Nhật Bản không phải là quốc gia
tham chiến trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tuy nhiên, cường
quốc Viễn Đông ấy, bằng thực lực của mình, vẫn có những tác động âm thầm
nhưng then chốt đối với việc "dàn quân" của các bên, thông qua những
tính toán địa chính trị vào thời điểm đó.
Nói một cách khác,
Đệ nhất thế chiến có "thừa hưởng" những hệ quả từ cuộc chiến tranh Nga - Nhật năm 1905.
Lựa chọn không thể khác
Trận
Đối Mã (Tsushima) năm ấy xứng đáng được xem là chiến thắng huy hoàng
nhất trong lịch sử hải chiến của hải quân Nhật Bản, và hiệu ứng tâm lý
của nó là vô cùng đáng kể.
Người
ta không chỉ thấy một cường quốc đại dương mới nổi lên. Người ta thấy
một cường quốc đại dương (từ thời Piotr Đại đế) lụn bại. Lần đầu tiên,
một đoàn hải thuyền châu Á đánh bại hoàn toàn một hạm đội châu Âu, mà là
đánh bại theo cách thuyết phục nhất.
Hạm
đội liên hợp Thái Bình Dương của đế quốc Nga Sa hoàng đã bị xóa sổ sau
trận đánh đó. Nước Nga không còn việc gì để làm ở Viễn Đông, sau thất
bại đó nữa.
Nhưng, chỉ 10 năm sau, họ
đã lại dấn thân vào một cuộc chiến tranh mới, khốc liệt hơn gấp bội,
trước những đối thủ hùng mạnh hơn gấp bội. Điểm khác biệt chỉ là trong
Đệ nhất Thế chiến, chẳng còn ai nhắc đến hải quân Nga nữa.
Vấn
đề là, quân đội Nga vẫn thể hiện khá tốt năng lực của mình, và nếu
không gặp phải những biến động ở hậu phương, họ vẫn hoàn toàn có thể
cùng Anh và Pháp ca khúc khải hoàn.
Binh sĩ Nga trên chiến trường.
Thực
tế, có rất nhiều nguyên nhân để Anh và Pháp lôi kéo Nga vào cuộc "hoàn
cầu đại chiến" này. Ngược lại, nước Nga Sa hoàng cũng có đầy đủ lý do để
nhất thiết phải tham dự, và nhất thiết phải chọn lựa phía bên đó của
lằn ranh chiến tuyến. Thất bại trước Nhật Bản ép họ lựa chọn như thế.
Khi
Anh và Pháp nhận được tín hiệu cảnh báo rằng quân đội Nga Sa hoàng
không mạnh như người ta vẫn hình dung, cùng lúc với việc Đức và Áo -
Hung có thể cảm thấy hài lòng với sự suy yếu của địch thủ, thì những vận
động dây chuyền kế tiếp có lẽ lại đã bị xem nhẹ.
Dù
thua trận trước Nhật Bản trên biển, Nga vẫn là một khối tiềm lực khổng
lồ, và vẫn đầy tham vọng. Không thể tiếp tục tiến ra Thái Bình Dương bởi
Nhật Bản đã chặn đường, đế quốc ấy chỉ còn cách ưu tiên mọi sự tập
trung và mọi nguồn lực cho các mặt trận trên lục địa.
Rời
mắt khỏi các đường biên giới phía Đông ở châu Á, Nga quay lại chú tâm
tìm cách bảo vệ và nới rộng các đường biên giới phía Tây, nơi chắc chắn
họ sẽ va chạm trực tiếp với Đức - Áo - Hung.
Họ
cũng quan tâm hơn đến không gian phía Nam Âu, nơi sinh sống của những
người Slave với những mối liên hệ truyền thống, nhưng lại đã trở thành
bộ phận lãnh thổ của đế chế Áo - Hung. Họ cũng thèm khát đánh bại Thổ
Nhĩ Kỳ, nhằm qua đó chiếm lấy con đường biển "độc đạo" thông từ Hắc Hải
qua eo biển Darnaelles ra Địa Trung Hải.
Thổ
Nhĩ Kỳ thất bại liên tiếp trong hai cuộc chiến tranh trên bán đảo
Balkan những năm đầu thế kỷ XX, tình thế ấy khiến Nga cảm nhận được "vận
thế" của họ dần tốt lên. Rất nhanh, nước Nga Sa hoàng bảo đảm với xứ tự
trị Serbia nhỏ bé rằng họ sẵn sàng can thiệp vào mọi vấn đề rắc rối
liên quan đến biên giới (giữa Serbia với Áo - Hung).
Trong
khi đó, đế chế Áo - Hung lại có vẻ coi thường những "bại tướng" của
Nhật Bản. Theo Robert Leckie trong cuốn Đệ nhất Thế chiến, công sứ Áo ở
Serbia từng tuyên bố: "Phải làm cho Serbia biết sợ. Nếu không, các vùng
biên giới cũ của chúng ta và cả những tỉnh mới sáp nhập sẽ rơi vào tình
trạng nguy hiểm".
Và thế là, viên đạn
mà thích khách người Serbia nã vào Hoàng tử Áo - Hung Ferdinand đã trở
thành cái cớ để chiến tranh bùng nổ, một tia lửa bén vào thùng thuốc
súng, một cơ hội mà rất nhiều cường quốc chờ đợi. Trong đó có nước Nga,
dĩ nhiên.
Thất bại trước Nhật Bản, nhưng quân đội Nga vẫn là một khối tiềm lực khổng lồ.
Guồng quay nghiệt ngã
Phải
nói rằng nước Anh còn mong đợi cuộc chiến này hơn cả nước Nga Sa hoàng.
Sự trỗi dậy của nước Đức, đặc biệt là sự mở rộng các đội thương thuyền
Đức với tốc độ chóng mặt, có thể xem như một sự công nhiên thách thức vị
thế "Nữ hoàng của đại dương" mà nước Anh nắm giữ.
Say
sưa với những viễn cảnh tươi sáng, vua Đức Wilhelm thậm chí còn không
thèm giấu giếm ý định sẽ phát triển những hạm đội chiến đấu đủ sức so kè
với hải quân hoàng gia Anh.
Nước
Pháp cũng có những lý do riêng, để không thể bỏ lỡ cơ hội tham chiến.
Thua trận năm 1870 dưới tay nước Đức, họ bị cướp mất hai tỉnh Alsace và
Lorraine. Khi Quốc hội Pháp tuyên bố điều này, các đại biểu của hai tỉnh
ấy rời phòng họp trong nước mắt, và cả nước Pháp xem đó là "quốc
nhục".
Những vết hằn rớm máu này
thậm chí còn in dấu trên cả vài truyện ngắn thấm đẫm hương vị nhẹ nhàng
và tinh tế của Alphonse Daudet, trong tập Những vì sao (Les Etoilles).
Pháp
và Nga - những kẻ bại trận, tìm đến nhau một cách tự nhiên. Liên minh
của họ có thêm Anh, quốc gia sẽ bằng mọi giá bảo vệ vị thế. Rất "chiều
lòng" họ, phe "các cường quốc trung tâm" nhất quyết không tỏ ra mềm
mỏng.
Châu Âu trong Đệ nhất Thế chiến.
Bá
tước Leopold Von Berchtold - Bộ trưởng Ngoại giao Đức - phản ứng với vụ
ám sát Hoàng tử Ferdinand theo cách của một tay nghiệp dư. Ông ta lập
tức đề nghị đưa quân vượt qua biên giới, chiếm đóng Serbia. Và sau đó,
khi kế hoạch này bị phản đối (bởi thực sự Áo - Hung chưa chuẩn bị gì cho
tình trạng chiến tranh), ông ta cố gắng hạ nhục xứ tự trị đó.
Trước
tiên, Berchtold thuyết phục hoàng đế Đức hứa rằng sẽ ủng hộ Áo nếu Áo
bị Nga tấn công. Sau đó, Berchtold gửi cho Serbia một tối hậu thư, trong
đó đề ra cho tiểu quốc này thời hạn là 48 giờ để đáp ứng những yêu cầu
"mà không quốc gia tự trọng nào có thể chấp nhận".
Nói
ngắn gọn, đó là đòi hỏi Serbia phải "dập đầu nhận lỗi, bó gối xưng
thần". Và như Ngoại trưởng Anh - Sir Edward Grey - nhận xét: "Đây là yêu
sách nặng nề nhất mà một quốc gia này từng đưa ra cho một quốc gia
khác".
Serbia, có Nga đứng sau lưng,
đáp trả: "Không còn lựa chọn nào khác là quyết chiến". Ngày 28-7-1914,
Áo tuyên chiến với Serbia. Nước Nga Sa hoàng lập tức ban lệnh động viên
binh sĩ. Ngày 3107, Đức kêu gọi Nga dừng lại.
Tất
nhiên, khi guồng quay đã khởi động, không ai có thể ngăn cản nó dễ dàng
như vậy. Đức tuyên chiến với Nga. Rồi đến lượt Pháp ra lệnh tổng động
viên. Họ đã sẵn sàng chiến đấu với kẻ cựu thù để rửa nhục.
Vào
đúng thời điểm ấy, thực ra, nước Anh cũng đang gặp phải những rắc rối
trên đảo Ireland. Có điều, Luân Đôn cũng chẳng thể có lựa chọn nào khác.
Họ đã cam kết sát cánh với Nga và Pháp. Họ chỉ còn chờ đợi một điều:
Đức liệu có tôn trọng vị thế trung lập của nước Bỉ - điều mà nước Anh
cam kết bảo vệ?
Câu trả lời là: Không!
Giới
lãnh đạo nước Đức, không hiểu tại sao, lại tin rằng việc xâm phạm lãnh
thổ Bỉ "như một nhu cầu cấp bách về mặt quân sự" sẽ được Anh chấp nhận.
Ngày 3-8, Đức công khai đòi hỏi Bỉ mở một lối đi tự do vào đất Pháp.
Ngày 4-8, Anh tuyên chiến với Đức.
Cuộc chiến đẫm máu thứ hai trong lịch sử loài người bắt đầu, và quân đội Nga Sa hoàng có mặt trong "vai chính".
Chúng
ta hoàn toàn có thể tự hỏi: Nếu không thua trận Đối Mã, nếu không thua
trong cuộc đọ sức với Nhật Bản, nếu vươn được cánh tay của mình ra một
dải Viễn Đông - Tây Thái Bình Dương, liệu nước Nga có "mặn mà" với việc
dính vào những tranh chấp (vốn thực ra không liên quan gì nhiều đến họ) ở
cựu lục địa đến thế?
Liệu quân đội
Nga có dấn thân vào cuộc chiến ấy sâu đến thế, và tạo nên những tác động
mạnh mẽ đến thế trong kết cấu xã hội, một xã hội còn đang chưa yên biến
chuyển sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản (xuất hiện vào năm diễn ra
trận Đối Mã)?
Và loài người liệu sẽ có "Mười ngày rung chuyển thế giới", nếu hạm đội liên hợp Nga không bị đánh tan tành hay không?
theo An ninh Thế giới
Giải mật về cuộc đổ bộ lớn nhất trong Thế chiến II
Chỉ vài tuần trước khi diễn ra cuộc đổ bộ
lên Normandy, phe Đồng minh phải đổi mật danh từ Ngày D thành Halcyon
do lo ngại kế hoạch đã bị lộ.
Cuộc đổ bộ lên Normandy từng mang mật danh Halcyon chứ không phải Ngày D như các tài liệu đã ghi chép. Ảnh: Wikipedia.
Cuộc đổ bộ Ngày D lên Normandy vào tháng 6/1944 là một trong những
cuộc tấn công đổ bộ lớn nhất lịch sử nhân loại. Thành công từ cuộc đổ bộ
này đã tạo ra bước ngoặt lớn cho Chiến tranh Thế giới thứ 2, đẩy Đức
quốc xã vào thế yếu và thất bại không lâu sau đó.
Yếu tố bất ngờ chính là mấu chốt thành công trong cuộc đổ bộ Ngày D,
do đó đảm bảo tuyệt đối bí mật là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Trong các
chiến dịch quân sự, mật danh là yếu tố rất quan trọng đảm bảo tính bí
mật của nó. Người ta sẽ sử dụng mật danh trong các liên lạc giữa các đơn
vị quân đội lúc phối hợp hành động. Đối phương có thể nghe lén các cuộc
điện đàm nhưng việc sử dụng mật danh có thể khiến đối phương không phán
đoán được kế hoạch cụ thể.
Theo Warhistoryonline, con trai một sĩ quan quân đội Hoàng gia Anh đã
vô tình tìm thấy tập tài liệu tuyệt mật từ Thế chiến 2 khi ông ta dọn
dẹp. Trong tập tài liệu mật này có một tài liệu phác thảo về việc đổi
mật danh cho kế hoạch đổ bộ Ngày D.
Các tài liệu được công bố vào năm 1999 bởi Paul Wheeler con trai của
Sam Wheeler, một sĩ quan quân đội Anh trong Thế chiến thứ 2. Sam Wheeler
gia nhập quân đội Hoàng gia Anh từ những ngày đầu của cuộc chiến. Ông
gia nhập Tập đoàn quân 21 có trụ sở chính tại London. Sam Wheeler là một
phần trong nhóm chịu trách nhiệm lập kế hoạch cho cuộc đổ bộ Ngày D.
Các chuyên gia đã phân tích tài liệu và xác nhận rằng nó là bản gốc,
trong khi bản copy có thể đang cất giữ trong hồ sơ lưu trữ quốc gia.
Bản phác thảo về việc đổi mật danh cho kế
hoạch Ngày D do con trai một cựu sĩ quan quân đội Hoàng gia Anh tìm thấy
trong nhà của bố mẹ mình. Ảnh: Warhistoryonline.
Theo tài liệu, 3 tuần trước khi kế hoạch diễn ra, các sĩ quan quân
đội Anh đã nhận được lệnh phải ngưng sử dụng mật danh Ngày D và Overlord
(một tên mã khác trong chiến dịch Normandy). Thay vào đó, họ sẽ sử dụng
mật danh mới tương ứng là Halcyon và Hornpipe. Ngoài ra, một mật danh
khác mang tên Ripcord cũng được lên kế hoạch trong trường hợp phải hoãn
cuộc tấn công thêm 24 giờ nữa.
Tài liệu này tồn tại dưới dạng một bản ghi nhớ khẩn cấp vào ngày
19/5/1944. Nó được chỉ định là phải áp dụng ngay lập tức. Những nghi ngờ
về kế hoạch Ngày D bị rò rỉ khi một số từ mã xuất hiện trong các trò
chơi ô chữ trên một số tờ báo. Quân đội Hoàng gia Anh nhận thấy cần phải
thay đổi mật danh để đảm bảo sự thành công cho chiến dịch.
Tuy nhiên, khi cuộc đổ bộ lên Normandy diễn ra thành công, mọi người
đã chuyển sang sử dụng mật danh Ngày D. Trong các tài liệu công bố trước
đây về Chiến tranh Thế giới thứ 2, không tài liệu nào đề cập đến việc
thay đổi mật danh trong kế hoạch Ngày D.
Theo Đức Hải (Zing)
Tàu lượn khổng lồ kỳ dị của Đức trong chiến tranh Thế giới 2
PV Chủ Nhật, ngày 29/09/2019 20:32 PM (GMT+7)
(Dân Việt)
Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đức quốc xã từng chế tạo một
loại tàu lượn khổng lồ với mưu đồ tấn công nước Anh nhưng không thành.
Tính đến tháng 6/1940, Đức quốc xã đã chiếm phần lớn châu Âu, chiến
thuật chiến tranh chớp nhoáng của họ đã mang lại hiệu quả tối đa. Các
cuộc tấn công bất ngờ quy mô lớn với tốc độ cao khiến đối phương không
kịp trở tay. Sau khi chiếm nước Pháp, Hitler đã lên kế hoạch tấn công
nước Anh.
Những chiếc tàu lượn khổng lồ. Ảnh: Wikipedia.
Không quân Đức nhận nhiệm vụ làm tiêu hao sinh lực quân đội Anh bằng
cuộc tập kích đường không quy mô lớn hàng đầu trong lịch sử. Hitler đã
yêu cầu giới khoa học quân sự phát triển một loại phương tiện phục vụ
cho chiến thuật chiến tranh chớp nhoáng. Hitler muốn sử dụng một lực
lượng 160.000 quân cùng vũ khí hạng nặng đổ bộ lên bờ biển Anh.
Các chiến thuật đánh chiếm thành công phần lớn châu Âu không thể áp
dụng với nước Anh, khoảng cách 40 km giữa eo biển Anh-Pháp là một trở
ngại vô cùng lớn cho kế hoạch tấn công chớp nhoáng vào nước này. Hải
quân Đức không có lực lượng đủ mạnh để áp đảo Hải quân Hoàng gia Anh.
Tàu lượn Me 321 là một ý tưởng táo bạo và cho thấy sức sáng tạo không giới hạn của các kỹ sư Đức quốc xã. Ảnh: Militaryfactory.
Những năm 1930, người Đức đã phát triển tàu lượn tấn công và đạt được
những thành công nhất định. Các tàu lượn này phần lớn là loại nhỏ chỉ
có thể chở theo tối đa 10-20 người lính. Nếu sử dụng những tàu lượn này
sẽ không thể chở theo các vũ khí hạng nặng và quân số cần thiết.
Hitler đã yêu cầu nhà máy Messerschmitt chế tạo một loại tàu lượn lớn
hơn nhằm phục vụ cho kế hoạch “Sư tử biển” táo bạo của ông ta, theo
Military Factory. Điều ngạc nhiên là chỉ trong vòng 14 ngày, các nhà
thiết kế đã hoàn thành bản vẽ mẫu tàu lượn lớn nhất trong lịch sử.
Mẫu tàu lượn được gọi là Messerschmitt Me 321 Gigant (phiên âm tiếng
Đức có nghĩa là khổng lồ). Chiếc tàu lượn có chiều dài 28,15 m, sải
cánh 55 m, cao 10,15 m. Tàu lượn cần có trọng lượng nhẹ để cất cánh
trong khi vẫn phải đảm bảo độ chịu lực cần thiết. Các nhà thiết kế đã
đưa ra giải pháp xây dựng kết cấu khung tàu lượn làm bằng thép và gỗ cực
kỳ độc đáo.
Cấu trúc chính làm bằng các ống thép rỗng được gia cường bằng 22
thanh tạo khung ở mỗi cánh, các thanh xà dọc làm bằng gỗ bên ngoài phủ
một lớp vải bọc đặc biệt dùng trong hàng không. Tàu lượn Me 321 có thể
chở theo 120 binh lính với đầy đủ trang bị. Nó còn có thể chở theo xe
tăng hạng nhẹ, pháo, xe vận tải các loại với tổng tải trọng lên đến 24
tấn.
Từ ý tưởng tàu lượn, người ta đã lắp động
cơ đưa nó trở thành chiếc máy bay vận tải lớn nhất trong thế chiến thứ
2. Ảnh: Militaryfactory.
Me 321 là một phương tiện vận chuyển khiến Hitler hài lòng và ông ta
muốn có nó một cách nhanh chóng để tiến hành xâm lược nước Anh. Tuy
nhiên, để đưa chiếc tàu lượn khổng lồ này lên trời thực sự là một thách
thức lớn. Các máy bay thời đó không đủ sức mạnh để kéo nó lên không
trung.
Các kỹ sư đưa ra giải pháp gắn thêm 4 tên lửa đẩy hai bên cánh nhằm
tăng lực đẩy cho nó, trong khi 3 chiếc máy bay chiến đấu Bf 110 sẽ kết
hợp kéo nó lên không trung. Việc điều phối hoạt động chung cho 3 máy bay
cùng lúc rất khó khăn, đã có rất nhiều vụ va chạm và suýt va chạm giữa 3
chiếc Bf 110 khiến giải pháp này trở nên cực kỳ nguy hiểm.
Ý tưởng tiếp theo là ghép hai chiếc máy bay Heinkel He 111 thành một
máy bay. Giải pháp này có vẻ kỳ dị nhưng lại tỏ ra hiệu quả. Nó đã thành
công trong việc đưa chiếc tàu lượn khổng lồ lên không trung. Cuối cùng,
người ta lại đưa ra giải pháp lắp động cơ cho chiếc tàu lượn. 6 động cơ
cánh quạt Gnome-Rhone 14N-48/49 biến nó từ tàu lượn thành máy bay vận
tải lớn nhất trong thế chiến thứ hai. Biến thể này được gọi là Me 323.
Tàu lượn khổng lồ đã sẵn sàng cho cuộc xâm lược nước Anh nhưng sự
kháng cự mạnh mẽ của Không quân Hoàng gia buộc Hitler phải xem xét lại
kế hoạch. Chiến dịch Sư tử biển bị hủy bỏ vào tháng 9/1940. Đức quốc xã
đã sử dụng tàu lượn Gigant trong cuộc xâm lược Liên Xô. Khoảng 200 chiếc
đã được sản xuất trong giai đoạn 1940-1942.