Yamato là biểu tượng sức mạnh của Hải quân Đế quốc Nhật. Điều đó khiến con tàu trở thành mục tiêu săn lùng số một của Mỹ.
Thất bại trong trận Okinawa ngày 22/6/1945 đặt dấu chấm hết cho sự tồn
tại của Đế quốc Nhật, kết thúc cuộc chiến ác liệt nhất trong lịch sử
nhân loại.
|
Lực lượng đổ bộ của phe Đồng minh tiếp cận bờ biển đảo Okinawa. Ảnh: Japanfocus
|
Theo
Military History, sau khi Đức Quốc xã yếu thế co cụm về
gần Berlin, phe Đồng minh dồn sức mạnh sang mặt trận Thái Bình Dương
nhằm đánh bại Đế quốc Nhật. Các sĩ quan chỉ huy Mỹ nhận thấy, đảo
Okinawa là vị trí mang tầm chiến lược. Hòn đảo nằm cách khoảng 550 km về
phía nam Nhật Bản. Địa điểm này có thể làm cơ sở triển khai các máy bay
chiến đấu và tập kết lực lượng để tấn công vào lục địa Nhật.
Phía Tokyo cũng nhận thấy vai trò quan trọng của hòn đảo nên ra sức
củng cố lực lượng và các vị trí phòng thủ. Họ điều động những chiến hạm
mạnh nhất trong đó có siêu thiết giáp hạm Yamato đến bảo vệ đảo. Đặc
biệt, Không quân Nhật huy động hàng nghìn máy bay cho chiến thuật tấn
công cảm tử “kamikaze”.
Với quyết tâm chiếm Okinawa, phe Đồng minh huy động một lực lượng
khổng lồ gồm 183.000 quân sau tăng lên 250.000 thuộc Quân đoàn 10 do
tướng Simon B. Buckner chỉ huy; 450 tàu chiến các loại, bao gồm 17 tàu
sân bay, hàng trăm tàu đổ bộ cùng 1.000 máy bay chiến đấu.
Lực lượng phòng thủ của Nhật gồm 130.000 quân, trong đó có 9.000 binh
lính của Hải quân Đế quốc Nhật, còn lại thuộc Quân đoàn 32. Bên cạnh
đó, rất nhiều dân quân và lực lượng bán vũ trang khác trên đảo cũng tham
gia. Khoảng 1.500 máy bay làm nhiệm vụ cảm tử cùng hàng nghìn máy bay
của hải quân và không quân.
Trận chiến đẫm máu nhất
|
Siêu thiết giáp hạm Yamato, biểu tượng sức
mạnh của Hải quân Đế quốc Nhật Bản phát nổ sau đợt tấn công dữ dội của
Không quân Mỹ. Ảnh: Wikipedia
|
Sáng sớm 1/4/1945, quân đoàn thủy quân lục chiến 24, với sự yểm trợ
hỏa lực của các tàu chiến và máy bay, bắt đầu đổ quân lên bãi biển
Hagushi, phía bắc Okinawa. Lực lượng tình báo Mỹ đã có tính toán sai lầm
về quân số Nhật trên đảo. Họ ước tính khoảng 67.000 binh lính nhưng
thực tế hơn 130.000.
Trung tướng Mitsuru Ushijima, chỉ huy quân đội Nhật ở Okinawa ra lệnh
cho binh lính tử thủ. Trên đảo có hàng nghìn lô cốt cùng rất nhiều ụ
pháo hướng ra biển pháo kích dữ dội vào các xuồng đổ bộ. Bên cạnh đó,
lực lượng máy bay tấn công mạnh vào hạm đội tàu chiến ngoài khơi.
Ở phía nam Okinawa, sư đoàn bộ binh 96 và 7 vấp phải sự kháng cự ác
liệt của quân Nhật khiến lực lượng đổ bộ không thể tiếp cận bờ biển. Tuy
nhiên, cuối tháng 4, phe Đồng minh với sức mạnh áp đảo đã vượt qua
phòng tuyến Machinato. Ngày 4/5, quân đoàn 32 của Nhật tổ chức phản công
quy mô lớn với ý định đánh vòng ra phía sau lưng lực lượng Đồng minh.
Tướng Ushijima đã huy động pháo binh bắn khoảng 13.000 đạn hỗ trợ cho
đợt phản công. Tuy nhiên, lực lượng pháo binh quân đội Mỹ bắn trả hiệu
quả, phá hủy hàng chục khẩu đại bác của Nhật. Chiến dịch của quân Nhật
phá sản và chịu nhiều tổn thất. Đến giữa tháng 6, quân đoàn 32 vỡ trận,
lực lượng còn lại co cụm về phía đông nam Okinawa.
Ngày 18/6, tướng Bunker thiệt mạng trong đợt pháo kích của Nhật khi
đang theo dõi tình hình chiến trận. Tàn quân của Nhật kháng cự yếu ớt
đến ngày 21/6. Tướng Ushijima tự sát trong hầm chỉ huy ngày 22/6, cùng
ngày đại tá Hiromichi Yahara đầu hàng phe Đồng minh. Trận chiến lớn nhất
mặt trận Thái Bình Dương kết thúc sau 82 ngày giao tranh ác liệt.
Các nhà sử học nhận định, về quy mô, trận Okinawa chỉ đứng sau cuộc
đổ bộ Normandy trong Chiến tranh Thế giới thứ 2 và đây là trận chiến gây
thương vong nhiều nhất trên mặt trận Thái Bình Dương.
Tổn thất nặng nề cho đôi bên
|
Tàu sân bay USS Bunker Hill bốc cháy sau đợt tấn công cảm tử của máy bay Nhật. Ảnh: Picturahistoria
|
Phe Đồng minh chiến thắng và chiếm đóng đảo Okinawa nhưng họ phải
chịu tổn thất không nhỏ. Khoảng 7.374 lính thiệt mạng trong nỗ lực chiếm
đảo, 31.807 người thương vong, 239 trường hợp mất tích, 225 xe tăng bị
phá hủy.
Hải quân Đồng minh cũng thiệt hại nặng với 34 chiến hạm chìm (bao gồm
12 tàu khu trục), 368 chiếc hỏng (bao gồm tàu sân bay USS Bunker Hill).
Số thủy thủ thiệt mạng là 4.907 người. Không quân tổn thất 763 máy bay.
Khoảng 105.000 binh lính Nhật tử trận, hơn 7.500 người bị bắt. Hải
quân Nhật tổn thất 16 tàu chiến trong đó có siêu thiết giáp hạm Yamato,
một tàu tuần dương, 4 khu trục hạm, khoảng 10.000 thủy thủ thiệt mạng.
Tổn thất của Không quân Nhật có nhiều nguồn với số lượng khác biệt khá lớn,
Totallyhistory ước tính 4.000 chiếc,
Wikipedia thống kê khoảng 7.800 máy bay còn trang
Military History đưa ra con số 2.800 phi cơ các loại.
Chưa đầy 2 tháng sau khi thất thủ tại Okinawa cùng với việc Mỹ dội 2
bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Đế quốc Nhật tuyên bố đầu
hàng phe Đồng minh. Cuộc chiến đẫm máu nhất lịch sử nhân loại chính thức
kết thúc.
Trong 6 năm Chiến tranh Thế giới thứ hai diễn ra, tổng số binh sĩ tử
vong của quân đội phe Đồng minh và Phát xít đến hơn 70 triệu người.
|
Lính thủy đánh bộ Mỹ trên chiến trường ở đảo Okinawa, Nhật Bản, tháng 5/1945. Ảnh: Wikipedia |
Chiến sự ở Okinawa
Dù phần lớn các trận chiến trong Thế chiến II diễn ra ở châu Âu và
Liên Xô, đảo Okinawa ở Nhật vẫn là một trong những chiến trường ác liệt
nhất. Okinawa là một địa điểm chiến lược của phát xít Nhật mà quân đội
Mỹ tấn công.
Trận chiến diễn ra ở ba mặt trận: đất liền, trên không và trên biển.
Lính Mỹ đổ bộ đảo vào tháng 3/1945. Ban đầu quân đội Mỹ chiếm nhiều ưu
thế nhưng việc quân đội Nhật đáp trả dữ dội khiến cuộc chiến giữa hai
bên kéo dài đến cuối tháng 6/1945.
Hơn 100.000 binh sĩ Nhật và 12.000 lính Mỹ thiệt mạng trong trận chiến. Con số này chưa bao gồm hàng chục nghìn binh sĩ thương.
Đổ bộ Normandy
|
Lính Mỹ đổ bộ bờ biển ở Normandy ngày 6/6/1944. Ảnh: Wikipedia |
Một trong những sự kiện nổi bật trong Thế chiến II là ngày quân Đồng
minh đổ bộ bờ biển ở Normandy, miền bắc nước Pháp. Trước đó, quân Đức
Quốc xã đang chiếm đóng tại đây. Chiến thắng ở Normandy là một cột mốc
quan trọng trong thắng lợi của quân Đồng minh.
Rạng sáng 6/6/1944, quân Đồng minh sử dụng máy bay yểm trợ trên không
để dội bom các điểm đóng quân của phát xít Đức. Dù thời điểm đổ bộ sai
với tính toán của lính Đức, họ đã chuẩn bị các kế hoạch đối phó.
Sau nhiều tháng giao tranh, quân đội Đồng minh kiểm soát Normandy vào
cuối tháng 8/1944. Hai bên gánh chịu thương vong đáng kể: 30.000 lính
Đức thiệt mạng, 80.000 người bị thương và hàng chục nghìn người khác mất
tích. Trong khi đó, hơn 45.000 lính thuộc phe Đồng minh tử trận và hàng
chục nghìn người bị thương.
Trận Bulge
|
Lính Mỹ di chuyển một xe tăng trong quá
trình chiếm thị trấn St. Vith trong trận chiến Bulge. Mỹ kiểm soát thị
trấn này vào ngày 23/1/1945. Ảnh: Wikipedia |
Sau khi đổ bộ Normandy, quân Đồng minh tiến về Bỉ. Họ cho rằng lực
lượng phòng thủ của Đức Quốc xã tại đây đã suy yếu. Tuy nhiên, quân phát
xít đã chống trả quyết liệt khi quân Đồng minh tiến qua cánh rừng nước
Bỉ trong mùa đông lạnh giá năm 1944.
Tháng 12/1944, phi đội yểm trợ của phe Đồng minh phải ngưng hoạt động
do thời tiết xấu. Lính của Hitler tận dụng cơ hội này để phản công.
Trong khoảng vài tuần, quân đội Đức Quốc xã vượt lên và đẩy lùi đối
phương.
Tuy nhiên,
cục diện đổi chiều vào dịp Giáng sinh. Đến giữa tháng 1/1945, quân Đồng minh đã tiến
tới địa điểm quan trọng là khu rừng Ardenes. Những chiến thuật sai lầm của Hitler tiếp tục dẫn đến thất bại của quân phát xít.
Trận Bulge là một trong những trận chiến thương vong cao đối với lính
Mỹ. Khoảng 19.000 binh sĩ nước này thiệt mạng, hơn 70.000 người khác bị
thương và mất tích. Trong khi đó, quân đội Đức cũng chịu thiệt hại nặng
nề với khoảng 85.000 - 100.000 lính chết và bị thương.
Trận Stalingrad
|
Một người lính Liên Xô vẫy cờ tại tòa nhà trung tâm Stalingrad năm 1943. Ảnh: Wikipedia |
Giữa năm 1942, Đức Quốc xã bắt đầu đánh vào thành phố Stalingrad (nay
là thành phố Volgograd của Nga). Đây không chỉ là cơ sở tiếp viện quân
sự quan trọng mà còn là cứ điểm chiến lược trong âm mưu xâm lược Liên Xô
của quân phát xít.
Khi phát động tấn công, quân đội Đức triển khai các máy bay ném bom
và lực lượng tấn công mặt đất gồm 150.000 binh sĩ cùng 500 xe tăng. Các
chỉ huy Đức Quốc xã nghĩ rằng họ có thể chiến thắng dễ dàng. Tuy nhiên,
những người lính Hồng quân kiên cường chống trả để bảo vệ thành phố.
Giao tranh giữa hai bên kéo dài khoảng 5 tháng. Đến tháng 11/1942,
binh sĩ Liên Xô mở cuộc phản kích quan trọng và đẩy lùi đối phương. Mệt
mỏi sau nhiều tháng chiến đấu, phần lớn lính Đức đã đầu hàng trước tháng
2/1943, dù hành động này ngược lại mệnh lệnh của Hitler.
Stalingrad là mặt trận quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh
theo hướng có lợi cho phe Đồng minh. Tuy nhiên, quân đội Liên Xô chịu
tổn thất nhiều hơn đối phương. Con số thương vong của Khối Trục khoảng
850.000 binh sĩ (tử trận, bị thương hoặc bị bắt). Trong khi đó, quân đội
Liên Xô ghi nhận khoảng 480.000 binh sĩ thiệt mạng và hơn 650.000 người
bị thương.
900 ngày bao vây Leningrad
Chiến dịch vây hãm Leningrad (nay là St. Petersburg) của phe Phát xít
bắt đầu từ tháng 9/1941 đến tháng 1/1944. Để bảo vệ thành phố quan trọng
này, Liên Xô huy động cả thường dân tham gia canh gác các phòng tuyến
trước xe tăng của Đức Quốc xã.
Sau gần 3 năm chiến đấu, quân, dân Liên Xô đã phá vỡ kế hoạch thôn
tính thành phố. Leningrad trở thành biểu tượng cho lòng dũng cảm và
không thể đánh bại của Liên Xô.
Tuy nhiên, Liên Xô cũng phải gánh tổn thất đáng kể. Khoảng 1 triệu
người ở Leningrad thiệt mạng (vì nhiều nguyên nhân, như chết vì bom đạn,
hoặc vì đói, rét trong những năm đối mặt với sự phong tỏa của lính
Đức), 2 triệu người khác bị thương và bệnh tật. Trong khi đó, 580.000
lính Đức thiệt mạng và bị thương sau trận chiến.
Cuộc tấn công Ba Lan
|
Kỵ binh và xe cơ giới của quân đội Đức tiến vào Ba Lan năm 1939. Ảnh: Wikipedia |
Ngày 1/9/1939, Đức Quốc xã bất ngờ tấn công Ba Lan từ phía tây. Cuộc
tấn công Ba Lan năm 1939 là trận chiến mở đầu Thế chiến II. Tình hình
khiến Pháp và các nước đồng minh của Ba Lan như Anh, Australia, New
Zealand tham gia liên minh tuyên chiến với Đức vào tháng 9/1939.
Sau sự kiện này, 65.000 binh sĩ Ba Lan thiệt mạng và hơn 130.000
người bị thương. Con số tương ứng đối với quân đội Liên Xô là hơn 730
người chết hoặc mất tích, khoảng 1.120 người bị thương. Quân đội Đức ghi
nhận hơn 16.300 lính bỏ mạng ở chiến trường Ba Lan và khoảng 27.000
binh sĩ bị thương.
Chiến dịch Bagration
Bagration là chiến dịch tấn công chiến lược của quân đội Liên Xô diễn
ra từ 23/6/1944 đến 29/8/1944, nhằm đánh bật lính Đức ra khỏi khu vực
đông Liên Xô và Ba Lan.
Quân đội phát xít phải đối phó với đội quân Đồng minh tiến công từ
nước Pháp, trong khi Hồng quân Liên Xô tràn về từ Ba Lan. Đối với Đức
Quốc xã, thất bại trong chiến dịch Bagration là "trận thua thảm hại nhất
trong toàn bộ Thế chiến II".
Theo
Sputnik, quân đội Đức mất 350.000 binh sĩ sau chiến
dịch, 160.000 tù binh thiệt mạng khi tới trại giam.
Chiến dịch Bagration cũng là chiến thắng vĩ đại nhất của Liên Xô suốt
giai đoạn Thế chiến II. Tuy nhiên, khoảng 750.000 người lính Hồng quân
đã thiệt mạng ở chiến trường.
Giao tranh trên đảo Iwo Jima
|
Lính Mỹ chĩa pháo nhằm vào các cứ điểm của phát xít Nhật gần núi Suribachi trên đảo Iwo Jima. Ảnh: Wikipedia |
Trận chiến trên đảo Iwo Jima bắt đầu từ ngày 19/2/1945 và kéo dài hơn
một tháng. Quân đội Nhật nhanh chóng chứng tỏ với Mỹ rằng họ là một đội
quân chuyên nghiệp và đáng gờm.
Quân đội Nhật tham chiến với gần 22.000 binh sĩ. Phần lớn họ chiến
đấu đến hơi thở cuối cùng, chỉ còn 216 người trở thành tù binh của đối
phương. Quân đội Mỹ cũng chịu tổn thất đáng kể với 26.000 lính thiệt
mạng và bị thương. Trận chiến ở Iwo Jima là lần duy nhất trong Thế chiến
II mà thương vong của Mỹ cao hơn quân đội Nhật.
Trận chiến ở Berlin
Mùa xuân năm 1945, quân đội Liên Xô tiến về Berlin. Vì không muốn đầu
hàng, Hitler đã cố thủ trong hầm và điều hành kế hoạch chống cự cuối
cùng. Nhờ bộ máy tuyên truyền hiệu quả của Đức Quốc xã, người dân Đức
tin rằng họ chỉ có lựa chọn duy nhất là chiến đấu với quân Liên Xô đến
cùng.
Khi Hồng quân bao vây Berlin, Hitler đã kịp huy động lực lượng phòng
thủ, dân quân, cảnh sát và cả những thiếu niên cho trận chiến cuối. Lực
lượng Đức Quốc xã bao gồm khoảng 300.000 người, không thể so sánh với
quân đội Liên Xô với hàng triệu binh sĩ.
Ngày 20/4/1945, Liên Xô pháo kích các mục tiêu ở Berlin. Chỉ vài ngày
sau, họ tiến vào trung tâm Berlin và chiếm quyền kiểm soát thành phố.
Trận chiến Berlin chính thức kết thúc ngày 2/5/1945. Hitler và tình
nhân đã tự kết liễu cuộc đời trong một căn hầm. Gần 250.000 lính Đức
thiệt mạng trong trận chiến Berlin, trong khi quân đội Liên Xô tổn thất
70.000 binh sĩ.