Ngân hàng BIDV chi nhánh tại đường Mai Thúc Loan (TP Huế) nơi xảy ra vụ cướp. (Ảnh: Công Hậu)
NDĐT-
Thông tin từ Công an tỉnh TT-Huế tối 6-12 cho biết, lực lượng CSĐT Công
an TP Huế và Công an tỉnh đang tích cực điều tra, truy xét đối tượng
bịt mặt, xông vào một chi nhánh ngân hàng để uy hiếp nhân viên, cướp
tiền tại ngân hàng vào chiều tối cùng ngày tại TP Huế.
Sự việc xảy ra vào
khoảng 17 giờ chiều 6-12 tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát
triển Việt Nam (BIDV) ở số 29 đường Mai Thúc Loan (TP Huế). Thông tin
ban đầu cho biết, vào thời gian trên, các nhân viên chi nhánh ngân hàng
BIDV đang kiểm đếm tiền thì một đối tượng đàn ông bịt khẩu trang, xông
vào ngân hàng dùng một vật như súng uy hiếp các nhân viên, lấy đi một số
lượng tiền lớn với các cọc tiền 500 ngàn đồng rồi bỏ chạy.
Lực lượng công an đến hiện trường, phong tỏa ngân hàng, lấy lời khai điều tra làm rõ vụ việc
Khi nghe tri hô cướp, một nhân viên ngân hàng cùng
người dân ở cạnh đó đuổi theo chiếc xe máy từ ngân hàng theo đường Mai
Thúc Loan đến ngã ba vào đường Ngô Đức Kế thì tên cướp đã quay lại xả
hai phát súng, sau đó đã trốn thoát; may mắn những người đuổi theo không
bị trúng đạn.
Nhiều người dân ở gần chi nhánh ngân hàng BIDV
(đường Mai Thúc Loan) cho hay, việc diễn ra khá nhanh và bất ngờ, có một
số người nghe tiếng súng nổ.
Sau khi vụ cướp xảy ra, lực lượng Công an TP Huế và
Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế đã đến hiện trường, phong tỏa ngân hàng,
lấy lời khai và trích xuất camera an ninh điều tra làm rõ vụ việc.
Đại tá Lê Quốc Hùng, Giám đốc Công an tỉnh Thừa
Thiên - Huế cũng đã có mặt trực tiếp chỉ đạo khám nghiệm hiện trường,
điều tra, làm rõ. Tại hiện trường, công an thu nhặt được một số viên bi
sắt, nghi là đạn của loại súng bắn đạn bi.
Phó Giám đốc, Thủ trưởng cơ quan CSĐT Công an tỉnh
Thừa Thiên - Huế, Đại tá Đặng Ngọc Sơn trực tiếp chỉ đạo tại hiện trường
cho biết, ban đầu, cơ quan công an xác định đây là một vụ cướp ngân
hàng. Đối tượng đã dùng vật nghi là súng như kiểu súng bắn bi vì tại
hiện trường có một số viên bi vương vãi.
Hiện, vụ việc hiện đang được Công an TP Huế và Công an tỉnh Thừa Thiên - Huế tiếp tục điều tra, làm rõ.
CÔNG HẬU
Gã thợ hồ cạo sửa vé số trật thành trúng 1,5 tỷ đồng
00:01 07/12/2016
Phát hiện tờ vé số nhặt được ngoài đường có 4 số trùng với giải đặc biệt, Phúc (ở Trà Vinh) nảy lòng tham.
Tối 6/12, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Cần Thơ tạm giữ Lư
Hoàng Phúc (33 tuổi, ngụ xã Tân Hoà, huyện Tiểu Cần, Trà Vinh) để làm rõ
dấu hiệu Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo nhà chức trách, ba tuần trước, thanh niên làm nghề thợ hồ này
nhặt được tờ vé số do Công ty Xổ số kiến thiết (XSKT) tỉnh Hậu Giang
phát hành ngày 12/11. Một lần tình cờ dò, Phúc phát hiện tấm vé nhặt
được có 4 số cuối trùng với giải đặc biệt (661692) trị giá 1,5 tỷ đồng.
Nảy lòng tham, Phúc tìm tấm vé số của tỉnh Hậu Giang có hai số 66 rồi
cạo sửa, cắt dán vào tờ vé số nhặt được. Sau khi "biến" tờ vé có số
401692 thành 661692, Phúc thông báo với mọi người trong gia đình rằng
anh ta trúng độc đắc.
Tin lời Phúc, em rể của nghi can là Nguyễn Thành Lưỡng (26 tuổi, ngụ
cùng huyện Tiểu Cần) cùng anh vợ đến Công ty XSKT tỉnh Trà Vinh để đổi
thưởng vào ngày 4/12. Trúng ngày cuối tuần, công ty xổ số không làm việc
nên 2 anh em đi về.
Ngày 5/12, Lưỡng và Phúc cùng nhiều người trong nhà thuê ôtô sang Cần
Thơ và đến Công ty XSKT Hậu Giang để đổi thưởng. Tại đây, nghi can ghi
thông tin vào bảng kê vé trúng thưởng và để nhân viên phòng trả thưởng
đối chiếu với đầu số giáp lai được lưu.
Qua kiểm tra, Công ty XSKT Hậu Giang phát hiện tấm vé do Phúc và
Lưỡng mang đến không trùng khớp và có dấu hiệu cắt dán, sửa số. Công ty
sau đó mời Công an phường Hưng Lợi đến để làm rõ.
Làm việc với cảnh sát, lúc đầu Phúc khai mua tờ vé số từ một người
bán dạo tại quán cà phê ở ngã ba Tập Sơn (thuộc huyện Trà Cú). Sau nhiều
hôm cất trong ví, ngày 3/12, Phúc mang vé ra dò thì phát hiện trúng độc
đắc.
Sau một ngày khai quanh co, đến chiều 6/12, Phúc thừa nhận tự cắt,
dán tờ vé số "trật thành trúng" vì muốn chiếm đoạt tiền của công ty xổ
số.
Việt Tường - Minh Anh
TTO - Theo ông Nguyễn Thành
Phong - Chủ tịch UBND TP.HCM, sau khi công an có báo cáo vụ việc,
lãnh đạo UBND TP sẽ có hướng chỉ đạo điều tra, xử lý nghiêm túc vụ
việc.
Ông Nguyễn Thành Phong (phải) trao đổi với với đại biểu bên lề cuộc họp HĐND TP.HCM ngày 6-12 - Ảnh: Tự Trung
Chiều 6-12, trả lời báo chí bên lề kỳ họp HĐND TP.HCM về vụ giám đốc công ty bảo vệ ở quận Tân Bình TP.HCM nổ sung dọa phụ nữ, Chủ tịch UBND Nguyễn Thành Phong cho rằng hành vi của giám đốc kia là không thể chấp nhận được.
Chủ tịch UBND TP.HCM cho biết đã nghe và nắm được vụ việc nêu trên.
Hiện lãnh đạo TP đang chờ phía công an có báo cáo cụ thể về việc tại sao
công ty này có súng, đây là súng gì?.
“Sau khi có báo cáo cụ thể từ công an TP, UBND sẽ có hướng chỉ đạo
điều tra, xử lý nghiêm túc vụ việc này”, người đứng đầu UBND TP chia
sẻ.
Như Tuổi Trẻ đã thông tin, trước đó, trên mạng xã hội xuất
hiện đoạn clip phát tán trên mạng dài 2 phút 8 giây. Nội dung trong
đoạn clip thể hiện giữa người đàn ông và một phụ nữ đi xe gắn máy xảy ra
cự cãi bên lề đường.
Giám đốc công ty bảo vệ rút súng bắn dọa người đòi nợ
Nguồn tin cho biết người đàn ông sử dụng súng bắn “chỉ thiên” trong
đoạn video là ông Bùi Đức Phương (ngụ xã Phú Hòa, huyện Củ Chi) - giám
đốc Công ty TNHH dịch vụ bảo vệ an ninh Việt Nhật, trụ sở trên đường
Cống Lở, phường 15, quận Tân Bình.
Thứ ba, 02 Tháng 9 2014 15:44 | Đăng bởi Đình Minh
Vũ Cao
Núi đôi
Bảy năm về trước em mười bảy Anh mới đôi mươi trẻ rất làng! Xuân Dục Đoài Đông hai gánh lúa Bữa thì em tới, bữa anh sang Lối ta đi giữa hai sườn núi Đôi ngọn nên làng gọi Núi Đôi Em vẫn đùa anh: sao khéo thế Núi chồng núi vợ đứng song đôi ! Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới, Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau. Mới ngỏ lời thôi, đành lỡ hẹn, Đâu ngờ từ đó mất tin nhau. Anh vào bộ đội, lên Đông Bắc Chiến đấu quên mình, năm lại năm. Mỗi bận dân công về lại hỏi Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng? Anh nghĩ: quê ta giặc chiếm rồi, Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi… Mỗi tin súng nổ vùng đai địch Sương trắng người đi lại nhớ người. Qua mấy mùa đông anh tự nhủ: Trung du ngày tháng vẫn chờ trông Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm Em vẫn đi về những bến sông? Náo nức bao nhiêu ngày trở lại Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi Hành quân qua tắt đường sang huyện Anh nghé thăm nhà thăm núi Đôi Mới đến đầu ao tin sét đánh Giặc giết em rồi , dưới gốc thông, Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa Em sống trung thành chết thủy chung Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn đôi mà anh mất em! Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo Em còn trẻ lắm, nhất làng trong Mấy năm cô ấy làm du kích Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng? Từ núi qua thôn đường nghẽn lối Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao, nhà đổ chái Ngổn ngang bờ bụi, cánh dơi bay Cha mẹ dìu nhau về nhận đất Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau, Nứa gianh nửa mái nhà che tạm Sương nắng khuây dần chuyện xót đau Em mất để làng ta sống mãi Lúa sẽ nhiều bông, bắp sẽ nhiều… Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu! Nhưng còn núi kia anh vẫn nhớ Oán thù còn đó, anh còn đây Ở đâu cô gái làng Xuân Dục Đã chết vì dân giữa đất này Ai biết tên em thành liệt sĩ Bên những hàng tên sáng lạ lùng Nhớ nhau, anh gọi em đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm!
Vẻ đẹp bài thơ " Núi đôi" của Vũ Cao.-Đặng Thị Xuân Hương
Đối với bạn đọc, Vũ Cao chưa hẳn là một
nhà thơ quen thuộc như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu… Nhưng ai đã đọc “
Núi đôi” của Vũ Cao thì không thể quên những lời thơ, những suy nghĩ
rất thành thật của ông qua bài thơ.
Vũ Cao viết “Núi đôi” trong những ngày
chống Pháp. Nỗi đau của sự mất mát to lớn kết tinh, lắng đọng trong thơ
ông, nhưng nỗi đau không làm người chiến sĩ ngã gục mà từ đó họ vững
vàng hơn trong cuộc chiến đấu mới.
“Núi đôi” là một hiện thực tồn tại của
thiên nhiên, cũng là tồn tại của niềm hạnh phúc trong mối tình Xuân Dục –
Đoài Đông. “Núi đôi” mang phong vị của một bài ca dao. Câu chuyện trong
thơ mang màu sắc dân gian. Hai người yêu nhau. Tình yêu của họ gắn với
tình yêu đất nước, quê hương. Cuối một mùa chiêm quân giặc đến, người
con trai ra trận. Ngày ngừng bắn anh trở về thăm quê hương thì được tin
người con gái đã ngã xuống bên mảnh đất này. Cái chết không đến với
người chiến sĩ mà đến với người du kích ở lại. Vũ Cao viết “Núi đôi”
hình như cũng chỉ để dành riêng cho người đã ngã xuống với tất cả tấm
lòng yêu thương, nhung nhớ. Suốt bài thơ, người con trai gọi “em” xưng
“anh” như đang nói với người con gái ở quê hương
“ Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng
Xuân Dục – Đoài Đông hai cánh lúa
Bữa thì em tới bữa anh sang”
Tình yêu của họ không biết bắt đầu từ bao giờ, nhưng nó gắn bó với cánh đồng, với đồi núi của làng quê Xuân Dục – Đoài Đông.
Có những lần, khi đùa người con gái đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm.
“Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi đôi
Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi Chồng, núi Vợ đứng song đôi”
Những âm tiết cuối của dòng thơ “ núi,
đôi, đôi…” tượng trưng cho sự vững chắc, rắn chắc. Hai từ “ núi đôi”
, “ sánh đôi” có lẽ tượng trưng cho niềm hạnh phúc và sự đau xót lắng
đọng cùng một lúc trong một con người. Núi đôi không phải chỉ có những
lời ca ngợi tình yêu, ca ngợi những kỉ niệm êm đềm nơi đồng quê Xuân
Dục, Đoài Đông mà còn là hình ảnh đau thương của quê hương “ Ngõ chùa
cháy đỏ những thân cau” . Và ngày ngừng bắn khi hành quân qua huyện, anh
ghé “ thăm nhà, thăm núi đôi” nhưng :
“ Mới đến đầu ao tin sét đánh
Giặc giết em rồi dưới gốc thông”
Giặc giết người yêu, giết cả ước mơ,
giết chết hạnh phúc lứa đôi của anh. Biết bao đau đớn bàng hoàng đến vào
lúc anh đang “ náo nức” hy vọng nhất. Giang Nam trong “Quê hương” đã
nói lên nỗi lòng người con trai lúc ấy:
“ Không tin được dù đó là sự thật.
Giặc giết em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi
Đau xé lòng anh chết nửa con người”
Cùng chung với nỗi đau ấy, Vũ Cao viết “
tin sét đánh” nói lên được sự thảng thốt, bàng hoàng của người chiến sĩ
khi nghe tin người yêu mất. Nhưng người chiến sĩ trong “ Núi đôi” không
gục ngã, cái chết anh dũng “ dưới gốc thông” của người yêu có làm anh
đau đớn tột độ nhưng với những suy nghĩ chân thành tha thiết, anh tự hào
“ Em sống trung thành, chết thuỷ chung”
Chính cuộc kháng chiến anh dũng này,
chính cuộc đời ngắn ngủi nhưng đẹp đẽ, trong sáng vô ngần của người yêu
đã đem lại cho anh trong nỗi nghẹn ngào có niềm kính phục ngưỡng mộ, tôn
vinh.
Nghĩ đến người yêu, anh nghĩ đến kỉ niệm
“Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ con đường quen
Nắng bụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em”
Một hình ảnh tưởng như vô tình mà mang
nhiều ý nghĩa “ anh ngước nhìn” . Trước nỗi đau anh không cúi mặt, câu
thơ diễn tả nỗi niềm mất mát, tâm trạng xúc động tê tái:
“ Núi vẫn đôi mà anh mất em”
Từ tấm lòng nặng ân tình và những suy nghĩ đẹp đẽ ấy, Vũ Cao đã tìm một lời kết đẹp cho bài thơ:
“Anh đi bộ đội sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”
Câu thơ được viết ra từ một tâm hồn thi
sĩ – chiến sĩ. Hình ảnh quen thuộc “ Sao trên mũ” đã gắn bó với người
lính trong thời gian “chiến đấu quên mình năm lại năm”. “Sao trên mũ” là
hình ảnh tượng trưng cho lý tưởng, niềm tự hào chính đáng, là hướng đi
của người lính cũng là người bạn chia sẻ cùng anh nỗi buồn, giúp anh
đứng vững trong tư thế người chiến sỹ.
Lý tưởng đẹp ấy là lý tưởng anh đã chiến
đấu suốt bao năm dài, là lý tưởng mà người yêu anh đã ngã xuống vì nó.
Người yêu là người liệt sĩ của Tổ Quốc. Hình ảnh của cô gái Đoài Đông là
một bông hoa tuyệt đẹp trong suy nghĩ của anh, toả cho cuộc sống hương
vị trong lành.
“Em sẽ là hoa trên đỉnh núi.
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”
Là một bông hoa thơm tuyệt đẹp như tâm
hồn người chiến sĩ, như cuộc đời người du kích. Tất cả những gì ở câu
thơ toả ra là một “ngôi sao” ; không phải chỉ ở trên mũ mà ở ngay trong
trái tim anh. Ánh sáng của ngôi sao, qua câu thơ truyền đến mỗi trái tim
người đọc, làm ấm lòng người.
Hình như Vũ Cao không có ý định viết cho
chúng ta, ông viết để tặng riêng cho người du kích. Bài thơ từ đầu đến
cuối vẫn giữ nguyên một giọng điệu, một giọng thơ, giọng những lời tâm
sự âu yếm với người yêu. Lúc reo vui khi nhắc đến kỉ niệm, lúc nghẹn
ngào khi nói đến nỗi đau của sự mất mát, lúc đinh ninh như một lời thề
thuỷ chung.
Dẫu nhà thơ không có ý định viết cho
chúng ta thì những tình cảm chân thành của ông, hình ảnh rất đẹp của mối
tình, cái chết của người con gái và lời kết cuối bài thơ luôn làm chúng
ta suy nghĩ. Mình phải sống như thế nào trong cuộc sống hôm nay.
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ "Ai bảo chăn trâu là khổ'' Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Có những ngày trốn học Đuổi bướm cạnh bờ ao Mẹ bắt được... Chưa đánh roi nào tôi đã khóc! Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên Rồi kháng chiến trường kỳ Quê tôi đầy bóng giặc Từ biệt mẹ, tôi đi Cô bé nhà bên có ai ngờ! Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi! Giữa cuộc hành quân không nói được một lời Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi...
Hòa bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Tôi lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi! Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Rồi hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi, quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm Có những ngày trốn học bị đòn roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi.
Thứ ba, 26 Tháng 11 2013 16:07 | Đăng bởi Hội Nhà Văn Hải Phòng
Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, tại Ninh Hòa (Khánh Hòa). Các tác phẩm tiêu biểu như: Tháng Tám ngày mai (1962), Quê hương (1965), Người anh hùng Đồng Tháp (1969), Vầng sáng phía chân trời (NXB Văn học Giải phóng TP.HCM 1975), Hạnh phúc từ nay (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1978), Thành phố chưa dừng chân (NXB Tác phẩm mới Hà Nội 1985), Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, NXB Văn nghệ TP.HCM 1987), trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết…
Trải qua mấy chục năm hoạt động cách
mạng và thơ ca, ông được trao một số giải thưởng cao quý như: Giải ba về
truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960, Giải nhì về thơ tạp chí Văn
Nghệ năm 1961, Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Giang Nam
Quê Hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích…
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương quá đi thôi)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bày tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng
Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi!
Đau xé lòng tôi, chết nửa con người…
Xưa quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học vị đòn, roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Nguồn trích dẫn bài thơ “ Thơ Việt nam 1945-1975”
1.Bài thơ Quê hương chính là bài thơ
đã đạt giải nhì về thơ của Tạp chí Văn nghệ. Theo Hoài Thanh,
người có mặt trong BGK cho biết thì lẽ ra bài thơ đạt giải
nhất, nhưng lại có quan điểm không cho giải, hoặc chỉ khuyến
khích vì bài thơ dù hay, nhưng bi luỵ không cổ vũ được phong
trào chiến đấu giải phóng miền Nam lúc ấy. Cuối cùng, sau
tranh luận mãi và BGK quyết định giải pháp trung dung, trao tặng
giải nhì cho tác phẩm này.
2. Nhân vật “cô bé nhà bên” là nhân
vật có thật và không chết như trong bài thơ. Đó chính là phu
nhân của nhà thơ Bà Phạm Thị Triều, nguyên mẫu của “cô bé nhà bên”.
Trước đây trong hgoatj động cách mạng ông bà yêu nhau một thời
gian khá dài, khi ông có tên trong đoàn sĩ quan liên bộ đình chiến vừa
thành lập sắp lên đường ra Bình Định tập trung để chuẩn bị cho việc ký
kết Hiệp định Genevơ; tổ chức mới gợi ý để ông bà làm đám cưới. Ở với
nhau được hai đêm thì ông lên đường ra vùng tự do, Bà từ căn cứ sinh cô
con gái và trở về Nha Trang hoạt động. Năm 1959.trong một đêm, địch
ập vào bắt mẹ con bà giải đi, dù lúc đó đứa con gái đầu còn đỏ hỏn.
Theo lời kể của nhà thơ, cũng vào
một buổi tối của năm 1960, ông được cấp trên thăm hỏi động viên rồi
thông báo tin dữ: vợ và con gái ông đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú
Lợi, Sài Gòn.
Đau đớn đến bàng hoàng, ngay đêm hôm đó,
tại căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hoà đóng dưới chân núi Hòn Dù phía
tây thành phố Nha Trang, bên ngọn đèn thắp bằng nhựa cây, trong xúc cảm
của niềm đau đớn tột cùng ông đã viết nên bài thơ “Quê hương” như vẽ nên
một sự thật đau xót: Giặc bắn em rồi quăng mất xác. Chỉ vì em là du
kích em ơi. Đau xé lòng anh chết nửa con người… Sau này bài thơ đoạt
giải nhì giải thưởng thơ năm 1960-1961 của Tạp chí Văn nghệ và đã trở
thành một dấu mốc trong cuộc đời ông.
Nhưng năm 1962, sau 3 năm bị bắt, vợ và
con gái được thả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Sau giải phóng
1975, ông bà sống bên nhau trong căn nhà nhỏ số 46, đường Yersin, thành
phố Nha Trang. Và bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi
82. Còn nhà thơ đã 83 tuổi nhưng vẫn cặm cụi đánh vật với chữ
nghĩa, những hội thảo văn chương, những trang hồi ký viết dở…
Quê hương tôi có con sông xanh biết Nước gương trong soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là những buổi trưa hè Toả nẵng xuống giòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giử ngày giử tháng giử bao nhiêu kỹ niệm của giòng trôi Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi Tôi giử mãi mối tình mới mẽ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước Việt thân yêu Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy Bầy chim non khua lội bên sông Tôi giơ tay ôm nước vào lòng Sông mỡ nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mổi ngã Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa người gió biển Lại trở về lưu luyến bên sông ................................................... Hôm nay sống trong lòng miền Bắc Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc Hai tiếng Quê Hương hai tiếng miền Nam
Tôi ngớ không nguôi ánh nắng màu vàng Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc Tối nhờ cả những người không quên biết Những buổi trưa tôi đứng dưới hàng cây Bổng nghe dâng một nổi tràn đày Hình ảnh con sông quê mát rượi Lai láng chảy hồn tôi như suối tưới Quê hương ơi tình tôi cũng như sông Tình Băc nam tuôn chãy một giòng Không ghềnh thác nào ngăn cản được Tôi lại trở về nơi tôi hằng mơ ước Tôi sẽ trờ về sông nước của quê hương Tôi sẽ trở về sông nước của tình thương
TTO - Nhà thơ Tế Hanh - tác giả
của bài thơ Nhớ con sông quê hương nổi tiếng đã qua đời lúc 12g ngày hôm
nay (16-7) tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết
não.
TTO - Nhà thơ Tế Hanh - tác giả của bài thơ Nhớ con sông quê hương nổi tiếng đã qua đời lúc 12g ngày hôm nay (16-7) tại Hà Nội sau nhiều năm chống chọi với căn bệnh xuất huyết não.
Tế Hanh tên thật là Trần Tế Hanh, sinh ngày 20-6-1921,
tại thôn Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Thuở
nhỏ học trường làng, trường huyện sau ra học tại trường Quốc học Huế. Tế
Hanh được biết đến nhiều với các tác phẩm như Nhớ con sông quê hương, Quê hương - hai bài thơ từng được đưa vào chương trình học phổ thông.
Năm 1947, Tế Hanh làm việc trong Ban phụ trách Trường
trung học bình dân Trung bộ, năm 1948, ông ở trong Ban phụ trách liên
đoàn văn hóa kháng chiến Nam Trung bộ ủy viên thường vụ chi hội Văn nghệ
Liên khu V.
Năm 1957 khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, ông là Ủy
viên thường vụ Hội khóa I, II, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp Văn học
nghệ thuật Việt Nam (1963), tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam
nhiều khóa, giữ các chức vụ: Trưởng ban đối ngoại (1968), Chủ tịch Hội
đồng dịch thuật (1983), Chủ tịch Hội đồng thơ (1986).
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
Tế Hanh ra đi, giờ đây, những thi sĩ của "Thi nhân Việt Nam" chỉ còn lại mỗi Xuân Tâm!
Ông
là một trong những nhà thơ thành công trong cả phong trào Thơ mới và
sau cách mạng tháng Tám với những bài thơ tinh tế và giàu cảm xúc về
tình yêu quê hương đất nước.
Ông sáng tác thơ từ sớm và đã đứng trong phong trào Thơ mới với tập Nghẹn ngào
giành giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn. Tham gia Việt Minh từ
tháng 8 năm 1945, Tế Hanh đã trải qua các công tác văn hóa, giáo dục ở
Huế, Đà Nẵng, là Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà
Nẵng sau khi Cách mạng tháng Tám thành công.
Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã ca ngợi ông "Tế
Hanh là một người tinh lắm, Tế Hanh đã ghi được đôi nét rất thần tình
về cảnh sinh hoạt chốn quê hương. Người nghe thấy được cả những điều
không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng, trên cánh buồm giương,
như tiếng hát của hương đồng quyến rũ, con đường quê nho nhỏ. Thơ Tế
Hanh đưa ta vào một thế giới rất gần gũi..."
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã từng giành nhiều tình cảm khi viết về ông như: "Trong
thơ Việt Nam tiền chiến, ông chưa bao giờ tạo được một sự hấp dẫn lạ
lùng như Hàn Mặc Tử hoặc Nguyễn Bính, cũng không có lúc nào làm chủ thi
đàn như Thế Lữ hoặc Xuân Diệu. Nhưng ông vẫn có chỗ của mình. Tập Nghẹn
ngào từng được giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Từ sau 1945, ông vẫn làm thơ
đều đều, những tập thơ mỏng mảnh, giọng thơ không có gì bốc lên nồng
nhiệt, nhưng được cái tình cảm hồn nhiên, và tập nào cũng có một ít bài
đáng nhớ, khiến cho ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu người ta
nghĩ ngay đến Tế Hanh." (Vương Trí Nhàn, Cây bút đời người).
Những tập thơ tiêu biểu của ông bao gồm: Hoa niên (1944); Tập thơ tìm lại (1945 ); Hoa mùa thi (1948); Nhân dân một lòng (1953); Lòng miền Nam (1956 ); Gửi miền Bắc (1958); Tiếng sóng (1960); Bài thơ tháng bảy (1961), Hai nửa yêu thương (1963); Khúc ca mới (1966); Đi suốt bài ca (1970), Câu chuyện quê hương (1973); Theo nhịp tháng ngày (1974), Giữa những ngày xuân (1977), Con đường và dòng sông (1980); Bài ca sự sống (1985), Tế Hanh tuyển tập (1987); Thơ Tế Hanh (1989 ); Vuờn xưa (1992); Giữa anh và em (1992); Em chờ anh (1993 ); Tuyển tập Tế Hanh (tập II, 1997).
Quê Hương
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lướiNước bao vây cách biển
nửa ngày sôngKhi trời trong, gió nhẹ sớm mai hồng Dân trai tráng giong
thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mãPhăng mái chèo
mạnh mẽ vượt trường giangCánh buồm giương to như mảnh hồn làngRướn thân
trắng bao la thâu góp gió
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗKhắp dân làng lũ lượt kéo
ghe vềNhờ ơn trời biển lặng cá đầy gheNhững con cá tươi ngon thân bạc
trắng
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắngCả thân hình nồng thở
vị xa xămChiếc thuyền im bến mỏi trở về nằmNghe chất muối thấm dần
trong thớ vỏ.
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớMàu nước xanh, cá
bạc, cánh buồm vôiThoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơiTôi thấy nhớ cái
mùi nồng mặn quá!
Nhớ con sông quê hương
Quê hương tôi có con sông xanh biếc Nước gương trong
soi tóc những hàng tre Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè Tỏa nắng xuống
lòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng Giữ bao nhiêu kỉ
niệm giữa dòng trôi? Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi! Tôi giữ mãi mối
tình mới mẻ Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ Sông của miền Nam nước
Việt thân yêu
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu Khi mặt nước chập
chờn con cá nhảy Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy Bầy chim non bơi lội trên
sông Tôi giơ tay ôm nước vào lòng Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả Kẻ sớm khuya chài
lưới bên sông Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng Tôi cầm súng xa nhà đi
kháng chiến Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển Vẫn trở về lưu luyến
bên sông
* * *
Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc Sờ lên ngực nghe
trái tim thầm nhắc Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng "miền Nam"Tôi nhớ
không nguôi ánh nắng màu vàng Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc Tôi
nhớ cả những người không quen biết...
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây Bỗng nghe dâng cả
một nỗi tràn đầy Hình ảnh con sông quê mát rượi Lai láng chảy lòng tôi
như suối tưới Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông Tình Bắc Nam chung
chảy một dòng Không ghềnh thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước Tôi sẽ về sông nước của quê hương Tôi sẽ về sông nước của tình thương...
Lời bài hát gốc MyLyric - Lời bài hát Got a black magic woman Got a black magic woman I’ve got a black magic woman Got me so blind I can’t see That she’s a black magic woman She’s trying to make a devil out of me
Don’t turn your back on me baby Stop messing round with your tricks Don’t turn your back on me baby You just might pick up my magic sticks
Got your spell on me baby Got your spell on me baby Yes you got your spell on me baby Turning my heart into stone I need you so bad , magic woman I can’t leave you alone .
Lời dịch - Lời ViệtCó một người phụ nữ với phép thuật hắc ám Có một người phụ nữ với phép thuật hắc ám Tôi có một người phụ nữ với phép thuật hắc ám Làm cho tôi mù lòa, tôi không thể thấy được Rằng cô ta là một phụ nữ với phép thuật hắc ám Cô ta đang cố biến tôi thành một con quỉ
Đừng quay lưng lại với tôi, em ơi Hãy ngừng làm rối tung mọi chuyện với mấy trò của em Đừng quay lưng lại với tôi, em ơi Em chỉ cần nhặt những cây gậy phép của em lên thôi
Làm cho tôi dính phép thuật của em rồi, em ơi Em ám bùa ngải của em lên tôi rồi, em ơi Vâng, em ám bùa chú của em lên tôi rồi Làm trái tim tôi hóa đá Tôi cần em biết chừng nào, người phụ nữ ma thuật Tôi không thể để em một mình (Tôi không thể rời xa em)