Thứ Tư, 7 tháng 12, 2016

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG 520

(ĐC sưu tầm trên NET)

Một vụ cướp tiền táo tợn tại ngân hàng BIDV ở Huế


Thứ Ba, 06/12/2016, 23:12:26

Ngân hàng BIDV chi nhánh tại đường Mai Thúc Loan (TP Huế) nơi xảy ra vụ cướp. (Ảnh: Công Hậu)
NDĐT- Thông tin từ Công an tỉnh TT-Huế tối 6-12 cho biết, lực lượng CSĐT Công an TP Huế và Công an tỉnh đang tích cực điều tra, truy xét đối tượng bịt mặt, xông vào một chi nhánh ngân hàng để uy hiếp nhân viên, cướp tiền tại ngân hàng vào chiều tối cùng ngày tại TP Huế.
Sự việc xảy ra vào khoảng 17 giờ chiều 6-12 tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam (BIDV) ở số 29 đường Mai Thúc Loan (TP Huế). Thông tin ban đầu cho biết, vào thời gian trên, các nhân viên chi nhánh ngân hàng BIDV đang kiểm đếm tiền thì một đối tượng đàn ông bịt khẩu trang, xông vào ngân hàng dùng một vật như súng uy hiếp các nhân viên, lấy đi một số lượng tiền lớn với các cọc tiền 500 ngàn đồng rồi bỏ chạy.
Lực lượng công an đến hiện trường, phong tỏa ngân hàng, lấy lời khai điều tra làm rõ vụ việc
Khi nghe tri hô cướp, một nhân viên ngân hàng cùng người dân ở cạnh đó đuổi theo chiếc xe máy từ ngân hàng theo đường Mai Thúc Loan đến ngã ba vào đường Ngô Đức Kế thì tên cướp đã quay lại xả hai phát súng, sau đó đã trốn thoát; may mắn những người đuổi theo không bị trúng đạn.
Nhiều người dân ở gần chi nhánh ngân hàng BIDV (đường Mai Thúc Loan) cho hay, việc diễn ra khá nhanh và bất ngờ, có một số người nghe tiếng súng nổ.
Sau khi vụ cướp xảy ra, lực lượng Công an TP Huế và Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế đã đến hiện trường, phong tỏa ngân hàng, lấy lời khai và trích xuất camera an ninh điều tra làm rõ vụ việc.
Đại tá Lê Quốc Hùng, Giám đốc Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã có mặt trực tiếp chỉ đạo khám nghiệm hiện trường, điều tra, làm rõ. Tại hiện trường, công an thu nhặt được một số viên bi sắt, nghi là đạn của loại súng bắn đạn bi.
Phó Giám đốc, Thủ trưởng cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế, Đại tá Đặng Ngọc Sơn trực tiếp chỉ đạo tại hiện trường cho biết, ban đầu, cơ quan công an xác định đây là một vụ cướp ngân hàng. Đối tượng đã dùng vật nghi là súng như kiểu súng bắn bi vì tại hiện trường có một số viên bi vương vãi.
Hiện, vụ việc hiện đang được Công an TP Huế và Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế tiếp tục điều tra, làm rõ.


CÔNG HẬU

Gã thợ hồ cạo sửa vé số trật thành trúng 1,5 tỷ đồng


Phát hiện tờ vé số nhặt được ngoài đường có 4 số trùng với giải đặc biệt, Phúc (ở Trà Vinh) nảy lòng tham.
Tối 6/12, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Cần Thơ tạm giữ Lư Hoàng Phúc (33 tuổi, ngụ xã Tân Hoà, huyện Tiểu Cần, Trà Vinh) để làm rõ dấu hiệu Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo nhà chức trách, ba tuần trước, thanh niên làm nghề thợ hồ này nhặt được tờ vé số do Công ty Xổ số kiến thiết (XSKT) tỉnh Hậu Giang phát hành ngày 12/11. Một lần tình cờ dò, Phúc phát hiện tấm vé nhặt được có 4 số cuối trùng với giải đặc biệt (661692) trị giá 1,5 tỷ đồng.
Nảy lòng tham, Phúc tìm tấm vé số của tỉnh Hậu Giang có hai số 66 rồi cạo sửa, cắt dán vào tờ vé số nhặt được. Sau khi "biến" tờ vé có số 401692 thành 661692, Phúc thông báo với mọi người trong gia đình rằng anh ta trúng độc đắc.
Tin lời Phúc, em rể của nghi can là Nguyễn Thành Lưỡng (26 tuổi, ngụ cùng huyện Tiểu Cần) cùng anh vợ đến Công ty XSKT tỉnh Trà Vinh để đổi thưởng vào ngày 4/12. Trúng ngày cuối tuần, công ty xổ số không làm việc nên 2 anh em đi về.
Ngày 5/12, Lưỡng và Phúc cùng nhiều người trong nhà thuê ôtô sang Cần Thơ và đến Công ty XSKT Hậu Giang để đổi thưởng. Tại đây, nghi can ghi thông tin vào bảng kê vé trúng thưởng và để nhân viên phòng trả thưởng đối chiếu với đầu số giáp lai được lưu.
Qua kiểm tra, Công ty XSKT Hậu Giang phát hiện tấm vé do Phúc và Lưỡng mang đến không trùng khớp và có dấu hiệu cắt dán, sửa số. Công ty sau đó mời Công an phường Hưng Lợi đến để làm rõ.
Làm việc với cảnh sát, lúc đầu Phúc khai mua tờ vé số từ một người bán dạo tại quán cà phê ở ngã ba Tập Sơn (thuộc huyện Trà Cú). Sau nhiều hôm cất trong ví, ngày 3/12, Phúc mang vé ra dò thì phát hiện trúng độc đắc.
Sau một ngày khai quanh co, đến chiều 6/12, Phúc thừa nhận tự cắt, dán tờ vé số "trật thành trúng" vì muốn chiếm đoạt tiền của công ty xổ số.
Việt Tường - Minh Anh

Chủ tịch UBND TP.HCM chỉ đạo xử nghiêm vụ nổ súng

06/12/2016 16:39 GMT+7
    TTO - Theo ông Nguyễn Thành Phong - Chủ tịch UBND TP.HCM, sau khi công an có báo cáo vụ việc, lãnh đạo UBND TP sẽ có hướng chỉ đạo điều tra, xử lý nghiêm túc vụ việc.
    Chủ tịch UBND TP.HCM chỉ đạo xử nghiêm vụ nổ súng
    Ông Nguyễn Thành Phong (phải) trao đổi với với đại biểu bên lề cuộc họp HĐND TP.HCM ngày 6-12 - Ảnh: Tự Trung
    Chiều 6-12, trả lời báo chí bên lề kỳ họp HĐND TP.HCM về vụ giám đốc công ty bảo vệ ở quận Tân Bình TP.HCM nổ sung dọa phụ nữ, Chủ tịch UBND Nguyễn Thành Phong cho rằng hành vi của giám đốc kia là không thể chấp nhận được.
    Chủ tịch UBND TP.HCM cho biết đã nghe và nắm được vụ việc nêu trên. Hiện lãnh đạo TP đang chờ phía công an có báo cáo cụ thể về việc tại sao công ty này có súng, đây là súng gì?.
    “Sau khi có báo cáo cụ thể từ công an TP, UBND sẽ có hướng chỉ đạo điều tra, xử lý nghiêm túc vụ việc này”, người đứng đầu UBND TP chia sẻ.
    Như Tuổi Trẻ đã thông tin, trước đó, trên mạng xã hội xuất hiện đoạn clip phát tán trên mạng dài 2 phút 8 giây. Nội dung trong đoạn clip thể hiện giữa người đàn ông và một phụ nữ đi xe gắn máy xảy ra cự cãi bên lề đường.

    Giám đốc công ty bảo vệ rút súng bắn dọa người đòi nợ
    Nguồn tin cho biết người đàn ông sử dụng súng bắn “chỉ thiên” trong đoạn video là ông Bùi Đức Phương (ngụ xã Phú Hòa, huyện Củ Chi) - giám đốc Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ an ninh Việt Nhật, trụ sở trên đường Cống Lở, phường 15, quận Tân Bình.
    MAI HƯƠNG

    Bắt Trịnh Xuân Thanh 'phải có thời gian'

    • 7 giờ trước


    Xem tiếp...

    TIẾNG THƠ 2

    (ĐC sưutầm trên NET)
    ------------------------------------------------

    "Núi đôi" bài thơ tình thời kháng chiến của Vũ Cao



    Vũ Cao

    Núi đôi

    Bảy năm về trước em mười bảy
    Anh mới đôi mươi trẻ rất làng!
    Xuân Dục Đoài Đông hai gánh lúa
    Bữa thì em tới, bữa anh sang

    Lối ta đi giữa hai sườn núi
    Đôi ngọn nên làng gọi Núi Đôi
    Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
    Núi chồng núi vợ đứng song đôi !

    Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới,
    Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau.
    Mới ngỏ lời thôi, đành lỡ hẹn,
    Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.

    Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc
    Chiến đấu quên mình, năm lại năm.
    Mỗi bận dân công về lại hỏi
    Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng?

    Anh nghĩ: quê ta giặc chiếm rồi,
    Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi…
    Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
    Sương trắng người đi lại nhớ người.

    Qua mấy mùa đông anh tự nhủ:
    Trung du ngày tháng vẫn chờ trông
    Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
    Em vẫn đi về những bến sông?

    Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
    Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi
    Hành quân qua tắt đường sang huyện
    Anh nghé thăm nhà thăm núi Đôi

    Mới đến đầu ao tin sét đánh
    Giặc giết em rồi , dưới gốc thông,
    Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
    Em sống trung thành chết thủy chung

    Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
    Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
    Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
    Núi vẫn đôi mà anh mất em!

    Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
    Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
    Mấy năm cô ấy làm du kích
    Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

    Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
    Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy
    Sân biến thành ao, nhà đổ chái
    Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay

    Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
    Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau,
    Nứa gianh nửa mái nhà che tạm
    Sương nắng khuây dần chuyện xót đau

    Em mất để làng ta sống mãi
    Lúa sẽ nhiều bông, bắp sẽ nhiều…
    Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
    Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

    Nhưng còn núi kia anh vẫn nhớ
    Oán thù còn đó, anh còn đây
    Ở đâu cô gái làng Xuân Dục
    Đã chết vì dân giữa đất này

    Ai biết tên em thành liệt sĩ
    Bên những hàng tên sáng lạ lùng
    Nhớ nhau, anh gọi em đồng chí
    Một tấm lòng trong vạn tấm lòng

    Anh đi bộ đội sao trên mũ
    Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
    Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
    Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm!


    Vẻ đẹp bài thơ " Núi đôi" của Vũ Cao.- Đặng Thị Xuân Hương
    Đối với bạn đọc, Vũ Cao chưa hẳn là một nhà thơ quen thuộc như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Nhưng ai đã đọc “ Núi đôi” của Vũ Cao thì không thể quên những lời thơ, những suy nghĩ rất thành thật của ông qua bài thơ.
    Vũ Cao viết “Núi đôi” trong những ngày chống Pháp. Nỗi đau của sự mất mát to lớn kết tinh, lắng đọng trong thơ ông, nhưng nỗi đau không làm người chiến sĩ ngã gục mà từ đó họ vững vàng hơn trong cuộc chiến đấu mới.
    “Núi đôi” là một hiện thực  tồn tại của thiên nhiên, cũng là tồn tại của niềm hạnh phúc trong mối tình Xuân Dục – Đoài Đông. “Núi đôi” mang phong vị của một bài ca dao. Câu chuyện trong thơ mang màu sắc dân gian. Hai người yêu nhau. Tình yêu của họ gắn với tình yêu đất nước, quê hương. Cuối một mùa chiêm quân giặc đến, người con trai ra trận. Ngày ngừng bắn anh trở về thăm quê hương thì được tin người con gái đã ngã xuống bên mảnh đất này. Cái chết không đến với người chiến sĩ mà đến với người du kích ở lại. Vũ Cao viết “Núi đôi” hình như cũng chỉ để dành riêng cho người đã ngã xuống với tất cả tấm lòng yêu thương, nhung nhớ. Suốt bài thơ, người con trai gọi “em” xưng “anh” như đang nói với người con gái ở quê hương
    “ Bảy năm về trước em mười bảy
    Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
    Xuân Dục – Đoài Đông hai cánh lúa
    Bữa thì em tới bữa anh sang”
    Tình yêu của họ không biết bắt đầu từ bao giờ, nhưng nó gắn bó với cánh đồng, với đồi núi của làng quê Xuân Dục – Đoài Đông.
    Có những lần, khi đùa người con gái đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm.
    “Lối ta đi giữa hai sườn núi
    Đôi ngọn nên làng gọi núi đôi
    Em vẫn đùa anh sao khéo thế
    Núi Chồng, núi Vợ đứng song  đôi”
    Những âm tiết cuối của dòng thơ “ núi, đôi, đôi…” tượng trưng cho sự vững chắc, rắn chắc. Hai từ  “ núi  đôi” ,  “ sánh đôi” có lẽ tượng trưng cho niềm hạnh phúc và sự đau xót lắng đọng cùng một lúc trong một con người. Núi đôi không phải chỉ có những lời ca ngợi tình yêu, ca ngợi những kỉ niệm êm đềm nơi đồng quê Xuân Dục, Đoài Đông mà còn là hình ảnh đau thương của quê hương “ Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau” . Và ngày ngừng bắn khi hành quân qua huyện, anh ghé “ thăm nhà, thăm núi đôi” nhưng :
    “ Mới đến đầu ao tin sét đánh
    Giặc giết em rồi dưới gốc thông”
    Giặc giết người yêu, giết cả ước mơ, giết chết hạnh phúc lứa đôi của anh. Biết bao đau đớn bàng hoàng đến vào lúc anh đang “ náo nức” hy vọng nhất. Giang Nam trong “Quê hương”  đã nói lên nỗi lòng người con trai lúc ấy:
    “ Không tin được dù đó là sự thật.
    Giặc giết em rồi quăng mất xác
    Chỉ vì em là du kích em ơi
    Đau xé lòng anh chết nửa con người”
    Cùng chung với nỗi đau ấy, Vũ Cao viết “ tin sét đánh” nói lên được sự thảng thốt, bàng hoàng của người chiến sĩ khi nghe tin người yêu mất. Nhưng người chiến sĩ trong “ Núi đôi” không gục ngã, cái chết anh dũng “ dưới gốc thông” của người yêu có làm anh đau đớn tột độ nhưng với những suy nghĩ chân thành tha thiết, anh tự hào
    “ Em sống trung thành, chết thuỷ chung”
    Chính cuộc kháng chiến anh dũng này, chính cuộc đời ngắn ngủi nhưng đẹp đẽ, trong sáng vô ngần của người yêu đã đem lại cho anh trong nỗi nghẹn ngào có niềm kính phục ngưỡng mộ, tôn vinh.
    Nghĩ đến người yêu, anh nghĩ đến kỉ niệm
    “Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
    Hàng thông, bờ cỏ con đường quen
    Nắng bụi bỗng dưng mờ bóng khói
    Núi vẫn đôi mà anh mất em”
    Một hình ảnh tưởng như vô tình mà mang nhiều ý nghĩa “ anh ngước nhìn” . Trước nỗi đau anh không cúi mặt, câu thơ diễn tả nỗi niềm mất mát, tâm trạng xúc động tê tái:
    “ Núi vẫn đôi mà anh mất em”
    Từ tấm lòng nặng ân tình và những suy nghĩ đẹp đẽ ấy, Vũ Cao đã tìm một lời kết đẹp cho bài thơ:
    “Anh đi bộ đội sao trên mũ
    Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
    Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
    Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”
    Câu thơ được viết ra từ một tâm hồn thi sĩ – chiến sĩ. Hình ảnh quen thuộc “ Sao trên mũ”  đã gắn bó với người lính trong thời gian “chiến đấu quên mình năm lại năm”. “Sao trên mũ” là hình ảnh tượng trưng cho lý tưởng, niềm tự hào chính đáng, là hướng đi của người lính cũng là người bạn chia sẻ cùng anh nỗi buồn, giúp anh đứng vững trong tư thế người chiến sỹ.
    Lý tưởng đẹp ấy là lý tưởng anh đã chiến đấu suốt bao năm dài, là lý tưởng mà người yêu anh đã ngã xuống vì nó. Người yêu là người liệt sĩ của Tổ Quốc. Hình ảnh của cô gái Đoài Đông là một bông hoa tuyệt đẹp trong suy nghĩ của anh, toả cho cuộc sống hương vị trong lành.
    “Em sẽ là hoa trên đỉnh núi.
    Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”
    Là một bông hoa thơm tuyệt đẹp như tâm hồn người chiến sĩ, như cuộc đời người du kích. Tất cả những gì ở câu thơ toả ra là một “ngôi sao” ; không phải chỉ ở trên mũ mà ở ngay trong trái tim anh. Ánh sáng của ngôi sao, qua câu thơ truyền đến mỗi trái tim người đọc, làm ấm lòng người.
    Hình như Vũ Cao không có ý định viết cho chúng ta, ông viết để tặng riêng cho người du kích. Bài thơ từ đầu đến cuối vẫn giữ nguyên một giọng điệu, một giọng thơ, giọng những lời tâm sự âu yếm với người yêu. Lúc reo vui khi nhắc đến kỉ niệm, lúc nghẹn ngào khi nói đến nỗi đau của sự mất mát, lúc đinh ninh như một lời thề thuỷ chung.
    Dẫu nhà thơ không có ý định viết cho chúng ta thì những tình cảm chân thành của ông, hình ảnh rất đẹp của mối tình, cái chết của người con gái và lời kết cuối bài thơ luôn làm chúng ta suy nghĩ. Mình phải sống như thế nào trong cuộc sống hôm nay.

    quê hương

    Tác giả: Giang Nam
    Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
    Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
    "Ai bảo chăn trâu là khổ''
    Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
    Có những ngày trốn học
    Đuổi bướm cạnh bờ ao
    Mẹ bắt được...
    Chưa đánh roi nào tôi đã khóc!
    Có cô bé nhà bên
    Nhìn tôi cười khúc khích...

    Cách mạng bùng lên
    Rồi kháng chiến trường kỳ
    Quê tôi đầy bóng giặc
    Từ biệt mẹ, tôi đi
    Cô bé nhà bên có ai ngờ!
    Cũng vào du kích
    Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
    Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi!
    Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
    Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
    Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi...

    Hòa bình tôi trở về đây
    Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
    Tôi lại gặp em
    Thẹn thùng nép sau cánh cửa
    Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
    Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi!
    Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
    Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

    Rồi hôm nay nhận được tin em
    Không tin được dù đó là sự thật
    Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
    Chỉ vì em là du kích, em ơi!
    Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

    Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
    Có những ngày trốn học bị đòn roi
    Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
    Có một phần xương thịt của em tôi. 

    Bài thơ “Quê Hương” của Giang Nam



    Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, tại Ninh Hòa (Khánh Hòa). Các tác phẩm tiêu biểu như: Tháng Tám ngày mai (1962), Quê hương (1965), Người anh hùng Đồng Tháp (1969), Vầng sáng phía chân trời (NXB Văn học Giải phóng TP.HCM 1975), Hạnh phúc từ nay (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978), Thành phố chưa dừng chân (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985), Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ TP.HCM 1987), trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết
    Trải qua mấy chục năm hoạt động cách mạng và thơ ca, ông được trao một số giải thưởng cao quý như: Giải ba về truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960, Giải nhì về thơ tạp chí Văn Nghệ năm 1961, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

    Giang Nam

    Quê Hương
    Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
    Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
    “Ai bảo chăn trâu là khổ?”
    Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
    Những ngày trốn học
    Đuổi bướm cầu ao
    Mẹ bắt được
    Chưa đánh roi nào đã khóc!
    Có cô bé nhà bên
    Nhìn tôi cười khúc khích…
    Cách mạng bùng lên
    Rồi kháng chiến trường kỳ
    Quê tôi đầy bóng giặc
    Từ biệt mẹ, tôi đi
    Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
    Cũng vào du kích
    Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
    Mắt đen tròn (thương quá đi thôi)
    Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
    Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
    Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…
    Hòa bình tôi trở về đây
    Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
    Lại gặp em
    Thẹn thùng nép sau cánh cửa
    Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
    Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
    Tôi nắm bày tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
    Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng
    Hôm nay nhận được tin em
    Không tin được dù đó là sự thật
    Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
    Chỉ vì em là du kích em ơi!
    Đau xé lòng tôi, chết nửa con người…
    Xưa quê hương vì có chim, có bướm
    Có những ngày trốn học vị đòn, roi
    Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
    Có một phần xương thịt của em tôi.

    Nguồn trích dẫn bài thơ “ Thơ Việt nam 1945-1975”

    Vanhaiphong.com- Chúng tôi xin cung cấp thêm một số tư liệu mang tính “bếp núc” xung quanh bài thơ này để bạn đọc thêm thông tin; đặc biệt thông tin về xuất xứ bài thơ.
    1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh, người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng giải nhì cho tác phẩm này.
    2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”. Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.
    Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên  thăm hỏi động viên rồi thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi, Sài Gòn.
    Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó, tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.
    Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng 1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành phố Nha Trang. Và  bà  đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013  ở tuổi 82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng  vẫn cặm cụi đánh vật với chữ nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…
    Nguyễn Đình Minh

    Tổng hợp và giới thiệu

    nhớ con sông quê hương

    Tác giả: Tế Hanh
    Quê hương tôi có con sông xanh biết
    Nước gương trong soi tóc những hàng tre
    Tâm hồn tôi là những buổi trưa hè
    Toả nẵng xuống giòng sông lấp loáng

    Chẳng biết nước có giử ngày giử tháng
    giử bao nhiêu kỹ niệm của giòng trôi
    Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi
    Tôi giử mãi mối tình mới mẽ

    Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
    Sông của miền Nam nước Việt thân yêu
    Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
    Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy

    Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
    Bầy chim non khua lội bên sông
    Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
    Sông mỡ nước ôm tôi vào dạ

    Chúng tôi lớn lên mỗi người mổi ngã
    Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
    Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
    Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến

    Nhưng lòng tôi như mưa người gió biển
    Lại trở về lưu luyến bên sông
    ...................................................
    Hôm nay sống trong lòng miền Bắc
    Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
    Hai tiếng Quê Hương hai tiếng miền Nam

    Tôi ngớ không nguôi ánh nắng màu vàng
    Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
    Tối nhờ cả những người không quên biết
    Những buổi trưa tôi đứng dưới hàng cây
    Bổng nghe dâng một nổi tràn đày
    Hình ảnh con sông quê mát rượi
    Lai láng chảy hồn tôi như suối tưới
    Quê hương ơi tình tôi cũng như sông
    Tình Băc nam tuôn chãy một giòng
    Không ghềnh thác nào ngăn cản được
    Tôi lại trở về nơi tôi hằng mơ ước
    Tôi sẽ trờ về sông nước của quê hương
    Tôi sẽ trở về sông nước của tình thương

     

    Nhà thơ Tế Hanh đã "về với sông nước quê hương"

    16/07/2009 15:41 GMT+7
      TTO - Nhà thơ Tế Hanh - tác giả của bài thơ Nhớ con sông quê hương nổi tiếng đã qua đời lúc 12g ngày hôm nay (16-7) tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não.
      Nhà thơ Tế Hanh đã "về với sông nước quê hương" Phóng to
      Nhà thơ Tế Hanh - Ảnh tư liệu
      TTO - Nhà thơ Tế Hanh - tác giả của bài thơ Nhớ con sông quê hương nổi tiếng đã qua đời lúc 12g ngày hôm nay (16-7) tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não.
      Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20-6-1921, tại thôn Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thuở nhỏ học trường làng, trường huyện sau ra học tại trường Quốc học Huế. Tế Hanh được biết đến nhiều với các tác phẩm như Nhớ con sông quê hương, Quê hương - hai bài thơ từng được đưa vào chương trình học phổ thông.
      Năm 1947, Tế Hanh làm việc trong Ban phụ trách Trường trung học bình dân Trung bộ, năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách liên đoàn văn hóa kháng chiến Nam Trung bộ ủy viên thường vụ chi hội Văn nghệ Liên khu V.
      Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Ủy viên thường vụ Hội khóa I, II, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1963), tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam nhiều khóa, giữ các chức vụ: Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội đồng dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).
      Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
      Tế Hanh ra đi, giờ đây, những thi sĩ của "Thi nhân Việt Nam" chỉ còn lại mỗi Xuân Tâm!
      Ông là một trong những nhà thơ thành công trong cả phong trào Thơ mới và sau cách mạng tháng Tám với những bài thơ tinh tế và giàu cảm xúc về tình yêu quê hương đất nước.
      Ông sáng tác thơ từ sớm và đã đứng trong phong trào Thơ mới với tập Nghẹn ngào giành giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn. Tham gia Việt Minh từ tháng 8 năm 1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hóa, giáo dục ở Huế, Đà Nẵng, là Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà Nẵng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công.
      Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã ca ngợi ông "Tế Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi..."
      Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã từng giành nhiều tình cảm khi viết về ông như: "Trong thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập Nghẹn ngào từng được giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu người ta nghĩ ngay đến Tế Hanh." (Vương Trí Nhàn, Cây bút đời người).
      Những tập thơ tiêu biểu của ông bao gồm: Hoa niên (1944); Tập thơ tìm lại (1945 ); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1953); Lòng miền Nam (1956 ); Gửi miền Bắc (1958); Tiếng sóng (1960); Bài thơ tháng bảy (1961), Hai nửa yêu thương (1963); Khúc ca mới (1966); Đi suốt bài ca (1970), Câu chuyện quê hương (1973); Theo nhịp tháng ngày (1974), Giữa những ngày xuân (1977), Con đường và dòng sông (1980); Bài ca sự sống (1985), Tế Hanh tuyển tập (1987); Thơ Tế Hanh (1989 ); Vuờn xưa (1992); Giữa anh và em (1992); Em chờ anh (1993 ); Tuyển tập Tế Hanh (tập II, 1997).
      Quê Hương
      Làng tôi ở vốn làm nghề chài lướiNước bao vây cách biển nửa ngày sôngKhi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng giong thuyền đi đánh cá
      Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mãPhăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giangCánh buồm giương to như mảnh hồn làngRướn thân trắng bao la thâu góp gió
      Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗKhắp dân làng lũ lượt kéo ghe vềNhờ ơn trời biển lặng cá đầy gheNhững con cá tươi ngon thân bạc trắng
      Dân chài lưới làn da ngăm rám nắngCả thân hình nồng thở vị xa xămChiếc thuyền im bến mỏi trở về nằmNghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
      Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớMàu nước xanh, cá bạc, cánh buồm vôiThoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơiTôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!
      Nhớ con sông quê hương
      Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng.
      Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng Giữ bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi? Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi! Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu
      Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy Bầy chim non bơi lội trên sông Tôi giơ tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ
      Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển Vẫn trở về lưu luyến bên sông
      * * *
      Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng "miền Nam"Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc Tôi nhớ cả những người không quen biết...
      Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy Hình ảnh con sông quê mát rượi Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông Tình Bắc Nam chung chảy một dòng Không ghềnh thác nào ngăn cản được
      Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước Tôi sẽ về sông nước của quê hương Tôi sẽ về sông nước của tình thương...
      T.H
      Xem tiếp...

      Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

      Bài hát "Black Magic Woman"

      (ĐC sưu tầm trên NET)


      Lời bài hát gốc MyLyric - Lời bài hát

      Got a black magic woman
      Got a black magic woman
      I’ve got a black magic woman
      Got me so blind I can’t see
      That she’s a black magic woman
      She’s trying to make a devil out of me

      Don’t turn your back on me baby
      Stop messing round with your tricks
      Don’t turn your back on me baby
      You just might pick up my magic sticks

      Got your spell on me baby
      Got your spell on me baby
      Yes you got your spell on me baby
      Turning my heart into stone
      I need you so bad , magic woman
      I can’t leave you alone .
                 hình ảnh khỏa thân
      Lời dịch - Lời Việt
      Có một người phụ nữ với phép thuật hắc ám
      Có một người phụ nữ với phép thuật hắc ám
      Tôi có một người phụ nữ với phép thuật hắc ám
      Làm cho tôi mù lòa, tôi không thể thấy được
      Rằng cô ta là một phụ nữ với phép thuật hắc ám
      Cô ta đang cố biến tôi thành một con quỉ

      Đừng quay lưng lại với tôi, em ơi
      Hãy ngừng làm rối tung mọi chuyện với mấy trò của em
      Đừng quay lưng lại với tôi, em ơi
      Em chỉ cần nhặt những cây gậy phép của em lên thôi

      Làm cho tôi dính phép thuật của em rồi, em ơi
      Em ám bùa ngải của em lên tôi rồi, em ơi
      Vâng, em ám bùa chú của em lên tôi rồi
      Làm trái tim tôi hóa đá
      Tôi cần em biết chừng nào, người phụ nữ ma thuật
      Tôi không thể để em một mình (Tôi không thể rời xa em)
      hình ảnh khỏa thân
      Xem tiếp...