Những bài thơ về rượu
có thể chuyển tải được tâm trạng của con người ta khi đang say. Bên
cạnh đó các bài thơ này cũng chính là một cách để thức tỉnh dành cho mọi
người. Đó cũng chính là lý do các bài thơ này dễ đi vào lòng người đọc.
Và bạn đã bao giờ chìm trong men cay và nhớ về những nỗi niềm xót xa
của mình hay chưa? Hãy cùng đọc và cảm nhận những bài thơ hay dưới đây
bạn nhé!
Chùm thơ về rượu chế châm biếm đáng suy nghĩ nhất
Những
bài thơ về rượu chế làm bất cứ ai khi đọc lên cũng cảm thấy vui vẻ. Và
đó cũng chính là một đặc trưng của các bài thơ chế. Tuy nhiên khi nhìn
nhận kỹ lại thì con người ta mới thấy thấm thía và cảm nhận sâu sắc hơn
về các khía cạnh của bia rượu. Đó gần như chỉ là một thú vui, giải trí
chứ không nên để rượu bia thành một thức uống quen thuộc. Bởi khi say sẽ
có nhiều ảnh hưởng tiêu cực mà có thể ta không kiểm soát được.
Bài 1
Còn trời, còn nước còn non Còn cô bán rượu, anh còn say sưa
Bài 2
Đừng chê người uống say không đứng nổiHắn đã sống chân tình, không giả dối!Anh không say, nhưng chớ vội tự hàoXấu hơn say là làm điều tội lỗi.
Đêm nay trăng cô đơn vàng võ lạnhTa nghe lòng mình còn lạnh hơn trăngUống say xưa cạn chén rượu nồngĐễ lòng này chết lặng như trăng
Bài 5
Lên cao mới biết núi caoUống rồi mới biết rất hao túi tiềnChọn xoài đừng chọn xoài chua,Chọn bạn đừng để bạn dzô dùm mìnhChơi hoa đừng để hoa tànChơi bạn đừng để bạn dành trai bia
Thơ vui uống rượu
Uống rượu là để giải sầuKhông phải uống rượu đau đầu đâu nhenUống rượu sao để người khenĐừng để uống rượu ma men dẫn đường Uống rượu nho nhã người thươngKhông phải uống rượu nằm đường thấy ghêUống rượu vui vẻ người mêĐừng để uống rượu người chê, người cười Uống rượu xã giao với đờiBạn bè sum họp nói cười cùng nhauUống rượu đừng để bệnh đauGia đình xào xáo cùng nhau ra tòa Uống rượu đừng có đào hoaMột chồng, một vợ cho nhà yên vuiNếu không uống rượu càng vuiGia đình hạnh phúc không gì đẹp hơn!
Rượu bia lợi hay hại
Đàn ông chẳng uống rượu biaNhư giầy không tất như xe không vànhCởi quần mặc váy đi anhVề cho con bú cơm canh lau nhà Rượu cho sự nghiệp thăng hoaKhách hàng đối tác từ xa thành gầnNhưng say lừa mất cả quầnCông danh sụp đổ nợ nần tả tơi Rượu cho lễ tết vui tươiLên xe chớ để răng rơi ra ngoàiRượu thêm tình bạn lâu dàiĐừng lên uống cố good bye bạn hiền Rượu mừng đôi lứa nên duyênKết thành chồng vợ hai bên họ hàngNhiều ông vợ đẹp con ngoanTriền miên say sỉn về phang vỡ đầu Gia đình tan nát do đâuLà tác dụng phụ quay đầu mà thôiLắm ông giàu có tiền rơiXơ gan do rượu đi đời nhà ma Thất tình ai cũng trải quaUống say quên hết con bà nó điCó thằng mê mẩn tình siSay xong bỏ dép hồn phi về trời Lắm cảnh nghèo xác mùng tơiCon quần áo rách vợ dơ xương vèChồng thì nghiện rượu lẫn chèMỗi ngày một lít sao nghe đau lòng Viết mồ hôi chảy dòng dòngBa chai hà nội cạn không còn gìNgẫm đời hay tại say biaMà sao thơ ướt đẫm đìa giọt rơi Rượu nhiều tác dụng ai ơiĐừng nên lạm dụng thành đời ma menKính thưa toàn thể anh emUống hay không uống nên xem bài này.
Thơ lục bát nhậu
Tháng Giêng là tháng ăn chơiTháng Hai nhậu nhẹt, tháng Ba rượu chèTháng Tư bia bọt bét beTháng Năm say xĩn đi về ngã nghiêng Tháng Sáu túi đã cạn tiềnNhìn người ta nhậu thèm điên cái đầuTháng Bảy trời đổ mưa ngâuSương sương tí đỉnh giải sầu ngày mưa Tháng Tám hun hút gió lùaÍt ly ấm bụng…chờ mùa bội thu !Tháng Chín mưa bão đến rồiNgồi không buồn miệng kiếm mồi nhậu chơi Tháng Mười bão lũ khắp nơiTiếp tục nâng cốc ta bơi tới bờMười Một chuẩn bị tết vềLai rai cụng chén đợi chờ xuân sang Mười Hai lễ, tết tràn lanTội gì hổng uống cho tràn cung mâyMười hai tháng đủ rồi đâyLàm anh…bợm nhậu kiểu này…thành tiên Ông trời nghe tiếng cũng kiêngThôi thì…kệ nó, lũ điên ấy mà…
Thơ hài hước nói về rượu
Rượu vào cái xấu lòi raRượu vào bỏ cửa bỏ nhà đi chơiRượu vào quần áo tả tơiRượu vào v_ăng tục nói lời luyên thuyên Rượu vào hao tổn bạc tiềnRượu vào nhìn vợ nghĩ tiên trên trờiRượu vào say nói lắm lờiRượu vào than trách đất trời không thương Rượu vào nằm ngủ ngoài đườngRượu vào đi lại coi thường công anRượu vào ăn nói làm cànRượu vào phán chuyện thế gian như thần Rượu vào đời cũng bất cầnRượu vào quên hết tình thân họ hàngRượu vào bạn với nghĩa trangRượu vào cả họ cả làng đều khinh Rượu vào chết bất thình lìnhNếu có sống được bệnh tình rất nguyAnh ơi uống nữa làm gìNếu anh uống nữa em quỳ xuống xin.
Không say không về
Say vì chén rượu bạn mờiChân đi vắt sổ khổ đời tôi chưaHôm nay quá chén say xưaChân tay quờ quạng như vừa tập đi Đầu thì nặng trịch như chìRuột gan phèo phổi thôi thì lộn tungĐầu óc nghĩ ngợi mông lungLúc mới vào trận thật xung phi thường Bây giờ đâu cũng là giườngNgười thì mềm nhũn không xương khó lườngQuặn ruột phi hết ra đườngKhông ngờ ma rượu nó tương mình rồi Đầu óc bây giờ rối bờiQuần áo xộc xệch tả tơi khó nhìnHọng rát khát nước khó tinMặt tái, miệng ngọng van xin rượu mà Từ nay em cạch đến giàNếu uống, uống ít để mà không sayCứ diễn cảnh không hay nàyHình ảnh đại diện có ngày xấu đi.
Chùm thơ về rượu hay ý nghĩa, tâm trạng nhất
Say
trong men rượu là một trong những đề tài thường thấy của các bài thơ về
rượu. Đó là những cảm xúc chân thật nhất của con người ta. Và khi ấy
cũng là lúc mang nhiều nỗi niềm tâm sự nhất. Đó cũng chính là lý do các
vần thơ này đều mang một màu buồn rất cô quạnh và cô đơn. Cùng đọc và
cảm nhận nhé!
Độc ấm
Lang thang một bước một mìnhĐèn vàng phố vắng bóng hình cô liêuNhà tranh trống vắng đìu hiuKhông em không trẻ buồn thiu tiếng cười. Một mình một chén rượu vơiKhông ai đối ẩm chia lời ủi anSương đêm mờ mịt giăng mànNuốt vào giọt đắng trái ngang phận người. Trắng đen nhân thế ở đờiNghèo khinh giàu trọng thói đời éo leHơn thua trân tráo ngựa xeĐồng tiền tờ bạc tréo ngoe đắng lòng. Long đong cho kiếp má hồngTấm chồng nghèo mạt đèo bồng với aiBỏ tình chối nghĩa đắng cayRa đi vứt áo mặc ai oán hờn.
Rượu một mình
Mình ta uống cạn ly nàyNâng lên hạ xuống vơi đầy tình taNhìn sâu trong đáy nhạt nhòaĐắng cay cay đắng mình ta với đời Chơi vơi sóng sánh men cayQuyện vào khói thuốc nhẹ bay vào hồnMôi hôn miệng chén nồng sayVàng tay khói thuốc ngất ngây nhớ người Nụ cười ánh mắt bờ môiHình bóng em mãi rạng ngời đáy lyLàm gì uống hết được đâyĐầy vơi ly rượu vẫn đây bóng hình Ngước nhìn khói thuốc lung linhNụ cười em mãi đẹp xinh rạng ngờiChơi vơi nỗi nhớ cuồng quaySay em say mãi anh say một đời.
Tửu sầu
Ta buồn mượn rượu để sayGiọt chua giọt đắng giọt cay giọt nồngTa say trong cõi hư khôngGiọt sầu cay đắng lãng bồng bi ai Này đây giọt ngọt trang đàiMỹ nhân tửu đế ép nài chua cayLắc lư chén rượu trong taySầu bi rũ bỏ men say chát nồng Nâng ly đáy mắt phiêu bồngHồn ta rơi khoảng trời không mịt mùPhiêu diêu bay bổng lãng duĐể ta quên hết lời ru tình sầu Xác thì chẳng biết đi đâuLờ mờ đôi mắt một màu nhạt phaiRượu vào một hóa thành haiLại thêm tình khúc bi ai tửu sầu !
Rượu sầu
Chén rượu vơi dần sao vẫn tỉnhMen đời đắng ngắt chẳng làm sayNgười ơi hãy rót đầy hơn nữaUống cạn rồi quên nỗi khổ này. Chủ quán! Thêm nào, cho chén nữa…Say rồi…chẳng nhớ được người đâuTình yêu vỗ cánh bay đi khỏiNgất ngưởng tàn canh đổ bóng sầu. Rót nữa! Ly này không đủ rượuAi người cụng chén sẻ buồn vuiNàng đi chẳng nói câu nào cảNốc cạn ngàn chung lại khóc vùi.
Đêm đầy vơi
Màn đêm phủ xuống vai gầyTừng giọt sương lạnh phủ đầy hồn aiTrăng soi sáng tỏ đêm dàiSao ta chợt thấy bóng ai cuối trời Môi cười duyên dáng gọi mờiBay bay suối tóc rối bời lòng aiVầng trăng sao sẻ chia haiTrăng chờ sao đợi đêm dài tái tê Đê mê ly rượu vơi đầyMen cay thắm đượm hồn say lạc loàiNâng lên cho hết u hoàiUống đi cho cạn dáng ai gọi mời Trăng thời cứ rót ta nângHạ xuống sao lại bâng khuâng rót đầy.
Rượu tình
Giọt sầu trong chén ngả nghiêngĐưa hồn hoang hoải giữa miền giá băngTa say bên bóng chị hằngMà hồn ngơ ngẩn … nhớ hằn trong tim. Cho đêm đêm dạ kiếm tìmBao nhiêu ân ái im lìm nơi đâuCho hồn dâng đẫm u sầuCon tim quặn thắt giữa cầu tình duyên Nhớ nhung nhung nhớ mắt huyềnNồng nàn êm ái truân chuyên giữa dòngSao cuộc đời mãi long đongNên tình duyên mãi cũng không vẹn tròn… Nhớ thương bao thuở mãi cònIn trong đáy dạ tình son vẹn tìnhXa nhau mãi nhớ bóng hìnhĐêm nâng chén rượu men tình ngất ngây.
Tình say
Anh về rót cả hồn thơGởi theo mây gió thẫn thờ đợi emDệt bao ước mộng êm đềmTình trong như đã .. bên thềm ái ân Vương lên môi mắt trong ngầnTình say chếnh choáng dâng tràn khát khaoThả vần thơ với ngàn saoLung linh huyền ảo dạt dào tình ca Nồng nàn… cháy bỏng thiết thaSáng trong ngây ngất như là ánh dươngĐể đêm đêm mãi vấn vươngDuyên tình thắm đượm môi hường đắm say…
Đêm say
Để quên nỗi nhớ vào đêmTrăng thề ngồi khóc bên thềm khổ chưaMây về sao chẳng thấy mưaLá rơi ngỡ bước ai vừa qua đây Bao nhiêu cái nhớ đong đầyĐể cho tình cứ mãi say trăng chiềuHôm nay người mở vườn yêuCho mây lả lướt trăng chiều chơi vơi Rượu nồng say giấc mơ đờiCánh diều say với gió trời vi vuNúi cao say sớm sương mùBướm vàng say trái mù u thuở nào Chuồn chuồn say nước cầu aoCòn anh say mãi má đào nơi emMắt say ngọn nến sau rèmChiếu giường say nỗi khát thèm mộng mơ Trăng thề say bến sông thơĐò say con nước lững lờ đang trôiAnh say vị mặn làn môiCho đời say tít khoảng trời riêng tư…
Ai về trong cơn say
Lặng lờ gió ngủ bên thềm cửaĐêm nay say quá, rõ thật là!Bâng khuâng khói thuốc ven trời lạnhMơ hồ… tôi nhớ một người xa Nhưng nhớ làm chi để ngậm ngùi?Đây niềm xa cách có chi vui?Cớ sao tôi cười như mê dại,Trong những đau thương lẫn ngọt bùi? Trăng đứng tự tình tiêu điều khócĐêm chẳng chung lời với nước mâyHình bóng ai về trong sương khóiXiêm y tha thướt dáng trang đài Kiều nữ giật mình từ đáy mộHay gió vô ngôn bỗng ồn ào?Sao tôi nghe tiếng như ai đó…Bước giữa hồn tôi đương xôn xao!
Đêm say
Ta lơ lửng giữa bến bờ quên – nhớKhoảng trời nào thôi ngơ ngẩn tim yêu?Lạc bước chân bên thềm tối mưa nhiềuHồn vắng lặng xé lòng cô liêu khóc Quên và nhớ, nghĩ suy chi nhằn nhọcNhấp chén sầu cạn cốc rượu đêm nayTrời cuồng quay hay ta đã thấy say?Dáng ai gầy bên vầng trăng mờ tỏ? Tình yêu đấy, hỡi hồn yêu cô độcChút men đời níu tạm bước lang thangGiá tình yêu như giọt rượu hoang đàngSay quên lãng, tình yêu thành dĩ vãng Đêm sao sáng bước chân ta bỗng nặngĐầu rỗng không, đâu đất, đất hay trời?Chỉ còn rượu và mây gió lả lơiSay cùng ta với nỗi buồn vời vợi
Hồn yêu
Ta đang say mối tình ngây dạiTiếng nói nào vang mãi bên taiKhông gian nặng xuống theo làn khóiĐôi chân mệt mỏi tháng ngày dài Tình yên lặng đâu hẳn tình phai?Tim ngủ yên lẽ nào ngủ mãiMưa sẽ kéo ưu phiền trở lạiCon tim hoang tàn… sẽ lại thét
Tình ơi!
Ly rượu đầy phút chốc lại vơiTa mãi mơ một giấc mơ đờiNẻo tình duyên còn xa vời vợiSống buông lơi chốt cửa cài then Căn phòng mờ khói đẫm hơi menMùi hương nào len qua khe cửaÁnh mắt nào rực hồng như lửaLà hồn ma, hay một nửa tình yêu? Xác xơ héo úa nỗi cô liêuBao nhiêu những hồn hoang kêu thétÔi mặc kệ, ma tình ta đang rétThét vào đêm, xé ký ức con tim
Say
Đêm say ta lạc chốn hư khôngTửu sắc say mê giấc mộng hồngLả lơi cung đàn trong tiếng hátẤm lòng lạnh giá tiết trời đôngNâng yếm dùm em, kìa quân tửPhấn son mê muội cõi tiên bồngChân em mỏi rồi cho em tựaThân chàng em gối có được không? Đêm nay lạnh giá chỉ nàng – taMùi hương thoang thoảng ở làn daBàn tay nho nhỏ trông xinh quáTrao hết nàng đây, hỡi ngọc ngàBỗng gà đâu gáy chưa tròn giấcGiật mình mới ngộ giấc mơ tanPhòng hoang gió lạnh tựa núi ngànTa tiếc vô vàn, ơi nàng ơi
Trên đây là những bài thơ về rượu
hay mà chúng tôi muốn chia sẻ với bạn. Chắc hẳn bạn cũng sẽ dễ dàng
trong việc bắt gặp những hình dáng của mình trong những vần thơ này. Nếu
bạn yêu thích những vần thơ này thì đừng quên chia sẻ và đón đọc những
bài viết tiếp theo của chúng tôi bạn nhé!
Nội dung: kỷ nguyên đồ đồng tại vùng đất Việt Nam ngày nay diễn ra muộn
hơn Lưỡng Hà, Trung Hoa (3000 – 2800 TCN) hay Ai Cập và Âu Châu (2200 –
2000 TCN) rất nhiều. Nó cùng thời với mảnh đất Thái Lan, chỉ vào khoảng
1500 – 1400 TCN.
Nguồn gốc trống đồng: Cuộc tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc
Thứ bảy, 22/03/2014, 12:44 (GMT+7)
(Văn hóa) - Trong
sách viết về nguồn gốc trống đồng của người Trung Quốc họ nói chiếc
trống cổ do 6 dân tộc chế tạo, trong đó có người Lạc Việt…
GS
Nguyễn Văn Hảo, nguyên Viện phó Viện Khảo cổ cho hay, hiện nay nhiều
nước Đông Nam Á cũng có trống đồng. Nhưng ở Việt Nam và Trung Quốc trống
đồng có niên đại lâu hơn cả. Việc phân định trống đồng của nước ta có
trước, hay Trung Quốc có trước vẫn là vấn đề gây tranh cãi trong giới
chuyên môn. Một số chuyên gia khảo cổ học phương Tây cho rằng, Việt Nam
là cái nôi của trống đồng, người Trung Quốc đã lấy mẫu trống đó về thêm
một số họa tiết để đúc lại. Nhưng theo quan điểm thống trị của Trung
Quốc thì trống đồng Vạn Gia Bá ở Vân Nam có đầu tiên, ra đời thứ hai là
trống Đông Sơn, thứ ba là trống Thạch Trại Sơn.
Nguồn gốc trống đồng: Cuộc tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc
Để phản bác điều đó nhiều nhà nghiên cứu của nước ta đưa ra lập luận
khẳng định Việt Nam là cái nôi của trống đồng. TS Hảo đồng ý với ý kiến
Cụ Đào Duy Anh cho rằng, trống đồng Đông Sơn ra đời đầu tiên, sau đó
người Hán mới mang về biến cái đó thành của mình. “Không phải tôi là
người Việt mà tôi nhất trí như vậy mà nghiên cứu của tôi đã chỉ ra. Khi
nói tới trống đồng người ta thừa nhận là nhạc cụ gõ, yếu tố nào quyết
định là nhạc cụ thì đầu tiên là hình dáng, mặt trống gõ phát ra âm
thanh, thân trống là phần cộng hưởng. Thứ hai, hình dáng trống cũng
quyết định đến âm thanh. Thứ ba, chất liệu chế tạo trống. Ba yếu tố đó
không chỉ tạo thành âm sắc, âm vực của chiếc trống mà nó có ý nghĩa, nó
biểu hiện hồn phách của dân tộc có trống đó, dân tộc nào vẽ hoa văn của
dân tộc đó. Hoa văn trên trống đồng là hoa văn thể hiện văn hóa, của dân
tộc chế tạo ra hoa văn đó chứ không phải mỗi trống có hoa văn riêng”,
GS Hảo cho biết.
Trong sách viết về nguồn gốc trống đồng của người Trung Quốc họ nói
chiếc trống cổ do 6 dân tộc chế tạo, trong đó có người Lạc Việt. Số
lượng trống tìm thấy là 46 chiếc. Điều đó là bất hợp lý, không thể 6 dân
tộc lại chế tạo một loại trống.
Theo nghiên cứu của GS Hảo, chiếc trống Thạch Trại Sơn có hoa văn
giống Đông Sơn, nhưng người Điền đã khắc thêm những hoa văn của họ, đè
lên hoa văn của Đông Sơn. Trong hội nghị quốc tế tổ chức tỉnh Quế Lâm,
Trung Quốc, khi TS Hảo phát biểu và đưa ra những giải thích khiến các
nhà khoa học Trung Quốc cũng phải đồng ý. Chính một GS – Hiệu phó của
trường Học viện Dân tộc học Quảng Tây tiến hành phân tích đồng vị chì
chiếc trống ở Quý Huyện, Quảng Tây cũng khẳng định rằng, chiếc trống
đồng cổ nhất của người Đông Sơn chế tạo. Bằng cách nào đó chiếc trống
được đưa sang Trung Quốc và được thợ khắc thêm hoa văn trên trống.
Qua tìm hiểu của GS Hảo, những chiếc trống mà Trung Quốc nói là trống
cổ của họ, được tìm thấy trong ngôi mộ của viên quan từng cai trị ở
nước ta. Vì thế, ông ta mất đi, biết trống đồng quý đã bảo con cháu chôn
cất trong mộ của mình. Giống như Mã Viện sang đàn áp khởi nghĩa Hai Bà
Trưng, sau đó lấy trống đồng về đúc ngựa. Do vậy, việc Trung Quốc cũng
có những chiếc trống đồng bằng với niên đại ở nước ta là do họ đã mang
về để sử dụng.
Những chiếc trống đồng Thạch Trại Sơn của người Điền có cách nay hơn 1
nghìn năm hoa văn tả thực hơn trống Đông Sơn, độ tả thực cao, chi tiết.
Tay người đeo vòng, người mặc áo hoa kẻ sọc, có khuyên tai. Điều đó
chứng tỏ người Điền lấy trống Đông Sơn cải tạo thành thùng đựng vỏ ốc,
mặt họ phá đi đúc mặt mới làm nắp, dưới làm một cái đáy để bỏ vỏ ốc. Đối
với người Điền thì ốc là tiền, những vỏ con ốc lợn được lấy từ biển của
Ấn Độ, là những thứ rất quý. Những hoa văn gốc của trống như hình ảnh
người mặc nửa trần, đội mũ lông chim đặc trưng người Đông Sơn đã bị cạo,
khắc hình ảnh đặc trưng của người Điền.
Những lý giải của GS Hảo về trống đồng cổ của ông được Hội đồng
nghiên cứu trống đồng Trung Quốc cũng phải công nhận là đúng. Tập luận
văn nghiên cứu về trống đồng của GS Hảo hiện được Bảo tàng khu tự trị
dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc ghi nhận và lưu giữ tại đây. Nhiều
người trong giới chuyên môn đã công nhận Việt Nam là cái nôi của trống
đồng.
(Theo Kiến Thức)
Chủ đề tranh luận chính yếu là trống đồng xuất phát từ đâu: miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc
Tại
phương Tây, đã có dấu vết rằng người ta đã biết về trống đồng từ năm
1682[8]. Nhưng mãi tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống đồng
như Hirth (1890), tác giả này cho rằng trống đồng là của Trung Quốc. Rồi
De Grooth (1901) cho là của Việt Nam. Trong cuốn Alte Metalltrommeln
aus Südost Asien (Trống kim loại cổ Đông Nam Á) năm 1902, Franz Heger,
nhà khảo cổ học người Áo khẳng định rằng trống đồng xuất phát từ miền
Bắc Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về trống đồng phải
là ở vùng này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được biết đến lúc ấy
thành 4 loại – phân loại Heger. Trước thập niên 1950, một số phân loại
khác đã được đề xuất, nhưng không có cách nào được chấp nhận rộng rãi
như phân loại của Heger[9].
Các
nghiên cứu về trống đồng mãi đến cuối thế kỷ 19 mới được bắt đầu và được
bắt đầu bởi người phương Tây. Trước thập niên 1950, hầu hết các nghiên
cứu quan trọng đều được viết bởi các học giả phương Tây, đặc biệt nhất
là Heger. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm
1949 và Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, các học giả Việt Nam và Trung
Quốc bắt đầu chiếm lĩnh lĩnh vực nghiên cứu về trống đồng. Đến cuối
thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, đã có những cuộc tranh luận xung
quanh việc phân loại trống, ý nghĩa các họa tiết trang trí, niên đại
trống…, nhưng chủ đề tranh luận chính yếu là trống đồng xuất phát từ
đâu: miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc[10]. Các học giả Việt Nam
ủng hộ phân loại của Heger và cho rằng trống đồng Đông Sơn (Heger loại
I) là loại cổ nhất. Còn các học giả Trung Quốc ban đầu đa số phủ nhận
phân loại của Heger, cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại II mới
là cổ nhất. Từ khi trống loại Vạn Gia Bá, loại trống gần giống loại
Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn, được tìm thấy ở Vân Nam, các học
giả Trung Quốc lại quay về thống nhất với một cách phân loại theo thứ tự
phân loại của Heger nhưng bổ sung một loại xếp thứ tự cổ hơn Heger loại
I, đó là loại trống Vạn Gia Bá. Theo cách phân loại của Việt Nam, trống
Vạn Gia Bá (trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam thập niên 1980 thuộc
loại này) được xếp vào loại con của thời kỳ cuối của loại trống Đông
Sơn.
Các nhà nghiên cứu Việt Nam và
Trung Quốc vẫn chưa đi được đến một kết thống nhất về một xuất xứ Việt
Nam hay Trung Quốc của trống đồng – một truyền thống mà có thể đã được
chia sẻ giữa tổ tiên của cả hai. Thực tế là tại thời điểm trống đồng
được phát minh, không có một đường biên giới giữa Bắc Việt Nam và Nam
Trung Quốc. Nhiều nhóm người sống trong vùng đất rộng lớn đó đã có quan
hệ với nhau về sinh học hoặc văn hóa hoặc cả hai. Học giả phương Tây
Charles Higham, người đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng các xu thế dân
tộc chủ nghĩa của các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc đã che lấp
tình huống mà khảo cổ học đã khai lộ. Ông đưa ra giả thuyết rằng trống
đồng đã được tạo bởi các nghệ sĩ tài hoa của một nhóm các xã hội có tổ
chức ngày càng phức tạp với địa bàn trải rộng qua biên giới Việt-Trung
hiện đại, để trang bị cho các chiến binh và làm biểu tượng cho vị thế
cao của những người lãnh đạo. Ông viết: “Việc tìm kiếm nguồn gốc tại một
vùng này hay vùng khác đã bỏ qua điểm quan trọng. Các thay đổi đã được
thực hiện suốt từ vùng mà ngày nay là miền Nam Trung Hoa tới đồng bằng
sông Hồng bởi các nhóm người mà thời đó đã trao đổi hàng hóa, tư tưởng,
và cùng chống lại sự bành trướng từ phía Bắc của một quốc gia hùng mạnh
và hiếu chiến”[11]. Quan điểm này tương đồng với sự thống nhất giữa các
nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, hay phương Tây rằng trống đồng là
sản phẩm của người Lạc Việt – tộc người Việt cổ được cho là có địa bàn
sinh sống trải từ miền Nam Trung Quốc tới miền Bắc Việt Nam.
Tài liệu nguyên cứu về nguồn gốc Trống đồng
Tại phương Tây, đã có dấu vết rằng người ta đã biết về trống đồng từ
năm 1682[8]. Nhưng mãi tới cuối thế kỷ 19 mới có học giả bàn về trống
đồng như Hirth (1890), tác giả này cho rằng trống đồng là của Trung
Quốc. Rồi De Grooth (1901) cho là của Việt Nam. Trong cuốn Alte
Metalltrommeln aus Südost Asien (Trống kim loại cổ Đông Nam Á) năm 1902,
Franz Heger, nhà khảo cổ học người Áo khẳng định rằng trống đồng xuất
phát từ miền Bắc Việt Nam và trung tâm các cuộc tìm kiếm sau này về
trống đồng phải là ở vùng này. Ông Heger phân chia 165 chiếc trống được
biết đến lúc ấy thành 4 loại – phân loại Heger. Trước thập niên 1950,
một số phân loại khác đã được đề xuất, nhưng không có cách nào được chấp
nhận rộng rãi như phân loại của Heger[9].
Các nghiên cứu về trống đồng mãi đến cuối thế kỷ 19 mới được bắt đầu và
được bắt đầu bởi người phương Tây. Trước thập niên 1950, hầu hết các
nghiên cứu quan trọng đều được viết bởi các học giả phương Tây, đặc biệt
nhất là Heger. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào
năm 1949 và Việt Nam bị chia cắt vào năm 1954, các học giả Việt Nam và
Trung Quốc bắt đầu chiếm lĩnh lĩnh vực nghiên cứu về trống đồng. Đến
cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, đã có những cuộc tranh luận
xung quanh việc phân loại trống, ý nghĩa các họa tiết trang trí, niên
đại trống…, nhưng chủ đề tranh luận chính yếu là trống đồng xuất phát từ
đâu: miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc[10]. Các học giả Việt
Nam ủng hộ phân loại của Heger và cho rằng trống đồng Đông Sơn (Heger
loại I) là loại cổ nhất. Còn các học giả Trung Quốc ban đầu đa số phủ
nhận phân loại của Heger, cho rằng kiểu trống tương ứng với Heger loại
II mới là cổ nhất. Từ khi trống loại Vạn Gia Bá, loại trống gần giống
loại Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn, được tìm thấy ở Vân Nam, các
học giả Trung Quốc lại quay về thống nhất với một cách phân loại theo
thứ tự phân loại của Heger nhưng bổ sung một loại xếp thứ tự cổ hơn
Heger loại I, đó là loại trống Vạn Gia Bá. Theo cách phân loại của Việt
Nam, trống Vạn Gia Bá (trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam thập niên
1980 thuộc loại này) được xếp vào loại con của thời kỳ cuối của loại
trống Đông Sơn.
Các nhà nghiên cứu
Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa đi được đến một kết thống nhất về một
xuất xứ Việt Nam hay Trung Quốc của trống đồng – một truyền thống mà có
thể đã được chia sẻ giữa tổ tiên của cả hai. Thực tế là tại thời điểm
trống đồng được phát minh, không có một đường biên giới giữa Bắc Việt
Nam và Nam Trung Quốc. Nhiều nhóm người sống trong vùng đất rộng lớn đó
đã có quan hệ với nhau về sinh học hoặc văn hóa hoặc cả hai. Học giả
phương Tây Charles Higham, người đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng các
xu thế dân tộc chủ nghĩa của các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc
đã che lấp tình huống mà khảo cổ học đã khai lộ. Ông đưa ra giả thuyết
rằng trống đồng đã được tạo bởi các nghệ sĩ tài hoa của một nhóm các xã
hội có tổ chức ngày càng phức tạp với địa bàn trải rộng qua biên giới
Việt-Trung hiện đại, để trang bị cho các chiến binh và làm biểu tượng
cho vị thế cao của những người lãnh đạo. Ông viết: “Việc tìm kiếm nguồn
gốc tại một vùng này hay vùng khác đã bỏ qua điểm quan trọng. Các thay
đổi đã được thực hiện suốt từ vùng mà ngày nay là miền Nam Trung Hoa tới
đồng bằng sông Hồng bởi các nhóm người mà thời đó đã trao đổi hàng hóa,
tư tưởng, và cùng chống lại sự bành trướng từ phía Bắc của một quốc gia
hùng mạnh và hiếu chiến”[11]. Quan điểm này tương đồng với sự thống
nhất giữa các nhà nghiên cứu Việt Nam, Trung Quốc, hay phương Tây rằng
trống đồng là sản phẩm của người Lạc Việt – tộc người Việt cổ được cho
là có địa bàn sinh sống trải từ miền Nam Trung Quốc tới miền Bắc Việt
Nam.
Theo Ben Kiernan trong quyển Viet Nam: A history from earliest
times to present (2017), kỷ nguyên đồ đồng tại vùng đất là nước Việt Nam
ngày nay diễn ra muộn hơn Lưỡng Hà, Trung Hoa (3000 – 2800 BC) hay Ai
Cập và Âu Châu (2200 – 2000 BC) rất nhiều. Nó cùng thời với mảnh đất
Thái Lan, chỉ vào khoảng 1500 – 1400 BC.
Theo nghiên cứu “The Distribution of Bronze Drums of the Heger I and Pre-I Types: Temporal Changes and Historical Background“,
của sử gia người Nhật Keiji Imamura, quá trình hình thành và phát triển
trống đồng được chia làm 4 giai đoạn như liệt kê bên dưới, kèm theo họa
đồ phân bổ. Các diễn giải và khớp nối lịch sử theo sau là của chúng
tôi.
Giai đoạn thứ nhất, phase 0, TK 4 đến TK 3 trước công nguyên:
Phát tích trống đồng có lẽ là từ Vân Nam. Nhánh thứ nhất lan truyền
xuống châu thổ sông Hồng dọc theo Hồng hà và Đà giang. Nhánh thứ hai đến
đầu nguồn Tây Giang ở Quảng Tây. Ở giai đoạn này trống đồng chưa xuất
hiện tại Đông Sơn – Thanh Hóa. Cuối TK 4 BC, Vân Nam đã bị người Sở
thôn tính. Chuyện này ghi rõ trong Sử Ký: “Bắt đầu từ thời Sở Uy Vương
(339 BC – 329 BC), đã sai tướng quân Trang Kiểu theo thượng lưu Trường
giang chiếm các vùng phía tây đất Ba và Kiềm Trung. Trang Kiểu là hậu
duệ của Sở Trang Vương ( 613 BC – 591 BC). Kiểu đến hồ Điền, rộng ba
trăm dặm, xung quanh đất đai bằng phẳng phì nhiêu trải dài cả ngàn dặm,
dùng binh lính trấn áp rồi gộp vào nước Sở. Kiểu muốn quay về Sở báo
tin, nhằm lúc Tần đang đánh Sở để chiếm Ba quận và Kiềm Trung quận (316
BC), đường bị chặn, bèn quay lại xưng vương xứ Điền, đổi cách ăn mặc,
sinh hoạt bằng tập quán bản địa như tù trưởng”.
Giai đoạn thứ hai, phase 1, TK 3 đến TK 1 trước công nguyên:
Dưới sức ép thực dân của người Sở rồi sau đó là người Tần và Hán,
trống đồng bắt đầu thiên di về phía nam tạo nên đỉnh cao Đông Sơn. Phase
1 này cũng xuất hiện ở Miến Điện, Thái Lan và Nam Lào.
Giai đoạn thứ ba, phase 2, TK 1 trước công nguyên đến TK 2 sau công nguyên:
Đông Sơn trở thành trung tâm trống đồng cho đến khi Mã Viện đánh vào
Cửu Chân. Từ Cửu Chân, người Đông Sơn đã giong buồm xuống phía nam chạy
giặc. Đó là lý do các đảo ở Indonesia xuất hiện dày đặc trống phase 2.
Số lượng trống đào được đến năm 2017 đã lên đến 50 chiếc (Ben Kiernan –
2017).
Giai đoạn thứ tư, phase 3, TK 2 sau công nguyên trở đi:
Người Hán đã làm chủ những vùng đồng bằng màu mỡ ven biển và cao
nguyên Vân Nam trù phú. Các bộ tộc bản địa đi sâu vào rừng rồi lại ngược
lên Quảng Tây. Văn hóa trống đồng bỗng bừng sáng ở trung lưu Tây Giang
rồi khiêm tốn là một nét văn hóa dân tộc thiểu số ở Hoa Nam từ đó đến
nay.
Điều đặc biệt nên lưu ý là Quảng Đông, xứ sở của người Âu Việt, con
cháu nước Việt chiến quốc, địa bàn nước Nam Việt của Triệu Đà hoàn toàn
không xuất hiện một chiếc trống đồng nào cả. Ở phase 1, Quảng Tây trong
thời điểm các bộ tộc Lạc Việt đang bị tấn công, đồng hóa và Hán hóa dữ
dội nhất, cũng thấy rất ít trống đồng.
***
Lần theo dấu vết trống đồng, chúng tôi thấy muộn nhất là ở thế kỷ thứ
4 trước công nguyên người Thái cổ ở Vân Nam đã đặt chân đến miền bắc
Việt Nam. Ở khía cạnh ngôn ngữ, học giới nói chung đã công nhận Mon –
Khmer là lõi ngôn ngữ của các cư dân bản địa Việt Nam thời đồ đá. Sắc
dân này có nước da đen như người Khmer, Champa. Hình thái xã hội bộ lạc
săn bắt hái lượm, lãnh tụ là tộc trưởng. Một số từ Việt có gốc Mon –
Khmer tiêu biểu như sau: Con – Koun; Cháu – Chau; Tay – Dai; Một – Moui;
Hai – Pir; Ba – Bei; Bốn – Buon; Năm – Pram; Bầu (bí) – Lpầu; Khèn
(kèn) – Khèn; Khố (quần)- Kho-ô; Mẻ – Khmés; Ná (cung nỏ) – Sna…
Thời điểm 400 BC – 300 BC có khả năng là lúc lớp vỏ nông nghiệp Thái
cổ đi vào tiếng Việt đồng thời với trống đồng. Văn minh lúa nước và công
nghệ luyện kim của trống đồng đã thiên di xuống từ Vân Nam. Xã hội
chuyển hóa lên hình thức liên minh các bộ lạc có tù trưởng (chiefdom).
Lớp vỏ Thái cổ cùng với hệ thống thanh điệu của nó đã phủ lên tiếng
Việt: mương, đồng ruộng, vịt, bún – pún, dứa, ớt… Bằng chứng rõ nét của
sự hợp chủng là các từ đẳng lập Việt (Mon – Khmer) – Thái: Chim Chóc,
Chó Má, Mặt Nạ…
Sớm nhất là sau năm 81 BC, bắt đầu ở Cửu Chân và sau đó tại quận Giao
Chỉ và Nhật Nam người Hán thâm nhập Việt Nam. Từ đó ngôn ngữ Việt được
khoác lên bộ áo ngoài rực rỡ nhất, lòe loẹt nhất, chiếm đến 70% từ vựng
Việt Ngữ.
Giai đoạn cuối của trống đồng Vân Nam – Đông Sơn bất ngờ bừng sáng
tại Quảng Tây từ thế kỷ thứ 2 sau công nguyên là một chi tiết thú vị,
nếu chúng ta liên kết với cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng năm 40 – 43.
Hiện trên mạng lưu truyền rất nhiều thông tin cho rằng có những đền
thờ Hai Bà Trưng ở rất sâu trong đất Trung Quốc. Họ giải mã bằng hệ địa –
chính trị hiện đại và cho đó là dấu hiệu lãnh thổ Lạc Việt từng một
thời rộng mênh mông. Rất tiếc, chúng tôi chưa thấy một tài liệu thuyết
phục nào cả, trừ bài thơ thời Lê, thế kỷ 15 có tựa “Đề Khâm Châu Trưng
nữ tướng miếu – 題欽州徵女將廟” của Nguyễn Thiên Túng.
Giả thiết của chúng tôi là: Từ năm 43 AD đến 100 AD, khi người Hán đã
chiếm xong các vùng đồng bằng màu mỡ, giao thông thuận tiện, ven biển
hoặc ở các cửa sông, phần lớn người Lạc Việt đã bỏ xứ ra đi. Trên bộ họ
tỏa đi mọi hướng, lên rừng phía tây thành người Mường, xuôi nam hoặc
ngược bắc đến lãnh thổ Champa sau này hoặc Quảng Tây. Trên biển, xuất
phát từ Thanh Hóa, người Lạc Việt xuôi gió mùa đông bắc xuống các đảo
Indonesia. Duy nhất nhánh Lạc Việt ở Quảng Tây đã bảo tồn thành công văn
hóa trống đồng từng bị Mã Viện âm mưu tận diệt. Sau thời Đông Hán họ tự
gọi mình là người Lý, người Lê. Hiện nay lại có thêm tên Tráng tộc,
Thủy tộc…
Ảnh: Lễ hội trống đồng của người Tráng ở Quảng Tây – Trung Quốc ngày nay.
Trống đồng tại đỉnh cao rực rỡ Đông Sơn – Thanh Hóa của nó hoàn toàn
suy tàn, nằm yên dưới nhiều thước đất trong 1800 năm đằng đẵng. Đó chính
là lý do sử gia Lê Tắc, hậu duệ của thứ sử Giao Châu thời Đông Tấn ghi
nhận các bộ tộc nhỏ sử dụng trống đồng còn ở lại Việt Nam quãng thế kỷ
14 là Man Tử (bọn mọi) hoặc Liêu Tử (bọn hoang dã hung ác). Nguyên văn
Hán ngữ trong An Nam Chí Lược như sau:
獠子: 獠子者蠻子異名也. 多隸湖廣雲南. 有服役於交阯. 又有雕題鑿齒者. 種類頗多. 古載有頭形獠子, 赤裩獠子, 鼻飲獠子.
皆居巖窟或橧巢, 飲蘆酒, 好戰敵. 擊銅鼔以髙大者為貴. 鼔初成置庭中設酒招同類來者盈門. 豪富女子以金銀釵擊鼔叩畢留與主人.
或云銅鼔乃諸葛亮征蠻鉦也.
Liêu tử: Liêu tử là tên khác của bọn mọi (Man tử). Đa phần cư trú ở
Hồ Quảng (đây là một khu hành chính thời Nguyên và Minh, bao gồm phía
nam Hồ Bắc, Hồ Nam, phía đông Trùng Khánh, bắc Quảng Đông và một vài
vùng của Quảng Tây) và Vân Nam. Họ cũng phục dịch ở quận Giao Chỉ. Thêm
nữa họ còn vẽ trán, cà răng. Có nhiều chủng loại. Sách xưa liệt kê Liêu
tử đầu hình (có lẽ là búi tóc), Liêu tử mặc khố đỏ và Liêu tử tị ẩm
(theo chúng tôi là uống rượu bằng cần trúc). Họ đều sinh sống cư trú ở
hang động trên núi cao hoặc nhà sàn. Họ hay uống các vò rượu có cần trúc
hoặc sậy, thích đánh nhau, gõ trống đồng, trống càng to lớn thì càng
quý giá. Trống vừa đúc xong thì đặt giữa sân, bày rượu, mời đồng loại
đến chật nhà. Con gái các nhà giàu (làm khách) thường dùng những chiếc
thoa bằng vàng hoặc bạc gõ vào trống, chúc mừng xong thì trao tặng luôn
cho chủ nhân. Có người nói rằng trống đồng chính là chiêng của Gia Cát
Lượng khi nam chinh đánh mọi.
Thực ra nội dung trong An Nam Chí Lược có một phần đã được đề cặp tại phần Phong Tục, chương Châu Quận Thập Tứ, sách Thông Điển, thời Đường (năm 801):
(通典. 州郡十四. 古南越) 風俗:
五嶺之南,人雜夷獠,不知教義,以富為雄。父子別業,父貧乃有質身於子者。其富豪並鑄銅為大鼓,初成,懸於庭中,置酒以招同類。又多搆讎怨,欲相攻擊,則鳴此鼓,到者如雲。有鼓者號為都老,群情推服。本之舊事,尉佗於漢,自稱蠻夷大長老夫臣佗,故俚人呼其所尊為倒老也。言訛故又稱都老云。珠崖環海,尤難賓服,是以漢室嘗罷棄之。漢元帝時,珠崖數反叛,賈捐之上書,言不可煩中國師徒,請罷棄。帝從之。大抵南方遐阻,人強吏懦,豪富兼并,役屬貧弱,俘掠不忌,古今是同。其性輕悍,易興迷節。自尉佗、徵側之後,無代不有擾亂,故蕭齊志云:「憑恃險遠,隱伏巖障,恣行寇盜,略無編戶。」爰自前代,及於國朝,多委舊德重臣,撫寧其地也。
Dịch nghĩa: Phía nam Ngũ Lĩnh, các bộ lạc người Di người Liêu cư trú
lẫn lộn, không áp dụng phép tắc Trung Quốc, giàu có được xem là tài
giỏi. Sản nghiệp của cha và con phân biệt, nếu cha nghèo thì có thể bán
thân (làm thuê) cho con. Thủ lĩnh ở đây đều dùng đồng đúc thành trống
lớn, trống vừa đúc xong thì treo giữa sân, bày rượu để đón mời đồng loại
(ăn mừng). Họ lại thường hay gây thù chuốc oán với nhau, hay đánh nhau,
khi đó sẽ gõ trống, người khắp nơi liền tụ về (tham chiến) đông nghịt
như mây. Kẻ có trống đồng tự xưng là Đô Lão, dân chúng sẽ tôn phục. Xưa
quan úy Triệu Đà đối với nhà Hán, tự xưng là Man Di Đại Trưởng Lão, còn
người Lý bản địa thì xưng là Lão thôi. Có kẻ nói nhầm rằng (Triệu Đà)
xưng là Đô Lão. Châu Nhai bị biển bao bọc xung quanh, khó bề khuất phục,
thời Hán đã bãi bỏ. Những năm Hán nguyên đế, Châu Nhai nhiều lần làm
phản, Giả Quyên Chi tâu lên, rằng không nên lao khổ quan binh Trung
Quốc, xin triệt thoái. Vua thuận cho. Đại để là phương nam cách trở, dân
chúng cứng cỏi, quan lại nhu nhược, các thủ lĩnh địa phương hay chống
đối, lính triều đình nghèo nàn yếu đuối, tù binh không kiêng sợ, xưa nay
đều vậy. Người ở đấy bản chất ương ngạnh, lòng dạ u mê hay thay đổi. Từ
thời quan úy Triệu Đà và (nữ vương) Trưng Trắc trở về sau, chẳng có
thời nào là không có nhiễu loạn. Xưa Tiêu Tề có chép: “Dựa vào vị trí xa
xôi hiểm nguy, lẩn trốn trong hang hốc ẩn khuất, họ phóng túng cướp
bóc, (do đó) không đưa người ở đây vào sổ sách thu thuế được”. Từ đời
trước cho đến Đường triều, vẫn phải giao phó sự cai trị bằng các trọng
thần đức độ, mới yên ủi phủ dụ được xứ này.
***
Trống đồng từ Mã Viện (Mã Viện Liệt Truyện – Hậu Hán Thư) vốn chỉ
được xem như nguyên liệu để nấu chảy đúc ngựa đồng, cột đồng; đến Lê Tắc
coi đó là sản phẩm của những sắc dân bán khai, vừa tròn 1300 năm. Các
cổ vật này rõ ràng không được Hán quan hoặc giới tinh hoa phong kiến
Việt Nam đánh giá cao. Với người Hán thì thật dễ hiểu, đồ đồng Thương
Chu của họ đã tinh xảo và mang tính mỹ thuật hàng đầu nhân loại. Nhà Tần
đã đúc được những bức tượng ông trọng khổng lồ bằng đồng nặng đến 1000
thạch, khoảng 10,9 tấn. Về phía người Việt, điều hợp lý có thể nhìn nhận
ở đây là họ đã tự cho mình là một chi Hán, ít nhất trên khía cạnh văn
hóa. Do đó sự vô cảm với trống đồng đã diễn ra rất tự nhiên. Hơn nữa,
trống đồng là vật phẩm tuy có giá trị thẩm mỹ nhất định, nhưng nó phục
vụ đời sống và tín ngưỡng trong không gian bộ lạc bé nhỏ. Người ta từng
dùng nó tập hợp dân chúng khi có chiến tranh hoặc xung đột, nên vào đầu
công nguyên, Mã Viện đã tịch thu rất nhiều trống đồng để bẻ gãy các cuộc
phản kháng tại quận Giao Chỉ. Trống đồng ngày nay vẫn còn được gõ ở các
lễ hội cầu mưa hoặc mừng mùa mới. Đặc biệt, đây là một vật tùy táng
quan trọng xưa kia và nó không bị hủy hoại hoàn toàn dưới lòng đất. Nhờ
đó, trống đồng giúp lưu giữ và tái hiện quá khứ từ trầm tích thời gian.
Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam trống đồng vô dụng và hẳn nhiên
đã bị quên lãng.
Tình cờ, công trình khảo cổ học Đông Sơn đầu thế kỷ 20 trùng với thời
điểm người Việt Nam hiện đại đang xây dựng cho mình mô hình nhà nước
dân tộc để giải phong kiến và giành lại độc lập từ thực dân Pháp. Trống
đồng bỗng trở thành vưu vật mang tính biểu tượng mà trời đất ban cho
mảnh đất hình chữ S, niềm tự hào quá khứ xa xăm, dù lúc đó cổ sử Việt
hãy còn tuyệt đối mù mờ.
Sản phẩm dễ thấy nhất của nhà nước dân tộc là tinh thần dân tộc, đôi
khi khá thiên lệch. Tinh thần ấy đã phong tỏa và làm biến dạng mọi công
trình khảo cổ trống đồng trên đất nước Việt Nam. Nó cô lập di vật Đông
Sơn với các thành tựu khảo cổ trống đồng liên tục được cập nhật trong
khu vực, từ Indonesia, Thái Lan, Lào, Miến Điện, đến Trung Quốc. Việt
Nam ngày nay, không ít người đặt cược vào trống đồng một nền văn minh
bản địa thuần Việt rực rỡ, vĩ đại hơn văn minh Trung Hoa rất nhiều.
Nhưng đáng tiếc đó chỉ là một tín điều mang bản chất tôn giáo yếm thế và
tự ti.
Vào cuối những năm 70 tại Vân Nam – Trung Quốc, khảo cổ đã phát lộ
dày đặc trống đồng tùy táng tiền Heger I (Pre Heger I). Trong vòng 20
năm sau đó học giới quốc tế hầu như đã đi đến kết luận văn hóa đồ đồng
Đông Sơn xuất phát từ đầu nguồn sông Hồng.
Điển hình như Murowchick, Robert E. 2001, quyển “Political and Ritual
Significance of Bronze Production in Ancient Yunnan.” Ông viết: “Nhiều
trống đồng Đông Sơn tương đồng với những thứ ở các hố khai quật tại Điền
Việt, chúng dường như đã được sao chép từ nguyên mẫu Điền Việt, hoặc
trong một số trường hợp có khả năng nhập khẩu từ vùng đất Vân Nam.”
Đi xa hơn nữa, Murowchick còn cho rằng văn minh đồ đồng Hoa nam có
nguồn gốc Trung Nguyên: “Các chi tiết giao lưu trực tiếp hoặc gián tiếp
giữa miền tây nam Trung Hoa xa xôi và Trung Nguyên trong thời đại đồ
đồng vẫn cần các nghiên cứu sâu rộng hơn, nhưng nhiều khía cạnh của công
nghệ luyện kim Điền Việt dường như có nguồn gốc từ phương bắc.”
Trống đồng Đông Sơn là cái phao hoàn hảo nâng đỡ thuyết văn minh bản địa Việt Nam đã đến hồi cáo chung! Saigon @2017
Khám phá thú vị: Việt Nam là cái nôi của trống đồng
(Kiến Thức) - Theo lập luận của GS Nguyễn Văn Hảo, trống đồng ra đời ở Việt Nam và được người Trung Quốc mang về làm thêm một số họa tiết...
Hoa văn trống đồng chuyển động ngược chiều kim đồng hồ
GS
Nguyễn Văn Hảo, nguyên Viện phó Viện Khảo cổ về nguồn gốc của trống đồng
cổ có hàng chục năm nghiên cứu về các loại trống đồng, điều ông quan
tâm nhiều nhất là chiều chuyển động của hoa văn trên trống đồng cổ. Hoa
văn trên trống đồng Đông Sơn
có hai loại: Hoa văn hình học và hoa văn tả thực. Các họa tiết hoa văn
hình học được tìm thấy trên đồ gốm của các văn hóa khảo cổ trước đó, đặc
biệt trên đồ gốm của văn hóa Gò Mun. Khác với hoa văn hình học, hoa văn
tả thực bắt nguồn từ cuộc sống, từ môi trường thiên nhiên mà cư dân
Đông Sơn sinh sống. Hoa văn này đã ghi lại những cảnh múa và các con vật
trên mặt trống đều chuyển động ngược hướng kim đồng hồ.
Để
chứng minh điều đó GS Hảo đã phải nghiên cứu trên nhiều tư liệu. Ông đã
đi tìm hiểu nguồn gốc của nền văn hóa cổ, cũng như tập quán sinh hoạt
của các dân tộc ở nước ta. Đến nay một số điệu múa của dân tộc Tây
Nguyên như trong điệu múa cồng chiêng, múa trong lễ đâm trâu mọi người
xếp hình tròn đi theo ngược kim đồng hồ. Đặc sắc hơn nữa cách hát trống
Quân của người Kinh trên mảnh đất vua Hùng Phú Thọ. Trai gái nơi đây xếp
thành vòng tròn vừa đi theo ngược hướng ngược chiều kim đồng hồ để múa
hát.
Trước
đó, ở nước ta cũng có một số nhà khoa học đưa ra nhận định khác nhau về
hướng chuyển động của hình vẽ trên trống đồng, người nói nó chuyển động
ngược, người nói chuyển động xuôi theo kim đồng hồ. Tuy nhiên, những
điều giải thích của họ chưa đúng với thực tế.
GS Hảo đã chứng minh được Việt Nam là cái nôi của trống đồng.
GS Hảo
cho hay, trong hoa văn tả thực trên trống đồng Đông Sơn, chúng ta dễ
dàng nhận ra một điều, hình ảnh đi biển của người Đông Sơn được thể hiện
nổi bật nhất. Trên trời có chim bay, dưới nước là cá biển, rùa biển để
“hộ tống” những chiếc thuyền đi biển, chiếc nọ nối đuôi chiếc kia vận
hành theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Nghề đi biển đánh bắt cá, là
nghề kiếm sống chủ yếu của người dân thời đó. Sinh sống nhờ biển, điều
đó đồng nghĩa với việc họ phải đối mặt với bão tố. Vì thế, họ phải hiểu
được quy luật của biển để có biện pháp tránh bão.
“Đường
đi của bão trước khi đổ bộ vào đất liền thường xoay theo hướng ngược
chiều kim đồng hồ. Theo kinh nghiệm của những người đi biển, khi gặp
bão, họ nhìn theo hướng vận động của trung tâm bão, khu vực nguy hiểm
(nửa vòng nguy hiểm) sẽ nằm ở hướng di chuyển của bão. Tại khu vực này
sóng to, gió lớn mạnh hơn bên trái hướng đi của bão (nửa vòng đi được).
Hướng gió phía bên phải gần như đồng nhất với đường đi của bão, một khi
thuyền bị gió đẩy vào trung tâm bão thì không thể thoát ra được người đi
thuyền đối mặt với cái chết.
Mặt
khác khi bão đổi hướng, phần nhiều đổi hướng bên phải, hướng gió thuận
chiều kim đồng hồ chứng tỏ thuyền đang đi vào vòng nguy hiểm, nếu thuyền
đi ngược chiều kim đồng hồ, chứng tỏ thuyền đang ở nửa vòng có thể đi
được. Do vậy, hướng ngược chiều kim đồng hồ là hướng hy vọng, hướng sinh
tồn của người đi biển và là thói quen của ngư dân Đông Sơn xưa.
Theo GS Hảo, người Điền Trung Quốc đã thêm hoa văn vào trống đồng của nước ta để nói nó là của mình. (Ảnh tư liệu).
Trống đồng có nguồn gốc ở Việt Nam
GS Hảo
cho hay, hiện nay nhiều nước Đông Nam Á cũng có trống đồng. Nhưng ở Việt
Nam và Trung Quốc trống đồng có niên đại lâu hơn cả. Việc phân định
trống đồng của nước ta có trước, hay Trung Quốc có trước vẫn là vấn đề
gây tranh cãi trong giới chuyên môn. Một số chuyên gia khảo cổ học
phương Tây cho rằng, Việt Nam là cái nôi của trống đồng, người Trung
Quốc đã lấy mẫu trống đó về thêm một số họa tiết để đúc lại. Nhưng theo
quan điểm thống trị của Trung Quốc thì trống đồng Vạn Gia Bá ở Vân Nam
có đầu tiên, ra đời thứ hai là trống Đông Sơn, thứ ba là trống Thạch
Trại Sơn.
Để phản
bác điều đó nhiều nhà nghiên cứu của nước ta đưa ra lập luận khẳng định
Việt Nam là cái nôi của trống đồng. TS Hảo đồng ý với ý kiến Cụ Đào Duy
Anh cho rằng, trống đồng Đông Sơn ra đời đầu tiên, sau đó người Hán mới
mang về biến cái đó thành của mình. “Không phải tôi là người Việt mà
tôi nhất trí như vậy mà nghiên cứu của tôi đã chỉ ra. Khi nói tới trống
đồng người ta thừa nhận là nhạc cụ gõ, yếu tố nào quyết định là nhạc cụ
thì đầu tiên là hình dáng, mặt trống gõ phát ra âm thanh, thân trống là
phần cộng hưởng. Thứ hai, hình dáng trống cũng quyết định đến âm thanh.
Thứ ba, chất liệu chế tạo trống. Ba yếu tố đó không chỉ tạo thành âm
sắc, âm vực của chiếc trống mà nó có ý nghĩa, nó biểu hiện hồn phách
của dân tộc có trống đó, dân tộc nào vẽ hoa văn của dân tộc đó. Hoa văn
trên trống đồng là hoa văn thể hiện văn hóa, của dân tộc chế tạo ra hoa
văn đó chứ không phải mỗi trống có hoa văn riêng”, GS Hảo cho biết.
Trong
sách viết về nguồn gốc trống đồng của người Trung Quốc họ nói chiếc
trống cổ do 6 dân tộc chế tạo, trong đó có người Lạc Việt. Số lượng
trống tìm thấy là 46 chiếc. Điều đó là bất hợp lý, không thể 6 dân tộc
lại chế tạo một loại trống.
Một chiếc trống Đông Sơn đã bị người Điền khoét đáy, làm thêm nắp. (Ảnh tư liệu)
Theo
nghiên cứu của GS Hảo, chiếc trống Thạch Trại Sơn có hoa văn giống Đông
Sơn, nhưng người Điền đã khắc thêm những hoa văn của họ, đè lên hoa văn
của Đông Sơn. Trong hội nghị quốc tế tổ chức tỉnh Quế Lâm, Trung Quốc,
khi TS Hảo phát biểu và đưa ra những giải thích khiến các nhà khoa học
Trung Quốc cũng phải đồng ý. Chính một GS - Hiệu phó của trường Học
viện Dân tộc học Quảng Tây tiến hành phân tích đồng vị chì chiếc trống ở
Quý Huyện, Quảng Tây cũng khẳng định rằng, chiếc trống đồng cổ nhất của
người Đông Sơn chế tạo. Bằng cách nào đó chiếc trống được đưa sang
Trung Quốc và được thợ khắc thêm hoa văn trên trống.
Qua tìm
hiểu của GS Hảo, những chiếc trống mà Trung Quốc nói là trống cổ của
họ, được tìm thấy trong ngôi mộ của viên quan từng cai trị ở nước ta. Vì
thế, ông ta mất đi, biết trống đồng quý đã bảo con cháu chôn cất trong
mộ của mình. Giống như Mã Viện sang đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau
đó lấy trống đồng về đúc ngựa. Do vậy, việc Trung Quốc cũng có những
chiếc trống đồng bằng với niên đại ở nước ta là do họ đã mang về để sử
dụng.
Những
chiếc trống đồng Thạch Trại Sơn của người Điền có cách nay hơn 1 nghìn
năm hoa văn tả thực hơn trống Đông Sơn, độ tả thực cao, chi tiết. Tay
người đeo vòng, người mặc áo hoa kẻ sọc, có khuyên tai. Điều đó chứng tỏ
người Điền lấy trống Đông Sơn cải tạo thành thùng đựng vỏ ốc, mặt họ
phá đi đúc mặt mới làm nắp, dưới làm một cái đáy để bỏ vỏ ốc. Đối với
người Điền thì ốc là tiền, những vỏ con ốc lợn được lấy từ biển của Ấn
Độ, là những thứ rất quý. Những hoa văn gốc của trống như hình ảnh người
mặc nửa trần, đội mũ lông chim đặc trưng người Đông Sơn đã bị cạo, khắc
hình ảnh đặc trưng của người Điền.
Những lý giải của GS Hảo về trống đồng cổ của ông được Hội đồng nghiên
cứu trống đồng Trung Quốc cũng phải công nhận là đúng. Tập luận văn
nghiên cứu về trống đồng của GS Hảo hiện được Bảo tàng khu tự trị dân
tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc ghi nhận và lưu giữ tại đây. Nhiều
người trong giới chuyên môn đã công nhận Việt Nam là cái nôi của trống
đồng.
Đức Hồng
Minh Triết Trống Đồng
Họa Đồ Tâm Linh Dân Tộc Việt
Trống Đồng là một vấn đề có liên
quan đến khảo cổ. Do đó bài trình bày về Trống Đồng của chúng tôi gồm có 2 phần
chính:
Thứ nhất là Khảo Cổ Trống Đồng
Thứ hai là Minh Triết Trống Đồng
Như chúng ta biết, Trống là một
cổ vật chung ở miền Đông Nam Á, gồm cả các nước Tàu, Việt, Miến, Thái, Phi, Mã
Lai, Nam Dương… mà trung tâm phát xuất lớn nhất là ở Việt nam. Trống xuất hiện
ngay từ thời khuyết sử như trống đất, trống gỗ, trống đồng, trống cầu mưa, trống
sấm, trống vu hích, trống cầm canh…
Về cổ thư Việt, vì bị quân Tàu
xâm lược lấy mất hết, không tìm được di tích.
Những sách sử từ thế kỷ 14 trở
đi có nhắc đến, và rất trân trọng. Trống thường được dùng trong tế lễ, các cuộc
thề nguyền rất thiêng liêng, trọng thể.
Triết gia Kim Định mô tả rất
chính xác ý nghĩa tôn quý của Trống:
“Trống Là Tiếng Vọng của Linh Hồn Việt”
Sử sách xưa của Trung Hoa từ
thế kỷ thứ 3 trước Tây Lịch, đã đề cập đến trống đồng của Việt Tộc, tuy với ngụ
ý xuyên tạc văn hóa, nhưng đã nói lên sự sở hữu của Việt Tộc về Trống đồng. Năm
43, khi Mã Viện đánh Trưng Nữ Vương, đã thu hết trống đồng của ta để đúc ngựa
mẫu, nên trống bị quên lãng dần, chỉ còn là đối tượng của sự thờ cúng. Tuy
nhiên, khi Trần Lương Trung, sứ nhà Nguyên sang nước ta, đời vua Trần Nhân Tôn
(1291), có bài thơ “Cảm sự” trong Sứ Giao Châu tập, về Trống Đồng Việt:
Bóng lòe gươm sắc lòng thêm đắng
Tiếng rộn trống đồng tóc đốm
hoa.
Nghĩa là nhớ đến trận
chiến quân Nam đuổi đánh quân Mông Cổ sợ kinh khiếp đến nỗi chỉ nghe tiếng trống
đồng rộn rã mà sứ giả đã bạc trắng tóc rồi!
Về phía Tây phương, đến thời
Pháp thuộc, khỏang 1885-1895 thực dân Pháp mới nhận ra trống đồng Việt là một
di vật quí, tìm mua khắp nơi, và trưng bày ở các hội chợ, viện bảo tàng ngọai
quốc. Bốn trống nổi tiếng nhất là: Sông Đà, Khai Hóa, Ngọc Lữ, Hòang Hạ. Hai
trống Ngọc Lữ, Hòang Hạ đẹp và cổ hơn cả. Trống Ngọc Lữ ở chùa Long Đại Sơn làng
Ngọc Lữ tỉnh Hà Nam. Năm 1901 trường Viễn Đông Pháp đã nhờ trung gian chánh sứ
Phủ Lý lấy trống ấy về Viễn Đông Bác Cổ, Hà nội. Còn trống Hòang Hạ, tìm được
năm 1932, nhân lúc khai sông gần làng Hoàng Hạ, tỉnh Hà Đông, trao cho
trườngViễn Đông Pháp ở bảo tàng viện Finot, nay cũng ở Hà nội.
Về khảo cổ, thật ra mới đầu
trường Viễn Đông Pháp lập ra năm 1900 chưa chú ý nhiều đến trống đồng. Họ tập
trung vào nghiên cứu thời kỳ đồ đá ở Việt Nam như thời Hòa Bình và Bắc Sơn.
Nhưng một sự kiện tình cờ xẩy ra năm 1924, một người làng Đông Sơn ra sông Mã
câu cá sau trận bão lụt, thấy chiếc trống đồng nằm trên bờ sông, lấy về bán lại
cho một người Pháp tên là Pajot. Sau đó trường Viễn Đông Pháp giao cho Pajot
khai quật di chỉ Đông Sơn và tìm được tổng cộng 489 đồ đồng, trong đó có 20
chiếc trống loại lớn, thân hình trụ đứng thẳng, trên mặt có hình sao đúc nổi.
Lọai này được Heger chuyên gia khảo cổ về trống phân lọai hạng I trong các lọai
trống. Từ đó, trên thế giới chú ý và xuất hiện nhiều bài bình luận về Trống
Đồng Đông Sơn. Và tên Văn Hóa Đông Sơn trong ngành khảo cổ cũng do một nhà khảo
cổ người Đức Heine Geldern đặt tên trong thời gian này. Nhưng cũng từ khi Trống
đồng Đông Sơn được nổi tiếng thì nhiều di chỉ trống đồng được thám quật, và
Trung Quốc có sự tranh chấp chủ quyền về trống đồng với ta đã bắt đầu, khỏang
năm 1950. Gần đây, các nhà nghiên cứu khảo cổ trống đồng phối hợp với các ngành
khác như di truyền, hải dương, nhân chủng…thì sự tranh cãi không còn nữa. Sự
thật của lịch sử về nền Văn hóa Đông Sơn đã được các nhà khảo cổ trên thế giới
thưà nhận là của chủng tộc Việt. Mà Trống Đồng Đông Sơn tại Việt Nam là một đại biểu chói chang nhất.
Nói về các niên đại văn
hóa, ta có thể kể sơ:
Văn Hóa Hòa Bình: Khỏang
ít nhất 10,000 năm trước Tây Lịch: Đây là thời đại đồ đá mới, người Hòa Bình đã
khắc phục trở ngại thiên nhiên, chế tạo dụng cụ sản xuất, từ bỏ đời sống hoang
dã, hái trái, săn bắt, Khai Sáng nền Văn Minh Nông Nghiệp tại Đông Nam Á. Người
Hòa Bình còn di chuyển từ Nam lên Bắc, sau này thành người Tàu, đi qua Nam
Dương, Mã Lai, vượt qua Mỹ Châu…Người Hòa Bình là tổ tiên của người Việt chúng
ta ngày nay.
Thời đại Bắc Sơn: Khỏang
5000 năm truớc Tây lịch.
Thời Phùng Nguyên: Khỏang
3000 năm truớc T.L
Thời Đông Sơn: Khỏang
900-700 trước TL tới 200 năm sau T.L
Vua Hùng dựng nước từ 2879
trước Tây Lịch, và bị Thục Phán cướp nước vào năm 258 trước Tây Lịch. Như vậy
Thời Văn Hóa Đông Sơn nằm trong cuối thời của các Vua Hùng Vương.
Sự nổi tiếng của Trống Đồng Đông
Sơn về mặt cổ vật quý vì kỹ thuật luyện kim thời ấy. Trống Đông Sơn là đỉnh cao
của kỹ thuật hợp kim đồng, chì và thiếc, nhờ vậy đồng có độ dai bền vô cùng, có
thể dát mỏng làm mặt trống mà tha hồ đánh không thủng. Các hoa văn trên trống
đồng cũng là những khắc chạm độc đáo cùng với vẻ hòanh tráng của trống đồng đã
làm các nhà khảo cổ quốc tế ngưỡng mộ.
Chúng tôi xin tả sơ về các hoa
văn trên trống Ngọc Lữ:
Trống Ngọc Lữ có đường kính 79
cm, thân trống cao 63cm, tang trống ( thành trống) phình ra đường kính 86cm.
Trên mặt trống ở giữa là hình mặt trời nổi cao có 14 tia sáng . Giữa các tia
sáng là hình các tam giác. Từ đó chia làm 16 vòng hoa văn, mỗi vòng bao bởi
HAI đường chỉ chạy song song.
16 vòng này lại chia làm
BA nhóm vòng: Nhóm vòng thứ nhất sát
vòng mặt trời, gồm hình như chim bay kiểu hình chữ S.
Nhóm vòng
thứ hai, ở giữa, chia thành hai nửa bán nguyệt: một bên 6 hình, một bên 8.
Triết gia Kim Định gợi ý cho chúng ta rằng có thể đây là dấu hiệu của thời thể
thơ lục bát . Điều này cũng dễ đồng ý vì lục bát là lọai thơ riêng của Việt Nam.
Một nửa 7
người hóa trang thành chim tay cầm lao, giáo,kèn.
Một dàn 4
chiếc trống với 4 người đang đánh bằng chầy đứng.
Một dàn cồng
chia hai, một bên 7, một bên 8, một người đánh.
Một nhà sàn
hình thuyền mái cong, có một chim đậu và hai người ở trong đang múa giao tay
giao chân, tức là như lối hát Lý Liên sau này.
Hát Cài Hoa Kết
Hoa (Lý Liên)
Nửa khác trên nóc nhà có hai
chim, đoàn người bên chẵn bên lẻ. Nhóm vòng thứ ba,
gồm hai vòng nai và chim. Đặc biệt là cứ có một chim đứng thì một con bay, một
con đuôi dài cạnh một con đuôi ngắn, một con đực đi đôi với một con cái…
Khảo cổ làm việc để ghi lại
các yếu tố vật chất, như hình thể trống thuộc lọai nào, độ cao, chiều kích,hình
các hoa văn trên trống liên hệ ra sao với các hoa văn của từng thời đại văn hóa,
hay phân tích thành phần hợp kim, kỹ thuật đúc trống, nơi xuất phát trống của
từng lọai v.v….Những công trình khảo cổ giúp cho ta có cái nhìn về khía cạnh hữu
hình, hữu hạn của di vật cổ mà thôi.
Nhưng Nghệ Thuật
không chỉ là những gì bộc lộ ra ngòai. Điều mà nghệ thuật diễn tả được phải là
chỗ không lời, không thấy, gợi được cái cảm nghiệm vô biên, cái ý nghĩa thấm vào
tận đáy lòng người, làm rung cảm mối suy tư… Do đó, lý tưởng của nghệ thuật cũng
là lý tưởng của con người. Vì con người là gì? Có phải rằng chúng ta cũng chỉ là
một Tác Phẩm Nghệ Thuật độc đáo, cao cả, mầu nhiệm nhất của vũ trụ ?
Như vậy, ngắm nhìn các hoa
văn trên trống đồng dân tộc, nếu tâm hồn trầm lắng các vọng động, ta sẽ cảm
được cái nghệ thuật ẩn tàng của trống, nghĩa là tiếp cận miền vi tế của Tâm
Linh Tổ Tiên Việt.
Như vậy, Ngắm Nhìn Trống,
với Tâm Tư, chính là tác động của một Công Án
Thiền Tâm Linh của Đạo Việt.
Hay nói cách khác, theo
Triết Lý An Vi, muốn tìm hiểu tư tưởng Tổ tiên, ta phải đặt mọi vấn đề trong cái
sinh động của TÒAN THỂ nền văn hóa. Ta sẽ thấy các hoa văn trên di chỉ trống
đồng liên hệ chặt chẽ với các yếu tính văn hóa chung trên các khía cạnh khác
như ngôn ngữ trong huyền thọai, ca dao, tục ngữ; như con số huyền nhiệm; hay là
các phong tục, thể chế trong sinh họat làng quê Việt.
Thật thế, quan sát các hoa
văn chạm trổ trên trống đồng ta thấy các ấn tích văn hóa Việt đầy khắp.
1. Mặt trời: Là yếu tố ở
trung tâm trống: Điều này cũng trùng hợp với các quốc hiệu xưa của nước ta là
Xích Quỷ, Viêm Việt; Xích chỉ lửa đỏ, Quỷ nghĩa là Làm Chủ, Tinh Hoa, Viêm là xứ
nóng.
Như vậy, mặt trời có liên hệ
với danh hiệu nước, chứng tỏ sự gắn liền với mặt trời của dân xứ nóng, nông
nghiệp. Mà Việt Tộc là lãnh đạo. Thêm nữa, Việt Tộc làm nghề nông thì luôn dựa
vào thời tiết, mặt trời để canh tác cho thích hợp, nên trước khi sang biểu
tượng vật linh, trong giai đoạn đầu còn ảnh hưởng tâm lý bái vật, Việt Tộc đã
sùng bái mặt trời như là nguồn sinh dưỡng.
2. Vật biểu chim hiện ra
trong việc con người hóa trang bằng lông chim, các con chim đầy khắp vòng trống.
Tinh thần nước Việt hiện ra hình chim Tiên bay múa theo chiều tay trái. Truyện
Con Rồng Cháu Tiên chính từ biểu tượng của chim bay nhởn nhơ trên ruộng lúa nước
từ thời còn là người văn minh tiền sử Hòa bình cả chục ngàn năm xưa.
3. Dấu tả nhậm:Tả nhậm
là cài áo tay trái, nói rộng ra là trọng phía trái.Đòan người chim nai trên các
vòng trống đồng đều đi về phía trái. Phía trái là dấu riêng của Việt tộc, một
lần nữa, trống đồng đã ghi lai nét văn hóa độc đáo của chủng tộc. Chúng tôi có
một điều cần lưu ý ở đây: Không hiểu với trình độ cảm nhận Tâm Linh siêu việt
tới mức nào, mà Tổ Tiên Việt Tộc chúng ta cứ trọng hướng trái. Vạt áo bên phải,
nút áo bên phải, nên khi cài nút áo mặc, người Cổ Việt dùng tay trái. Điểm đặc
biệt này ngược với các sắc dân khác, như là người Hoa Hán, họ cài áo tay phải,
cho nên họ có câu: “ Tứ Di tả nhậm” để chỉ sự khác biệt của dòng tộc Tứ Di- tức
là tiền thân cũa dân tộc Việt. Thế mà ngày nay, với những khám phá mới nhất của
khoa thần kinh não bộ học, đã chứng minh phần bán cầu não phải là tập trung của
năng lực nghệ thuật, thẩm mỹ, cảm xúc. Mà như chúng ta đã biết, phần bên phải
của não điều khiển các vận động bên trái của cơ thể. Như thế có nghĩa là khi
sử dụng tay trái là liên hệ tới não phải, phần nghiêng về nghệ thuật, thẩm mỹ,
cảm xúc - tức là Minh Triết. Như chúng tôi đã thưa ở trên, Minh Triết gắn liền
với Nghệ Thuật và Nhân Sinh, và đó chính là đặc điểm của nền Minh Triết Việt.
Ngòai ra, tả nhậm còn ý
nghĩa là hướng ngược chiều mặt trời, ngược chiều kim đồng hồ. Đời sống đi theo
chiều kim đồng hồ là đời sống của vật thể, đo đếm, đều đặn, lạnh lùng, vô cảm,
lý trí cứng rắn của ý thức phân biệt . Ngược lại với những tính chất này, là đời
sống của tâm linh vô phân biệt, của cảm xúc nồng nhiệt của trái tim. Trong ngôn
ngữ, văn hóa ta nói vợ chồng, nhà nước… vợ trước chồng, nhà trước nước tức là
cái yếu ớt, nhỏ bé, cụ thể trước, đó là tả nhậm.
Có lẽ cũng vì cảm thức với Tiềm Thể Tâm Linh Minh Triết,
nên Việt tộc trọng phía trái, còn có nghĩa là sự trọng tình cảm, thương người
yếu kém trong văn hóa và đời sống Việt, còn tương quan với sự họat động của thần
kinh cảm xúc. Nếu như vậy, cảm xúc, sự tương giao, hòa hợp, hay tình yêu thương
của con người với thiên nhiên, vũ trụ, vạn vật, và với nhau đã nằm sẵn trong cơ
cấu thần kinh não bộ. Kích động cái nguồn tiềm lực ấy lên, khơi nguồn cái dòng
tâm đạo ấy lên, một trong những vận động ấy chính là tác động Tả Nhậm của Tổ
tiên Việt Tộc? Ôi! Huyền nhiệm thay sức sáng tạo từ trực giác tâm linh của Tổ
Tiên ta. Chúng ta đã tháp đôi cánh Tiên nương bay lượn trong cõi vô cùng, nên
thấy ngay cái chân lý tâm linh tả nhậm của bản thể vũ trụ, nhân sinh trong khi
khoa học mò mẫm bằng lý trí phải mất mấy ngàn năm mà cũng chỉ tìm được những
mảnh vụn rách rời của tấm họa đồ bí mật sự sinh tồn của vũ trụ.
4. Tính Lưỡng Hợp trên
trống: con cái và đực, các đuôi chim dài ngắn xen kẽ. Con bay con đứng
cũng từng cặp…Rồi đến các vòng song song chạy đều trên mặt trống để phân
chia giữa
những nhóm vòng hay các vòng tiếp tuyến chạy song song giữa từng vòng.
Đây là
hình ảnh của tính nhịp đôi của Văn Hóa Việt, là biểu lộ tâm thức hai
chiều, đã
đầy khắp mặt trống. Hình ảnh này ta còn tìm thấy nơi những hòn sỏi tìm
được ở
Bắc Sơn (5000 năm trước Tây lịch) có hai dấu vạch song song với nhau.
Cũng như
theo các nhà nghiên cứu cấu trúc ngôn ngữ Việt, thì khỏang 80% từ ngữ
Việt gồm
hai chữ ghép với nhau. Thí dụ như: đi lại, ngang dọc, ăn làm, nói năng…
5. Nông nghiệp đã hiện
rõ nơi các chầy đứng giã gạo của nhà nông.
6. Địa vị Con Người : Địa
vị của một chủ nhân trong vũ trụ đã thể hiện trong mọi sinh họat trên
trống đồng
ngay giáp vòng trung tâm mặt trời. Con người xuất hiện trong các động
tác của múa, hát, giao hòa . Mọi người cùng múa, cùng hát, cùng giao tay
chân . Người
điều động là một người của nhóm, ta thấy cảnh mọi người cùng nhau tham
dự trong
một Tinh Thần Công Thể, như là các phần tử trong một cơ thể. Tuyệt nhiên
không hề có cảnh của mối liên hệ chủ –nô, ngay cả hình ảnh của vua quan và thứ
dân cũng không có. Đây là điểm nổi bật của tinh thần Nhân Chủ đã thể hiện rõ
ràng trong cảnh trên mặt trống. Mọi người bình đẳng bên nhau múa hát vang trời
dậy đất trong cuộc đại diễn hành về hướng trái để hội nhập với lửa trời thiêng
liêng ở trung tâm Trống Không của lòng mình.
7. Minh Triết Thái Hòa
trên mặt trống. 16 vòng bao gồm 3 nhóm vòng cuả Trời, Đất, và Người. Tất cả
đang an vui sinh động bên nhau.
Cảnh Trời-Đất-Người Thái Hòa
Tất cả cái khung tâm thức lưỡng hợp, thái hòa như trời
- đất, chẵn - lẻ, vuông - tròn… là cái khung họa đồ của tư tưởng dân tộc. Khung
tâm thức ấy dù trải qua bao thăng trầm nguy biến, dưới ách lệ thuộc ngàn năm,
qua bao âm mưu cướp sạch, tiêu hủy văn hóa Việt để con cháu không con nhớ đuợc
cội nguồn, văn hóa của tổ tiên, nhưng kỳ diệu và may mắn thay, Văn Hóa chủng tộc
Việt chúng ta vẫn sống còn. Để ngày hôm nay, ta còn cơ hội chiêm ngắm các hoa
văn khắc ghi trên mặt trống mà nhận diện tấm họa đồ di bảo của tổ tiên. Nó hướng
con người Việt tìm về nội tâm, tìm ra lẽ sống an vui hòa bình. Nó linh thiêng
vì lẽ sống ấy không phải là vật chất nên không bị tiêu hủy qua bao ngàn năm
tang thương. Sức sống Việt là sức mạnh của Văn Hóa,
nên trường tồn, nên linh thiêng. Nên chúng ta có thể gọi tên là Họa Đồ Tâm Linh
Dân Tộc Việt.
Khảo cổ đã mang lại cho ta
niềm tự hào Việt Tộc, với nền văn minh lúa nước Hòa Bình. Đặc biệt nơi đây, khảo
cổ đã mang cho chúng ta tiếng Trống Đồng Đông Sơn rộn rã trong từng đáy lòng con dân Việt.
Nhưng thật ra, Trống Đồng
chỉ là một biểu tượng của khía cạnh Văn Minh. Nhưng còn nền Văn Hóa của Tổ tiên,
chúng ta chưa có dịp tự hào vì chưa tìm cho thấu triệt, để ôn lại với nhau,
truyền đạt cho nhau về ý nghĩa bức tranh Họa Đồ Tâm Linh Việt khắc ghi trên
trống. Nơi đây ta sẽ thấy cả một nghệ thuật sống của đạo lý Việt : Chỉ là một
chữ HÒA thật lớn lao. Minh Triết HÒA ấy bộc lộ rõ ràng : Mặt trời ở giữa trung
tâm, đó là HÒA TRỜI. Như là Hòa với nguồn ánh sáng nuôi dưỡng vạn vật, sự sống
cho muôn lòai. Rồi những vòng thú vật hiền lành, các con chim, nai bé nhỏ chính
là vòng của đạo sống HÒA với ĐẤT. Và giữa cái cảnh trời đất mênh mông niềm hòa
ái ấy, con người mới HÒA NGƯỜI với nhau.Đó là chính từ cảnh hòa hợp khắp cùng
trời đất vạn vật, con người làm nên cuộc đại diễn hành thiêng liêng ca múa bên
nhau với trời cùng đất. Trên trống đồng chính là cảnh “Ta cùng trời đất ba
ngôi sánh, Trời - Đất - Ta đây một chữ đồng”.
Bức họa đồ ấy vẽ nên những
nét căn cơ của đời sống. Nét căn cơ ấy là Bản Chất
và cũng là Hành Trình của con người. Bản chất
con người tóm gọn chỉ là giao điểm của tinh thần vô biên với vật thể hữu hạn.
Hành trình của con người chẳng qua là cuộc hành hương về với bản gốc mình, có
nhịp tiến lên thanh cao mà cũng có bước đi xuống lưu hành cùng thế tục. Đó là ý
nghĩa chữ GIAO CHỈ của Việt tộc. Giao Chỉ
là giao lại, nối kết hai Chỉ (hai đầu mối, hai thái cực) Trời và Đất, hai đối
cực làm nên con người. Cho nên nói con người là vật chất, như duy vật là “duy
chỉ” chứ chưa là “Giao Chỉ”, nên còn tách biệt phân ly thực tại hai chiều Lưỡng
Hợp của Chân Lý Việt. Nói con người là linh thiêng xa rời xác thân, vật thể cũng
là “duy chỉ” chứ chưa phải là ‘“Giao Chỉ”. Con người là “Giao Chỉ” có nghĩa là
con người là một nơi hội tụ, ràng buộc, tương giao của trời và đất, hữu hạn với
vô cùng. Trên trống đồng chúng ta thấy tinh thần “Giao Chỉ” cùng cực.
Trời không cô lẻ, đất cũng
chẳng xa rời, con người khắc ghi cái cảm thức Hòa điệu Trời - Đất -Người bằng
vòng người hóa trang chim nhảy múa theo chiều minh triết tả nhậm. Chúng ta thấy
tinh thần ca vũ, hóa trang với lông chim với sự thanh thóat bay bổng của cháu
TIÊN. Và chúng ta cũng thấy Tiên không một mình, mà trên tang trống ( thành
trống) lại có nét khắc họa cảnh chim Tiên lao thẳng vào miệng Rồng tạo thành
cảnh Tiên Rồng hòa hợp sánh đôi để rồi sẽ sinh ra một bọc trăm Con Rồng Cháu
Tiên mà Triết Gia Kim Định đã mô tả bằng từ ngữ rất gợi hình: “Thuyền Tình Bể
Ái” Tiên Rồng.
Thuyền Tình Bể Ái Tiên Rồng
Ngoài ra, chữ VĂN trong
từ ngữ Văn Lang cũng cùng ý nghĩa trời đất giao thoa như GIAO của giao
Chỉ. Nước ta quốc hiệu Văn Lang tức là đất nước của con người đã đạt mức độ Văn
Trời - Văn Đất, tương quan với Trời cùng Đất. Trên Trống Đồng, họa đồ Con Người
Giao Hòa cùng Trời Đất, ca múa những bước hòa nhịp Văn Lang, mà Triết Gia Kim
Định đã đặt tên vũ điệu này là Văn Lang Vũ Bộ.
Như vậy, tìm hiểu trống
đồng cổ vật quý của văn minh Đông Sơn thời Hùng Vương, cũng như các khía cạnh
khác về kích thước, sự luyện kim trong kỹ thuật đúc trống…, chỉ là mới tìm hiểu
cái hình thức bên ngòai, các yếu tố vật chất của trống. Nhưng khi mà chúng ta
tìm hiểu thâm sâu thêm vào ý nghĩa của trống, qua các hoa văn, thì đó mới là tìm
lại những gì trường cửu hơn, văn hóa hơn, nội tâm hơn, mới đúng như cái nhìn
ngắm để rồi nghe được “Tiếng Vọng của Linh Hồn Việt”.
Hay nói cách khác, nếu thế
giới hôm nay đang miệt mài say sưa hữu vi duy vật quá độ, xa rời yếu
tính Giao
Chỉ tâm linh, nên gần kề cơ nguy hủy diệt, thì tìm về ý nghĩa Minh Triết
Trống
Đồng chính là việc kéo con người về với cái luật quân bình tự nhiên An
Vi, để
sinh tồn. Nghĩa là sống với Đạo Trống. Trống dùng như danh từ, là cái
trống, về
hình thể bên ngòai. Mà động từ Trống là sự hư tĩnh trống không. TRỐNG
chính là HƯ TÂM, theo đạo Trống là làm cho lòng trống không (cái Không
dọn đường chứa
đựng cái Có, tương tự như Chân Không Diệu Hữu) như tâm thức trong suốt
trẻ
thơ. Thiên đàng nào ở đâu xa, chính ngay tại tâm thức Giao lại Chỉ Trời
và Chỉ
Đất, Văn lại cái Hữu Hình với Siêu Hình. Nơi Tâm Thức Vô Phân Biệt hai
cõi Hữu
và Vô, con người đạt đến cái ngây thơ hồn nhiên của tâm hồn trẻ thơ,
chính là
Tâm Đạo. Cho nên, Triết Việt là đường về Nội Tâm, tiếp cận được cảnh
giới siêu
việt, chan hòa niềm an vui thanh tịnh, giao hòa được với bản thể sinh
mệnh hai
chiều đại ngã tâm linh. Do đó, Triết Việt là triết của TÂM nên rất
ĐƠN SƠ mà NỀN TẢNG,
chỉ vài nét chạm khắc nghệ thuật như hình Tiên Rồng HAI
chiều lưỡng nghi hòa hợp, hay BA vòng đại
diễn Trời- Đất- Người cũng đủ đúc cốt xây nền cái trụ cột chính của Họa Đồ Tâm
Linh Dân Tộc Việt.
Từ đó, nếu đọc đúng được
họa đồ di chúc tinh thần của tổ tiên thì con cháu được an lành, đời là cuộc diễn
hành về nhất thể thiêng liêng, như hoa hướng dương hướng về mặt trời Chân Lý.
Nếu không đọc đúng, sai một ly đi một dặm, thì phải lâm vào khổ nạn của sai lầm,
bất an cả thể xác lẫn tâm hồn, đắm chìm trong thế giới đau thương và hủy diệt.
Cuối cùng chúng ta nhận ra rằng trăm sự khổ đau, bất an của con người xuất phát
từ tư tưởng giới hạn, vì dùng TRÍ nhiều hơn TÂM, nên chỉ thấy cái chẻ nhỏ của
thực tại, chỉ thấy khía cạnh mà chưa thấy cái toàn thể. Chỉ thấy con người của
cá nhân tiểu ngã, con người lý trí, con người của đòan lũ, con người của phe
nhóm, con người của tôn giáo… Đó là con người còn thiển cận, nhỏ bé, hẹp hòi,
nên gọi là con người
“Duy Chỉ”.
Con người “GIAO CHỈ” là phải lớn lao hơn, cao cả hơn, là con người tự thân, tự
do, đơn sơ, tinh tuyền một chữ NGƯỜI không pha tạp bất cứ sắc mầu nào. Cho nên,
Triết Gia Kim Định cứ kêu thống thiết lên rằng: “Đạo mất trước, nước mất sau”.
Do đó, muốn cứu nước, cứu nhà, trước tiên ta phải tìm về Đạo Việt, Đạo GIAO CHỈ
của nguồn Minh Triết Việt.
Một cách
hình ảnh hơn, ta có thể nói rằng Đạo Việt chính là Đạo Trống. Có để lòng trống
không, thì mới giao hòa được bao cái mâu thuẫn, chia rẽ chính bản thể của mình
với vũ trụ, nhân sinh, trong bao đa đoan, đa sự của cuộc đời… Bình An và Chân
Hạnh Phúc nào đến được khi ta chưa mở lòng cho Trống, cho Không.
Thật thế,
Đạo Trống đã khắc ghi trên các hoa văn có con dấu ấn LƯỠNG HỢP, THÁI HÒA hay là
HAI- BA, dấu chỉ đường về với Đạo. Đọc lịch sử quê hương, ta thấy biết bao
thăng trầm, vinh nhục. Và mang Đạo Trống quán chiếu, ta thấy ngay tầm ảnh hưởng
của bức họa đồ sinh tử của dân tộc Việt. Hôm nay, trên bước bất đắc chí phải
tha hương, nói đến chuyện cứu quốc, kiến quốc, thì không thể không tìm lại một
họa đồ thích hợp với căn tính Việt để xây nhà Việt, cho người Việt khỏi lâm cảnh
không cửa không nhà, tinh thần bơ vơ không nơi trú ngụ. Một dân tộc có bản sắc
5000 năm không bị tiêu trầm, chắc hẳn tấm họa đồ của dân tộc ấy phải chứa đựng
nổi hồn thiêng văn hóa của giống nòi. Chắc hẳn nền văn hóa ấy phải đủ sức sống
mãnh liệt để hàng ngàn năm dòng máu Lạc Việt cứ tuôn đổ ra để bảo vệ nó qua
bao thăng trầm. Tấm họa đồ ấy trong thời thanh bình an lạc Hùng Vương đã khắc
ghi cái tâm tình, trí tuệ, đau thương của giống nòi Việt Tộc trên hoa văn của
Trống Đồng mà đại biểu là Trống Đông Sơn rực rỡ một thời.
Bài tìm
hiểu Triết Việt về Minh Triết Trống Đồng này của chúng tôi chỉ như một gợi ý,
không có tham vọng giải thích được hết cái đạo, cái tình, cái ý, cái chí của tổ
tiên. Chỉ là những phác họa lại trong muôn một, cái Hồn của đất Việt, cái Tâm
của Đạo Việt, bức Họa Đồ Tâm Linh Dân Tộc Việt, để chúng ta cùng chia sẻ với
nhau gia tài tinh thần của Tổ Tiên trao gửi lại nơi các hoa văn trên Trống Đông Sơn Gọi Hồn Dân Tộc.