Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2016
QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH MỞ NƯỚC, DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT11
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nhà Đinh (chữ Hán: 丁朝, Đinh Triều) là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam bắt đầu năm 968, sau khi Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước và kết thúc năm 980 khi con của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Phế Đế nhường cho Lê Hoàn. Nhà Đinh là triều đại mở đầu chế độ phong kiến tập quyền và thời kỳ giành độc lập tự chủ lâu dài của đất nước Việt Nam
Vương triều nhà Đinh đã mở nền chính thống cho thời đại phong kiến độc
lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam nên trong các bộ chính sử kể từ Đại
Việt sử ký toàn thư, thế kỷ XV, Đại Việt sử ký tiền biên, thế kỷ XVIII,
đến Khâm định Việt sử thông giám cương mục, thế kỷ XIX, triều đại này,
đều được các tác giả lấy làm mốc mở đầu phần Bản kỷ, hoặc Chính biên.
Tiếp đến, việc xưng đế hiệu Đại Thắng Minh Hoàng đế mang ý thức tự tôn,
tự cường dân tộc, có hàm ý so sánh với các Hoàng đế Trung Hoa.
Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam Kha nhận Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền - làm con nuôi. Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương.
Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết, con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, các tướng nhà Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.
Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn). Ông là người Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Cha là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan.
Thời kỳ đó Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở Hoa Lư. Sau vì bất đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
Trong hơn 3 năm, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làm thái tử. Đinh Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vào mùa xuân năm 979.
Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử ghi thủ phạm là nội nhân Đỗ Thích, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đặt ra giả thiết khác, chủ mưu là Lê Hoàn và Dương hậu.
Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế nằm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm (968-980).
Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống (tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thuỷ Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên chết.
Năm 971, Đinh Tiên Hoàng bắt đầu quy định cấp bậc văn võ trong triều
đình. Trong triều có sự tham gia của các nhà sư vì những đóng góp của họ
trong quá trình dẹp loạn 12 sứ quân . Vua Đinh phong cho các quan văn võ:
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhiều ý kiến cho rằng con số đó không có thực. Chữ Thập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về cách tổ chức kiểu "ngụ binh ư nông" như nhà Lý sau này, thời bình cho làm ruộng, chỉ huy động khi cần ; còn Trần Trọng Kim ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:
Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cả Đinh Liễn đi sứ sang Biện Kinh. Năm 973, Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ
Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đem vàng, lụa, sừng tê, ngà voi sang triều cống nhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, Đinh Liễn được giao làm chủ việc ngoại giao với nhà Tống
Đến năm 976, vua Đinh sai em Trần Lãm là phò mã Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau (977), ông lại sai sứ sang mừng vua Tống mới là Tống Thái Tông lên ngôi. Đó cũng là lần ngoại giao cuối cùng giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập.
Việc vua Đinh khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ quân (968) là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán (971), áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất phương Nam.
Kế tục nhà Ngô, nhà Đinh tiếp tục xây dựng bộ máy cai trị trên lãnh thổ, dù chưa được đàng hoàn bị như nhà Lý sau này nhưng bước đầu đã đi vào nền nếp.
Tổng cộng nhà Đinh có hai đời nhưng thực chất chỉ có 1 đời vua Tiên Hoàng.
Ninh Bình là vùng đất có kinh đô Hoa Lư, ở đây có nhiều di tích liên quan đến triều đại nhà Đinh, đặc biệt nằm ở các huyện Hoa Lư, Nho Quan và Gia Viễn như: cố đô Hoa Lư với sông Sào Khê, động Thiên Tôn, động Hoa Lư,... Đặc biệt, quần thể danh thắng Tràng An với rất nhiều di tích thời Đinh đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới năm 2014.
Nhân dân vùng Kỳ Bố Hải Khẩu nói riêng và tỉnh Thái Bình nói chung đã có công lao rất lớn để tạo tiền đề cho sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng. Những nơi thờ tự phản ánh về thời kỳ này có: Từ đường thờ Bùi Quang Dũng (xã Tân Bình, huyện Vũ Thư) - một vị tướng có công khai quốc thời kỳ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân; đình Trần Lãm (phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình) lưu niệm sự kiện của sứ quân Trần Lãm; miếu Ba Thôn, chùa Hưng Quốc, đình Tu Trình (huyện Thái Thụy) và miếu Bắc (Đông Sơn, Đông Hưng) thờ các tướng lĩnh giúp Đinh Bộ Lĩnh trong sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân; đình Khả (Duyên Hải, Hưng Hà) lưu niệm tướng quân của nhà Đinh là Nguyễn Phúc Thời.
Ở Hải Dương có rất nhiều đền, miếu, đình, chùa liên quan đến triều đại nhà Đinh, thờ các tướng lĩnh và quan trung thần của Đinh Tiên Hoàng như: ở huyện Bình Giang có đình Bình An, xã Tân Việt thờ Hùng Lĩnh Tráng Trần; đình Chanh Trong, xã Thúc Kháng thờ Khanh Công; đình Băng Trai, xã Vĩnh Hồng thờ Trình An Tể; đình Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng thờ trung thần Đinh Điền. Ở Thanh Miện có đình Đỗ Hạ, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng; đền Từ Ô, xã Tân Trào; đình Đỗ Thượng, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng; đình Bằng Bộ, xã Cao Thắng thờ thành hoàng làng Cao Minh, hiệu là Viên Thông chiêu cảm. Ở Thanh Hà có chùa Liên Minh và đình Thiệu Mỹ, xã Vĩnh Lập thờ Đặng Danh Trí, Trịnh Thị Khang, Đặng Công Trân; miếu Thánh Cả, xã Thanh Bình thờ Đặng Châm, Trịnh Thị Khang, Đặng Trí; đền Từ Hạ hay đền Thánh Cả, thuộc thôn Phúc Giới, xã Thanh Bính thờ cha con tướng quân Đặng Chân, Đặng Trí; đình thôn Kỳ Tây thờ Hoàng Uy Công, Hoàng Trung Công, Hoàng Chí Công là ba anh em ruột có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Ngoài ra còn có đình Kim Đôi, xã Cẩm Hoàng (Cẩm Giàng) thờ vua Đinh Tiên Hoàng; huyện Gia Lộc có đình Đông Quan, xã Tân Hưng. Miếu An Cư Lộc làng Hậu Bổng, xã Quang Minh thờ Lê Viết Bao, miếu Rồng xã Nhật Tân thờ Đào Ngọc Sâm ; miếu Phú Nội, xã Bình Dân (Kim Thành) thờ tướng giúp vua Đinh; đình Ngọc Uyên, phường Ngọc Châu (thành phố Hải Dương) thờ Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang; đình Thụy Trà, chùa Thụy Trà, miếu Thụy Trà xã Thượng Đạt (Nam Sách) thờ danh tướng Phạm Công Hòa; đình Dậu Trì, xã Hồng Thái (Ninh Giang) thờ Trần Minh Công.
Nam Định có những đền thờ tiêu biểu sau: đình Xám: thôn Lạc Đạo, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, thờ Trần Minh Công tức Trần Lãm. Đình Thượng Đồng: xã Yên Tiến, huyện Ý Yên. Đình thờ Đinh Tiên Hoàng làm thành hoàng. Đền Vua Đinh (Yên Thắng), Ý Yên thờ vua Đinh Tiên Hoàng, đền Gin: thôn Chiền, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, một trong 12 sứ quân; đền An Lá: xã Nghĩa An, huyện Nam Trực thờ Nguyễn Tấn, một vị tướng của nhà Đinh (thế kỷ thứ X); đền Hưng Lộc: xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, thờ Phạm Cự Lượng tướng thời Đinh. Đình Cát Đằng xã Yên Tiến huyện Ý Yên thờ 2 anh em Đinh Đức Đạt và Đinh Đức Thông.
Hưng Yên có đền Mây thờ sứ quân Phạm Bạch Hổ. Đình Phù Liệt, xã Thắng Lợi, huyện Văn Giang thờ ngũ vị đại vương âm phù Đinh Bộ Lĩnh thắng trận. Đền Kim Đằng ở thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên thờ Đinh Điền. Đình Thắm thị trấn Văn Giang thờ tướng Chu Công Mẫn. Đình Phương Cái, phường Hồng Châu thờ tướng Phan Cương. Đình Nội Lễ xã An Viên, Tiên Lữ thờ tướng Trần Ứng Long có công sáng tạo loại thuyền nan đánh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc,...
Hà Nam có đình Mai Động, xã Trung Lương, Bình Lục thờ 2 anh em Phạm Phổ, Phạm Hán. Hội làng Gừa, xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm tôn vinh Trương Nguyên là người làng Gừa, sau khi theo vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân.
Vĩnh Phúc có đình Bồ Lý, xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo thờ 2 vị thành hoàng làng: Giang Khẩu Hộ Sát Linh Thính và Giản Sơn Linh Ứng giúp vua Đinh dẹp loạn.
Hà Nội có đình Mậu Hòa, xã Minh Khai, Hoài Đức là nơi thờ Tướng quân Phạm Đông Nga đã có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Hội thả diều làng Bá Giang ở xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội tôn vinh Nguyễn Cả giúp vua Đinh dẹp loạn. Đình Ba Dân ở Tứ Hiệp, Thanh Trì thờ 2 tướng Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục. Làng Động Phí thuộc xã Phương Tú, huyện Ứng Hoà có đền thờ 2 anh em Bạch Tượng, Bạch Địa. Đình Thanh Ấm ở thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa thờ Thành hoàng làng là Minh Phúc Đại vương có công lớn giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Cũng tại Vân Đình có đình Thượng, đình Nhì, đình Ba thờ ba anh em ruột người trang Vân Đình đã mộ binh theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân Đền Không Thần ở làng Ngoại Hoàng, xã Lưu Hoàng, huyện Ứng Hoà, Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội), thờ Không Thần Đại Vương tên húy Cao Quang Vương, một tướng giỏi có công dẹp loạn 12 sứ quân. Đình So, xã Cộng Hòa, Quốc Oai thờ Vương mẫu có 3 con theo vua dẹp loạn. Đình Đông Dư Thượng và Hạ thuộc xã Đông Dư, Gia Lâm đều thờ Bạch Đa đại vương - người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Đình Mạnh Tân xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh thờ́ tướng Đương Giang. Đình Phú Thị, Gia Lâm thờ Đào Liên Hoa có công dẹp loạn ở châu Vũ Ninh. Đình Kim Sơn xã Kim Sơn, Gia Lâm thờ Cao Điền Công và Cao Đỗ Công. Đình Phù Sa ở phường Viên Sơn, Sơn Tây thờ công chúa Phù Dung (con vua Đinh Tiên Hoàng) và phò mã Quán Sơn có công đánh dẹp, sau đó về Phù Sa chiêu binh lập ấp, dạy dân làng trồng dâu, nuôi tằm và được làm Thành hoàng. Đình làng Tiến Ân ở xã Thủy Xuân Tiên, Chương Mỹ thờ anh em họ Đặng Đống Thính và Đặng Chiêu Pháp giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc.
Hải Phòng có đình Văn Cú ở xã An Đồng, huyện An Dương thờ hai vị thành hoàng là Đỗ Quang và Đỗ Huy có công dẹp loạn. Đình Trại Kênh, xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng cũng thờ các vị tướng theo giúp vua Đinh dẹp 12 sứ quân.
Bắc Ninh có đình Đông Cốc, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành thờ Linh Thông đại vương. Đình Đại Vi ở làng Đại Vi xã Đại Đồng, huyện Tiên Du thờ ba vị thần là Chàng Ngọ, Chàng Mai và Bạch Đa. Ba ông quê ở động Hoa Lư, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn các sứ quân. Miếu Cửu Tướng Quân ở Thuận Thành thờ 9 vị trung thần thời Đinh. Đền Du Tràng ở xã Giang Sơn, Gia Bình thờ Lang Công và Chiêu Công là tướng nhà Đinh.
Thanh Hóa có di tích Phủ Vạn (xã Tiến Nông, Triệu Sơn) thờ ba vị tướng Trần Công Hoan, Trần Công Huân và Trần Công Tiếu, là những người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn sứ quân của Ngô Xương Xí. Đền thờ Trình Minh thuộc thôn Ngọc Xuyết, xã Hà Châu, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa thờ người khởi tổ của dòng họ Trình ở làng Xuyết Khu xưa và là người có công lập nên làng Ngọc Xuyết và giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn
Nghệ An có đền thờ Hồ Hưng Dật ở xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu thờ người giúp vua Đinh dẹp loạn. Ở xã Hưng Long, Hưng Nguyên có đền Xuân Hòa thờ thần Cao Các. Theo Ngọc phả, Đại vương là vị tướng mưu lược, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, đánh đuổi quân Chiêm Thành. Sau khi ông mất, nhà Đinh thương tiếc cho lập đền thờ. Các triều vua về sau đã phong sắc cho ông là "Thượng thượng đẳng tối linh Tôn Thần."
Ông với Đinh Bộ Lĩnh cùng tuổi (s. năm Giáp Thân, 924) và là người cùng làng Đại Hữu. Khi còn là trẻ nhỏ, đi chăn trâu ở Thung Lau (động Hoa Lư, Gia Viễn), Đinh Điền đã cùng lũ trẻ lấy hoa lau làm cờ, khoanh tay làm kiệu, suy tôn và rước Đinh Bộ Lĩnh làm chúa.
Năm 965, nhà Ngô mất. Ông cùng các chiến hữu giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn 12 sứ quân trong 3 năm, thống nhất giang sơn về một mối.
Theo sử sách, Đinh Điền được vua Đinh cử giữ chức Ngoại giáp, nghĩa là coi việc bên ngoài, theo thần phả thì ông giữ chức Nhập nội kiểm giáo Đại Tư đồ, Bình chương trọng sự.
Đinh Điền cho rằng Lê Hoàn có ý đồ thoát đoạt. Ông bàn với Nguyễn Bặc và Phạm Hạp cùng một số trung thần khác, bỏ quan về ở ẩn để mưu tính đại sự. Ông tập kết các anh hào, tướng sĩ trung thành với nhà Đinh để chuẩn bị đánh Lê Hoàn.
Đinh Điền hợp quân với Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, đem hai đạo quân thuỷ bộ từ Ái Châu (Thanh Hoá) tiến về kinh thành Hoa Lư mưu giết Lê Hoàn, thu giang sơn lại cho nhà Đinh. Nhưng Lê Hoàn lợi dụng gió đông nam thổi mạnh, đánh một trận hoả công, đốt sạch thuyền bè, quân sĩ của Đinh Điền, Nguyễn Bặc. Đạo thuỷ quân tan rã, Đinh Điền bị tử trận.
Sau đó không lâu, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp cũng bị Lê Hoàn đánh bại, bị bắt và bị xử tử.
Về thời gian diễn ra trận chiến và cái chết của Đinh Điền, các nguồn tài liệu ghi khác nhau. Sử sách thống nhất ghi việc này diễn ra vào cuối năm 979. Theo thần phả ở Ninh Bình, việc này diễn ra ngày 20 tháng 4 năm Canh Thìn (tức 5 tháng 6 năm 980). Một số thần phả khác, được Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam[3] dẫn lại, cho rằng ông cùng vợ là Phan Môi Nương bị thua trận, quân tan nát hết nên cùng nhau tự vẫn ngày 20 tháng 11 năm Kỷ Mão (tức 12 tháng 12 năm 979) chứ không phải ông bị tử trận.
Nhân dân vô cùng thương xót, coi ông là bậc trung thần, vì nghĩa cả quên mình nên đã thu nhặt hài cốt ông đem về chùa Trúc Lâm, nơi ông tu hành trước để an táng. Ngày nay ở rất nhiều nơi đặc biệt tại Gia Viễn, Hoa Lư có đền thờ ông và Nguyễn Bặc.
Đinh Điền được phong làm thành hoàng của nhiều làng ở miền Bắc, đền thờ ông có nhiều ở Ninh Bình và Hưng Yên, tiêu biểu như:
Đinh Liễn (chữ Hán: 丁璉; ?-979) hay Đinh Khuông Liễn (丁匡璉) là hoàng tử nhà Đinh, con trai Đinh Bộ Lĩnh (tức Đinh Tiên Hoàng), người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Ông từng được Đinh Bộ Lĩnh cử làm con tin ở triều đình Cổ Loa suốt 15 năm rồi theo cha đánh dẹp 12 sứ quân và còn thay vua cha trong việc giao bang với Trung Hoa. Ông được Vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Nam Việt Vương để khẳng định uy quyền hoàng đế của một quốc gia độc lập.
Đinh Bộ Lĩnh khi lên ngôi lập 5 hoàng hậu nhưng sử không ghi rõ Đinh Liễn là con bà hoàng hậu nào. Chỉ chắc chắn rằng ông không phải là con bà Dương hậu, người sinh ra Đinh Toàn và cũng không phải là con của bà hoàng hậu là mẹ của Ngô Nhật Khánh. Cũng có khả năng mẹ của Đinh Liễn đã mất trước khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế năm 968. Và đó cũng có thể là một lý do mà Vua Đinh Tiên Hoàng không lập ông làm thái tử.
Căn cứ vào năm sinh của Đinh Bộ Lĩnh (924) và sự kiện trên, có thể ước đoán Đinh Liễn sinh khoảng sau năm 940.
Từ năm 951 tới năm 965, Đinh Liễn làm con tin ở Cổ Loa. Năm 954, Xương Ngập chết. Năm 965, Nam Tấn vương Xương Văn tử trận, triều đình Cổ Loa rối ren chia bè phái, Đinh Liễn trở về Hoa Lư
Trong nước đại loạn, 12 sứ quân nổi dậy chiếm giữ các nơi tự xưng danh hiệu, không có ai làm chủ. Lúc đó Đinh Bộ Lĩnh đã liên hợp với sứ quân Trần Lãm, thanh thế rất mạnh. Theo lệnh cha, Đinh Liễn vào Ái châu để mộ quân lo việc đánh dẹp và ông mộ được 3000 tráng sĩ, trong đó có Lê Hoàn.
Từ đó Đinh Liễn cùng cha ra tay đánh dẹp, chiêu hàng các sứ quân. Trong 3 năm, cha con Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Để thu phục sứ quân Ngô Nhật Khánh, Bộ Lĩnh đã đem gả con gái ông là công chúa Phất Kim cho Khánh.
Trong sách Thập quốc thế gia có viết rằng:
Năm 968, khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư, Đinh Liễn được phong làm Nam Việt Vương.
Năm 972, Đinh Liễn phụng mệnh cha đi sứ nhà Tống . Năm sau ông trở về. Nhà Tống sai sứ sang phong cho vua Đinh làm Giao Chỉ quận vương và phong Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư, Tĩnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ
Năm 975, nhà Tống sai Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù đem chế sách sang gia phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương (Tống sử, quyển 488 thì chép việc phong này là cho Đinh Bộ Lĩnh ). Từ đó về sau, trong việc sai sứ sang nhà Tống, vua Đinh đều lấy Liễn làm chủ.
Đầu năm 979, Đinh Liễn quá giận dữ nên đã sai người ngầm giết Hạng Lang . Sau đó, để làm nguôi lòng cha mẹ, ông đã sai dựng những cột kinh khắc bài Phật-đỉnh Tôn-thắng Đà-la-ni để cầu siêu cho người em. Phần lạc khoản trên các cột kinh là lời sám hối của ông, có mấy đoạn sau:
Như vậy, trên các tràng kinh này Đinh Liễn đặt lại tên mình là Khuông Liễn để tỏ ý tôn kính quốc sư Khuông Việt và sùng Phật . Hiện nay các nhà nghiên cứu đã phát hiện được di tích của gần 20 cột kinh tại Hoa Lư.
Theo sử sách, người sát hại cha con Đinh Liễn là nội nhân Đỗ Thích[2], nhưng một số nhà nghiên cứu gần đây đặt giả thiết vụ này chủ mưu là Lê Hoàn và hoàng hậu Dương Vân Nga. Động cơ và hoàn cảnh của vụ án này thực chất là ngôi thái tử và gần giống với Vụ án Lệ Chi Viên sau này. (Xem thêm bài về Đinh Tiên Hoàng).
Sử sách không ghi chép về gia quyến Đinh Liễn, chỉ biết ông có một người vợ là em gái sứ quân Ngô Nhật Khánh. Theo gia phả họ Đinh Danh ở Thái Bình, sau khi Đinh Toàn lên ngôi, Lê Hoàn làm phó vương đã "cấm cố họ Đinh", vì vậy gia đình Đinh Liễn đã phải chạy đi nơi khác và thế hệ sau của họ này chính là Đinh Lễ, Đinh Liệt - các công thần khai quốc nhà Hậu Lê.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỉ quyển 1 chép:
Có ý kiến cho rằng xưa kia (năm 951), khi Đinh Bộ Lĩnh sai người nhằm Đinh Liễn (đang bị hai vua Ngô treo trên sào) mà bắn tức là trong lòng vua Đinh đã không có Liễn rồi. Tuy nhiên suy diễn như vậy có phần phiến diện. Trong hoàn cảnh bức bách này, vua Đinh buộc phải làm cách đó vì đại sự và không phải vua Đinh không yêu Đinh Liễn. Giống như trường hợp Lưu Bang, khi thấy Hạng Vũ đặt cha mình lên thớt, Bang thương cha nhưng vẫn buộc lòng phải nói: "Cha ta cũng như cha ngươi, nếu ngươi nấu cha ta thì cho ta xin bát nước luộc với!" Có nói như vậy Hạng Vũ mới "nản lòng" không giết cha Lưu Bang nữa. Việc Đinh Liễn giết Hạng Lang là nhẫn tâm, nhưng Tiên Hoàng không trừng phạt ông cho thấy vua Đinh vẫn có ý để ông là người nối nghiệp. Tiên Hoàng đã nhận ra sai lầm lần đầu khi lập con nhỏ, bỏ con lớn và nhà vua đã đủ sáng suốt khi không giết nốt con lớn, chỗ dựa lớn nhất của ông trong việc duy trì sự nghiệp nhà Đinh.
Đinh Liễn cùng Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang được thờ ở Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, thuộc quần thể di tích cố đô Hoa Lư, huyện Hoa Lư, Ninh Bình.
Ngô Nhật Khánh (chữ Hán: 吳日慶; ?-979) là một sứ quân nổi dậy cuối thời nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam giữa thế kỷ 10. Đó là thời kỳ mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân. Sau ông hàng phục Đinh Bộ Lĩnh và trở thành phò mã nhà Đinh hơn 10 năm trong kinh đô Hoa Lư. Ông bị bão dìm chết năm 979 tại cửa biển Đại An trong lần đem quân Chiêm Thành theo đường thủy tiến đánh kinh đô Hoa Lư.
Còn Phả hệ họ Ngô Việt Nam soạn năm 2003 của Ban liên lạc dòng họ Ngô cho rằng ông là con của Nam Tấn vương Ngô Xương Văn, cháu nội Ngô Quyền và mẹ chính là Dương Vân Nga. Một số nhà nghiên cứu cũng theo đó dè dặt ghi nhận điều này. Tuy nhiên, giả thuyết này có rất nhiều chỗ không hợp lý trong sử sách, nếu căn cứ vào thân thế và cuộc đời của hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga. Tạ Chí Trường trong tác phẩm "Bài sử khác cho Việt Nam" căn cứ sự kiện Đỗ Cảnh Thạc phù trợ Xương Văn trước kia, thấy nơi vùng căn cứ Đỗ Động, khi mà sứ quân Đỗ Cảnh Thạc đã bị tiêu diệt, lại có "bọn con em Ngô Tiên chúa," để đoán rằng An Vương Ngô Nhật Khánh chính là con Xương Văn; và cho rằng Ngô Nhật Khánh chính là người lãnh đạo 500 con em nhà Ngô tiến đánh lực lượng sứ quân Trần Lãm năm 967 rồi bị Đinh Bộ Lĩnh bức hàng như sử đã ghi:
Ngô Xương Văn khôi phục nhà Ngô từ tay Dương Tam Kha (950), nhưng tới năm 965 khi Xương Văn tử trận, nạn cát cứ lại bùng phát mạnh mẽ hơn. Các thế lực yếu bị tiêu diệt dần, lãnh thổ Tĩnh hải quân chỉ còn mười hai thế lực lớn. Sử gọi đó là loạn mười hai sứ quân.
Ngô Nhật Khánh là một trong 12 sứ quân, đóng tại quê hương nhà Ngô, tức Đường Lâm, tự xưng là Ngô Lãm Công. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào hành trạng của ông mà suy đoán ông được Ngô Quyền giao trấn thủ đất hương hỏa, sau không phục Dương Tam Kha mà chiếm đóng và củng cố lực lượng để trở thành sứ quân. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì thôn Đường (cùng thôn Nguyễn, lực lượng khiến Ngô Xương Văn tử trận), tức Đường Lâm thuộc phạm vi chiếm đóng của sứ quân Ngô Nhật Khánh, còn thôn Nguyễn Gia Loan thuộc căn cứ của sứ quân Nguyễn Thái Bình, tức Nguyễn Khoan.
Khi Ngô Xương Xí nối ngôi, Ngô Nhật Khánh là anh em cùng họ cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa tranh giành. Thần phả đình Văn Cú ở Hải Phòng cho biết sứ quân Ngô Nhật Khánh thường chiêu dụ hào kiệt theo về, khi nghe danh muốn dụ dỗ Đỗ Vĩ nhằm hãm hại ông. Do vậy, Đỗ Vĩ phải đem vợ và 2 con trai Đỗ Quang, Đỗ Huy chạy về vùng Hải Phòng lánh nạn.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, đã từng có thời gian Ngô Nhật Khánh tự xưng là An vương, nhưng không rõ đó là thời gian cụ thể nào, trước hay sau khi xưng là Ngô Lãm Công. Có thể việc xưng An vương chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, do thấy mình không đủ thực lực trội hơn các sứ quân khác nên ông lại tự rút danh hiệu xuống là Lãm Công.
Trong thời loạn lạc đó, Đinh Bộ Lĩnh tỏ ra là sứ quân mạnh nhất nhờ sự liên kết với sứ quân Trần Lãm. Một mặt, Bộ Lĩnh ra tay dẹp các sứ quân, nhưng riêng với các sứ quân họ Ngô là Nhật Khánh và Xương Xí , Bộ Lĩnh dùng chính sách chiêu hàng, vì các sứ quân này là dòng họ nhà Ngô vừa mất.
Kết quả cả Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh đều về hàng Đinh Bộ Lĩnh. Sử chép sự kiện sứ quân Trần Lãm sai Đinh Bộ Lĩnh đi đánh các hùng trưởng khác, đều thắng được cả rồi mới đến sự kiện Phạm Phòng Át đem quân về hàng. Kết thúc nhà Ngô bằng sự kiện khi Minh Công mất, gặp lúc bọn con em của Ngô Tiên chúa ở Đỗ Động Giang hơn 500 người đem quân đến đánh, mới vào đến đất Ô Man thì bị người làng ấy là Ngô Phó sứ đánh bại phải trở về. Bộ Lĩnh nghe tin, liền cất quân đi đánh vùng sông và động ấy, không bộ lạc nào không hàng phục. Từ đó lại dân ở kinh phủ đều khâm phục theo về. Nhà Ngô mất. Như vậy có thể suy đoán được rằng Ngô Nhật Khánh, người lãnh đạo tàn dư cuối cùng của nhà Ngô, chính là sứ quân mà Đinh Bộ Lĩnh hàng phục sau cùng, kết thúc sự nghiệp dẹp loạn để lên ngôi hoàng để vào năm 968 đồng thời phong cho sứ quân này là phò mã nhà Đinh.
Tuy nhiên, sử chỉ nêu Tiên Hoàng có 5 hoàng hậu mà không chép rõ mẹ Nhật Khánh là ai trong 5 bà: Đan Gia, Trinh Minh, Kiểu Quốc, Cồ Quốc, Ca Ông.
Việc Tiên Hoàng không trừng phạt Đinh Liễn bằng án tử hình khiến Nhật Khánh vô cùng tức giận và đây chính là động cơ chủ yếu thúc giục Khánh bỏ sang Chiêm Thành.
Một hôm Khánh mang vợ là công chúa Đinh Phất Kim chạy vào nam, tới cửa biển Nam Giới thì ông rút dao rạch mặt vợ và mắng rằng:
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị giết hại. Con trai còn lại là Đinh Toàn lên ngôi vua. Lê Hoàn làm Nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp cho rằng Lê Hoàn có ý đồ thoán đoạt đã nổi loạn nhưng bị Lê Hoàn dẹp tan. Trước kia,vua Đinh hứa đưa em Khánh (Hạng Lang) lên ngôi, nhưng khi em Khánh bị hại thì kẻ thủ phạm lại không bị trừng phạt đích đáng theo ý muốn của Khánh, bởi thế Khánh mới tìm đến Chiêm Thành để cầu viện báo thù. Ý định của Khánh là mượn quân Chiêm để về nước làm vua, khôi phục nhà Ngô. Nếu Hạng Lang không chết mà được nối ngôi như dự kiến thì sớm muộn Khánh cũng làm Vương Mãng, Tư Mã Chiêu, tiêu diệt họ Đinh, phế truất ấu chúa này mà giành lấy ngôi – giống như tấm gương Triệu Khuông Dận lấy ngôi của cậu bé 6 tuổi Sài Tông Huấn cách đó ít lâu bên phương bắc.
Nghe tin Tiên Hoàng chết, Nhật Khánh bèn xui vua Champa là Ba Mĩ Thuế mang quân để đánh Đại Cồ Việt. Vua Champa nhân cơ hội xâm chiếm đất đai, bèn tự cầm quân đem hơn nghìn binh thuyền ra đánh Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang.
Khi vào cửa Đại Ác (cửa Thần Phù), qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, chìm gần hết. Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát nạn. Ba Mĩ Thuế thu vét tàn quân trở về.
Đối với bà mẹ Ngô Nhật Khánh, sau những diễn biến xấu dồn dập của chồng và con tràn đến, bà Ngô phu nhân xưa đồng thời là hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng đành ra khỏi Hoàng cung, lập một ngôi chùa ở ngoại thành Hoa Lư để tu hành, ngôi chùa đó có tên là Đàm Lư nhưng dân gian vẫn quen gọi là chùa Bà Ngô (nay nằm ở thôn Hoàng Long, xã Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình).
Xem tiếp...
Nhà Đinh (968 - 980)
Nhà Đinh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Lịch sử
Thống nhất giang sơn
Năm 944, Ngô Quyền mất, anh/em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi của nhà Ngô, xưng Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ các vùng thường đem quân đánh lẫn nhau.Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập bỏ trốn. Dương Tam Kha nhận Ngô Xương Văn - con thứ của Ngô Quyền - làm con nuôi. Năm 950, Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, trở thành Nam Tấn Vương. Ngô Xương Ngập được đưa về, cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Đó là thời Hậu Ngô Vương.
Năm 954, Ngô Xương Ngập chết. Đến năm 965, Ngô Xương Văn chết, con Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp. Nhưng vì thế lực suy yếu nên lui về giữ đất Bình Kiều. Quý tộc nhà Ngô, các tướng nhà Ngô cùng các thủ lĩnh địa phương đều nổi dậy chiếm cứ một vùng. Bắt đầu từ đó hình thành thế mà sử sách gọi là loạn 12 sứ quân.
Trong số các lực lượng nổi dậy chống triều đình, nổi lên Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn). Ông là người Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Cha là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan.
Thời kỳ đó Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở Hoa Lư. Sau vì bất đồng với người chú, Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố Hải Khẩu. Sau khi Trần Minh Công chết Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.
Trong hơn 3 năm, Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân, thống nhất đất nước.
Đinh Tiên Hoàng
Đinh Bộ Lĩnh có ba con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn là con cả, đã cùng Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân. Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lập con út là Hạng Lang làm thái tử. Đinh Liễn quá tức giận nên giết chết Hạng Lang vào mùa xuân năm 979.
Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung. Sử ghi thủ phạm là nội nhân Đỗ Thích, nhưng các nhà nghiên cứu gần đây đặt ra giả thiết khác, chủ mưu là Lê Hoàn và Dương hậu.
Đinh Phế Đế
Năm 979 Đinh Toàn, con trai còn lại của Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, là Đinh Phế Đế.Đinh Toàn khi đó mới 6 tuổi. Quyền lực thực tế nằm trong tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, là nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp thấy vậy, lại nghi Lê Hoàn tư thông cùng Thái hậu Dương Vân Nga nên cử binh đến đánh. Lê Hoàn dẹp tan, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đều bị giết chết. Phò mã Ngô Nhật Khánh bỏ trốn vào nam sang Chăm Pa, sau đó cùng vua Chăm Pa với hơn nghìn chiến thuyền định đến đánh kinh đô Hoa Lư nhưng bị bão dìm chết.
Năm 980, nhà Tống rục rịch điều quân sang đánh Đại Cồ Việt, Thái hậu Dương Vân Nga cùng triều thần tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức vua Lê Đại Hành. Nhà Đinh kết thúc, truyền được đến đời thứ hai, trị vì 12 năm (968-980).
Lê Hoàn sau khi lên ngôi lập ra nhà Tiền Lê đã đánh thắng quân Tống (tháng 4 năm 981). Đinh Toàn trở thành Vệ Vương có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 năm. Năm 1001, trong lần cùng vua Lê Đại Hành đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cầm Thuỷ Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên chết.
Nội trị
Bộ máy chính quyền
- Nguyễn Bặc làm Định quốc công
- Đinh Điền làm ngoại giáp
- Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư (chức vụ coi việc hình án)
- Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân,
- Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư
- Trương Ma Ni làm Tăng lục
- Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi.
Quân đội
Theo sử sách, quân đội nhà Đinh có mười đạo: mỗi đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy tổng số theo lý thuyết là 1 triệu người.Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nhiều ý kiến cho rằng con số đó không có thực. Chữ Thập, theo Lê Văn Siêu, chỉ mang tính khái quát toàn thể về cách tổ chức kiểu "ngụ binh ư nông" như nhà Lý sau này, thời bình cho làm ruộng, chỉ huy động khi cần ; còn Trần Trọng Kim ước đoán quân đội nhà Đinh nhiều nhất chỉ có đến 10 vạn người.
Pháp luật
Do ảnh hưởng nhiều năm từ thời loạn lạc, có nhiều người quen thói lúc loạn, không chịu tuân theo luật lệ. Do đó vua Tiên Hoàng dùng pháp luật nghiêm ngặt để trừng trị.Đại Việt sử ký toàn thư ghi về việc này:
- Vua [Đinh Tiên Hoàng] muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm
Đối ngoại
Nhà Tống đang trên đường thống nhất Trung Quốc sau hơn 50 năm loạn lạc. Quân Tống do Phan Mỹ chỉ huy đã áp sát nước Nam Hán ở cạnh nước Đại Cồ Việt. Năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang giao hảo với Tống Thái Tổ. Việc ngoại giao với phương bắc từ đó được duy trì khá đều đặn và hòa bình.Sang năm 972, Tiên Hoàng lại sai con cả Đinh Liễn đi sứ sang Biện Kinh. Năm 973, Đinh Liễn trở về, nhà Tống lại sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư Tỉnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ
Đầu năm 975, Tiên Hoàng lại sai Trịnh Tú đem vàng, lụa, sừng tê, ngà voi sang triều cống nhà Tống. Ngay mùa thu năm đó, nhà Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù sang gia phong cho Nam Việt Vương Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương. Từ đó về sau, Đinh Liễn được giao làm chủ việc ngoại giao với nhà Tống
Đến năm 976, vua Đinh sai em Trần Lãm là phò mã Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ. Năm sau (977), ông lại sai sứ sang mừng vua Tống mới là Tống Thái Tông lên ngôi. Đó cũng là lần ngoại giao cuối cùng giữa nhà Đinh và nhà Tống mà sử sách đề cập.
Nhận định
Thời kỳ phục quốc của Việt Nam thế kỷ 10, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau một số vị vua xưng Đế từ trước và giữa thời Bắc thuộc bao gồm Triệu Vũ Đế, Triệu Văn Đế (nếu công nhận tính chính thống của nhà Triệu), Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, đến thời nhà Đinh, người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập. Trong hoạt động ngoại giao, nhà Đinh được nhà Tống thừa nhận và coi trọng.Việc vua Đinh khéo kết hợp dùng võ công và biện pháp chiêu hàng các sứ quân để sớm chấm dứt loạn 12 sứ quân (968) là rất kịp thời, vì không lâu sau đó nhà Tống duỗi tới Quảng Châu, diệt nước Nam Hán (971), áp sát biên giới Đại Cồ Việt. Nếu không có sự xuất hiện của Đinh Bộ Lĩnh để thống nhất quốc gia bị chia sẻ tan nát, Việt Nam khó thoát khỏi họa xâm lăng từ phương bắc tái diễn khi nhà Tống hoàn thành việc thống nhất phương Nam.
Kế tục nhà Ngô, nhà Đinh tiếp tục xây dựng bộ máy cai trị trên lãnh thổ, dù chưa được đàng hoàn bị như nhà Lý sau này nhưng bước đầu đã đi vào nền nếp.
Tổng cộng nhà Đinh có hai đời nhưng thực chất chỉ có 1 đời vua Tiên Hoàng.
Di tích thời nhà Đinh
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 03:42 ngày 5 tháng 1 năm 2016.
Tướng nhà Đinh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tướng nhà Đinh là những nhân vật lịch sử đã theo giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân và làm quan dưới triều đại nhà Đinh. Những nhân vật lịch sử này được biết đến qua các chính sử hoặc dã sử trong dân gian.
Thời kỳ loạn 12 sứ quân có nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội thời Bắc thuộc, dẫn đến việc xuất hiện tầng lớp thổ hào, quan lại có thế lực mạnh về kinh tế, chính trị và tạo ra sự phân tán cát cứ.[1] Thực chất của cuộc nội chiến này là việc đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Tĩnh Hải quân của các thủ lĩnh địa phương khi nhà Đường suy yếu. Thời thế tạo anh hùng, lúc này người Việt có cơ hội đứng lên tranh giành quyền lãnh đạo. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh là người hoàn thành sứ mệnh đánh dẹp nội chiến, lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, xây cung điện, đặt triều nghi, bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại thắng Minh hoàng đế. Trong chiến thắng đó, đã có rất nhiều tướng lĩnh đóng góp công sức. Nhưng chính sử Việt Nam thì ghi chép rất sơ sài, chỉ những nhân vật tiêu biểu của thời đại, còn phần lớn được lưu lại được qua những thần phả, thần tích, ngọc phả rải rác trong các đền, đình, chùa, miếu hiện nay. Vì thời 12 sứ quân đã diễn ra cách nay quá xa, nên các tài liệu dã sử có thể có nhiều dị bản khác nhau giữa các nơi thờ chung một vị tướng, nhưng rõ ràng thực tế nhân dân địa phương đã và đang thờ tự các bậc tiền nhân này, đó là tiêu chí quan trọng nhất để đưa vào trong bài viết.
Thời kỳ loạn 12 sứ quân có nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội thời Bắc thuộc, dẫn đến việc xuất hiện tầng lớp thổ hào, quan lại có thế lực mạnh về kinh tế, chính trị và tạo ra sự phân tán cát cứ.[1] Thực chất của cuộc nội chiến này là việc đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Tĩnh Hải quân của các thủ lĩnh địa phương khi nhà Đường suy yếu. Thời thế tạo anh hùng, lúc này người Việt có cơ hội đứng lên tranh giành quyền lãnh đạo. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh là người hoàn thành sứ mệnh đánh dẹp nội chiến, lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, xây cung điện, đặt triều nghi, bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại thắng Minh hoàng đế. Trong chiến thắng đó, đã có rất nhiều tướng lĩnh đóng góp công sức. Nhưng chính sử Việt Nam thì ghi chép rất sơ sài, chỉ những nhân vật tiêu biểu của thời đại, còn phần lớn được lưu lại được qua những thần phả, thần tích, ngọc phả rải rác trong các đền, đình, chùa, miếu hiện nay. Vì thời 12 sứ quân đã diễn ra cách nay quá xa, nên các tài liệu dã sử có thể có nhiều dị bản khác nhau giữa các nơi thờ chung một vị tướng, nhưng rõ ràng thực tế nhân dân địa phương đã và đang thờ tự các bậc tiền nhân này, đó là tiêu chí quan trọng nhất để đưa vào trong bài viết.
Danh sách
Dưới đây danh sách 157 vị tướng thời Đinh được cập nhật:Tên | Tư liệu lịch sử | Quê quán | Tóm tắt sự nghiệp | Dẫn chứng |
---|---|---|---|---|
Bạch Tượng, Bạch Địa |
Đình Động Phí Ứng Hòa - Hà Nội |
Nghệ An | Bạch Tượng cùng Bạch Địa là con trai gia đình tộc trưởng Bạch Lân ở Hoan Châu. Khi đất nước lâm vào cảnh 12 sứ quân cát cứ. Hai anh em Bạch Tượng và con bà dì là Đô Đài bèn đến phủ Ứng Thiên tụ tập dân chúng lập nên trang Nguyễn Xá sau ông theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp sứ quân ở Sơn Tây và được ban thực ấp ở Động Phí ngày nay. | |
Bùi Quang Dũng | Từ đường Vũ Thư - Thái Bình |
Phú Thọ | Ông là người có tài, nhiều sứ quân chiêu dụ nhưng không theo mà Phò tá nhà Đinh, thống nhất đất nước, có nhiều công lao tổ chức khai phá, mở mang kinh tế vùng Bố Hải Khẩu (Thái Bình ngày nay), được, vua phong cho ông chức Trấn đông Tiết độ sứ. | |
Cao Các | Đền Xuân Hòa Hưng Nguyên - Nghệ An |
Thanh Hóa | Cao Các được Đinh Bộ Lĩnh phong cho làm Giám Nghị đại phu, giao cho 5 vạn binh lính phò giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn. Sau được ban thực ấp ở huyện An Ninh (Nghệ An). Sau ông còn giúp Vua Đinh đánh dẹp Chiêm Thành. Ở thôn Tân, Yên Khánh, Ninh Bình cũng có đình thờ anh em Cao Sơn và Cao Các. | |
Cao Điền Công, Cao Đỗ Công |
Đình Kim Sơn Gia Lâm - Hà Nội |
Thanh Hóa | Cao Điền Công và em trai Cao Đỗ Công là những nhân vật lịch sử dưới thời Đinh. Điền Công được phong Mưu nghĩa đại phu, Đỗ Công được phong là Thị hộ đốc lĩnh. Sau khi dẹp 12 sứ quân, Đỗ Công và Điền Công đã lập doanh cư thực ấp tại Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay. Khi quân Chiêm Thành xâm phạm bờ cõi Đại Cồ Việt, Vua Đinh Tiên Hoàng bèn triệu Lưỡng công vào triều trao cho 5 vạn quân đi đánh dẹp. Lưỡng công lĩnh mệnh chia quân làm hai đường thủy, bộ đánh tan quân xâm lược Chiêm Thành, giữ yên bờ cõi. | |
Cao Hiền, Lã Thị Ả |
Đình So Quốc Oai - Hà Nội |
Hà Nội | Cao Hiền cùng vợ Lã Thị Ả sống bằng nghề chài lưới trên sông, chuyên làm việc thiện. Họ có ba người con trai tinh thông văn võ. Khi có loạn 12 sứ quân, ba anh em giúp Đinh Bộ Lĩnh, một người làm Chỉ huy sứ, một làm Đô úy, và một làm Hiệu úy, tất cả đều làm tướng cầm quân đi đánh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, chém được chánh tướng Đỗ Thanh Long, giải thoát cho Đinh Bộ Lĩnh. | |
Cao Lịch, Cao Khiển |
Đình Yên Khoái Ninh Phúc - Ninh Bình |
Ninh Bình | Theo thần tích thôn Yên Khoái, xã Ninh Phúc, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình thì cha con Đinh Bộ Lĩnh suýt nữa thất trận khi trong một trận đánh lớn, bị quân của Đỗ Cảnh Thạc bao vây, ngoài công chúa Liên Hoa, góp sức giải vây cho Đinh Bộ Lĩnh còn có cánh quân của hai tướng Cao Lịch, Cao Khiển ở Hoa Lư. | |
Cao Minh | Đình Bằng Bộ Xã Cao Thắng Thanh Miện - Hải Dương |
Hải Dương | Cao Minh, hiệu là Viên Thông chiêu cảm, người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân và thống nhất đất nước Đại Cồ Việt. Ông được người dân quê hương thờ tại đình Bằng Bộ. Lễ hội đình Bằng Bộ diễn ra trong 3 ngày (từ 10 đến 12 tháng 2 âm lịch) kỷ niệm ngày sinh của thành hoàng làng Cao Minh. | |
Cao Mộc, Phùng Gia |
Đình Bườn - Miếu Trúc xã Mỹ Thắng Mỹ Lộc - Nam Định |
Hưng Yên, Nam Định |
Ngọc phả đình Bườn cho biết: Đàm hoàng thái hậu, thân mẫu của Đinh Bộ Lĩnh, thường cùng ông đi đánh dẹp các sứ quân. Khi Đinh Bộ Lĩnh cùng Phùng Gia và các tướng tiến quân đến địa đầu huyện Mỹ Lộc, thì bị lực lượng của sứ quân Lã Đường chặn đánh. Ông lập đồn luỹ ở làng Bườn vừa chống cự và phát triển thêm lực lượng. Nhiều nhân sĩ, trong đó có Cao Mộc là tướng của Lã Đường, đã được thu phục về. Sau đó, ông để mẹ lại căn cứ, còn mình cùng với các tướng lĩnh đi đánh dẹp ở các nơi khác. Khi ông cho người trở về An Biện đón thì mẹ ông đã qua đời. Đinh Bộ Lĩnh phái hai tướng là Phùng Gia và Cao Mộc về An Biện trông coi lăng mộ Đào Nương. Rồi Cao Mộc cũng mất tại đây. Hiện nay tại thôn Bườn còn bốn di tích liên quan đến sự kiện này là Lăng Bà, Lăng mộ của Cao Mộc, Miếu Trúc thờ Phùng Gia và Đình Bườn là nơi thờ chung mẹ vua Đinh cùng Cao Mộc và Phùng Gia. | |
Cao Quang Vương | Đền Không Thần Ứng Hòa - Hà Nội |
Hà Nội | Cao Quang Vương sinh ngày sinh 10 tháng 3 âm lịch, mất ngày 10 tháng 1 âm lịch, tên huý là Cao Quang Vương. Ông là một tướng giỏi Đinh Bộ Lĩnh, có công dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước hồi thế kỷ X. | |
Chu Công Mẫn | Đình Thắm Văn Giang - Hưng Yên |
Hưng Yên | Chu Công Mẫn danh hiệu Thiên Đống Đại Vương cùng với phu nhân là người có công khai mở làng Đan Nhiễm. Sau ông trở thành vị tướng có công giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân, đặc biệt ông là người địa phương, thông thạo giao thông và là người đã xông vào doanh trại để chém đầu sứ quân Lã Đường | |
Đặng Chân, Trịnh Thị Khang, Đặng Trí |
Đền Từ Hạ Thanh Hà - Hải Dương |
Hải Dương | Đặng Chân xuất thân trong gia đình một tù trưởng giàu có. Khi loạn 12 sứ quân nổi lên khắp nơi, vua Đinh Tiên Hoàng xuất hịch cấp báo, Đặng Chân đến sung quân và được phong là Đại tướng quân, lãnh bộ binh. Vợ Trịnh Thị Khang lĩnh thủy binh. Đặng Trí là con trai họ cũng tướng thời 12 sứ quân. Đặng Trí cùng mẹ lãnh thuỷ binh tiến theo đường thuỷ cùng phối hợp với cha lúc này là Đại tướng quân. | |
Đặng Đống Thính Đặng Chiêu Pháp |
Đình Tiến Ân Chương Mỹ - Hà Nội |
Ninh Bình | Đặng Đống Thính và em trai ông là Đặng Chiêu Pháp thuộc họ Đặng tại động Hoa Lư (Ninh Bình). Sau khi cha mẹ qua đời, cả hai anh em tìm đến trang Đăng Ân luyện tập văn chương, võ nghệ và mở lớp dạy học. Sau giúp Vua Đinh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, được phong thưởng trọng hậu và ban cho thực ấp ở trang Đăng Ân. | |
Đặng Huyền Quang, Đinh Bộ Lan |
chùa Đót Sơm Tiên Lãng - Hải Phòng |
Ninh Bình | Hai anh em dòng họ nhà Đinh gồm Đinh Bộ Lan, em trai của vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Bộ Đông em họ của vua sau khi nhà Đinh mất ngôi đã về tu tại chùa Non Đông. Đinh Bộ Đông lấy tên pháp Huyền Quang Thích Quảng Đông và là vị sư trụ trì chùa Non Đông, trong khi Đinh Bộ Lan lấy tên pháp là Thích Quảng Bình. Hai vị được coi là những vị tổ của trường phái pháp môn Tịnh độ thiền tông. | |
Đào Liên Hoa | Đình làng Sủi Gia Lâm - Hà Nội |
Thanh Hóa | Do có công lao đánh dẹp, khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất giang sơn, xưng đế, liền phong Đào Liên Hoa làm Tây vị Đại vương. Khi châu Vũ Ninh có giặc, ông vâng lệnh vua đem quân tiểu trừ; đóng quân ở Trang Thổ Lỗi (tức làng Sủi, Hà Nội). Dẹp yên giặc, Đào Liên Hoa chiêu dân về lập làng Sủi, mở mang đất hoang. | |
Đào Ngọc Sâm | Miếu Rồng Gia Lộc - Hải Dương |
Thanh Hóa | Đào Ngọc Sâm sau khi rời quê hương đến vùng Hải Dương đã chiêu mộ dân binh được hơn 2000 người luyện tập binh pháp, sau có công giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp 2 sứ quân nhà Ngô và giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống. | |
Đào Tế, Đào Lai Đào Độ |
Đền Trinh Hưởng Thủy Nguyên - Hải Phòng |
Hải Phòng | 3 anh em họ Đào theo Vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn và được nhà vua ban nhiều chức tước quan trọng. Sau họ cũng làm quan nhà Tiền Lê. | |
Đinh Điền | Chính sử | Ninh Bình | Đinh Điền là bạn Vua Đinh từ thưở nhỏ, tham gia dẹp loạn 12 sứ quân và trở thành một đại quan nhà Đinh. Khi Vua Đinh mất, ông cùng các quan đại thần kéo quân nổi dậy về kinh đô Hoa Lư chống Lê Hoàn và bị giết. | |
Đinh Đức Đạt, Đinh Đức Thông |
Đình Cát Đằng Ý Yên - Nam Định |
Nam Định | Khi hai anh em ruột Đinh Đức Đạt và Đinh Đức Thông người phường Lư Châu dấy binh đi theo Đinh Bộ Lĩnh đã được nhân dân địa phương tham gia rất đông. Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp tan cánh quân của Phạm Bạch Hổ cùng các sứ quân khác để hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. | |
Đinh Dưỡng Xã, Đinh Cung Linh, Đinh Đại Mộc, Đinh Bắc Phương |
Đền Phù Lưu, Đền Thánh Mẫu Đông Hưng - Thái Bình |
Thanh Hóa | Ông Đinh Công Đoan ở Châu Ái là người văn võ toàn tài, đi theo Ngô Vương Quyền lập được nhiều công lao và được cử về làm tri phủ Cổ Lan. Sau khi đất nước lâm vào cảnh loạn 12 sứ quân. 5 người con của Đinh Công Đoan cũng chiêu tập binh mã, xây dựng tại xã Phù Lưu 3 đồn, lập 1 đồn ở trang Cổ Dũng, và 1 đồn ở khu Giống để chống cự với các sứ quân. Sau khi Đinh Bộ Lĩnh về với sứ quân Trần Lãm, đã sai người mang thư chiêu dụ 4 anh em Đinh Dưỡng Xã, Đinh Cung Linh, Đinh Đại Mộc, Đinh Bắc Phương. Anh em họ Đinh đã đi theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn các sứ quân của Ngô Xương Xí, Nguyễn Siêu. Vua Đinh Tiên Hoàng thấy Tỉnh Nương có nhan sắc bèn lấy làm vợ, lập làm Đệ nhị cung phi - hoàng hậu nhà Đinh. | |
Đinh Nga Đinh Ngân Đinh Thiết Đinh Mỹ Phạm Đức Trần Huy |
Đền Ba Dân Kim Bảng - Hà Nam |
Hà Nam | Đinh Nga tập hợp trai tráng quanh vùng với những người tài giỏi như Đinh Thiết, Đinh Ngân, Phạm Đức, Trần Huy, Đinh Mỹ. Họ đã giúp ông huấn luyện binh sĩ, xây dựng căn cứ. Đinh Nga sau theo về ủng hộ Đinh Bộ Lĩnh, ông từng đem quân đến giải vây cho Đinh Bộ Lĩnh và thừa thắng tấn công tiêu diệt Đỗ Cảnh Thạc tại Đỗ Động Giang. Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua đã ban thưởng cho Đinh Nga chức Tướng quân Chỉ huy sứ và cử về trấn trị tại địa bàn cũ, được hưởng lộc ấp ở huyện Cổ Bảng. | |
Đinh Sài Bơi | Đền Xếch Hoa Lư - Ninh Bình |
Ninh Bình | Đinh Sài Bơi là tướng quân đại thần thời Đinh, ông theo giúp Vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân và tận trung với nhà Đinh khi nhà Tiền Lê cướp ngôi. Đền thờ và lăng mộ ông hiện vẫn còn ở Hoa Lư | |
Đỗ Quang, Đỗ Huy |
Đình Văn Cú An Dương - Hải Phòng |
Hà Nội | Sứ quân Ngô Nhật Khánh cát cứ ở Đường Lâm nghe danh muốn dụ dỗ Đỗ Vĩ nhằm hãm hại ông. Do vậy, Đỗ Vĩ đã đem vợ và 2 con trai Đỗ Quang, Đỗ Huy chạy về vùng Hải Phòng lánh nạn. Đỗ Quang đã đi theo giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, lập được nhiều công lớn và được vua phong đến chức Giám điều quân định. Sau ông làm thứ sử Hoan Châu. Đỗ Huy làm Thái thú Đồng Châu. Sau 2 ông theo các trung thần nhà Đinh chống lại nhà Tiền Lê nên bị hại. | |
Đương Chu | Đình Hướng Nghĩa Vụ Bản - Nam Định |
Hà Nam | Đương Chu là tướng được Đinh Bộ Lĩnh cử làm sứ giả đi đến các đạo để chiêu mộ quân sĩ, trong đó chỉ riêng làng Hướng Nghĩa, Vụ Bản có đến 18 người đi. Họ trở thành niềm tự hào của làng quê và được dân làng Hướng Nghĩa lập đền thờ. Ông cũng được thờ ở Đình Vị Hạ, xã Trung Lương, Bình Lục, Hà Nam quê nhà. | |
Đương Giang | Đình Đào Thục Đông Anh - Hà Nội |
Hà Nội | Đương Giang là một vị tướng của vua Đinh Tiên Hoàng có công trong việc dẹp giặc Ngô cùng với một người trong mộng là Phi Nương Hoàng hậu. Bà là người đã phù giúp cho ông trong chiến trận. | |
Hà Khôi | Đình Mai Thanh Oai - Hà Nội |
Hà Nội | Hà Khôi đại vương là người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc cát cứ vùng Thanh Oai. Ông được thờ ở đình Mai, xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai, Hà Nội. | |
Hoàng Thị Đậu, Hoàng Sơn Khung |
Phủ Bà Vụ Bản - Nam Định |
Nam Định | Thân sinh bà là Sơn Trà làm phó chỉ huy sứ. Năm Đinh Mão bà cùng anh là Hoàng Sơn Khung theo vua Đinh đánh Phạm Phòng Át. Dưới triều Đinh bà giữ chức giám sát ngự sử. Thánh Đậu đại vương được thờ ở Phủ Bà (Đắc Lực, Liên Bảo, Vụ Bản) gắn với sự tích nàng Đậu bán nước ở đầu thôn ủng hộ lương thực cho Đinh Bộ Lĩnh. | |
Hoàng Thông | Đình Cự Đà Thanh Oai - Hà Nội |
Hà Nội | Hoàng Thông là tướng thời Vua Đinh Tiên Hoàng được dân làng Cự Đà thờ làm Thành hoàng. Hàng năm vào ngày 14 tháng giêng âm lịch, người dân làng Cự Đà lại nô nức tổ chức lễ hội Đại kỳ phúc tiến hành lễ rước thánh Hoàng Thông Phả Độ Đại Vương. | |
Hoàng Trung Công, Hoàng Chí Công, Hoàng Uy Công |
Đình Phương La Thanh Hà - Hải Dương |
Hải Dương | Hoàng Trung Công, Hoàng Chí Công và Hoàng Uy Công là ba anh em ruột có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Họ được thờ làm thành hoàng làng thôn Phương La và thôn Kỳ Tây xã Cẩm Chế. | |
Hồ Thông | Đình Yên Nhân Chương Mỹ - Hà Nội |
Hà Nội | Hồ Thông là con trai Hồ Minh, mẹ là Nguyễn Thị Thái quê quán ở xã Đồng Lạc huyện Chương Mỹ. Sinh thời ông là người văn võ toàn tài, thông minh, trí tuệ được phong làm chỉ huy phó sứ thời vua Đinh Tiên Hoàng. Ông có công lao rất lớn trong việc đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Khi mất được tặng phong là: “Quảng Hóa hà hải linh thông thiện thánh đại vương” và được thờ cùng các vị thánh khác tại đình Yên Nhân.[30] | |
Lã Lang Đường Lã Lang Đế |
Đình Cầu Bây, Đình Thống Nhất Thạch Bàn, Cự Khối Long Biên - Hà Nội |
Hưng Yên | Theo truyền thuyết dân gian, vị thần hoàng ở đình làng Cầu Bây, phường Thạch Bàn và đình Thống Nhất, phường Cự Khối là vị võ tướng tên gọi Lã Lang Đường phù tá cho Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Người em trai là Lã Lang Đế. Hai ông vốn xuất thân từ vùng đất Tế Giang, Hưng Yên và là anh em họ với sứ quân Lã Đường. | |
Lãng Công | Đình Quảng Thượng Ý Yên - Nam Định |
Nam Định | Ông là vị thần được thờ ở đình Quảng Thượng (Yên Lương, Ý Yên) do có công nuôi vua Đinh. | |
Lê Chương Lê Du |
Đền Làng Kho Nho Quan - Ninh Bình |
Ninh Bình | Khi có loạn 12 sứ quân, Lê Chương và em trai Lê Du cùng tập hợp 2000 quân sĩ chia quân đóng 2 đồn. Đồn Thượng phía Đông do Lê Du chỉ huy, tự xưng là Thanh Y đại tướng quân. Đồn Hạ phía Tây do Lê Chương chỉ huy, tự xưng là Hiển Quang đại tướng quân. Sau 2 ông theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp các sứ quân và được giao cai quản vị trí cũ. | |
Lê Hoàn | Chính sử | Hà Nam | Là tướng của Đinh Bộ Lĩnh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân, được phong Thập đạo tướng quân. Sau khi Vua Đinh mất, ông đánh thắng giặc Tống được nhường ngôi vua, lập ra nhà Tiền Lê. | |
Lê Lương | Chính sử | Thanh Hóa | Là một hào trưởng Ái Châu. Sau Đinh Tiên Hoàng lên ngôi phong hào trưởng Lê Lương, cai quản cả một vùng đất nằm trong phạm vi "đông đến Phân Dịch, nam đến Vũ Long, tây đến đỉnh núi MaLa, bắc đến lèn Kim Cốc" (gồm ba huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa, Quảng Xương - Thanh Hóa ngày nay) và cho con cháu Lê Lương đời đời được làm quan coi đất ấy. | |
Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang |
Đình Ngọc Uyên Thành phố Hải Dương |
Nam Định | Lê Viết Hưng cùng em trai Lê Viết Quang tình nguyện theo Đinh Bộ Lĩnh, hưng binh trấn giữ vùng châu thổ, đánh thắng nhiều trận ở vùng Chí Linh, Thanh Lâm. Do có công với nước, hai ông được Vua Đinh phong tước, nhân dân lập đền thờ tôn làm Thành hoàng làng Ngọc Uyên, Hải Dương. Đức Thánh Cả Lê Viết Hưng được phong là Đương cảnh thành hoàng quan hà Đại vương "Trưởng tả đạo binh nhung kiêm tham tán mưu sự". Đức Thánh Hai Lê Viết Quang được phong là Dương cảnh thành hoàng Đinh triều phong tước "Thiếu tử Thái Bảo tiền quân". | |
Lê Xuân Vinh, Lê Luận Lương |
Đình Mai Phúc Gia Lâm - Hà Nội |
Hà Nội | Hai anh em Xuân Vinh và Luận Nương đã tập hợp trai tráng trong làng thành đội dân binh. Họ đã từng đánh bại quân của Nguyễn Khoan và một vị sứ quân cát cứ vùng Tế Giang. Sau đó, anh em Xuân Vinh đem quân về Hoa Lư và được Đinh Bộ Lĩnh giao nhiệm vụ đánh dẹp sứ quân Kiều Công Hãn. | |
Lịch Lộ | Đền Phúc Hạ Thành phố Ninh Bình |
Ninh Bình | Lịch Lộ Đại Vương là một vị tướng của Đinh Bộ Lĩnh. Do có nhiều chiến công dẹp loạn, ông được rất nhiều nơi lập đền thờ phụng. | |
Linh Thông | Đình Đông Cốc Thuận Thành - Bắc Ninh |
Bắc Ninh | Linh Thông Đại vương là người bản xứ, có công theo giúp Vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Đình Đông Cốc thờ ông đã được bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch công nhận là di tích lịch sử - văn hóa. | |
Lương Văn Hoằng | Thần phả Nhuệ Khê Nam Định |
Nam Định | Tham gia đội quân của Đinh Bộ Lĩnh dẹp 12 sứ quân | |
Lưu Cơ | Chính sử | Ninh Bình | Là tướng của Đinh Bộ Lĩnh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân, trực tiếp đánh dẹp sứ quân Lý Khuê và làm quan nhà Đinh. Ông cùng với Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú được coi là Tứ trụ triều đình của nhà Đinh. | |
Lưu Lang | Đình Đồng Hạ Kim Động - Hưng Yên |
Ninh Bình | Lưu Lang là người cùng quê với Lưu Cơ, Nguyễn Bặc, Đinh Điền và Đinh Bộ Lĩnh. Thân phụ của ông là tù trưởng Đại Hoàng, tuổi ngoài 50 mới sinh Lưu Lang. Năm 13 tuổi cha mẹ đều mất, Lưu Lang theo anh họ là Lưu Cơ, cùng Nguyễn Bặc, Đinh Điền tham gia tập trận cờ lau cùng bọn trẻ chăn trâu. Sau đó, họ cùng Lưu Lang tiến đến Phù Liệt, Tế Giang, Đằng Châu, Bố Hải dẹp các sứ quân và tôn Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua, lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Vua Đinh phong Lưu Cơ là Đô hộ phủ sĩ sư, Lưu Lang là Phó sĩ sư và được ban thực ấp ở Đồng Hạ, Hưng Yên. Khi Lê Hoàn đoạt ngôi nhà Đinh, ông cùng Đinh Điền đem quân về chống đối và cùng hy sinh, các ông được hậu thế suy tôn là trung thần nhà Đinh | |
Lưu Ngữ | Đền Lưu Xá Hưng Hà - Thái Bình |
Thanh Hóa | Đầu thế kỷ thứ X, họ Lưu là dòng cự tộc thuộc huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Lưu Ngữ, giỏi văn võ, theo Lê Hoàn đến với Đinh Bộ Lĩnh từ những ngày đầu dẹp loạn. | |
Lưu Quyền | Đình Nhật Tân Kim Bảng - Hà Nam |
Hà Nam | Thời vua Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, ở xã Lưu Xá, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam có một người tên là Lưu Quyền theo vua đi đánh sứ quân Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, luận công phong thưởng. Lưu Quyền công lao to lớn được vua phong chức là Thuỷ tào phán sự. Ban phong mỹ tự Trung thành phổ tế đại vương “Đại linh cảm chiếu ứng”. Sắc chỉ cho phép 72 nơi phụng thờ. Thuỷ tào phán sự Lưu Quyền biểu tấu xin vua cấp thêm một đạo sắc nữa về xã Lưu Xá cùng nhân dân xây đền thờ trên khu đất hình chim phượng. | |
Lý Trí Thắng | Đình Đỗ Lâm Đình Đỗ Hạ |
Thái Bình | Nguyễn Bặc là Đại tướng quân của Đinh Bộ Lĩnh, trong lúc tiến quân đến phủ Hạ Hồng thì gặp Lý Trí Thắng và Trí Thắng sớm được tin dùng, cùng Nguyễn Bặc kéo quân về Hoa Lư ra mắt chủ soái. Đinh Tiên Hoàng ban chức Tả đạo binh nhung kiêm Tham tán mưu sự, giao nhậm chức ở Hoan Châu, 3 năm sau được vời về triều phong chức Chưởng ấn nội các. | |
Lý Phả, Lý Hoằng, Lý Quảng |
Đình Trại Kênh Thủy Nguyên - Hải Phòng |
Ninh Bình | Ba anh em Lý Phả, Lý Hoằng, Lý Quảng con ông Lý Lã và bà Đặng Thị Quỳnh, người Hoa Lư, Ninh Bình, cả ba đều có công tham gia dẹp loạn 12 sứ quân và làm quan dưới triều Đinh Tiên Hoàng. Cuối đời Đinh, nội bộ triều đình mâu thuẫn, ba anh em về ẩn cư ở trang Sài Kênh, huyện Thuỷ Đường. Khi Lê Hoàn muốn giành ngôi vua. Nguyễn Bặc vời ba anh em về Hoa Lư giúp chống Lê Hoàn và đều bị tử trận cùng Nguyễn Bặc. Dân Sài Kênh ngưỡng mộ lòng trung nghĩa của ba vị nên thờ làm thành hoàng. | |
Ngô Tất An | Thần phả Nhuệ Khê Nam Định |
Nam Định | Tham gia đội quân của Đinh Bộ Lĩnh dẹp 12 sứ quân | |
Nguyễn Bặc | Chính sử | Ninh Bình | Là bạn Vua Đinh từ thưở nhỏ, tham gia dẹp loạn 12 sứ quân và làm quan nhà Đinh, chức Định quốc công, tương đương Tể tướng. Khi Vua Đinh mất, ông cùng các quan đại thần nổi dậy chống Lê Hoàn và bị giết. | |
Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục |
Đình Ba Dân Thanh Trì - Hà Nội |
Ninh Bình | Là anh của Nguyễn Bặc và Nguyễn Phục. Cả ba anh em ông đều là tướng nhà Đinh, có công giúp Đinh Tiên Hoàng trong công cuộc đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Vợ ông là công chúa Quế Hương, chị gái Đinh Tiên Hoàng. Năm Đinh mão 967, Đinh Bộ Lĩnh giao Nguyễn Bồ làm chỉ huy tiến quân đánh sứ quân Nguyễn Siêu ở Tây Phù Liệt, là sứ quân mạnh nhất lúc bấy giờ; không may trong trận này Nguyễn Bồ cùng ba tướng Nguyễn Phục, Đinh Thiết, Cao Sơn và rất nhiều binh lính tử trận. | |
Nguyễn Cả | Đình Bá Dương Đan Phượng - Hà Nội |
Hà Nội | Tham gia dẹp 12 sứ quân, sau từ quan về làng dạy dân trồng trọt, mở mang cơ nghiệp, ông bày ra những trò vui thanh cao, trong đó có chơi diều cùng đám trẻ mục đồng. | |
Nguyễn Đoàn | Đình Đông Phù Thanh Trì - Hà Nội |
Hà Nội | Trong trận đánh Nguyễn Siêu, Nguyễn Đoàn đã đem hơn 10 người, ban đêm ngầm lén vào trong doanh, thừa gió phóng hoả, ngọn lửa rừng rực, khói đen ngút trời. Nhờ đó quân Hoa Lư đánh thắng Tây Phù Liệt. | |
Nguyễn Đức Long, Nguyễn Đức Học |
Thần phả Nhuệ Khê Nam Định |
Nam Định | Anh em Đức Long, Đức Học cùng 30 người thuộc 5 họ: Nguyễn, Trần, Hoàng, Bùi, Mai lúc đầu theo về với Trần Lãm sau theo Đinh Bộ Lĩnh. Họ có công thu phục được sứ quân Phạm Bạch Hổ và đánh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc nên Đức Long được phong làm Hùng trấn tam kỳ giang châu tướng quân, Đức Học được phong là Nhuệ Khê mạc trung duệ tiết tướng quân.... Dân làng Nhuệ Khê đã dựng sinh từ thờ Trần Lãm và hai ông Đức Long, Đức Học. | |
Nguyễn Minh, Nhữ Hoàng Đê |
Đền Lăng Thanh Liêm - Hà Nam |
Bắc Ninh Hà Nam |
Ngọc phả Nguyễn Minh và nàng Nhữ Hoàng Đê cho biết bố mẹ Nguyễn Minh là Nguyễn Hạnh và Trần Thị Mỹ, người vùng Phật Tích - Bắc Ninh. ông Nguyễn Hạnh và bà Trần Thị Mỹ đi đến Bảo Thái, Hà Nam sinh sống, hai người xin với dân sở tại cho ở chùa Dương Quang (còn gọi là chùa Vực). Chùa Dương Quang là nơi ông ra đời, và hiện nay đó cũng là nơi thờ ông. Lớn lên, Nguyễn Minh theo thầy văn ôn võ luyện. Đến năm 20 tuổi, Nguyễn Minh chiêu mộ quân lính, chuẩn bị lương thảo, bảo vệ nhân dân và xóm làng, ngầm nuôi chí lớn. Sự gặp gỡ giữa Lê Hoàn và Nguyễn Minh là sự gặp gỡ giữa những thanh niên cùng chí hướng trong buổi loạn lạc. Kể từ đó, Lê Hoàn và Nguyễn Minh cùng nhau tập hợp trai tráng, tập luyện võ nghệ bảo vệ làng xóm, chờ thời cơ nổi dậy, họ lựa chọn trại Nhuế làm nơi đóng quân. Khi Đinh công khởi binh ở Hoa Lư, Lê Hoàn và Nguyễn Minh cũng đem quân bản bộ theo về. Khởi nghĩa thành công, Lê Hoàn được phong Thập đạo tướng quân, Nguyễn Minh là Thập đạo phó tướng quân, cùng với Lê Hoàn chăm lo về binh lực, quân sự | |
Nguyễn Phúc | Đình Khả Hưng Hà - Thái Bình |
Thanh Hóa | Gặp thời 12 sứ quân, Nguyễn Phúc đã chiêu binh, xây dựng lực lượng, sắm sửa vũ khí thành lập một căn cứ riêng ở Khả Khu, xung quanh làng đào hào đắp luỹ, lập lên bốn điếm canh giữ bốn góc làng. Từ đó Nguyễn Phúc có đủ điều kiện, uy quyền để cát cứ một vùng riêng, một giang san riêng giữa vùng đất Đằng Châu (tỉnh Thái Bình). Sau ông hàng phục Đinh Bộ Lĩnh, được phong làm quan. | |
Nguyễn Quảng Lại | Miếu Ba Thôn Thái Thụy - Thái Bình |
Hà Nội | Nguyễn Quảng Lại là người trang Thịnh Liệt, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây. Ông đã cùng các tướng tài giỏi khác phò Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mười hai sứ quân thống nhất Tĩnh hải quân và được phong giữ chức Thuỷ đạo đại tướng quân. Trong một lần cùng Đinh Tiên Hoàng truy đuổi tàn quân của Kiều Công Hãn ở Phong Châu (Bạch Hạc - Phú Thọ), khi tới sông Việt Trì, để giữ bí mật của trận đánh, Ông đã cho quân chặt cây, hạ thuỷ để vượt sông. Khi ra tới giữa dòng, trời nổi cơn dông lớn, ông đã mất tích, xác trôi về cửa Bố Hải Khẩu rồi được người dân làng chài trang Quang Lang chôn cất và thờ cúng. | |
Nguyễn Tấn | Đền An Lá Nam Trực - Nam Định |
Ninh Bình | An Lá xưa vốn là vùng đất hoang hóa, người dân ở trại Âu Hóa (nay là vùng Xích Thổ, Ninh Bình) theo Nguyễn Tấn về đây lập ấp nên cũng đặt tên là trại Âu Hóa. Năm 966, đất nước xảy ra loạn 12 sứ quân, Nguyễn Tấn đứng ra chiêu dân, luyện tập võ nghệ. Năm 967, sứ quân Kiều Công Hãn bại trận từ Phong Châu chạy qua vùng Âu Hóa thì bị Nguyễn Tấn đem quân ra đánh, chém vào cổ, bỏ chạy đến làng Din thì chết. Từ đây, Nguyễn Tấn hết lòng giúp sức cho Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. | |
Ninh Hữu Hưng | Đình La Xuyên Ý Yên - Nam Định |
Ninh Bình | Là tướng theo Vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân và tham gia xây dựng kinh đô Hoa Lư, ông mở mang vùng đất Nam Định và được tôn vinh là ông tổ nghề xây dựng ở Việt Nam | |
Phạm Bạch Hổ | Chính sử | Hưng Yên | Phạm Bạch Hổ (910 - 972) vốn là tướng nhà Ngô, trấn giữ Hải Đông (vùng Quảng Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên ngày nay). Khi nhà Ngô mất, Ông trở thành một sứ quân mạnh, được tôn xưng là Vua Mây. Sau một số lần giao tranh, ông hàng phục nhà Đinh. Hiện được nhiều nơi ở vùng châu thổ sông Hồng lập đền thờ. | |
Phạm Cả | Thần phả Nhuệ Khê Nam Định |
Nam Định | Phạm Cả, người đã tập hợp được hàng trăm người làng đến theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn, sau được phong làm Huyện doãn huyện Thiên Bản (Vụ Bản). | |
Phạm Công Đinh, Phạm Công Hoài, Phạm Công Thành |
Làng Ngâu Khê Quỳnh Phụ - Thái Bình |
Thái Bình | Nhờ sự giúp sức của ba anh em và các nho sinh do ba anh em cầm đầu, Đinh Bộ Lĩnh đánh bại quân lính của sứ quân Phòng Át. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi phong Phạm Công Thanh là Thanh Lãng Đại Vương chức Pháp sư; phong Phạm Công Hoài là Hoài Nhân Đại Vương chức Võ quan Đại Vương, phong Phạm Công Đinh là Thượng Thiên Đại Vương chức Viên quan thị bộ Thái y viện, ban cho cha là Phạm Công Hoàng là Thân vương. cũng ban cho cha là Phạm Công Hoàng là Thân vương. | |
Phạm Đông Nga | đền Mậu Hòa Hoài Đức - Hà Nội |
Hà Nội | Ông đã theo Đinh Bộ Lĩnh và trở thành tướng tài, được phong Tổng đốc đại vương. Ông có công khởi dựng làng Mậu Hòa do đó mà dân làng lập đền thờ ông tại đền Mậu Hòa nằm ven bờ đê sông Đáy, thuộc xã Minh Khai, huyện Hoài Đức - Hà Nội. | |
Phạm Hán, Phạm Phổ |
Đình Mai Động Bình Lục - Hà Nam |
Hà Nam | Hai anh em Phạm Hán và Phạm Phổ gặp lúc có loạn 12 sứ quân, bèn kết giao hào kiệt bốn phương, chiêu mộ trai tráng thiết lập đồn lũy trên đất Mai Khu và đánh nhau với sứ quân Phạm Phòng Át và Ngô Nam vài mươi trận; hai ông giữ phần thắng, thanh thế vang dậy. Sau Phạm Hán được phong An định công, Phạm Phổ được phong Thống lĩnh công, được ân lộc nghìn hộ. | |
Phạm Hạp | Chính sử | Hải Dương | Ông cùng với em trai Phạm Cự Lượng đem hơn 2000 người, ngựa từ quê đến Hoa Lư phò Đinh Bộ Lĩnh tham gia dẹp loạn 12 sứ quân. Theo thần tích đình Hướng Nghĩa, xã Minh Thuận, Vụ Bản, Nam Định thì Phạm Hạp chính là người đánh bại và chém chết sứ quân Nguyễn Khoan ở Tam Đái. Sau ông làm quan nhà Đinh. Khi Vua Đinh mất, lo sợ Lê Hoàn cướp ngôi Vua, ông cùng các quan đại thần nổi dậy chống cự và bị Lê Hoàn giết. Ông được liệt vào danh sách "Giao châu thất hùng",tức 7 anh hùng Giao Châu thời bấy giờ. | |
Phạm Thành | Miếu Lộc Thọ Hưng Hà - Thái Bình |
Thái Bình | Theo Vua Đinh đánh dẹp sứ quân Phạm Bạch Hổ. Khi mẹ Vua mất, ông cùng 3 tướng Đinh Điền, Lưu Cơ, Sát Công chiêu mộ dân chúng bảo vệ Hoàng lăng mộ địa. | |
Phạm Quảng | Đình Phương Mỹ Xã Mỹ Đồng Thủy Nguyên - Hải Phòng |
Hải Phòng | Phạm Quảng là một người thông minh, mạnh khỏe tài giỏi hơn người. Đến năm 27 tuổi nghe tin nhà vua (Đinh Tiên Hoàng) có hịch truyền đi khắp thiên hạ để kén người hiền tài, Phạm Quảng liền xin phép cha mẹ về kinh đô ứng thí. Ông làm quan dưới triều Đinh Tiên Hoàng được 11 năm thì xảy ra sự biến cố nhà Đinh mất ngôi. Ông tiếp tục tham gia chiến thắng Bạch Đằng năm 981 và làm quan dưới triều Tiền Lê | |
Phan Thị Môi Nương | Đền Kim Đằng Thành phố Hưng Yên |
Hưng Yên | Là phu nhân của tướng Đinh Điền. Bà từng cải trang trà trộn vào doanh trại địch hậu thuẫn, mở cổng thành cho Tướng quân Đinh Điền chỉ huy tiến vào phá thành. Sau Bà tuẫn tiết theo Đinh Điền. | |
Tạ Sùng Hy | Đình An Nhân Vụ Bản - Nam Định |
Ninh Bình | Ông đến An Nhân, Thành Lợi, Vụ Bản dạy học, rồi bắt đầu từ đây đi theo Đinh Bộ Lĩnh. Ông là người có công phá vòng vây của Ngô sứ quân cứu thoát Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh đã phong ông là Sùng Hy đại vương, cho nhận thực ấp ở Thiên Bản (Vụ Bản). Khi Tạ Sùng Hy mất, nhân dân trong vùng tổ chức chôn cất, và thờ ở đình An Nhân (đình thờ Tạ Sùng Hy). | |
Trần Cao Minh | Đình Mai Xá Nho Quan - Ninh Bình |
Ninh Bình | Trần Cao Minh là tướng của Đinh Bộ Lĩnh. Ông theo Vua Đinh dẹp các sứ quân. Do bại trận ông tự tuẫn tiết để bảo toàn danh dự. | |
Trần Công Hoan, Trần Công Huân, Trần Công Tiếu |
Phủ Vạn Triệu Sơn - Thanh Hóa |
Thanh Hóa | Ba vị tướng Trần Công Hoan, Trần Công Huân và Trần Công Tiếu là những người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn sứ quân của Ngô Xương Xí, lập ra nước Đại Cồ Việt. | |
Trần Công Mẫn | Đền Công Mẫn Nghĩa Hưng - Nam Định |
Hà Nội | Trần Công Mẫn, người Sơn Tây theo về với vua Đinh lại được cử xuống phủ Nghĩa Hưng để chiêu mộ được 1000 quân sĩ. Ông lấy vợ người trang Thái Duyến là bà Xuyến Nương và tập hợp được đến nghìn trai tráng quê vợ tham gia nghĩa quân. | |
Trần Công Mẫn | Đền Công Mẫn Nghĩa Hưng - Nam Định |
Hà Nội | Trần Công Mẫn, người Sơn Tây theo về với vua Đinh lại được cử xuống phủ Nghĩa Hưng để chiêu mộ được 1000 quân sĩ. Ông lấy vợ người trang Thái Duyến là bà Xuyến Nương và tập hợp được đến nghìn trai tráng quê vợ tham gia nghĩa quân. | |
Trần Doanh Nghị | Đình Cầu Chanh Ý Yên - Nam Định |
Thanh Hóa | Thượng đẳng Thần Đại vương Trung Hưng tướng Trần Doanh Nghị sinh năm 925 tại Phủ Lương Giang, Ái Châu. Khi có loạn 12 sứ quân, Ông cùng các tướng Đinh Điền, Nguyễn Khu, dương cờ khởi nghĩa, tụ về cùng Đinh Bộ Lĩnh lập nước Đại Cồ Việt. Ông được vua Đinh cử về vùng cửa biển Đại Nha, trụ sở tại làng Chanh Cầu để trấn giữ vùng cửa biển này | |
Trần Viết Dũng, Trần Thị Thuỷ, Trần Xuân Tiền |
Thần phả Nhuệ Khê Nam Định |
Nam Định | Tham gia đội quân của Đinh Bộ Lĩnh dẹp 12 sứ quân | |
Trình An Tể | Đình Băng Trai Bình Giang - Hải Dương |
Hải Dương | Theo Vua Đinh Tiên Hoàng dẹp 12 sứ quân | |
Trình Minh | Đền Trình Minh Hà Trung - Thanh Hóa |
Thanh Hóa | Trình Minh, một nhân vật lịch sử tài năng và mưu lược, người đã có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng bình định xong loạn 12 Sứ quân hồi thế kỷ X. Ông được vua Đinh Tiên Hoàng phong tước “Minh Tự Khanh”. Khi Lê Hoàn lên ngôi đã cho vời Trình Minh nhiều lần, nhưng do quan điểm Trung quân với nhà Đinh, ông đã cự tuyệt không ra làm quan với Triều Lê. | |
Trịnh Tú | Chính sử và dã sử | Ninh Bình | Là bạn Vua Đinh từ thưở nhỏ, tham gia dẹp loạn 12 sứ quân và làm quan nhà Đinh. Khi Vua Đinh mất, ông cùng các quan đại thần nổi dậy chống Lê Hoàn và bị giết. | |
Trương Ngọ, Trương Mai, Bạch Đa |
Đình Đại Vi Tiên Du - Bắc Ninh |
Ninh Bình | Trương Ngọ, Trương Mai và Bạch Đa là 3 vị tướng đều quê ở động Hoa Lư. Chàng Ngọ và Chàng Mai là hai anh em sinh đôi còn Bạch Đa là em họ, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được bố mẹ hai chàng đón về nuôi. Đến khi Đinh Bộ Lĩnh nổi lên khởi nghĩa, dẹp loạn sứ quân, ba ông bèn ra giúp, được phong chức Đô Uý. Ba ông mộ được mấy nghìn quân, đóng ở chùa trang Bối Khê, đạo Sơn Nam. Khi ba ông cầm quân đi đánh quân Ngô, bất ngờ bị tấn công đồn ở trang Đại Vi, ba ông không chống lại được đã hi sinh. Dân làng cảm phục lập miếu thờ. Đến khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi phong ba ông làm Phúc thần. Riêng Bạch Đa còn được thờ ở đình Đông Dư Hạ, Gia Lâm, Hà Nội | |
Trương Nguyên | Đình làng Gừa Thanh Liêm - Hà Nam |
Hà Nam | Tham gia đội quân của Đinh Bộ Lĩnh dẹp 12 sứ quân. Khi ông từ Hoa Lư về quê có mang theo một quả cầu, một dụng cụ để luyện tập binh sĩ bày trò chơi cho nhân dân để hôm nay hội làng Gừa có trò cướp cầu. | |
Trương Phương, Trương Tề, Trương Tụy |
Đền Khai Quốc Tiên Lãng - Hải Phòng |
Hải Phòng | Theo Thần tích Thần sắc về Đình Đền Khai Quốc Kinh Lương, sau khi vua Đinh xưng đế, có đạo thủy quân xâm lược Ma Na đã sang đánh Đại Cồ Việt. Vua Đinh, cùng với các vị tướng vùng đất Cảnh Thanh là Trương Phương, Trương Tề, Trương Tụy, với sự giúp đỡ của Thần Thiên Quan Bình Lãng (Thần Bình Biển) và Bạt hải Đại vương (Thần Biển), từ Trang Cảnh Thanh vượt sông qua An Định, đã làm lên chiến thắng Bạch Đằng vào năm 970. Sau chiến thắng, các vị tướng của vua Đinh cùng toàn bộ đạo hùng binh của mình đã hóa thần, tạo thành một quả núi lớn tại Trang Cảnh Thanh. Thương xót công thần, Vua Đinh đã phong các vị tướng của mình là Mạnh Tướng Đăng Kinh Đại Vương, Hỏa Thần Đống Duy Đại Vương, Thiên Quan Bình Lãng Đại Vương và Thần Kỳ Cửa Chùa Đại vương và dành 300 quan tiền xây dựng Đình Đền Khai Quốc, chuẩn cho muôn đời được thờ phụng, cùng hưởng phúc lành với đất nước. “Công cao hộ Quốc vạn niên trường/Đức đại an dân thiên cổ thịnh” là hai câu đối mà vua Đinh đã dành kính tặng Ngũ vị đẳng thần tại Kinh Lương, những vị thần giữ Biển Đông của đất nước. | |
Vũ Hiền, Vũ Hán, Vũ Tố, Lê Phổ, Lê Oanh, Trương Dực, Trương Nha, Đặng Hoằng, Đặng Tạo |
Miếu Cửu Tướng Quân Làng Phú Ninh, Thuận Thành - Bắc Ninh |
Bắc Ninh | Vũ Hiển, Vũ Hán, Vũ Tố, Lê Phổ, Lê Oanh, Trương Dực, Đặng Hoằng, Trương Nha, Đặng Tạo là 9 vị tướng quân người Thuận Thành - Bắc Ninh. Họ là những hào kiệt lớn lên gia nhập quân đội của sứ quân Lý Khuê ở địa phương. Sau các ông theo về động Hoa Lư với Đinh Bộ Lĩnh tham gia đánh dẹp loạn 12 sứ quân, được phong tướng quân, lại lập được nhiều công trạng. Sau Lê Hoàn chuyên quyền xúi bẩy vua, cho rằng các ông là lực lượng gián điệp khiến cả 9 vị tướng đều phải tự sát. Về sau vua Đinh biết họ bị oan, mới phong cả 9 người làm đại vương và cho dân xã quê hương thờ cúng | |
Viết Sùng Công, Viết Quách Công, Viết Thiện Công |
Miếu, đình Ngô Xá Xã Vĩnh Xá Kim Động - Hưng Yên |
Trung Hoa | Họ là 3 anh em con trai một người gốc Trung Hoa chạy loạn sang Quốc Oai, lấy vợ và làm nghề thuốc. Thời loạn 12 sứ quân ông bà chạy sang Khoái Châu ở nhờ chùa Ngô Xá tiếp tục nghề dược. Ba người con trai con trai họ là: Trưởng Viết Sùng Công, Thứ Viết Quách Công và Thứ Viết Thiện Công đều được theo học đạo sĩ. Sau ba anh chiêu tập binh sĩ được hơn ba trăm người gồm Phượng Lâu 5, An Tàô 10, An Xá 45, Vĩnh Đồng 45, Dưỡng Phú 51, Cốc Khê Tạ Xá 55, Đào Xá 36 và trang sở tại 55 người, rồi gia nhập quân đội Nguyễn Bặc đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Vua Đinh đã phong tặng Sùng Công làm Trưởng Án Nội Các, Quách Công làm Kim Thiên Môn Điện, Thiện Công làm Tây Chính Trấn Ngự Phủ Điện. Đình và miếu Ngô Xá đều thờ Tam vị Đại Vương: Đông Thiện Sùng Tín Đại Vương, Đông Chinh Thiện Môn Đại Vương và Tây Chinh Điạ Phủ Đại Vương. Lễ hội hàng năm được tổ chức vào các ngày 10/3 và 8/8 âm lịch. | |
Vô danh 1: Minh Quốc Đại Vương Đương Xã Đại Vương Đại Thần Đại Vương Uy Linh Đại Vương |
Miếu Bắc Đông Hưng - Thái Bình |
Thái Bình | Miếu Bắc hiện đang thờ phụng 4 vị Đại Vương triều nhà Đinh đó là: Thượng Đẳng Linh Ứng Thông Trấn Khâm Triết Minh Quốc Đại Vương; Tam Kì Đại La Đương Xã Đại Vương; Phong La Đại Mộc Thần Quan Đại Thần Đại Vương và Đinh Thần Thần Vũ Hiển Ứng Uy Linh Đại Vương. Đây là 4 anh em ruột cùng sinh vào ngày 12 tháng 3 năm 946. Cả 4 anh em đều là người tài giỏi, có trí lớn, không có vợ, con và đều là Đại tướng Quân cai quản 1000 chiếc thuyền, binh tướng là thủy quân. Khi vua Đinh Tiên Hoàng đang thống lĩnh 15 vạn quân và hơn 3000 cỗ ngựa đang tác chiến với quân Tàu và các Sứ quân gồm trên 30 trận. Các ông đã cùng các tướng lĩnh đánh bại các sứ quân, tướng Hồ Công, Ngô Dương Sĩ, Đỗ Siêu, Lai Đốc bị chém và hơn 3 vạn quân bị giết lấp đầy sông Nhị Hà. Sau này các ông đều làm quan dưới 2 triều Đinh - Lê. | |
Vô danh 2: Giàn Sơn Linh Ứng Giang Khẩu Linh Thính |
Đình Bồ Lý Tam Đảo - Vĩnh Phúc |
Vĩnh Phúc | Di tích đình Bồ Lý thờ phụng hai vị thành hoàng làng là Giàn Sơn Linh Ứng tôn thần và Giang Khẩu Hộ Sát Linh Thính tôn thần. Hai vị thần này xưa kia đã có công giúp vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân, bảo vệ chủ quyền, thống nhất đất nước. | |
Vô danh 3: Tam vị thành hoàng |
Đình Thượng, Nhì, Ba, Quán Lục sĩ Ứng Hòa - Hà Nội |
Hà Nội | Ở thôn Vân Đình có đình Thượng, đình Nhì, đình Ba thờ ba anh em ruột người trang Vân Đình đã mộ binh theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 xứ quân. Quán Lục Sĩ ở Thanh Ấm thờ thần Minh Phúc – Trương Ma Ni một tướng của Đinh Bộ Lĩnh có công với nước. Vùng đất Vân Đình là tụ điểm dân cư đông đúc vào thời nhà Đinh, nhân dân Vân Đình đã ủng hộ nghĩa quân Đinh Bộ Lĩnh xóa bỏ tình trạng cát cứ của 12 xứ quân. Góp phần dựng nên quốc gia Đại Cồ Việt vào thế kỷ thứ X, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng của dân tộc Việt Nam. | |
Vô danh 4: 6 vị thần Hoàng |
Đình Tu Trình Thái Thụy - Thái Bình |
Thái Bình | Đình làng Tu Trình được xây dựng từ thế kỷ X, đình gần bến sông Mát, có tên là Đình Bến, thuộc xã Thụy Hồng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Đình Tu Trình thờ 6 vị thần Hoàng có công giữ nước cứu dân, có đủ các sắc phong mà hiện tại có hồ sơ lưu giữ tại Đình Tu Trình. Lịch sử đã ghi 6 vị tướng quân từ thời nhà Đinh, từng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, khi mất được nhân dân lập đền thờ, 6 vị đã phù Lê Hoàn dẹp Tống bình Chiêm, được vua Lê truy phong "Lịch triều Đô thống đại tướng lục vị đại vương phúc tôn thần" thế kỷ X. | |
Vô danh 5: Lang Công Đại Vương Chiêu Công Đại Vương |
Đền Du Tràng xã Giang Sơn Gia Bình -Bắc Ninh |
Bắc Ninh | Đền Du Tràng thờ hai vị tướng vốn là người Du Tràng nhưng không thuần phục sứ quân Lý Khuê, sau họ đem theo quân lính về Hoa Lư gia nhập lực lượng Đinh Bộ Lĩnh và có công dẹp loạn 12 sứ quân, lập ra triều đại nhà Đinh. Do đền Hát Giang xưa kia ở gần đó bị hư hỏng nặng, nhân dân đã dồn vật liệu về đền Du Tràng dựng toà tiền tế và đưa hai vị nữ tướng thời Hai Bà Trưng vào thờ chung tại đây cùng với hai vị Lang Công Đại Vương và Chiêu Công Đại Vương thời Đinh. Di tích đền Du Tràng đã được công nhận là di tích lịch sử văn hoá, Quyết định số 1598/CT, ngày 30 tháng 11 năm 1996. | |
Vô danh 6: Lục vị Đại Vương |
Di tích Quang lãng Phú Xuyên -Hà Nội |
Hà Nội | Quần thể di tích Quang Lãng thờ Lục vị Đại Vương có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân |
Thống kê
- Trong danh sách thống kê có 157 vị tướng thời Đinh trong đó quê hương các tướng phân bố như sau: Ninh Bình 27 tướng, Hà Nội 26 tướng, Thanh Hóa 17 tướng, Nam Định 16 tướng, Thái Bình 15 tướng, Bắc Ninh 13 tướng, Hà Nam 13 tướng, Hải Dương 9 tướng, Hưng Yên 7 tướng, Hải Phòng 7 tướng, Vĩnh Phúc 2 tướng, Nghệ An 2 tướng, Phú Thọ 1 tướng, Trung Hoa 3 tướng.
- Trong danh sách thống kê có 157 vị tướng thời Đinh: thì các nơi thờ hoặc phát tích tướng ứng với các trung tâm quân sự gồm 80 nơi trong đó Hà Nội: 18 nơi,Nam Định 15 nơi, Ninh Bình 9 nơi, Thái Bình 9 nơi, Hải Dương 7 nơi, Hà Nam 7 nơi, Hưng Yên 6 nơi, Hải Phòng 6 nơi, Thanh Hóa 3 nơi, Bắc Ninh 4 nơi, Vĩnh Phúc 1 nơi, Nghệ An 1 nơi.
- Nhiều vị tướng là thổ hào địa phương, thực chất họ cũng từng là các sứ quân như: Nguyễn Tấn, Phạm Đông Nga, Phạm Hán, Phạm Phổ, Phạm Hạp, Phạm Cự Lượng, Nguyễn Phúc Thời, Lê Lương, Lê Chương, Lê Du, Đinh Nga, Đào Ngọc Sâm, Cao Điền Công, Cao Đỗ Công, Bạch Tượng, Bạch Địa, Lưu Quyền, Phạm Quảng.
- Các vị thủ lĩnh trong danh sách 12 sứ quân được nhắc đến nhiều bởi các trận giao tranh với tướng nhà Đinh là: Đỗ Cảnh Thạc: 8 sự kiện và Phạm Bạch Hổ: 6 sự kiện.
- Các tướng nhà Đinh trực tiếp tiêu diệt các tướng trong 12 sứ quân gồm: Phạm Hạp chém Nguyễn Khoan, Chu Công Mẫn chém đầu Lã Đường, Lưu Cơ chém chết Lý Khuê, Nguyễn Tấn chém chết Kiều Công Hãn, Lê Hoàn chém chết Kiều Thuận, Nguyễn Bặc tiêu diệt Nguyễn Siêu.
- 11 vị tướng nhà Đinh sau tiếp tục làm quan nhà Tiền Lê là: Đào Ngọc Sâm, Đào Tế, Đào Lai, Đào Độ, Lưu Cơ, Lưu Ngữ, Ninh Hữu Hưng và 4 vị Đại Vương triều nhà Đinh được thờ ở miếu Bắc (Thái Bình)
- 12 vị tướng là các đại thần tận trung với nhà Đinh, phản đổi việc Lê Hoàn đoạt ngôi nhà Đinh là: Đinh Điền, Đinh Sài Bơi, Đỗ Quang, Đỗ Huy, Lý Phả, Lý Hoằng, Lý Quảng, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, Trình Minh, Trịnh Tú, Lưu Lang.
Đền thờ
Tỉnh Ninh Bình, quê hương nhà Đinh có rất nhiều các di tích thờ tướng lĩnh nhà Đinh, đặc biệt là các vị Đinh Điền và Nguyễn Bặc. Các di tích tập trung nhiều ở vùng Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư và đặc biệt là trong phạm vi cố đô Hoa Lư - Quần thể di sản thế giới Tràng AnNhân dân vùng Kỳ Bố Hải Khẩu nói riêng và tỉnh Thái Bình nói chung đã có công lao rất lớn để tạo tiền đề cho sự nghiệp thống nhất đất nước của Đinh Tiên Hoàng. Những nơi thờ tự phản ánh về thời kỳ này có: Từ đường thờ Bùi Quang Dũng (xã Tân Bình, huyện Vũ Thư) - một vị tướng có công khai quốc thời kỳ Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân; đình Trần Lãm (phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình) lưu niệm sự kiện của sứ quân Trần Lãm; miếu Ba Thôn, chùa Hưng Quốc, đình Tu Trình (huyện Thái Thụy) và miếu Bắc (Đông Sơn, Đông Hưng) thờ các tướng lĩnh giúp Đinh Bộ Lĩnh trong sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân; đình Khả (Duyên Hải, Hưng Hà) lưu niệm tướng quân của nhà Đinh là Nguyễn Phúc Thời.
Ở Hải Dương có rất nhiều đền, miếu, đình, chùa liên quan đến triều đại nhà Đinh, thờ các tướng lĩnh và quan trung thần của Đinh Tiên Hoàng như: ở huyện Bình Giang có đình Bình An, xã Tân Việt thờ Hùng Lĩnh Tráng Trần; đình Chanh Trong, xã Thúc Kháng thờ Khanh Công; đình Băng Trai, xã Vĩnh Hồng thờ Trình An Tể; đình Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng thờ trung thần Đinh Điền. Ở Thanh Miện có đình Đỗ Hạ, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng; đền Từ Ô, xã Tân Trào; đình Đỗ Thượng, xã Phạm Kha thờ Lý Trí Thắng; đình Bằng Bộ, xã Cao Thắng thờ thành hoàng làng Cao Minh, hiệu là Viên Thông chiêu cảm. Ở Thanh Hà có chùa Liên Minh và đình Thiệu Mỹ, xã Vĩnh Lập thờ Đặng Danh Trí, Trịnh Thị Khang, Đặng Công Trân; miếu Thánh Cả, xã Thanh Bình thờ Đặng Châm, Trịnh Thị Khang, Đặng Trí; đền Từ Hạ hay đền Thánh Cả, thuộc thôn Phúc Giới, xã Thanh Bính thờ cha con tướng quân Đặng Chân, Đặng Trí; đình thôn Kỳ Tây thờ Hoàng Uy Công, Hoàng Trung Công, Hoàng Chí Công là ba anh em ruột có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Ngoài ra còn có đình Kim Đôi, xã Cẩm Hoàng (Cẩm Giàng) thờ vua Đinh Tiên Hoàng; huyện Gia Lộc có đình Đông Quan, xã Tân Hưng. Miếu An Cư Lộc làng Hậu Bổng, xã Quang Minh thờ Lê Viết Bao, miếu Rồng xã Nhật Tân thờ Đào Ngọc Sâm ; miếu Phú Nội, xã Bình Dân (Kim Thành) thờ tướng giúp vua Đinh; đình Ngọc Uyên, phường Ngọc Châu (thành phố Hải Dương) thờ Lê Viết Hưng, Lê Viết Quang; đình Thụy Trà, chùa Thụy Trà, miếu Thụy Trà xã Thượng Đạt (Nam Sách) thờ danh tướng Phạm Công Hòa; đình Dậu Trì, xã Hồng Thái (Ninh Giang) thờ Trần Minh Công.
Nam Định có những đền thờ tiêu biểu sau: đình Xám: thôn Lạc Đạo, xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, thờ Trần Minh Công tức Trần Lãm. Đình Thượng Đồng: xã Yên Tiến, huyện Ý Yên. Đình thờ Đinh Tiên Hoàng làm thành hoàng. Đền Vua Đinh (Yên Thắng), Ý Yên thờ vua Đinh Tiên Hoàng, đền Gin: thôn Chiền, xã Nam Dương, huyện Nam Trực, một trong 12 sứ quân; đền An Lá: xã Nghĩa An, huyện Nam Trực thờ Nguyễn Tấn, một vị tướng của nhà Đinh (thế kỷ thứ X); đền Hưng Lộc: xã Nghĩa Thịnh, huyện Nghĩa Hưng, thờ Phạm Cự Lượng tướng thời Đinh. Đình Cát Đằng xã Yên Tiến huyện Ý Yên thờ 2 anh em Đinh Đức Đạt và Đinh Đức Thông.
Hưng Yên có đền Mây thờ sứ quân Phạm Bạch Hổ. Đình Phù Liệt, xã Thắng Lợi, huyện Văn Giang thờ ngũ vị đại vương âm phù Đinh Bộ Lĩnh thắng trận. Đền Kim Đằng ở thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên thờ Đinh Điền. Đình Thắm thị trấn Văn Giang thờ tướng Chu Công Mẫn. Đình Phương Cái, phường Hồng Châu thờ tướng Phan Cương. Đình Nội Lễ xã An Viên, Tiên Lữ thờ tướng Trần Ứng Long có công sáng tạo loại thuyền nan đánh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc,...
Hà Nam có đình Mai Động, xã Trung Lương, Bình Lục thờ 2 anh em Phạm Phổ, Phạm Hán. Hội làng Gừa, xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm tôn vinh Trương Nguyên là người làng Gừa, sau khi theo vua Đinh dẹp loạn 12 sứ quân.
Vĩnh Phúc có đình Bồ Lý, xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo thờ 2 vị thành hoàng làng: Giang Khẩu Hộ Sát Linh Thính và Giản Sơn Linh Ứng giúp vua Đinh dẹp loạn.
Hà Nội có đình Mậu Hòa, xã Minh Khai, Hoài Đức là nơi thờ Tướng quân Phạm Đông Nga đã có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Hội thả diều làng Bá Giang ở xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Nội tôn vinh Nguyễn Cả giúp vua Đinh dẹp loạn. Đình Ba Dân ở Tứ Hiệp, Thanh Trì thờ 2 tướng Nguyễn Bồ, Nguyễn Phục. Làng Động Phí thuộc xã Phương Tú, huyện Ứng Hoà có đền thờ 2 anh em Bạch Tượng, Bạch Địa. Đình Thanh Ấm ở thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa thờ Thành hoàng làng là Minh Phúc Đại vương có công lớn giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân. Cũng tại Vân Đình có đình Thượng, đình Nhì, đình Ba thờ ba anh em ruột người trang Vân Đình đã mộ binh theo Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân Đền Không Thần ở làng Ngoại Hoàng, xã Lưu Hoàng, huyện Ứng Hoà, Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội), thờ Không Thần Đại Vương tên húy Cao Quang Vương, một tướng giỏi có công dẹp loạn 12 sứ quân. Đình So, xã Cộng Hòa, Quốc Oai thờ Vương mẫu có 3 con theo vua dẹp loạn. Đình Đông Dư Thượng và Hạ thuộc xã Đông Dư, Gia Lâm đều thờ Bạch Đa đại vương - người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Đình Mạnh Tân xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh thờ́ tướng Đương Giang. Đình Phú Thị, Gia Lâm thờ Đào Liên Hoa có công dẹp loạn ở châu Vũ Ninh. Đình Kim Sơn xã Kim Sơn, Gia Lâm thờ Cao Điền Công và Cao Đỗ Công. Đình Phù Sa ở phường Viên Sơn, Sơn Tây thờ công chúa Phù Dung (con vua Đinh Tiên Hoàng) và phò mã Quán Sơn có công đánh dẹp, sau đó về Phù Sa chiêu binh lập ấp, dạy dân làng trồng dâu, nuôi tằm và được làm Thành hoàng. Đình làng Tiến Ân ở xã Thủy Xuân Tiên, Chương Mỹ thờ anh em họ Đặng Đống Thính và Đặng Chiêu Pháp giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp sứ quân Đỗ Cảnh Thạc.
Hải Phòng có đình Văn Cú ở xã An Đồng, huyện An Dương thờ hai vị thành hoàng là Đỗ Quang và Đỗ Huy có công dẹp loạn. Đình Trại Kênh, xã Kênh Giang, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng cũng thờ các vị tướng theo giúp vua Đinh dẹp 12 sứ quân.
Bắc Ninh có đình Đông Cốc, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành thờ Linh Thông đại vương. Đình Đại Vi ở làng Đại Vi xã Đại Đồng, huyện Tiên Du thờ ba vị thần là Chàng Ngọ, Chàng Mai và Bạch Đa. Ba ông quê ở động Hoa Lư, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn các sứ quân. Miếu Cửu Tướng Quân ở Thuận Thành thờ 9 vị trung thần thời Đinh. Đền Du Tràng ở xã Giang Sơn, Gia Bình thờ Lang Công và Chiêu Công là tướng nhà Đinh.
Thanh Hóa có di tích Phủ Vạn (xã Tiến Nông, Triệu Sơn) thờ ba vị tướng Trần Công Hoan, Trần Công Huân và Trần Công Tiếu, là những người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn sứ quân của Ngô Xương Xí. Đền thờ Trình Minh thuộc thôn Ngọc Xuyết, xã Hà Châu, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa thờ người khởi tổ của dòng họ Trình ở làng Xuyết Khu xưa và là người có công lập nên làng Ngọc Xuyết và giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn
Nghệ An có đền thờ Hồ Hưng Dật ở xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu thờ người giúp vua Đinh dẹp loạn. Ở xã Hưng Long, Hưng Nguyên có đền Xuân Hòa thờ thần Cao Các. Theo Ngọc phả, Đại vương là vị tướng mưu lược, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, đánh đuổi quân Chiêm Thành. Sau khi ông mất, nhà Đinh thương tiếc cho lập đền thờ. Các triều vua về sau đã phong sắc cho ông là "Thượng thượng đẳng tối linh Tôn Thần."
|
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 22:47 ngày 16 tháng 3 năm 2016.
Đinh Điền
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đinh Điền (chữ Hán: 丁佃; 924-979) quê ở làng Đại Hữu, nay là xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình, là một trong số những công thần khai quốc Đại Cồ Việt và là người tận trung với nhà Đinh. Ông được sử sách Trung Hoa liệt vào danh sách "Giao Châu thất hùng", tức 7 anh hùng người Giao Châu gồm: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp và Phạm Cự Lượng.
Thân thế
Sử sách viết ông là bạn đồng hương với Đinh Bộ Lĩnh, tức xã Gia Phương, Gia Viễn. Theo thần phả đền thờ Đinh Điền ở Yên Mô, Ninh Bình và theo cuốn "Những nhân vật lịch sử thời Đinh Lê" thì cha ông là Đinh Thân, mẹ là Dương Thị Liễu. Quê mẹ ở Yên Bạc, nay là xã Yên Phú, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Khi mới sinh Đinh Điền có tên gọi là Đinh Trào. Điền là tên chữ của ông và quen được gọi bằng tên này.Ông với Đinh Bộ Lĩnh cùng tuổi (s. năm Giáp Thân, 924) và là người cùng làng Đại Hữu. Khi còn là trẻ nhỏ, đi chăn trâu ở Thung Lau (động Hoa Lư, Gia Viễn), Đinh Điền đã cùng lũ trẻ lấy hoa lau làm cờ, khoanh tay làm kiệu, suy tôn và rước Đinh Bộ Lĩnh làm chúa.
Dẹp loạn sứ quân
Lớn lên, Đinh Điền cùng Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú theo phò Đinh Bộ Lĩnh trấn giữ động Hoa Lư chống lại nhà Ngô, trong đó ông cùng Nguyễn Bặc làm tướng võ, còn Lưu Cơ và Trịnh Tú làm tướng văn.Năm 965, nhà Ngô mất. Ông cùng các chiến hữu giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn 12 sứ quân trong 3 năm, thống nhất giang sơn về một mối.
Theo sử sách, Đinh Điền được vua Đinh cử giữ chức Ngoại giáp, nghĩa là coi việc bên ngoài, theo thần phả thì ông giữ chức Nhập nội kiểm giáo Đại Tư đồ, Bình chương trọng sự.
Sống chết với nhà Đinh
Năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị sát hại, triều đình tôn người con còn lại của Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi kế vị. Lê Hoàn làm Nhiếp chính đại thần, thường ra vào cung cấm tư thông với thái hậu Dương thị làm mẹ của ấu chúa. Sau đó, Lê Hoàn lại tự xưng là Phó Vương, mọi việc trọng sự đều do tay Lê Hoàn sắp đặt.Đinh Điền cho rằng Lê Hoàn có ý đồ thoát đoạt. Ông bàn với Nguyễn Bặc và Phạm Hạp cùng một số trung thần khác, bỏ quan về ở ẩn để mưu tính đại sự. Ông tập kết các anh hào, tướng sĩ trung thành với nhà Đinh để chuẩn bị đánh Lê Hoàn.
Đinh Điền hợp quân với Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, đem hai đạo quân thuỷ bộ từ Ái Châu (Thanh Hoá) tiến về kinh thành Hoa Lư mưu giết Lê Hoàn, thu giang sơn lại cho nhà Đinh. Nhưng Lê Hoàn lợi dụng gió đông nam thổi mạnh, đánh một trận hoả công, đốt sạch thuyền bè, quân sĩ của Đinh Điền, Nguyễn Bặc. Đạo thuỷ quân tan rã, Đinh Điền bị tử trận.
Sau đó không lâu, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp cũng bị Lê Hoàn đánh bại, bị bắt và bị xử tử.
Về thời gian diễn ra trận chiến và cái chết của Đinh Điền, các nguồn tài liệu ghi khác nhau. Sử sách thống nhất ghi việc này diễn ra vào cuối năm 979. Theo thần phả ở Ninh Bình, việc này diễn ra ngày 20 tháng 4 năm Canh Thìn (tức 5 tháng 6 năm 980). Một số thần phả khác, được Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam[3] dẫn lại, cho rằng ông cùng vợ là Phan Môi Nương bị thua trận, quân tan nát hết nên cùng nhau tự vẫn ngày 20 tháng 11 năm Kỷ Mão (tức 12 tháng 12 năm 979) chứ không phải ông bị tử trận.
Nhân dân vô cùng thương xót, coi ông là bậc trung thần, vì nghĩa cả quên mình nên đã thu nhặt hài cốt ông đem về chùa Trúc Lâm, nơi ông tu hành trước để an táng. Ngày nay ở rất nhiều nơi đặc biệt tại Gia Viễn, Hoa Lư có đền thờ ông và Nguyễn Bặc.
Đền thờ, tên đường
Đinh Điền, Nguyễn Bặc được nhân dân nhiều nơi kính trọng tôn thờ. Văn bản Sự tích Đinh Điền làng Động Xá xã Liêm Cần có những câu viết về ông:- Anh linh phổ chấn cửu lai.
- Ninh Bình tám xã, xứ Đoài mấy hương.
- Xã Tuấn Kiệt, tỉnh Hải Dương.
- Cùng làng Đông Xá quý hương đất nhà.
- Lập đền phụng sự nguy nga…
Đinh Điền được phong làm thành hoàng của nhiều làng ở miền Bắc, đền thờ ông có nhiều ở Ninh Bình và Hưng Yên, tiêu biểu như:
- Đền Kim Đằng ở phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, là nơi Đinh Điền đã đóng quân.
- Đền Đinh Điền ở thị trấn huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên
- Đền thờ Đinh Điền ở xã Khánh Thịnh huyện Yên Mô tỉnh Ninh Bình.
- Đền Tứ trụ ở quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình phối thờ ông cùng Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ
- Đình Tình Quang ở xã Giang Biên, Gia Lâm, Hà Nội thờ Đinh Điền cùng 2 vị thần khác.
- Mộ và đền thờ tại Trúc Lâm (Yên Tử, Quảng Ninh), nơi đây là quê mẹ của ông và cũng là nơi ông tu hành.
- Cố đô Hoa Lư và đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở quê hương Gia Phương (Gia Viễn, Ninh Bình) phối thờ ông cùng Vua Đinh Tiên Hoàng.
- Đình Động Xá, huyện Thanh Liêm, Hà Nam.
- Đình Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng, Bình Giang Hải Dương.
- Đi h Tuâ Kiênt, xa Hu ng Thă g, Binnh Giang, Ha Dươngi
- Miếu Hạ, xã Khánh An, huyện Yên Khánh, Ninh Bình.
- Phố Đinh Điền, thị xã Hưng Yên.
- Đường Đinh Điền ở thành phố Tam Điệp và thành phố Ninh Bình.
- Đường Đinh Điền, thành phố Thái Bình
- Đường Đinh Điền, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
- Quảng trường - tượng đài Đinh Tiên Hoàng đế tại trung tâm thành phố Ninh Bình với 4 góc có tượng 4 vị quan đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ cao 5m, có lính canh và ngựa bằng đá
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 15:47 ngày 22 tháng 1 năm 2016.
Đinh Liễn
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đinh Liễn | |
---|---|
Thái tử Việt Nam (chi tiết...) | |
Tượng Đinh Liễn ở đền Vua Đinh Tiên Hoàng-Hoa Lư
|
|
Nam Việt Vương | |
Tại vị | 968-979 |
Thái tử nhà Đinh | |
Tại vị | 979 |
Tiền nhiệm | Đinh Hạng Lang |
Thông tin chung | |
Thụy hiệu | Nam Việt Vương |
Thân phụ | Đinh Tiên Hoàng |
Mất | 979 Hoa Lư |
Tiểu sử
Đinh Bộ Lĩnh có ba người con trai: Đinh Liễn, Ðinh Hạng Lang và Đinh Toàn. Đinh Liễn hay Đinh Khuông Liễn là con trai cả của vua Đinh và là người con trai duy nhất sinh ra, trưởng thành trước khi vua Đinh lên ngôi.Đinh Bộ Lĩnh khi lên ngôi lập 5 hoàng hậu nhưng sử không ghi rõ Đinh Liễn là con bà hoàng hậu nào. Chỉ chắc chắn rằng ông không phải là con bà Dương hậu, người sinh ra Đinh Toàn và cũng không phải là con của bà hoàng hậu là mẹ của Ngô Nhật Khánh. Cũng có khả năng mẹ của Đinh Liễn đã mất trước khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế năm 968. Và đó cũng có thể là một lý do mà Vua Đinh Tiên Hoàng không lập ông làm thái tử.
Cuộc đời và sự nghiệp
Gian nan thời loạn
Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh cát cứ ở Hoa Lư không chịu thần phục nhà Ngô lúc đó do hai anh em Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn cùng trị vì. Bộ Lĩnh sai Đinh Liễn vào Cổ Loa làm con tin . Đinh Liễn đến, hai vua Ngô trách tội Bộ Lĩnh không đến chầu, rồi bắt giữ Liễn, đem theo đi đánh Hoa Lư. Hơn một tháng, quân Ngô không đánh nổi, hai vua Ngô bèn treo Liễn lên ngọn sào, sai người bảo Bộ Lĩnh, nếu không chịu hàng thì giết Liễn. Bộ Lĩnh tức giận nói:- "Đại trượng phu chỉ mong lập được công danh, há lại bắt chước thói đàn bà xót con hay sao?"
- "Ta treo con nó lên là muốn để nó đoái tiếc con mà ra hàng cho chóng. Nó tàn nhẫn như thế, còn treo con nó làm gì?"
Căn cứ vào năm sinh của Đinh Bộ Lĩnh (924) và sự kiện trên, có thể ước đoán Đinh Liễn sinh khoảng sau năm 940.
Từ năm 951 tới năm 965, Đinh Liễn làm con tin ở Cổ Loa. Năm 954, Xương Ngập chết. Năm 965, Nam Tấn vương Xương Văn tử trận, triều đình Cổ Loa rối ren chia bè phái, Đinh Liễn trở về Hoa Lư
Trong nước đại loạn, 12 sứ quân nổi dậy chiếm giữ các nơi tự xưng danh hiệu, không có ai làm chủ. Lúc đó Đinh Bộ Lĩnh đã liên hợp với sứ quân Trần Lãm, thanh thế rất mạnh. Theo lệnh cha, Đinh Liễn vào Ái châu để mộ quân lo việc đánh dẹp và ông mộ được 3000 tráng sĩ, trong đó có Lê Hoàn.
Từ đó Đinh Liễn cùng cha ra tay đánh dẹp, chiêu hàng các sứ quân. Trong 3 năm, cha con Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Để thu phục sứ quân Ngô Nhật Khánh, Bộ Lĩnh đã đem gả con gái ông là công chúa Phất Kim cho Khánh.
Trong sách Thập quốc thế gia có viết rằng:
- Ngô Xương Văn mất ở Giao Châu, tướng tá của ông là Lã Xử Bình và Thứ sử Phong Châu là Kiều Trí Hựu tranh nhau lên thay. Giao Chỉ đại loạn, Đinh Liễn ở Giao Châu đánh tan hai người ấy, Theo như sách chép thì lúc đó Nam Tấn mới mất, trong nước rối ren, Đinh Liễn có công dẹp loạn, lại được phong tước, chứ chẳng như những con tin tầm thường nhân lúc loạn lạc mà trốn về". Không chỉ đánh bại hai lực lượng này, Đinh Liễn còn tham gia các trận bình định nhiều sứ quân khác, công lao lập được rất nhiều vì thế sau khi lên ngôi vua, Đinh Bộ Lĩnh đã phong cho con làm Nam Việt vương.
Nam Việt vương
Năm 972, Đinh Liễn phụng mệnh cha đi sứ nhà Tống . Năm sau ông trở về. Nhà Tống sai sứ sang phong cho vua Đinh làm Giao Chỉ quận vương và phong Đinh Liễn làm Kiểm hiệu thái sư, Tĩnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ
Năm 975, nhà Tống sai Cao Bảo Tự cùng Vương Ngạn Phù đem chế sách sang gia phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Khai phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương (Tống sử, quyển 488 thì chép việc phong này là cho Đinh Bộ Lĩnh ). Từ đó về sau, trong việc sai sứ sang nhà Tống, vua Đinh đều lấy Liễn làm chủ.
Tranh ngôi thái tử
Năm 978, Đinh Bộ Lĩnh lúc đó đã có thêm 2 người con trai bé là Đinh Hạng Lang và Đinh Toàn. Vua yêu con thứ nên lập Hạng Lang làm Thái tử. Một số nhà nghiên cứu hiện nay như Ông Nguyễn Văn Son, Hội viên Hội Di sản văn hóa Việt Nam, người ở Cố đô Hoa Lư cho rằng Đinh Liễn không được lập làm thái tử do Vua Đinh nhận thấy con trai đã được nhà Tống thừa nhậnĐầu năm 979, Đinh Liễn quá giận dữ nên đã sai người ngầm giết Hạng Lang . Sau đó, để làm nguôi lòng cha mẹ, ông đã sai dựng những cột kinh khắc bài Phật-đỉnh Tôn-thắng Đà-la-ni để cầu siêu cho người em. Phần lạc khoản trên các cột kinh là lời sám hối của ông, có mấy đoạn sau:
“ | Đệ tử là Suy thành Thuận Hóa, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đặc tiến Kiểm hiệu Thái sư, thực ấp một vạn hộ, Nam Việt vương Đinh Khuông Liễn, vì vong đệ là Đại đức Đính Noa Tăng Noa không làm điều trung hiếu, không thờ anh và cha, lại có lòng ác, trái với sự yêu thương và khoan dung, anh không thể bỏ qua, nên đã làm tổn hại đến tính mệnh của Đại đức Đính Noa Tăng Noa, để trọn vẹn tình nhà nghĩa nước. Lời người xưa rằng, đã tranh quan thì không nhường, ra tay trước mới là hay, đến nỗi ra tình hình như vậy. Nay nguyện làm 100 cột kinh để cúng cho vong đệ và những hồn ma của người chết trước đây và sau này, cầu cho tất cả giải thoát, không phải tranh giành kiện tụng. Trước hết là chúc cho Đại Thắng Minh hoàng đế, mãi mãi làm chủ trời Nam, giữ yên ngôi báu (Đệ tử Suy thành Thuận Hóa, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, đặc tiến Kiểm hiệu Thái sư, thực ấp nhất vạn hộ, Nam Việt vương Đinh Khuông Liễn, sở vi vong đệ Đại đức Đính Noa Tăng Noa bất vi trung hiếu phục sự thượng phụ cập trưởng huynh, khước hành ác tâm, vi bội nhược ái khoan dung, huynh hư trước tạo thứ sở dĩ tổn hại Đại đức Đính Noa Tăng Noa tính mệnh, yếu thành gia quốc vĩnh bá môn phong. Cổ ngôn tranh quan bất nhượng vị, tiên hạ thủ vi lương, trí dĩ như tư. Kim nguyện tạo bảo tràng nhất bách tọa, tiến bạt vong đệ cập tiên vong hậu một nhất hạ thoát, miễn cánh chấp tụng. Tiên chúc Đại Thắng Minh hoàng đế, vĩnh bá thiên Nam, hằng an bảo vị). | ” |
— Cột 3A
|
Cái chết của Nam Việt vương
Cuối năm 979, cả vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị sát hại trong cung Lúc đó ông khoảng gần 40 tuổi. Người con trai còn lại của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn được đưa lên ngôi, tức là Đinh Phế Đế.Theo sử sách, người sát hại cha con Đinh Liễn là nội nhân Đỗ Thích[2], nhưng một số nhà nghiên cứu gần đây đặt giả thiết vụ này chủ mưu là Lê Hoàn và hoàng hậu Dương Vân Nga. Động cơ và hoàn cảnh của vụ án này thực chất là ngôi thái tử và gần giống với Vụ án Lệ Chi Viên sau này. (Xem thêm bài về Đinh Tiên Hoàng).
Sử sách không ghi chép về gia quyến Đinh Liễn, chỉ biết ông có một người vợ là em gái sứ quân Ngô Nhật Khánh. Theo gia phả họ Đinh Danh ở Thái Bình, sau khi Đinh Toàn lên ngôi, Lê Hoàn làm phó vương đã "cấm cố họ Đinh", vì vậy gia đình Đinh Liễn đã phải chạy đi nơi khác và thế hệ sau của họ này chính là Đinh Lễ, Đinh Liệt - các công thần khai quốc nhà Hậu Lê.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỉ quyển 1 chép:
- Mùa xuân [năm Kỷ Mão, 979], Nam Việt Vương [Đinh Liễn] giết chết Hoàng Thái Tử Hạng Lang. Đinh Liễn là con trưởng của Nhà vua, thuở hàn vi từng chịu đựng gian khổ, khi thiên hạ được thái bình, ý vua cũng muốn truyền ngôi cho, bèn phong làm Nam Việt Vương. Đinh Liễn lại cũng từng chịu mệnh và nhận tước vị của nhà Tống ban cho. Nhưng về sau, vua sinh được người con trai nhỏ là Hạng Lang, rất mực yêu quý, bèn lập Hạng Lang làm Thái Tử. Đinh Liễn bất bình, liền sai người lập mưu giết đi
Có ý kiến cho rằng xưa kia (năm 951), khi Đinh Bộ Lĩnh sai người nhằm Đinh Liễn (đang bị hai vua Ngô treo trên sào) mà bắn tức là trong lòng vua Đinh đã không có Liễn rồi. Tuy nhiên suy diễn như vậy có phần phiến diện. Trong hoàn cảnh bức bách này, vua Đinh buộc phải làm cách đó vì đại sự và không phải vua Đinh không yêu Đinh Liễn. Giống như trường hợp Lưu Bang, khi thấy Hạng Vũ đặt cha mình lên thớt, Bang thương cha nhưng vẫn buộc lòng phải nói: "Cha ta cũng như cha ngươi, nếu ngươi nấu cha ta thì cho ta xin bát nước luộc với!" Có nói như vậy Hạng Vũ mới "nản lòng" không giết cha Lưu Bang nữa. Việc Đinh Liễn giết Hạng Lang là nhẫn tâm, nhưng Tiên Hoàng không trừng phạt ông cho thấy vua Đinh vẫn có ý để ông là người nối nghiệp. Tiên Hoàng đã nhận ra sai lầm lần đầu khi lập con nhỏ, bỏ con lớn và nhà vua đã đủ sáng suốt khi không giết nốt con lớn, chỗ dựa lớn nhất của ông trong việc duy trì sự nghiệp nhà Đinh.
Đinh Liễn cùng Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang được thờ ở Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, thuộc quần thể di tích cố đô Hoa Lư, huyện Hoa Lư, Ninh Bình.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 04:24 ngày 23 tháng 3 năm 2016.
Ngô Nhật Khánh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thân thế
Ngô Nhật Khánh người Đường Lâm, Hà Nội. Theo các sách sử cũ như Đại việt sử ký toàn thư, Ngô Nhật Khánh là người bà con cùng họ với Ngô Quyền. Điều này phù hợp hơn với giả thuyết là con Ngô Xương Văn vì ông cát cứ sớm ở Đường Lâm quê hương nhà Ngô và từng bị Dương Tam Kha, Ngô Xương Văn đem quân đánh dẹp.Còn Phả hệ họ Ngô Việt Nam soạn năm 2003 của Ban liên lạc dòng họ Ngô cho rằng ông là con của Nam Tấn vương Ngô Xương Văn, cháu nội Ngô Quyền và mẹ chính là Dương Vân Nga. Một số nhà nghiên cứu cũng theo đó dè dặt ghi nhận điều này. Tuy nhiên, giả thuyết này có rất nhiều chỗ không hợp lý trong sử sách, nếu căn cứ vào thân thế và cuộc đời của hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga. Tạ Chí Trường trong tác phẩm "Bài sử khác cho Việt Nam" căn cứ sự kiện Đỗ Cảnh Thạc phù trợ Xương Văn trước kia, thấy nơi vùng căn cứ Đỗ Động, khi mà sứ quân Đỗ Cảnh Thạc đã bị tiêu diệt, lại có "bọn con em Ngô Tiên chúa," để đoán rằng An Vương Ngô Nhật Khánh chính là con Xương Văn; và cho rằng Ngô Nhật Khánh chính là người lãnh đạo 500 con em nhà Ngô tiến đánh lực lượng sứ quân Trần Lãm năm 967 rồi bị Đinh Bộ Lĩnh bức hàng như sử đã ghi:
- Khi Minh Công mất, gặp lúc bọn con em của Ngô Tiên chúa ở Đỗ Động Giang hơn 500 người đem quân đến đánh, mới vào đến đất Ô Man thì bị người làng ấy là Ngô Phó sứ đánh bại phải trở về. Bộ Lĩnh nghe tin, liền cất quân đi đánh vùng sông và động ấy, không bộ lạc nào không hàng phục.
Sứ quân
Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô. Nhiều nơi không chịu thần phục.Ngô Xương Văn khôi phục nhà Ngô từ tay Dương Tam Kha (950), nhưng tới năm 965 khi Xương Văn tử trận, nạn cát cứ lại bùng phát mạnh mẽ hơn. Các thế lực yếu bị tiêu diệt dần, lãnh thổ Tĩnh hải quân chỉ còn mười hai thế lực lớn. Sử gọi đó là loạn mười hai sứ quân.
Ngô Nhật Khánh là một trong 12 sứ quân, đóng tại quê hương nhà Ngô, tức Đường Lâm, tự xưng là Ngô Lãm Công. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào hành trạng của ông mà suy đoán ông được Ngô Quyền giao trấn thủ đất hương hỏa, sau không phục Dương Tam Kha mà chiếm đóng và củng cố lực lượng để trở thành sứ quân. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì thôn Đường (cùng thôn Nguyễn, lực lượng khiến Ngô Xương Văn tử trận), tức Đường Lâm thuộc phạm vi chiếm đóng của sứ quân Ngô Nhật Khánh, còn thôn Nguyễn Gia Loan thuộc căn cứ của sứ quân Nguyễn Thái Bình, tức Nguyễn Khoan.
Khi Ngô Xương Xí nối ngôi, Ngô Nhật Khánh là anh em cùng họ cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa tranh giành. Thần phả đình Văn Cú ở Hải Phòng cho biết sứ quân Ngô Nhật Khánh thường chiêu dụ hào kiệt theo về, khi nghe danh muốn dụ dỗ Đỗ Vĩ nhằm hãm hại ông. Do vậy, Đỗ Vĩ phải đem vợ và 2 con trai Đỗ Quang, Đỗ Huy chạy về vùng Hải Phòng lánh nạn.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, đã từng có thời gian Ngô Nhật Khánh tự xưng là An vương, nhưng không rõ đó là thời gian cụ thể nào, trước hay sau khi xưng là Ngô Lãm Công. Có thể việc xưng An vương chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, do thấy mình không đủ thực lực trội hơn các sứ quân khác nên ông lại tự rút danh hiệu xuống là Lãm Công.
Trong thời loạn lạc đó, Đinh Bộ Lĩnh tỏ ra là sứ quân mạnh nhất nhờ sự liên kết với sứ quân Trần Lãm. Một mặt, Bộ Lĩnh ra tay dẹp các sứ quân, nhưng riêng với các sứ quân họ Ngô là Nhật Khánh và Xương Xí , Bộ Lĩnh dùng chính sách chiêu hàng, vì các sứ quân này là dòng họ nhà Ngô vừa mất.
Kết quả cả Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh đều về hàng Đinh Bộ Lĩnh. Sử chép sự kiện sứ quân Trần Lãm sai Đinh Bộ Lĩnh đi đánh các hùng trưởng khác, đều thắng được cả rồi mới đến sự kiện Phạm Phòng Át đem quân về hàng. Kết thúc nhà Ngô bằng sự kiện khi Minh Công mất, gặp lúc bọn con em của Ngô Tiên chúa ở Đỗ Động Giang hơn 500 người đem quân đến đánh, mới vào đến đất Ô Man thì bị người làng ấy là Ngô Phó sứ đánh bại phải trở về. Bộ Lĩnh nghe tin, liền cất quân đi đánh vùng sông và động ấy, không bộ lạc nào không hàng phục. Từ đó lại dân ở kinh phủ đều khâm phục theo về. Nhà Ngô mất. Như vậy có thể suy đoán được rằng Ngô Nhật Khánh, người lãnh đạo tàn dư cuối cùng của nhà Ngô, chính là sứ quân mà Đinh Bộ Lĩnh hàng phục sau cùng, kết thúc sự nghiệp dẹp loạn để lên ngôi hoàng để vào năm 968 đồng thời phong cho sứ quân này là phò mã nhà Đinh.
Phò mã nhà Đinh
Sau khi Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, xưng hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đã lấy mẹ Ngô Nhật Khánh làm hoàng hậu, đồng thời gả con gái là công chúa Phất Kim cho ông và lấy em gái ông gả cho con trưởng là Nam Việt vương Đinh Liễn. Ngô Nhật Khánh trở thành phò mã nhà Đinh.Tuy nhiên, sử chỉ nêu Tiên Hoàng có 5 hoàng hậu mà không chép rõ mẹ Nhật Khánh là ai trong 5 bà: Đan Gia, Trinh Minh, Kiểu Quốc, Cồ Quốc, Ca Ông.
Phản quốc hại thân
Mẹ Ngô Nhật Khánh, dù đã có tuổi khi lấy Vạn Thắng vương Đinh Bộ Lĩnh, chính là người đã sinh ra Đinh Hạng Lang, con thứ của Tiên Hoàng. Đinh Tiên Hoàng vì bà, và vì để lấy lòng Nhật Khánh nữa, đã lập Hạng Lang làm thái tử. Nhật Khánh chứa chấp ý đồ không thể nói hết khi giục mẹ nài nỉ vua lập em làm thái tử. Khánh định sau này sẽ làm phụ tá cho cậu em ruột còn thơ ấu để nắm quyền bính (và chứa chấp ý định làm Vương Mãng, Tào Tháo). Nhưng việc đó không qua được Nam Việt vương Đinh Liễn vốn là người đã trưởng thành và có nhiều công lao trong việc đánh dẹp, ngoại giao của nước Đại Cồ Việt. Theo chính sử, Đinh Liễn đã sai người lập mưu giết Hạng Lang đầu năm 979. Tuy nhiên, vì yêu con và không thể tiếp tục gây đổ máu, Tiên Hoàng đã không trừng phạt Đinh Liễn bằng cái chết.Việc Tiên Hoàng không trừng phạt Đinh Liễn bằng án tử hình khiến Nhật Khánh vô cùng tức giận và đây chính là động cơ chủ yếu thúc giục Khánh bỏ sang Chiêm Thành.
Một hôm Khánh mang vợ là công chúa Đinh Phất Kim chạy vào nam, tới cửa biển Nam Giới thì ông rút dao rạch mặt vợ và mắng rằng:
- "Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta vì mày mà quên tội ác của cha mày hay sao? Cho mày trở về, ta đi đằng khác tìm kẻ có thể cứu ta".
Tháng 10 năm 979, cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị giết hại. Con trai còn lại là Đinh Toàn lên ngôi vua. Lê Hoàn làm Nhiếp chính. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp cho rằng Lê Hoàn có ý đồ thoán đoạt đã nổi loạn nhưng bị Lê Hoàn dẹp tan. Trước kia,vua Đinh hứa đưa em Khánh (Hạng Lang) lên ngôi, nhưng khi em Khánh bị hại thì kẻ thủ phạm lại không bị trừng phạt đích đáng theo ý muốn của Khánh, bởi thế Khánh mới tìm đến Chiêm Thành để cầu viện báo thù. Ý định của Khánh là mượn quân Chiêm để về nước làm vua, khôi phục nhà Ngô. Nếu Hạng Lang không chết mà được nối ngôi như dự kiến thì sớm muộn Khánh cũng làm Vương Mãng, Tư Mã Chiêu, tiêu diệt họ Đinh, phế truất ấu chúa này mà giành lấy ngôi – giống như tấm gương Triệu Khuông Dận lấy ngôi của cậu bé 6 tuổi Sài Tông Huấn cách đó ít lâu bên phương bắc.
Nghe tin Tiên Hoàng chết, Nhật Khánh bèn xui vua Champa là Ba Mĩ Thuế mang quân để đánh Đại Cồ Việt. Vua Champa nhân cơ hội xâm chiếm đất đai, bèn tự cầm quân đem hơn nghìn binh thuyền ra đánh Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang.
Khi vào cửa Đại Ác (cửa Thần Phù), qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, chìm gần hết. Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát nạn. Ba Mĩ Thuế thu vét tàn quân trở về.
Đối với bà mẹ Ngô Nhật Khánh, sau những diễn biến xấu dồn dập của chồng và con tràn đến, bà Ngô phu nhân xưa đồng thời là hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng đành ra khỏi Hoàng cung, lập một ngôi chùa ở ngoại thành Hoa Lư để tu hành, ngôi chùa đó có tên là Đàm Lư nhưng dân gian vẫn quen gọi là chùa Bà Ngô (nay nằm ở thôn Hoàng Long, xã Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình).
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 00:55 ngày 21 tháng 11 năm 2015.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)