chủ tịch
UBND tỉnh Hà Giang Nguyễn Trường Tô khẳng định, Nguyễn Bình Vận, Giám
đốc Công an tỉnh Hà Giang cũng đã quan hệ bất chính với nhiều phụ nữ…
Dân chúng vô cùng phẫn nộ, đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải ra tay
trừng trị, cho dù những kẻ phạm tội là ai, ở bất cứ cương vị nào. Những
cơ quan, cá nhân vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng nói trên cũng
cần phải bị xử lý nghiêm khắc theo pháp luật.
Cái tên Nguyễn Trường Tô và lũ yêu tinh được réo trên trang nhất các
tờ báo. Hình ảnh ông quan đầu tỉnh, sa đoạ trần truồng cũng được đăng
trên các trang mạng xã hội. Thế nhưng, có một người dùng quyền lực, hòng
bao che cho bọn cẩu quan hung bạo, đốn mạt và cuồng dâm này. Ông ta
muốn bịt miệng báo chí và dư luận, bằng cách gọi điện thoại ra lệnh cấm
các Tổng biên tập đăng các bài báo liên quan các cán bộ mua dâm, cưỡng
dâm tại Hà Giang.
Nhờ thế lực ở thượng tầng bảo kê, cho nên dù có đầy đủ bản cung khai
trước cơ quan điều tra, của các nạn nhân; cả báo cáo đầy đủ chi tiết,
tên tuổi các cá nhân hủ hoá, mang số 23- KSĐT ngày 8/3/2010 của Viện
kiểm sát Hà Giang, do đích thân Viện trưởng Ấu Duy Quang ký, gởi Uỷ ban
Kiểm tra Trung ương, thế nhưng, điều lạ lùng là những tên phạm tội vẫn
an toàn. Chắc chắn với quyền năng của mình, có nhân vật “giấu mặt” góp
phần can thiệp cho 17 tên “tai to mặt bự” sa đoạ và trác táng này, thoát
vòng tố tụng. Người đó không ai khác, chính là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí
thư trung ương đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo trung ương Tô Huy Rứa. (Còn nữa) Bình Luận từ Facebook
Hồng Hà
24-12-2019
Tiếp theo kỳ 1
Như đã nói ở kỳ trước,
luật sư Trần Đình Triển là người bào chữa miễn phí cho hai bị cáo
Nguyễn Thúy Hằng và Nguyễn Thị Thanh Thúy trong vụ án “Hiệu trưởng mua
dâm” có liên quan đến hàng loạt quan chức tại Hà Giang, trong đó có ông
Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô.
Phẫn nộ vì cho rằng Tô Huy Rứa can thiệp thô bạo đến các quyền được
hiến định của các cơ quan báo chí, ngày 11/7/2010, luật sư Trần Đình
Triển đã gởi thư đến đích danh Tô Huy Rứa. Nội dung thư cho biết, Văn
phòng Luật sư Vì Dân đã nhận được tin báo, vào ngày 9/7/2010, Tô Huy Rứa
với tư cách Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương đảng, Trưởng ban
Tuyên giáo Trung Ương đã gọi điện thoại mời đại diện Cơ quan chủ quản
một số báo chí và Tổng biên tập một số báo tới để yêu cầu không được
đăng tải thông tin về vụ việc liên quan đến ông Nguyễn Trường Tô.
Luật sư Triển cho rằng, vụ việc ông Nguyễn Trường Tô không thuộc bí
mật quốc gia, do đó báo chí phải được phép đưa tin và yêu cầu ông Tô Huy
Rứa phải trả lời và làm rõ sự việc trên. Nếu việc cấm cản báo chí là
thật, luật sư sẽ khởi kiện ông Rứa trước các tổ chức của Đảng và cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, nhằm xem xét tư cách Đảng viên, cũng như có hay
không việc vi phạm pháp luật của ông Tô Huy Rứa.
Đây là điều chưa từng xảy ra trong lịch sử đảng cộng sản, một luật sư
“dám” gởi thư chất vấn đương kim Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương, Trưởng ban Tuyên giáo đầy quyền lực, một người có khuôn mặt lạnh
lùng và “bàn tay thép” như Tô Huy Rứa. Còn nữa, LS Triển còn đòi đưa ông
ta ra điều trần trước tổ chức đảng. Điên tiết, nhưng Tô Huy Rứa đành
chịu, dù trong nhiều cuộc họp sau đó, Tô Huy Rứa thường nhắc đến tên
luật sư Triển như một cái gai trong mắt mình.
Tô Huy Rứa có “ớn” LS Trần Đình Triển không? Có. Thật ra, Trần Đình
Triển cũng không phải dạng vừa. Ông xuất thân là một sĩ quan của Học
viện An ninh, là Tiến sĩ luật, không “hoạt động dân chủ”, không đứng
theo phe nhóm chính trị. LS Trần Đình Triển đưa ra tinh thần phụng sự,
tôn chỉ hoạt động tư vấn rõ ràng:
– Bảo vệ đảng,
– Bảo vệ pháp luật,
– Bảo vệ nhân dân,
– Bảo vệ công lý và lẽ phải.
Vì thế, không có bất cứ lý do gì để Tô Huy Rứa “đập” được Trần Đình
Triển, chưa kể, Rứa sợ có thể có thế lực khác phía sau “cung đình” chống
lưng cho Triển, khi mà đại hội XI chỉ còn hơn 5 tháng nữa sẽ khai mạc
và tương lai tái cử rồi tiếp tục tiến xa với Rứa, là rất lớn. Tô Huy Rứa
không dại gì đâm đầu vào đá, vì vậy như cách các cô hoa hậu, diễn viên
mỗi khi tránh thị phi, scandal trong giới showbiz, Rứa chọn cách… im
lặng.
Vụ án rúng động đã khép lại. Sầm Đức Xương, kẻ “dắt gái” cho các quan
chức hàng đầu Hà Giang, lãnh án 9 năm tù. Nguyễn Trường Tô bị khai trừ
khỏi đảng, nghỉ hưu và xây một biệt phủ rộng hàng chục ngàn mét vuông,
kinh phí hàng trăm tỷ đồng, ở ngay tại huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang để
“vui thú điền viên”. Số quan chức còn lại không hề bị truy tố hay xử lý
kỷ luật. Thế mới biết, công lý có khi chỉ là… diễn viên hài!
Sau vụ bê bối này, vị Bí thư tỉnh uỷ Hà Giang là Hoàng Minh Nhất cũng
nghỉ hưu. Người thay Nhất là Triệu Tài Vinh, sinh 1968. Triệu Tài Vinh
đã xây dựng “đế chế” cả họ làm quan và đóng dấu sự nghiệp làm quan, với
vụ mua bán, gian lận điểm thi trong kỳ thi quốc gia gây phẫn nộ, rung
chấn và bàng hoàng chưa từng có, kể từ khi cái tên nước Việt Nam bắt đầu
ra đời.
Từ sau đại hội X, nhiệm kỳ 2006-2011 với sự tái đắc cử chức TBT của
Nông Đức Mạnh và tân thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận nhiệm vụ, quyền lực
bao trùm tất cả, chính thức thuộc về “cặp đôi” này. Vì thế, hàng chục dự
án ngàn tỷ làm ăn bệ rạc, tham nhũng tràn lan, một nền kinh tế bê bết…
nhưng luôn được che đậy. Thậm chí các đại án như PMU18, Vinashin,
Vinalines cũng “xoay chiều”, rơi vào ngõ cụt…
Là Bí thư Trung ương và là Trưởng ban Tuyên giáo, được bổ sung vào Bộ
Chính trị từ cuối năm 2009, Tô Huy Rứa hiểu rõ độ chênh của cán cân
quyền lực hiện tại, cho nên Rứa đứng về phía Ba Dũng.
Đại hội XI, nhiệm kỳ 2011-2016, Nông Đức Mạnh rời khỏi chính trường ở
tuổi 71, người ngồi vào ghế Tổng Bí thư là Nguyễn Phú Trọng, sinh 1944.
Theo các cán bộ cấp cao và giới thạo chính trường, lẽ ra chiếc ghế
TBT đã thuộc về Hồ Đức Việt (sinh 1947). Hồ Đức Việt là cháu nội “khai
quốc công thần” Hồ Tùng Mậu và là con trai của liệt sĩ Hồ Mỹ Xuyên, phó
bí thư Tỉnh uỷ Nghệ An. Hồ Đức Việt là ứng cử viên nặng ký cho “tứ trụ”,
hoặc chức vụ Tổng Bí thư, hoặc là Chủ tịch Quốc hội.
Hồ Đức Việt vốn học giỏi có tiếng, trước khi tham chính, Việt là Tiến
sĩ Toán-Lý, giảng dạy và làm Phó chủ nhiệm khoa Toán-Cơ trường ĐH Tổng
hợp Hà Nội.
Trước thềm đại hội XI, các phe bắt đầu vận động tranh thủ phiếu bầu
và không quên tấn công quyết liệt, giải quyết “ân oán giang hồ”, hòng
triệt tiêu các đối thủ.
Phe Thanh Hoá của Phạm Quang Nghị – Tô Huy Rứa muốn “níu” Hồ Đức Việt
lại, cho nên mới có vụ việc chấn động dư luận, lẫn chính trường: Vụ
“Tâm linh đàn Xã tắc”.
Xâu chuỗi những thông tin mơ hồ, suy diễn, hàng loạt đơn thư tố cáo
vợ chồng Hồ Đức Việt theo đúng kịch bản, bay tới tấp đến các cơ quan đầu
não, rằng Hồ Đức Việt mê tín dị đoan, yểm bùa, lập đàn khấn trời đất,
gọi “âm binh” trù úm các đối thủ chính trị. Nào là Hồ Đức Việt tham vọng
quyền lực, vận động hành lang, nhắm ghế TBT; nào là đạo đức và lối sống
bản thân có vấn đề, thể hiện trong các chuyến công du…
Hội nghị 14 khoá X diễn ra từ ngày 13 đến 22/12/2010, Hồ Đức Việt lúc
này là Trưởng Ban tổ chức Trung ương, phụ trách Tiểu ban nhân sự đại
hội XI. Trước đó, khi trình danh sách dự kiến giới thiệu nhân sự bầu BCH
Trung ương khoá XI cho Trưởng Tiểu ban Nhân sự Nông Đức Mạnh xem, khi
thấy tên con trai là Nông Quốc Tuấn và một số “người của mình” bị loại
ra vì lý do “thăm dò ý kiến phiếu thấp lắm”, Nông Đức Mạnh lồng lên, như
muốn ăn thịt Hồ Đức Việt. Giọt nước đã tràn ly…
Vậy là lại suốt 10 ngày hội hội nghị bàn cãi, các phe chạy đua và tấn
công nhau. Hồ Đức Việt chính thức bị “lên thớt”, liên minh Nghị – Rứa
đứng về phía họ Nông, ra đòn dồn dập về phía Hồ Đức Việt, những chuyện
không chấp nhặt đã lâu, giờ cũng thành gán ép “bê bối” dành cho đối
phương. Câu nói “ba đánh một, không chột cũng què” chẳng sai bao giờ.
Hơn nửa tháng sau, Hội nghị 15 vào ngày 9/1/2011, cách khai mạc chính
thức đại hội XI chỉ có 3 ngày. Lại bỏ phiếu để chốt, cái tên Hồ Đức
Việt chính thức bị loại ra khỏi danh sách đề cử “tứ trụ”. Thay vào đó,
Nguyễn Phú Trọng được đề cử chức Tổng bí thư khi bước sang tuổi 67, thay
cho Nông Đức Mạnh nghỉ hưu. Trương Tấn Sang ngồi ghế Chủ tịch nước thay
Nguyễn Minh Triết. Nguyễn Sinh Hùng được đề cử ghế Chủ tịch Quốc hội từ
Nguyễn Phú Trọng, dù đã ở tuổi 65. Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục giữ chức
thủ tướng nhiệm kỳ 2.
Tất cả đã an bài đúng như thế. Kết quả đại hội như mọi người đã biết,
Hồ Đức Việt trắng tay, thậm chí không có tên trong danh sách Uỷ viên
Trung ương khoá XI và chính thức giã từ sự nghiệp chính trị ở tuổi 64.
Buồn cho nhân tình thế thái, chán chường trong thăng trầm chính sự,
Hồ Đức Việt suy sụp tinh thần, đổ trọng bệnh và mất hai năm sau đó, hồi
tháng 5/2013.
Về phần Nghị và Rứa, cả hai thắng giòn giã. Phạm Quang Nghị, đương
kim Bí thư Hà Nội, vẫn giữ được ghế cho nhiệm kỳ thứ 2. Tô Huy Rứa điền
tên mình vào chiếc ghế “hái ra tiền” đỏ rực, ngồi thế chỗ Hồ Đức Việt đã
ngồi trước đây: Trưởng ban Tổ chức Trung ương. Từ đây, với uy vũ của
“kiến trúc sư trưởng” trong công tác nhân sự của đảng, ông Trưởng ban
mặc sức thao túng chính trường. Xem như Tô Huy Rứa đã toại nguyện, khi
chinh phục nấc thang quyền lực cao nhất của cuộc đời kẻ xuất thân từ
làng… ăn mày. (Còn nữa) Bình Luận từ Facebook
Cuộc truy bắt kẻ HÃM HIẾP, SÁT HẠI em họ dã man | Hành trình phá án | ANTV
Thám tử điều tra những án mạng trên đồi
Cuộc
điều tra về những vụ giết người man rợ ở Osage diễn ra vào những năm
đầu thế kỉ 20 là một trong những cuộc điều tra phức tạp và khó khăn nhất
của FBI. Trong vụ này, có khoảng 24 người Ấn Độ đã bị giết chết ở
Osage. Vụ án này đã khiến cho những người Ấn Độ còn lại ở Osage phải
khiếp sợ và luôn phải sống trong nỗi lo sẽ bị giết hại.
Tháng 5-1921, một xác chết đang phân hủy
đã được cảnh sát phát hiện ở vùng đồi núi phía Nam của Oklahoma. Danh
tính xác chết này được xác định là của Anna Brown. Kết quả khám nghiệm
tử thi cho thấy ở đầu của Anna Brown có nhiều vết đạn bắn qua và cảnh
sát kết luận cô ta chết do những phát đạn này.
Thám tử điều tra những án mạng trên đồi,
Sau 2 tháng người ta lại phát hiện ra mẹ
của cô ta, bà Lizzie Q cũng bị chết. 2 năm sau, cũng ở tại gia đình này
ông bác Henry Roan cũng bị kẻ thủ ác bắn chết. Chưa dừng lại ở đó,
trong năm 1923 liên tiếp chị gái Anna và một người anh trai cũng thiệt
mạng khi nhà của họ bị đánh bom.
Để có được một cái nhìn toàn diện về những vụ giết người này cảnh sát liên bang Mỹ cùng những Thám tử với nhiều kinh nghiệm đã vào cuộc.
Trong những nỗ lực điều tra ban đầu của cảnh sát liên bang, và Văn phòng thám tửhọ
đã phát hiện ra và đang tập trung vào điều tra hồ sơ của William Hale.
Hắn ta được gọi với một biệt danh là “Kẻ thống trị đồi Osage”.
Hale nổi tiếng với sự tham lam và tàn
nhẫn. Để có thể có được thứ vàng đen này, hắn sẵn sàng đánh đổi mọi thứ
trên đời. Sau một thời gian điều tra, những sự liên quan giữa Hale và
những cái chết thương tâm trong đại gia đình của Anna Brown đã được làm
rõ.
Trong những nỗ lực điều tra của mình,
FBI còn phát hiện ra nhiều tình tiết mới về tội ác của Hale. Hồi đó hắn
còn sai tay chân gây ra một số vụ giết người rồi ngụy trang sao cho
giống như một vụ tự tử. Một trong số tay chân đắc lực của hắn là John
Ramsey. Sau khi gây ra nhiều vụ giết người man rợ, Ramsey đã bị cảnh sát
sờ gáy. Hắn đã thừa nhận những vụ giết người hàng loạt mà chủ mưu là
William Hale.
Ngay sau đó Hale bị bắt vì tội danh giết
người và tổ chức giết người. Phiên tòa xét xử tên này đã diễn ra với sự
chứng kiến của số đông dân chúng tại Osage.
Trích từ _ Xaluan.com
Hơn 40 thanh niên dùng hung khí truy sát 2 cha con do mâu thuẫn đất đai
Hoàng Dương - Phương Linh |
1
Nhóm giang hồ hơn 40 người truy sát 2 cha con vì tranh chấp đất đai.
Được cho là do mâu thuẫn đất đai, hai cha con ông Hùng ở
xã Quốc Tuấn (huyện An Lão, Hải Phòng) bị một nhóm hơn 40 người chém
trọng thương.
Thông tin từ Công an huyện An Lão (Hải Phòng)
ngày 31/12 cho biết, Cơ quan CSĐT, Công an huyện đã lấy lời khai bà
Khổng Thị Ty (SN 1955, HKTT tại xã Quốc Tuấn, huyện An Lão) để làm rõ vụ
việc chồng, con trai bà Ty bị chém trọng thương trên địa bàn xã Quốc
Tuấn, huyện An Lão.
Nhóm giang hồ hơn 40 người truy sát 2 cha con vì tranh chấp đất đai.
Theo
trình báo của bà Ty, vào 8 giờ ngày 25/12, gia đình bà Ty đang ở tại
khu đất làm cửa hàng vật liệu xây dựng trên địa bàn thôn Đâu Kiên, xã
Quốc Tuấn, huyện An Lão thì xuất hiện vợ chồng ông Th, bà N dẫn theo hơn
40 thanh niên mang theo hung khí cùng chiếc máy xúc đến khu đất gia
đình bà Ty đang sử dụng.
Nghe bà Ty nói đến để hồi khu đất, Đỗ Văn
Trường (SN 1982, con bà Ty) bỏ vào nhà em trai bằng cửa sau ở bên cạnh
khu đất. Ở bên ngoài, bà N chỉ đạo máy xúc húc đổ cổng, chỉ đạo nhóm
thanh niên phá dỡ tường bao.
Thấy ông Đỗ Văn Hùng (SN 1954) -
chồng bà Ty đứng ở khu vực trồng cây phía sau khu đất, bà N hô hoán mọi
người lao vào chém. Theo “lệnh” của bà N, hàng chục đối tượng dùng dao
kiếm lao vào tấn công ông Hùng.
Hai cha con ông Hùng bị chém trọng thương.
Thấy
bố bị tấn công, Trường từ trong nhà em trai vội tiến đến căn ngăn,
nhưng những đối tượng này tiếp tục quay sang tấn công Trường, phá cửa
nhà em trai Trường để truy sát.
Thấy con bị nhiều người lao vào đâm chém, bà Ty lao vào che chắn cho con mới khiến các đối tượng chịu dừng tay.
Nhóm giang hồ hung hãn mang theo giáo mác truy sát hai cha con ông Hùng.
Theo
đại diện Bệnh viện Đa khoa Kiến An (Hải Phòng), các nạn nhân khi được
đưa vào cấp cứu có nhiều thương tích trong đó ông Hùng bị chém vùng mặt,
vùng đầu, phải khâu hàng chục mũi; Trường bị chém gãy tay trái, đứt gân
tay trái, bị đứt gân chân trái, bị chém vào đầu, vào mặt, vào lưng phải
thực hiện nối gân tay, gân chân, khâu những vết thương vùng mặt, đầu …
Sau khi bị truy sát, anh Trường cho biết, nguyên nhân vụ việc là do mâu thuẫn đất đai.
Công an huyện An Lão đang xác minh, điều tra vụ việc.
Điều tra vụ án mạng ở huyện Quan Sơn
Chủ Nhật, 01/12/2019, 19:57:06
NDĐT-
Ngày 1-12, Công an Thanh Hóa đang điều tra làm rõ cái chết của bà Ngân
Thị Oan (54 tuổi) được chồng đưa từ rẫy về nhà riêng trong tình trạng đã
tử vong và trên cơ thể có đường đạn xuyên vai trái.
Nhà riêng của nạn nhân.
Được
biết, ông V.V.Ph (53 tuổi) và vợ là bà Ngân Thị Oan có hộ khẩu thường
trú tại khu 1, thị trấn Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa nhưng hai vợ chồng
thường lên chòi canh trên rẫy trồng hoa màu của gia đình, cách nhà riêng
khoảng 1km để ở.
Sáng cùng ngày, ông V.V.Ph đưa bà Oan từ rẫy về nhà trong tình trạng
có vết đạn xuyên vai trái, đã tử vong. Người thân của ông Ph trình báo
vụ việc tới chính quyền cơ sở và cơ quan chức năng.
Công an huyện Quan Sơn cùng các phòng nghiệp vụ Công an tỉnh Thanh Hóa khẩn trương thụ lý vụ việc, điều tra rõ vụ trọng án.
MAI LUẬN
Điều tra án mạng từ dấu vết côn trùng trên thi thể
Côn trùng có thể trở thành đầu mối cung cấp thông tin quan trọng giúp cảnh sát để phá án.
Cùng với việc thu thập chứng cứ ở hiện trường, các nhà điều tra còn chú ý
tới những sinh vật có mặt trên cơ thể hoặc xung quanh cơ thể nạn nhân.
Côn trùng học pháp y là ngành chuyên nghiên cứu các loài côn trùng xuất
hiện trong các vụ án, đặc biệt là án mạng.
Xác định địa điểm tử vong
Tháng 7/1991, cô Kim Martelloi ở quận Cam (bang California, Mỹ) được
thông báo mất tích. Ba ngày sau, hai du khách tìm thấy thi thể một phụ
nữ trên sa mạc Palm Springs (cách quận Cam 90 phút lái xe). Tuy nhiên,
do xác bị phân hủy quá mạnh, các điều tra viên phải mời nhà côn trùng
học pháp y David Faulkner hỗ trợ điều tra.
Nhà khoa học này ngay lập tức phát hiện ra điều bất hợp lý. Ông nói
những con giòi xuất hiện trên xác Martello không phải loài sống ở sa
mạc. Nếu cô bị giết ở Palm Springs, loài này không xuất hiện.
“Cơ thể nạn nhân bị hai chủng côn trùng khác nhau "xâm chiếm": Một đến
từ các loại côn trùng xuất hiện ở thành phố, và loại thứ hai sống trong
sa mạc”, David Faulkner giải thích.
Vị chuyên gia nhận định nạn nhân chết ở hiện trường thứ nhất và xác của
cô nằm ở đây đủ lâu để các loài côn trùng tìm đến trước khi bị mang đến
sa mạc - hiện trường thứ hai.
Bằng chứng này cùng một số manh mối khác thu thập ở sa mạc đã hướng cảnh
sát chú ý tới đối tác kinh doanh của nạn nhân. Họ xác định anh ta đã
bóp cổ Kim Martelloi trong một nhà kho và mang xác vào sa mạc.
Ông David Faulkner bên một vài mẫu côn trùng.
Theo tiến sĩ Jason Byrd, Chủ tịch của Hiệp hội côn trùng pháp y Bắc Mỹ,
côn trùng là bậc thầy về ngụy trang, bắt trước và tự vệ. Chúng có mặt ở
khắp mọi nơi và từ tập quán sinh hoạt, các con vật này có thể cung cấp
những thông tin quan trọng. Điều mà ít kẻ phạm tội có thể lường trước
được.
Faulkner, nhà nghiên cứu tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên San Diego, nói
rằng qua nghiên cứu loại côn trùng nào xuất hiện trên thi thể và vòng
đời của những con vật này, các nhà khoa học có thể ước lượng được thời
gian tử vong của nạn nhân. Dù không được chính xác đến từng phút, nhưng
việc ước lượng nằm trong khoảng nào đó giúp ích rất nhiều cho quá trình
điều tra.
Khi một xác chết xuất hiện sẽ có rất nhiều loài côn trùng bu đến, như
kiến, bọ gậy và bọ cánh cứng. Thế nhưng ruồi và ấu trùng của chúng
(giòi) được cho là công cụ xác định thời điểm tử vong hữu dụng nhất. Thi
thể khi phân hủy sẽ tạo ra chất dịch và khí gas. Mùi tỏa ra trong quá
trình đó sẽ báo hiệu cho một con ruồi biết rằng có một nơi rất giàu
protein để nó có thể đẻ trứng. “Một con ruồi có thể gần như ngay lập tức
có mặt và trong vòng 20 phút, những quả trứng đã xuất hiện", ông
Faulkner nói.
Các loài côn trùng có thể "thì thầm" cho các nhà nghiên cứu biết những
bí mật khác nhau nữa. Ví dụ, xác đã bị di chuyển hay không, có bị chôn
dưới đất hay không, thời tiết lúc đó thế nào... Bởi tất cả các yếu tố
này sẽ ảnh hưởng đến sự phân hủy của xác - căn cứ xác định thời gian
chết của nạn nhân.
Sử dụng côn trùng để bác bỏ chứng cớ vắng mặt
Trước khi giết chết năm thành viên gia đình, Vincent Brothers, cựu phó
hiệu trưởng trường Tiểu học Bakersfield, thành phố Bakersfield (bang
California) đã đặt vé máy bay đến Ohio (Mỹ).
Chuyến đi thăm anh trai của anh ta nhằm ngụy tạo bằng chứng vắng mặt
(cách xa hơn 2.000 dặm) cho tội giết người hàng loạt. Kế hoạch tưởng như
hoàn hảo nhưng hàng trăm con côn trùng trong chiếc ôtô đi thuê của anh
ta đã nói lên sự thật.
Theo điều tra, sau khi đến Ohio, Brothers thuê một chiếc xe và đi về
Bakersfield. Sau khi gây tội với gia đình mình, anh ta lái xe quay trở
lại Ohio.
Một giáo sư côn trùng học ở Đại học California - Davis đã xác nhận số
côn trùng trong bộ tản nhiệt và một số bộ phận khác của chiếc xe chỉ có
thể tìm thấy ở phía tây dãy núi Rocky. Manh mối này, cộng thêm một số
manh mối khác bao gồm cả đồng hồ tính dặm trên chiếc xe đã chỉ ra
Brothers chính là hung thủ.
“Những tên tội phạm sẽ nhớ đến việc đội mũ trùm tóc, sẽ nhớ đến việc đeo
găng tay, nhưng chúng sẽ không nghĩ đến việc rửa xe thật kỹ”, tiến sĩ
Jason Byrd nói.
Ngày nay ngành côn trùng học pháp y đã có những bước tiến dài nhờ sự
phát triển của khoa học kỹ thuật. Với những hiện trường không tìm thấy
xác chết, chỉ có máu và những con côn trùng, các nhà khoa học thậm chí
đã có thể lấy được ADN người từ bên trong các con này.
Hậu Dương (Theo Sandiego Union Tribune)
Chiếc bao tải đựng bộ xương khô
Trung QuốcNhững
dòng chữ, hình in trên chiếc bao tải đựng xác giúp cảnh sát tìm ra hung
thủ giết người, dù thời gian đã xóa hết chứng cứ khác.
Ngày 3/10/2014, người dân huyện Đồng Tử, tỉnh Quý Châu phát hiện chiếc
bao tải chứa bộ xương người. Cảnh sát xác định người chết là phụ nữ,
tuổi từ 18 đến 25, cao khoảng 1m65, ngạt thở do tác động cơ học từ một
đến ba năm trước.
Vì mẫu ADN của nạn nhân không có trong kho dữ liệu, ban chuyên án điều
tra từ chiếc bao tải có hình hai con lợn màu đỏ và dòng chữ "Nông Dụng
khoa kĩ". Với chi tiết này, cảnh sát hỏi tất cả các đại lí và cửa hàng
bán thức ăn chăn nuôi của công ty Nông Dụng tại huyện Đồng Tử.
Ngày 5/10/2014, cảnh sát được một chủ đại lí cho biết bao dùng đựng loại
cám chỉ bán tại thôn Hồng Hoa, huyện Đồng Tử. Điều tra sâu hơn, cảnh
sát xác định loại cám này được bán trong thời gian ngắn vào khoảng hai
năm trước, số lượng tiêu thụ không nhiều, chỉ người trong thôn mua. Ban
chuyên án bước đầu cho rằng hiện trường giết người ở thôn Hồng Hoa, nạn
nhân hoặc hung thủ là người thôn này.
Toàn huyện có hơn 200 người mất tích trong vòng từ một đến ba năm, trong
đó có 52 phụ nữ từ 18 đến 25 tuổi. Vì nạn nhân có thể là người thôn
Hồng Hoa, phạm vi điều tra chỉ còn 25 người. Qua lấy mẫu ADN của người
nhà 25 người mất tích, cảnh sát tìm ra người chết là Tăng Tiểu Huyên,
mất tích khoảng hai năm trước.
Khi Huyên còn nhỏ, bố mẹ cô đã quyết tâm phải gả con đến huyện lị để
thoát khỏi cuộc sống nông thôn vất vả. Hai năm trước, Huyên được giới
thiệu quen Dương Kiện ở thôn Hồng Hoa. Sau khi hai gia đình nói chuyện,
bố mẹ Huyên đồng ý gả con gái cho nhà họ Dương, đòi sính lễ 10.000 nhân
dân tệ. Khi đó Kiện và Huyên đều chưa đến tuổi kết hôn theo luật định.
Sau cưới, mỗi lần Huyên về nhà mẹ đẻ đều nói thường xuyên bị chồng đánh,
không muốn ở đây nữa. Do hai gia đình giao kèo bằng miệng "bên nào đề
nghị ly hôn trước sẽ phải bồi thường", vì thế lần nào mẹ Huyên cũng
khuyên con cố nhịn.
Mười tháng sau khi cưới, Kiện tìm gặp bố mẹ vợ nói Huyên đã bỏ nhà đi,
mang theo toàn bộ hành lí, giấy tờ cá nhân và điện thoại. Từ đó đến nay,
Kiện vẫn hiếu thảo với bố mẹ vợ, ngày lễ tết vẫn mang quà biếu. Do con
gái tự ý bỏ đi, bố mẹ Huyên sợ gia đình thông gia bắt bồi thường nên
không dám hỏi nhiều, cũng không đi báo cảnh sát.
Điều tra về quan hệ giữa hai vợ chồng nạn nhân, cảnh sát phát hiện nhiều
điểm đáng ngờ. Sau khi kết hôn, Kiện lười nhác nên hai vợ chồng thường
xuyên mâu thuẫn. Một thời gian trước khi Huyên mất tích, Kiện qua lại
với nữ sinh họ Đà, khiến quan hệ vợ chồng càng xấu hơn.
Một ngày sau khi Huyên mất tích, toàn bộ hơn 5.000 nhân dân tệ trong thẻ
ngân hàng của Huyên bị rút hết. Do thời gian đã lâu, video giám sát tại
cây ATM đã bị xóa, không biết ai là người rút tiền. Ít lâu sau, Kiện
chung sống với Đà và có một đứa con. Từ đây, cảnh sát nhận định Kiện có
động cơ gây án, nhưng lúc này anh ta đã bỏ đi, không tung tích.
Căn cứ thông tin do thôn dân cung cấp, ban chuyên án tổ chức đồng thời
bốn mũi truy bắt đến bốn khu vực Kiện có thể đang lẩn trốn. Ngày
24/10/2014, cảnh sát huyện Đồng Tử đã bắt được Kiện khi đang làm việc
tại nhà máy nhựa tổng hợp ở tỉnh Phúc Kiến.
Dương Kiện. Ảnh: CCTV.
Theo điều tra, Kiện kết hôn với Huyên theo sự sắp xếp của cha mẹ. Vợ
chồng trẻ thường xuyên mâu thuẫn. Kiện nảy sinh tình cảm với Đà và muốn
bỏ vợ.
Do giao kèo của hai gia đình, Kiện nhiều lần cố tình bạo hành, hy vọng
Huyên bỏ nhà đi hoặc đòi ly hôn. Tuy nhiên, ý đồ này không thành công vì
Huyên được gia đình khuyên chịu đựng.
Ngày 2/11/2012, trong lúc tranh cãi, Kiện siết cổ và bắt Huyên nói ra
mật mã thẻ ATM... Để che giấu tội ác, hắn gọi điện cho bạn thân là Dương
Thiện Huy đến bàn bạc. Sau khi phi tang thi thể nạn nhân, chúng rút
tiền trong thẻ ATM của Huyên chia nhau. Ngày 25/10/2014, Huy bị bắt vì
tội không tố giác tội phạm và cố ý tiêu hủy bằng chứng phạm tội.
Khang Diệp (Theo CCTV)
Ông lão được minh oan nhờ những lá thư tình
MỹViệc ông
Alvin (57 tuổi) giấu giếm gì trong căn nhà xập xệ ngoài rìa thị trấn
Ringgold (bang Georgia) là câu hỏi với nhiều người dân thị trấn suốt
nhiều năm.
Thỉnh thoảng, ông Alvin lẳng lặng đi lại trên phố nhưng ông ta không bao
giờ nói chuyện với ai, kể cả hàng xóm. Cả thị trấn không ai ưa ông
Alvin vì tính khí lạ lùng của người này. Khi còn trẻ, ông từng lái ôtô
quanh thị trấn với con búp bê thổi hơi ở ghế.
Cũng vì thế, tin đồn nhanh chóng lan ra toàn thị trấn sau khi họ biết
ông Alvin gọi 911 để báo tin vợ mình ngừng thở vào sáng 4/10/1997. Người
ta bàn tán ông có thể đã giam vợ dưới tầng hầm trong nhiều năm qua nên
chẳng mấy ai biết tới sự tồn tại của bà này.
Khi xe cấp cứu tới nơi, Virginia Ridley, vợ của ông Alvin, đã chết trong
tư thế nằm trên giường, trên người vẫn mặc nguyên quần áo. Thi thể đã
bắt đầu đông cứng, dấu hiệu cho thấy cái chết đã xảy ra ít nhất 8 tiếng
trước. Cảnh sát nghi ngờ tại sao người chồng lại chờ lâu như vậy mới gọi
cấp cứu.
Ông Alvin Ridley (phải) bên cạnh vợ Virginia Ridley. Ảnh: Filmrise.
Quan sát xung quanh, cảnh sát thấy rằng ngôi nhà của vợ chồng Alvin
không có điện thoại, không lắp đặt vòi nước, và đầy gián chuột. Họ không
tìm được giấy tờ cho thấy Virginia đã được điều trị sức khỏe tại bất cứ
bệnh viện nào trong phạm vi 100 dặm trong 30 năm qua. Cảnh sát cho rằng
đây có thể là dấu hiệu của việc Virginia bị chồng bỏ mặc trong nhiều
năm, chết trong tình trạng suy dinh dưỡng.
Tìm hiểu về Alvin, cảnh sát được biết trước kia là thợ sửa tivi, công
việc kinh doanh ban đầu khá tốt nhưng cuối cùng đóng phải cửa vì tính
khí lạ lùng, thích kiện tụng của ông chủ. Ông ta kết hôn với Virginia
vào năm 1966, khi bà mới 18 tuổi. Ít lâu sau, người vợ cắt đứt liên lạc
với gia đình vì lý do họ hay xen vào chuyện giữa hai vợ chồng.
Làm việc với cảnh sát, ông Alvin khai khi tỉnh giấc thì thấy Virginia đã
chết. Lúc đó, ông ta lái xe ra ngoài rìa thị trấn để gọi điện thoại
công cộng. Tới đây, cảnh sát đặt nghi vấn tại sao ông đi qua phòng cứu
hỏa trên đường đi nhưng không vào trong trình báo tin cấp cứu mà phải
lái tới ngoài thị trấn.
Trong lời khai, cảnh sát thấy khó hiểu khi ông ta không quay số điện
thoại của bệnh viện địa phương cách đó chỉ 10 phút xe chạy, mà lại gọi
cho bệnh viện ở thành phố ở địa phận bang khác cách xa hơn. Chỉ khi được
nhân viên bệnh viện yêu cầu quay số 911, Alvin mới làm theo. Dù vậy,
trong cuộc gọi tới 911, giọng nói của Alvin thiếu đi sự lo lắng thường
thấy trong tình huống tương tự, cảnh sát nhận định.
Khám nghiệm sơ bộ, giám định viên pháp y của thị trấn thấy rằng thi thể
nạn nhân ở trong tình trạng suy dinh dưỡng trước khi chết. Quanh mắt có
một vài chỗ bị xuất huyết, dấu hiệu thường thấy ở người tử vong do bị
ngạt thở hoặc siết cổ. Lần khám nghiệm tiếp theo, giám định viên lại
phát hiện vết thâm tím quanh cổ nạn nhân, đặc trưng khi bị bóp cổ. Cuối
cùng, giám định viên kết luận Virginia đã bị sát hại.
Ông Alvin bị khởi tố về tội Giết người nhưng khẳng định mình vô tội. Nếu bị kết tội, ông đối diện với án tù chung thân không ân xá.
Trong cáo trạng, công tố viên chủ yếu dựa vào bản kết luận khám nghiệm thi thể của phòng giám định địa phương.
Để tìm bằng chứng gỡ tội, luật sư bào chữa của Alvin tới thăm ngôi nhà
của thân chủ. Ở đây, luật sư phát hiện tường ngôi nhà dán hàng trăm
trang nhật ký viết tay, Alvin nói do Virginia viết. Nội dung nhật ký
viết về những hoạt động thường ngày của vợ chồng, nhưng chủ yếu là những
lá thư tình của người vợ dành cho chồng.
Chuyên gia pháp y do luật sư thuê đối chiếu chữ viết trên trang nhật ký
và bút tích trong quá khứ của Virginia để chứng minh chúng có cùng tác
giả. So sánh chữ ký, chuyên gia thấy trùng khớp, với đặc điểm nổi bật
nhất là lối viết thảo và chữ cái "i" trong chữ ký đều cao hơn các con
chữ khác.
Chữ "i" do Virginia ký nhiều năm trước và trong trang nhật ký có đặc điểm giống nhau. Ảnh: Filmrise.
Luật sư bào chữa cũng phát hiện Virginia bị bệnh động kinh từ nhỏ. Theo
những trang nhật ký, bà đã ngưng uống thuốc chữa động kinh từ nhiều năm
trước.
Khi mang bằng chứng tới bác sĩ thần kinh học, luật sư được biết những
vết xuất huyết quanh mắt của Virginia trùng khớp với hiện tượng chết đột
ngột ở bệnh nhân động kinh. Hiện tượng này thường xảy ra ở những bệnh
nhân không được điều trị đúng cách hoặc không uống thuốc. Ngoài ra, một
trong những triệu chứng thường thấy khác của bệnh động kinh là chứng ham
viết lách, điều này càng thêm củng cố Virginia là chủ nhân của những tờ
nhật ký dán quanh nhà.
Với những vết bầm quanh cổ, luật sư bào chữa thuê chuyên gia độc lập rà
soát lại quy trình khám nghiệm tử thi của giám định viên địa phương. Từ
đây họ phát hiện, nhân viên phòng giám định đã lấy máu từ cổ thi thể để
xét nghiệm độ độc nhưng việc làm này vi phạm vào quy trình khám nghiệm
thông thường. Luật sư bào chữa lập luận điều này có thể lý giải tại sao
vết bầm tím không được ghi nhận vào lần giám định đầu mà chỉ được phát
hiện vào lần sau.
Luật sư bên bị cũng xoáy sâu rằng đây là trường hợp tử vong đầu tiên mà
giám định viên pháp y địa phương phải khám nghiệm kể từ khi đảm nhiệm
chức vụ nên có thể còn thiếu kinh nghiệm. Đồng thời, luật sư cũng cho
rằng vị giám định viên có thể không công tâm vì có người nghe được giám
định viên nói "người phụ nữ này đã bị giam dưới tầng hầm trong 30 năm"
với đồng nghiệp.
Bên cạnh những chứng cứ trên, luật sư cũng tấn công vào yếu tố động cơ
gây án bằng câu hỏi: "Tại sao Alvin lại giết Virginia, người bạn duy
nhất của mình trong thị trấn này". Nhiều người đồn rằng ông Alvin giam
cầm và bỏ bê vợ trong 30 năm, nhưng tại sao khi chết, Virginia vẫn ở
trong trạng thái được chăm sóc chu đáo như được sơn móng chân và có
những chiếc trâm cài tô điểm mái tóc.
Luật sư vì thế cho rằng Virginia đã qua đời trong đêm vì bị chứng chết
đột ngột động kinh sau thời gian dài bỏ dùng thuốc. Vị này khẳng định
những trang nhật ký dán tường thể hiện cuộc sống hạnh phúc giữa hai vợ
chồng.
Làm chứng tại tòa, ông Alvin nói không dừng lại ở phòng cứu hỏa vì từng
gặp rắc rối với cơ quan này nên không còn tin tưởng. Ông gọi điện cho
bệnh viện ở xa vì đó là nơi đưa mẹ đi chữa bệnh từ nhiều năm trước và là
nơi duy nhất quen thuộc. Alvin kể ngay trước khi chết, Virginia lên cơn
co giật mạnh nhưng vẫn nói mình ổn. Ông cũng cho hay bệnh động kinh
cũng là lý do vợ không ra khỏi nhà vì quá xấu hổ.
Cuối cùng, sau hai tiếng nghị án, bồi thẩm đoàn ra phán quyết: Alvin vô
tội. Biết tin được trả tự do, người chồng này nói cảm ơn vợ vì đã ra làm
chứng trước tòa qua những trang nhật ký dán tường.
Ông Alvin và luật sư McCraken Poston. Ảnh: Catoosa News/Adam Cook.
Hiện, ông Alvin vẫn chủ yếu dành thời gian một mình ở ngôi nhà xập xệ
tách biệt với thị trấn, trừ những buổi ăn trưa cùng người luật sư năm
nào đã bảo vệ mình. Câu chuyện của ông đã được giới thiệu tới nhiều
người trên thế giới qua các chương trình phá án hình sự.